Professional Documents
Culture Documents
Vai trò của chế độ nô lệ đối với Hy Lạp
Vai trò của chế độ nô lệ đối với Hy Lạp
This entry was posted on Tháng Mười 27, 2020, in Lịch sử thế giới phương Tây and tagged chế độ nô
lệ, La Mã, Nô lệ phục vụ trong bữa tiệc - sàn khảm. Được tìm thấy ở Dougga, Nguyễn Tuấn Hùng, Tunisia.
Bookmark the permalink. Bình luận về bài viết này
Nô lệ phục vụ trong bữa tiệc. Được tìm thấy ở Dougga, Tunisia, thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên (Dennis Jarvis_Flickr)
Qua những dẫn cứ trên, có thể nói vai trò của nô lệ trong thời kỳ Hy Lạp- La Mã cổ đại là vô cùng
quan trọng. Đây chính là nguồn cơn của mọi sự việc trong đời sống; cũng là tầng lớp chịu nhiều thòi
nhất ở đương thời nhưng lại là nguồn lao động và là nguồn tạo của cải vật chất, nguồn phục dịch cho
chiến tranh của các quốc gia, cho xã hội đương thời. Ta có thể thấy rõ nô lệ đã trở thành một tầng lớp
chủ đạo trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ của phương Tây cổ đại mà tiêu biểu ở đây là Hy Lạp và La
Mã cổ đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Chương (chủ biên-2014), Nguyễn Thị Ty, Trần Đình Hùng, Lịch sử Thế
giới cổ trung đại, Nhà xuất bản đại học khoa học Huế
2. Lương Ninh (chủ biên-2005), Đinh Ngọc Bảo, Đặng Quang Minh, Nguyễn Gia Phu,
Nghiêm Đình Vỳ, Lịch sử thế giới cổ đại, Nhà xuất bản giáo dục
Trình bày sự phát triển của đại điền trang Latifundia và sự hình thành chế
độ lệ nông ở Lamã. Tại sao nói người lệ nông là tiền thân của nông nô trung
đại ở Tây Âu
Sau những chiến thắng quân sự, lãnh thổ của Rôma không ngừng mở rộng cũng
là lúc giới quý tộc, thương nhân bỏ tiền ra để mua về những vùng đất mênh
mông và biến thành tài sản riêng của mình. Ngoài ra, bọn quý tộc còn dựa vào uy
thế của mình để lấn chiếm ruộng đất công, đất tư hữu của dân nghèo, dân lưu
tán, binh sĩ tử trận… Cuối cùng, họ có trong tay những vùng đất mênh mông.
Trên cơ sở đó, các điền trang lớn hay đại trại – Latiphunđia xuất hiện.
Latiphunđia là sở hữu đất trồng của chủ nô, sức dụng sức lao động tập thể của
nô lệ với phương thức sản xuất độc canh. Do vậy, muốn thiết lập Latiphunđia
phải có 2 yếu tố: chế độ sở hữu ruộng đất lớn của tư nhân và có đầy đủ nô lệ
thực thụ. Trong Latiphunđia thường trồng các loại cây như nho, oliu và có luôn
xưởng chế biến dầu oliu, ép và làm rượu nho. Các Latiphunđia ở Nam Italia – nơi
có những đồng cỏ trù phú lại chủ yều kinh doanh nghề chăn nuôi.
Nền kinh tế của Latiphunđia mang tính chất hai mặt khá rõ rệt (vừa khép vừa
mở):
+ Đó là nền kinh tế nông nghiệp trong khuôn khổ của nền kinh tế tự nhiên, cung
cấp đầy đủ nhu cầu của điền trang (mang tính khép kín)
+ Sản phẩm của nó lại gắn bó chặt chẽ với hoạt động thủ công nghiệp, thương
mại trong khuôn khổ của nền kinh tế hàng hóa (mang tính mở rộng).
Chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã phát triển mạnh mẽ gắn liền với sự hưng thịnh của
các Latifundia
các Latiphunđia chuyển sang trồng cây lương thực. Chủ nô không sử dụng sức
lao động tập thể của nô lệ mà giao trực tiếp cho nô lệ những mảnh ruộng nhỏ
cùng với công cụ sản xuất để nô lệ tự tiến hành nền tiểu sản xuất của họ rồi nộp
sản phẩm cho chủ nô. Lối bóc lột mới này vừa có lợi cho chủ, vừa có lợi cho
người sản xuất, vừa kích thích hứng thú và khả năng lao động của họ để tạo ra
năng suất lao động cao. Như vậy, đã xuất hiện một chế độ mới – chế độ lệ nông.
Xã hội xuất hiện tầng lớp mới – lệ nông. Thời kì đầu, lệ nông là những người tự
do (có thể là nông dân có ruộng hoặc nô lệ được giải phóng), có quyền công
dân, có thể đảm nhận những chức vụ tôn giáo hoặc là thành viên của các hội
đồng địa phương. Mối quan hệ chủ nô – lệ nông chỉ là quan hệ về kinh tế. Canh
tác ruộng của chủ nô, lệ nông thường phải nộp từ 1/3 đến ½ sản phẩm thu
hoạch cho chủ nô và hàng năm thực hiện không công trên đất của chủ từ 6 đến
12 ngày công. Do đó, thân phận của lệ nông cũng được nâng cao hơn.
Tuy nhiên, từ thế kỉ III, thân phận của lệ nông bắt đầu thay đổi và ngày càng thấp
kém hơn. Lệ nông là những người trực tiếp sản xuất và bị trói buộc vào ruộng đất
của chủ, lệ thuộc chủ về thân phận. Thân phận lệ nông có tính chất thế tập, cha
truyền con nối và hoàn toàn bị trói buộc vào ruộng đất. Họ không có quyền tự do
tư hữu, không có quyền công dân. Không được quyền kết hôn với người tự do và
hôn nhân giữa họ với nhau cũng không được luật pháp thừa nhận. Như vậy, thân
phận của lệ nông của chẳng khá hơn nô lệ là bao. Tuy nhiên, họ lại được tự do
tương đối trong sản xuất và được hưởng một phần thu hoạch. Vì thế, họ không
còn là nô lệ nhưng cũng không là dân tự do, họ là tiền thân của “nông nô thời
trung đại”