Professional Documents
Culture Documents
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề.
Cùng với các môn học khác ở tiểu học, môn Toán có một vị trí hết sức
quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng
trong cuộc sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, cần thiết cho các môn
học khác. Nó góp phần to lớn vào việc phát triển tư duy, trí tụê của con người.
Đồng thời góp phần hình thành các phẩm chất cần thiết, quan trọng cho người
lao động. Chương trình toán lớp hai là một bộ phận của chương trình toán tiểu
học và là sự tiếp tục của chương trình toán lớp một.
Thực tế trong quá trình dạy học tôi nhận thấy rằng khi hình thành các kỹ
năng tính nhẩm, chỉ có khoảng 50 % học sinh có khả năng nhẩm một cách
thành thạo để tính kết quả phép tính theo nhiều dạng. Để đạt yêu cầu khi học
xong nội dung môn Toán lớp hai và là tiền đề hình thành kỹ năng, kỹ xảo tính
nhẩm cho học sinh khi học các lớp tiếp theo.
Đồng thời GV đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, tăng cường
luyện tập thực hành hình thành kỹ năng toán học cho HS, song việc khuyến
khích học sinh tính bằng nhiều cách, lựa chọn cách tính còn hạn chế. HS thuộc
bảng cộng trừ, nắm được thuật tính, chưa thấy được sự đa dạng phong phú của
các bài tập, khả năng vận dụng cộng trừ nhẩm trong đời sống chậm.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp.
Xuất phát từ những trăn trở trên cùng với nhận thức phải nỗ lực để thích
ứng chuơng trình sách giáo khoa với những nội dung thể hiện trong sách giáo
khoa cũng như phương pháp dạy học theo định hướng đổi mới. Bản thân tôi suy
nghĩ và quyết định tìm hiểu, vận dụng những kinh nghiệm về dạy học tính nhẩm
cho HS ở lớp hai.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học năm 2014-2015
tôi đã thực hiện đề tài này cho thấy kết quả dạy học đã được nâng lên, bước đầu
khuyến khích HS học tốt hơn. Qua một năm thử nghiệm đúc rút kinh nghiệm tôi
vận dụng đề tài “ Một số phương pháp tính nhẩm nhanh cho HS lớp 2 ” trong
giảng dạy môn toán phần cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100, nhằm trang bị
cho HS một tư duy mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2
Phạm vi áp dụng học sinh lớp 2
Thời gian thực hiện năm học 2014-2015
II. Phương pháp tiến hành:
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tiễn trong những năm qua chất lượng giáo dục trong
các nhà trường đã năng lên song vẫn còn có những hạn chế nhất định: học sinh
Số học
sinh Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng lượng lượng lượng
20 1 5% 10 50 % 7 35 % 2 10 %
Số học
sinh Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
lượng lượng lượng lượng
20 4 20 % 8 40 % 8 40 % 0
1. Sử dụng.
A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề.
1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài
Linh Hồ là một xã vùng III dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống
kinh tế còn nhiều khó khăn. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập
cũng như chất lượng học tập của các em. Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con
cho anh em, ông bà chăm sóc nên không quán xuyến được việc học hành của
các em. Học sinh lợp 1 các em vừa ở lớp mẫu giáo lên còn ham chơi, chưa có ý
thức tự giác trong học tập nên việc học hành của các em nếu không có sự giám
sát chặt chẽ của gia đình thì khó có hiệu quả cao.
Về đội ngũ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy.
Về học sinh: Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có điều kiện sống
khác nhau, một số gia đình học sinh phụ huynh không biết chữ, gia đình có
kinh tế khó khăn chưa quan tâm đến đền việc học của con em. Điều đó cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.
1.3. Giải pháp đã sử dụng
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp.
II. GIẢI PHÁP CỤ THỂ.
II. Mô tả giải pháp của đề tài.
2. Khả năng áp dụng.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Những kết quả mà các em đạt được sau những lần thi do nhà trường ra đề,
đã cho thấy công sức tôi bỏ ra đã có kết quả nhất định như sau:
* Kết quả cuối năm học 2012 - 2013:
Sĩ số Giải thành thạo Kĩ năng giải chậm Chưa nắm được cách
giải
16em 8 em = 50 % 6 em = 37,5% 2 em = 12,5%
Sĩ số Giải thành thạo Kĩ năng giải chậm Chưa nắm được cách
giải
26 em 15 em = 57,6% 10 em = 38,6% 1 em = 3,8%
Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác
của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các
biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh yếu tuy vẫn còn nhưng
chỉ còn với tỉ lệ ít, số học sinh khá giỏi tăng. So với năm học trước thì kết quả
trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới
phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả khả quan. Những thầy cô giáo
trường bạn trong lần thanh tra trường khi dự giờ lớp tôi cũng đã công nhận lớp
học sôi nổi, nắm kiến thức vững chắc. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục theo
đuổi ý tưởng của mình.
Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn
tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao
hơn.
C. KẾT LUẬN
1. Kinh nghiệm cụ thể.
2. Sử dụng.
Đối với một giáo viên tiểu học, muốn học sinh của mình giải toán thành
thạo có lời giải hay đúng, thì người giáo viên phải năng động sáng tạo nghiên
cứu, đầu tư thời gian để tìm ra phương pháp dạy học phù hợp nhất với từng đối
tượng học sinh, giúp các em chăm chỉ và tự tin có hứng thú học tập. Hằng ngày
kiểm tra đôn đốc và nhắc nhở các em kịp thời. Không nên quát mắng làm các
em sợ mất bình tĩnh. Có tuyên dương khen thưởng, động viên kịp thời nhằm
khích lệ các em có ý thức vươn lên trong học tập, thường xuyên sử dụng đồ
dùng dạy học.
Trên đây là toàn bộ sáng kiến và kinh nghiệm tôi đã thực hiện cho đề tài “
Một số biện pháp giúp hoc sinh lớp 1 giải toán có lời văn”.
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị.
Xác nhận của nhà trường Linh Hồ, ngày 15 tháng 01 năm 2015
Người viết
Phương pháp vấn đáp: Là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra
những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho HS tư duy từng bước để các
em tự tìm ra kiến thức mới phải học
Phương pháp này nhằm tăng cường kỹ năng suy nghĩ sáng tạo trong quá
trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh nghiệm đã có
của HS , giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến thức. qua đó học
sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn.
