You are on page 1of 116

THƯ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_________________________

ĐINH ĐỨC DUY

VẤN ĐỀ CAMPUCHIA TRONG QUAN


HỆ THÁI LAN VIỆT NAM 1979-1991

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. LÊ PHỤNG HOÀNG

Thành Phố Hồ Chí Minh - 2009


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn xin cam đoan với Hội đồng khoa học cùng đọc giả, đây là
công trình nghiên cứu của bản thân. Các chứng cứ và số liệu làm cơ sở được trình
bày trong luận văn là do chính bản thân sưu tầm, sắp xếp, đánh giá mang tính trung
thực và chưa được công bố đầy đủ như thế trong bất cứ công trình nghiên cứu nào
khác.

Các nội dung trích dẫn trong luận văn đều có nguồn gốc cụ thể, mang tính
khoa học. Các tài liệu tham khảo để hoàn thành luận văn đều được vinh diện trong
công trình này.

Với danh dự của người nghiên cứu, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước
sự cam đoan của mình.

Tác giả luận văn

ĐINH ĐỨC DUY


LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành được luận văn với đề tài Vấn đề Campuchia trong
quan hệ Thái Lan - Việt Nam (1979 – 1991), tôi chân thành cám ơn TS. Lê Phụng
Hoàng đã trực tiếp hướng dẫn nhiệt tình để tôi hoàn thành luận văn này. Cám ơn
PGS. TS Ngô Minh Oanh và các giảng viên đã truyền thụ kiến thức và có những gợi
ý quý báu cho tôi trong cả quá trình học tập.

Cám ơn sự giúp đỡ nhiệt thành của Thượng tá Nguyễn Đình Khán, cám ơn
đơn vị công tác Trường THPT Bình Phú và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi
hoàn thành nhiệm vụ của mình.

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á


(Association of Southeast Asian Nations)
CGDK : Chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ.
(Coalition Government of Democratic Kampuchea).
IMC : Cuộc gặp gỡ không chính thức về Campuchia.
(Informal Meeting on Cambodia)
JIM : Cuộc gặp gỡ không chính thức ở Jakarta.
(Jakarta Informal Meeting)
PICC : Hội nghị quốc tế Paris giải quyết vấn đề Campuchia.
(Paris International Conference on Cambodia).
SNC : Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia.
(Supereme National Council)
UNHCR: Cao ủy Liên Hợp Quốc về vấn đề người tị nạn.
(United Nations High Commissioner for Refugees).
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước láng giềng của Thái Lan, hai nước cùng nằm trong khu vực
Đông Nam Á thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đều chịu ảnh hưởng lớn của
Phật giáo đồng thời có một nền văn minh nông nghiệp lâu đời và rất phong phú.
Lịch sử của mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam đã chứng
kiến rất nhiều giai đoạn thăng trầm, phức tạp và chịu sự chi phối của nhiều nhân tố.
Hai nước đã từng xảy ra xung đột với nhau, vào thế kỉ XVIII Thái Lan từng đem
quân xâm lược Việt Nam và thất bại dưới tay Nguyễn Huệ. Trong giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, do tranh giành phạm vi ảnh hưởng trong
khu vực, cụ thể là ở Cao Miên và Ai Lao dẫn đến mối quan hệ hai nước nhiều lúc
trở nên rất căng thẳng và thậm chí nhiều lần xung đột với nhau.
Lịch sử đã minh chứng, trong mối quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam có nhiều
vấn đề mâu thuẫn và sự hiểu lầm gây ảnh hưởng xấu không chỉ đến quan hệ giữa
hai nước mà còn ảnh hưởng đến cả khu vực. Trong những năm 60 và 70 của thế kỉ
XX, Thái Lan trở thành đồng minh thân cận của Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam,
không chỉ cho Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình, Thái Lan còn
trực tiếp đưa quân sang tham chiến ở Việt Nam. Giai đoạn 1979 - 1991 mối quan hệ
Thái Lan – Việt Nam trở nên rất căng thẳng xung quanh vấn đề Campuchia. Chính
vấn đề này dẫn đến những mâu thuan, hiểu lầm, ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ hai
nước, tác động không tốt đến sự phát triển của hai nước nói riêng cũng như sự ổn
định và phát triển của cả khu vực Đông Nam Á nói chung.
Lịch sử luôn tôn trọng hiện thực khách quan, tuy không phải hiện thực khách
quan nào cũng phải nói, nhưng khi đã nói cần phải nói đúng hiện thực khách quan.
Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu quá khứ để hiểu thực tại và có cái nhìn viễn minh
cho tương lai. Do vậy, chúng tôi cố gắng tái hiện lại lịch sử sao cho tiệm cận với
hiện thực khách quan để công trình nghiên cứu có giá trị cho thực tiễn.
Hiện nay, hai nước Thái Lan và Việt Nam là thành viên của tổ chức ASEAN
cùng nhau hợp tác để thúc đẩy đất nước phát triển, xây dựng một Đông Nam Á hòa
bình, ổn định và thịnh vượng. Nghiên cứu mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam xung
quanh vấn đề Campuchia sẽ giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học bổ ích, tránh
những yeu tố tiêu cực và sai lầm. Phát huy hơn nữa những yếu tố tích cực nhằm thắt
chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước trong xu thế phát triển chung của khu vực
và thế giới. Vì lợi ích của hai dân tộc, vì ổn định và phát triển trong khu vực. Đặc
biệt, trong hoàn cảnh thế giới và khu vực đang có xu thế hội nhập ngày càng diễn ra
mạnh mẽ, trong đó khối ASEAN đang có những bước tiến nhằm tiến tới hội nhập
sâu rộng hơn.
Riêng bản thân tôi nhận thấy, đây là một nội dung thú vị mà tôi rất quan tâm. Để
có một đất nước Campuchia hòa bình, ổn định và phát triển như ngày nay có sự
đóng góp không ít xương máu của người thân tôi nói riêng và các chiến sĩ Việt Nam
nói chung.
Qua nghiên cứu đề tài này, giúp tôi hiểu biết thêm về vấn đề Campuchia, về đất
nước, văn hoá, con người và lịch sử của Thái Lan và mối quan hệ đầy thăng trầm
của Việt Nam với người láng giềng Thái Lan. Đặc biệt giúp tôi hiểu biết thêm
những vấn đề phức tạp trong các mối quan hệ quốc tế. Qua đó giúp cho quá trình
học tập, nghiên cứu và giảng dạy của tôi đạt kết quả tốt hơn.

2. Lịch sử vấn đề
Luận văn cao học Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai
đoạn 1979 – 1991 được nghiên cứu và viết dựa trên cơ sở chính là các tài liệu gốc
của cả hai phía Thái Lan và Việt Nam.
Các tài liệu gốc phía Việt Nam phản ánh đầy đủ quan điểm, lập trường của Việt
Nam về vấn đề Campuchia cũng như đối với Thái Lan được thể hiện qua các thông
cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Việt Nam, Lào và
Campuchia họp luân phiên hàng năm bắt đầu từ tháng 1/1980 – 8/1986 được đăng
tải đầy đủ trên Báo Nhân dân. Các thông cáo chung đã thể hiện khá rõ lập trường
của Việt Nam về vấn đề Campuchia liên quan đến quan hệ Việt Nam và Thái Lan
như vấn đề người tị nạn, đòi Thái Lan chấm dứt hợp tác với Trung Quốc trong việc
tiếp tay cho Khmer đỏ, xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan, kêu gọi Thái
Lan chấm dứt hành động dung túng cho thế lực Khmer đỏ và việc tìm giải pháp cho
vấn đề Campuchia.
Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam cũng được đề cập một
phần trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả khi nghiên cứu các công
trình khoa học nhưng có ít nhiều liên quan đến vấn đề này. Có thể kể đến, Nguyễn
Tương Lai (2001) với Quan hệ Việt Nam – Thái Lan trong những năm 90, NXB
Khoa học Xã hội – Hà Nội, tác giả đứng trên lập trường của Việt Nam có đề cập
đến vấn đề Campuchia gây tác động không tốt đến quan hệ Việt Nam – Thái Lan
nhưng để hiểu sự tác động do những yếu tố cụ thể nào cần phải nghiên cứu thêm để
làm rõ; Trịnh Diêu Thìn – Thanyathit Sripana (2006) với Việt kiều Thái Lan trong
mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội cũng có đề cập
đến vấn đề Campuchia gây ảnh hưởng không tốt đến chính sách của chính phủ Thái
Lan đối với Việt kiều tại Thái Lan, tuy nhiên đây chỉ là một trong những nhân tố
ảnh hưởng xấu đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam, còn rất nhiều nhân tố khác liên
quan cần phải nghiên cứu. Trong luận văn thạc sĩ đề tài Quan hệ Campuchia – Việt
Nam từ 1985 đến 2006 của Nguyễn Quang Thuần (2007) đứng trên lập trường của
Việt Nam tác giả có đề cập đến vấn đề Campuchia với lập luận không có vấn đề
Campuchia nên chưa thấy được bản chất phức tạp của vấn đề này. Luận án tiến sĩ
Quan hệ Việt Nam – Thái Lan (1976 - 2004) của tác giả người Thái Lan Thananan
Boonwana, đứng trên lập trường của Thái Lan, tác giả có dành một phần nội dung
nói đến vấn đề này. Trong đó tác giả xem việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia
là vấn đề chính ảnh hưởng đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam. Thực tế cần phải
nghiên cứu trên nhiều mặt có cái nhìn đa diện mới hiểu hết tính chất phức tạp của
vấn đề Campuchia cũng như sự tác động cụ thể đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam.
TS. Lê Phụng Hoàng với Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh, tác giả dành trọn chương X để nói về vấn
đề Campuchia trong đó có đề cập đến lập trường, quan điểm của Thái Lan và Việt
Nam xung quanh vấn đề này. Tuy nhiên để làm rõ tác động của vấn đề Campuchia
đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam cần phải nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ thêm
nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ hai nước. Bên cạnh đó còn có một số công
trình khác có đề cập một phần đến vấn đề này như Clack D. Neher and Politic in
Southeast Asia, Rochester; Frederic A Moritz and The refugee people of VietNam,
Chiritian Science Monitor…
Ngoài ra các thông tin về vấn đề Campuchia trong đó thỉnh thoảng có đề cập đến
tác động của vấn đề này trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam có thể tìm thấy qua báo
chí và các phương tiện thông tin như: Bưu điện Bangkok (Bangkok Post), Đài BBC,
The Times, Reuter, Le Matin, Le Figaro, Christian Science Monitor, NewsYork
Times, Newsweek, USIS, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Báo
Nhân dân và các bản dịch của TTXVN trong các tập tài liệu Tham khảo Đặc biệt.
Phần tài liệu gốc phía Thái Lan có thể kể đến Association of Southeast, Joint
Press Release of The first Asean, Ministerial Meeting, Bangkok, 8 August 1967;
Joint Communique of The Second Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 6 – 7 August
1968; Joint Communique of The Third Asean, Ministerial Meeting Cameron
Highlands, 16 – 17 December 1969; Joint Communique of The Fourth Asean,
Ministerial Meeting Manila, 12 – 13 March 1971; Joint Communique of The Fifth
Asean, Ministerial Meeting Singapore, 13 – 14 March 1972; Joint Communique of
The Sixth Asean, Ministerial Meeting Pattaya, 16 – 18 April 1973; Joint
Communique of The Seventh Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 7 – 9 May 1974;
Joint Communique of The Eighth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 13 –
15 March 1975; Joint Communique of The Ninth Asean, Ministerial Meeting
Manila, 24 – 26 June 1976; Joint Communique of The Tenth Asean, Ministerial
Meeting Singapore, 5 – 8 July 1977; Joint Press Release of The Eleventh Asean,
Ministerial Meeting Pattaya, 14 – 16 June 1978; Joint Communique of The Twelfth
Asean, Ministerial Meeting Bali, 28 – 30 June 1979; Joint Communique of The
Thirteenth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 25 – 26 June 1980; Joint
Communique of The Fourteenth Asean, Ministerial Meeting Manila, 17 – 18 June
1981; Joint Communique of The Fifteenrth Asean, Ministerial Meeting Singapore,
14 – 16 June 1982; Joint Communique of The Sixteeth Asean, Ministerial Meeting
Bangkok, 24 – 25 June 1983; Joint Communique of The Seventeenrth Asean,
Ministerial Meeting Jakarta, 9 – 10 July 1984; Joint Communique of The Eiteenrth
Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 9 July 1985; Joint Communique of The
Ninteenrth Asean, Ministerial Meeting Manila, 23 –28 June 1986; Joint
Communique of The Twentienth Asean, Ministerial Meeting Singapore, 15 – 16
June 1987; Joint Communique of The 21st Asean, Ministerial Meeting Bangkok, 4 –
5 July 1988; Joint Communique of The 22nd Asean, Ministerial Meeting Bandar
Seri Begawan, 3 – 4 July 1989; Joint Communique of The 23rd Asean, Ministerial
Meeting Jakarta, 24 – 25 July 1990; Joint Communique of The twenty-fourth Asean,
Ministerial Meeting kuala Lumpur, 19 – 20 July 1991: http://www.aseansec.org.
Đây là các thông cáo chung của Hội nghị cấp Bộ trưởng các nước ASEAN họp luân
phiên diễn ra hàng năm từ 1967 đến 1991 và được xem là loại tài liệu gốc bằng
tiếng Anh hết sức quý giá cho quá trình nghiên cứu. Trong đó có những thông cáo
chung từ năm 1979 – 1991 thể hiện rõ quan điểm, lập trường của Thái Lan nói
riêng, các nước ASEAN nói chung về vấn đề Campuchia cũng như đối với Việt
Nam xung quanh vấn đề này. Các thông cáo cũng đề cập đến những nội dung cụ thể
xung quanh vấn đề Campuchia có tác động đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam như:
Vấn đề người tị nạn, xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan, Thái Lan lên án
Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và
tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Do đó việc tập hợp, đánh giá để hiểu vấn đề là nhiệm vụ cần thiết của người
nghiên cứu. Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả cố gắng sưu tầm tất cả những tài liệu
liên quan trong phạm vi có thể rồi sắp xếp, nghiên cứu nhằm làm rõ hơn vấn đề
Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1991 đồng thời
cũng mong có thể rút ra được những giá trị khoa học phục vụ cho thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm kiểm chứng khả năng học tập và nghiên
cưu của chính tác giả, đây cũng là bài thu hoạch bổ ích kết thúc chương trình đào
tạo sau đại học. Thông qua đây, bản thân tác giả muốn phát huy khả năng nghiên
cứu, tìm tòi và sáng tạo trong nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của mình, thể hiện
việc học và hành gắn liền với nhau. Qua đó giúp tác giả biết thêm được nhiều kiếm
thức bổ ích cho bản thân để phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy của mình. Đề
tài cũng góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ thêm những nội dung liên quan đến vấn
đề Campuchia ảnh hưởng đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn
1979 – 1991 để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm giúp mối quan hệ Thái Lan
và Việt Nam ngày càng phát triển.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là tác động của vấn đề Campuchia đến mối quan
hệ Thái Lan – Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1979 – 1991. Trong đó luận văn
cố gắng làm rõ được những vấn đề mấu chốt để làm nổi bật bản chất của những vấn
đề cần nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở lấy những tài liệu gốc làm cơ sở chính để nghiên cứu và tham
khảo một số công trình khác của các nhà nghiên cứu có liên quan cũng như phỏng
vấn một số nhân chứng từng sống và chiến đấu tại Campuchia. Tác giả muốn
nghiên cứu một cách đa chiều, cố gắng đi sâu vào tìm hiểu bản chất của vấn đề
Campuchia và những tác động đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ 1979 -
1991.
6. Giới hạn đề tài
Để người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về quan hệ Thái Lan – Việt Nam, tác
giả dành Chương 1 để giới thiệu về quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ 1967 – 1979
trong đó có giới thiệu khái quát về quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử và
mối quan hệ Thái Lan –Việt Nam kể từ khi Thái Lan là thành viên của tổ chức
ASEAN (1967) cho đến khi diễn ra vấn đề Campuchia (1979).
Chương 2: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn
1979 – 1986 và Chương 3: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam
giai đoạn 1986 – 1991. Sở dĩ tác giả chọn mốc 1986 để kết thúc Chương 2 và mở
đầu cho Chương 3 bởi chính lúc này thái độ của Thái Lan đối với Việt Nam bắt đầu
thay đổi. Ngược lại, Việt Nam cũng bắt đầu thay đổi thái độ của mình đó là chấp
nhận một giải pháp chính trị cho việc giải quyết toàn diện cuộc xung đột tại
Campuchia. Mốc 1991 là lúc vấn đề Campuchia được giải quyết bằng biện pháp
chính trị với vai trò của Liên Hợp Quốc.
7. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở tài liệu gốc cùng các loại tài liệu
liên quan và các chứng cứ khoa học để tiếp cận đối tượng với mục đích tiệm cận với
hiện thực. Áp dụng phương pháp logic, phương pháp sử học so sánh, phương pháp
định lượng, phương pháp liên ngành, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
nghiên cứu quan hệ quốc tế…Với các kĩ thuật cơ bản như tìm, đọc, phân loại,
nghiên cứu, đánh giá, phân tích và tổng hợp để từ đó rút ra những luận cứ khoa học
có giá trị cho thực tiễn và giáo dục. Việc nghiên cứu chắc hẳn không tránh khỏi
thiếu sót, mong quý thầy cô và các đọc giả đóng góp ý kiến để việc nghiên cứu các
đề tài lần sau đạt kết quả tốt hơn.
8. Bố cục của luận văn
Chương 1 : Khái quát quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1967 – 1979.
Chương 2 : Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai
đoạn 1979 – 1986.
Chương 3 : Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam
giai đoạn 1986 – 1991.

Chương 1
KHÁI QUÁT QUAN HỆ THÁI LAN – VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1967 – 1979

