You are on page 1of 10

Vai trò của chế độ nô lệ đối với Hy Lạp- La Mã cổ đại

Nô lệ phục vụ trong bữa tiệc. Được tìm thấy ở Dougga, Tunisia, thế kỷ thứ 3
sau Công nguyên (Dennis Jarvis_Flickr)

Nguyễn Tuấn Hùng


Xã hôi loài người từ thuở khai sinh cho đến lúc hình thành nhà nước đã trải qua
nhiều hình thái kinh tế khác nhau. Ở mỗi hình thái kinh tế, đều có những đặc
điểm riêng, không thể hòa lẫn với nền chính thể nào. Theo Mác thì ở Phương
Tây đã tồn tại hình thái gọi là “Chiếm hữu nô lệ” và đặc trưng của hình thái
này không thể không nhắc đến tầng lớp “nô lệ”; vốn được xem là nguồn thúc
đẩy phát triển của hình thái kinh tế ấy. Vì vậy, đề tài này mong muốn có thể
tìm hiểu được phần nào vai trò của tầng lớp nô lệ trong xã hội phương Tây; mà
đặc biệt ở đây là vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại.
Bài viết mong muốn cung cấp một phần nhỏ những kiến thức cơ bản về vai trò
của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại; giúp người đọc có thể hình dung
về một thời kỳ của lịch sử phương Tây cổ đại mà tiêu biểu là quốc gia Hy Lạp-
La Mã cổ đại. Từ đó, cho chúng ta nhiều suy nghĩ và kết luận về vai trò của nô
lệ cũng như thiết chế chiếm hữu nô lệ ở hai quốc gia này. Từ đó, có thể rút ra
cho mình những vấn đề của nô lệ, hình dung một cách khái quát nhất vai trò
của tầng lớp này đối với sự phát triển và suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ
ở Hy Lạp- La Mã cổ đại. Vận dụng trong bài viết là hai phương pháp chủ đạo
trong nghiên cứu sử học gồm phương pháp sử học và phương pháp logic. Thu
góp những kiến thức từ nguồn sử liệu thành văn và những bài viết có liên quan
đến đề tài để xây dựng nên bài viết, từ những nguồn đã có sẵn, phương pháp
logic dùng để nêu lên quan điểm và vị trí đứng của người viết đối với vấn đề
được nghiên cứu. Đóng góp phần nhỏ tri thức của người viêt về vai trò của nô
lệ dưới xã hội Hy-La cổ đại; rõ ràng, nô lệ đã đóng một vai trò rất lớn trong sự
tồn vong của chế độ chiếm hữu nô lệ nơi này.
1.Sơ lược vấn đề
Nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ trước hết là những người thuộc sở hữu và
chịu quản lý trực tiếp của người khác gọi là chủ nô. Và dường như nô lệ không
có bất cứ một quyền hạn gì trong xã hội; họ không có sự tự do hoạt động theo
bản năng, và cũng hầu như không được trả lương hay phí để sinh hoạt, ngoài
những nhu cầu thiết yếu không thể thiếu như thức ăn, quần áo và chỗ ở. Nhưng
đôi khi những nhu cầu thiết yếu ấy lại còn không được đáp ứng đúng như một
con người bình thường. Trong xã hội của Hy-La cổ đại chính là như vậy. Khi
trong chính quốc gia ấy hình thành nên thể chế chiếm hữu nô lệ thì rõ ràng,
trong xã hội ta nhìn thấy khá nét hai tầng lớp chủ đạo: chủ nô- nô lệ. Và người
nô lệ dẫu bị đạp đổ đến tận cùng của xã hội nhưng họ lại đóng một vai trò vô
cùng quan trọng và dường như đây chính là nguồn thúc đẩy hay động lực để
kinh tế, xã hội chiếm hữu nô lệ của Hy-La cổ đại phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết.
2.Nô lệ dưới thời Hy Lạp cổ đại
Người Crete trong quá trình xây dựng nền văn minh ở khu vực biển Aegean đã
dựng nên ở nơi đây một quốc gia chiếm hữu nô lệ, lấy thành Cnosso làm thủ
đô, và xây dựng các thành thị khác như Mallia, Phaisto, Gounia…Có thể nói,
nô lệ đã mầm mống xuất hiện ngay từ thời gian này.
Thời kỳ Homer, hầu như nô lệ ở thời điểm này chưa bị chủ nô, quý tộc đối xử
tàn nhẫn nhưng bắt đầu từ đây, xã hội đang dần hình thành trong lòng nó tầng