Phương pháp Này phù hợp cho cả bài lý thuyết và thực hành
VD: Khi dạy bài Phép cộng các dạng 9 + 5; 29 + 5 ; 49 + 25
Bài 9 cộng với một số 9+5
HS thực hiện tính 9+5 bằng các thao tác trên que tính, có thể trả lời theo
nhiều các để tìm ra kết quả 9+5+14
GV nên khuyến khích HS tìm ra cách làm nhanh nhất: “ Tách 1 ở số sau
để có 9 cộng với 1 bằng 10, lấy 10 cộng với số còn lại của số sau”. Cách thực
hiện này yêu cầu HS phải huy động các kiến thức đã học ở lớp 1 (9+1+10, 5
gòm 1 và 4) để tự phát hiện nội dung mới và chuẩn bị cơ sở cho việc lập bảng
cộng có nhớ.
Lập bảng cộng dạng 9 cộng với một số và học thuộc chẳng hạn:
9+2=
9+3=
9+4=
…….
9+9=
Trường TH B Linh Hồ 11 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
+ Cách 1: HS tự tìm kết quả bằng cách thao tác trên que tính ( cách này
mất thời gian hơn và phải sử dụng đến đồ dùng là que tính
+ Cách 2: Cho hs nhận xét về các phép tính ( Số hạng thứ nhất của phép
tính đều là 9) khi cộng 9 với một số tách 1 ở số sau để có 9+1=10 cộng với số
còn lại của số sau rồi tính nhẩm.) Cách này HS tìm ra KQ nhanh hơn, khắc sâu
được kiến thức, tránh lạm dụng sử dụng đồ dùng trực quan.
Học thuộc công thức cũng chỉ là bước đầu chiếm lĩnh kiến thức, GV phải
giúp HS nhận ra: học không phải chỉ để biết mà học còn để làm, để vận dung.
Thông qua hệ thống bài tập học sinh biết cách vận dụng những kiến thức
cơ bản đã học dể làm bài, GV khuyến khích HS tìm kết quả bằng nhiều cách,
nhận xét đưa ra cáh giải nhanh nhất
CHẳng hạn:
Bài tập 1 (trang 15)
9+3= 9+6= 9+7= 9+8= 9+4=
3+9= 6 +9 = 7+9= 8+9= 4+9=
Cách 1: Trên cơ sở HS đã thuộc bảng cộng tự nhớ tìm ra kết quả
Cách 2: Dựa vào cách tính nhẩm ( 9 + 3= ? ta nhẩm 9 + 1 = 10, 10 + 2 =
12 vậy 9 + 3 = 12 và 3 + 9 = 12 vì khi đổi chỗ các só hạng trong một tổng thì
tổng không thay đổi.)
Bài tập 3 (trang 15)
9+6+3= 9 + 9 + 1= 9+4+2= 9+5+3=
GV yêu cầu HS chọn phương pháp giải,
chẳng hạn: 9 + 9 + 1 = 18 + 1 = 19 hay 9 + 9 + 1 = 9 + 10 = 19
Bài 29+5
Cách 1 thực hiện như SGK
Cách 2: vận dụng cách tính nhẩm có thể tính như sau: 29+5=29+1+4=30+4=34
Bài 49+25
Cách 1 thực hiện như SGK
Cách 2: vận dụng cách tính nhẩm có thể tính như sau:
49+25=49+1+24=50+24=74
Các bài dạng: 8+5; 7+5; 6+5; 28+5; 47+5; 26+5; 38+25; 47+25; 36+15
Thực hiện tương tự dạng trên: HS ghi nhớ: Muốn cộng nhẩm hai số ta làm tròn
chục một số. Khi thêm vào số có hàng đơn vị lớn hơn bao nhiêu đơn vị để số đó
tròn chục thì phải bớt đi ở số hạng kia bấy nhiêu đơn vị
Tóm lại : Phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả
tiết học và phát huy được tính chủ động sáng tạo của HS
2. PHƯƠNG PHÁP NÊU VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
Là GV đưa ra những ví dụ gợi vấn đề điều khiển HS phát hiện vấn đề hoạt
động tự giác trực tiếp chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề qua đó mà tạo
tri thức rèn luyện kỹ năng tính nhẩm.
Khị sử dụng phương pháp nàyGV cần chuẩn bị trước ví dụ sao cho phù hợp với
mục đích yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư phạm, đáp ứng với các
đối tượng học sinh, GV cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn đề mà HS
đưa ra.
ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG HỌC SINH YẾU
* Lý do chọn đề tài:
Năm học 2013v - 2014 tôi được chủ nhiệm lớp 2B. Qua thi khảo sát chất
lượng đầu năm, tôi thấy kết quả chất lượng học tập của các em rất thấp. Từ đó,
I. Cơ sở lý luận :
Đối với ngành giáo dục, sản phẩm cho ra phải là con người mới xã hội
chủ nghĩa có đầy đủ năng lực và phẩm chất đạo đức để đáp ứng với nhu cầu
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó rèn học
sinh yếu là một phần rất quan trọng của sự nghiệp giáo dục toàn diện, vì thế
mục tiêu của việc rèn học sinh yếu là một mặt của mục tiêu giáo dục nói chung .
Rèn học sinh yếu là công việc của mỗi giáo viên ở mỗi trường. Vấn đề
chính ở đây là phải tìm ra biện pháp để lấp lỗ hỏng kiến thức của các em bằng
nhiều hình thức học tập như: đôi bạn cùng tiến, phối hợp chặt chẽ với gia đình
để rèn luyện cho các em đạt kết quả tốt hơn ở cuối năm.
* Kết quả xếp loại học sinh theo từng giai đoạn trong học kì 1 đạt
được như sau:
- Kết quả khảo sát đầu năm
Xếp loại Số lượng Tỉ lệ
- Loại giỏi 0 0%
- Loại khá 3 18,75 %
- Loại trung bình 7 43,75 %
- Loại yếu, kém 6 37,5 %
- Cuối học kì 1
Xếp loại Số lượng Tỉ lệ
- Loại giỏi 4 25 %
- Loại khá 7 43,75 %
- Loại trung bình 7 43,75 %
- Loại yếu, kém 2 12,5 %
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân đã tích lũy được trong quá
trình rèn luyện học sinh yếu, không tránh khỏi những sai sót. Mong được sự góp
ý của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp để sáng kiến hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trẻ em là tương lai của đất nước . Vì vậy trong nhiệm vụ giáo dục hiện
nay , việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng
. Muốn trở thành người có ích cho xã hội thì cần phải hội đủ hai điều kiện :
đức và tài như Bác Hồ đã từng nói :“ Có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó , còn có tài mà không có đức thì là người vô dụng ”. Câu nói ấy
của Bác vô cùng thấm thía trong lòng mỗi thầy, cô giáo chúng ta.