1.1. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử cho đến năm 1967
Để hiểu mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam được sâu sắc hơn chúng tôi xin
điểm qua một vài nét về mối quan hệ hai nước trong lịch sử để thấy được sự thăng
trầm và phức tạp trong quan hệ của hai nước láng giềng này. Thái Lan và Việt Nam
xét về yếu tố địa lý là rất gần gũi nhau, cả hai nước đều có những nét ảnh hưởng
chung của thời tiết, khí hậu và cũng chính từ đó tạo nên những yếu tố văn hoá rất
tương đồng. Hơn nữa xét về nguồn gốc, cư dân hai nước có mối quan hệ rất gần gũi
(nguồn gốc Mônggôlôít Phương Nam) trên lãnh thổ Việt Nam cũng có người Thái
sinh sống và ngược lại. Nói đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam là nói đến một
khoảng thời gian dài với biet bao sự kiện, biến cố thăng trầm trong mối quan hệ
này.
Quan hệ giữa hai nước Thái Lan (lúc đó gọi là Xiêm) – Việt Nam đã có từ rất
lâu đời, theo sách Đại Việt sử kí toàn thư, ở thế kỉ XI dưới thời nhà Lý đã có các
thuyền buôn người Thái đến Vân Đồn dâng phẩm vật để được buôn bán. Trãi qua
nhiều thế kỷ, lịch sử đã chứng kiến mối quan hệ hai nước xảy không ít biến cố.
Trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ giữa
Thái Lan với các chúa Nguyễn ở Đàng trong không ít lần xảy ra xung đột và đụng
độ với nhau. Sau khi nền thống trị của chúa Nguyễn bị phong trào Tây Sơn lật đổ,
nhân cơ hội đó Thái Lan đem quân sang xâm lược Việt Nam nhưng đã bị Nguyễn
Huệ đánh bại trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (1785). Sau khi Nguyễn Anh đánh
bại phong trào Tây Sơn và lập nên triều Nguyễn (1802) mối quan hệ hai nước Thái
– Việt nhìn chung là hòa hiếu nhưng đến cuối thời Minh Mạng và Thiệt Trị hai
nước Thái – Việt thường hay xảy ra xung đột với nhau. Trong những nguyên nhân
dẫn đến xung đột, rất nhiều lần xuất phát từ việc hai bên tranh giành ảnh hưởng với
nhau ở Cao Miên (Campuchia).
Nửa cuối thế kỷ XIX khi Việt Nam bị Pháp xâm lược và áp đặt ách đô hộ thì
mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam về mặt nhà nước xem như tạm thời gián đoạn,
nhưng mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam vẫn diễn ra với nhiều hình thức khác
nhau. Trong khi Thái Lan ra sức học hỏi phương Tây để canh tân đất nước và thực
hiện chính sách ngoại giao rất khôn khéo là lấy nước lớn kiềm chế nước lớn, ngả
theo chiều gió giúp Thái Lan trở thành nước duy nhất ở Đông Nam Á cơ bản vẫn
giữ vững được nền độc lập của mình. Ngược lại, Việt Nam phải ra sức chống lại ách
đô hộ của thực dân Pháp.
Năm 1910 Trại Cày ở Thái Lan chính thức đón nhận hơn 50 thanh niên Việt
Nam du học trong phong trào Đông du bị Nhật trục xuất trở về, ngoài ra còn tiếp
nhận thêm một số thanh niên là dân lao động từ Thượng Hải theo Phan Bội Châu
vào để gây dựng cơ sở. Hoạt động của Phan Bội Châu tại Thái Lan đã được Bộ
trưởng Quốc phòng Komphagia của Thái Lan giúp đỡ khi ông sống ở bản Đông
Phichit trong thung lũng Chaophonaya ở phía bắc Bangkok. Tuy nhiên, năm 1915
Thái Lan kí với Pháp bản cam kết trao trả cho Pháp một số chiến sĩ Việt Nam hoạt
động trong phong trào vận động yêu nước của Việt kiều tại Thái Lan trong đó có
Trần Hữu Lục, Hoàng Trọng Mậu mà sau đó đã bị Pháp giết hại. Phong trào hoạt
động yêu nước của Việt kiều Thái Lan với chi hội Việt Nam Quang phục hội làm
trung tâm rơi vào tình thế hết sức khó khăn tuy vẫn tồn tại nhưng tạm thời lắng
xuống.
Năm 1921 Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Phạm Hồng Thái cũng từ Thái Lan
sang Trung Quốc cùng những người của phong trào Duy Tân ở đây thành lập tổ
chức Tâm Tâm xã. Đến 1925 Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phái người về
Thái Lan tổ chức hội Thân ái nhằm tập hợp kiều bào đoàn kết để giác ngộ cách
mạng. Từ 1926 trở đi, hội Thân ái lần lượt được tổ chức ở Udon là trung tâm của
cuộc vận động Việt Kiều ở Thái Lan, ngoài ra còn có Sakon, Nakhon Phanom. Mối
quan hệ Thái Lan – Việt Nam ở đầu thế kỉ XX còn được thể hiện thông qua những
hoạt động cách mạng của Nguyễn Ai Quốc ở Thái Lan được sự đồng tình ủng hộ
của người Việt Nam ở Thái Lan và một bộ phận nhân dân Thái Lan.
Thực tế trên đất Thái Lan những năm đầu của thế kỉ XX đã có nhiều người
Việt là binh lính của Nguyễn Anh cư ngụ tiếp đó là đồng bào ở các tỉnh Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Trị... do không chịu hợp tác với chính quyền Pháp, một số lo ngại
bị bắt sau các phong trào cách mạng yêu nước cũng vượt biên giới sang Lào rồi đến
Thái Lan. Đồng bào Việt kiều ở Thái Lan lúc đó có khoảng 2 vạn người gồm người
lương nhưng cũng có một số người theo đạo Kito, phần lớn họ có tinh thần yêu
nước và ủng hộ các phong trào như Cần Vương, Duy Tân hoặc Đông Du. Sau khi
các phong trào này thất bại, một số nhà hoạt động yêu nước đã tạm lánh sang Thái
Lan như Ngô Quảng, Thần Sơn, Đặng Tử Kính, Phan Bội Châu mang tư tưởng trú
ngụ ở Thái Lan để chiêu binh rồi về nước đánh Pháp nên chưa có các hoạt động
tuyên truyền và tổ chức kiều bào quy mô như Nguyễn Ai Quốc sau này. Chỉ khi tổ
chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ai Quốc thành lập (6/1925) mới
có chủ trương tuyên truyền và tổ chức kiều bào để làm cơ sở nối liền phong trào
cách mạng trong và ngoài nước. Khi còn hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn Ai Quốc
đã sớm có kế hoạch sang Thái Lan hoạt động nên cử Hồ Tùng Mậu qua đó nắm tình
hình để gây dựng cơ sở ở vùng Đông Bắc Thái Lan mà bản Mạy thuộc tỉnh Nakhon
Phanom (cách Băng Cốc khoảng 600 km về phía Đông Bắc) là căn cứ tiêu biểu.
Khoảng 1928 – 1929 ở Thái Lan, Nguyễn Ai Quốc có tên là Thầu Chín hoạt động
bí mật, giữ kín tung tích đồng thời được bà con Việt Kiều, sư sãi và một bộ phận
nhân dân Thái Lan đùm bọc. Tại Thái Lan, Nguyễn Ai Quốc cho xuất bản tờ báo
Thân ái (trên cơ sở tiền thân là tờ báo Đồng thanh do Đặng Thúc Hứa sáng lập)
nhằm thức tỉnh và kêu gọi tinh thần yêu nước của các kiều bào Việt Nam ở Thái
Lan.
Nguyễn Ai Quốc chủ trương mở rộng tổ chức, củng cố cơ sở cần thiết, tuyên
truyền giáo dục kiều bào, tôn trọng phong tục tập quán và giữ luật pháp của người
Thái, đồng thời làm cho quần chúng Thái Lan có cảm tình với cách mạng Việt
Nam. Ông chủ trương xin chính phủ Thái Lan lập trường học cho con em Việt kiều,
khuyến khích mọi người học tiếng Thái và chữ quốc ngữ. Nhà trường ở Uđon là
trường đầu tiên do chính phủ Thái Lan cho phép xây dựng và sau đó các trường
Việt kiều ở Sakon, Nakhon Phanom cũng lần lượt được xây dựng. Buổi sáng trẻ em
Việt kiều học chữ Thái theo chương trình của của nhà nước Thái và buổi chiều học
chữ quốc ngữ. Các trường học không chỉ thu hút con em người Việt học mà còn thu
hút con em của người Thái vào học ngày càng đông, ông cũng kêu gọi những người
trong cơ quan hợp tác cùng học chữ Thái. Nguyễn Ai Quốc cho rằng, Việt Nam là
thuộc địa bị Pháp cai trị còn Thái Lan là nửa thuộc địa bị Pháp bắt kí nhiều điều ước
bất bình đẳng. Với điều ước bất bình đẳng Lomiađovin mà Pháp bắt chính phủ Thái
Lan kí trong đó có điều khoản quy định người và hàng hoá của Pháp được đưa vào
khoảng 25 km trong đất Thái Lan một cách tự do mà không phải nộp thuế rồi từ đó
họ đi sâu vào nội địa Thái Lan tự do đi lại và cư trú với tiền nộp mỗi năm chỉ có 4
bạt thuế thân. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng khi mới thành lập (6/1925) đã
xác định vai trò và vị trí quan trọng của Thái Lan và Việt kiều ở Thái Lan đối với
cách mạng Việt Nam. Từ 1926 – 1929 các chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên được tổ chức ở những nơi có Việt kiều tập trung tại các tỉnh Đông bắc
Thái Lan với 5 chi bộ.
Trong chiến tranh thế giới thứ II, tiếp tục đường lối ngoại giao ngả theo chiều
gió, luôn thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo có lợi cho mình. Thái Lan trở
thành đồng minh của phát xít Nhật, lãnh thổ Thái Lan trở thành căn cứ quân sự của
Nhật nhằm tiếp tay cho mưu đồ bá chủ châu Á của Nhật. Để phục vụ cho mục đích
chiến lược của mình, phát xít Nhật xây dựng con đường sắt nối Mianma với Thái
Lan băng qua những vùng rưng núi hiểm trở. Ngày 16/9/1942 con đường được khởi
công và hoàn thành ngày 17/10/1943 tại Konkuita (Kanchanbury – Thái Lan) với
chiều rộng khoảng 1m và dài khoảng 415km. Để xây dựng con đường này, phát xít
Nhật với sự ủng hộ của chính phủ Thái Lan đã “sử dụng các tù binh bắt được của
phe Đồng Minh khoảng 68.000 người và khoảng 200.000 dân phu châu Á. Họ phải
lao động vất vã với điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, bị đối xử tàn bạo và thiên
nhiên vô cùng khắc nghiệt, nên khi xây dựng xong con đường có khoảng 16.000 tù
binh bị chết và khoảng hơn 100.000 dân phu châu Á bỏ xác ở đây” [86, tr.12].
Đáng chú ý trong đó có rất nhiều người Việt bị bắt sang đây làm phu và không có
ngày trở lại. Để tưởng nhớ những người đã ngã xuống khi xây dựng con đường này,
hiện nay tại Kanchanabury có nhiều tên đường mang tên nước có người ngã xuống
trong đó có tên VietNam Road.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo nên cục diện mới cho Thái Lan và
Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời phải đương đầu với nhiều khó
khăn để bao vệ thành quả cách mạng bởi sau đó thực dân Pháp trở lại xâm lược và
nhân dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến trường kì (1946 - 1954). Trong
khi đó vì là đồng minh của Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai, Thái Lan rất
hoang mang khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng Minh. Điều làm Thái Lan lo lắng là
phải rút khỏi cuộc chiến như thế nào để khỏi chịu sự trừng phạt của các nước Đồng
Minh. Trước tình hình đó, chính phủ thân Nhật Phibun Xongkhram bị lật đổ
(9/1945) và một chính phủ mới do Seni Pramot, người từ Mĩ trở về đứng đầu
“Phong trào Thái tự do” thành lập. Đây là một chính phủ thân Mĩ nên lợi dụng cơ
hội này Mĩ tiến hành gạt dần sự ảnh hưởng của Anh, Pháp để dần chi phối Thái
Lan. Động thái tạo thiện chí đồng minh của Mĩ là công nhận Thái Lan không phải là
nước đồng minh của phát xít mà là nước bị phát xít Nhật chiếm đóng và cần được
giải phóng.
Tháng 3/1946 phái dân chủ tiến bộ giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử ở
Thái Lan và chính phủ Thủ tướng Priđi Phanomyong được thành lập. Chính phủ
mới đã có những động thái tích cực trong mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam. Chính
sách ngoại giao tích cực của chính phủ Thái Lan là ủng hộ phong trào giải phóng
dân tộc ở Đông Nam Á và đặc biệt có rất nhiều thiện cảm với cách mạng Việt Nam.
Ngày 7/7/1946 quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng kí thư giới thiệu đại diện
chính phủ Việt Nam tại Thái Lan sau đó Cơ quan đại diện chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã hoạt động tại Băng Cốc (từ tháng 8/1946 đến tháng 6/1951).
Chính phủ Thái Lan đã cho Việt Nam đặt cơ quan đại diện tại Băng Cốc và được
hưởng quy chế ngoại giao. Thái Lan còn cho Việt Nam được phép lập phòng thông
tin tại Băng Cốc tạo cho Việt Nam có thêm một con đường liên hệ với thế giới điều
đó có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tháng
1/1948 phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Ngọc Thạch dẫn
đầu sang thăm Thái Lan nhằm thúc đẩy hơn nữa trong moi quan hệ hai nước. Tháng
2/1948 Việt Nam cử 10 cán bộ vượt Trường Sơn sang Băng Cốc để tăng cường cho
cơ quan đại diện và tăng cường mối quan hệ với các đoàn thể quốc tế tại Thái Lan.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam trở nên xấu đi khi
Phibun Xongkhram lật đổ chính phủ của Thủ tướng Priđi Phanomyong. Chính phủ
Phibun Xongkhram trở lại nắm quyền và công khai lập trường chống cộng sản,
công nhận chính quyền Bảo Đại do Pháp lập nên và đặt quan hệ ngoại giao với
chính phủ Bảo Đại ở cấp Đại sứ. Nghiêm trọng hơn, Bộ nội vụ Thái Lan còn cử đại
diện đến gặp đại diện của phụ trách cơ quan phái viên của chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà tại Thái Lan là ông Nguyễn Đức Quỳ để yêu cầu chấm dứt các hoạt
động tuyên truyền chống Pháp trên lãnh thổ Thái Lan. Tháng 12/1951 cơ quan đại
diện của Thông tấn xã Việt Nam ở Băng Cốc phải chấm dứt mọi hoạt động và phải
chuyển sang Rangun (Mianma), sự kiện này nhắc nhở mọi người nhớ lại phong trào
Đông Du khi trước ở Nhật, đây chính là âm mưu về ngoại giao của kẻ thù nhằm cô
lập cách mạng Việt Nam. Chính phủ Thái Lan còn ban hành Luật chống cộng sản
(9/1952) đồng thời tiến hành đàn áp các Việt kiều yêu nước, thu hẹp phạm vi cư trú
của họ và dồn nhiều Việt kiều đến một số đồn điền ở Miền Nam Thái Lan. Trước
tình hình đó, chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ra kháng nghị lên án hành
động khủng bố người Việt của chính phủ Thái Lan.
1954 Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ và rút
quan khỏi Việt Nam, trong khi Thái Lan dần trở thành một đồng minh chiến lược
rất thân cận với Mĩ ở Đông Nam Á. Suốt thời kì Việt Nam chống Mĩ, quan hệ Thái
Lan và Việt Nam là quan hệ thù địch vì ngoài thể chế chinh trị và ý thức hệ khác
nhau, Thái Lan còn là đồng minh thân thiết với kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Thái
Lan rất tích cực giúp đỡ Mĩ, trở thành bàn đạp cho Mĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Chính quyền Thái Lan trong khi không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
nhưng lại công nhận và hợp tác với chính phủ của Bảo Đại và sau đó là Việt Nam
Cộng hoa của Ngô Đình Diệm.
Trong những năm dài Mĩ tiến hành Chiến tranh lạnh với chính sách chống
cộng sản trong khi Thái Lan là đồng minh thân cận của Mĩ nên chịu ảnh hưởng rất
lớn. Giữa Thái Lan – Việt Nam nảy sinh những mâu thuẫn trên nhiều mặt như chính
trị, ngoại giao và quân sự. Dưới tác động đó, chính phủ Thái Lan tiến hành nhiều
chính sách thiếu thiện chí đối với Việt kiều. Ngày 4/6/1957 Thái Lan cử một phái
đoàn đến Sài Gòn nhằm bàn kế hoạch đưa khoảng 40.000 người Việt ở Thái Lan về
Miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, chính phủ Thái Lan còn trục xuất 43. 000 người
Việt Nam đến vùng rừng sâu nước độc ở Kòrạt và việc làm này đồng nghĩa với việc
dồn họ đến chổ chết. Trước thái độ đối xử phân biệt và đàn áp đối với người Việt
của chính phủ Thái Lan, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phản đối mạnh mẽ
đồng thời lên án chính sách khủng bố Việt kiều của chính phủ Thái Lan. Cộng đồng
người Việt tại Thái Lan cũng đoàn kết đấu tranh chống lại âm mưu của chính phủ
Thái Lan trong việc đưa Việt kiều về cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Sự phản đối
và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của bà con Việt kiều buộc chính phủ Thái Lan phải
đồng ý để Hội Chữ thập đỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hội Chữ thập đỏ Thái
Lan kí kết văn bản Hiệp định về vấn đề đưa Việt kiều ở Thái Lan hồi hương
(14/8/1959). Sau gần 5 năm thực hiện hiệp định (1959 - 1964) đã có 75 chuyến tàu
đưa khoảng 45.033 Việt kiều hồi hương đến cảng Hải Phòng nhưng đến 1965 thì bị
tạm hoãn vì lý do máy bay Mĩ oanh tạc Miền Bắc.
Sự ủng hộ của Chính phủ Thái Lan đối với Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam
thể hiện rất rõ bằng cách đưa quân lính Thái Lan sang chiến trường Miền Nam cùng
với lính quân đội Sài Gòn chống lại cuộc chiến đấu thống nhất đất nước của Việt
Nam. Tháng 5/1966 Thái Lan viện trợ cho chính quyền Sài Gòn 2 tàu chiến, 2 máy
bay quân sự để tỏ thái độ thiện chí là đồng minh hết lòng ủng hộ Mĩ trong cuộc
chiến ở Việt Nam. Trong suốt hai thập niên 50, 60 của thế kỉ XX chính phủ Thái
Lan theo đuổi chính sách chống cộng sản làm cho mối quan hệ Thái Lan – Việt
Nam luôn có những mâu thuẫn và đối đầu với nhau.
1.2. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1967 – 1976
Ngày 8/8/1967 Thái Lan cùng Indonexia, Malaixia, Singapo, Philippin thành
lập tổ chức ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) tại Băng Cốc với
mục đích tăng cường liên kết nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội,
phát triển văn hóa, tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn
định trong khu vực và hợp tác để tạo thêm sức mạnh nhằm tránh sự chi phối của các
nước lớn. Quan hệ giữa các nước ASEAN hình thành các nguyên tắc có đi có lại,
không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí và giữ gìn
đoàn kết cũng như bản sắc chung của tổ chức. Tuy vậy, Thái Lan vẫn theo đuổi
chính sách ủng hộ Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam với nhiều mục đích trong đó có
quyền lợi sát sườn là tranh thủ sự ủng hộ của Mĩ để xây dựng và phát triển đất
nước. Thực tế, tiền viện trợ của Mĩ đổ vào Thái Lan tăng lên hàng năm đặc biệt là
khi Mĩ càng dính sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Cụ thể, “1950 – 1956 là 17.5
triệu đôla thì trong thời gian 1957 – 1965 là 36.75 triệu. Nhưng đáng chú ý là sau
1965, khi Thái Lan tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam con số này tăng rất
nhanh: 1966 – 50 triệu đôla, 1967 – 77 triệu, 1968 – 100 triệu” [77, tr. 138]. Đến
1969 con số viện trợ đã lên tới 278 triệu đô la. Mặt khác, Thái Lan cũng muốn
thông qua Mĩ để cản phá ý thức hệ cộng sản từ Việt Nam vì sợ đến một lúc nào đó
sẽ lan sang nước mình. Trong chính sách đối nội, Thái Lan tiếp tục đàn áp các Việt
kiều nghi ngờ có mối quan hệ mật thiết với cộng sản Việt Nam. Chính phủ Thái Lan
tiếp tục sử dụng những chính sách cứng rắn đối với cộng đồng người Việt Nam tại
Thái Lan vì cho rằng, một số Việt kiều theo cộng sản và liên kết với cộng sản Thái
Lan để chống lại chính phủ Thái Lan nên họ kiểm soát rất gắt gao và các cuộc bắt
bớ thường xảy ra khi có sự tình nghi. A. Sripan – một phóng viên của tờ Bưu điện
Thái Lan (Bangkok post) đã từng phỏng vấn mẹ mình – bà Supap Spicer sinh tại
Ubon, một nhân chứng từng sống và chứng kiến xã hội Thái Lan trong những năm
chiến tranh xảy ra Việt Nam nói về cảm nghĩ thật của bà cũng như cảm nghĩ chung
của người dân Thái Lan. Bà cho rằng, “đa số người dân trong khu vực bà sinh sống
đều có cách nghĩ không thiện cảm với Việt cộng Việt Nam thông qua lời tuyên
truyền của chính phủ. Các cuộc biểu tình của người Việt ở vùng Đông Bắc Thái
Lan phản đối chính phủ Thái Lan tham chiến ở Việt Nam và sự hiện diện của quân
đội Mĩ ở Thái Lan nhưng đã bị chính phủ Thái Lan dùng vòi rồng và các phương
tiện trấn áp. Thái độ của người dân Thái Lan với người Việt ở Thái Lan cũng trở
nên ngày càng xa lấn” [102, tr.1]. Sau khi chứng kiến cả một giai đoạn lịch sử bà
Supap Spicer đi đến kết luận “đa số người dân đều bị chính phủ lừa dối về chiến
tranh Việt Nam và Việt cộng cũng không bị cô lập, không đe doạ đến chủ quyền
Thái Lan như bà và mọi người từng nghĩ trước đây” [102, tr.2].
Thực tế Mỹ đã viện trợ quân sự cho Thái Lan đồng thời xây dựng trên đất Thái
Lan nhiều căn cứ quân sự để phục vụ cho cuộc chiến của mình ở Việt Nam, trong
đó xây dựng 6 sân bay quân sự là Utapao, Tacli, Khorat, Ubon, Nakonphanom và
Uđontali. Một phần các máy bay chiến lược và chiến thuật của Mĩ cất cánh ở đây
sang bắn phá miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ
nhất (1965 - 1968), lần thứ hai (1969 - 1972). Nghiêm trọng nhất là trong 12 ngày
đêm cuối 1972 máy bay Mĩ đã gây biết bao đau thương và mất mát cho nhân dân
Việt Nam. Quân Mỹ đóng ở Thái Lan lúc đong lên đến 58.000 người (1969) bao
gồm 45.000 phi công và nhân viên phục vụ, 12.000 lính bộ binh và 1000 lính hải
quân.
Ngoài ra, Thái Lan còn trở thành trung tâm giải trí cho quân Mĩ đồn trú ở Việt
Nam sau khi đánh trận xong. Để đáp ứng cho nhu cầu vui chơi của lính Mĩ và thu
nguồn lợi từ dịch vụ này, các vùng xa xôi ở Miền Bắc Thái Lan, thuốc phiện đã
được trồng để phục vụ cho nhu cầu cua lính Mĩ. Bên cạnh đó lĩnh vực “công nghiệp
mại dâm” được chính phủ Thái Lan khai thác tối đa trong nhu cầu phục vụ cho lính
Mĩ để thu lợi. Trong những năm 60 – 70 trung bình có khoảng 4,3 triệu người Thái
Lan ở Băng Cốc và những nơi khác của Thái Lan phục vụ trong các trung tâm giải
trí giành cho quân đội Mĩ. Ngành công nghiệp giải trí giúp cho bộ mặt một số vùng
quê ở Thái Lan đặc biệt ở vùng Đông Bắc có sự chuyển mình rất mạnh mẽ trong
việc đi lên theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề thuốc phiện và mại dâm
cũng gây ra những hệ luỵ cho Thái Lan sau khi quân Mĩ rút khỏi Việt Nam. Nạn
nghiện thuốc và đại dịch AIDS phát triển trong những năm 80 để lại hệ luỵ rất lớn
cho chính sách thu lợi vội vàng và thiếu trách nhiệm xã hội của chính phủ Thái Lan.
Từ năm 1966 đến 1972 Thái Lan đã đưa sang Miền Nam một sư đoàn và một
trung đoàn với quân số gần 14.300 quân. Trong đó bao gồm, 12.000 lính thuộc quân
đoàn Báo đen và 2.300 lính thuộc sư đoàn Rắn hổ mang sau đó tăng lên 5.000 quân
(1968). Trong thời gian Thái Lan tham chiến tại Việt Nam, rất nhiều phong trào
biểu tình của nhân dân phản đối chính phủ và đòi rút quân về nước. Đặc biệt, từ
năm 1965 Mặt trận yêu nước Thái Lan xuất hiện với chủ trương đấu tranh vũ trang
chống chế độ độc tài quân sự. Các phong trào đấu tranh du kích nổ ra ở nhiều nơi
nêu khẩu hiệu chống Mĩ, cải thiện dân sinh và dân chủ. Phong trào du kích còn có
hành động ủng hộ cách mạng Việt Nam, tiêu biểu là sự kiện họ tấn công vào sân
bay Uđontani (8/1968) nhằm phản đối Mĩ dùng không quân phá hoại Việt Nam.
Sau thất bại trong Chiến tranh cục bộ Mĩ chuyển sang chiến lược “Việt Nam
hoá chiến tranh” đồng thời cho rút dần quân Mĩ về nước. Trong khi đó, dưới áp lực
của phong trào đấu tranh của nhân dân cũng buộc Thái Lan rút dần quân của mình
về nước. Tháng 8/1970 Thái Lan bàn đến việc rút quân và đến tháng 4/1972 thì rút
toàn bộ quân Thái Lan khỏi Việt Nam.
Rõ ràng, mặc dù chính phủ Thái Lan thực hiện đường lối đối ngoại thân Mĩ
và tham chiến ở Việt Nam gây ra những hành động làm tổn thương rất lớn mối quan
hệ giữa hai nước. Trong chính sách đối nội, chính phủ Thái Lan tiếp tục đàn áp các
Việt kiều yêu nước và cưỡng ép họ về Miền Nam Việt Nam vi phạm nghiêm trọng
Hiệp ước đã kí kết năm 1959, phớt lờ sự phản đối của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam
và quốc tế. Để biện hộ cho hành động đó của mình, chính phủ Thái Lan cho rằng,
sở dĩ họ làm vậy là lo sợ lực lượng cộng sản Việt Nam xâm nhập vào Thái Lan
thông qua cộng đồng người Việt sống ở vùng Đông Bắc Thái Lan và đe doạ an ninh
của họ. Thái độ của giới cầm quyền Thái Lan với cái nhìn phiếm diện và cực đoan
đối với những người cộng sản Việt Nam một phần là do sức ép từ bên ngoài. Nhà
chính trị học Thái Lan Kthirarit từng nhận xét: “Kể từ chiến tranh thế giới thứ II ,
Thái Lan và Mỹ chia sẻ tư tưởng về mối đe dọa của Chủ nghĩa Cộng sản. Yếu tố đó
trở thành hòn đá tảng của các quan hệ Mỹ – Thái Lan”[83, tr.228-229].
Trong lịch sử quan hệ Thái Lan – Việt Nam đã có những mâu thuẫn và đến
giai đoạn này mâu thuẫn được đẩy lên một bước mới mang tính chất thời đại và suy
cho cùng vẫn là xuất phát từ sự tranh chấp ảnh hưởng giữa hai cường quốc Xô – Mĩ
mà trong đó những nước nhỏ như Việt Nam và Thái Lan khó tránh khỏi vòng xoáy
của sự tác động. Trong đó việc chọn lựa hướng đi phụ thuộc vào đặc điểm riêng của
từng nước. Ảnh hưởng này không chỉ riêng một nước nào đó nhằm thoả mãn khát
vọng mở rộng bờ cõi, đất đai như trong thời phong kiến mà chính là ảnh hưởng của
ý thức hệ trong đó mỗi nước đứng ở mỗi bên chiến tuyến đối địch với nhau. Không
thể phủ nhận trong lịch sử mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam có những lúc hoà hiếu
nhưng thời gian mâu thuẫn căng thẳng cũng không ít. Ngay trong lịch sử Thái Lan
khi giảng dạy ở nhà trường khi đề cập đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam cũng chỉ
đề cập đến những cuộc chiến giữa hai nhà nước Xiêm La – Đại Việt.
Trong thời kì Chiến tranh lạnh, các sách báo và phương tiện thông tin đại
chúng của Thái Lan luôn tô vẽ một cách thái quá về chủ nghĩa cộng sản, họ gây cho
người Thái tâm trạng lo sợ về cái gọi là “hiểm hoạ cộng sản” từ Việt Nam sẽ lan
sang Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã thành công phần nào trong việc đưa quần
chúng nhân dân Thái Lan có cái nhìn không thiện cảm với Việt Nam để biện hộ cho
những hành động của họ. Để dân Thái tin rằng, việc Thái Lan trở thành căn cứ quân
sự của Mĩ và Thái Lan trực tiếp đưa quân tham chiến tại Việt Nam là một điều cần
phải làm vì an ninh và chủ quyền của Thái Lan. Tất cả những hiểu biết của dân
chúng chỉ là mối lo về anh ninh của Thái Lan đang bị Chủ nghĩa Cộng sản ở Việt
Nam đe doạ.
Về phía Việt Nam do phải tập trung toàn bộ sức người, sức của cho cuộc
kháng chiến chống Pháp trước đó và sau đó là cuộc kháng chiến chống Mĩ nên tất
yếu không có thời gian tìm hiểu nhiều về Thái Lan. Việc tìm hiểu tuy còn hạn chế
nhưng cũng đủ cho người Việt Nam nhận ra rằng, chính sách thù địch của chính
quyền Thái Lan với vị trí là đồng minh đắc lực của Mĩ tại Đông Nam Á, sự ủng hộ
cuộc chiến của Mĩ tại Việt Nam sẽ giúp chính phủ Thái Lan nhận thêm được nhiều
đồng dollar viện trợ và nhiều đơn đặt hàng của Mĩ. Trong khi người dân Thái Lan
thì hoàn toàn bị bưng bít trước những chính sách tuyên truyền tinh vi của chính
phủ.
Các máy bay Mĩ xuất phát từ các căn cứ quân sự của Thái Lan sang ném
bom Việt Nam và sự hiện diện của quân đội Thái Lan tại Việt Nam cùng với mâu
thuẫn về thể chế chính trị Tư bản chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa nên lúc bấy giờ
Thái Lan cũng coi Việt Nam là kẻ thù nguy hiểm của mình và ngược lại. Đây chính
là nguyên nhân chính dẫn đến những nghi ngờ và trở ngại cho quan hệ giữa Thái
Lan và Việt Nam sau này. Sau khi Mĩ thất bại tại Việt Nam và rút quân, Thái Lan
rất lo sợ về một cuộc trả thù của Cộng sản Việt Nam đối với mình.
Trong những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, Thái Lan gặp rất nhiều
khó khăn về chính trị và kinh tế. Giai đoạn này Thái Lan thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội trong điều kiện rất khó khăn, đầu tư nước ngoài vào Thái Lan
giảm sút, viện trợ kinh tế của Mĩ giảm đi trông thấy, khủng hoảng năng lượng thế
giới ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế Thái Lan làm đời sống nhân dân giảm sút nghiêm
trọng. Nhân dân Thái Lan cho rằng, những hậu quả trên do chính phủ độc tài quân
sự thực hiện chính sách đối ngoại thân Mĩ gây ra. Thêm vào đó là thất bại của Mĩ ở
Việt Nam càng có dịp để phong trào chống đường lối theo đuôi Mĩ của chính phủ
Thái Lan bùng nổ. Từ tháng 10/1973 đã có một cuộc nổi dậy mạnh mẽ của học sinh
– sinh viên Thái Lan nổ ra đòi quyền dân chủ, đòi cải cách kinh tế, chính trị, giáo
dục và xét lại chính sách đối ngoại thân Mĩ. Phong trào này đã được đông đảo các
tầng lớp nhân dân ủng hộ dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ độc tài quân sự chấm dứt
thời kì thống trị của các tướng lĩnh quân sự kéo dài hơn một phần tư thế kỉ. Một
chính phủ dân sự được lập nên do giáo sư Sania Thamasac làm thủ tướng tạo một
không khí chính trị cởi mở hơn ở Thái Lan. Chính phủ mới của Thái Lan không thể
phớt lờ lời kêu gọi của học sinh và sinh viên Thái Lan trong việc điều chỉnh đường
lối ngoại giao đối với Việt Nam nói riêng và ba nước Đông Dương nói chung. Một