lớp nô lệ và sau này tầng lớp ấy trở thành tầng lớp bị bóc lột trong xã hội chiếm
hữu nô lệ sau này.
Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ V TCN, quý tộc theo thời gian cũng tích lũy nhiều
cho mình tư liệu sản xuất và sống dựa vào sự lao động của dân nghèo và nô lệ
đang dần hiện hữu. Nô lệ cũng dần xuất hiện nhiều hơn khi những thành viên
của xã hội thị tộc cũ bị phân hóa, một số bị tước ruộng đất phải làm nô lệ vì nợ;
số lượng chủ yếu là từ nô lệ chiến tù, nô lệ mua bán từ những chợ nô lệ. Ở thế
kỷ VI TCN, đảo Kyosk đã xuất hiện những chợ nô lệ và nô lệ vì nợ.
Thời nhà nước Sparta: Người Sparta tức người Dorian với sự chiến thắng đã là
giai cấp cầm quyền, họ bắt đầu sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người
Perioikoi và nô lệ Hilotes là cơ bản nhất. Không nói đến người Perioikoi, nô lệ
người Hilotes chiếm số lượng đông đảo (khoảng 200.000 người). Hilotes được
coi là nô lệ chung của nhà nước. Nô lệ này được gắn chặt vào ruộng đất, phải
lao động sản xuất và hưởng một phần thu hoạch. Nô lệ Hilotes không có quyền
lợi về chính trị, thân thể, tư pháp nhưng vẫn được có gia đình riêng, có thu
nhập riêng, lệ thuộc vào chủ nô nhưng lại là sở hữu chung của nhà nước .
Thời kỳ thành bang Athens: Với sự phát triển mau lẹ, quan hệ hàng hóa và tiền
tệ ở đây đã phát triển từ lâu và nhanh chóng. Xã hội có giai cấp dần xuất hiện,
trong lúc đó, dân tự do và nông dân dần dần bị tầng lớp quý tộc đặt ách nô dịch
và cùng thời điểm ấy, vì nợ nần mà họ bị biến thành nô lệ. Nông dân vùng
Attique bị đặt ách nô dịch nợ nần, để trả nợ họ phải nộp 5/6 hu hoạch của mình
cho giai cấp chiếm hữu ruộng đất lớn. Ai không làm đúng hẹn sẽ bị đem bán
làm nô lệ. Khi mâu thuẫn dần hình thành rõ nét thì hai cuộc cải cách mang tính
bước ngoặt của Solon (đầu thế kỷ VI TCN) và Cleisthennes (cuối thế kỷ VI
TCN) là hai cuộc cách tân quan trọng trong lịch sử cũng như đối với tầng lớp
nô lệ.
Chiến tranh Hy Lạp- Ba Tư (499-448 TCN): Là một trong hai cuộc chiến tranh
lớn của lịch sử Hy Lạp, vì vậy lực lượng quân đội sẽ trở nên rất thiết yếu cho
lúc bấy giờ. Người Athens thời kỳ này đã sử dụng toàn bộ sức lực để chiến đấu
và đã tuyên bố những nô lệ tham gia chiến đấu sẽ được thả tự do. Sau, người
Athens đã đuổi người Ba Tư ra khỏi Tharce; một số tác giả cổ đại nói rằng sau
một chiến dịch nào đó, người Athens đã đem bán 20.000 tù binh làm nô lệ.
Cuộc chiến thành công không thể không nhắc đến sự huy động lực lượng từ các
tầng lớp, trong đó nô lệ không thể thiếu.
Athens từ thế kỷ V đến IV TCN: Nô lệ thời kỳ này trở thành một loại “hàng
hóa” được người Athens quan tâm. Lực lượng này trở thành động lực sản xuất
cơ bản của chế độ chiếm nô khu vực Địa Trung Hải. Cảng Piraues cũng là
trung tâm nhập và xuất hàng đoàn nô lệ. Piraeus, Delos,… trở thành những trại
mua bán nô lệ vào loại bậc nhất thế giới cổ đại. Với nền kinh tế chiếm hữu nô
lệ, thì vai trò của tầng lớp này cũng giữ trọng yếu trong sản xuất ra của cải cho
xã hội. Nô lệ xuất hiện ở khắp nơi và ở mọi ngành nghề trong xã hội; là lực
lượng chèo thuyền chủ yếu và là những người lao động nặng nhọc ở các hầm
mỏ; số lượng nô lệ thời kỳ này ước tính khoảng 365.000 trong khi dân tự do
chỉ có 90.000 người. Nô lệ thời kỳ này bị xem như “của cải di động” và là một
thứ “công cụ biết nói” phục vụ cho giới cầm quyền.
Chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển đến mức nó đạt đến sự hoàn hảo khi đã