Muốn phát triển con người toàn diện, muốn đào tạo nhân tài của đất
nước, chúng ta không chỉ dạy cho các em giỏi về văn hoá mà còn phải làm tốt
công tác giáo dục đạo đức cho các em. Đặc biệt là giáo dục các em học sinh
Tiểu học. Người xưa đã dạy: “Dạy con từ thuở còn thơ”. Qua nhiều năm giảng
dạy ở trường Tiểu học, tôi nhận thấy việc giáo dục hành vi đạo đức cho các em
là vô cùng cần thiết. Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới kinh tế xã hội
đang diễn ra từng ngày, từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những
lớp người lao động mới, có bản lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo. Dám nghĩ
dám làm thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn thay đổi và phát triển. Nhu
cầu này đòi hỏi ngành giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình
đất nước. Và thực sự ngành giáo dục đã từng bước thay đổi, thể hiện qua việc
xác định mục đích giáo dục đào tạo, hay nói đúng hơn là phát triển toàn diện về
nhân cách con người thể hiện qua hai mặt là : “Tài và Đức”.
Dù ở xã hội nào thì cái đức vẫn luôn được coi trọng vì: Cái đức là gốc,
cái tài là sự biểu hiện của cái đức. Vì vậy việc giáo dục cái đức cho học sinh là
một yêu cầu quan trọng, đang trở thành một vấn đề bức xúc mà xã hội quan
tâm. Tình trạng này không chỉ xuất hiện ngoài xã hội mà còn len lỏi vào trong
cả trường học. Biểu hiện rõ nhất là trong các lớp học vẫn còn có những học sinh
thuộc dạng cá biệt chưa ngoan, mất lễ phép với người lớn yếu kém về đạo đức.
Cũng chính vì sự chưa ngoan đó mà dẫn đến tình trạng học lực yếu, học lực
kém dẫn đến bỏ học làm ảnh hưởng không ít đến những thành viên khác trong
lớp học và ảnh hưởng đến toàn trường, sâu xa hơn là gánh nặng của xã hội.
Là người làm công tác giáo dục có nhiệm vụ nâng đỡ và uốn nắn để giúp
học sinh có sự phát triển đúng đắn về nhân cách, về đạo đức nhằm giúp các em
có điều kiện gần gũi nhau, thường xuyên trao đổi động viên uốn nắn kịp thời
tiến bộ qua từng ngày. Trong việc thực hiện các nề nếp, việc tham gia thực hiện
các phong trào do Liên đội cũng như nhà trường phát động trong học sinh, nhà
trường và Liên đội luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh chưa
1. Cơ sở lí luận:
- Giáo dục là một quá trình liên tục, giáo dục suốt đời, giáo dục Tiểu học có tính
chất nền tảng trong hệ thống giáo dục, nhằm chuẩn bị cho học sinh, thanh niên
trực tiếp bước vào đời. Đối với học sinh, không phải em nào cũng ngoan ngoãn
nghe theo lời của thầy, cô giáo , có những em đến trường không tuân theo nội
quy của nhà trường , thiếu lễ phép , gây mất trật tự trong lớp học , … Đối
tượng những học sinh này thì số lượng không nhiều nhưng nó lại là vấn đề cần
phải quan tâm . Nhiều lúc , tôi phải đau đầu, nhức óc không biết dành bao
nhiêu thời gian cho những học sinh cá biệt này .
- Học sinh chưa ngoan chưa lễ phép là hậu quả của sự phá vỡ những mối liên hệ
bình thường của học sinh với gia đình, nhà trường và xã hội. Trong ngôn ngữ
thường ngày trẻ chưa ngoan, chưa lễ phép còn được gọi là trẻ “khó dạy”,
“ chậm tiến”…
- Giáo dục đạo đức học sinh là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công
tác chủ nhiệm.
- Đạo đức học sinh trong lớp quyết định nề nếp thi đua của lớp được nâng cao,
đẩy mạnh phong trào thi đua học tốt, chuyên cần, duy trì sĩ số.
- Giáo viên chủ nhiệm là lực lượng chính trong công tác giáo dục đạo đức học
sinh, là người quản lý mọi hoạt động của lớp học, là người triển khai mọi hoạt
động của nhà trường đến từng học sinh.
2. Cơ sở thực tiển:
- Trong thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, mỗi giáo viên cần xác
định nhiệm vụ chủ yếu đối với học sinh là giáo dục, giáo dưỡng. Trong quá
trình giảng dạy ta không nên coi nhẹ hai nhiệm vụ đó, bởi giáo dục và giáo
dưỡng mới đào tạo được một học sinh toàn diện theo yêu cầu của nền giáo dục
mới. Có giáo dục tốt từng học sinh cá biệt trong lớp thì tập thể mới đi lên ,
mới vững mạnh, mới tạo ra thế hệ trẻ có đầy đủ phẩm chất – nhân cách mới
xứng đáng là những con người trong xã hội tương lai. Đấy chính là điều mà tất
cả chúng ta phải trăn trở trước thực trạng hiện nay, vì thế, tôi xin đưa ra một số
vấn đề về “ Giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan” để chúng ta cùng
nhau nghiên cứu. Bỡi lẽ, điểm tựa vững chắc nhất của các em là gia đình và nhà
trường, trong đó đặc biệt quan trọng là giáo viên chủ nhiệm.
II. MỤC ĐÍCH, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU:
1. Mục đích:
Trường TH B Linh Hồ 20 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
- Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức học sinh ở lớp, ở trường thông qua đó đề
ra một số biện pháp giáo dục đạo đức học sinh một cách có hiệu quả.
- Hướng dẫn học sinh có thói quen đi thưa về trình, biết lễ phép với người lớn,
biết vâng lời ông bà, cha mẹ, thầy cô. Không nói tục, chửi thề…ý thức hơn
trong học tập.
1. Về thuận lợi:
- Trường TH Lê Hồng Phong là trường tiên tiến của Thành phố. Là ngôi trường
có bề dày thành tích và truyền thống hiếu học. Địa bàn đã hoàn thành phổ cập
giáo dục.
- Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, ban giám hiệu nhà trường, sự
nhiệt tình của hội phụ huynh, cùng tâp thể giáo viên trong nhà trường.
- Phần lớn học sinh rất hiếu động, đua đòi theo phim ảnh và một số trò chơi trên
Internet.
- Là học sinh địa bàn con em đa số là nông dân, có trình độ dân trí thấp, phần
lớn chỉ học hết cấp II, điều kiện cho con cái học hành còn gặp nhiều khó khăn,
một số gia đình con cái học đến cấp hai là đã tự mãn. Khi nghĩ học, lứa tuổi này
các em đã tạo ra tiền dễ dàng, nên không coi trọng vấn đề đạo đức.
- Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã nâng cao chất lượng cuộc sống, gây ra
những biến động về giá trị đạo đức: tự do ngôn luận, tính lễ phép, tính trung
thực, tính chăm chỉ bị suy thoái trầm trọng so với những năm học trước
1. Những nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa ngoan, chưa lễ phép và tác
hại.
- Do tính hiếu động, sự lôi kéo của bạn bè xấu, sự thiếu quan tâm của gia đình,
nhà trường và xã hội. Vô tình đã thu hút các em vào những việc làm không tốt,
các em thường tỏ ra chai lì, không cảm thấy xấu hổ khi bị phê bình, có phản ứng
gay gắt, không lành mạnh… Những học sinh này thường biện hộ cho hành vi
sai lệch của mình. Các em thường lừa dối cha mẹ, thầy cô, các em thường đánh
nhau trong và ngoài nhà trường. Bắt chước những thói hư tật xấu của bạn bè
xấu. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng phạm pháp ở lứa tuổi thanh thiếu niên ngày
càng tăng và tình trạng bỏ học diển ra phổ biến như hiện nay.
* Tác hại: Việc học sinh chưa ngoan, chưa lễ phép, bỏ học sẽ gây nhiều tác hại:
- Đối với xã hội: Làm xã hội chậm phát triển, mất trật tự xã hội là gánh nặng
của xã hội.
- Đối với gia đình: Những học sinh này là mối lo ngại lớn, ảnh hưởng đến các
thành viên còn lại trong gia đình. Nói chung những em này luôn mang đến cho
gia đình nhiều phiền toái. Dẫn đến tương lai của các em mù mịt.
- Đối với nhà trường: Gây trở ngại lớn đến nề nếp, chất lượng, nội qui của lớp.
Làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp, thậm chí còn để lại tai tiếng cho
trường, cho lớp.
- Đối với tập thể bạn bè: Các em này thường lôi kéo bạn bè tiêm nhiễm những
thói hư tật xấu của mình, gây ảnh hưởng lớn đến gia đình, nhà trường và xã hội.
- Đối với giáo viên: Luôn phải bận tâm với những phần tử hư hỏng này, phải
luôn tìm ra biện pháp phù hợp để hướng thiện cho các em, nó còn gây ảnh
hưởng đến việc đánh giá xếp loại thi đua của giáo viên.
- Đối với bản thân: Các em này sẽ bị ảnh hưởng lớn đến việc học tập, sự tiến
thân của các em sau này.
* Khái quát về thành tích học tập và các hoạt động hàng ngày của các em thông
qua việc sử dụng các phương pháp đã nêu ở phần I để tiến hành nghiên cứu.
Cụ thể:
- Giáo trình tâm lí học Đại cương
- Giáo trình giáo dục học tiểu học I ( NXB Đà Nẵng ) và các tài liệu đề cương
bài giảng tâm lí học, giáo dục học.
- Tìm hiểu trực tiếp học sinh lớp 3/B được nghiên cứu để nắm bắt được những
thông tin cần thiết phục vụ cho nghiên cứu.
- Tiếp xúc gia đình của các em để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những biểu
hiện chưa ngoan ở một số em, từ đó có hướng giúp đỡ các em vươn lên.
- Thông qua hoạt động học tập, vui chơi. Người thầy nắm rõ hơn những biểu
hiện hành vi đạo đức của các em. Qua đó làm cơ sở phục vụ cho việc nghiên
cứu.
* Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc có những biểu hiện chưa ngoan,
mất lễ phép và dẫn đến bỏ học ở các em. Qua thực tế nhiều năm làm công tác
chủ nhiệm và giảng dạy, tôi có thể phân loại và xác định nguyên nhân như sau:
a) Học sinh cá biệt về đạo đức do thiếu sự quan tâm chỉ dạy của
gia đình:
- Những học sinh này thường xuất thân từ con nhà nghèo , bố mẹ lao động
vất vả , gia đình đông anh em , cơ sở vật chất cũng như tinh thần bị thiếu thốn ,
cha mẹ chỉ đáp ứng cho con ăn no, không có thời gian giáo dục , chăm sóc chu
đáo cho con. Những em thuộc hoàn cảnh trên thường ở nhà phụ giúp gia đình
không có thời gian học hành, vui chơi dẫn đến học yếu , lười học . Nhiều em vì
thiếu thốn mà sinh ra ăn cắp vặt , …
- Giáo viên phải nhanh chóng tiếp xúc , gặp gỡ cha mẹ các em và trao đổi với
họ về những chỗ hổng cần thiết để họ hiểu và có biện pháp khắc phục,
động viên phụ huynh quan tâm đến việc giáo dục con cái mình bằng nhiều hình
thức khác nhau .
- Ở trường , giáo viên phải động viên , khuyên răn , nhắc nhở đưa ra những
tấm gương tốt cùng hoàn cảnh để các em học tập trong suốt quá trình tìm hiểu
và giáo dục, tránh tình trạng coi thường và mặc xác học sinh mà phải luôn
coi trọng các em , hi vọng các em phải trở thành người tốt.
b) Đối tượng học sinh cá biệt do sự quan tâm giáo dục của gia đình
không đúng: - Cha mẹ quá thương con , nuông chiều con hết mực , con
muốn gì , cha mẹ đáp ứng
ngay . Những em này xuất thân từ những gia đình giàu có , con đòi hỏi gì cũng
cho mà
quên đi việc giáo dục , để ý xem con mình là người như thế nào.