luồng tư tưởng mới xuất hiện là Thái Lan cần phải học cách sống chung với các
nước láng giềng dù cho họ có theo thể chế cộng sản chứ không nên có thái độ thù
địch với họ. Điều này một lần nữa chứng tỏ sự linh hoạt của Thái Lan trong chính
sách đối ngoại của mình với đặc điểm cơ bản của chính sách đối ngoại thể hiện sự
mềm dẻo và linh động không mất lòng ai hay ngả theo chiều gió.
Ngày 19/3/1975 trước khi Miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, Thủ
tướng Thái Lan Seni Pramot đã tuyên bố “Chính phủ Thái Lan sẽ xúc tiến quan hệ
ngoại giao với các nước láng giềng, tích cực ủng hộ mọi hợp tác trong các lĩnh vực
ngoại giao với các nước ASEAN, đồng thời tăng cường nổ lực tìm kiếm, móc nối
quan hệ với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”[73, tr.72]. Đây là một động thái
chứng tỏ sự thay đổi trong chính sách ngoại giao của Thái Lan đối với Việt Nam. Ở
đây không chỉ đơn thuần là sức ép từ dư luận trong nước mà thực tế Thái Lan thấy
được sự thất bại của Mĩ ở Việt Nam đã đến gần và một Việt Nam thống nhất tất yếu
sẽ do Cộng sản kiểm soát với tiềm lực quân sự có thể xem là mạnh nhất Đông Nam
A lúc bấy giờ nên việc tiếp tục giữ thái độ thù địch như trước kia là không có lợi
cho Thái Lan. Thái Lan bắn tiếng muốn nối lại quan hệ bình thường với Việt Nam
rõ ràng là có lợi cho Thái Lan trong việc tạo sự ổn định trong và ngoài nước để tập
trung giải quyết bầu không khí chính trị phức tạp ở nước mình, đồng thời xốc dậy
nền kinh tế đang trên đà suy thoái và mở ra cơ hội làm ăn trong tương lai cho Thái
Lan với khu vực Đông Dương đầy hứa hẹn.
1.3. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1976 – 1979
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam ra đời và nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam là làm sao mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế để tranh thủ sự ủng hộ trong việc hàn gắn vết thương chiến
tranh quá lớn. Việt Nam tích cực tham gia Hiệp ước Bali (2/1976) nhằm thể hiện
thiện chí của mình trong việc bắt tay hợp tác với các nước trong khu vực. Mặt khác,
không thể phủ nhận vai trò to lớn của Thái Lan trong tổ chức ASEAN với chủ
trương hướng tới việc xây dựng một Đông Nam Á hoà bình, ổn định, hợp tác và
phát triển.
Trong khối ASEAN, Thái Lan là nước không chỉ gần gũi với Việt Nam về
mặt địa lý mà còn về lịch sử, văn hoá, xã hội và phong cách làm ăn truyền thống.
Thái Lan và Việt Nam còn có chung khí hậu nhiệt đới gió mùa và có một nền văn
minh nông nghiệp rất phong phú. Trong quá trình phát triển văn hoá, hai nước có
nhiều yếu tố rất tương đồng. Ngoài ra, Thái Lan có cả giai đoạn dài xây dựng và
phát triển đất nước nên những kinh nghiệm đó Việt Nam có thể học hỏi để áp dụng
có chọn lọc phù hợp với điều kiện Việt Nam nhằm thu ngắn khoảng cách với các
nước trong khu vực.
Chiến tranh Việt Nam kết thúc không chỉ có Thái Lan điều chỉnh lại chính
sách ngoại giao cho phù hợp mà chính Việt Nam cũng phải điều chỉnh lại chính
sách ngoại giao của mình cho phù hợp với xu thế và nguyện vọng chung của khu
vực và thế giới nhằm tiến tới hoà bình, hợp tác cùng phát triển trong khu vực.
Những thiện chí hợp tác của Việt Nam dần đánh tan đám mây nghi ngờ của Thái
Lan và một số các nước khác trong khu vực. Để khẳng định điều đó, ngày 5/7/1976
Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh ra tuyên bố 4 điểm về đối ngoại
của chính phủ Việt Nam gồm có “Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của các nước; Cam kết không để lãnh thổ của mình cho bất kì nước
ngoài nào sử dụng để chống lại nước khác; Thiết lập quan hệ láng giềng tốt đẹp,
hợp tác kinh tế, trao đổi văn hoá với các nước; Ra sức hợp tác nhiều mặt với các
nước.”[73, tr.69]. Tiếp đó là chuyến thăm của phái đoàn ngoại giao Việt Nam sang
các nước ASEAN (1/1976) trong đó có Thái Lan.
Những tuyên bố trên của Việt Nam làm Thái Lan phần nào yên tâm Việt
Nam sẽ không trả đũa về quân sự đối với những hành động mà họ gây ra cho Việt
Nam trong quá khứ. Như vậy, cả Việt Nam và Thái Lan đều gặp nhau ở một điểm là
mong muốn thiết lập mối quan hệ láng giềng thân thiện để có điều kiện hợp tác
nhằm thúc đẩy đất nước phát triển. Tuy nhiên, không phải tất cả những mâu thuẫn
và mối nghi ngờ giữa hai bên trong ngày một, ngày hai có thể hoàn toàn bị xoá bỏ
nên hai bên đã có những bước đi rất dè chừng và thận trọng đối với nhau.
Sau khi Việt Nam thống nhất đất nước, Thái Lan chủ động mời một phái
đoàn ngoại giao Việt Nam sang thăm Thái Lan. Nhận lời mời, ngày 22/5/1975 phái
đoàn Bộ Ngoại giao Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền đẫn đầu
sang thăm Thái Lan và đàm phán với Thủ tướng Thái Lan Seni Pramot để dọn
đường cho việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao giưa hai nước. Đối với Thái Lan,
sự khác biệt về ý thức hệ cũng quan trọng nhưng không phải là nhân tố quyết định
tất cả trong đường lối ngoại giao của họ. Nếu nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong
đường lối đối ngoại của Thái Lan thì cái bất biến đó là quyền lợi quốc gia – dân tộc
và cơ hội để phát triển đất nước, để thực hiện cái bất biến đó phương pháp thực hiện
của họ rất vạn biến. Điều đó dễ dàng nhận thấy trong chiến tranh Việt Nam, Thái
Lan trở thành đồng minh chiến lược của Mỹ để kiếm những món lợi và những
khoản viện trợ béo bở. Ngược lại khi Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc chiến
tranh, Thái Lan đã chủ động xích lại gần Việt Nam để tạo sự ổn định trong khu vực
nhằm giúp Thái Lan có điều kiện tốt trong phát triển kinh tế. Đặc biệt khi Thái Lan
thấy thị trường Đông Dương thực sự có nhiều hứa hẹn cho sự đầu tư phát triển của
kinh tế Thái Lan.
Trong quá trình tiến tới bình thường hóa quan hệ Thái Lan – Việt Nam hàng
loạt vấn đề mà hai bên đưa ra đàm phán có một số vấn đề còn gây tranh cãi chưa
thống nhất được là vấn đề Việt kiều tại Thái Lan. Vấn đề Việt kiều vẫn luôn là một
trọng tâm đem ra bàn bạc giữa hai chính phủ và có tác động rất lớn đến mối quan hệ
của hai nước. Tuy lúc này, mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam được cải thiện và
chính sách của chính phủ Thái Lan đối với Việt kiều có phần nới lỏng nhưng vấn đề
cơ bản như việc cấp thẻ căn cuớc, hay cho phép nhập quốc tịch vẫn chưa được sửa
đổi. Chính phủ Thái Lan cho dù qua nhiều đời Thủ tướng vẫn không có cái nhìn
thực sự thiện cảm với Việt kiều. Công bằng mà nói, cộng đồng người Việt ở Thái
Lan đã có những đóng góp nhất định vào công cuộc xây dựng cho xã hội Thái Lan
đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và văn hoá. Tuy vậy, Việt kiều tại Thái Lan vẫn
mang mặc cam, thiếu tin tưởng vào chính sách của chính phủ Thái Lan. Một vấn đề
khác cũng không kém phần gay cấn là Việt Nam đòi Thái Lan bàn giao những máy
bay, tàu chiến, quân trang, quân dụng và vũ khí do ngụy quyền Sài Gòn cất dấu ở
các kho của Thái Lan. Thái Lan đề nghị việc giải quyết vấn đề Việt kiều cần phải có
thời gian còn những phương tiện chiến tranh mà nguỵ quyền Sài Gòn cất giấu ở
Thái Lan thì không thể trả lại cho Việt Nam được vì cả Mĩ và Việt Nam đều tuyên
bố có quyền sở hữu nên Thái Lan rất khó xử. Thái Lan nhận trông coi cẩn thận số
tài sản này và chỉ trả lại khi có sự nhất trí giữa phía Mĩ và Việt Nam. Một vấn đề
nữa cũng tranh luận không kém phần gay cấn là Việt Nam đòi Thái Lan phải bồi
thường chiến tranh vì đã cho Mĩ sử dụng Thái Lan làm căn cứ quân sự để máy bay
Mĩ ném bom phá hoại Việt Nam. Trong khi Thái Lan cho rằng, sở dĩ Thái Lan là
như vậy bởi vì Việt Nam từng ủng hộ Đảng Cộng sản Thái Lan. Những vấn đề trên
tranh luận hết sức gay cấn, cuối cùng hai bên đi đến nhất trí gác lại những vướng
mắc không nên để ảnh hưởng đến việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa
hai nước bởi vì đây chính là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề từ trước đến nay
một cách bài bản và theo hướng tích cực hơn.
Với những cố gắng của hai chính phủ trong việc từng bước tiến tới bình
thường hóa quan hệ, ngày 6/8/1976 Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan Phichay
Rattacun tới Hà Nội cùng hội đàm với Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy
Trinh. Hai bên cùng kí Hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Vương quốc
Thái Lan và Cộng hoà XHCN Việt Nam. Hiệp định này có một ý nghĩa rất quan
trọng thể hiện quyết tâm và thiện chí của hai nước trong việc tạm gác lại những bất
đồng để hướng tới xây dựng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai bên. Tuy
vậy, Thái Lan vẫn còn dè chừng bởi vì những nghi kị về Cộng sản Việt Nam của
chính phủ Thái Lan mà đặc biệt là giới quân sự không thể ngày một, ngày hai có thể
dễ dàng xoá bỏ được. Tuy nhiên việc kí kết hiệp định thiết lập quan hệ ngoại Thái
Lan – Việt Nam là một sự kiện đáng khen ngợi và cần phát huy. Mặc dù tính mong
manh của hiệp định này không phải là không có vì thực tế lúc đó tình hình chính trị
của Thái Lan là rất rối ren và phức tạp.
Ngày 6/10/1976 đúng hai tháng sau khi Hiệp ước thiết lập quan hệ ngoại
giao Thái Lan và Việt Nam được kí kết, phái quân sự tiến hành đảo chính lật đổ
chính quyền dân sự của thủ tương Seni Pramot đồng thời đưa Thanim Krayvichien,
một người không mấy thiện cảm về cộng sản lên làm thủ tướng Thái Lan. Hiệp định
thiết lập quan hệ ngoại giao Thái Lan – Việt Nam đi vào thực tế chưa bao lâu đã có
nguy cơ bị phá vỡ. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam một lần nữa có nguy cơ trở nên
bế tắc và căng thẳng. Tuy nhiên, năm 1977 thủ tướng mới của Thái Lan Kriangsak
Chomanan có chính sách đối ngoại mềm dẻo theo truyền thống đối ngoại của Thái
Lan. Ngoài việc tăng cường mối quan hệ với cả ba cường quốc Mĩ – Liên Xô –
Trung Quốc, ông còn có những động thái tích cực trong việc thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam mà chính quyền Seni Pramot đã đặt nền tảng cơ sở. Không
những thế, quan hệ ngoại giao của Thái Lan và Việt Nam thời kì này được nâng lên
một bước mới với việc các cán bộ ngoại giao cấp cao của hai bên gặp gỡ và trao đổi
nhiều vấn đề hợp tác. Đặc biệt, ngày 28/9/1977 tại trụ sở của Liên Hợp Quốc, Ngoại
trưởng Thái Lan Uppađi Pcharigiankun đã có cuộc gặp gỡ và hội đàm với Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh. Hai bên nhất trí sẽ thiết lập quan
hệ ngoại giao thông qua sứ quán của hai chính phủ tại Viêng Chăn (Lào). Sau đó
liên tiếp có nhiều cuộc gặp gỡ của phái đoàn ngoại giao hai bên tại Viêng Chăn
(Lào).
Ngày 2/12/1977 Thái Lan và Việt Nam tuyên bố thông cáo chung về bình
thường hoá quan hệ ngoại giao Thái Lan – Việt Nam. Ngày 13/12/1977 nhận lời
mời của chính phủ Thái Lan, phái đoàn ngoại giao Việt Nam do ông Nguyễn Xuân
dẫn đầu sang thăm Thái Lan nhằm bàn thảo về việc chuẩn bị địa điểm đặt Sứ quán
Việt Nam tại Băng Cốc.
Với những bước đi tích cực của hai bên đã tạo ra những điều kiện tích cực
cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước. Ngày 27/12/1977 Thứ trưởng Bộ giao
thông vận tải Thái Lan sang thăm Việt Nam nhằm chuẩn bị cho việc kí kết Hiệp
định về hành không giữa hai nước. Ngày 9/1/1978 Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Duy Trinh cũng chính thức sang thăm Thái Lan, sau hai ngày đàm phán,
hai bên đã đi đến quyết định chính thức đặt Đại sứ quán Thái Lan tại Hà Nội và
ngược lại là sứ quán Việt Nam tại Băng Cốc. Hai bên ký hai hiệp định quan trọng là
Hiệp định thương mại – hợp tác kinh tế – khoa học kĩ thuật và Hiệp định hàng
không. Tháng 9/1978 mối quan hệ tiến triển tốt đẹp giữa Thái Lan – Việt Nam được
đánh dấu bằng chuyến thăm Thái Lan của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng.
Trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Kriangsak Chomanan và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng, hai bên đã thống nhất được một số vấn đề quan trọng đồng thời thúc đẩy
quan hệ hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, giao thông –
vận tải, thương nghiệp, khoa học – kĩ thuật…
Tuy nhiên từ cuối 1978 đầu 1979 xung đột giữa lưc lượng Polpot và Việt
Nam ngày càng mở rộng và sau đó Việt Nam đưa quân sang Campuchia giúp đỡ
nhân dân Campuchia tiêu diệt lực lượng Polpot, đồng thời Thái Lan thực hiện
những hành động giúp đỡ tàn quân Polpot làm cho mối quan hệ Thái Lan – Việt
Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng và diễn biến theo chiều hướng rất xấu. Những
bước đi chập chững dần thiết lập quan hệ hợp tác tốt đẹp của hai nước đã bị phá
sản, thay vào đó là mối quan hệ căng thẳng và nghi kị lẫn nhau. Điều đó không chỉ
ảnh hưởng xấu đến quan hệ hai nước mà còn cả khu vực Đông Nam Á.
TIỂU KẾT.
Mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử đã chứng minh cho chúng ta
thấy tính chất phức tạp và chịu tác động bởi nhiều yếu tố dẫn đến mối quan hệ của
hai nước láng giềng này diễn ra rất thăng trầm. Nếu ví mối quan hệ Thái Lan – Việt
Nam như một biểu đồ thì đó chính là biểu đồ hình Sin để chỉ mối quan hệ không ổn
định của hai nước. Chính sách đối ngoại của Thái Lan từ trước đến nay cho dù qua
các đời thủ tướng có những phương pháp thực hiện khác nhau, nhưng truyền thống
đối ngoại mềm dẻo vẫn không mất đi. Thái Lan biết lựa chiều để hạn chế tối đa
những bất lợi nhằm phát huy cái có lợi, tất cả đều hướng tới mục tiêu xây dựng và
phát triển đất nước phồn thịnh. Cái hay trong chính sách của Thái Lan ở chỗ, họ cố
gắng tìm đủ mọi cách để đất nước không bị cuốn vào những điểm nóng trước tình
hình thế giới luôn diễn biến phức tạp. Nếu một số nước trên thế giới tự hào vì mình
đã đánh thắng được những đế quốc, phát xít lớn thì người Thái cũng có cái tự hào
riêng của họ vì không phải đánh nhau ác liệt với đế quốc, phát xít nào cả và tất
nhiên trong đó người được lợi nhất vẫn là nhân dân vì không phải hy sinh nhiều
xương máu.
Trong giai đoạn Việt Nam chống Pháp, mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam đã
có thời kỳ tiến triển rất tốt, Thái Lan đã từng có thiện chí giúp đỡ khi cho Việt Nam
thiết lập cơ quan đại diện ngoại giao trên đất nước họ (1946 - 1951). Nhưng rồi vì
quyền lợi của đất nước mình, Thái Lan đã hy sinh mối quan hệ với người láng giềng
nhỏ để bắt tay với đế quốc Pháp và trục xuất cơ quan đại diện ngoại giao của chính
phủ Việt Nam khỏi Thái Lan đồng thời công nhận chính phủ Bảo Đại do Pháp lập
nên. Dễ dàng nhận thấy hành động của Thái Lan khi bắt tay với Pháp, Thái Lan sẽ
được lợi nhiều hơn là thiết lập mối quan hệ thân thiện với Việt Nam – nước đang
trong tình trạng chiến tranh và nghèo khổ.
Đến giai đoạn Việt Nam chống Mĩ, một lần nữa vì quyền lợi của đất nước
mình Thái Lan lại thực hiện chính sách đối ngoại thân Mĩ, tiếp tay cho Mĩ trong
cuộc chiến tại Việt Nam. Vấn đề Thái Lan tiếp tay cho Mĩ chống lại cuộc chiến đấu
của nhân dân Việt Nam có rất nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, Thái Lan là nước quân
chủ nhưng xây dựng đất nước theo con đường TBCN, trong khi Việt Nam lại quyết
tâm xây dựng đất nước theo con đường XHCN đó chính là sự khác biệt rất lớn về ý
thức hệ chính trị. Thứ hai, trong khi giai đoạn 1954 – 1975 thế giới đang trong thế
hai cực đối đầu nhau kịch liệt, tùy theo mức độ, điều kiện, các nước nhỏ như Thái
Lan, Việt Nam khi đã xác định thể chế chính trị trong con đường xây dựng đất nước
chắc hẳn không thể nào tránh khỏi sự chi phối của các nước lớn. Do vậy khi Thái
Lan chọn thiết lập quan hệ thân thiện với Mĩ thì không thể nào có mối quan hệ tốt
đẹp với Việt Nam được khi mà hai nước Việt – Mĩ xem nhau là kẻ thù trực tiếp.
Thứ ba, khi trở thành đồng minh của Mĩ sẽ giúp Thái Lan có được những khoản
viện trợ lớn để đầu tư phát triển đất nước, sẽ được Mĩ đảm bảo về an ninh để yên
tâm phát triển kinh tế. Thái Lan thường biết lựa chiều, họ luôn cố gắng lựa chọn
nhằm đem lại cho họ nhiều quyền lợi và giảm thiểu thiệt hại nhất khi đứng trước
những lựa chọn mang tính quyết định.
1975 Sau khi Việt Nam kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ, Thái
Lan là người chủ động đánh tiếng muốn nối lại quan hệ với Việt Nam. Một lần nữa
Thái Lan lại có sự lựa chọn khôn khéo trong chọn bên để hợp tác có lợi cho mình.
Mĩ đã thất bại, rút quân đồng thời các khoản viện trợ cũng bị cắt giảm. Việc bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam sẽ giúp Thái Lan tạo được sự ổn định trong khu
vực để tập trung phát triển kinh tế. Thái Lan cũng nhận thấy Đông Dương là một thì
trường hứa hẹn mà họ có thể khai thác tốt cho sự phát triển kinh tế của mình.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong chính sách đối ngoại của Thái Lan, cái bất
biến chính là quyền lợi quốc gia dân tộc của người Thái, cái vạn biến chính là
phương pháp để thực hiện cái bất biến đó. Do nguyên tắc đó mà mối quan hệ Thái
Lan và Việt Nam trong suốt cả một thời gian dài rất thăng trầm trước tình hình thế
giới có nhiều biến động, khi sự đối đầu Đông – Tây trong giai đoạn quyết liệt là
điều dễ hiểu. Nguyên tắc trong phương pháp thực hiện để đem đến thành công cho
người thích ứng thời cuộc là không có bất kỳ nguyên tắc nào và người Thái đã vận
dụng tốt điều đó. Một lần nữa có thể khẳng định, mối quan hệ thăng trầm giữa Thái
Lan – Việt Nam chịu sự tác động của nhiều nhân tố và một trong những nhân tố tác
động lớn đó chính là sự đối đầu Xô – Mĩ, TBCN – XHCN trong Chiến tranh lạnh.
Chương 2
VẤN ĐỀ CAMPUCHIA
TRONG QUAN HỆ THÁI LAN – VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1979 – 1986
2.1. Bối cảnh lịch sử và nguồn gốc của vấn đề Campuchia
Sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng
lợi (30/4/1975), những mâu thuẫn giữa Campuchia Dân chủ với Cộng hòa XHCN
Việt Nam ngày càng trở nên trầm trọng, thế lực Polpot – Ieng Xari liên tục gây hấn
ở biên giới Tây Nam của Việt Nam. Tháng 5/1975 quân Khmer đỏ tấn công vào
Tây Ninh, đảo Phú Quốc và hành quyết hàng trăm người ở đảo Thổ Chu đe dọa
nghiêm trọng an ninh chủ quyền của Việt Nam.
Để giải quyết những bất đồng giữa hai nước, tháng 6/1975 nhận lời mời của
chính phủ Việt Nam, Polpot dẫn đầu phái đoàn chính phủ Campuchia Dân chủ sang
thăm Việt Nam nhằm giải quyết những bất đồng và mâu thuẫn giữa hai nước. Cuộc
hội đàm giữa Polpot với chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thất
bại phần lớn do thái độ thiếu thiện chí của Polpot và hai bên không tìm ra được biện
pháp khả thi để giải quyết bất đồng. Trong khi tình hình xung đột biên giới ngày
càng leo thang, Việt Nam nhiều lần gởi thư thúc giục thực hiện các cuộc gặp gỡ với
mong muốn đàm phán với Campuchia Dân chủ nhằm thực hiện một giải pháp chính
trị cho sự xung đột. Đặc biệt trong tháng 8/1975 người đứng đầu Đảng Cộng sản
Việt Nam Lê Duẫn thực hiện chuyến thăm Campuchia nhằm tháo gỡ những mâu
thuẫn giữa hai bên. Nhưng rất tiếc những thiện chí hòa bình của Việt Nam đã bị thế
lực Polpot – Ieng Xari đáp lại với thái độ thờ ơ thiếu thiện chí. Ngược lại Polpot
cùng các tay chân của ông ta họp bàn và đi đến chủ trương chống Việt Nam đến
cùng và quyết định cho thành lập 15 sư đoàn để tấn công Việt Nam.
Năm 1977 Campuchia Dân chủ tuyên bố cắt đứt mọi quan hệ với Việt Nam,
rút hết các nhân viên ngoại giao ở Việt Nam về nước đồng thời yêu cầu các nhân
viên ngoại giao Việt Nam phải rút khỏi Campuchia. Năm 1978 lực lượng Polpot
thực hiện nhiều cuộc xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam ở Đồng Tháp, An Giang,
Kiên Giang, Tây Ninh, khu vực Tây Nguyên và gây ra nhiều vụ thảm sát đối với
nhiều dân thường Việt Nam.
Nguy hiểm hơn thế lực Polpot – Ieng Xari được Trung Quốc ủng hộ và tăng
cường viện trợ về quân sự. Hành động công khai của Trung Quốc nhằm đáp trả việc
Việt Nam – Liên Xô kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác (3/11/1978) là cử ông Uông
Đông Hưng – Uy viên bộ Chính trị ĐCS Trung Quốc thăm Campuchia (4/11/1078)
nhằm khẳng định sự ủng hộ cho Polpot trong cuộc xung đột với Việt Nam. Bên
cạnh đó bắt đầu từ ngày 5/11/1978 Đặng Tiểu Bình thăm các nước ASEAN, kêu gọi
các nước này cùng Trung Quốc thành lập mặt trận chung chống Liên Xô – Việt
Nam kèm theo đó Đặng Tiểu Bình cũng hứa hẹn những khoản viện trợ cho các
nước ASEAN, đặc biệt là dành cho Thái Lan.
Ngày 13/12/1978 Khmer đỏ huy động khoảng 10 sư đoàn tấn công xâm lược
Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia. Quân đội Việt Nam đã
chặn đứng cuộc tiến công của lực lượng Polpot, tiêu diệt bộ phận quân Khmer đỏ và
đẩy lùi các cuộc tấn công lấn chiếm. Trước đó Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia thành lập (3/12/1978) đã lên tiếng kêu gọi toàn dân đứng lên chống chế
độ diệt chủng Polpot – Ieng Xari, đồng thời mong muốn “quân tình nguyện Việt
Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ lực lượng Polpot – Ieng Xari để cứu
nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng” [4, T.5]. Đáp lại lời yêu cầu đó và
cũng để bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia đất nước, Bộ chính trị Việt Nam
quyết định mở chiến dịch phản công biên giới Tây Nam với quy mô lớn nhằm đánh
sập hoàn toàn lực lượng Polpot, giải phóng nhân dân Campuchia khỏi chế độ diệt
chủng. Để thực hiện chiến dịch, Việt Nam huy động số lượng lớn phương tiện chiến
tranh cùng lực lượng quân đội hùng hậu bao gồm lực lượng của Quân đoàn 2, Quân
đoàn 3, Quân đoàn 4, Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, Đoàn 901 không quân,
Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101… kết hợp với lực
lượng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tấn công tổng
lực vào Campuchia. Tuy gặp phải sự kháng cự khá quyết liệt của lực lượng Khmer
đỏ nhưng với quân số và vũ khí vượt trội, quân đội Việt Nam liên tục đánh bại các
cuộc kháng cự của quân Khmer đỏ tại Takeo, Battambang, Siem Reap, Ratanakiri,
Mondolkiri, Kompong Cham...
Ngày 7/1/1979 Quân đội Việt Nam cùng lực lượng của Mặt trận Đoàn kết
dân tộc cứu nước Campuchia tiến vào giải phóng hoàn toàn Phnom Penh đánh dấu
sự sụp đổ hoàn toàn sự cai trị tàn bạo của chính quyền Polpot – Ieng Xari. Tàn quân
Khmer đỏ chạy đến khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan, thậm chí vượt sang
đất Thái Lan để xây dựng các vùng “đất thánh” và nhận được sự hậu thuẫn của
Thái Lan, Trung Quốc, Mĩ để chống chính quyền cách mạng.
Trước đó ngày 5/1/1979 với 66 đại biểu của Mặt trận dân tộc cứu nước
Campuchia được triệu tập tại Mimot và đi tới thống nhất thành lập Đảng Nhân dân
Cách mạng Campuchia. Sau khi Phnom Penh được giải phóng (7/1/1979) Hội đồng
Cách mạng Campuchia (xem như Chính phủ lâm thời) được thành lập do Heng
Samrin làm Chủ tịch. Ngày 18/2/1979 đại diện của Hội đồng Cách mạng
Campuchia Heng Samrin kí với Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng Hiệp ước
hòa bình, hữu nghị và hợp tác có giá trị trong vòng 25 năm, theo đó mong muốn
quân đội Việt Nam tiếp tục ở lại để giúp nhân dân và Chính phủ Cách mạng
Campuchia loại trừ sự quay lại của Khmer đỏ và giúp Campuchia tái thiết đất nước.
Hiệp ước cũng khẳng định “Cộng hòa XHCN Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân
Campuchia kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt với Thái Lan và
các nước khác ở Đông Nam Á, tích cực góp phần vào hòa bình, ổn định và phồn
vinh của khu vực Đông Nam châu Á”[10, tr.4]. Mùa xuân 1981 hiến pháp mới của
Campuchia được công bố, bầu cử toàn quốc cũng được tiến hành nhằm chọn các đại
biểu quốc hội và thành lập chính phủ mới trong đó Heng Samrin được bầu làm Chủ
tịch nước, Pexovan được bầu làm Phó chủ tịch phụ trách bộ Quốc phòng và Husen
được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao.
Chính quyền mới của Campuchia được Việt Nam, Liên Xô, Cuba, các nước
XHCN ở Đông Âu công nhận. Trong khi Mĩ, Trung Quốc, các nước phương Tây,
Thái Lan và các nước ASEAN khác xem chính quyền Heng Samrin là tay sai của
Việt Nam và tiếp tục công nhận chính phủ Polpot. Chính vấn đề Campuchia đã làm
nảy sinh những bất đồng mới giữa Thái Lan – Việt Nam. Như trên đã trình bày, khi
Việt Nam đưa quân vào Campuchia thì quan hệ Thái Lan – Việt Nam ngày càng
xấu đi, lập trường của Thái Lan và Việt Nam ngày càng khác xa nhau. Trong khi
Việt Nam công nhận vào giúp đỡ chính quyền Cộng hòa Nhân dân Campuchia, xem
đây là đại diện hợp pháp cho nhân dân Campuchia. Việt Nam xem việc quân đội
mình đóng tại Campuchia là vấn đề bình thường vì có sự chấp thuận của chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia để ngăn chặn thế lực Polpot – Ieng Xari quay trở lại
nắm quyền và góp phần gìn giữ sự ổn định trong khu vực. Ngược lại, Thái Lan xem
chính quyền Polpot là đại diện cho Campuchia đồng thời lên án Việt Nam đưa quân
vào Campuchia là nguyên nhân chính làm cho tình hình khu vực căng thẳng và đe
dọa đến an ninh Thái Lan. Mặt khác vấn đề Campuchia còn chịu ảnh hưởng của
những vấn đề liên quan khác trong quan hệ quốc tế. Các nước lớn như Mĩ, Liên Xô,
Trung Quốc tìm cách can thiệp vào vấn đề Campuchia nhằm thể hiện sức mạnh
cũng như tầm ảnh hưởng của mình. Từ đó, lôi kéo các nước khác hình thành nên hai
phe đối địch nhau. Vấn đề Campuchia lúc này không còn là chuyện của Campuchia,
Việt Nam hay Thái Lan nữa mà bị đẩy lên thành vấn đề toàn cầu đồng thời không
thoát khỏi cái bóng của sự đối đầu trong Chiến tranh lạnh.
Khi tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề Campuchia không thể xem xét vấn đề
trên khía cạnh đơn tuyến mà phải đặt trong hoàn cảnh và diễn biến chung của tình
hình quốc tế cũng như mối quan hệ giữa các cường quốc mới thấy hết tính chất
phức tạp của vấn đề này. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt
Nam kết thúc thắng lợi, cục diện quan hệ quốc cũng có nhiều diễn biến phức tạp.
Trong khi thế lực của Mĩ có giảm sút đôi chút sau thất bại ở Việt Nam buộc phải
hạn chế sự có mặt của mình ở một số khu vực trên thế giới trong đó có khu vực
Đông Nam Á, nhưng Mĩ không muốn khu vực này rơi vào tầm ảnh hưởng của Liên
Xô hoặc Trung Quốc nên tìm nhiều phương cách để đối phó. Chiến tranh lạnh bước
vào giai đoạn mới, tuy bản chất vấn đề vẫn chưa thay đổi nhưng cách thức thực hiện
của hai phe (TBCN và XHCN) có nhiều thay đổi đó chính là việc hai cực Xô – Mĩ
đã chuyển sang đối thoại với nhau nhiều hơn. Trong khi đó, một số mối quan hệ
được xem là truyền thống tốt đẹp trong chiến tranh ngày càng xấu đi và trở thành
thù địch mà điển hình là quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Một trong những nguyên
nhân làm cho quan hệ Trung – Việt xấu đi chính là mâu thuẫn giữa Trung Quốc và
Liên Xô chưa được cải thiện trong khi Trung Quốc cho rằng, Việt Nam ngày càng
ngả về phía Liên Xô. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn xem Việt Nam có vị trí
chiến lược rất quan trọng, luôn muốn Việt Nam phụ thuộc vào mình trong tất cả
mọi vấn đề, kể cả việc muốn cuộc chiến tranh Việt Nam chống Mĩ kéo dài để Trung
Quốc đạt được mục đích làm Mĩ suy yếu. Do đó khi Việt Nam không thực hiện theo
đúng ý đồ của họ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thực hiện những kế sách gây tổn
hại lớn trong quan hệ hai nước. Trung Quốc từng bước bắt tay với Mĩ để chống
Liên Xô và thực hiện những chính sách gây ảnh hưởng xấu đến cách mạng Việt
Nam, đến mối quan hệ Trung - Việt. Quan hệ thù địch giữa Trung Quốc và Việt