phân công lao động khá rõ ràng trong xã hội, tạo nên lao động chân tay- lao
động trí óc và nhờ vậy tầng lớp trí thức có thêm thời gian để nghiên cứu khoa
học, triết học,… Đến thế ky IV TCN, số nô lệ do tư nhân quản lý vẫn còn hàng
chục hoặc hàng trăm. Nô lệ trở thành lực lượng lao động chính cho xã hội
đương thời.
Sang thế kỷ III TCN, chế độ nô lệ dần không phát triển được nữa, những cuộc
thí nghiệm chia đất cho nô lệ và nông dân phá sản đã diễn ra. Đây có thể là tiền
đề đầu tiên để xã hội Hi Lạp chuyển sang phương thức sản xuất phong kiến.
3.Nô lệ dưới thời La Mã cổ đại
Khi phương thức sản xuất mới đang dần hình thành thì sự chinh phục của La
Mã vào cuối thế kỷ III TCN – đầu thế kỷ II TCN đã cắt đứt con đường hình
thành mầm móng ấy.
La Mã thời cộng hòa: Với nhiều chiến thắng liên tiếp, La Mã đã dành về cho
mình nhiều phần lợi khác nhau trong đó có nguồn lợi về nô lệ. Đánh thắng
Tarent, La Mã bán 30.000 tù binh làm nô lệ, cuộc chiến Cartage đã cung cấp
cho La Mã 95.000 tù binh làm nô lệ (lần thứ nhất: 25.000 nô lệ; lần thứ hai:
20.000 nô lệ; lần thứ ba: 50.000 nô lệ), hay với chiến thắng ở Sardinia, La Mã
đã nắm trong tay 80.000 tù binh biến thành nô lệ…Những chợ buôn nô lệ mọc
lên mỗi một nhiều, trong đó ở vùng Địa Trung Hải có thể nhắc đến chợ buôn
nô lệ Delos (biển Aegean), Active (Italia),… Nô lệ từ vùng đông của Địa Trung
Hải đều được đưa đến Delos, có khi một ngày có thể bán được 10.000 nô lệ.
Chính những điều kiện này đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và chế độ
chiếm hữu nô lệ của thời kỳ cộng hòa.
Với sự hình thành và phát triển loại hình kinh tế nông nghiệp Latifundia, sức
lao động của nô lệ cũng được tập trung với phương thức sản xuất độc canh. Số
nô lệ phục vụ cho loại hình kinh tế này có thể đến hàng ngàn nô lệ. Nông dân
tự do bị đẩy lùi xuống vị trí thứ yếu và lực lượng chủ yếu cho loại hình kinh tế
này là lực lượng nô lệ; thúc đẩy sự phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ cùng
với sự phát triển của loại hình kinh tế nông nghiệp Latifundia.
Về mặt công nghiệp và thương mại: Các xưởng thủ công phát triển và mỗi lúc
có xu hướng chuyên môn hóa trong mỗi xưởng, các vùng ở La Mã. Cùng với
đó, giới quý tộc chủ nô La Mã thừa cơ hội ấy đã lập nên nhiều công xưởng tư
cho mình. Những công trường chế biến dầu oliu, đóng thuyền, khai thác hầm
mỏ hay như công trường khai thác mỏ bạc ở Tây Ban Nha đã sử dụng rất nhiều
nô lệ (ước tính lên đến 40.000 nô lệ).
Từ những vấn đề trên, có thể thấy nguồn gốc nô lệ ở La Mã cũng từ rất nhiều
nơi khác nhau: nô lệ quan trọng nhất là tù binh, nô lệ vì nợ, người dân bị cướp
biển bắt cóc làm nô lệ, nô lệ do nữ nô sinh ra, còn có một số lượng nhỏ nô lệ
có nguồn gốc từ đám trẻ lang thang, mồ côi vô thừa nhận được gia chủ đem về
nuôi và biến thành nô lệ. Nguồn nô lệ ở La Mã được cung cấp từ những nguồn
không giống nhau, tính bất ổn cao và không có sự đồng đều. Trong số lượng ấy
nô lệ là tù binh vẫn là nguồn cung cấp thiết yếu nô lệ cho chế độ chiếm nô La
Mã.
Với nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh đặc biệt là với mô hình Latifundia
đã giúp thúc đẩy kinh tế La Mã đi lên. Vì vậy mà vai trò của nô lệ càng ngày
càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp ấy. Ở thời kỳ này
công cụ lao động vẫn còn thô sơ, lạc hậu, nên nô lệ hầu như làm việc cả ngày
và đảm nhận toàn bộ công việc mà công cụ không thể làm được. Mọi công việc
từ canh tác, làm đất, gieo trồng đến chăm sóc thu hoạch mùa màng thì nô lệ vẫn
