Professional Documents
Culture Documents
Vai Trò Của Chế Độ Nô Lệ Đối Với Hy Lạp
Vai Trò Của Chế Độ Nô Lệ Đối Với Hy Lạp
Nô lệ phục vụ trong bữa tiệc. Được tìm thấy ở Dougga, Tunisia, thế kỷ thứ 3
sau Công nguyên (Dennis Jarvis_Flickr)
Qua những dẫn cứ trên, có thể nói vai trò của nô lệ trong thời kỳ Hy Lạp- La
Mã cổ đại là vô cùng quan trọng. Đây chính là nguồn cơn của mọi sự việc trong
đời sống; cũng là tầng lớp chịu nhiều thòi nhất ở đương thời nhưng lại là nguồn
lao động và là nguồn tạo của cải vật chất, nguồn phục dịch cho chiến tranh của
các quốc gia, cho xã hội đương thời. Ta có thể thấy rõ nô lệ đã trở thành một
tầng lớp chủ đạo trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ của phương Tây cổ đại mà
tiêu biểu ở đây là Hy Lạp và La Mã cổ đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Chương (chủ biên-2014), Nguyễn Thị Ty, Trần Đình
Hùng, Lịch sử Thế giới cổ trung đại, Nhà xuất bản đại học khoa
học Huế
2. Lương Ninh (chủ biên-2005), Đinh Ngọc Bảo, Đặng Quang Minh,
Nguyễn Gia Phu, Nghiêm Đình Vỳ, Lịch sử thế giới cổ đại, Nhà
xuất bản giáo dục
Trình bày sự phát triển của đại điền trang Latifundia và sự hình
thành chế độ lệ nông ở Lamã. Tại sao nói người lệ nông là tiền thân
của nông nô trung đại ở Tây Âu
Sau những chiến thắng quân sự, lãnh thổ của Rôma không ngừng mở
rộng cũng là lúc giới quý tộc, thương nhân bỏ tiền ra để mua về những
vùng đất mênh mông và biến thành tài sản riêng của mình. Ngoài ra,
bọn quý tộc còn dựa vào uy thế của mình để lấn chiếm ruộng đất công,
đất tư hữu của dân nghèo, dân lưu tán, binh sĩ tử trận… Cuối cùng, họ
có trong tay những vùng đất mênh mông. Trên cơ sở đó, các điền trang
lớn hay đại trại – Latiphunđia xuất hiện.
Latiphunđia là sở hữu đất trồng của chủ nô, sức dụng sức lao động tập
thể của nô lệ với phương thức sản xuất độc canh. Do vậy, muốn thiết
lập Latiphunđia phải có 2 yếu tố: chế độ sở hữu ruộng đất lớn của tư
nhân và có đầy đủ nô lệ thực thụ. Trong Latiphunđia thường trồng các
loại cây như nho, oliu và có luôn xưởng chế biến dầu oliu, ép và làm
rượu nho. Các Latiphunđia ở Nam Italia – nơi có những đồng cỏ trù phú
lại chủ yều kinh doanh nghề chăn nuôi.
Nền kinh tế của Latiphunđia mang tính chất hai mặt khá rõ rệt (vừa
khép vừa mở):
+ Đó là nền kinh tế nông nghiệp trong khuôn khổ của nền kinh tế tự
nhiên, cung cấp đầy đủ nhu cầu của điền trang (mang tính khép kín)
+ Sản phẩm của nó lại gắn bó chặt chẽ với hoạt động thủ công nghiệp,
thương mại trong khuôn khổ của nền kinh tế hàng hóa (mang tính mở
rộng).
Chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự hưng
thịnh của các Latifundia
các Latiphunđia chuyển sang trồng cây lương thực. Chủ nô không sử
dụng sức lao động tập thể của nô lệ mà giao trực tiếp cho nô lệ những
mảnh ruộng nhỏ cùng với công cụ sản xuất để nô lệ tự tiến hành nền
tiểu sản xuất của họ rồi nộp sản phẩm cho chủ nô. Lối bóc lột mới này
vừa có lợi cho chủ, vừa có lợi cho người sản xuất, vừa kích thích hứng
thú và khả năng lao động của họ để tạo ra năng suất lao động cao. Như
vậy, đã xuất hiện một chế độ mới – chế độ lệ nông.
Xã hội xuất hiện tầng lớp mới – lệ nông. Thời kì đầu, lệ nông là những
người tự do (có thể là nông dân có ruộng hoặc nô lệ được giải phóng),
có quyền công dân, có thể đảm nhận những chức vụ tôn giáo hoặc là
thành viên của các hội đồng địa phương. Mối quan hệ chủ nô – lệ nông
chỉ là quan hệ về kinh tế. Canh tác ruộng của chủ nô, lệ nông thường
phải nộp từ 1/3 đến ½ sản phẩm thu hoạch cho chủ nô và hàng năm
thực hiện không công trên đất của chủ từ 6 đến 12 ngày công. Do đó,
thân phận của lệ nông cũng được nâng cao hơn.
Tuy nhiên, từ thế kỉ III, thân phận của lệ nông bắt đầu thay đổi và ngày
càng thấp kém hơn. Lệ nông là những người trực tiếp sản xuất và bị trói
buộc vào ruộng đất của chủ, lệ thuộc chủ về thân phận. Thân phận lệ
nông có tính chất thế tập, cha truyền con nối và hoàn toàn bị trói buộc
vào ruộng đất. Họ không có quyền tự do tư hữu, không có quyền công
dân. Không được quyền kết hôn với người tự do và hôn nhân giữa họ
với nhau cũng không được luật pháp thừa nhận. Như vậy, thân phận
của lệ nông của chẳng khá hơn nô lệ là bao. Tuy nhiên, họ lại được tự
do tương đối trong sản xuất và được hưởng một phần thu hoạch. Vì thế,
họ không còn là nô lệ nhưng cũng không là dân tự do, họ là tiền thân
của “nông nô thời trung đại”