Nam được đẩy lên đỉnh điểm khi Trung Quốc cho quân tấn công Việt Nam vào
tháng 2/1979.
Trái ngược với quan hệ Việt – Trung, quan hệ Việt – Xô ngày càng gắn bó
thắm thiết. Ngày 3/11/1978 Việt Nam – Liên Xô kí Hiệp ước hữa nghị có giá trị 25
năm, trong hiệp định khẳng định “trong trường hợp một nước nào đó rơi vào mục
tiêu xâm lược hoặc bị đe dọa, hai thành viên sẽ bàn bạc với nhau nhằm loại trừ sự
đe dọa và thực hiện biện pháp cùng nhau bảo vệ hòa bình và an ninh của hai
nước”[50, tr.82]. Bên cạnh đó Liên Xô tăng cường viện trợ cho Việt Nam những
gói viện trợ hàng triệu rúp, Việt Nam thực sự trở thành đồng minh chiến lược của
Liên Xô ở khu vực Đông Nam Á.
Đối với Thái Lan, việc Mĩ thất bại trong cuộc chiến tại Việt Nam làm Thái
Lan thay đổi chiến lược đối ngoại của mình, ít phụ thuộc vào Mĩ hơn. Thái Lan thực
hiện các bước đi ngoại giao mang tính độc lập hơn, trong đó có việc từng bước thực
hiện các bước đi trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô. Quan hệ giữa
các nước trong tổ chức ASEAN được đẩy mạnh hơn sau Hiệp ước Bali (1976)
nhằm đưa tổ chức này ngày càng lớn mạnh hơn, liên kết và độc lập hơn trước sự
ảnh hưởng của các cường quốc lớn. Quan điểm của Thái Lan là “Phát triển mối
quan hệ với các cường quốc một cách cân bằng, phù hợp với lợi ích quốc gia, đồng
thời hợp tác về các mặt kinh tế, khoa học kĩ thuật với các nước đang và đã phát
triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường”[77, tr.161]. Giới lãnh đạo
Thái Lan cũng thấy được tiềm năng to lớn của các nước Đông Dương mà Thái Lan
có thể hợp tác để làm giàu cho mình như nguồn nhân công rẻ, thị trường tiêu thụ
hàng hóa …
Trong khi đó vấn đề bình thường hóa quan hệ Mĩ – Việt Nam gặp những khó
khăn qua ba vòng đàm phán tại Pháp (vòng 1: ngày 3 – 4/5/1977; vòng 2: ngày 2 –
3/6/1977; vòng 3: ngày 19 – 20/12/1977) giữa phái đoàn của Việt Nam do Thứ
trưởng ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu hội đàm với phái đoàn Mĩ do R. Holbrooke
dẫn đầu cuối cùng đã đi đến ngõ cụt do bất đồng giữa hai bên khá lớn. Phía Mĩ đòi
bình thường hóa vô điều kiện, ý không chấp nhận những điều kiện Việt Nam đưa ra,
Mĩ đưa ra yêu cầu hai nước sẽ thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội và Oashinton
gắn với việc giúp Mĩ tìm kiếm lính Mĩ mất tích tại Việt Nam. Trong khi Việt Nam
gắn vấn đề bình thường hóa với việc Mĩ “Bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao
đầy đủ, Mĩ viện trợ cho Việt Nam 3,25 tỉ USD như đã hứa”[70, tr.361]. Đến năm
1978 Mĩ cũng đặt việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam gắn với việc Việt
Nam không được xâm chiếm Campuchia, vấn đề người tị nạn, Việt Nam không
được quá phụ thuộc vào Liên Xô. Những yêu cầu Mĩ đưa ra đã bị Việt Nam bác bỏ,
đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt – Mĩ hoàn toàn thất bại và phải đợi cho đến
1995.
Ngược lại quan hệ Mĩ – Trung có những chuyển biến tích cực. Sau thất bại
trong cuộc chiến tại Việt Nam, nhìn thấy tầm ảnh hưởng của Liên Xô ngày càng lớn
ở nhiều khu vực trên thế đặc biệt ở Đông Nam Á, Mĩ quyết định đẩy nhanh quá
trình bình thường hóa và phát triển mối quan hệ với Trung Quốc nhằm lôi kéo đồng
minh và tạo thêm sức mạnh trong cuộc đối đầu với Liên Xô. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho việc đàm phán bình thường thường hóa quan hệ Việt –
Mĩ bị cản trở vì rõ ràng để làm hài lòng Trung Quốc, Mĩ không thể một sớm một
chiều xích lại gần Việt Nam được. Mĩ đã chọn Trung Quốc. Tổng thống Mĩ Carter
từng khẳng định “Bước đi với Trung Quốc có tầm quan trọng tối cao, cho nên sau
vài tuần đánh giá, tôi quyết định trì hoãn cố gắng về Việt Nam cho đến khi kí hiệp
định của chúng ta ở Bắc Kinh” [70, tr.365]. Để thể hiện quyết tâm bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc, Mĩ cử Ngoại trưởng Cyrus Vance thăm Bắc Kinh
(23/8/1978) để thúc đẩy mối quan hệ hai nước. Những bước đi của Mĩ được chính
quyền Trung Quốc hết sức hoan nghênh, thậm chí để tỏ rõ thiện chí của mình, một
nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc còn mạnh miệng tuyên bố “Trung Quốc là
NATO phương Đông”. Ngày 15/12/1978 Mĩ và Trung Quốc ra thông cáo chung
chính thức công nhận nhau đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức bắt
đầu từ ngày 1/1/1979. Từ ngày 29/1 đến 4/2/1979 nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng
Tiểu Bình chính thức thăm Mĩ đánh dấu mối quan hệ Trung – Mĩ bình thường hóa.
Đến đầu những năm 80 ba nước lớn Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc đã có sự
điều chỉnh chiến lược của mình đó là vừa đấu tranh vừa hòa hoãn, kiềm chế lẫn
nhau nhằm tập trung vào phát triển kinh tế. Trong đó vấn đề Campuchia được đưa
vào chương trình nghị sự trong hội đàm giữa các nước lớn. Tháng 10/1982 tại Bắc
Kinh, đàm phán bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Liên Xô trong đó Trung
Quốc nêu ra một trong những trở ngại lớn cho việc bình thường hóa quan hệ hai
nước đó chính là vấn đề Campuchia đồng thời Trung Quốc đưa ra bản yêu sách 5
điểm về vấn đề Campuchia cho Liên Xô. Nội dung chính của bản yêu sách bao gồm
“1. Liên Xô chấm dứt ủng hộ Việt Nam xâm lược Campuchia; 2. Việt Nam tuyên bố
rút hết quân khỏi Campuchia. Đàm phán bình thường hóa quan hệ Trung – Việt sẽ
bắt đầu sau khi những đơn vị quân Việt Nam đầu tiên rút; 3. Trung Quốc có những
biện pháp cải thiện quan hệ với Liên Xô; 4. Lập chính phủ liên hiệp Campuchia đại
diện cho tất cả các phe phái ở Campuchia. Đảm bảo quốc tế ho một nước
Campuchia độc lập và không liên kết”[51, tr.29]. Ngày 1/3/1983 Trung Quốc cho
công khai 5 điểm trên, chủ ý thực của Trung Quốc là sử dụng vấn đề Campuchia để
mặc cả với Liên Xô nhưng chưa có thiện chí giải quyết vấn đề vì Trung Quốc cho
rằng ghìm chân Việt Nam càng lâu sẽ càng có lợi cho mục đích của họ.
Trong giai đoạn 1979 – 1986 cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật có những
bước phát triển như vũ bão, khoa học – kĩ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Các nước TBCN không ngừng áp dụng khoa học – kĩ thuật vào trong sản xuất
và cuộc sống, thu được những thành quả rất khả quan trong việc phát triển đất nước.
Ngược lại, Liên Xô và các nước XHCH rơi vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm
trọng, kinh tế sụt giảm và mâu thuẫn xã hội ngày càng diễn biến phức tạp. Trong
tình hình đó, năm 1985 M. Goocbachop lên nắm quyền đồng thời tiến hành cuộc cải
tổ toàn diện. Bên cạnh đó, tình hình thế giới trong giai đoạn này xu thế hội nhập
khu vực và thế giới diễn ra rất mạnh mẽ, sự ra đời và liên kết của các tổ chức khu
vực ngày một phát triển mạnh, trong đó tiêu biểu là sự hội nhập sâu rộng của tổ
chức EU.
Tóm lại, tình hình thế giới giai đoạn 1979 – 1986 bên cạnh việc xuất hiện
những yếu tố tích cực vẫn còn đó những diễn biến hết sức phức tạp, ẩn chứa nhiều
vấn đề nguy hiểm cho hòa bình thế giới. Năm 1979 vấn đề Campuchia xảy ra, sự
phức tạp của vấn đề này được đẩy lên không còn là vấn đề riêng của Việt Nam,
Campuchia hay Thái Lan mà trở thành một vấn đề toàn cầu đẩy cuộc Chiến tranh
lạnh sang một giai đoạn mới, trong đó cực Mĩ – Trung Quốc và đồng minh của họ
đối đầu với cực Liên Xô – Việt Nam và những đồng minh của mình. Hầu như trong
giai đoạn 1979 – 1991 những vấn đề quan hệ quốc tế có liên quan đến Việt Nam,
Thái Lan, Campuchia cũng như quan hệ Thái Lan – Việt Nam đều ít nhiều có dính
dáng đến vấn đề Campuchia.
2.2. Lập trường của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề Campuchia
2.2.1. Lập trường đối lập và nguy cơ đối đầu giữa Thái Lan – Việt Nam
xung quanh vấn đề Campuchia (1979 – 1980).
Nếu trong giai đoạn 1976 – 1978 mối quan hệ Thái Lan và Việt Nam có
những chuyển biến tích cực trong việc xích lại gần nhau thì từ cuối 1978 – 1979
mối quan hệ hai nước bắt đầu xuất hiện lập trường đối lập và những nguy cơ dẫn
đến đối đầu xung quanh vấn đề Campuchia. Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật
đổ chế độ diệt chủng và thỏa thuận với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia
tiếp tục sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại Campuchia để ngăn chặn sự quay
lại của chế độ Polpot – Ieng Xari, đồng thời giúp nhân dân Campuchia có điều kiện
tái thiết đất nước, điều đó làm chính phủ Thái Lan mà đặc biệt là giới quân sự Thái
Lan hết sức lo lắng. Thêm vào đó, sự tăng cường tuyên truyền của chính phủ Trung
Quốc khi cho rằng, Việt Nam có ý định lập Liên bang Đông Dương và sẽ xâm lược
Thái Lan càng làm cho Thái Lan có lý do để lo sợ hơn. Một lần nữa cái gọi là “sự
trả thù của cộng sản Việt Nam” lại có dịp bùng phát trong tư tưởng của giới cầm
quyền Thái Lan. Mặt khác, chính phủ Thái Lan vẫn luôn luôn xem Việt Nam là đối
thủ cạnh tranh lớn của họ ở trong khu vực nhất là sau khi nhân dân Việt Nam kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ và có trong tay một tiềm lực quân sự
hùng mạnh, được báo chí phương Tây xem là không có đối thủ trong khu vực Đông
Nam Á nếu xét về khía cạnh này.
Năm 1975 – 1978 thế lực lượng Polpot – Ieng Xari liên tục gây hấn ở biên
giới Tây Nam Việt Nam và sau đó mở cuộc tấn công quy mô lớn vào biên giới Việt
Nam, giới quân sự Thái Lan xem đó là biện pháp hữu hiệu mà chính phủ
Campuchia Dân chủ gián tiếp giúp Thái Lan làm cho Việt Nam suy yếu. Dù trên
thực tế, chính phủ Vương quốc Thái Lan không ưa gì chính quyền Campuchia Dân
chủ, nhưng do những tính toán về quyền lợi và an ninh của mình, Thái Lan vẫn
ngầm ủng hộ những hành động của Polpot – Ieng Xari đối với Việt Nam. Tuy vậy
lúc đầu trong mọi phát biểu, giới cầm quyền Thái Lan vẫn tuyên bố rất ngoại giao
rằng, Thái Lan vẫn giữ lập trường trung lập của mình đối với cuộc xung đột giữa
Campuchia Dân chủ và CHXHCN Việt Nam.
Trong cuộc xung đột với lực lượng Khmer đỏ, quân đội nhân dân Việt Nam
không chỉ đập tan các cuộc chống phá của lực lượng Polpot – Ieng Xari mà còn kết
hợp với lực lượng của Mặt trận Đoàn kết dân tộc Cứu nước Campuchia tấn công lật
đổ ách thống trị của thế lực Polpot – Ieng Xari, giải phóng Phnompenh và thành lập
chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia do ông Heng Samrin đứng đầu. Điều này
trái ngược hoàn toàn với mong muốn của chính phủ Thái Lan. Việt Nam giúp nhân
dân Campuchia lật đổ chế độ Polpot và giúp Campuchia thành lập chính phủ mới
không chỉ thể hiện sức mạnh quân sự của Việt Nam mà còn thể hiện ưu thế của Việt
Nam trong khu vực đặc biệt là tầm ảnh hưởng lớn đối với chế độ mới thành lập ở
Campuchia. Khi Việt Nam mới đưa quân vào Campuchia, chính phủ Thủ tướng
Kriangsak Chomanan vẫn tuyên bố Thái Lan trung lập với cuộc xung đột tại
Campuchia, nhưng bắt đầu từ đây giữa Thái Lan – Việt Nam bắt đầu xuất hiện
những quan điểm đối lập xung quanh vấn đề Campuchia.
Cuối năm 1978 do vấn đề Campuchia và Việt Nam đưa quân vào Campuchia
đã làm chi tiêu quân sự của Thái Lan chiếm khoảng ¼ ngân sách quốc gia, đây là
một khoản chi không nhỏ chút nào đối với ngân sách Thái Lan trong giai đoạn khó
khăn. Các tùy viên quân sự Thái Lan lên tiếng khẳng định, sở dĩ chi phí quân sự
tăng nhanh như vậy vì Thái Lan lo sợ có thể xảy ra những vụ đụng chạm dữ dội có
thể xảy ra với Việt Nam khi tình hình Campuchia ngày một đi theo quỹ đạo mà
Thái Lan không hề mong muốn. Sự lo sợ của Thái Lan càng tăng lên khi Việt Nam
– Liên Xô kí Hiệp ước tương trợ (3/11/1978). Thái Lan cho rằng, với sự giúp đỡ của
Liên Xô sẽ làm cho Việt Nam sẽ mạnh hơn về mặt quân sự và có thể đe doạ trực
tiếp đến họ. Để đối phó với tình hình trên, ngân sách cho các hợp đồng mua vũ khí
Mĩ của Thái Lan đạt tới 30 triệu USD (1978).
Một trong những vấn đề dẫn đến quan hệ đối lập giữa Thái Lan – Việt Nam
chính là việc Thái Lan hợp tác với Trung Quốc và không ngừng tiếp tế cho Khmer
đỏ. Từ khi xung đột giữa Campuchia Dân chủ – Việt Nam ngày một leo thang,
những chuyến hàng viện trợ của Trung Quốc qua trung gian Thái Lan cho Khmer
đỏ cũng không ngừng tăng lên. Riêng tháng 9/1978 bốn tàu biển Trung Quốc đã bốc
lên cảng Congpongxom (tây Nam Campuchia) “500 xe tăng, 300 đại bác, 4000 tấn
đạn dược và bộc phá, 6 máy bay chiến đấu, 2 máy bay ném bom, 4 tốc hạm và nhiều
máy kéo”[14, tr.4]. Chính phủ Trung Quốc đã có những tính toán từ trước trong
việc muốn dùng Thái Lan làm nơi trung chuyển hàng tiếp tế cho Khmer đỏ. Tháng
11/1978 Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thăm Thái Lan trong đó đưa ra
yêu cầu Thái Lan cho máy bay Campuchia Dân chủ đi qua bầu trời Thái Lan. Trung
Quốc còn mong muốn Thái Lan để cho họ sử dụng căn cứ hải quân Sattahip trong
vịnh Thái Lan. Không giấu diếm với báo chí, Đặng Tiểu Bình tiết lộ chuyến đi của
ông đến Thái Lan là Trung Quốc đang giúp duy trì cuộc chiến đấu cho Khmer đỏ
bằng cách tiếp tế qua đường Thái Lan. Để đạt được mục tiêu thuyết phục Thái Lan
cho Trung Quốc trung chuyển hàng hóa tiếp tế cho Khmer đỏ, Đặng Tiểu Bình đã
đưa ra những lời hứa hẹn kèm theo. Lợi dụng giai đoạn này, kinh tế Thái Lan gặp
phải không ít khó khăn trong đó có tình trạng khan hiếm dầu lửa, Trung Quốc xoáy
sâu vào vấn đề này để buộc Thái Lan phải cấu kết chặt chẽ hơn với mức người Thái
mong muốn. Chỉ khi nào Thái Lan bằng lòng để cho Trung Quốc tái trang bị cho
lực lượng Khơme đỏ thông qua các căn cứ không quân cũ của Mĩ ở Takli thuộc
miền Trung Thái Lan và trở thành trạm trung chuyển cho việc tiếp tế vũ khí thì
những khối lượng dầu mỏ đã được hứa hẹn sẽ được chuyển giao cho Thái Lan.
Trong cuộc hội đàm giữa Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình với Thủ tướng Kriangsak
Chomanan hai bên đã đạt được thỏa thuận trong đó Thái Lan sẽ trở thành trạm trung
chuyển để Trung Quốc tiếp tế cho Khmer đỏ nhằm giúp lực lượng này có đủ sức
chống lại quân đội Việt Nam. Đổi lại Thái Lan được Trung Quốc giành cho những
ưu đãi trong các hợp đồng buôn bán, cụ thể “Trung Quốc cấp cho Thái Lan 600.000
tấn dầu thô, 240.000 tấn dầu dùng cho động cơ Diesel với giá ưu đãi, Trung Quốc
sẽ thu mua 1,6 tỉ bath nông sản của Thái Lan”[84, tr.2]. Thái Lan và Trung Quốc
cũng nhất trí 29 công trình hợp tác đồng thời tiến tới kí kết hiệp định hợp tác tổng
quát về khoa học – kĩ thuật giữa hai nước. Một thỏa thuận kèm theo để Thái Lan
chấp nhận trở thành trạm trung chuyển viện trợ của Trung Quốc cho Khmer đỏ là
Trung Quốc cam kết thôi ủng hộ các lực lượng chống đối chính phủ Thái Lan ở
vùng Đông Bắc nước này.
Trong khi đó cuộc xung đột giữa quân đội Việt Nam và lực lượng Polpot
diễn ra ngày càng ác liệt, để chiến sự không ảnh hưởng đến lãnh thổ Thái Lan, ngay
từ tháng 1/1979 giữa Thái Lan và Việt Nam có sự thỏa thuận, quân đội Việt Nam sẽ
tôn trọng một khoảng cách đường biên giới chung Campuchia – Thái Lan 20km gọi
là “dãi đất cấm” để khỏi đặt Thái Lan vào tình thế khó xử.
Để đối phó với vấn đề Việt Nam đưa quân vào Campuchia, Thái Lan tích
cực chạy đua vũ trang và tìm kiếm đồng minh ủng hộ. Tháng 2/1979 chuyến đi của
Thủ tướng Thái Lan Kriangsak Chomanan đến Châu Âu và Mĩ nhằm tìm sự ủng hộ
đối với họ xung quanh vấn đề Campuchia đồng thời tìm kiếm những hợp đồng mua
vũ khí hiện đại để trang bị cho quân đội Thái Lan. Sau cuộc chiến tranh tại Việt
Nam kết thúc các khoản viện trợ về quân sự không hoàn lại của Mĩ cho Thái Lan đã
chấm dứt, bây giờ Thái Lan chỉ có thể đàm phán để thực hiện các hợp đồng mua
bán vũ khí với Mĩ và yêu cầu được trả dần. Thủ tướng Kriangsak Chomanan cũng
muốn Mĩ nhượng lại cho Thái Lan số vũ khí ước chừng khoảng 11 triệu USD của
Mĩ hiện còn tồn đọng tại các kho của Thái Lan trong chiến tranh Việt Nam mà
không phải trả tiền. Trong chuyến thăm Mĩ, đường lối đối ngoại mềm dẻo của Thái
Lan được Thủ tướng Kriangsak Chomanan vận dụng rất linh hoạt. Trong tất cả các
cuộc họp báo, Thủ tướng Kriangsak Chomanan luôn tuyên bố Thái Lan trung lập
đối với cuộc xung đột tại Campuchia. Tuyên bố lập trường trung lập của Thái Lan
không phải là thiện chí chân thực mà chỉ nhằm xem vấn đề sẽ đi đến đâu, đồng thời
cũng nghe ngóng phản ứng của các nước lớn cũng như dư luận quốc tế trước khi có
phản ứng chính thức về vấn đề này.
Trái ngược hoàn toàn với tuyên bố trung lập trên, trong cuộc hội đàm với
tổng thống Mĩ, Thủ tướng Kriangsak Chomanan khẳng định “Rất lo ngại về vấn đề
Campuchia đặc biệt là sự đe doạ của phía Việt Nam với an ninh Thái Lan nên ưu
tiên hàng đầu của Thái Lan là sắp xếp các lực lượng quốc phòng đồng thời mong
muốn Mĩ gấp rút bán vũ khi và chuyển gấp cho Thái Lan càng sớm càng tốt để Thái
Lan có thể đối phó khi tình hình xấu nhất”[94, tr.11]. Vũ khí Thái Lan đặt mua của
Mĩ gồm các loại trang bị cho các lực lượng cả lục quân, hải quân, không quân trong
đó đáng chú ý có máy bay chiến đấu hiện đại F5. Đồng thời để giúp đỡ Thái Lan,
Mĩ sẽ cho một đội ngũ cố vấn để hướng dẫn về kĩ thuật cho quân đội Thái Lan. Thủ
tướng Kriangsak Chomanan cũng thuyết phục Mĩ thực hiện lại cam kết bảo vệ chủ
quyền anh ninh của Thái Lan như trước khi khối SEATO giải thể. Đáp lại yêu cầu
của Thủ tướng Kriangsak Chomanan, Tổng thống Mĩ Carter đã hứa “Cam kết sâu
sắc với sự toàn vẹn lãnh thổ, tự do và an ninh của Thái Lan. Tổng thống Carter
cũng dự tính yêu cầu Quốc hội Mĩ tán thành việc chuyển cho Thái Lan số vũ khí trị
giá trên 11 triệu USD tồn kho từ hồi chiến tranh Việt Nam cho chính phủ Thái Lan,
đồng thời hứa chuyển giao nhanh máy bay chiến đấu hiện đại F5 và các loại vũ khí
tối tân khác cho Thái Lan”[97, tr.13]. Trong cuộc trả lời báo chí, người phát ngôn
của Bộ quốc phòng Mĩ – Tướng Pinck cũng cho rằng “Việt Nam có máy bay MIG
của Nga nên Thái Lan cần có máy bay hiện đại để chuẩn bị đối phó với họ”[95,
tr.15]. Mặc dù đã giải thể khối SEATO và Mĩ đã hạn chế sự có mặt của mình ở khu
vực Đông Nam Á, nhưng trước việc xuất hiện vấn đề Campuchia, Mĩ vẫn không
muốn Liên Xô hoặc Trung Quốc chiếm ưu thế trong vấn đề này nên việc cam kết
ủng hộ Thái Lan nhằm khẳng định với các cường quốc khác rằng, ảnh hưởng của
Mĩ ở khu vực này thực tế chưa hề suy giảm.
Thủ tướng Kriangsak Chomanan cho rằng, xung đột tại Campuchia có sự
tham gia của Việt Nam ngay cửa ngõ gần biên giới Thái Lan làm cho Thái Lan thực
sự lo lắng, do đó Thái Lan phải chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Thủ tướng Kriangsak
Chomanan cũng khẳng định, mức độ lo ngại như thế nào tuỳ thuộc vào mức độ
chiến sự diễn ra tại Campuchia. Điều làm Thái Lan rất lo lắng là việc thành lập Mặt
trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia. Thái Lan cho rằng, “Mặt trận này là
sản phẩm của Hà Nội và là yếu tố làm cho tình hình Đông Nam Á không ổn
định”[101, tr.5]. Mặt khác, chính phủ Kriangsak Chomanan vẫn để ngõ một khả
năng để khi cần có thể đàm phán với Việt Nam. Bằng chứng rõ nhất là ngày
2/2/1979 Đại sứ Thái Lan tại Việt Nam, Coxon Xitthavanon thay mặt chính phủ
Thái Lan trao cho Việt Nam một số lượng lương thực và thực phẩm để khắc phục lũ
lụt đồng thời vẫn tiếp tục bán lương thực và trao đổi hàng hóa với Việt Nam.
Do sức ép từ giới quân sự trong nước, từ sự tác động của vấn đề Campuchia
cũng như sự chi phối của Mĩ và Trung Quốc, chính phủ Thái Lan đã quyết định
những khoản đầu tư lớn cho quân đội và tích cực tìm đồng minh ủng hộ nhằm sẳn
sàng đối phó với Việt Nam. Khi nổ ra vấn đề Campuchia, Thái Lan trở thành nơi có
vị trí chiến lược quan trọng mà các nhà lãnh đạo các nước lớn quan tâm thăm viếng.
Các nước ASEAN cũng xem sự hiện diện của quân đội Việt Nam tại
Campuchia sẽ chứa đựng những nguy cơ xung đột lan rộng. Riêng Singapore
khẳng định sự ủng hộ nhiệt thành giành cho Thái Lan và nhấn mạnh rằng, bất kì sự
leo thang quân sự nào ở Campuchia hay bất kì sự xâm nhập nào vào lãnh thổ Thái
Lan đều sẽ bị xem là hành động trực tiếp đe dọa đến an ninh các nước ASEAN.
Thái độ lên án mạnh mẽ trên của ASEAN đối với Việt Nam không phải hoàn toàn
các nước ASEAN muốn đối đầu quyết liệt ngay với Việt Nam mà vẫn để ngõ những
khả năng hội đàm trực tiếp với Việt Nam để giải quyết vấn đề. Các nước ASEAN
cũng kêu gọi một giải pháp chính trị ở Campuchia và bày tỏ thái độ sẳn sàng đàm
phán trực tiếp với Việt Nam để tìm giải pháp.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn và nguy cơ đối đầu giữa
hai nước Thái Lan – Việt Nam là việc Thái Lan hợp tác với Trung Quốc để tiếp tế
cho Khmer đỏ, hành động này bị Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia kịch liệt phản đối. Ngày 27/2/1979 người phát ngôn Bộ ngoại giao
Campuchia lên án Trung Quốc dùng đất Thái Lan chống chính phủ Cộng hòa Nhân
dân Campuchia. Trong đó khẳng định, “gần đây Thái Lan cho Trung Quốc dùng
đảo Kut làm bàn đạp đưa vũ khí, lương thực vào đất liền tiếp tế cho Polpot. Tàu
thuyền đánh cá Thái Lan liên tục vi phạm vùng biển Campuchia, tạo điều kiện thực
hiện việc tiếp tế lén lút đó. Thái Lan dung túng cho bọn Lon Nol, In Tam, từ Thái
Lan xâm nhập quấy phá vùng Preh Vihear và một số nơi khác thuộc Campuchia.
Mặc dù chính phủ Thái Lan phủ nhận nhưng rõ ràng bọn phản động Trung Quốc và
tay sai đã sử dụng đất Thái Lan để tiến hành những hoat động chống lại nước Cộng
hòa Nhân dân Campuchia”[11, tr.4]. Chính phủ Việt Nam và chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Campuchia khẳng định, hành động hợp tác với Trung Quốc của Thái Lan
để tiếp tay cho các thế lực chống chính phủ là không phù hợp với chính sách trung
lập đối với tình hình Campuchia mà nhà cầm quyền Thái Lan tuyên bố, không phù
hợp với lợi ích của nhân dân Thái Lan, xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và
an ninh của Campuchia, làm tổn thương đến quan hệ truyền thống giữa hai nước
Thái Lan – Campuchia. Việt Nam mong muốn Thái Lan hãy vì quan hệ hữu nghị
láng giềng tốt đẹp giữa hai nước, vì hòa bình và ổn định khu vực mà có những biện
pháp thích đáng để chấm dứt và ngăn chặn những hành động xâm phạm chủ quyền
và an ninh của Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Đồng thời cảnh báo, nếu hành động
đó tiếp tục và dẫn đến những hậu quả đáng tiếc thì phía Thái Lan sẽ phải chịu trách
nhiệm.
Tuy vậy, đối với vấn đề này Thái Lan vẫn một mực phủ nhận khi phát biểu
trước báo giới. Trong chuyến thăm Mĩ (tháng 2/1979) khi một số phóng viên hỏi,
Thủ tướng Kriangsak Chomanan nghĩ sao khi ông Đặng Tiểu Bình thăm Thái Lan
có nói rằng con đường tiếp tế duy nhất cho Ponpol là qua Thái Lan? Thủ tướng
Kriangsak Chomanan né tránh và trả lời rất ngoại giao rằng, “đó không phải là vấn
đề bất kì ai có thể đưa ra lời tuyên bố hay phát biểu thay cho Thái Lan. Dù đó là
Phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình hay bất kì ai khác vì đó là vấn đề cần có mức độ
thích hợp với tình hình. Chính phủ Thái Lan triệt để giữ đúng nguyên tắc không can
thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”[94, tr.11]. Bộ ngoại giao Thái Lan cũng
một mực khẳng định việc Thái Lan trở thành con đường tiếp tế từ bên ngoài vào
cho Khmer đỏ chỉ là chuyện phỏng đoán.
Để phản đối hành động của Thái Lan hợp tác với Trung Quốc tiếp tế cho
Khmer đỏ, Việt Nam đã nhiều lần chính thức lên án vấn đề này. Tháng 3/1979 Đại
sứ VN tại Liên Hợp Quốc lên án Thái Lan và các nước ASEAN ủng hộ Mĩ trong
chiến tranh Đông Dương đó là món nợ của Thái Lan và ASEAN với Đông Dương
nhưng Việt Nam sẵn sàng bỏ qua quá khứ vì lợi ích hòa bình, ổn định ở Đông Nam
Á. Các nước ASEAN nên nhìn về tương lai, đừng nên đi vào con đường sai lầm thứ
hai, cấu kết với bọn phản động Bắc Kinh chống lại nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia. Đồng thời khẳng định, Việt Nam sẳn sàng cùng Thái Lan và ASEAN
phấn đấu xây dựng Đông Nam Châu Á thành khu vực hòa bình, độc lập, tự do,
trung lập, ổn định và phồn vinh.
Từ khi thế lực Polpot tại Campuchia bị lật đổ, Thái Lan trở nên một địa bàn
chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giup đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc
chiến chống lại Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Năm 1979 Đặng Tiểu
Bình có những cuộc tiếp xúc bí mật với Ieng Xari, đồng thời cử Gừng Giao – Uy
viên Bộ chính trị cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok để hội
đàm với Thủ tướng Thái Lan Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao
nhằm bàn cụ thể về việc tiếp tế cho Khmer đỏ. Sau khi Việt Nam liên minh với Liên
Xô và việc quân đội Việt Nam vào Campuchia, Thái Lan tìm kiếm đồng minh
chống Việt Nam và đồng ý để Trung Quốc dùng lãnh thổ Thái Lan để tiếp tế cho
Khmer đỏ.
Từ khi thế lực Polpot – Ieng Xari đã bị quân đội Việt Nam và quân của Mặt
trận Dân tộc giải phóng Campuchia đánh đổ đã chạy sang biên giới Campuchia -
Thái Lan thiết lập các vùng “đất thánh” để chống lại quân đội Việt Nam và Cộng
hòa Nhân dân Campuchia, từ đó các chuyến tàu viện trợ của Trung Quốc được ngụy
trang như chở hàng dân sự cập bến Thái Lan thường xuyên hơn. Bộ ngoại giao Việt
Nam đã nhiều lần lên án Thái Lan về vấn đề này, trong đó khẳng định “Nhà cầm
quyền Thái Lan để cho bọn bành trướng Bắc Kinh và đế quốc Mĩ sử dụng lãnh thổ
của mình làm căn cứ để tiếp tế vũ khí, lương thực và thuốc men cho các lực lượng
phản động. Để lãnh thổ Thái Lan làm nơi cư trú, huấn luyện quân đội để chống tiến
hành một cuộc xâm lược và tiến hành chiến tranh tâm lý chống Campuchia”[20,
tr.4].
Lập trường, quan điểm, cách nhìn nhận vấn đề Campuchia trái ngược nhau đã
dẫn đến nhiều vấn đề mâu thuẫn nảy sinh giữa hai nước Thái Lan và Việt Nam xung
quanh vấn đề này. Trong đó vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan là
một trong những vấn đề nổi cộm tác động xấu đến mối quan hệ hai nước. Khi
Khmer đỏ bị lật đổ và sau đó bị quân đội Việt Nam cùng quân đội Cộng hòa Nhân
dân Campuchia truy đuổi đến sát biên giới Campuchia – Thái Lan và để tránh sự
truy kích, một bộ phận lớn lực lượng Khmer đỏ đã vượt biên giới sang đất Thái Lan
để xây dựng các vùng “đất thánh” ở đây nhằm chống lại quân đội Việt Nam và
chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Kể từ đó khu vực biên giới Campuchia
– Thái Lan thường xuyên xảy ra những cuộc xung đột mà hai bên thường là đổ lỗi
cho nhau. Lập trường của Thái Lan cho rằng, sở dĩ có những cuộc xung đột tại biên
giới Campuchia – Thái Lan nguyên nhân chính là do quân đội Việt Nam chiếm
đóng Campuchia. Ngược lại, Việt Nam cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến các
cuộc đụng độ tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan là do chính phủ Thái Lan
dung túng tiếp tay cho Khmer đỏ và các thế lực Khmer khác chống đối chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Từ tháng 3 – 5/1979 khi bắt đầu nổ ra những trận đụng độ ác liệt tại các khu
vực biên giới Campuchia – Thái Lan, quân đội Việt Nam và quân đội Cộng hòa
Nhân dân Campuchia đã giáng cho tàn quân Khmer đỏ những đòn chí mạng buộc
lực lượng này lùi sát về biên giới Campuchia và nhảy qua đất Thái Lan. Như trên đã
trình bày, giới quân sự Thái Lan luôn lo sợ về sự tấn công của Việt Nam vào Thái
Lan do đó quân đội Thái Lan đặt trong tình trạng báo động dọc biên giới. Thái Lan
lo các trận giao chiến tràn sang nước mình, lo các cuộc hành quân truy kích vượt
biên giới của Việt Nam đuổi theo Khmer đỏ chạy sang lãnh thổ họ. Theo giới quân