- Giáo viên đến gặp phụ huynh để trao đổi trực tiếp về việc giáo dục con cái
trong gia đình , chỉ và giải thích cho họ hiểu không nên chiều chuộng con quá
mức mà phải hạn chế , điều chỉnh hành vi của con mình , không nên cho con
quá nhiều tiền , hoặc mua cho con những đồ chơi bạo lực mà nên mua cho
con những đồ chơi phục vụ cho việc học tập , óc sáng tạo
- Ở trường , giáo viên nên theo dõi báo cáo những biểu hiện hằng ngày của
học sinh , có biện pháp phối hợp đúng lúc.
c) Học sinh cá biệt về đạo đức do cha mẹ là người thiếu văn hoá .
- Cha mẹ đối xử nhau không tốt, thường hay đánh đập, chửi bới nhau . Các em
lớn lên trong môi trường không tốt như thế chắc chắn sẽ bị hư hỏng , thiếu
sự quan tâm giáo dục của nhà trường, thầy cô thì buồn rầu dẫn đến hiện
tượng chán nản , bỏ học, rong chơi hư hỏng.
e) Cũng có những học sinh cá biệt do thiếu tình thương yêu của
bạn bè và người thân.
Đối với những em này , giáo viên là người có trách nhiệm nhiều nhất ,
thay cho cha mẹ giáo dục các em , gặp người đang chăm sóc em để tâm sự ,
trao đổi để họ tạo cho các em cuộc sống thoải mái hơn , dễ gần hơn , thường
an ủi , nhắc nhở các em , làm cho các em thấy rằng: “ Giáo viên là người mẹ
hiền , lớp học như một gia đình đầm ấm”.
* Phải nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh : học bạ, số điện thoại, hoàn cảnh gia
đình…. để liên hệ với phụ huynh khi cấp bách.
* Xây dựng ban cán sự lớp với tinh thần tự quản, ý thức trách nhiệm cao.
* Xây dựng tập thể lớp đoàn kết , vững mạnh, có tinh thần yêu thương và giúp
đỡ lẫn nhau.
- Gần gũi, thương yêu ,trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu
hướng sở thích của học sinh, giúp các em nêu ra “điều em muốn nói”.
- Tạo môi trường thân thiện để các em thấy được "mỗi ngày đến trường là một
niềm vui".
- Khiêu gợi và từng bước phát huy tinh thần làm chủ tập thể của học sinh, cùng
thi đua giúp đỡ lẫn nhau.
- Biết động viên thăm hỏi kịp thời khi bạn đau ốm, hay gặp khó khăn, hoạn nạn.
- Về phía nhà trường: Cần có những biện pháp giáo dục áp dụng với từng đối
tượng học sinh. Phối hợp với Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh tạo nhiều
sân chơi lành mạnh, hình thành thói quen ở các em “Mình vì mọi người, mọi
người vì mình”. Giáo dục các em tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái thông
qua các hoạt động từ thiện, các hoạt động giúp đở bạn nghèo… do nhà trường
và Liên đội phát động. Qua đó có thể giáo dục các em tinh thần “ Lá lành đùm
lá rách” “ Một miếng khi đói bằng một gói khi no”…
- Về phía gia đình: Cần phải luôn là chỗ dựa vững chắt cho các em, giúp các em
không cảm thấy cô đơn, lẽ loi, hụt hẩng. Gia đình cần nhận thức đúng đắn về
vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái. Không nên quá lo về
kinh tế mà bỏ quên việc giáo dục con em mình, phải thường xuyên liên lạc với
nhà trường, nắm tình hình học tập của con em mình. Những thành viên trong
gia đình cần luôn noi gương tốt cho các em noi theo.
- Đối với xã hội: Cần quan tâm đến ngành giáo dục nhiều hơn nữa, phối kết hợp
với ban ngành địa phương làm lành mạnh, trong lành môi trường sống, không
còn những tệ nạn, những thói hư tật xấu…làm ảnh hưởng đến thế hệ trẻ mai
sau.
Nhiệt tình, linh động với công việc, công bằng với học sinh, khen thưởng và
phê bình kịp thời.
-Thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời
cho ban giám hiệu về tình hình đạo đức của học sinh.
- Một năm học GVCN đến nhà học sinh ít nhất một lần để nắm thông tin, thuyết
phục cha mẹ học sinh tham gia họp đầy đủ.
- Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh đúng thời gian quy định,
xử lý thông tin phản hồi kịp thời, có hiệu quả
- Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo, liên hệ với Cha mẹ học
sinh để giải quyết mau lẹ, có hiệu quả.
- Cuối tuần khen thưởng, xử lý kịp thời, dù chỉ những tiến bộ chậm chạp.
Trường TH B Linh Hồ 25 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
- Luôn có lòng vị tha đối với các em, bỏ qua những lổi lầm, để tạo niềm tin và
tạo cơ hội tiến bộ.
- GVCN phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, trao dồi đạo đức nhà
giáo để xứng đáng là tấm gương tốt cho học sinh noi theo.
- Tăng cường thực hiện các phong trào:
Phong trào với tên gọi “ Mười biết ” : biết lễ phép, vâng lời;
biết chào hỏi; biết mạnh dạn, tự tin, biết giúp đỡ bạn, người khác; biết giữ
vệ sinh phòng bệnh, biết tự giác học tập, tự làm chủ bản thân, tự phục vụ,
biết tích cực tập thể dục, chơi thể thao; biết chăm đọc sách , chăm học, biết
chấp hành nội qui của trường, biết chấp hành qui định an toàn giao thông.
Phong trào với tên gọi “Mười không ” : không xả rác , không
làm dơ bẩn tường , không làm mất màu xanh, không đánh bạn, không nói
dối.nói bậy, không đi học trễ, không quay cóp trong học tập, kiểm tra,
không mua hàng rong, hàng không an toàn vệ sinh, không lấy cắp đồ dùng
của bạn, không lãng phí điện , nước,...
Giáo viên chủ nhiệm cụ thể hóa kế hoạch hoạt động tập thể theo tuần, đánh
giá, tuyên dương, góp ý cụ thể đối với học sinh của lớp.
- Để làm tốt công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cần phải thường xuyên làm
tốt công tác chủ nhiệm lớp, thường xuyên thăm hỏi gia đình các em. Mỗi giáo
viên phải có lòng vị tha, thương yêu học sinh như chính người thân của mình.
Công bằng trong thưởng phạt, giáo dục các em tinh thần tương thân tương ái,
động viên kịp thời trong mọi hoạt động, giúp các em không mặc cảm, tự ti và
vươn lên. Ngoài ra giáo viên cần phải chịu khó lắng nghe tâm tư, tình cảm của
các em, qua đó phân tích lí giải những ý kiến của các em, tạo cơ hội cho các em
tâm sự những gút mắc trong các em.