giữ vai trò quản lý. Nô lệ cũng được trực tiếp sử dụng trong các hầm mỏ của
chủ nô; nô lệ được sử dụng làm sức lao động khuân vác trong các thương
thuyền ở Địa Trung Hải; ở gia đình của các trưởng nô nô lệ được dùng từ
những công việc đơn giản nhất như quét dọn nhà cử, giữ ngựa, nấu bếp đến
những công việc phức tạp như nhạc công, vũ nữ, giáo viên, thu ký, … . Nô lệ
cũng được sử dụng như một trò mua vui cho giới chủ nô khi họ bị biến thành
những đấu sĩ đấu với nhau hoặc phải đấu với thú dữ. Nô lệ được coi là thứ
“công cụ biết nói”, là “công cụ di động” của giới chủ nô trong thể chế chiếm
hữu nô lệ La Mã và được pháp luật quốc gia này thừa nhận, qui định.
Đời sống nô lệ vô cùng cực khổ khi họ phải vác trên mình phương châm “sử
dụng nhiều nhất nhưng chi phí ít nhất” của bọn chủ nô. Họ phải làm việc quanh
năm và số lượng ngày nghỉ chỉ đếm trên đầu ngón tay; họ làm việc cật lực
trong các hầm mỏ, xưởng thủ công, các bến cảng, các thuyền buôn, thuyền
chiến và đặc biệt là trong các Latifundia. Họ bắt lao động khổ sai, đói khát,
bệnh tật luôn hiện hữu với những người làm nô lệ hoặc như chiến tù Cartage
phải bị bắt lao động trong khi chân vẫn phải đeo xiềng xích. Chính sức lao
động của nô lệ đã tạo nên những nguồn lợi kinh tế dồi dào; thiết lập nên cuộc
sống vươn giả cho giới chủ nô. Có lẽ vì vậy mà nền kinh tế của xã hội La Mã
luôn trong tình trạng phồn thịnh nhưng mặt khác lại làm cho chế độ chiếm hữu
nô lệ mỗi lúc một suy yếu.
Trong thời kỳ cực thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã (thế kỷ I và II): Nền
kinh tế thời này đã có những bước phát triển mới trong lĩnh vực thủ công
nghiệp, thương nghiệp, … . nô lệ vẫn được sử dụng là lực lượng lao động chính
ở các xưởng thủ công của nhà nước hay tư nhân. Từ những năm cuối thế kỷ II
đầu thế kỷ III đã xuất hiện một hiện tượng mới trong nền kinh tế nông nghiệp
La Mã khi một số ít Latifundia dã bắt đầu sang cây lương thực hoặc một số chủ
nô đã chủ động chia nhỏ các ruộng đất của mình thành các ruộng nhỏ hơn cùng
với một số công cụ lao động và giao cho nô lệ quyền tự do sản xuất.
La Mã thời kỳ khủng hoảng và suy vong (thế kỷ III – IV): Chế độ chiếm hữu
nô lệ đã dần bộc lộ những dấu hiệu suy thoái khủng hoảng nghiêm trọng khi số
lượng nô lệ ngày càng giảm sút; nô lệ tù binh cũng giảm vì không còn nhiều
cuộc chiến tranh như trước; sự giảm sút ấy đã dẫn đến một hiện trạng tất yếu
của thời cuộc khi lực lượng sản xuất chính của xã hội đã không còn dồi dào
như trước. Sự bóc lột nặng nề cùng với khối lượng công việc lớn đã làm giảm
sút chất lượng cũng như sức lao động của nô lệ; năng suất lao động ngày càng
giảm sút khi nô lệ đang dần tìm mọi cách để phá hoại kinh tế của chủ nô. Sự
khủng hoảng và dần đi đến sự suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ đã đặt ra
cho giới chủ nô La Mã một yêu cầu trước mắt là cần phải thay đổi cách đối xử
cũng như phương thức sử dụng nô lệ. Trong khi nhà nước đang cố gắng cứu
vãn cho chế độ ấy khỏi sự sụp đổ thì giới quý tộc chủ nô ruộng đất đã có
những bước đi mới khi dần hình thành nên chế độ mới gọi là lệ nông – tiền
thân của giai tần nông nô dưới chế độ phong kiến.
4.Tổng quan về vai trò
Rõ ràng, hình thái chiếm hữu nô lệ với vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp-
La Mã cổ đại có một tầm quan trọng mà không ai có thể phủ nhận. Người nô lệ
ở thời kỳ này chính là nguồn động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng đồng