sự Thái Lan, Việt Nam đã triển khai 10 sư đoàn của họ ở miền Tây Bắc Campuchia
dọc theo biên giới Campuchia – Thái Lan nhằm đè bẹp các cuộc kháng cự của
Khmer đỏ ở dãi núi Cardamones nhưng cũng với chủ tâm đe dọa Thái Lan. Trong
mùa khô 1979 Thái Lan nhiều lên án các lực lượng quân đội Việt Nam đã tiến sâu
vào “dãi đất cấm” 12km sát biên giới Thái Lan, các thiết giáp của Việt Nam tiến rất
nhanh tới vài chổ gần biên giới Thái Lan. Thủ tướng Thái Lan Kriangsak
Chomanan đã thông báo cho đại sứ Việt Nam tại Thái Lan là Hoàng Bảo Sơn biết,
“nếu các lực lượng quân đội Việt Nam tiến quá gần biên giới Thái Lan thì an ninh
Thái Lan coi như bị đe dọa”[88, tr.16].
Vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan thực sự trở thành một
vấn đề nóng có tác động rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến mối quan hệ hai nước
Thái Lan và Việt Nam. Rất nhiều lần Thái Lan thông qua phương tiện thông tin báo
chí, thông qua Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lên án quân đội Việt Nam
vượt biên giới sang Thái Lan để truy quét lực lượng Khmer đỏ và không ít lần đụng
độ với lính biên giới Thái Lan. Thái Lan lo lắng về an ninh của mình bị đe dọa khi
lực lượng Việt Nam tiến vào Campuchia làm mất khu vực đệm lịch sử giữa Thái
Lan và Việt Nam đồng thời Việt Nam đưa quân sát mép biên giới Thái Lan khi đuổi
theo các lực lượng Khơme đỏ. Tháng 4 – 5/1979 hơn 5 vạn lính Khơme đỏ được
phép di chuyển trên 70 km trên lãnh thổ Thái Lan để chạy trốn mũi tiến công của
Việt Nam sau đó quay lại Campuchia để chiến đấu. Tuy các nhà lãnh đạo Thái Lan
vẫn luôn khẳng định họ hành động như vậy trên cơ sở nhân đạo. Trong khi chính
phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam lên án những hành động đó là tiếp
tay cho lực lượng Polpot của chính phủ Thái Lan, xem đó là nguyên nhân chính gây
nên tình trạng căng thẳng cho Campuchia và khu vực Đông Nam Á.
Thái độ đối lập của Chính phủ Thái Lan đối vơi Việt Nam xung quanh vấn
đề Campuchia dần dần lộ rõ. Thái Lan cho rằng, quân Việt Nam còn ở lại
Campuchia sẽ đe dọa an ninh chủ quyền của họ nên Thái Lan phản đối Việt Nam
chiếm đóng Campuchia và đòi Việt Nam rút quân về nước. Lập trường của Thái
Lan được thể hiện thông qua các bản tuyên bố của Bộ Ngoại giao chính phủ Thái
Lan ở Liên Hợp Quốc và trong Hội nghị Bộ trưởng ASEAN diễn ra tại Indonexia
(1979) và tại Malaixia (1980). Đồng thời Thái Lan cũng muốn tăng cường mạnh
tiềm lực quân sự để đối phó với Việt Nam, bởi theo như lập luận của giới quân sự
Thái Lan thì sau khi Việt Nam giải quyết xong lực lượng Khmer đỏ có thể tràn sang
Thái Lan.
Sự lo lắng của Thái Lan về cái gọi là “Việt Nam sẽ lập Liên bang Đông
Dương và xâm lược Thái Lan” xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do chính
sach tuyên truyền quy mô của Trung Quốc có sự giúp sức của Mĩ trong vấn đề này.
Thứ hai, thực tế thái độ, lập trường của chính phủ Thái Lan đối với Việt Nam thể
hiện sự không tin cậy và có sự hoài nghi rất lớn, họ không tin tưởng những tuyên bố
không xâm phạm chủ quyền Thái Lan của Việt Nam. Thứ ba, theo các nhà phân
tích nước ngoài thì cho dù Mĩ có chuyển giao bao nhiêu vũ khí cho Thái Lan đi nữa
Thái Lan vẫn thua kém Việt Nam nếu hai bên đụng độ trên chiến trường nếu xét
toàn bộ cục diện.
Do vậy, một mặt Thái Lan tích cực lên án Việt Nam chiếm đóng Campuchia,
kêu gọi các đồng minh ủng hộ và Liên Hợp Quốc can thiệp. Chính phủ Thái Lan
còn gấp rút thực hiện chính sách đầu tư phát triển lực lượng quân đội hùng mạnh.
Những hành động của chính phủ Thái Lan trong việc tìm kiếm đồng minh chiến
lược và các hợp đồng mua vũ khí cho thấy, chính phủ Thái Lan thực sự đã chuẩn bị
để đối phó với Việt Nam trong tình huống xấu nhất là hai bên đụng độ nhau.
Việc quân đội Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia sau khi đã giúp nhân dân
Campuchia lật đổ được chế độ Polpot – Ieng Xari gặp phải sự phản đối của Mĩ,
Trung Quốc và các nước ASEAN. Chính phủ Thái Lan cũng tỏ ra lo lắng khi Mặt
trận Đoàn kết dân tộc Cứu nước Campuchia được thành lập. Thái Lan cho đây là
hoạt động có sự phối hợp chặt chẽ với nhà cầm quyền Việt Nam nhằm uy hiếp Thái
Lan. Thái Lan khẳng định, cuộc xung đột tại Campuchia đã làm cho từng dòng
người tị nạn ở Campuchia đổ vào Thái Lan đây chính là vấn đề gây nên một gánh
nặng đối với ngân sách chính phủ họ. Mặt khác, xung quanh vấn đề này cũng nảy
sinh sự nghi ngờ và những mâu thuẫn giữa Thái Lan – Việt Nam. Theo tin từ Bộ
Ngoại giao Thái Lan khẳng định, trong mùa khô 1979 có khoảng 15.000 quân
Khmer đỏ chạy sang Thái Lan những ngày gần đây cùng với gần 40.000 thường dân
chạy trốn cuộc xung đột tại Campuchia.
Vấn đề người tị nạn xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một phần lo sợ chạy
trốn cuộc chiến, phần vì đói và phần khác cũng do chính sách ép buộc của lực lượng
Polpot bắt nhân dân phải đi theo họ nhằm tránh các cuộc pháo kích và truy đuổi của
quân cách mạng. Chính từ vấn đề người tị nạn và việc Thái Lan cho Khmer đỏ lập
căn cứ trên lãnh thổ của mình đã làm phát sinh những căng thẳng và nghi ngơ giữa
hai nước Thái Lan – Việt Nam. Xuất phát từ suy nghĩ và lập trường khác nhau nên
Thái Lan và Việt Nam đã có những hướng đi, cách giải quyết vấn đề trái ngược
nhau và từ đó gây ra những mâu thuẫn. Thái Lan cho rằng, Mặt trận Đoàn kết dân
tộc Cứu nước ở Campuchia là sản phẩm của Việt Nam cùng với việc quân đội Việt
Nam đóng tại Campuchia là nguyên nhân chính gây nên tình trạng các dòng người
tị nạn chạy sang Thái Lan. Đây chính là một trong những yếu tố làm cho tình hình ở
Đông Nam Á không ổn định, đồng thời đe dọa an ninh và chủ quyền của Thái Lan.
Như phần trên đã trình bày, chủ ý thật sự của Thái Lan là mong muốn khôi phục
nguyên trạng như trước khi chính phủ Polpot bị lật đổ. Xuất phát từ chủ ý đó, Thái
Lan tuy không chính thức thức thừa nhận nhưng trên thực tế đã dung túng cho lực
lượng Khơme đỏ, lãnh thổ Thái Lan sát biên giới Campuchia trở thành căn cứ của
lực lượng Polot ẩn dưới hình thức “trại tị nạn” để từ đó vũ khí từ bên ngoài được
đưa vào giúp lực lượng Khơme đỏ chống lại chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia.
Lập trường của Thái Lan có tác động rất lớn đến quan điểm của các nước
ASEAN khác, trong dự thảo nghị quyết mà ASEAN đưa ra Hội đồng Bảo an
(4/3/1979) đã “yêu cầu rút hết quân đội nước ngoài khỏi bán đảo Đông Dương và
kêu gọi các bên xung đột dừng mọi hoạt động thù địch” [70, tr.377]. Trong khi đó
giới quân sự Thái Lan đòi chính phủ có thái độ cứng rắn hơn và không đồng tình
với tuyên bố trung lập của chính phủ Thủ tướng Kriangsak Chomanan.
Trong tháng 4 -5/1979 xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan tiếp tục
diễn ra, có hàng ngàn lính Khmer đỏ cùng hàng vạn thường dân tiếp tục chạy sang
Thái Lan. Thái Lan khẳng định, vì lý do nhân đạo Hội chữ thập đỏ Thái Lan đã lập
những trung tâm y tế dọc theo biên giới để giúp những người tị nạn đó hoặc giúp
những người bị thương khi chiến đấu. Nhưng thực tế, Thái Lan đã ngầm ủng hộ
Khmer đỏ để cho lực lượng này qua biên giới và xây dựng các căn cứ quân sự để
chống lại chính phủ Cộng hòa nhân dân Campuchia và quân đội Việt Nam. Không
những thế Thái Lan còn giúp đỡ lực lượng Khmer đỏ về lương thực và chăm sóc y
tế. Ngay cựu hoàng Campuchia Norodom Xihanouk cũng từng có những nhận xét
về chính sách của chính phủ Thái Lan. Tháng 5/1979 trong cuộc phỏng vấn báo giới
phương Tây, Norodom Xihanouk cho rằng “Thái Lan tiến hành một chính sách lèm
nhèm. Thái Lan sẽ trả giá đắt về chính sách của họ đối với Khmer đỏ, những người
được họ nhắm mắt làm ngơ cho vượt qua biên giới Thái Lan để chạy trốn trước
cuộc tiến công của quân Việt Nam” [61, tr.3].
Thái độ bất đồng của Thái Lan đối với Việt Nam về vấn đề Campuchia đã
được Thái Lan công khai thể hiện trong bản tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng các
nước ASEAN lần thứ 12 ((Joint Communique Of The Twelfth ASEAN Ministerial
Meeting) họp từ ngày 28 đến 30/7/1979 tại Bali (Indonexia). Thái Lan và các nước
ASEAN đã lên án Việt Nam đưa quân vào Campuchia là can thiệp vào công việc
nội bộ của Campuchia, gây ra vấn đề người tị nạn và đe đọa an ninh chủ quyền của
Thái Lan. Thông cáo nêu rõ “Vấn đề sử dụng vũ lực của các bên đối lập ở khu vực
này đe dọa độc lập, chủ quyền của Campuchia. Khẳng định lập trường là người
Campuchia phải tự quyết định tương lai của mình. Chấm dứt việc gây trở ngại hoặc
gây ảnh hưởng từ sức mạnh bên ngoài và yêu cầu Campuchia phải buộccác lực
lượng quân đội bên ngoài ngay lập tức rút khỏi Campuchia” [114, tr.27]. Ngày
10/10/1979 đại diện Bộ ngoại giao Thái Lan đọc diễn văn tại Liên Hợp Quốc chính
thức lên án Việt Nam đưa quan vào Campuchia đe dọa an ninh không chỉ của Thái
Lan mà còn đe đọa an ninh các nước trong khu vực. Để đối phó với tình hình, Thái
Lan tăng ngân sách cho quân sự lên đến 50 triệu USD (1980) điều đó cũng đồng
nghĩa chi phí cho phát triển kinh tế của Thái Lan sẽ giảm sút.
Trái ngược hoàn toàn với lập trường của chính phủ Thái Lan, chính phủ Việt
Nam khẳng định, chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia là đại diện hợp pháp
cho nhân dân Campuchia. Việt Nam cho rằng, tình hình hiện nay ở Campuchia là
không thể đảo ngược và không có vấn đề Campuchia. Việt Nam phủ nhận lập luận
của Trung Quốc, Thái Lan và một số nước, khẳng định mình không can thiệp vào
công việc nội bộ của Campuchia và không có chuyện đe dọa đến hòa bình và an
ninh ở Đông Nam Á. Việt Nam kịch liệt lên án Thái Lan, Trung Quốc và Mĩ đã tiếp
tay cho các thế lực phản động để phá hoại độc lập chủ quyền của Campuchia và lợi
dụng Liên Hợp Quốc nhằm phát động chiến dịch tìm “giải pháp chính trị” để làm
thay đổi tình hình ở Campuchia. Lập trường của Việt Nam được khẳng định rõ
trong thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Dương
lần thứ 1 diễn ra ngày 5/1/1980 tại Campuchia trong đó nêu rõ “Dự thảo nghị quyết
về cái gọi là tình hình Campuchia do các nước ASEAN đưa ra và được Đại hội
đồng bảo an Liên Hợp Quốc thông qua cũng như Hội nghị Bộ trưởng các nước
ASEAN mới đây bàn về vấn đề Campuchia là những hành động chống lại quyền tự
quyết của nhân dân Campuchia”[17, tr.4]. Thông cáo cũng khẳng định các nước
Campuchia, Lào, Việt Nam sẳn sàng thảo luận để ký kết tay đôi với Thái Lan,
Xingaopre, Malaixia, Philippin, Indonexia, Miến Điện hiệp ước không xâm phạm
lẫn nhau và thảo luận những biện pháp nhằm đưa Đông Nam Á trở thành khu vực
hòa bình, tự do và trung lập.
Thực tế trong cuộc xung đột tại Campuchia đã có hàng trăm lượt với hàng
ngàn người tị nạn chạy sang Thái Lan. Theo ước tính của UNHCR (United Nations
High Commissioner for Refugees) thì con số người tị nạn chạy sang Thái Lan
khoảng 250.000 người, trong khi theo chính phủ Thái Lan là 500.000 người. Công
bằng mà nói, vấn đề người tị nạn đã gây cho Thái Lan lúng túng và ảnh hưởng
không nhỏ đến ngân sách của chính phủ Thái. Người phát ngôn Bộ ngoại giao Thái
Lan khẳng định rằng, nếu không dùng vũ lực chống làn sóng người thảm hại này,
chỉ còn một cách cho họ quá cảng. Trong khi thế lực Polpot liên tục gặp phải thất
bại phải dạt dần tới sát biên giới Thái Lan, dọc theo con đường chạy dài từ cực Bắc
Campuchia đến phía Nam ở Poipet thuộc Campuchia vượt biên giới sang Arany
Aprathet thuộc Thái Lan. Quân Polpot đã đóng quay lưng về phía biên giới Thái
Lan hoặc vượt biên giới sang đất Thái Lan nhưng không hề có ý định trở thành dân
tị nạn.
Lập trường, hành động của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề người
tị nạn là đối lập với nhau. Thái Lan cho rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc
từng dòng người tị nạn chạy sang nước mình chính là việc Việt Nam can thiệp quân
sự vào Campuchia. Theo tuyên bố của Thái Lan và các nước ASEAN thì “Việt Nam
phải chịu trách nhiệm chính về việc người di cư trái luật và cần phải có thái độ dứt
khoát trong việc giải quyết nguồn gốc vấn đề…Nguyên nhân sâu chính là do sự can
thiệp của lực lượng vũ trang nước ngoài và chiến sự ở Campuchia ”[114, tr.27].
Theo Thái Lan thì Việt Nam cần đóng vai trò lớn trong đó có điều kiện tiên
quyết để giải quyết vấn đề chính là việc rút hoàn toàn quân đội Việt Nam khỏi
Campuchia để cho người Campuchia quyền tự quyết. Ngược lại Việt Nam cho rằng,
Thái Lan lợi dụng vấn đề người tị nạn để tiến hành những hành động giúp đỡ lực
lượng Polpot chống lại sự hồi sinh của nhân dân Campuchia. Giới cầm quyền Thái
Lan mà nhất là giới quân sự không hề giấu diếm việc họ hy vọng lực lượng Khmer
đỏ sẽ vẫn tiếp tục tồn tại và trở thành một đối thủ mạnh của Việt Nam. Rõ ràng Thái
Lan lo ngại Việt Nam tìm cách giành ưu thế ở khu vực này hơn là về tính chất tàn
bạo của chế độ Polpot trước đây ở Campuchia.
Một thực tế không thể phủ nhận, tại các trại tị nạn trên đất Thái Lan, lực
lượng Khmer đỏ và Khmer Sreid đã tuyển mộ rất nhiều binh lính sau khi được huấn
luyện và trang bị đã trở lại Campuchia để chống lại chế độ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia. Tham vọng trước mắt của Trung Quốc và Thái Lan là bảo đảm cho
quân Khơme đỏ bị nguy khốn ở Campuchia tồn tại, tham vọng lâu dài là thành lập
một mặt trận thống nhất có cơ sở rộng rãi gồm những người Khơme dân tộc chủ
nghĩa chống lại Việt Nam.
Thái Lan lên tiếng đòi Liên Hợp Quốc cần có vai trò lớn hơn và thực hiện
những hành động kịp thời hơn trong việc giải quyết vấn đề người tị nạn. Năm 1980
tại Bangkok Thủ tướng Kriangsak Chomanan khẳng định, các nước ASEAN cùng
đề nghị Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị về Campuchia. Giải pháp này được
Tây Âu, Mĩ và, Trung Quốc tán thành nhưng Việt Nam và Liên Xô không đồng ý.
Theo Thái Lan và ASEAN thì “cần phải có sự quyết tâm của cộng đồng quốc tế để
tìm ra giải pháp, đặc biệt là phải giải quyết nguồn gốc vấn đề…Yêu cầu cộng đồng
quốc tế lên tiếng thuyết phục Việt Nam chấm dứt sự nhập cư”[114, tr.28].
Lập trường đối lập và những căng thẳng trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam
xung quanh vấn đề Campuchia thể hiện sự bất đồng quan điểm của hai bên trong rất
nhiều vấn đề liên quan như: Thái Lan lên án Việt Nam xâm lược Campuchia và
chạy đua vũ trang để chuẩn bị đối phó Việt Nam; Vấn đề người tị nạn và việc Thái
Lan cho các lực lượng Khmer chống đối chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia
sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ; Vấn đề Thái Lan hợp tác với Trung Quốc
tiếp tế cho Khmer đỏ; Xung đột tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan; Thái
Lan lên án Việt Nam xâm phạm chủ quyền của họ và ngược lại Việt Nam lên án
Thái Lan phá hoại nền hòa bình và xâm phạm chủ quyền Campuchia. Tất cả những
vấn đề trên tác động rất lớn đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam, sự manh nha của
những quan hệ giao hảo trước đó đã tiêu tan và thay vào đó là thái độ nghi ngờ, đối
lập và dẫn đến nguy cơ đối đầu giữa hai nước. Sự đối đầu giữa hai nước đã trở
thành hiện thực khi thủ tướng có đường lối đối ngoại khá mềm dẻo của Thái Lan
Kriangsak Chomanan được thay thế bằng Prem Tinsulanond người có thái độ cứng
rắn và không mấy thiện cảm với Việt Nam.
2.2.2. Thái Lan và Việt Nam công khai đối đau xung quanh vấn đề
Campuchia (1980 – 1986)
Năm 1980 chính phủ Thái Lan qua nhiều canh thông tin chính thức lên án
Việt Nam chiếm đóng Campuchia và xâm phạm biên giới Thái Lan. Giới quân sự
Thái Lan còn thổi bùng cái gọi là “sự đe doạ của Việt Nam” và đòi hỏi chính phủ
Thái Lan phải có chính sách cứng rắn. Trước sức ép trong nước mà đặc biệt từ giới
quân sự cộng với sức ép từ Mĩ, Trung Quốc, Thủ tướng Kriangsak Chomanan buộc
phải từ chức (2/1980) và nhường chổ cho Prem Tinsulanond, người có tư tưởng
chống cộng và sẳn sàng có những chính sách cứng rắn hơn người tiền nhiệm. Với
chính sách của Thủ tướng Prem Tinsulanond, Thái Lan từ bỏ tuyên bố trung lập để
chuyển sang công khai đối đầu với Việt Nam về những vấn đề liên quan đến cuộc
xung đột tại Campuchia có ảnh hưởng đến quyền lợi và anh ninh của Thái Lan. Mối
quan hệ đối đầu giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam liên quan đến các vấn đề như:
Thái Lan lên án Việt Nam xâm lược Campuchia và chạy đua vũ trang để chuẩn bị
đối phó Việt Nam; Vấn đề người tị nạn và việc Thái Lan cho các lực lượng Khmer
chống đối chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia sử dụng lãnh thổ của mình
làm căn cứ; Vấn đề Thái Lan hợp tác với Trung Quốc tiếp tế cho Khmer đỏ; Xung
đột tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan; Thái Lan lên án Việt Nam xâm
phạm chủ quyền của họ và ngược lại Việt Nam lên án Thái Lan phá hoại nền hòa
bình và xâm phạm chủ quyền Campuchia.
Từ tháng 3/1980 Thái Lan cho rằng, người tị nạn từ Campuchia tràn qua là
gánh nặng cho ngân sách của mình nên quân đội Thái Lan tìm cách xua đuổi một bộ
phận về nước. Nhưng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia xem đây là chính
sách mới của chính phủ Thái Lan biện minh cho việc giúp đỡ tàn quân Polpot trở lại
Campuchia để phá hoại. Cộng hòa Nhân dân Campuchia còn cho rằng, không ít lần
các đơn vị quân đội Thái Lan đã vi phạm lãnh thổ của Campuchia. Theo đánh giá
của chính phủ Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia thì hành
động của Thái Lan trong việc giúp đỡ tàn quân Polpot nằm trong âm mưu chung
của Trung Quoc và Mĩ muốn lợi dụng mùa mưa để giành những thắng lợi quân sự
nhằm biện minh cho vị thế hợp pháp của lực lượng Polpot ở Liên Hợp Quốc.
Ngày 25 đến 26/6/1980 Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 13
tại Kuala Lumpur (Joint Communique Of The Thirteenth ASEAN Ministerial
Meeting Kuala Lumpur) đưa ra bản thông cáo chung trong đó Thái Lan và các nước
ASEAN đưa ra những lời lẽ gay gắt trong đó lên án quân đội Việt Nam vượt biên
giới Campuchia – Thái Lan xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Thái
Lan. Tuy nhiên, đại diện của Indonexia và Malaixia vẫn duy trì ý định đối thoại với
Việt Nam, trong đó Bộ trưởng ngoại giao Malaixia nhấn mạnh “sẽ tiếp tục đối thoại
với Việt Nam và tin rằng đây là vấn đề quan trọng cho nổ lực của ASEAN trong
việc tìm ra giải pháp hòa bình cho vấn đề Campuchia”[115, tr.31]. Với vấn đề
Campuchia, Hội nghị công bố dự án thành lập trên phần lãnh thổ Thái Lan giáp
ranh với biên giới Campuchia một khu vực “hòa bình và an ninh” với sự có mặt
của quân lính Thái Lan và các trại tị nạn người Campuchia, còn trên phần lãnh thổ
Campuchia giáp ranh biên giới Thái Lan thì thành lập “khu phi quân sự”. Những
người dự hội nghị đòi rút quân đội nước ngoài ra khỏi Campuchia càng sớm càng
tốt và giải giáp các bên xung đột tại Campuchia sau khi quân đội nước ngoài rút đi.
ASEAN bác bỏ đề nghị của các nước Đông Dương về việc triệu tập hội nghị vùng
với lý do không chỉ các nước trong vùng có dính líu đến cuộc xung đột tại
Campuchia. Thái Lan và các nước ASEAN cũng nhất quyết đòi các nước Đông
Dương tham dự hội nghị quốc tế về Campuchia sẽ được triệu tập ở NewYork
(1981) theo nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Cùng với động thái đó,
Thái Lan ngày càng liên minh chặt chẽ với Trung Quốc và Mĩ. Những hành động
đó của Thái Lan được Mĩ và Trung Quốc hết sức hoan nghênh và để đáp lại thiện
chí của Thái Lan, Mĩ và Trung Quốc cam kết “Hiện giờ Bắc Kinh và Washinhton
tuyên bố sẳn sàng thực hiện những cam kết của mình với Thái Lan. Nói tóm lại, tiến
hành can thiệp quân sự…”[70, tr.379 - 380] trong trường hợp Việt Nam xâm lược
Thái Lan.
Để đảm bảo cho an ninh của mình, Thái Lan đề nghị xây dựng một khu vực
an toàn hay một vùng hòa bình phi quân sự cho những người tị nạn Campuchia
ngay trên lãnh thổ Campuchia và đặt dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc. Chính
phủ Thái Lan cũng bác bỏ thẳng thừng mọi khả năng tiến hành đàm phán dù trực
tiếp hay gián tiếp với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia vì cho rằng, nếu
đàm phán với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia tức là đã gián tiếp thừa
nhận tính hợp pháp của chính phủ này.
Trên thực tế Thái Lan không ưa gì chính quyền Campuchia Dân chủ, bởi
dưới thời Polpot còn nắm quyền, Thái Lan – Campuchia không ít lần xảy ra xung
đột với nhau, nhưng Thái Lan vẫn muốn lợi dụng thế lực này để cản phá và làm suy
yếu Việt Nam. Sự sụp đổ của Campuchia Dân chủ không chỉ làm tan hy vọng của
Thái Lan muốn dùng Campuchia dân chủ làm chướng ngại vật làm Việt Nam suy
yếu mà còn góp phần tăng cường uy lực của Việt Nam trong khu vực. Điều đó làm
Thái Lan hết sức lo lắng, do vậy Thái Lan cố gắng làm đủ mọi cách để phục hồi vị
thế mà Thái Lan cho là có lợi cho mình nhất như trước khi Polpot bị lật đổ. Để đạt
được mục đích đó, Thái Lan lên án sự hiện diện của quân đội Việt Nam đe dọa đến
nền an ninh của nước mình và đòi giải quyết ngay vấn đề Campuchia. Thái Lan một
mặt tích cực giúp đỡ lực lượng Khmer đỏ chống Việt Nam, mặt khác kêu gọi sự
giúp đỡ của Trung Quốc, Mĩ và các tổ chức quốc tế gây sức ép lên Việt Nam nhằm
sớm đạt được mục đích của mình.
Những tuyên bố trong thông cáo chung của Hội nghị cấp bộ trưởng các nước
ASEAN lần thứ 13 đã thể hiện rõ lập trường của Thái Lan và các nước ASEAN
trong đó thể hiện sự đối lập và đối đầu với Việt Nam xung quanh vấn đề
Campuchia, điều đó báo hiệu những mâu thuẫn và căng thẳng trong quan hệ giữa
ASEAN với ba nước Đông Dương mà trước hết là quan hệ giữa Thái Lan – Việt
Nam.
Trên thực tế, lập trường của các nước ASEAN về vấn đề Campuchia xuất
hiện nhiều vấn đề phức tạp. Chính vấn đề Campuchia đã làm cho nội bộ các nước
ASEAN có nguy cơ phân hóa, trong khi Thái Lan và Singapore có cùng quan điểm
với nhau, tức la lên án Việt Nam xâm chiếm Campuchia và kêu gọi quốc tế có
những giải pháp mạnh buộc Việt Nam rút quân vô điều kiện. Indonesia và Malaisia
có thái độ ôn hòa hơn, là vẫn để ngõ những khả năng đối thoại trực tiếp với Việt
Nam để giải quyết vấn đề này. Mục đích của ASEAN, Mĩ và Trung Quốc đối với
vấn đề Campuchia không chỉ là việc đòi phục hồi quyền tự quyết của nhân dân
Campuchia mà chủ yếu là ngăn chặn việc mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam - nước
bị Mĩ, Thái Lan và Trung Quốc xem là đồng minh thân cận của Liên Xô. Theo họ,
việc chặn đứng tầm ảnh hưởng của Việt Nam làm cho Việt Nam thất bại cũng có
nghĩa làm cho Liên Xô thất bại, đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình
thành liên minh ASEAN – Mĩ – Trung Quốc chống Liên Xô – Việt Nam. Tuy
nhiên, giữa ASEAN – Mĩ – Trung Quốc cũng có những bất đồng không nhỏ. Trong
đó Mĩ và đặc biệt là ASEAN không muốn nhân vấn đề Campuchia để Trung Quốc
lợi dụng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của họ ở khu vực này.
Sự hợp tác giữa Thái Lan với Trung Quốc để tiếp tay cho các lực lượng
Khmer chống chính phủ là một trong những vấn đề trực tiếp gây ra sự đối đầu trong
quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam. Năm 1980 trong cuộc trả lời báo giới, Thứ
trưởng Trung Quốc Hàn Niệm Long cho biết, lực lượng Khmer khoảng 2000 do In
Tam dẫn đầu được huấn luyện tại Thái Lan sẽ sớm vượt biên giới vào Campuchia
cùng lực lượng Polpot chống lại chính quyền Phnom Penh. Đáp lại tuyên bố đó,
Việt Nam lên tiếng mạnh mẽ phản đối chính sách của Thái Lan trong đó Việt Nam
khẳng định “điều khó hiểu đối với dư luận là thái độ của nhà cầm quyền Thái Lan,
với lòng trung thực chúng ta vẫn cố gắng tin rằng, chính phủ Thái Lan sẽ thực hiện
chính sách trung lập thật sự như họ nói. Nhưng sau những hành động tiếp tay cho
Trung Quốc để cứu vãn Polpot mà chúng ta đã có dịp vạch rõ, lần này Thái Lan
cho phép In Tam sử dụng đất Thái Lan mộ quân để tiếp sức cho tàn quân Polpot
chống lại nhân dân Campuchia. Cần khẳng định đây là một sự việc nghiêm trọng,
một hành động trực tiếp chống lại nhân dân Campuchia.”[61, tr.4].
Thông qua cảng Bangkok của Thái Lan, Trung Quốc đã thực hiện nhiều
chuyến hàng viện trợ cho lực lượng Khmer đỏ và các lực lượng Khmer khác chống
đối chính phủ Heng Samrin. Trong 6 tháng đầu năm 1980 để chuẩn bị cho những
hoạt động chống phá chính phủ trong mùa mưa của lực lượng Polpot, Trung Quốc
“đã chuyển cho bọn phản động Khmer hơn 6000 tấn vũ khí và lương thực”[27,
tr.1]. Từ 1980 theo thỏa thuận giữa Thái Lan và Trung Quốc “hàng quân sự Trung
Quốc đóng giả thành hàng dân dụng, tàu Trung Quốc chuyển đến cảng Bangkok
giao cho quân đội Thái Lan chuyển đi Ubon và chuyển cho bọn tàn quân Polpot.
Thái Lan vận chuyển cho Trung Quốc bình quân mỗi tháng 500 tấn vũ khí – lương
thực tiếp tế cho Khmer đỏ”[27, tr.1]. Sự hợp tác của Thái Lan đối với Trung Quốc
về vấn đề này chặt chẽ đến mức Thái Lan còn thiết lập một Ủy ban đặc biệt chuyên
lo tiếp tế. Các chuyến hàng viện trợ của Trung Quốc trung chuyển sang Thái Lan
gồm thuốc men, vũ khí (súng cối 100, B40.5, B62, Mìn 65A1, 65A2…) đạn dược,
quân trang, quân dụng, lương thực…) được chuyển đến cho lực lượng Polpot và các
lực lượng Khmer chống đối khác đang hiện diện tại biên giới Thái Lan –
Campuchia.
Đáp lại lập trường và những tuyên bố của Thái Lan, từ 1980 Bộ ngoại giao
Việt Nam thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các diễn đàn trong Hội
nghị Bộ trưởng ngoại giao liên tục lên án Thái Lan về việc cho phép vũ khí, đạn
dược và đồ tiếp tế của Trung Quốc quá cảng sang Thái Lan để vào Campuchia.
Trong đó khẳng định, các hoạt động sai lầm đó của các nhà đương cục Thái Lan
trực tiếp xâm phạm lợi ích của nhân dân Campuchia và Việt Nam, đi ngược với
chính sách trung lập mà nhà cầm quyền Thái Lan thường tuyên bố. Các hành động
ấy cũng không phù hợp với ước vọng và các lợi ích của nhân dân. Thái Lan trở
thành một căn cứ cho chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh để họ xâm nhập, can thiệp
và phá hoại những nước khác. Chính phủ Việt Nam tiếp tục khẳng định lập trường
của mình là chống Khmer đỏ để góp phần xóa bỏ nguy cơ bùng nổ đe dọa nền độc
lập của Thái Lan, đe dọa hòa bình và ổn định ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam
cũng không quên tố cáo chính phủ Thái Lan đã có những chiến dịch báo chí phù
hợp với luận điệu và hành động của Trung Quốc nhằm gây căng thẳng trong mối
quan hệ láng giềng giữa hai nước.
Có quá nhiều bất đồng giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam xung quanh
những vấn đề liên quan đến cuộc xung đột tại Campuchia. Trong đó việc Thái Lan
cấu kết với Trung Quốc để tiếp tế cho lực lượng Khmer đỏ càng làm cho mối quan
hệ hai nước trở nên xấu thêm. Bởi Khmer đỏ và Trung Quốc là hai lực lượng đã gây
ra cuộc xung đột tại biên giới Tây Nam Việt Nam và biên giới Đông bắc Việt Nam.
Do vậy, việc Thái Lan liên kết với Trung Quốc giúp đỡ Khmer đỏ chống lại Việt
Nam là một vấn đề mà Việt Nam không thể nào chấp nhận được, điều đó có nghĩa
Thái Lan đã công khai trực tiếp đối đầu với Việt Nam. Hành động đối đầu của Thái
Lan còn thể hiện ở việc thông qua diễn đàn tại Hội nghị Bộ trưởng các nước
ASEAN và Liên Hợp Quốc cũng như với báo chí, Thái Lan lên án Việt Nam rất
nhiều lần lấy cớ truy đuổi lực lượng Polpot đã xâm nhập vào lãnh thổ của họ. Thái
Lan cho rằng, những hành động của Việt Nam đe dọa đến an ninh chủ quyền của