Giáo viên cần tổ chức đa dạng hình thức học tập. Tuỳ theo nội dung từng
bài mà học sinh được luyện tập các thao tác, các hành vi đạo đức bằng nhiều
phương pháp và hình thức khác nhau như: đóng vai, thảo luận nhóm, tổ chức trò
chơi, giải quyết vấn đề, động não, dự án, kể chuyện, đàm thoại, nêu gương, trực
quan, khen thưởng… học cá nhân; theo lớp và theo nhóm; học ở trong lớp,
ngoài sân trường và tham quan .Các phương pháp và hình thức dạy học đạo đức
làm cho không khí học tập trở nên sôi nổi, sinh động, hứng thú đối với học sinh
hơn. Từ đó, các em có thể tự tin vận dụng chúng vào thực tiễn sống của mình.
Bên cạnh đó, nó còn tăng cường giáo dục mối quan hệ đạo đức mang tính nhân
ái giữa các em, rèn cho học sinh tính tự tin, dạn dĩ hơn, giáo dục ý thức ham học
hỏi mang lại niềm vui nhận thức; phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập
của các em.
Qua kinh nghiệm giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt ở tiểu học nói
trên , bản thân tôi đã áp dụng cho lớp chủ nhiệm của mình . Tôi thật sự hài lòng
về kết quả thu được, các em đã gần gũi hơn với bạn bè trong lớp, cởi mở hơn
với thầy cô, không còn hằn học, không nói tục, chửi thề. Các em ngày càng lễ
phép hơn với người lớn, với thầy cô, không còn học sinh cá biệt về đạo đức và
tính tập thể trong lớp được phát huy cao hơn. Cụ thể là:
Trường TH B Linh Hồ 26 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
- Để “ Giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan” đạt kết quả như mong
muốn, mỗi chúng ta cần thực hiện tốt các nguyên tắc giáo dục sau:
1/ Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường Tiểu học,
trước hết ta phải kịp thơi, thường xuyên làm cho giáo viên, cha mẹ học sinh và
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường nắm vững những yêu cầu nội dung, biện
pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Tránh tư tưởng xem nhẹ nhiệm vụ giáo dục
đạo đức học sinh, tránh tình trạng thực hiện nhiệm vụ giáo dục qua loa, mang
tính hình thức, không có hiệu quả.
2/ Phải giảng dạy thật tốt môn Đạo đức. Bỡi môn học Đạo đức là môn học quan
- Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế việc giáo dục đạo đức cho học
sinh chưa ngoan ở lớp 3/A trường tiểu học Lê Hồng Phong.Tôi thấy rằng, việc
giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh, cho thế hệ trẻ là một
quá trình rèn luyện lâu dài, liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên
quan nhiều đến các mối quan hệ xã hội. Vì vậy nó đòi hỏi người thầy giáo phải
có đức tính kiên trì, khéo léo trong ứng xử, bền bỉ, tế nhị để có thể tìm hiểu sâu
sắc từng đối tượng học sinh, và thương yêu các em với một tình cảm chân
thành, tạo mói quan hệ gần gũi. Cần có cách cư xử nhẹ nhàng, chừng mực với
từng đối tượng, thể hiện sự quan tâm đến các em, qua đó tạo cho các em có sự
tinh tưởng tuyệt đối với giáo viên và hướng các em đến một thói quen xem ngôi
trường như ngôi nhà thứ hai của mình.
- Với những quy tắc đã nêu trên đây chúng ta hy vọng rằng công tác giáo dục
học sinh “chưa ngoan” sẽ có những bước chuyển biến mới. Tuy nhiên việc giáo
dục nhân cách cho học sinh không thể thành công trong một sớm một chiều, bởi
giáo dục là cả một quá trình và không thể chỉ thực hiện bởi giáo viên chủ nhiệm,
BGH và các tổ chức đoàn thể trong trường. Chính vì vậy chỉ có sự gắn kết của
các bậc phụ huynh, các tổ chức xã hội cùngquan tâm ủng hộ nhà trường và tham
gia công tác giáo dục học sinh “chưa ngoan” mới có thể tin tưởng đạt được kết
quả tích cực và bền vững.
1/ Xây dựng kế hoạch thực hiện công tác chủ nhiệm và giáo dục đạo đức
học sinh theo chương trình công tác Đội và phong trào thiếu nhi gắn với chủ
đề năm học .
2/ Tăng cường giáo dục tích hợp qua các môn học có liên quan.: Xác định
trách nhiệm dạy bất kỳ môn học nào cũng phải tham gia thực hiện công tác
giáo dục đạo đức học sinh, kết hợp việc giáo dục đạo đức vào những bài
giảng, những tình huống sư phạm có liên quan, khai thác bài tập thực hành,
xử lý tình huống đạo đức. Phải xem nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh
Trường TH B Linh Hồ 29 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
là nền tảng để rèn nền nếp, kỷ cương của trường lớp, góp phần chống lưu
ban, bỏ học.
3/Mỗi giáo viên phát huy tốt vai trò chủ nhiệm, phụ trách chi đội.phối hợp
hoạt động giáo dục theo chủ điểm của chường trình hoạt động đội, tăng
cường giáo dục đạo đức hàng ngày, nắm bắt đặc điểm học sinh để giáo dục
cụ thể.
4/ Giáo viên phải nắm vững quy định về đạo đức nhà giáo, làm cơ sở để tự
rèn luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo, qui tắc ứng xử sư phạm, có lối sống
và cách ứng xử chuẩn mực để thực sự làm tấm gương đạo đức học sinh noi
theo ( lời nói gắn liền hành động thực tiễn), mỗi giáo viên luôn trau dồi
chuẩn mực đạo đức, gương mẫu qua từng hành động, luôn dịu dàng hết
lòng thương yêu học sinh, bằng lương tâm chức nghiệp của mình xây dựng
chương trình hành động riêng trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Các chương trình hành động của giáo viên được tổng hợp theo các Tổ, Khối
để gửi về Ban Giám hiệu bổ sung vào kế hoạch của trường.
5/ Khuyến khích học sinh tự giác, tự chủ tham gia tích cực các hoạt động
phong trào đoàn đội, chấp hành nội quy, quy định của nhà trường, luật an
toàn giao thông, thực hiện phong trào 10 không , 10 biết, tăng cường giáo
dục đảm bảo an toàn, phòng chống tai nạn, thương tích cho học sinh. giúp
đỡ bạn cùng tiến bộ trong học tập, hạnh kiểm.