thời cũng gây nên nhiều mâu thuẫn xã hội gay gắt mà phần thắng lúc nào cũng
nghiêng về phía chủ nô; nô lệ không có bất cứ quyền hành gì ngoài việc chỉ
biết phục tùng chủ nhân của mình. Điều này đã hình thành nên những xáo trộn
trong lòng xã hội của Hy-La nhưng không vì thế mà nó ngăn cản sự phát triển
đi lên của kinh tế cũng như sự giàu mạnh của quốc gia.
Nô lệ luôn luôn phải chịu sự nô dịch nặng nề của giới chủ nô dù muốn hay
không. Họ còn là những thành phần tham gia trực tiếp trong những cuộc chiến
tranh và sau những cuộc chiến ấy, họ không chỉ không có được thành quả nào
nào mà có khi chính họ lại bị biến thành một “vật phẩm” để những kẻ thua
cuộc cống nạp cho kẻ dành chiến thắng. Vai trò của nô lệ vì vậy cũng trở nên
“linh hoạt” đối với xã hội Hy- La cổ đại.
Người nô lệ luôn bị coi như là “món hàng”, một thứ “công cụ biết nói” hay
thậm chí là một thứ “đồ vật” vô giá trị của chủ nô. Họ phải làm việc cật lực và
liên tục trong những môi trường độc hại. Vai trò của họ không được đề cao
nhưng chính họ lại là tầng lớp duy nhất trong xã hội làm ra của cải dồi dào.
Chủ nô nắm mọi quyền hành chính trị. Nhà nước gồm nhiều bộ phận do dân tự
do hay quý tộc bầu ra và làm việc theo thời hạn, giải quyết mọi việc trong nước
và các cuộc chiến tranh. Chủ nô ở Hy Lạp-La Mã không bao giờ phải lao động
chân tay, mà chỉ làm chính trị hoặc hoạt động văn hóa, nghệ thuật vì bản thân
họ coi lao động chân tay là công việc dành riêng cho nô lệ và mình không phải
là người phải làm những công việc thấp hèn ấy. Họ có một cuộc sống sung
sướng, nhàn hạ mà không phải lo về của cải, vật chất; mọi thứ họ đều áp đặt
lên cho tầng lớp nô lệ; họ luôn luôn trong tư thế sẵn sàng đưa sự nô dịch, sự
bóc lột sức lao động lên trên tầng lớp nô lệ mà không cần phải suy nghĩ.
5.So sánh với nô lệ phương Đông
Ở Phương Tây, mà đại biểu ở đây là Hy Lạp- La Mã cổ đại theo như học thuyết
của Mác – Lênin, chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây mang tính chất điển hình (hay
còn gọi là kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ điển hình). Sự điển hình thể hiện ở
tính chất, số lượng và vai trò nô lệ trong các ngành sản xuất. Hy Lạp và La Mã
là nơi mà số lượng nô lệ hết sức đông đảo, là lực lượng lao động chính tạo ra
của cải và sự giàu có cho chủ nô. Nô lệ là lực lượng lao động chính trong xã
hội. Mọi của cải đều nhờ sức lao động của nô lệ mà có : từ việc sản xuất lúa
gạo ở các trang trại đến việc làm ra các sản phẩm thủ công như giày dép, quần
áo v.v… Họ cũng là những người phục vụ trong các gia đình quý tộc, quan lại
như những con hầu, đầy tớ.
Còn ở nhà nước Phương Đông cổ đại nhiều lại mang một cái tên khác là kiểu
nhà nước Châu Á (hay Phương thức sản xuất châu Á) mang những đặc trưng
riêng. Ở các nước phương Đông, thiết chế chính trị của nhà nước chiếm hữu nô
lệ là quân chủ chuyên chế tập quyền, trong khi đó Hy Lạp lại thiết lập nhà nước
Cộng hòa dân chủ chủ nô, ở La Mã là nhà nước Cộng hòa quý tộc chủ nô. Khác
với Phương Tây, chế độ nô lệ Phương Đông lại không mang tính chất điển
hình, mà mang nặng tính chất gia trưởng hay còn được gọi là kiểu nô lệ gia
trưởng, điều đáng nói ở đây là nô lệ thời kì này không là phải lực lượng dồi dào
và mang sự chủ đạo chính trong xã hội, mà chủ yếu nô lệ ở các quốc gia cổ đại
phương Đông chỉ phục cụ trong gia đình các quý tộc. Nô lệ có nguồn gốc xuất
thân chủ yếu từ các tù binh chiến tranh, hoặc những người nông dân, thợ thủ
công bị phá sản, nô lệ vì nợ có nhưng khôn nhiều.