Thái Lan và làm cho khu vực trở nên căng thẳng. Ngày 21/2/1980 tại cuộc họp báo
hàng tháng ở Bangkok, người phát ngôn của Bộ tư lệnh tối cao Thái Lan – tướng
Xom Cataphan tuyên bố “Kể từ đầu năm nay, các lực lượng do Việt Nam lãnh đạo
đã 8 lần xâm nhập lãnh thổ Thái Lan. Ngày 4/2/1980 có 2000 quân Việt Nam vào
sâu nội địa Thái Lan tại bản Lan tỉnh Chantaburi”[19, tr.4].
Liên quan đến vấn đề Campuchia trong đó có việc Thái Lan kêu gọi Liên Hợp
Quốc cần có trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề người tị nạn. Ngày 26 – 27/5/1980
Liên Hợp Quốc tổ chức cuộc họp tại Giơnevơ (Thụy Sĩ) do Tổng thư kí Liên Hợp
Quốc Kurt Waldheim chủ trì có sự tham gia của Thái Lan, Cao ủy Liên Hợp Quốc
về người tị nạn (UNHCR) và Cơ quan nhân đạo của chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia. Trong hội đàm, Tổng thư kí Kurt Waldheim đã đưa ra giải pháp gồm 5
nguyên tắc để thực hiện các biện pháp nhân đạo và giải quyết vấn đề người tị nạn.
Năm nguyên tắc bao gồm “1. Tăng cường khẩn cấp các nhân viên quốc tế về người
tị nạn đến các ngôi làng của Thái Lan để nhanh chóng đưa những người tị nạn đi
định cư; 2. Ngay lập tức cải thiện tình hình an ninh tại các trại tị nạn dọc biên giới
nhằm đảm bảo tính mạng cho thường dân Campuchia; 3. Cử ông Robert Jackson –
người có kinh nghiệm đứng đầu chương trình nhân đạo nhằm phối hợp với văn
phòng Thủ tướng Thái Lan để viện trợ cho những người Campuchia dọc biên giới
Thái Lan; 4. Thiết lập chương trình xác minh, kiểm soát để đảm bảo an toàn, minh
bạch và có hiệu quả cho hàng cứu trợ; 5. Thiết lập văn phòng ủy nhiệm của tổ chức
cứu trợ Liên Hợp Quốc tại Campuchia đồng thời trao cho họ thẩm quyền và tính cơ
động trong việc giải quyết vấn đề”[115, tr.34]. Thực hiện kịp thời cứu trợ nhân đạo,
hổ trợ y tế và đưa đi định cư ở một nước thứ ba. Tháng 7 đến tháng 8/1980 trong
chuyến viếng thăm Đông Nam Á trong đó có Thái Lan và Việt Nam, Tổng thư kí
Liên hợp Quốc Kurt Waldheim đã tận mắt thấy tính chất nghiêm trọng của tình hình
người tị nạn ở Thái Lan. Số người chạy trốn Khơme đỏ hoặc chạy trốn tình hình
chiến sự sang Thái Lan là rất đông. Ông yêu cầu Liên Hợp Quốc, các nước trong
khu vực giúp đỡ Thái Lan nhiều hơn nhằm giải quyết vấn đề người tị nạn trong đó
yêu cầu một số nước ASAEN khác phải cho dân tị nạn đến cư trú. Ông Kurt
Waldheim nhắc nhở các nhà lãnh đạo Thái Lan rằng, hiến chương nhân quyền cấm
xua đuổi dân tị nạn để phản đối hành động xua đuổi những nhóm người tị nạn mà
Thái Lan nghi ngờ có tay chân của Việt Nam hoặc chính phủ Heng Samrin cài vào.
Ngày 2/8/1980 Tổng thư kí Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim thăm Việt Nam
nhằm tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia trong đó có vấn đề người tị nạn. Tuy
nhiên yêu cầu can thiệp của Liên Hợp Quốc không được Việt Nam đồng ý vì Việt
Nam luôn cho rằng Liên Hợp Quốc chỉ thực hiện những hành động có lợi cho Mĩ,
Trung Quốc và Thái Lan mà thôi. Chính phủ Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân
Campuchia cũng phản đối hành động xua đuổi những người tị nạn và cho rằng,
hành động xua đuổi những người tị nạn trở lại Campuchia thực chất là đưa lực
lượng Khmer đỏ trở lại và gài tình báo của Thái Lan vào để chống phá sự hồi sinh
của Campuchia. Đồng thời lên tiếng tố cáo “Nhà cầm quyền Thái Lan thực tế đã
cam thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia, xâm phạm độc lập, chủ quyền
Campuchia, làm tổn hại đến tình hữu nghị, quan hệ láng giềng tốt giữa hai nước
Campuchia - Thái Lan là sự tiếp tay cho âm mưu bành trướng của bọn phản động
Bắc Kinh”[20, tr.4].
Lập trường và hành động của hai bên có sự khác biệt rất lớn trong vấn đề
người tị nạn Campuchia và vấn đề lực lượng Khmer đỏ chạy sang Thái Lan thiết lập
các căn cứ chống lại chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia. Thái Lan vẫn tuyên
bố không có chuyện họ giúp đỡ cho lực lượng Khmer sử dụng đất của mình để thiết
lập các căn cứ. Nhưng thực tế, Thái Lan đã để cho các lực lượng Khmer chống đối
chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ.
Theo suy nghĩ của mình, Thái Lan vẫn muốn giúp đỡ tất cả những lực lượng có khả
năng kìm hãm việc Việt Nam đặt bàn tay lên Campuchia ngay sát nách họ. Về vấn
đề người tị nạn, phía Thái Lan cho rằng, nguyên nhân chính gây nên tình trạng từng
dòng người tị nạn chạy sang Thái Lan và các nước ASEAN chính là việc Việt Nam
đưa quân đội vào Campuchia. Đồng thời giải thích, việc những người Campuchia
trở về quê là do mong muốn hồi hương tự nguyện. Mặt khác Thái Lan yêu cầu, để
giải quyết dứt điểm vấn đề này thì Việt Nam cần rút quân khỏi Campuchia và để
cho người Campuchia quyền tự quyết. Lập trường trên của Thái Lan bị phía Việt
Nam hoàn toàn bác bỏ, Việt Nam cho rằng chính sự giúp đỡ của Thái Lan đối với
lực lượng Polpot và các lực lượng Khmer chống đối khác là nguyên nhân gây nên
tình hình căng thẳng và bất ổn cho Campuchia nói riêng và khu vực Đông Nam Á
nói chung. Thái Lan thực hiện cái gọi là hồi hương tự nguyện thực chất là đe đậy
hành động đưa các lực lượng Khmer chống đối chính phủ trở lại phá hoại nền hòa
bình và sự hồi sinh của Campuchia.
Lập trường của Thái Lan và các nước ASEAN đối vơi Việt Nam xung quanh
vấn đề Campuchia tiếp tục được nêu lên trong thông cáo chung của Hội nghị Ban
thường trực ASEAN diễn ra đầu tháng 8/1980 tại Manila. Thông cáo khẳng định,
nguyên nhân chính gây ra tình hình căng thẳng hiện nay ở Đông Nam Á chính là
việc Việt Nam tiếp tục chiếm đóng Campuchia. Hội nghị đã đưa ra yêu sách đòi
Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia và để cho nhân dân nước này quyền tự
quyết. Lập trường của Thái Lan và ASEAN về vấn đề Campuchia là trái ngược
hoàn toàn với Việt Nam. Các nước ASEAN quả quyết rằng, chính sự can thiệp quân
sự của Việt Nam vào Campuchia và hành động chiếm đóng của Việt Nam là nguyên
nhân chính gây ra tình trạng căng thẳng, không ổn định trong khu vực Đông Nam Á
và nguy cơ chính đối với an ninh và ổn định của Thái Lan nói riêng và các nước
trong khu vực nói chung. ASEAN thẳng thừng từ chối công nhận chính quyền Cộng
hòa Nhân dân Campuchia. Theo quan điểm của ASEAN thì “con đường dẫn đến
bình thường hóa quan hệ giữa các nước ASEAN và Đông Dương được khởi đầu
bằng việc giải quyết vấn đề Campuchia, tức Việt Nam phải rút quân khỏi
Campuchia và trả lại cho nhân dân nước này quyền tự quyết” [70, tr.385]. trong
các Hội nghị Bộ trưởng tiếp theo diễn ra tại Philipin (1981), Singapore (1982), Thái
Lan (1983), Indonexia (1984), Malaixia (1985), Philippin (1986) các nước ASEAN
tiếp tục khẳng định và giữ vững lập trường đó.
Để đáp lại quan điểm của Thái Lan và ASEAN, ngày 26/8/1980 Bộ ngoại
giao Việt Nam công bố lập trường, quan điểm của mình về các nguyên nhân tình
trạng căng thẳng ở Đông Nam Á cũng nhằm giải thích sự nghi ngại của Thái Lan về
những hành động của mình. Việt Nam khẳng định “Không có mối đe dọa đến Thái
Lan từ Việt Nam, chỉ có vấn đề Trung Quốc đã thông đồng với chủ nghĩa đế quốc
Mĩ chống lại nhân dân Đông Dương…Chìa khóa để giải quyết cái gọi là vấn đề
Campuchia là Trung Quốc phải chấm dứt chính sách thù địch chống lại nhân dân
Đông Dương, đó cũng là con đường dẫn đến một nền hòa bình lâu dài và ổn định ở
Đông Nam Á”[70, tr.381]. Rõ ràng lập trường của Việt Nam khẳng định những bất
ổn về an ninh ở Đông Nam Á và nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc xung đột tại
Campuchia là do âm mưu của các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn khu vực này
bất ổn để dễ bề khống chế. Việt Nam cho rằng, âm mưu của Trung Quốc thực chất
là muốn “giành cho được Đông Nam Châu Á, bao gồm cả Việt Nam, Thái Lan,
Malaixia, Xingapore…để có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô – Đông Âu”[18,
tr.2]. Đối với việc Thái Lan và các nước ASEAN lên án Việt Nam chiếm đóng
Campuchia một cách bất hợp pháp, Việt Nam một lần nữa khẳng định “Sự có mặt
của quân đội nhân dân Việt Nam trên đất nước Campuchia là theo đề nghị của Hội
đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia để cùng với quân đội và nhân dân
Campuchia bảo vệ những thành quả cách mạng giành được. Điều đó hết sức cần
thiết, phù hợp với nguyện vọng nhân dân, phù hợp với luật pháp quốc tế và Hiến
chương Liên Hợp Quốc”[17, tr.4].
Lập trường của Việt Nam đưa ra không được Thái Lan, ASEAN tán đồng do
đó họ tiếp tục vận động Liên Hợp Quốc tiếp tục công nhận chính quyền Polpot,
đồng thời không quên kêu gọi Mĩ và Trung Quốc ủng hộ. Do đó, tại kì họp thứ 35
của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (tháng 11/1980) đã thông qua Nghị quyết 35/6
theo đó kéo dài quyền đại diện của chính quyền Polpot tại Liên Hợp Quốc thêm một
năm nữa và kêu gọi thành lập một hội nghị quốc tế nhằm thảo luận để đưa ra một
giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia. Tất nhiên, Nghị quyết 35/6 gặp
phải sự phản đối quyết liệt từ Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia. Ngày 28/2/1981 Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Dương
khẳng định, phản đối triệu tập hội nghị quốc tế về Campuchia đồng thời đề xuất
sáng kiến hội nghị vùng giữa các nước Đông Dương và ASEAN (dự kiến vào thang
3/1981). Theo Việt Nam sau khi các nước Đông Dương và ASEAN đã kí được hiệp
định về hòa bình và on định ở Đông Nam Á sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế chỉ để
công nhận kết quả này. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Dương tiếp
tục khẳng định, nguyên nhân cơ bản gây nên tình hình căng thẳng và bất ổn ở Đông
Nam Á nói chung và Campuchia nói riêng đều xuất phát từ chính sách thù địch của
Trung Quốc chống lại nhân dân ba nước Đông Dương. Trong các tuyên bố và phát
biểu, Việt Nam luôn khẳng định không hề có ý định xâm lược Thái Lan cũng không
hề có ý định thành lập Liên bang Đông Dương để đáp lại luận điệu của Trung Quốc
luôn tuyên bố Việt Nam sẽ xâm lược Thái Lan và thành lập Liên bang Đông
Dương. Việt Nam cũng kêu gọi, vấn đề chính của các nước Đông Nam Á lúc này
phải chống lại chính sách bá quyền nước lớn của Trung Quốc. Đồng thời khẳng
định sự có mặt của quân đội Việt Nam tại Campuchia là bất đắc dĩ nhưng trước mắt
là vô cùng cần thiết cho hòa bình và ổn định cho nhân dân Campuchia.
Trong những vấn đề dẫn đến sự đối đầu giữa Thái Lan – Việt Nam xung
quanh vấn đề Campuchia thì vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan là
một trong những vấn đề rất nổi cộm. Thái Lan nhiều lần lên án Việt Nam lấy cớ
truy đuổi lực lượng Polpot để xâm phạm lãnh thổ và đe dọa an ninh của họ. Không
chỉ có vậy Thái Lan còn dùng các biện pháp trừng phạt kinh tế để gây khó khăn cho
Việt Nam. Ngày 8/7/1980 Thứ trưởng thương nghiệp Thái Lan Chayapon tuyên bố
đình chỉ xuất khẩu tất cả các mặt hàng sang Việt Nam nhằm trả đũa việc quân đội
Việt Nam vượt qua biên giới Thái Lan, đồng thời ra lệnh bốc hàng ra khỏi 2 tàu
nhận hàng của Việt Nam tại cảng Bangkok và cảng Coocxichang (Chonburin).
Ngày 26/7/1980 Tại Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lần thứ 13 tại Malaixia,
Thái Lan và các nước ASEAN đã ra tuyên bố “lên án hành động xâm lược của Việt
Nam đe dọa Thái Lan và sự xâm nhập vào lãnh thổ Thái Lan của quân đội Việt
Nam. Yêu cầu quân đội Việt Nam rút toàn bộ khỏi Campuchia để cho người
Campuchia quyền tự quyết. Chấm dứt mọi hoạt động cam thiệp vào công việc nội
bộ của các nước Đông Nam Á”[115, tr.32].
Theo Thái Lan thì tháng 6/1980 quân Việt Nam xâm nhập lãnh thổ Thái Lan
tại làng Nonmaccun, xâm nhập Sadeng vào tháng 1/1981 và làng Nongchan vào
tháng 1/1983 tất cả đều thuộc tỉnh Prachin Buri và đụng độ với lính biên giới Thái
Lan, gây một số thương vong cho hai bên. Tuy nhiên sau khi nghiên cứu kỹ bản đồ
Thái Lan, cá nhân tác giả nghi ngờ tính trung thực của ba sự kiện trên, bởi thực tế
tỉnh Prachin Buri chỉ cách thủ đô Bangkok khoảng hơn 100km về phía Đông và
cách rất xa biên giới Thái Lan – Campuchia. Bên cạnh đó, Việt Nam luôn khẳng
định với dư luận quốc tế không có ý định tấn công Thái Lan, Việt Nam cũng đã cam
kết với Tổng thư kí Liên Hiệp Quốc khi ông này viếng thăm Việt Nam (1980) là
Việt Nam chỉ có những ý định hoà bình đối với các nước láng giềng ASEAN. Thủ
tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã giải thích nguyên nhân Việt Nam đưa quân vào
Campuchia rằng “Campuchia là một trường hợp đặc biệt dựa trên cơ sở mối liên hệ
lịch sử giữa hai nước và sự khiêu khích của Polpot”[1, tr.6]. Do đó, việc quân Việt
Nam xâm nhập vào ba làng của tỉnh Prachin Buri cách thủ đô Bangkok không xa
mấy như Thái Lan nêu trên là hầu như ít có khả năng xảy ra. Việc Thái Lan cố đưa
ra những bằng chứng như vậy nhằm để thuyết phục dư luận quốc tế là vấn đề an
ninh của Thái Lan đã bị Việt Nam đe dọa tới mức nghiêm trọng nhằm tranh thủ sự
ủng hộ. Tháng 3/1984 Thái Lan lại tiếp tục lên án Việt Nam xâm nhập lãnh thổ Thái
Lan tại làng Samrong Ket thuộc tỉnh Sisaket nhằm tiêu diệt quân Khmer đỏ và đụng
độ với lính biên giới Thái Lan. Không chỉ có lên án qua các phương tiện thông tin,
trong mùa khô vào tháng 4/1983 và tháng 5/1984 Bộ Ngoại giao Thái Lan đã gởi 2
bức công hàm cho Đại sứ quán Việt Nam tại BangKok để lên án Việt Nam bắn rơi
máy bay trinh sát và pháo kích vào lãnh thổ Thái Lan làm chết và bị thương dân
làng của họ. Trong năm 1985 Thái Lan tiếp tục lên án Việt Nam xâm nhập các làng
Taveng thuộc tỉnh Surin.
Thái Lan nhiều lần lên án Việt Nam lấy lý do tiêu diệt các lực lượng Khmer
chống chính phủ Heng Samrin đã xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ đã làm cho mối
quan hệ Thái Lan và Việt Nam ngày một xấu đi. Đấu tranh chính trị thông qua các
diễn đàn của hai bên ngày càng quyết liệt hơn. Trong khi đó ngược lại, chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam không chỉ lên án Thái Lan dung túng,
tiếp tế cho Khmer đỏ mà còn nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Campuchia. Cộng hòa
Nhân dân Campuchia và Việt Nam khẳng định “Gần như hàng ngày, pháo từ lãnh
thổ Thái Lan bắn sang lãnh thổ Campuchia và máy bay quân sự Thái Lan xâm
phạm vùng trời Campuchia. Những hoạt động xâm phạm nói trên ngày càng mở
rộng, việc làm của nhà cầm quyền Thái Lan nhằm đổi trắng thay đen nhưng không
thể che đậy sự thật là chính họ xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Campuchia”[20, tr.4]. Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam còn lên án
tàu thuyền Thái Lan xâm phạm lãnh hải Campuchia, máy bay L19, phản lực CH47,
F5 của Thái Lan nhiều lần xâm phạm vùng trời Campuchia, pháo và rốc két từ Thái
Lan bắn sang Battambang, Siemriep, Poipet, Preh Vihear gây cho Campuchia nhiều
thiệt hại về người và của. Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia
tuyên bố “Những lời thanh minh gần đây của nhà cầm quyền Thái lan không che
dấu được sự thật là những hành động đó xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của
Campuchia và rõ ràng là nhằm yểm trợ cho bọn tàn quân Polpot – Iêng Xari” [22,
tr.4]. Việt Nam yêu cầu Thái Lan phải có những biện pháp nhằm chấm dứt ngay
mọi hành động tương tự, triệt để tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia vì
tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước. Nếu những hành động trên còn tiếp diễn
thì nhà cầm quyền Thái Lan phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi hậu quả do họ
gây ra.
Trong khi đó ngược lại, chính phủ Thái Lan đưa ra chính sách 3 điểm trái
ngược hoàn toàn với lập trường của Việt Nam. Chính sách 3 điểm của Thái Lan bao
gồm: Thứ nhất, trả lại tất cả những người Campuchia về nước họ. Thứ hai, cho phép
quân đội cho phép quân đội hai bên chạy vào lãnh thổ Thái Lan để tránh bị tiêu diệt.
Thứ ba, chống lại việc truy kích bằng vũ lực của hai bên. Ai cũng có thể hiểu, chính
sách 3 điểm của Thái Lan rõ ràng là chỉ có lợi cho lực lượng Khmer đỏ và các lực
lượng Khmer khác chống chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đồng thời ngụy
biện cho những hành động dung túng của họ. Chính sách 3 điểm cũng công khai
chống lại những quan điểm và hành động của chính phủ Việt Nam đối với vấn đề
xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan.
Những xung đột ở chiến trường đôi lúc có những diễn biến phát sinh mà
chính phủ chưa chắc đã kiem soát kịp đặc biệt là xung đột ở khu vực biên giới vô
cùng nhạy cảm. Những đợt đạn pháo bắn nhầm chổ, những cuộc tập kích chớp
nhoáng chưa rõ thực hư do ai gây ra cũng có thể gây nên những phản ứng trái
ngược của hai bên nhất là khi quan điểm hai bên đối nghịch với nhau. Do vậy trong
giai đoạn 1980 – 1986 vấn đề xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan là một
trong những vấn đề nổi cộm tác động rất xấu đến mối quan hệ Thái Lan và Việt
Nam.
Ngày 13 – 15/7/1981 Hội nghị quốc tế về Campuchia với 80 nước tham dự
diễn ra tại New York (Mĩ) đưa ra nghị quyết đòi rút hết quân đội nước ngoài khỏi
Campuchia, ngừng bắn, giải giáp các bên xung đột, thành lập Ủy ban quản lý và
tiến hành bầu cử tự do dưới sự giám sát của Liên Hợp Quốc. Thái độ của chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia và Việt Nam đối với hội nghị New York là lên án
kịch liệt. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia khẳng định, một nghị quyết
như thế về Campuchia là không cần thiết vì không có vấn đề Campuchia. Trong khi
Việt Nam cho rằng, nghị quyết đưa ra tại Hội nghị New York là “Âm mưu phá hoại
sự hồi sinh của Campuchia, mở đường cho bè lũ Polpot và những kẻ phản động
Khmer khác quay lại xứ sở này”[70, tr.384 - 385]. Đồng thời lên án nghị quyết hội
nghị New York nhằm xóa mờ đi âm mưu của Trung Quốc và Mĩ trong việc đe dọa
an ninh và hòa bình ở Đông Nam Á.
Về vấn đề Việt Nam thật sự có tấn công Thái Lan hay không? Theo giới
phân tích Thái Lan “trước mắt một cuộc chạm trán lớn giữa hai nước ít có khả
năng xảy ra chừng nào lực lượng của Polpot chưa bị tiêu diệt hoàn toàn”[97,
tr.13]. Do đó đòi hỏi chính phủ Thái Lan phải có những chính sách để ủng hộ lực
lượng Khmer đỏ xem đây là giải pháp tốt nhất để kìm chân và làm Việt Nam suy
yếu. Thực tế Việt Nam không hề có ý định tấn công Thái Lan, chính Bộ ngoại giao
Việt Nam đã nhiều lần tuyên bố xác định lập trường về vấn đề này. Trả lời các hãng
thông tấn báo chí, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch nhiều lần
khẳng định “Việt Nam chống Khmer đỏ là góp phần xóa bỏ nguy cơ bùng nổ đe dọa
nền độc lập, hòa bình, ổn định của Thái Lan và khu vực. Việt Nam mong muốn cùng
tồn tại trong hòa bình với Thái Lan”[66, tr.1]. Không chỉ có Việt Nam khẳng định
mà trước đó chính Liên Xô, đồng minh chiến lược với Việt Nam cũng khẳng định
với Thủ tướng Kriangsak Chomanan nhân chuyến thăm của ông đến Liên Xô (tháng
4/1979). Trong cuộc hội đàm hai bên, Thủ tướng Liên Xô Kossygin khẳng định
“Không thể có chuyện Việt Nam xâm lược Thái Lan hay có mưu đồ chiếm lĩnh Thái
Lan”[88, tr.13]. Lập trường của Việt Nam luôn khẳng định trong tất cả các tuyên bố
là không bao giờ có chuyện Việt Nam xâm lược Thái Lan. Đồng thời, Việt Nam và
Cộng hòa Nhân dân Campuchia quả quyết “kiên trì chính sách quan hệ hữu nghị,
láng giềng tốt đẹp với Thái Lan và các nước đông Nam châu Á, tích cực góp phần
vào hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực Đông Nam Á” [10, tr.3].
Từ 1980 – 1986 Lập trường của Thái Lan đối với vấn đề Campuchia cũng
như đối với Việt Nam vẫn chưa thay đổi. Có nghĩa Thái Lan vẫn lên án Việt Nam
chiếm đóng Campuchia, đe dọa an ninh, chủ quyền của họ và tích cực tìm kiếm
đồng minh, chạy đua vũ trang nhằm chuẩn bị đối phó với Việt Nam. Hầu như hàng
tháng Thái Lan đều tổ chức các cuộc biểu tình lên án Việt Nam chiếm đóng
Campuchia và xâm phạm lãnh thổ Thái Lan. Để phục vụ cho mục đích đó, Thái Lan
cho xuất bản Sách trắng ngoại giao (1980) và thông qua các tuyên bố chung của
Hội nghị Bộ trường ASEAN để lên án Việt Nam và khẳng định lập trường của
mình. Thái Lan còn chạy đua vũ trang để chuẩn bị đối đầu với Việt Nam trong đó
số tiền chi tiêu mua vũ khí đạt con số kỷ lục 107 triệu USD (1985).
Những tố cáo của chính phủ Thái Lan bị chính phủ Cộng hòa XHCN Việt
Nam và Cộng hòa Nhân dân Campuchia bác bỏ, ngược lại còn tố cáo Thái Lan giúp
đỡ các thế lực Khmer phản động chống nhân dân Campuchia và can thiệp vào công
việc nội bộ của Campuchia, lập trường của Việt Nam thể hiện rõ trong tuyên bố Bị
vong lục (1980) và trong các tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
Campuchia, Lào, Việt Nam từ 1980 - 1986.
Trong giai đoạn 1980 – 1986, chính vấn đề Campuchia là nguyên nhân chủ
yếu làm cho mối quan hệ hai nước Thái Lan và Việt Nam ngày càng trở nên xấu đi,
những nghi ngờ và lập trường rất khác xa nhau đã đẩy những mâu thuẫn trở nên
trầm trọng và tác động không nhỏ đến tình hình khu vực. Qua tìm hiểu cho thấy,
không thể phủ nhận sự thay đổi chính sách và việc thể hiện đường lối ngoại giao đối
đầu của Thái Lan với Việt Nam có sự tác động không nhỏ của các cường quốc bên
ngoài mà tiêu biểu là Trung Quốc và Mĩ.
Tóm lại, trong giai đoạn này, lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia
tỏ ra rất cương quyết, Việt Nam một mực khẳng định vấn đề căng thẳng, bất ổn, đe
dọa an ninh và hòa bình ở Đông Nam Á là do chính sách bành trướng, phá hoại của
Trung Quốc có sự giúp sức của Mĩ chống lại các nước Đông Dương nói riêng và
Đông Nam Á nói chung mà minh chứng cụ thể nhất là tiếp tay cho Khmer đỏ và các
thế lực phản động khác. Quân đội Việt Nam có mặt tại Campuchia là cần thiết,
không đe dọa đến an ninh, chủ quyền của Thái Lan cũng như bất kì nước ASEAN
nào. Trái lại, còn góp phần làm ổn định an ninh, đem lại hòa bình cho Campuchia
nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Ngăn chặn sự quay lại của chế độ
Polpot, giúp nhân dân Campuchia tái thiết đất nước thành công. Bên cạnh lập
trường cứng rắn, Việt Nam cũng hé mở khả năng rút bớt quân khỏi Campuchia khi
tình hình Campuchia dần ổn định. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia,
Lào, Việt Nam (7/7/1982) diễn ra ở TP. Hồ Chí Minh đã đi đến thỏa thuận Việt
Nam sẽ rút bớt một số quân khỏi biên giới Campuchia – Thái Lan. Hội nghị cấp cao
Việt Nam – Lào – Campuchia (23/2/1983) ở Viên Chăn đã đưa ra tuyên bố sẽ rút
một số quân Việt Nam khỏi Campuchia và tất cả quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút
hết về nước khi mối đe dọa của các thế lực Khmer phản động đối với chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Campuchia chấm dứt. Việt Nam cũng nhiều lần tái khẳng định
mong muốn chiến sự chấm dứt càng sớm càng tốt, không muốn chiến tranh kéo dài
và “muốn giữ gìn mối quan hệ, muốn làm cho biên giới Thái Lan – Campuchia có
hòa bình ổn định và muốn Việt Nam và Thái Lan sớm có quan hệ hữu nghị”[51,
tr.39].
Vấn đề Campuchia đã đẩy mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trượt dốc theo
chiều hướng ngày càng xấu đi. Lập trường, quan điểm và thái độ khác biệt của Thái
Lan đối với Việt Nam trong những vấn đề liên quan đến cuộc xung đột tại
Campuchia đã dẫn đến những hành động trái ngược nhau. Có quá nhiều yếu tố tác
động xấu từ cuộc xung đột tại Campuchia đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ đó
dẫn đến sự đối đầu trong quan hệ hai nước.
TIỂU KẾT
Trong giai đoạn mà sự đối đầu Đông – Tây vẫn còn căng thẳng, sự chi phối
của hai cực Xô – Mĩ đối với phần còn lại của thế giới vẫn còn rất lớn thì một vấn đề
xảy ra như cuộc xung đột tại Campuchia sẽ trở nên phức tạp hơn rất nhiều khi có sự
tham gia của các cường quốc đối lập. Cuộc “chiến tranh lạnh” vẫn có sự tác động
không nhỏ đến cuộc xung đột tại Campuchia.
Xung quanh vấn đề Campuchia giai đoạn 1979 – 1986 có quá nhiều nhân tố
tác động xấu đến mối quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam. Nếu xem quan hệ Thái
Lan – Việt Nam là một biểu đồ hình Sin thì đây chính là giai đoạn biểu thị điểm
thấp nhất hiển thị trong biểu đồ. Xuất phát từ quan điểm khác nhau, thái độ, lập
trường và góc độ nhìn nhận vấn đề Campuchia khác nhau, dẫn đến hậu quả là cách
giải quyết vấn đề có sự khác biệt rất lớn đẩy mối quan hệ hai nước trượt dốc dẫn
đến sự đối đầu.
Theo lập trường của Thái Lan thì nguồn gốc của tất cả các nguyên nhân gây
khó khăn cho Thái Lan và các nước trong khu vực như vấn đề người tị nạn, xung
đột tại biên giới Thái Lan - Campuchia, an ninh chủ quyền của Thái Lan bị đe dọa
đều xuất phát từ nguyên nhân Việt Nam chiếm đóng trái phép Campuchia và dựng
lên chính phủ thân Việt Nam do Heng Samrin đứng đầu. Thái Lan còn nhiều lần tố
cáo Việt Nam lấy cớ truy đuổi tàn quân Polpot để xâm nhập trái phép lãnh thổ của
họ đồng thời tích cực chạy đua vũ trang và tìm kiếm đồng minh để đối phó. Ngược
lại Việt Nam cho rằng, chính việc Thái Lan bắt tay với Trung Quốc tiếp tế cho
Khmer đỏ và các thế lực Khmer phản động khác là nguyên nhân gây nên tình trạng
bất ổn ở Campuchia cũng như trong khu vực. Bên cạnh đó Việt Nam còn lên án
Thái Lan có chính sách thù địch đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia
và nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Campuchia.
Lập trường đối lập dẫn đến sự đối đầu của hai nước trong giai đoạn này còn
tác động không tốt đến mối quan hệ của các nhóm nước trong khu vực Đông Nam
Á. Một thực tế không thể phủ nhận là lập trường khác biệt và đối đầu của hai nước
Thái Lan – Việt Nam chịu tác động không nhỏ của các cường quốc đối lập mà cụ
thể ở đây là Liên Xô, Mĩ và Trung Quốc.
Trong khi lập trường của các nước lớn đối lập chưa thay đổi thì lập trường,
quan điểm của Thái Lan và Việt Nam khó có cơ hội đổi thay. Trong giai đoạn này
(1979 - 1986) Thái Lan vẫn kiên quyết giữ vững lập trường đòi Việt Nam rút quân
vô điều kiện khỏi Campuchia, để cho người Campuchia quyền tự quyết và tổ chức
hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề Campuchia. Ngược lại Việt Nam vẫn khẳng
định tình hình Campuchia hiện giờ là không thể thay đổi và không thể đảo ngược.
Việt Nam xem sự hiện diện của quân đội mình tại Campuchia là một việc làm hợp
pháp bởi đã có sự chấp thuận của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia để giữ
gìn và duy trì hòa bình không chỉ cho đất nước Campuchia mà còn cho các nước
khác trong khu vực.
Trong việc tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, phương pháp
của hai bên cũng có sự khác biệt rất lớn. Thái Lan ủng hộ giải pháp về một hội nghị
quốc tế để giải quyết vấn đề Campuchia trong đó Liên Hợp Quốc phải đóng vai trò
chính. Trong khi Việt Nam chỉ chấp nhận một hội nghị vùng gồm các nước Đông
Nam Á và các bên Campuchia để giải quyết vấn đề đồng thời không chấp nhận một
hội nghị quốc tế về Campuchia cũng như không chấp nhận vai trò chính của Liên
Hợp Quốc.
Theo quy luật, một khi xuất hiện mâu thuẫn đối kháng mà hai bên không tìm
được điểm chung cũng như không thể toàn quyền quyết định vấn đề thì mâu thuẫn
đó sẽ bộc lộ hết bản chất của nó và chắc chắn khi đã tích lũy đủ lượng sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất tức là lúc mâu thuẫn sẽ được giải quyết để thúc đẩy sự phát triển.
Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1979 – 1986
này cũng là một trường hợp tương tự.