1/ Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp: Tổng phụ trách xây
dựng kế hoạch hoạt động theo chủ điểm từng tháng.Hàng tuần , sinh hoạt
dưới cờ có đánh giá nhắc nhở khắc phục hạn chế tồn tại, phát huy mặt tích
cực, biểu dương tập thể lớp, cá nhân học sinh tiêu biểu.
2/ Tăng cường tủ sách đạo đức và các hoạt động liên quan (giới thiệu sách,
kể chuyện theo sách, kể chuyện đạo đức Bác Hồ,Tiểu phẩm...) Xây dựng và
cụ thể hóa kế hoạch thực hiện chủ đề : “ Rạng ngời trang sử Đội, vững bước
tiến lên Đoàn ” .phát động thực hiện các phong trào thi đua nề nếp, kỷ luật,
vệ sinh, kế hoạch nhỏ, nụ cười hồng phong trào học tập làm theo 5 điều Bác
Hồ dạy thiếu nhi.
3/ Giới thiệu tìm hiểu các di tích văn hóa, di tích lịch sử , tham quan thăm
viếng, học tập.( Đài liệt sĩ, Bảo tàng . . .)
4/ Tổng phụ trách Đội tham mưu kế hoạch, biện pháp hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm phụ trách chi đội, đoàn
viên TNCS hỗ trợ, phối hợp tổ chức hoạt động ,giáo dục đạo đức theo chủ
điểm, phong trào thi đua, phong trào hoạt động khác.
5/ Tăng cường các hình thức tuyên truyền thông tin , giáo dục theo chủ đề,
biểu dương gương tốt, phát động phong trào chia sẽ giúp bạn, giúp người
hoạn nạn.
Trên đây là một số vấn đề về giáo dục đạo đức cho học sinh chưa ngoan
mà tôi đã suy nghĩ. Tôi tin chắc rằng nếu chúng ta quan tâm đúng mức và thực
hiện tốt các biện pháp trên thì sẽ không còn tình trạng học sinh chưa ngoan ở
Người viết
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 2
Ngày tạo: 08/05/2012 Lượt xem: 7352
Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2
Người soạn: Phan Thị Kim Yến
Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2
I. Đặt vấn đề:
- Trẻ em đến trường là để được học đọc, học viết. Nếu phân môn tập đọc
học vần giúp trẻ biết đọc thông thì phân môn tập viết sẽ giúp trẻ viết thạo. Trẻ
đọc thông, viết thạo phải ngày một, ngày hai mà có được. Mà đó là kết quả của
một quá sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Kết quả việc rèn chữ
viết cho học sinh không trình dày công khổ luyện của cả thầy và trò, dưới sự dìu
dắt, chăm sóc tận tình của các thầy giáo, cô giáo
Chúng ta đang ở trong một thời đại mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Thời đại thông tin bùng nổ, mọi người thường ngồi với chiếc
máy vi tính của mình để soạn thảo một văn bản thay vì cầm bút viết trên giấy.
Việc rèn chữ viết của mọi người bị chìm vào quên lãng. Ở trong trường tiểu học
cũng vậy, trong những năm học gần đây, học sinh viết chữ xấu là một tình trạng
đáng báo động. Hiện nay học sinh lựa chọn đủ các loại bút để viết, đặc biệt là
học sinh rất yêu thích với chiếc bút kim của mình hơn là những loại bút chấm
mực như ngày xưa. Mặt khác, chữ viết của khá nhiều giáo viên chưa đúng quy
định cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc rèn chữ viết của học sinh. Mỗi thầy, cô
giáo được xem như là một tấm gương phản chiếu để học sinh soi rọi vào đó.
Lứa tuổi của học sinh tiểu học là lứa tuổi hay “bắt chước”, giáo viên viết như
thế nào thì học sinh viết như thế đó; đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh lớp 2. Cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của
nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn
luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với
thầy và bạn đọc bài của mình”.
Trường TH B Linh Hồ 31 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
Thật vậy, nhìn trang vở của học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch sẽ
thì cả cha mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui. Chúng ta như đặt niềm tin
vào tương lai con trẻ.
Việc rèn chữ viết cho học sinh còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng
cho trẻ những phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật và óc thẩm mỹ.
Nhưng muốn viết thạo trẻ phải gắng công khổ luyện dưới sự dìu dắt tận tình của
các thầy giáo, cô giáo.
Trong trường tiểu học, việc dạy tập viết được phối hợp nhịp nhàng với
dạy học vần, chính tả, tập làm văn, việc ghi bài vào vở các môn học, vở luyện
viết chữ đẹp của học sinh.
Dạy tập viết không chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về
chữ viết mà còn rèn kỹ thuật viết chữ. Trong các tiết tập viết, học sinh nắm bắt
được các tri thức cơ bản về cấu tạo các chữ cái tiếng Việt được thể hiện trên
bảng cài, bảng lớp, bảng con, trong vở tập viết và vở ghi bài các môn học
khác… Đồng thời, học sinh được giáo viên hướng dẫn các yêu cầu kỹ thuật viết
từng nét chữ để hình thành nên một chữ cái rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu.
Ở giai đoạn đầu, trọng tâm của việc dạy tập viết là dạy viết chữ cái và kết
nối các chữ cái lại để ghi tiếng.
Ở giai đoạn cuối, song song với việc rèn viết chữ hoa, học sinh còn được
rèn viết văn bản, có thể là: nhìn một đoạn văn, đoạn thơ chép lại cho đúng (tập
chép) hoặc nghe giáo viên đọc mẫu, học sinh viết bài vào vở (nghe viết) hoặc
nhớ để viết lại (nhớ viết).
- Đầu năm vào nhận lớp 2C tôi cũng rất băn khoăn nhiều em viết chữ rất
xấu . Viết chưa đúng mẫu nhất là các nét khuyết . Từ đó tôi mới nảy ra ý tưởng.
Phải tìm một số biện pháp , một số việc làm để giúp cho các em hứng thú trong
giờ học tập viết , trong các tiết học chính tả. Giáo viên phải tỉ mẫn hơn. Cho nên
tôi đã có kế hoạch từ đầu năm , chọn ra các đối tượng để rèn . Cứ một tháng tôi
kèm cho 3em . nếu 3 em đó viết chưa được , tháng kế tiếp tôi lại kèm tiếp . Cho
đến lúc nào các em đó viết đúng .