Qua những dẫn cứ trên, có thể nói vai trò của nô lệ trong thời kỳ Hy Lạp- La
Mã cổ đại là vô cùng quan trọng. Đây chính là nguồn cơn của mọi sự việc trong
đời sống; cũng là tầng lớp chịu nhiều thòi nhất ở đương thời nhưng lại là nguồn
lao động và là nguồn tạo của cải vật chất, nguồn phục dịch cho chiến tranh của
các quốc gia, cho xã hội đương thời. Ta có thể thấy rõ nô lệ đã trở thành một
tầng lớp chủ đạo trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ của phương Tây cổ đại mà
tiêu biểu ở đây là Hy Lạp và La Mã cổ đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Chương (chủ biên-2014), Nguyễn Thị Ty, Trần Đình
Hùng, Lịch sử Thế giới cổ trung đại, Nhà xuất bản đại học khoa
học Huế
2. Lương Ninh (chủ biên-2005), Đinh Ngọc Bảo, Đặng Quang Minh,
Nguyễn Gia Phu, Nghiêm Đình Vỳ, Lịch sử thế giới cổ đại, Nhà
xuất bản giáo dục

Trình bày sự phát triển của đại điền trang Latifundia và sự hình
thành chế độ lệ nông ở Lamã. Tại sao nói người lệ nông là tiền thân
của nông nô trung đại ở Tây Âu