Có thể khẳng định, chính vấn đề Campuchia đã gây ra những tổn thất rất lớn
cho không chỉ Việt Nam, Campuchia mà còn cho cả Thái Lan. Sự tác động của vấn
đề này ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình xây dựng đất nước giàu mạnh của cả Thái
Lan và Việt Nam. Mặt khác còn ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển cũng như
mối quan hệ của các nước trong khu vực. Do đó sớm giải quyết vấn đề Campuchia
không chỉ có lợi cho Thái Lan và Việt Nam mà còn cho cả các nước trong khu vực.
Chương 3
VẤN ĐỀ CAMPUCHIA TRONG QUAN HỆ THÁI LAN –
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 1991.

3.1. Bối cảnh lịch sử và những nhân tố tác động đến đường lối đối ngoại của
Thái Lan – Việt Nam
Trong nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều
biến động dẫn đến những thay đổi chóng vánh mà nếu các quốc gia dân tộc không
bắt kịp có thể gây ra những hậu quả khôn lường. Bối cảnh thế giới đang đặt ra
những vấn đề cấp thiết đòi hỏi các nước cần có sự liên kết hợp tác mới giải quyết có
hiệu quả. Trước tình hình đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho mỗi nước cần phải có
những sự thay đổi mạnh mẽ, quyết tâm cải cách để đưa đất nước phát triển. Trong
khi các nước đi theo con đường TBCN rất thành công trong việc tổ chức và sắp xếp
lại nền kinh tế, áp dụng mạnh mẽ khoa học – kĩ thuật vào sản xuất đem lại những
kết quả vượt bậc thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển. Ngược lại Liên Xô và các
nước XHCN rơi vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và đặt đất nước vào một tình
thế hết sức hiểm nghèo trước sự tồn vong của thể chế chính trị. Mô hình, cơ chế tập
trung bao cấp vốn đã tồn tại nhiều thiếu sót đến giai đoạn này càng bộc lộ rõ hơn,
kinh tế suy sụp, chính trị rối loạn và nhân dân nhiều nước mất lòng tin vào chính
quyền.
Trong tình hình đó, tháng 3/1985 M. Goocbachop được Ủy ban Trung ương
Đảng Cộng sản Liên Xô bầu làm Tổng bí thư thay ông C.U. Trecnenco vừa qua đời.
Việc M. Goocbachop lên nắm quyền được nhiều người kỳ vọng sẽ có nhiều thay
đổi lớn lao trong việc lãnh đạo đất nước. Lên nắm quyền, M. Goocbachop tiến hành
ngay một cuộc cải tổ toàn diện, quy mô trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống trong
đó tiêu biểu là lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Ngoài việc sắp xếp lại cơ cấu kinh tế,
kêu gọi thu hút vốn đầu tư nước ngoài và những cải cách chính trị nhằm tập trung
quyền lực để phục vụ toi đa cho chính sách cải tổ. M. Goocbachop còn thực hiện
những chính sách đối ngoại rất cởi mở khác hẳn với những người lãnh đạo tiền
nhiệm trước đó nhằm thu hút vốn đầu tư và hợp tác kinh tế trong đó có việc xích lại
gần hơn với Mĩ và Trung Quốc. Sau khi nhậm chức hơn một năm, ngày 28/7/1986
M. Goocbachop đọc diễn văn tại Vladivodstock công bố những nét chính trong
chính sách đối ngoại của mình, trong đó có việc khẳng định sẽ tích cực thực hiện
việc chấm dứt xung đột tại biên giới Xô – Trung, bình thường hóa quan hệ Xô –
Trung và giải quyết vấn đề Campuchia. M. Goocbachop còn thực hiện những bước
đi ngoại giao táo bạo nhằm nhanh chóng bình thường hóa mối quan hệ với Mĩ, đặc
biệt là những cuộc tiếp xúc giữa M. Goocbachop với các tổng thống Mĩ là Reegan
và Bush nhằm cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược và chấm dứt chạy đua vũ trang
để tập trung ngân sách nhiều hơn cho phát triển kinh tế.
Trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi, Mĩ cũng điều chỉnh chiến lược
của mình cho phù hợp với tình hình. Nhận thấy việc chạy đua vũ trang với Liên Xô
trong những năm qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách phát triển kinh tế của
Mĩ, trong khi đó Nhật Bản và Tây Âu ngày càng vươn lên mạnh mẽ trong lĩnh vực
kinh tế và khoa học – kĩ thuật đã có một số mặt vượt Mĩ. Mĩ – Xô tiến hành các
cuộc đàm phán cấp cao nhằm giải quyết những bất đồng để tiến tới hợp tác với
nhau. Điều đó rõ ràng không chỉ có lợi cho Mĩ, Liên Xô mà còn có lợi cho tình hình
thế giới. Xu thế đối thoại, hợp tác và những giải pháp chính trị dần thắng thế trước
xu thế đối đầu về quân sự – chính trị. Rõ ràng trước tình thế mới đã mở ra một
hướng đi quan trọng cho việc thực hiện một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề
Campuchia có các bên liên quan tham gia.
Việc M. Goocbachop lên nắm quyền ở Liên Xô đồng thời thay đổi chính
sách đối ngoại đã gây cho Việt Nam không ít những lo lắng vì trước đây Liên Xô
luôn ủng hộ Việt Nam về mọi mặt, Liên Xô còn là nước viện trợ cho Việt Nam
nhiều nhất. Song song với việc thay đổi chính sách đối ngoại, Liên Xô còn cắt giảm
dần các khoản viện trợ cho Việt Nam. Trong giai đoạn này Việt Nam rơi vào khủng
hoảng lớn về kinh tế, vấn đề Campuchia giải quyết chưa xong trong khi vì vấn đề
này Việt Nam bị nhiều nước trên thế giới cô lập. Việc thay đổi chính sách đối ngoại
của Liên Xô không chỉ làm cho Việt Nam càng khó khăn hơn về kinh tế mà còn gây
khó khăn cho Việt Nam trong quan hệ đối ngoại vì rõ ràng trước đó Việt Nam luôn
xem Liên Xô là “thành trì” bảo vệ CNXH, là “hòn đá tảng” trong quan hệ và bảo
đảm an ninh cho mình. Trước tình hình đó, Việt Nam không thể ngồi yên mà phải
tự vận động để giải quyết những khó khăn của mình bằng việc đổi mới về chính
sách kinh tế và quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa trong đó có việc từng
bước xích lại gần hơn trong quan hệ với Trung Quốc, ASEAN và các nước châu Á
khác. Trong đó vấn đề tiên quyết để Việt Nam đạt được mục đích thay đổi chính
sách đối ngoại là phải nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia.
Trước việc các nước lớn thay đổi đường lối đối ngoại, vấn đề đối thoại đang
trở thành xu thế phổ biến, Thái Lan cũng đã nhanh chóng thích nghi trong việc điều
chỉnh chiến lược của mình. Một mặt tiếp tục thắt chặt quan hệ với các đồng minh
của mình như Mĩ, Nhật. Mặt khác, Thái Lan nhanh chóng thực hiện chính sách
ngoại giao đa phương hóa bằng cách tích cực hơn trong việc tiếp xúc, hợp tác với
Liên Xô và nhiều nước khác mà trước đây Thái Lan chưa quan tâm nhiều. Bên cạnh
đó, Thái Lan cũng bật đèn xanh với những động thái gợi mở để đối thoại trực tiếp
với Việt Nam nhằm tiến tới giải quyết vấn đề Campuchia.
Có thể khẳng định, vấn đề Campuchia là một trở ngại lớn trong việc tiến tới
bình thường hóa của các nước liên quan có lập trường đối lập. Vấn đề Campuchia
không chỉ có ảnh hưởng đến việc bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt
Nam, Thái Lan – Việt Nam mà còn ảnh hường đến quan hệ Liên Xô – Trung Quốc
trong đó có việc Trung Quốc đưa yêu cầu bình thường hóa với Liên Xô gắn với việc
Liên Xô phải có biện pháp buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.
Vấn đề Campuchia như trên đã trình bày có sự tham gia của rất nhiều bên,
nhiều phe phái trong đó có thể kể đến nhóm các nước lớn như Trung Quốc, Liên
Xô, Mĩ; các nươc ASEAN, Thái Lan, Việt Nam; chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia và các bên Campuchia khác. Trong khi bối cảnh quốc tế trong giai đoạn
1986 – 1991 có nhiều biến chuyển rất phức tạp trong đó chiến tranh lạnh đi vào giai
đoạn cuối, các nước lớn như Liên Xô, Mĩ, Trung Quốc có những điều chỉnh chiến
lược để thích nghi với thực tế đó là từ chỗ đối đầu chuyển sang đối thoại, hòa hoãn,
song phương và đa phương. Chính sự thay đổi đó đã tác động rất lớn đến các nước
Đông Nam Á, đặc biệt là mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam, ba nước Đông Dương
và ASEAN cũng dần chuyển từ đối đầu sang đối thoại.
Đến cuối những năm 80 công cuộc đổi mới toàn diện do M. Goocbachop
khởi xướng ở Liên Xô thu được kết quả không như mong muốn, tình hình đất nước
khủng hoảng ngày càng trầm trọng, sự mất đoàn kết, mất tin tưởng vào chính phủ
ngày càng lớn. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX cho đến 1991 mô hình XHCN
ở các nước Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ. CNXH ở Liên Xô sụp đổ, thế giới
hai cực không còn, Mĩ cố gắng vươn lên nhằm bá chủ thế giới và mong muốn thực
hiện thế giới một cực. Các cường quốc khác cũng ra sức vươn lên nhằm hình thành
thế giới đa cực, trong đó có Trung Quốc. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển như vũ
bảo của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật và việc đa dạng hóa, đa phương hóa
các mối quan hệ quốc tế trở nên quan trọng. Tình hình thế giới cũng nảy sinh nhiều
vấn đề cấp thiết (dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, nóng lên của trái đất…) mà một
quốc gia riêng lẻ không thể giải quyết được, đòi hỏi cần có sự phối hợp hành động.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến xu thế đối thoại và hợp tác ngày
một chiếm ưu thế.
Năm 1989 sự kiện Thiên An Môn tại Trung Quốc có tác động không nhỏ đến
mối quan hệ Trung – Mĩ. Trước khi chưa xảy ra sự kiện này, Trung Quốc và Mĩ
luôn sát cánh và cùng chung quan điểm trong những vấn đề liên quan đến vấn đề
Campuchia. Tuy nhiên sau sự kiện Thiên An Môn, Mĩ đã công khai chỉ trích Trung
Quốc vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Thêm vào đó việc Trung Quốc kiểm soát
Quota hàng nhập khẩu vào Mĩ cũng như việc Mĩ nghi ngờ Trung Quốc có mối quan
hệ buôn bán vũ khí với Iran đã làm cho quan hệ Mĩ – Trung xấu đi. Điều này có lợi
cho Việt Nam trong việc giải quyết vấn Campuchia, từ việc có thái độ lập lờ về việc
giải quyết vấn đề chính trị Campuchia thì nay Mĩ tuyên bố phải loại bỏ Polpot
không để cho thế lực này quay lại và kêu gọi đối thoại trực tiếp với chính phủ Việt
Nam và chính phủ Hunsen để tiến tới giải quyết vấn đề chính trị cho Campuchia.
Rõ ràng bối cạnh quốc tế nêu trên đã tác động không nhỏ đến lập trường của
tất cả các nước và các bên liên quan đến vấn đề Campuchia. Trước xu thế hòa hoãn,
đối thoại là ưu tiên đã mở ra một hướng đi tiến tới một giải pháp chính trị toàn diện
cho vấn đề Campuchia cũng như cải thiện mối quan hệ của tất cả các nước liên
quan.
3.2. Lập trường của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề Campuchia
3.2.1. Thái Lan và Việt Nam thu hẹp những bất đồng xung quanh việc
giải quyết vấn đề Campuchia (1986 – 1989)
Có thể khẳng định giai đoạn nửa cuối những năm 80 trong vấn đề
Campuchia vẫn còn nhiều bất đồng giữa lập trường của Thái Lan và Việt Nam.
Trong đó Thái Lan vẫn tiếp tục lên án Việt Nam chiếm đóng trái phép Campuchia,
vi phạm hiến chương Liên Hợp Quốc, lên án Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Thái
Lan. Thái Lan vẫn xem sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở Campuchia là nguyên
nhân gây nên tình trạng bất ổn cho khu vực và đe dọa an ninh của Thái Lan. Thái
Lan và các nước ASEAN tiếp tục biểu lộ thái độ lo lắng về việc vẫn tiếp diễn vấn
đề người tị nạn kể từ ngày Việt Nam đưa quân vào Campuchia đồng thời kêu gọi
cần phải để cho người Campuchia tự quyết định số phận của mình. Theo Thái Lan,
để giải quyết tận gốc vấn đề Campuchia, Việt Nam cần phải chấm dứt ngay sự can
thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia và xem đó là hành động đe dọa hòa bình,
ổn định ở khu vực Đông Nam Á cũng như gây nguy hiểm cho hòa bình thế giới.
Thái Lan – ASEAN khẳng định lập trường về 1 kế hoạch lâu dài và sáng
kiến về một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là rút toàn bộ quân nước
ngoài khỏi Campuchia, trả lại độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và trung lập
không liên kết cho Campuchia, để người Campuchia quyền tự quyết và tăng cường
vai trò của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Thái Lan –
ASEAN kêu gọi vì độc lập cho Campuchia cần phải có sự tiếp xúc gián tiếp hoặc
trực tiếp giữa Việt Nam với chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (CGDK -
Coalition Government of Democratic Kampuchea).
Thái Lan vẫn cho rằng, Việt Nam tiếp tục theo đuổi chính sách quân sự trong
việc giải quyết vấn đề Campuchia trong đó có những hiềm khích trong những mục
tiêu quân sự giữa biên giới Campuchia – Thái Lan. Quân đội Việt Nam vẫn tiếp tục
các hoạt động quân sự nhằm vào dân thường trong các trại tị nạn gần biên giới, vi
phạm chủ quyền và lãnh thổ của Thái Lan. Ngày 29/5/1986 người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Thái Lan lên án Việt Nam đã pháo kích vào trại thường dân Campuchia
tại Khaoyai được đặt dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc nằm sâu trong lãnh thổ
Thái Lan 4 km, kết quả đem lại những cái chết, bị thương cho những người
Campuchia vô tội cũng như những người Thái sống gần biên giới trong đó có 11
người chết và 50 người bị thương. Thái Lan còn lên án Việt Nam thả mìn xuống
khu vực gần biên giới gây nguy hiểm cho hàng trăm cuộc sống của người
Campuchia và người Thái đồng thời kêu gọi Việt Nam ngừng phóng lựu đạn đồng
thời thúc giục cộng đồng quốc tế đưa ra yêu cầu cho Việt Nam chấm dứt những
hành động trên.
Các nước ASEAN cũng biểu lộ sự ủng hộ cao độ cho những hoạt động và
lập trường của Thái Lan đồng thời bày tỏ sự đoàn kết với Thái Lan. Thái Lan và
ASEAN xem “hành động rút quân của Việt Nam khỏi Campuchia trong tháng
5/1986 chỉ là một bộ phận nhỏ như là sự luân phiên nhằm qua mặt cộng đồng quốc
tế cũng như chính bản thân người Campuchia và Việt Nam” [121, tr.74]. Trong
tuyên bố chung của hội nghị Bộ trưởng ASEAN tại Phipipin (1986), các nước
ASEAN bày tỏ việc họ lo lắng về hoàn cảnh của những người Campuchia sống
dưới sự chiếm đóng của Việt Nam khi phải làm việc ở những vùng có chiến tranh
đó chính là nguyên nhân khiến nhiều dân thường bị chết hoặc bị thương. Họ cũng
cho rằng, vấn đề nhân khẩu Campuchia có thể thay đổi khi có quá nhiều người Việt
Nam đến định cư lâu dài tại Campuchia.
Thái Lan khẳng định, tiếp tục ủng hộ chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân
chủ (CGDK) của chủ tịch N. Sihanouk là sự sống còn mang tính quyết định cho
người Campuchia trong cuộc đấu tranh giành độc lập, chủ quyền, trung lập và
không liên kết cho Campuchia. Thái Lan ủng hộ N. Sihanouk trong việc kêu gọi hòa
hợp dân tộc giữa các phe phái chính trị ở Campuchia là yếu tố cần thiết đem lại độc
lập và chủ quyền cho Campuchia. Tiếp tục hợp tác với chính phủ Liên hợp
Campuchia Dân chủ trong vấn đề chính trị, ngoại giao và quân sự. Thái Lan yêu cầu
cộng đồng quốc tế ủng hộ chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ nhằm tăng số
phiếu bầu về nghị quyết cho Campuchia tại cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 40 và
ủng hộ nghị quyết về Campuchia nhằm phản đối hành động chiến tranh của Việt
Nam tại Campuchia.
Thái Lan và ASEAN còn cho rằng, các vị trí đóng quân và đặt vũ khí chiến
lược của Việt Nam ở Campuchia vẫn không có gì thay đổi, họ lấy làm tiếc vì Việt
Nam không có giải pháp chính trị nào cho vấn đề Campuchia. Thái Lan hy vọng
lãnh đạo mới ở Việt Nam sẽ tỏ giải pháp thiện chí nhằm tìm ra giải pháp cho vấn đề
chính trị ở Campuchia. Kêu gọi cộng đồng quốc tế và tất cả các nước kể cả Liên Xô
thúc giục Việt Nam giải quyết hòa bình cho vấn đề Campuchia.
Những tuyên bố và hành động trên của Thái Lan và các nước ASEAN cho
thấy, thực chất mâu thuẫn giữa Thái Lan và ASEAN với Việt Nam vẫn còn khá lớn.
Lập trường và quan điểm của Thái Lan đối với vấn đề Campuchia cũng như đối với
Việt Nam cơ bản vẫn chưa có sự thay đổi nhiều.
Về phía Việt Nam, sự kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam (ngày 15/12/1986) không chỉ nhằm mục đích giải quyết những
vấn đề khó khăn mà còn đánh dấu mốc quan trọng trong việc thay đổi lập trường
của Việt Nam về vấn đề Campuchia. Việt Nam thường gọi đây là đại hội của trí tuệ
và đổi mới tư duy, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế và tư duy đối ngoại. Đại hội đã
xác định được nhiều vấn đề then chốt nhằm đưa Việt Nam vượt ra khỏi tình hình
khó khăn để tiếp tục tiến lên CNXH. Đại hội khẳng định thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển với chính sách ngoại giao rộng
mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Trong đó khẳng định
những thành tựu đạt được trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cùng với sự
tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia và
các nước anh em khác trong cộng đồng XHCN. Đại hội bàn rất nhiều đến chính
sách đối ngoại trong đó khẳng định tiếp tục tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối
ngoại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vì sự nghiệp dân tộc và
nghĩa vụ quốc tế. Đấu tranh giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần gìn giữ
hòa bình ở Đông Nam Á, ở châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Phát triển
và củng cố quan hệ đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, đoàn kết, tôn
trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước và hợp tác toàn diện với Liên Xô là “hòn đá
tảng” trong chính sách ngoại giao. Đại hội còn khẳng định Việt Nam sẳn sàng làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới trên tinh thần bình đẳng, bảo đảm độc lập, chủ
quyền và tôn trọng lẫn nhau. Đặc biệt trong đại hội này, Việt Nam thể hiện quyết
tâm sẳn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ giữa Việt Nam
với Trung Quốc, bình thường hóa quan hệ và khôi phục tình hữu nghị giữa hai
nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Văn kiện Đại hội khẳng định mạnh mẽ “Việt Nam sẳn sàng đàm phán với Trung
Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hóa quan
hệ giữa hai nước vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình và ổn định ở Đông
Nam Á”[43, tr4]. Liên Xô cũng cho rằng, việc Việt Nam và Trung Quốc bình
thường hóa mối quan hệ và hợp tác với nhau mới có thể giải quyết trọn vẹn vấn đề
Campuchia. Trước đó Tổng bí thư Liên Xô, M. Goocbachop đã khẳng định tình
hình Campuchia không thể giải quyết ở một thủ đô nào xa xôi mà phải được giải
quyết giữa hai nước láng giềng Trung Quốc – Việt Nam. Do đó, vấn đề bình thường
hóa quan hệ Việt – Trung cũng là một trong những nhân tố góp phần giải quyết vấn
đề Campuchia bởi đây là hai nước có ảnh hưởng lớn trong vấn đề này.
Việc thúc đẩy mối quan hệ với các nước ASEAN mà đặc biệt là Thái Lan
cũng được đại hội quan tâm. Trong báo cáo chính trị của Đại hội VI cũng khẳng
định sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhằm tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau
với Vương quốc Thái Lan trong đó vấn đề ưu tiên hàng đầu là là nối lại đàm phán
hai nước nhằm tiến tới bình thường hóa quan hệ hai nước. Việt Nam cũng khẳng
định sẳn sàng hợp tác với Trung Quốc, Thái Lan và cộng đồng quốc tế nhằm tiến
tới một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia. Đồng thời Việt Nam
khẳng định tiếp tục rút quân khỏi Campuchia và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mĩ
vì hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á.
Có thể khẳng định, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã bước đầu có những định hướng để tháo gỡ được những khó khăn,
đặc biệt những nội dung nêu ra trong đại hội này đã tạo đà cho Việt Nam thực hiện
chính sách cởi mở hơn trong việc đa dạng hóa, đa phương hóa trong các mối quan
hệ quốc tế. Điều đó khẳng định chính phủ Việt Nam đã có sự thay đổi rất lớn trong
chính sách đối ngoại của mình, đây cũng chính là một nhân tối hết sức quan trọng
để góp phần giải quyết thành công vấn đề Campuchia.
Lập trường của Thái Lan tiếp tục được khẳng định trong thông cáo chung
của Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 20 diễn ra tại Singapore (15 - 16/7/1987)
lên án Việt Nam chiếm các ngọn đồi tại Chongbocgia của Thái Lan cũng như việc
“Việt Nam vào ngày 31/3/1987 đã pháo kích vào trại số 2 dưới sự bảo trợ của Liên
Hợp Quốc nằm trong lãnh thổ Thái Lan làm chết 7 người Campuchia và nhiều
người bị thương kết tội Việt Nam tấn công quân sự vào lãnh thổ Thái Lan và nạn
nhân không chỉ có dân thường Campuchia mà còn có dân thường Thái Lan sống
gần biên giới”[122, tr.85]. Đồng thời kêu gọi một giải pháp chính trị toàn diện ở
Campuchia trên cơ sở triệt thoái hoàn toàn lực lượng nước ngoài, khôi phục toàn
vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của nhân dân Campuchia dưới sự bảo trợ của Liên
Hợp Quốc, “tiến tới hòa giải dân tộc ở Campuchia và kêu gọi Việt Nam chấp nhận
nền độc lập, trung lập và không liên kết của Campuchia” [122, tr.84]. Thái
Lan và các nước ASEAN hoan nghênh cộng đồng quốc tế trong việc ủng hộ chính
phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ và ủng hộ nghị quyết về tình hình Campuchia tại
kỳ họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lần thứ 41 trong đó tiếp tục phản đối Việt Nam
chiếm đóng trái phép Campuchia. Ngược lại chính phủ Việt Nam cũng tố cáo Thái
Lan cho máy bay xâm phạm vùng trời và bắn pháo vào lãnh thổ Campuchia.
Tình hình thế giới vào đầu nửa cuối những năm 80 của thế kỷ XX có nhiều
biến đổi và tác động không nhỏ đến lập trường, quan điểm của Thái Lan và Việt
Nam về vấn đề Campuchia đặc biệt là sự tác động của các nước lớn. Năm 1987
Liên Xô có những bước đi ngoại giao nhằm nhanh chóng giải quyết vấn đề
Campuchia tiêu biểu là chuyến thăm quan trọng của Bộ trưởng Ngoại giao
Shevardnadze đến các nước ASEAN trong đó có Thái Lan. Liên Xô và các nước
ASEAN đã đưa ra được những thông cáo chung trong đó khẳng định các bên sẽ tích
cực tìm kiếm một giải pháp chính trị đạt được sự đồng thuận của các bên cho vấn đề
Campuchia. Trong hội đàm với Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Shevardnadze, Thủ
tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan khẳng định lập trường của Thái Lan mong
muốn nhanh chóng có một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia
trong đó yêu cầu nhanh chóng rút toàn bộ quân đội nước ngoài khỏi Campuchia, để
cho người Campuchia quyền tự quyết nhằm tiến tới xây dựng một nước Campuchia
thống nhất và trung lập.
Bên cạnh đó, Liên Xô kêu gọi Việt Nam cần phải có những bước đi nhanh
chóng để giải quyết vấn đề Campuchia. Tháng 5/1987 Tổng bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam Nguyễn Văn Linh thực hiện chuyến thăm đến Liên Xô, trong cuộc hội
đàm với Tổng bí thư M. Goocbachop hai bên đã bàn rất nhiều đến vấn đề
Campuchia và cuối cùng đi đến nhất trí vấn đề nội bộ của Campuchia phải do chính
người Campuchia quyết định đồng thời thực hiện một giải pháp chính trị chú ý đến
vấn đề của các nước và các bên liên quan.
Chịu tác động không nhỏ từ sự thay đổi trên, kể từ 1987 mối quan hệ
ASEAN – Việt Nam có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực và việc giải quyết
vấn đề Campuchia có chuyển biến khả quan, trong đó có việc Philippin tuyên bố
Việt Nam hiện nay không còn là mối đe dọa với họ nữa đồng thời khẳng định,
không phản đối việc Việt Nam mong muốn gia nhập ASEAN. Ngay cả Singapore
nước có lập trường cứng rắn từng nhiều lần lên án Việt Nam cũng có những phát
biểu thiện chí tin tưởng vào thái độ của chính phủ Việt Nam. Nếu trong giai đoạn
giai đoạn 1979 – 1986 chính phủ Thái Lan có tiếng nói rất lớn chi phối chủ yếu đến
đường lối đối ngoại của ASEAN trong vấn đề Campuchia thì nay trước sự thay đổi
của tình hình thế giới và sự thay đổi lập trường của Việt Nam, vai trò của Thái Lan
đã không còn là trung tâm như trước kia. Từ 1986 trở đi Indonexia nổi lên là nước
đóng vai trò trong việc thúc đẩy bình thường hóa quan hệ ASEAN – Việt Nam cũng
như thúc đẩy những giải pháp chính trị cho Campuchia.
Có thể khẳng định kể từ năm 1987 mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam nói
riêng, ASEAN – Việt Nam nói chung có những cải thiện rõ rệt, điều này xuất phát
từ thiện chí của hai bên nhưng có thể khẳng định việc tình hình thế giới có những
biến đổi và sự thay đổi lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia cũng như
việc đổi mới chính sách đối ngoại của Việt Nam là nhân tố then chốt dẫn đến sự
biến đổi này. Việt Nam tuyên bố rút quân khỏi Campuchia đồng thời thực hiện từng
đợt rút quân khỏi Campuchia và ủng hộ một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề
Campuchia. Điều đó cho thấy lập trường của Thái Lan và Việt Nam nói riêng,
ASEAN và Việt Nam nói chung đã có những nhân tố tương đồng để cùng đi đến
giải quyết những bất đồng lớn giữa hai bên.
Bắt đầu từ 1987 mối quan hệ giữa ASEAN – Việt Nam chuyển dần từng
bước từ tình trạng đối đầu sang đối thoại vừa hợp tác nhưng vừa đấu tranh cùng tồn
tại trong hòa bình, tiêu biểu là mối quan hệ của Indonexia – Việt Nam. Tháng
7/1987 Bộ trưởng Ngoại giao Indonexia Mokta Kusumaatmadja đến thăm Việt Nam
và hội đàm với các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, hai bên đi đến thống nhất sẽ
tổ chức “Tiệc rượi Jakarta” để các nước liên quan và các bên đối lập ở Campuchia
lần đầu tiên có cơ hội tiếp xúc với nhau nhằm tháo gỡ những bất đồng và tiến tới
một hội nghị quốc tế với một giải pháp toàn diện về chính trị cho vấn đề
Campuchia. Tiếp đó với vai trò lớn của Indonexia cuộc gặp gỡ JIM 1 (Jakarta
Informal Meeting 1), đã góp phần tạo thời cơ để tiến tới một giải pháp chính trị toàn
diện cho vấn đề Campuchia đồng thời tạo cơ hội cho các nước ASEAN và các nước
Đông Dương tiến tới giải quyết các vấn đề liên quan.
Năm 1988 tân Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan tuyên bố “hãy
xem Đông Dương là thị trường chứ không phải là chiến trường” điều đó đồng
nghĩa với việc Thái Lan độc lập hơn trong chính sách đối ngoại của mình và dần
tách khỏi chính sách đối đầu mà Trung Quốc tác động lên họ bấy lâu nay. Thủ
tướng Chatichai Choonhavan kêu gọi vì quyền lợi của các nước Đông Nam Á cần
phải giải quyết vấn đề Campuchia sớm chừng nào hay chừng đó và tình hình hiện
nay đã có đủ điều kiện để đi đến những thỏa thuận. Thủ tướng Chatichai
Choonhavan cũng tuyên bố đẩy mạnh hơn nữa trong mối quan hệ với Việt Nam
bằng cách kêu gọi các doanh nghiệp hợp tác đầu tư và thúc đẩy buôn bán với Việt
Nam. Ông Chatichai Choonhavan cũng lên kế hoạch thăm Lào và giải quyết bất
đồng giữa hai nước, đây được xem là một trong những động thái thân thiện với Việt
Nam vì rõ ràng Thái Lan biết Lào là một trong những đồng minh anh em thân cận
vơi Việt Nam. Bên cạnh đó Việt Nam và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia
tuyên bố công khai việc rút quân đội Việt Nam, ấn định thời hạn rút quân đồng thời
tiếp tục đấu tranh chống các hành động việc trợ của nước ngoài cho Khmer đỏ. Việt
Nam đã có thiện chí trong việc cố gắng hết sức mình để tạo thuận lợi cho tiến trình
đàm phán bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Liên Xô – Trung
Quốc và Việt Nam – Thái Lan. Tuy nhiên, không thể phủ nhận quan hệ Thái Lan –
Việt Nam liên quan đến vấn đề Campuchia không thể không chịu sự tác động của
các nước lớn mà tiêu biểu ở đây là Liên Xô, Mĩ và Trung Quốc.
Trong tuyên bố chung của hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lần thứ 21
tại Bangkok (4/7/1988) Thái Lan và các nước ASEAN tiếp tục yêu cầu Việt Nam
công nhận độc lập, trung lập và không liên kết của Campuchia. Kêu gọi các đảng
phái ở Campuchia hợp tác nhiều hơn với N. Sihanouk trong việc tìm kiếm giải pháp
chính trị cho Campuchia.
Từ ngày 25 – 28 /7/1988 Hội nghị JIM 1 diễn ra tại Bogor (Indonesia) có sự
tham gia của các nước ASEAN, Việt Nam, Lào và các bên xung đột tại Campuchia
nhằm tiến tới tìm một giải pháp chính trị toàn diện cho vấn đề Campuchia. Tại hội
nghị này bất đồng giữa Thái Lan – Việt Nam vẫn còn khá lớn, trong đó ASEAN và
Thái Lan yêu cầu giải giáp quân đội của các bên tham gia thay vào đó là lực lượng
gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc. Ngược lại lập trường của Việt Nam và chính
phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia lại không chấp nhận vai trò của lực lượng gìn
giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc đồng thời yêu cầu giữ nguyên trạng tình hình hiện
nay tại Campuchia trước khi tiến hành bầu cử và loại bỏ hoàn toàn vai trò của
Polpot. Tuy vậy, Hội nghị JIM 1 cũng đạt được những kết quả khả quan để làm cơ
sở tiền đề cho những giải pháp chính trị toàn diện nhằm giải quyết vấn đề
Campuchia sau này. Trong tuyên bố chung của hội nghị đã khẳng định, Việt Nam
rút quân khỏi Campuchia phải được tiến hành song song với một giải pháp chính trị
toàn diện, ấn định thời gian cụ thể và đặt dưới sự giám sát của cộng đồng quốc tế.
Ngăn chặn chế độ Polpot quay lại nắm quyền, chấm dứt sự cam thiệp từ bên ngoài
vào công việc nội bộ của Campuchia và chấm dứt việc cung cấp vũ khí cho các bên
xung đột tại Campuchia.
Thông qua những diễn tiến mới trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ
Thái Lan – Việt Nam nói riêng, đặc biệt qua hội nghị JIM 1 cho thấy, mặc dù Thái
Lan và Việt Nam vẫn còn nhiều bất đồng xung quanh việc giải quyết vấn đề
Campuchia song hai nước đã có nhiều cố gắng để thu hẹp những bất đồng mà bản
tuyên bố chung của hội nghị JIM 1 là một minh chứng rõ nhất.
Tuy hai nước Thái Lan và Việt Nam đã cố gắng thu hẹp những bất đồng
nhưng những mâu thuẫn khá lớn giữa hai bên đối với việc giải quyết vấn đề
Campuchia vẫn phải đòi hỏi hai nước cần có những cố gắng tích cực hơn. Thứ nhất,
chủ ý của Thái Lan là muốn Liên Hợp Quốc có vai trò lớn hơn trong việc giải quyết
vấn đề Campuchia cũng như giao việc giữ gìn hòa bình và an ninh tại Campuchia
cho lực lượng quân đội Liên Hợp Quốc trong khi ngược lại Việt Nam lại không
đồng ý với chủ trương đó của Thái Lan. Thứ hai, Thái Lan yêu cầu Việt Nam phải
nhanh chóng rút hết quân khỏi Campuchia, nhưng Việt Nam gắn việc rút quân của
mình với việc Thái Lan không được để cho các lực lượng Khmer chống đối sử dụng
đất của mình làm căn cứ để phá hoại hòa bình của Campuchia đồng thời chấm dứt
viện trợ của nước ngoài cho Polpot thông qua Thái Lan trong khi đó vấn đề này lại
liên quan đến Trung Quốc nên không thể giải quyết ngay được. Thứ ba, Việt Nam
ủng hộ việc giữ nguyên hiện trạng tức không được giải tán chính quyền Cộng hòa
Nhân dân Campuchia trong khi Thái Lan ủng hộ chính phủ lâm thời bốn bên do N.
Xihanouk đứng đầu.
Xu thế đối thoại để đi đến giải quyết vấn đề Campuchia bằng một biện pháp
chính trị đồng thời từng bước tiến tới bình thường hóa quan hệ Thái Lan – Việt
Nam là một quá trình hết sức sức khó khăn trong suốt những năm 80 của thế kỷ
XX. Để tiếp tục khẳng định thiện chí hợp tác của mình tháng 5/1988 Bộ Ngoại giao
Việt Nam ra tuyên bố rút quân đợt 7 gồm 50.000 quân đồng thời rút luôn bộ Tư
lệnh quân tình nguyện, số quân còn lại sẽ rút lui một khoảng cách biên giới
Campuchia – Thái Lan khoảng 30 km. Tuy vậy Thái Lan lại bày tỏ sự hoài nghi về
việc rút quân của Việt Nam vì không có sự giám sát của Liên Hợp Quốc do Việt
Nam vẫn chưa chấp nhận vai trò chính của Liên Hợp Quốc trong việc giải quyết vấn
đề Campuchia.
Một điểm đáng lưu ý là trong giai đoạn này là Mĩ ngày càng có những tác
động tích cực hơn trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Để thúc đẩy thêm một
bước trong việc giải quyết vấn đề Campuchia, tháng 7/1988 Ngoại trưởng Mĩ G.
Shultz thực hiện chuyến thăm một loạt các nước ASEAN trong đó có Thái Lan. Qua
các cuộc hội đàm, Ngoại trưởng G. Shultz và Ngoại trưởng các nước ASEAN đi
đến nhất trí là không để cho Khmer đỏ tạo ưu thế quân sự nhằm lấp khoảng trống
sau khi Việt Nam rút quân. Rõ ràng lập trường đó của Mĩ đã tác động rất lớn đến
không chỉ Thái Lan mà còn tác động đến Trung Quốc và một phần làm Việt Nam
hài lòng. Đồng thời bắt đầu báo hiệu sự khai tử cho thế lực Polpot vì đã đến lúc họ
không còn giá trị lợi dụng và nguy cơ bị cô lập rồi tan rã đang dần trở thành hiện
thực.
Mối quan hệ Thái Lan dần dần “tan băng” và lập trường hai bên dần thu hẹp
khi tân thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan đang cố gắng thực hiện những
bước đi để khẳng định chủ trương “hãy xem Đông Dương là thị trường chứ không
phải là chiến trường” mở ra một hướng đi mới trong quan hệ giữa Thái Lan – Việt
Nam. Kể từ đó Thái Lan thực hiện những động thái tích cực trong việc từng bước
nối lại quan hệ với Việt Nam nhất là việc tiến tới những hợp tác về kinh tế. Điều đó
có nghĩa hai bên cũng sẽ hợp tác tích cực hơn trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia.
3.2.2. Thái Lan và Việt Nam tham gia giải quyết thành công vấn đề
Campuchia (1989 - 1991)
Tiếp nối những bước đi tích cực của cộng đồng quốc tế và các nước liên
quan trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Ngày 6/1/1989 trong buổi mit tinh kỷ
niệm 10 năm ngày lật đổ chế độ diệt chủng Polpot tại PhnomPenh, người đứng đầu
chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia ông Heng Samrin đã tuyên bố
“Campuchia và Việt Nam đã thỏa thuận là nếu có giải pháp chính trị thì quân Việt
Nam sẽ rút hết, chậm nhất là vào tháng 9/1990”[51, tr.55]. Tham dự trong buổi lễ
long trọng này còn có Tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh.
Ông Nguyễn Văn Linh cũng phát biểu khẳng định “Việt Nam hoàn toàn nhất trí với
Campuchia là sẽ rút toàn bộ quân Việt Nam còn lại vào cuối tháng 9/1990. Việc rút
hết quân phải song song với việc chấm dứt viện trợ nước ngoài, chấm dứt việc sử
dụng lãnh thổ nước ngoài chống Campuchia và tiến hành dưới sự kiểm soát quốc
tế”[51, tr.56].
Song song với những tuyên bố thiện chí của Việt Nam, ngày 9/1/1989 Ngoại
trưởng Thái Lan Siddhi Savetsila đến Hà Nội và sau đó là chuyến thăm Thái Lan
của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch. Thông qua đó, hai nước
Thái Lan – Việt Nam mong muốn tìm ra những điểm tương đồng nhằm giải quyết
những bất đồng xung quanh vấn đề Campuchia.
Bên cạnh những bước đi ngoại giao tích cực với Thái Lan, Việt Nam còn
tăng cường thực hiện các bước đi nhằm nhanh chóng bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc bởi đây chính là nhân tố quan trọng nhằm góp phần giải quyết vấn đề
Campuchia. Các cuộc tiếp xúc giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc diễn ra
nhiều hơn. Tuy vậy lập trường của Việt Nam và Trung Quốc trong việc giải quyết
vấn đề Campuchia vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Phía Trung Quốc khẳng định Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan là những nước có liên quan đến vấn đề
Campuchia nên cần có sự hợp tác và thỏa thuận với nhau về chính quyền lâm thời
bốn bên tại Campuchia do N. Sihanouk lãnh đạo mới có thể giải quyết trọn vẹn vấn
đề Campuchia. Trung Quốc đòi giải tán hoàn toàn chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia và ủng hộ chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ do N. Sihahouk
lãnh đạo trong đó Khmer đỏ có một chỗ đứng chính trị. Đáng chú ý là lập trường
này của Trung Quốc không thấy Liên Xô có động thái phản đối nào. Trong khi phía
Việt Nam kiên quyết loại trừ lực lượng Polpot ra khỏi tiến trình hòa hợp dân tộc,
qua đó cho thấy quan điểm của Việt Nam và Liên Xô đã không còn đồng nhất như
xưa.
Nối tiếp những động thái tích cực tại Hội nghị JIM 1 về vấn đề Campuchia,
tháng 2/1989 cũng tại Jakarta khai mạc hội nghị JIM 2 (Jakarta Informal Meeting
2). Trong tuyên bố chung của hội nghị đã khẳng định, Việt Nam rút hết quân khỏi
Campuchia trước ngày 30/9/1989, chấm dứt sự can thiệp và viện trợ vũ khí từ bên
ngoài cho các phe phái ở Campuchia đồng thời tìm giải pháp ngăn chặn sự quay lại
của chế độ diệt chủng Polpot. Các bên ngừng bắn, thỏa thuận một giải pháp chính
trị toàn diện và tổng tuyển cử dưới sự giám sát của quốc tế. Xây dựng một nước
Campuchia độc lập, chủ quyền, hòa bình và không liên kết phải được các bên
Campuchia giải quyết bằng con đường đàm phán. Có thể khẳng định nối tiếp JIM 1
thì JIM 2 là một thành công lớn của Việt Nam và đặc biệt những bất đồng trong lập
trường giữa Thái Lan – Việt Nam đã được thu hẹp rất nhiều đồng thời chứng minh
hai nước đã hợp tác tích cực và có thiện chí hơn trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia.
Tuy nhiên bất lợi lớn nhất của Việt Nam lúc này là việc Liên Xô và Trung
Quốc đang tích cực đàm phán để nhanh chóng bình thường hóa quan hệ và thúc đẩy
hợp tác giữa hai cường quốc này, trong khi lập trường của Trung Quốc về giải quyết
vấn đề Campuchia lại có nhiều mâu thuẫn với Việt Nam. Để đổi lấy việc bình
thường hóa và hợp tác với Trung Quốc, Liên Xô có thể hy sinh quyền lợi của Việt
Nam trong vấn đề Campuchia. Do vậy Việt Nam quyết định đi trước một bước,
ngày 5/4/1989 Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố khẳng định rút hoàn toàn quân
khỏi Campuchia vô điều kiện vào tháng 9/1989 mà không cần đợi một giải pháp
chính trị. Việt Nam cũng tuyên bố sẽ không đưa quân trở lại Campuchia cho dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Phối hợp với tuyên bố của Việt Nam, chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Campuchia cũng đổi tên thành Quốc gia Campuchia (30/4/1989) và tuyên bố trung
lập vĩnh viễn. Bên cạnh đó từ ngày 2 – 3/5/1989 trong cuộc gặp tại Jakarta giữa N.
Sihanuok, Hunsen và Son Sann đã đi đến thống nhất sẽ thành lập Hội đồng dân tộc
tối cao hòa giải ( SNC - Supereme National Cuncil) do N. Sihanuok đứng đầu để
đảm nhiệm tổ chức bầu cử.
Ngày 30/7/1989 Hội nghị quốc tế nhằm tìm giải pháp chính trị cho vấn đề
Campuchia diễn ra tại Pari có sự tham gia của đại diện Ban thư ký Liên Hợp Quốc,
Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc, ASEAN, Việt Nam, Lào, Australia, Canada,
Ấn Độ, Zimbabwe, Nhật Bản và phái đoàn Campuchia gồm 4 bên. Thông qua
những vấn đề bàn bạc trong hội nghị, Thái Lan và Việt Nam cùng các nước tham
gia chấp nhận giải pháp “Rút quân đội nước ngoài, lập bộ máy quốc tế kiểm soát,
ngăn ngừa nội chiến, chấm dứt viện trợ quân sự cho các bên Campuchia, không để
lực lượng Polpot chiếm chính quyền sau khi Việt Nam rút quân, đảm bảo quy chế
độc lập, trung lập và không liên kết”[70, tr.416].
Nếu mâu thuẫn giữa Thái Lan – Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
thì bất đồng lớn nhất của các nước ASEAN với Việt Nam là vấn đề quân đội Việt
Nam chiếm đóng Campuchia. Do đó trong nhiều năm, thông qua diễn đàn tại hội
nghị bộ trưởng các nước ASEAN đã nhiều lần lên án vấn đề này. Họ đòi Việt Nam
rút quân để cho người Campuchia quyền tự quyết và thực hiện một giải pháp chính
trị cho vấn đề Campuchia. Những mong muốn đó của ASEAN đến nay đã được
Việt Nam đáp ứng, các nước ASEAN thấy được thiện chí của Việt Nam nên có
những bước đi ngoại giao xích lại với Việt Nam, đây cũng là một trong những
nguyên nhân quan trọng góp phần nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia.
Thông qua các diễn đàn giữa ASEAN với Việt Nam như JIM 1, JIM 2 giúp các
nước ASEAN hiểu thêm về Việt Nam và điều đó đồng nghĩa sức ép từ Trung Quốc
đối với họ xung quanh vấn đề Việt Nam chiếm đóng Campuchia sẽ bị hạn chế, nhất
là khi Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân khỏi Campuchia và để cho người
Campuchia quyền tự quyết.
Bên cạnh đó, sự thay đổi thái độ của Liên Xô và Mĩ trong vấn đề Campuchia
cũng tác động không nhỏ đến lập trường của các nước ASEAN và Thái Lan. Cả Mĩ
và Liên Xô cuối cùng đã đi đến nhất trí loại bỏ Polpot không để cho quay trở lại
nắm quyền sau khi Việt Nam rút quân, đàm phán trực tiếp với Việt Nam và chính
phủ Hunsen để tiến tới một giải pháp chính trị đối với vấn đề Campuchia. Trước
những động thái đó rõ ràng các nước ASEAN không có lý do gì để từ chối đàm
phán với Việt Nam nhất là khi những vấn đề đàm phán liên quan đến những quyền
lợi sát sườn cho họ nhằm mở ra cơ hội thúc đẩy sư hợp tác để phát triển kinh tế.
Trong thông cáo chung tại hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN lần thứ 22
tại Bruney (3 - 4/7/1989) đã ghi nhận “lời tuyên bố của Việt Nam trong việc rút hết
quân đội khỏi Campuchia vào 30/9/1989 là một sự phát triển tích cực. Các nước
ASEAN nhấn mạnh việc nhất trí với Việt Nam là rút quân phải gắn liền với giải
pháp chính trị toàn diện bao gồm những vấn đề bên ngoài, bên trong của vấn đề
Campuchia. Đồng thời khẳng định, cần phải có sự kiểm soát quốc tế trước việc rút
quân của Việt Nam và cần có lực lượng gìn giữ hòa bình ở Campuchia trong khi
chờ đợi tổng tuyển cử”[124, tr.100].
Thái Lan và các nước ASEAN cũng kêu gọi các đảng phái ở Campuchia nên
sử dụng các biện pháp mềm dẻo và tích cực trong việc tìm kiếm giải pháp chính trị
toàn diện, đẩy mạnh đối thoại giữa các đảng phái để mở đường cho quá trình hòa
giải dân tộc và hoan nghênh N. Sihanouk trở lại vị trí quốc trưởng Campuchia. Mặt
khác, Thái Lan kêu gọi Việt Nam nhận lại những người tị nạn không đủ tiêu chuẩn
đi định cư tại các nước thứ 3.
Lập trường của hai nước Thái Lan – Việt Nam xích lại gần nhau hơn khi
tháng 9/1989 Việt Nam rút hoàn toàn quân khỏi Campuchia trước thời hạn một năm
và từ năm 1990 trở đi quan hệ Thái Lan – Việt Nam có những bước chuyển mình
phát triển đi theo chiều hướng tích cực, trong đó những chuyến thăm của các nhà
lãnh đạo cấp cao hai nước diễn ra thường xuyên hơn.
Những vấn đề tồn đọng giữa Thái Lan – Việt Nam tiếp tục được Thái Lan
tìm biện pháp tháo gỡ, đáng chú ý nhất là ngày 15/6/1990 trong chuyến thăm Mĩ,
Thủ tướng Thái Lan Chatichai Choonhavan phát biểu với báo giới rằng “Thái Lan
không thể ngăn chặn Trung Quốc cung cấp vũ khí cho phe Polpot, có một cách đơn
giản để chấm dứt việc đó là Mĩ và Nhật Bản, hai nước buôn bán chủ yếu với Trung
Quốc hãy gây sức ép”[70, tr.424]. Không đợi lâu sau động thái đó của Thái Lan,
ngày 16/6/1990 Ngoại trưởng Mĩ James Baker công bố chính sách mới của Mĩ đối
với vấn đề Campuchia trong đó khẳng định ngăn chặn thế lực Polpot quay lại nắm
quyền, đối thoại với Việt Nam để tháo gỡ những vấn đề tồn đọng trong vấn đề
Campuchia, tiếp xúc với chính quyền ông Hunsen và không công nhận vai trò đại
diện của Polpot tại Liên Hợp Quốc. Tuyên bố của Mĩ rõ ràng là có sức nặng rất lớn
trong việc tác động không chỉ đến chính sách đối ngoại của ASEAN, Thái Lan mà
còn tác động ngay cả Trung Quốc. Đến đây Trung Quốc có vẻ buông ý định trong
việc đòi một vị trí chính trị cho thế lực Polpot trong chính quyền mới.
Tiếp theo đó trong tuyên bố chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
ASEAN lần thứ 23 tại Indonesia (24 – 25/7/1990) cũng thống nhất một giải pháp
chính trị toàn diện cho Campuchia cần phải thực hiện bằng hội nghị Pari về
Campuchia (PICC – Paris International Conference on Cambodia). Kêu gọi các bên
Campuchia tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp mặt không chính thức bàn về vấn đề
Campuchia tại Jakarta từ ngày 26/2 đến 1/3/1990. Đồng thời xem đây là giải pháp
làm sống lại quá trình đàm phán sau khi gián đoạn tại hội nghị PARI (PICC) vào
ngày 30/7/1989.
Như vậy trong giai đoạn này, lập trường của Thái Lan và Việt Nam đã có
những nhân tố tương đồng đó là cùng mong muốn thực hiện giải pháp chính trị cho
vấn đề Campuchia với một hội nghị quốc tế, thống nhất việc rút quân đội Việt Nam
khỏi Campuchia. Bên cạnh đó, vẫn còn một số tồn đọng đó là việc Việt Nam yêu
cầu Thái Lan không được cho các lực lượng phá hoại nền hòa bình của Campuchia
dùng lãnh thổ của mình làm căn cứ để chống phá. Việt Nam ủng hộ giữ nguyên
trạng tình hình, không được giải tán chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia,
không tán thành chính phủ lâm thời 4 bên do N. Shihanouk đứng đầu và hạn chế lực
lượng gìn giữ hòa bình ở Campuchia. Trong khi đó Thái Lan lại ủng hộ chủ trương
giải tán lực lượng các bên và thành lập một chính phủ liên hiệp lâm thời 4 bên do N.
Shihanouk đứng đầu đồng thời để lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế bảo đảm an
ninh cho Campuchia.
Đến tháng 9/1990 quan điểm của Thái Lan và Việt Nam xích lại gần nhau
thêm một bước khi Thái Lan khẳng định lập trường của mình là không để cho các
phái Khmer đối lập dùng lãnh thổ và hoạt động gây nội chiến ở Campuchia hay vận
chuyển vũ khí trái phép cho các phe phái này. Có thể khẳng định trong việc giải
quyết vấn đề Campuchia các nước lớn như Mĩ, Trung Quốc, Liên Xô có vai trò rất
lớn trong việc quyết định các vấn đề then chốt nhưng cũng không thể phủ định vai
trò không nhỏ của Thái Lan và Việt Nam trong việc từng bước thu hẹp bất đồng để
đi đến góp phần tham gia giải quyết thành công vấn đề chính trị cho Campuchia.
15g30 ngày 23/10/1991 Sau khi Ủy ban phối hợp đã hoàn thành lần cuối các
văn kiện, Hội nghị quốc tế về Campuchia khai mạc trọng thể tại PARI. Tham dự hội
nghị có sự tham gia của đại diện 19 nước, đoàn đại biểu Campuchia do N.
Xihanouk dẫn đầu và đoàn đại biểu 18 nước khác gồm: Bruney, Australia, Canada,
Trung Quốc, Mĩ, Pháp, An Độ, Indonexia, Nhật, Lào, Malaixia, Philippin, Anh,
Xingapore, Thái Lan, Liên Xô, Việt Nam, Nam Tư với hai đồng chủ tịch hội nghị là
Pháp và Indonesia. Sau lời khai mạc của hai đồng chủ tịch là Pháp và Indonexia sau
đó phó Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ahmed đọc bản trình bày về tình hình chuẩn bị
triển khai việc thi hành hiệp định sẽ được ký kết. Thay mặt đồng chủ tịch, Ngoại
trưởng Pháp Levitte biểu thị cảm ơn thiện chí hợp tác của các nước đặc biệt là Việt
Nam. Hội nghị đi đến nhất trí và ký 4 văn kiện trong đó bao gồm: Hiệp định về một
giải pháp chính trị toàn bộ cho cuộc xung đột tại Campuchia; Hiệp định về chủ
quyền, độc lập, toàn vẹn, bất khả xâm phạm lãnh thổ, trung lập và thống nhất của
Campuchia; Tuyên bố về phục hồi và tái thiết Campuchia và Định ước cuối cùng.
Khi vấn đề Campuchia được giải quyết cũng là lúc quan hệ Thái Lan – Việt
Nam ngày một ấm lên, việc trao đổi và thăm viếng của lãnh đạo hai bên diễn ra
thường xuyên hơn. Có thể kể đến chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Anna
Panyarasun (1992), chuyến thăm của Thái tử Maha Vichyra Loncon (1993)…
Ngược lại, phía Việt Nam có thể kể đến các chuyến thăm Thái Lan của Chủ tịch
Hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng nội vụ Mai Chí Thọ. Song song với đó
kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng nhanh, xuất khẩu của Việt Nam sang Thái
Lan từ 78,1 triệu USD (1992) lên tới 2252,2 triệu USD (1996) và ngược lại xuất
khẩu từ Thái lan sang Việt Nam tăng từ 14,2 triệu USD (1992) lên tới 3892,8 triệu
USD (1996).
TIỂU KẾT
Kể từ 1986 trở đi tình hình thế giới có nhiều thay đổi so với trước đó, sự thay
đổi lớn nhất chính là việc các nước lớn từ chổ đối đầu chuyển sang đối thoại với
nhau đã tác động không nhỏ đến quan hệ các nước còn lại trong đó quan hệ Thái
Lan – Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Mặc dù trong giai đoạn này, bất
đồng giữa Thái Lan và Việt Nam vẫn còn tồn tại nhưng tình hình đã hé mở những
hướng giải quyết, đồng thời Thái Lan và Việt Nam rất tích cực trong việc thu hẹp
những bất đồng để cùng nhau góp phần giải quyết vấn đề Campuchia.
Tình hình thế giới trong giai đoạn 1986 – 1991 có những thuận lợi nhưng
cũng ẩn chứa những bất lợi đối với Việt Nam. Bất lợi lớn nhất chính là việc Liên
Xô dưới sự lãnh đạo của M. Goocbachop đã thay đổi chính sách đối ngoại của họ,
trong đó Việt Nam hiện nay không còn là sự ưu tiên hành đầu như trước kia. Trong
khi Việt Nam từ trước đến nay vẫn xem Liên Xô là “hòn đá tảng” trong mối quan
hệ của mình, do vậy khi Liên Xô thay đổi chính sách đối ngoại đã có tác động
không nhỏ đến Việt Nam. Trước tình hình đó Việt Nam tự tháo gỡ khó khăn cho
mình, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI đã đưa ra đường lối đổi mới kinh
tế, đổi mới chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa và sẳn sàng làm bạn với
tất cả các nước trên thế giới. Sự thay đổi chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng là
một trong những nhân tố then chốt góp phần giải quyết vấn đề Campuchia. Bên
cạnh đó, Thái Lan cũng thích ứng rất nhanh trước sự thay đổi của tình hình thế giới
và sự thay đổi của các mối quan hệ quốc tế. Thái Lan tích cực thực hiện chính sách
đa dạng hóa trong quan hệ ngoại giao, ngoài việc tiếp tục thắt chặt quan hệ với các
đồng minh truyền thống, Thái Lan còn nhanh chóng thúc đẩy mối quan hệ với Liên
Xô và nhiều nước khác. Riêng đối với Việt Nam, Thái Lan đã phát đi những tín
hiệu nhằm xoa dịu mối quan hệ hai nước để dần dần đi đến nối lại quan hệ bình
thường hóa giữa hai bên. Đáng chú nhất là tuyên bố của Thủ tướng tướng Thái Lan
Chatichai Choonhavan rằng “hãy xem Đông Dương là thị trường chứ không phải là
chiến trường”. Việc đổi mới chính sách đối ngoại của Thái Lan cũng là một trong
những nhân tố góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề Campuchia.
Từ những thay đổi nêu trên Thái Lan và Việt Nam dần dần đã tìm được
những điểm tương đồng với nhau xung quanh việc giải quyết vấn đề Campuchia.
Việt Nam không còn xem vấn đề Campuchia là không thể đảo ngược nữa, cả hai
nước Thái Lan – Việt Nam đã tìm được điểm tương đồng trong việc thống nhất phải
tổ chức một hội nghị quốc tế để giải quyết trọn vẹn vấn đề Campuchia. Việt Nam đã
tuyên bố rút quân và ấn định thời gian cụ thể cho việc rút toàn bộ quân đội khỏi
Campuchia, điều đó không chỉ có Thái Lan mà các nước ASEAN cũng hoan
nghênh. Hai nước cũng tích cực giải quyết những bất đồng xung quanh vấn đề Việt
Nam gắn việc rút quân với việc Thái Lan không để lãnh thổ cho các thế lực Khmer
phản động làm căn cứ chống phá nền hòa bình của Campuchia cũng như không để
cho nước ngoài sử dụng lãnh thổ Thái Lan làm nơi trung chuyển tiếp tế cho các lực
lượng Khmer phản động.
Việc Thái Lan và các nước ASEAN cùng gặp gỡ với Việt Nam, Lào và các
bên xung đột tại Campuchia ở Jakarta thể hiện thiện chí rất lớn của họ đối với Việt
Nam trong việc giải quyết vấn đề Campuchia. Còn nhớ giai đoạn trước, Việt Nam
không chấp nhận một hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề Campuchia và chỉ chấp
nhận hội nghị vùng tức là chỉ có những nước trong khu vực Đông Nam Á và các
bên liên quan ở Campuchia. Do vậy, Hội nghị JIM 1, JIM 2 đã đáp ứng phần nào
mong muốn trên của Việt Nam bởi trong hội nghị này rõ ràng chỉ có các nước trong
khu vực Đông Nam Á và các bên Campuchia tham gia.
Dưới sự tác động của các cường quốc cũng như tình hình thực tế cụ thể tại
Campuchia cùng những thiện chí của Thái Lan và Việt Nam cuối cùng vấn đề
Campuchia cũng được giải quyết. Việt Nam tuyên bố đơn phương rút toàn bộ quân
khỏi Campuchia và Thái Lan tuyên bố không để lãnh thổ mình cho bất cứ thế lực
Khmer nào làm căn cứ để chống phá hòa bình đồng thời cũng không để cho ai lợi
dụng để tiếp tế cho các thế lực này. Sự tích cực của Thái Lan và Việt Nam đã góp
phần không nhỏ đưa đến thành công của hội nghị PARI về Campuchia với việc các
nước tham gia ký kết 4 văn kiện quan trọng đem lại hòa bình, độc lập, chủ quyền và
tạo cơ hội cho Campuchia có điều kiện tái thiết đất nước.