II. Kế hoạch :
- Từ đầu năm học 2011- 2012 tôi đã đề ra một số kế hoạch cụ thể như
sau:- Tháng 9 tôi kèm 3em
Em: Đoàn Thị Hiền, em Nguyễn Thị Mỹ Linh, em Võ Văn Tài
- Tháng 10 Em Tài chưa tiến bộ tôi lại kèm tiếp và thêm 2 em nữa
Đó là em Nguyễn Khánh Vân , em Nguyễn Thị Phương
Tháng 11 tôi kèm thêm em Nguyễn Hữu Xuyên , em Nguyễn Thị
Thảo,em Võ Văn Tài.
Tháng 12 tôi kèm em Võ Văn Tài , em Nguyễn Thị Phương và em Lê Thị
Thạnh
Tháng 1và tháng 2 tôi nhận thấy trong số 12 em đó có em Tài và em
Vân, em Phương còn chậm Viết thường hay sai lỗi chính tả nên qua kì 2 tôi lại
có hướng kèm tiếp cho những em đó .
Tháng 3 và tháng 4 tôi nhận thấy các em đó tiến bộ hẳn và tôi cứ tiếp tục
nhắc nhở kềm cặp cho các em đó để chuẩn bị thi học kì 2 có kết quả tốt hơn .
III. Những biện pháp thực hiện
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP HAI HỌC TỐT PHÂN
MÔN TẬP LÀM VĂN
I. Đặt vấn đề:
Nội dung Tập làm văn lớp Hai cung cấp cho học sinh (HS) các kĩ năng
nói, viết, nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các
nghi thức lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng
ngày, phân môn Tập làm văn lớp Hai còn rèn cho HS kĩ năng diễn đạt và kĩ
năng nghe.Ở lớp Một, thông qua môn Tiếng Việt học âm, vần, HS được luyện
nói từng câu ngắn, đã được tập kể lại câu chuyện. Tuy nhiên, do vốn từ của các
em còn ít nên việc diễn đạt còn rất hạn chế. Thực tế đến đầu năm lớp Hai hầu
hết HS chỉ nói được những câu ngắn, trả lời chưa đủ ý, diễn đạt còn rời rạc.Do
đó, nhiệm vụ của giáo viên lớp Hai là tiếp tục rèn kĩ năng diễn đạt cho các em.
Chính vì mục tiêu đó, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Hai
học tốt phân môn Tập làm văn dạng bài kể ngắn …” .
II. Cở sở lý luận:
Phân môn Tập làm văn lớp Hai dạy cho HS nắm được các nghi thức lời
nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, …; nắm được một số kĩ năng phục vụ
học tập và đời sống hằng ngày; kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược về người,
vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi; nghe – hiểu được ý kiến
của bạn. Các bài tập làm văn thường gồm hai dạng chính: nói – kể và viết.
Nhưng bao giờ dạng bài tập nói – kể cũng được thực hiện trước rồi mới đến
dạng viết.
Ví dụ: Bài tập 1: Kể về ông, bà (hoặc một người thân) của em. Bài tập 2:
Dựa theo lời kể ở bài tập 1, hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về
ông, bà hoặc một người thân của em. Như vậy, ở lớp Hai kĩ năng cần giúp các
em rèn luyện trước tiên chính là nói – kể ngắn.
III. Cở sở thực tiễn:
Trường TH B Linh Hồ 35 Năm học 2014 - 2015
Sáng kiến kinh nghiệm Đinh Tiến Mạnh
Qua một tháng dạy học đầu tiên, tôi nhận thấy kĩ năng diễn đạt của HS còn rất
hạn chế. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì vốn từ của các em còn nghèo, cơ hội để
các em rèn luyện còn ít. Mục tiêu của môn Tiếng Việt lớp Hai là tiếp tục rèn
luyện cho HS bốn kĩ năng, trong đó có kĩ năng nói – kể ngắn. Thông qua dạy
học, các em được rèn luyện kĩ năng nói. Đặc biệt phân môn Kể chuyện và Tập
làm văn rèn cho các em diễn đạt trôi chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau.
Trong chương trình Tập làm văn lớp Hai, dạng bài kể ngắn gần như được học
trọn trong học kì I, đến cuối học kì II các em chỉ học thêm có 2 tiết. Qua các
bài” kể ngắn “, các em sẽ được trau dồi kĩ năng diễn đạt.
IV. Nội dung nghiên cứu: Các biện pháp giúp HS học tốt dạng bài ” kể ngắn”
Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy Tập làm văn dạng bài ”
kể ngắn”
Chương trình Tập làm văn lớp Hai gồm ba dạng bài cơ bản: Dạng bài luyện tập
về nghi thức lời nói tối thiểu; dạng bài luyện tập các kĩ năng phục vụ học tập và
đời sống hằng ngày và dạng bài kể ngắn. Ba dạng bài này có mối liên hệ hữu cơ
với nhau. Bài tập của dạng bài này ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính
dạng bài đó còn có tác dụng hỗ trợ cho dạng bài khác. Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tự
giới thiệu – Câu và bài. Bài này ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời
nói (tự giới thiệu) còn có tác dụng hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể.
Chẳng hạn bài tập 2: Nghe các bạn trong lớp trả lời các câu hỏi ở bài tập 1, nói
lại những điều em biết về một bạn. Hay bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh
dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện.Để tiện việc nghiên cứu,
soạn bài và chuẩn bị tốt cho các tiết dạy dạng bài kể ngắn, tôi lập nội dung
chương trình như sau:
Tuần Nội dung bài dạy Lưu ý
1 Tự giới thiệu – câu và bài Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ
năng kể
3 Sắp xếp câu trong bài – lập danh sách Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ
học sinh năng kể
5 Luyện tập về mục lục sách Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ
năng kể
7 Kể ngắn theo tranh – luyện tập về thời Bài tập 1: kể ngắn
khoa biểu
8 Mời nhờ, yêu cầu, đề nghị – kể ngắnBài tập 2: kể ngắn
theo câu hỏi
10 Kể về người thân Trọng tâm cả tiết là rèn luyện
kĩ năng kể ngắn.
13 Kể về gia đình Trọng tâm cả tiết là rèn luyện
kĩ năng kể ngắn.
15 Chia vui – kể về anh, chị, em Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ
năng kể
16 Khen ngợi – kể về con vật – lập thờiBài tập 2: kể ngắn
gian biểu.