a. Sự hình thành và phát triển của Latifundia

Sau những chiến thắng quân sự, lãnh thổ của Rôma không ngừng mở
rộng cũng là lúc giới quý tộc, thương nhân bỏ tiền ra để mua về những
vùng đất mênh mông và biến thành tài sản riêng của mình. Ngoài ra,
bọn quý tộc còn dựa vào uy thế của mình để lấn chiếm ruộng đất công,
đất tư hữu của dân nghèo, dân lưu tán, binh sĩ tử trận… Cuối cùng, họ
có trong tay những vùng đất mênh mông. Trên cơ sở đó, các điền trang
lớn hay đại trại – Latiphunđia xuất hiện.

Latiphunđia là sở hữu đất trồng của chủ nô, sức dụng sức lao động tập
thể của nô lệ với phương thức sản xuất độc canh. Do vậy, muốn thiết
lập Latiphunđia phải có 2 yếu tố: chế độ sở hữu ruộng đất lớn của tư
nhân và có đầy đủ nô lệ thực thụ. Trong Latiphunđia thường trồng các
loại cây như nho, oliu và có luôn xưởng chế biến dầu oliu, ép và làm
rượu nho. Các Latiphunđia ở Nam Italia – nơi có những đồng cỏ trù phú
lại chủ yều kinh doanh nghề chăn nuôi.

Nền kinh tế của Latiphunđia mang tính chất hai mặt khá rõ rệt (vừa
khép vừa mở):

+ Đó là nền kinh tế nông nghiệp trong khuôn khổ của nền kinh tế tự
nhiên, cung cấp đầy đủ nhu cầu của điền trang (mang tính khép kín)

+ Sản phẩm của nó lại gắn bó chặt chẽ với hoạt động thủ công nghiệp,
thương mại trong khuôn khổ của nền kinh tế hàng hóa (mang tính mở
rộng).

Chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự hưng
thịnh của các Latifundia

b. Sự ra đời và phát triển của chế độ lệ nông

các Latiphunđia chuyển sang trồng cây lương thực. Chủ nô không sử
dụng sức lao động tập thể của nô lệ mà giao trực tiếp cho nô lệ những
mảnh ruộng nhỏ cùng với công cụ sản xuất để nô lệ tự tiến hành nền
tiểu sản xuất của họ rồi nộp sản phẩm cho chủ nô. Lối bóc lột mới này
vừa có lợi cho chủ, vừa có lợi cho người sản xuất, vừa kích thích hứng
thú và khả năng lao động của họ để tạo ra năng suất lao động cao. Như
vậy, đã xuất hiện một chế độ mới – chế độ lệ nông.

Xã hội xuất hiện tầng lớp mới – lệ nông. Thời kì đầu, lệ nông là những
người tự do (có thể là nông dân có ruộng hoặc nô lệ được giải phóng),
có quyền công dân, có thể đảm nhận những chức vụ tôn giáo hoặc là
thành viên của các hội đồng địa phương. Mối quan hệ chủ nô – lệ nông
chỉ là quan hệ về kinh tế. Canh tác ruộng của chủ nô, lệ nông thường
phải nộp từ 1/3 đến ½ sản phẩm thu hoạch cho chủ nô và hàng năm
thực hiện không công trên đất của chủ từ 6 đến 12 ngày công. Do đó,
thân phận của lệ nông cũng được nâng cao hơn.
Tuy nhiên, từ thế kỉ III, thân phận của lệ nông bắt đầu thay đổi và ngày
càng thấp kém hơn. Lệ nông là những người trực tiếp sản xuất và bị trói
buộc vào ruộng đất của chủ, lệ thuộc chủ về thân phận. Thân phận lệ
nông có tính chất thế tập, cha truyền con nối và hoàn toàn bị trói buộc
vào ruộng đất. Họ không có quyền tự do tư hữu, không có quyền công
dân. Không được quyền kết hôn với người tự do và hôn nhân giữa họ
với nhau cũng không được luật pháp thừa nhận. Như vậy, thân phận
của lệ nông của chẳng khá hơn nô lệ là bao. Tuy nhiên, họ lại được tự
do tương đối trong sản xuất và được hưởng một phần thu hoạch. Vì thế,
họ không còn là nô lệ nhưng cũng không là dân tự do, họ là tiền thân
của “nông nô thời trung đại”

You might also like