KẾT LUẬN

1. Lịch sử đã chứng kiến mối quan hệ đầy thăng trầm của hai người láng
giềng Thái Lan – Việt Nam. Nếu ví mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam như một biểu
đồ thì đó chính là biểu đồ hình Sin để chỉ sự thăng trầm và không ổn định trong mối
quan hệ của hai nước. Trong truyền thống đối ngoại của mình, Thái Lan luôn thể
hiện sự khôn khéo, mềm dẻo cần thiết, điều đó giúp Thái Lan là nước duy nhất ở
Đông Nam Á cơ bản vẫn giữ được nền độc lập của mình trước sự xâm lược của
thực dân phương Tây đồng thời đứng vững trước biết bao biến cố và thăng trầm của
lịch sử. Nếu nói “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong chính sách đối ngoại của Thái
Lan, cái bất biến chính là quyền lợi của quốc gia, dân tộc Thái và cái vạn biến chính
là phương pháp để giữ cho được cái bất biến đó. Chính việc Thái Lan sử dụng chính
sách đối ngoại ngả theo chiều gió nên đã tác động không nhỏ đến mối quan hệ Thái
Lan – Việt Nam và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm mối quan hệ hai
nước diễn ra rất thăng trầm. Trong giai đoạn Việt Nam kháng chiến chống Pháp
(1945 – 1954), Thái Lan vì những khoản viện trợ và hợp đồng làm ăn với Pháp nên
sẵn sàng từ bỏ mối quan hệ với Việt Nam khi họ trục xuất cơ quan đại diện ngoại
giao Việt Nam khỏi Thái Lan. Tiếp đến trong giai đoạn Việt Nam chống Mĩ (1955 –
1975) Thái Lan tiếp tục bắt tay với Mĩ chống lại cách mạng Việt Nam, đổi lại Thái
Lan được Mĩ viện trợ và cam kết bảo đảm an ninh cho Thái Lan. Năm 1979 xảy ra
vấn đề Campuchia, Thái Lan và Việt Nam tiếp tục đối đầu nhau ở hai chiến tuyến.
Thái Lan hiểu rằng, ngoài nguyên nhân lo sợ Việt Nam tấn công và đe dọa an ninh
của mình thì chính sách đối đầu của Thái Lan đối với Việt Nam chắc chắn sẽ nhận
được sự ủng hộ và viện trợ của các cường quốc như Mĩ và Trung Quốc và khi đặt
lên “bàn cân” người Thái xem có lợi hơn là hợp tác với Việt Nam.
2. Sau khi tìm hiểu một giai đoạn sóng gió trong mối quan hệ Thái Lan –
Việt Nam, thông qua nghiên cứu và đánh giá những sự kiện, nhiều vấn đề mập mờ
đã được làm sáng tỏ. Trong đề tài Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt
Nam (1979 - 1991) có thể khẳng định, vấn đề Campuchia chính là nhân tố quan
trọng chi phối mối quan hệ của hai người láng giềng Thái Lan – Việt Nam. Theo
quan điểm của Thái Lan và các nước ASEAN thì vấn đề Campuchia chính là việc
Việt Nam đưa quân vào chiếm đóng trái phép Campuchia từ đó gây nên tình trạng
các dòng người tị nạn, xung đột tại khu vực biên giới Campuchia – Thái Lan, đe
dọa đến an ninh, chủ quyền của Thái Lan và gây bất ổn cho khu vực. Việt Nam
không dùng thuật ngữ: vấn đề Campuchia, vì Việt Nam cho rằng, nguyên nhân tình
hình bất ổn ở Campuchia chính là việc Thái Lan đã cấu kết với Trung Quốc để tiếp
tế, dung túng cho hoạt động chống phá của Khmer đỏ và các thế lực Khmer phản
động khác. Trong chương II của Luận văn có dành một phần để cố gắng làm rõ vấn
đề này, vấn đề Campuchia ở đây bao gồm nguồn gốc đầu tiên chính là hành động
gây hấn, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ và đe dọa an ninh Việt Nam của chính
quyền Polpot sau đó là việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia và Thái Lan hợp
tác với Trung Quốc tiếp tay cho Khmer đỏ cùng với sự can thiệp của các cường
quốc đối lập trên thế giới. Chính vì vậy mà vấn đề Campuchia tỏ ra phức tạp hơn rất
nhiều. Do đó sẽ không thể hiểu hết vấn đề Campuchia nếu không nghiên cứu thật
khách quan và đa chiều.
3. Vấn đề Campuchia ở đây là một phần không thể tách rời của chiến tranh
lạnh, sự đối đầu Đông – Tây, đối đầu Liên Xô – Mĩ và Trung Quốc. Do vậy suốt
thời gian dài khi mà mối quan hệ giữa các cường quốc đối lập chưa được cải thiện
thì việc giải quyết vấn đề Campuchia vẫn bế tắc, vấn đề Campuchia chỉ được giải
quyết khi các cường quốc đối lập đã thay đổi thái độ từ đối đầu chuyển sang đối
thoại với nhau. Qua vấn đề Campuchia cho thấy, các quốc gia nhỏ trên thế giới
thường gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn đường lối đối ngoại. Do đó việc lựa
chiều, chọn hướng đi phù hợp và cẩn trọng là điều vô cùng cần thiết khi đứng trước
những lựa chọn mang tính quyết định liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của
quốc gia dân tộc. Qua vấn đề Campuchia, bản thân Việt Nam và Campuchia là hai
nước thiệt hại về người và của nhiều nhất trong khi Thái Lan cũng vì vấn đề
Campuchia mà ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của đất nước. Do đó tất cả các nước
mà đặc biệt là những nước láng giềng cần thiết phải có tư duy viễn minh, sự bình
tâm trong việc quyết định các vấn đề đối ngoại nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự
lợi dụng của các nước nước lớn trong việc đạt được mục tiêu của họ.
4. Quá trình toàn cầu hóa và xu thế đối thoại cũng có một tác động rất lớn
đến quá trình giải quyết vấn đề Campuchia. Không chỉ có các nước lớn (Mĩ, Liên
Xô, Trung Quốc…) đối thoại với nhau để cùng tháo gỡ những vướng mắc nhằm
tiến tới hợp tác với nhau mà các nước khác trên thế giới cũng tích cực vận động
theo xu thế này. Các nước ASEAN thấy rằng, không thể có được sự phát triển kinh
tế bền vững khi mà khu vực vẫn còn chiến tranh và xung đột. Các nước ASEAN
cũng nhận thấy, chính vấn đề Campuchia đã níu chân họ trong quá trình phát triển.
Trong khi nhìn qua thấy EU đang có những bước phát triển mạnh mẽ với sự hội
nhập ngày càng sâu rộng hơn đồng thời đem lại những hiệu quả tích cực trong phát
triển kinh tế và khoa học – kĩ thuật. ASEAN hiểu rằng, muốn có sự hợp tác khu vực
bền vững và sự phát triển mạnh mẽ cần phải nhanh chóng giải quyết vấn đề
Campuchia. Nhưng để làm được việc đó cần phải có sự thương lượng và hợp tác
với Việt Nam. Ngược lại trước tình hình thế giới có nhiều thay đổi, Việt Nam thấy
sự cần thiết phải hợp tác và xích lại gần hơn với các nước trong khu vực mà đặc biệt
là các nước ASEAN. Để làm được việc đó Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ
với các nước để nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia. Xuất phát từ quyền lợi
sát sườn của mình, ASEAN nói chung, Thái Lan nói riêng cùng với Việt Nam hiểu
rằng, cần phải có sự hợp tác với nhau trong việc giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy
sự phát triển. Có thể khẳng định, xu thế toàn cầu hóa chính là “đòn bẩy” hất bay
“tảng đá” (vấn đề Campuchia) cản đường trong tiến trình tiến tới hợp tác, hội nhập
vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực Đông Nam Á.
5. Hiện nay Thái Lan và Việt Nam cùng nằm trong tổ chức ASEAN hai nước
hợp tác với nhau trên nhiều lĩnh vực, kim ngạch buôn bán hai bên cũng không
ngừng tăng. Thái Lan và Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình
phát triển và hội nhập sâu rộng của ASEAN. Tuy nhiên giữa hai nước cần phải hợp
tác với nhau sâu rộng hơn nữa trong việc thúc đẩy kim ngạch buôn bán và trao đổi
khoa học – kĩ thuật đặc biệt trong lĩnh vực mà hai nước có thế mạnh như nông
nghiệp. Tuy tình hình khu vực và thế giới không còn căng thẳng như trước nhưng
vẫn còn đó những tiềm ẩn có thể ảnh hưởng xấu đến an ninh và hòa bình trong khu
vực trong đó vấn đề biển Đông vẫn là điểm nóng và có những diễn tiến phức tạp.
Do đó qua vấn đề Campuchia chắc chắn hai quốc gia láng giềng này đã rút ra được
những bài học xương máu để từ đó có thể khắc phục những nhược điểm tránh
không để cho lặp lại trong tương lai. Hai nước cần phát huy nhiều hơn nữa những
ưu điểm để đưa mối quan hệ ngày càng phát triển bền vững. Sự tăng cường hợp tác
của Thái Lan và Việt Nam không chỉ giúp tình hình khu vực thêm ổn định mà còn
có vai trò quyết định không nhỏ đến sự phát triển và hội nhập sâu rộng hơn của tổ
chức ASEAN trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. Tiếng Việt
1. Allan Barker (1979), Vấn đề phòng thủ chung ASEAN, Reuter, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2008), Chiến dịch phản công biên giới Tây
– Nam Việt Nam, http://vi.wikipedia.org/wiki/ChiVi%E1.
3. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2008), Cộng hòa nhân dân Campuchia,
http://vi.wikipedia.org/wiki/Kampuchea.
4. Ban khoa giáo Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh (2009), VCD Máu và Hoa –
Tập 5.
5. Đỗ Thanh Bình (2008), Bốn mươi năm ASEAN – Thành tựu về an ninh chính
trị, Trang tin tức sự kiện, ĐH Sư phạm – Hà Nội.
6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Mở rộng quan hệ đối ngoại của
Đảng trong tình hình mới, http://www.tapchicongsan.org.vn?.
7. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam,
http://tiengviet/tulieuvankien /details. asp?.
8. Báo Nhân dân (1979), Đại sứ Hà Văn Lâu đọc tham luận tại Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc, ngày 16/1(8988), tr. 4.
9. Báo Nhân dân (1979), Tiếp nhận quà tặng của Vương quốc Thái Lan, ngày
3/2(9005), tr. 4.
10. Báo Nhân dân (1979), Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Việt Nam –
Campuchia, ngày 19/2(9021), tr. 1.
11. Báo Nhân dân (1979), Người phát ngôn Bộ ngoại giao Campuchia lên án Trung
Quốc sử dụng lãnh thổ Thái Lan chống Campuchia, ngày 1/3(9031), tr. 4.
12. Báo Nhân dân (1979), Người phát ngôn Bộ ngoại giao Campuchia lên án Thái
Lan xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Campuchia, ngày 17/4(9078), tr.4.
13. Báo Nhân dân (1979), N. Xihanouk trả lời tuần báo Châu Á, ngày 23/4(9084),
tr. 4.
14. Báo Nhân dân (1979), Cố vấn Trung Quốc thú nhận Bắc Kinh đưa ồ ạt vũ khí
vào Campuchia, ngày 4/5(9094), tr. 4.
15. Báo Nhân dân (1979), Bài trả lời phỏng vấn TTXVN của Nguyễn Cơ Thạch,
ngày 3/7(9154), tr. 4.
16. Báo Nhân dân (1979), Bộ ngoại giao Campuchia ra tuyên bố về Thông cáo
chung của Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN, ngày 8/7(9160), tr. 4.
17. Báo Nhân dân (1980), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
các nước Campuchia – Lào – Việt Nam lần I, ngày 8/1(9342), tr 1-4.
18. Báo Nhân dân (1980), Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm
qua, ngày 5/10(9247), tr. 2.
19. Báo Nhân dân (1980), Bác bỏ tuyên bố của người phát ngôn Bộ tư lệnh tối cao
quân đội Thái Lan, ngày 23/2(9385), tr. 4.
20. Báo Nhân dân (1980), Thái Lan xâm phạm lãnh thổ và bầu trời Campuchia,
ngày 23/2(9393), tr. 4.
21. Báo Nhân dân (1980), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch kết thúc chuyến
thăm chính thức Vương quốc Thái Lan, ngày 24/5(9476), tr. 1.
22. Báo Nhân dân (1980), Người phát ngôn Bộ ngoại giao Campuchia: Âm mưu
xấu xa của kế hoạch “hồi hương tự nguyện” người Campuchia, ngày
15/6(9498), tr. 4.
23. Báo Nhân dân (1980), Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố về tình hình căng
thẳng ở biên giới Campuchia – Thái Lan, ngày 28/6(9514), tr. 4.
24. Báo Nhân dân (1980), Vết xe đo, ngày 8/7(9521), tr. 4.
25. Báo Nhân dân (1980), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần II, ngày 18/7(9531), tr. 1-4.
26. Báo Nhân dân (1980), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần II, ngày 19/7(9532), tr. 1-4.
27. Báo Nhân dân (1980), Campuchia công bố Bị vong lục về tình hình căng thẳng
hiện nay ở biên giới Campuchia – Thái Lan, ngày 2/8(9546), tr.1-4.
28. Báo Nhân dân (1981), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần III, ngày 29/2(9727), tr. 1-4.
29. Báo Nhân dân (1981), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần IV, ngày 15/7(9863), tr. 1-4.
30. Báo Nhân dân (1982), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần V, ngày 18/2(10070), tr. 1-4.
31. Báo Nhân dân (1982), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần VI, ngày 8/7(10210), tr. 1-4.
31. Báo Nhân dân (1983), Thông cáo chung của Hội nghị thượng đỉnh Lào –
Campuchia – Việt Nam, ngày 24/2(10436), tr. 1-4.
33. Báo Nhân dân (1983), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần VII, ngày 2/7(10564), tr. 1-4.
34. Báo Nhân dân (1984), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần VIII, ngày 30/1(10716), tr. 1-4.
35. Báo Nhân dân (1984), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao
Lào – Campuchia – Việt Nam lần IX, ngày 4/7(10870), tr. 1-4.
36. Báo Nhân dân (1985), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam – Lào – Campuchia lần X, ngày 19/1(11160), tr. 1-4.
37. Báo Nhân dân (1985), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam – Lào – Campuchia lần XI, ngày 22/8(11374), tr. 1-4.
38. Báo Nhân dân (1985), Chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm thăm Thái Lan,
ngày 18/3(11216), tr. 4.
39. Báo Nhân dân (1986), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam – Lào – Campuchia lần XII, ngày 25/1(11528), tr. 1-4.
40. Báo Nhân dân (1986), Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao
Việt Nam – Lào – Campuchia lần XIII, ngày 19/8(11731), tr. 1-4.
41. Báo Nhân dân (1986), Đồng chí Hunsen gởi thư cho Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc tố cáo Thái Lan gây xung đột ở vùng biên giới Campuchia – Thái
Lan, ngày 9/11(11813), tr. 4.
42. Báo Nhân dân (1986), Quan hệ Việt Nam – Thái Lan, ngày 29/11(11832), tr.
4.
43. Báo Nhân dân (1986), Báo cáo chính trị của Bộ chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16/12(11849), tr. 1.
44. Báo Nhân dân (1987), Bắc Kinh bán vũ khí cho Bangkok để chống nhân dân
Campuchia, ngày 28/4(11980), tr. 4.
45. Báo Nhân dân (1987), Thái Lan xâm phạm chủ quyền Campuchia, ngày
3/8(12077), tr. 4.
46. Báo Nhân dân (1987), Ba nước Đông Dương bác bỏ nội dung thông cáo Hội
nghị ASEAN tại Bangkok, ngày 29/8(12102), tr. 1.
47. Báo Nhân dân (1987), Sẽ rút về nước thêm một bộ phận quân tình nguyện Việt
Nam tại Campuchia, ngày 12/10(12145), tr. 1.
48. Báo Nhân dân (1987), Hunxen gặp gỡ N. Xihanouk để bàn việc hòa hợp dân
tộc, ngày 19/12(12213), tr. 1.
49. Báo Nhân dân (1991), Khai mạc hội nghị quốc tế PARI về Campuchia, ngày
24/10(13466), tr. 4.
50. Thananan Boonwanna (2008), Quan hệ Việt Nam – Thái Lan (1976 - 2004),
Luận án Tiến sĩ, TP. Hồ Chí Minh.
51. Trần Quang Cơ (2008), Hồi kí, http://www.dcvblogs.com.
52. Hoàng Dung (2008), Chiến tranh Đông Dương III, http://vnthuquan.net.
53. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Thượng sĩ Nguyễn Văn Bon thuộc Trung tâm thông tin - Mặt trận 479
Xiêm Riệp.
54. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Thượng sĩ Hoàng Văn Hân thuộc Trung đoàn bộ binh 10 – Sư 305 – Mặt
trận 479 Xiêm Riệp.
55. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Trung sĩ Đinh Như Hòa thuộc tiểu đoàn trinh sát 7 - Sư 305 – Mặt trận
479 Xiêm Riệp.
56. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Thượng sĩ Phạm Hữu Hoạch thuộc tiểu đoàn 1 - Sư 302 – Mặt trận 479
Xiêm Riệp.
57. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Trung sĩ Bùi Thanh Quang thuộc Tiểu đoàn 1 – Sư 9 – Quân đoàn 4 – Mặt
trận 979 Battambang.
58. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Thượng sĩ Nguyễn Văn Quý thuộc Tiểu đoàn 4 – Trung đoàn 174 – Sư 5 –
Quân khu 7 – Mặt trận 479 Xiêm Riệp.
59. Đinh Đức Duy (2008), Phỏng vấn Nhân chứng từng chiến đấu tại Campuchia,
Thượng úy Đào Văn Thọ chính trị viên Tiểu đoàn bộ binh 2 – Trung đoàn
8 – Sư đoàn 339 – Mặt trận 979 Battambang.
60. Đinh Đức Duy (2000), Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn nửa
cuối thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XIX, Khóa luận tốt nghiệp – Khoa Lịch
sử Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
61. Đặc phái viên tại báo Le Matin tại Bắc Kinh (1979), Nguy cơ đi đến một sự
đối đầu giữa Việt Nam và Thái Lan, Le Matin, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
62. Huy Đức (2007), Chiến tranh, http://www.diendan.org/vietnam/chientranh.
63. Frederic A. Moritz (1979), Thái Lan ngã sang phái Trung Quốc để được che
chở, Christian Science Monitor, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN –
TP.Hồ Chí Minh.
64. Francois Nivolon (1979), Campuchia tình hình tuyệt vọng với Khơme đỏ, Le
Figaro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
65. Francois Nivolon (1979), Cuộc khủng hoảng Đông Dương – Thất bại một nửa
đối với WALDHEIM, Le Figaro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN –
TP.Hồ Chí Minh.
66. Francois Nivolon (1979), Phỏng vấn Nguyễn Cơ Thạch, Le Figaro, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
67. Francois Nivolon (1979), Thái Lan tiếp tục trục xuất người Camppuchia, Le
Figoro, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
68. Halim Serradj (1979), Đấu tranh chính trị – tư tưởng và tinh thần dân tộc,
Revolution A. Fricaine, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí
Minh.
69. Henry Kamm (1979), Hồi hương cưỡng bức, NewsYork Times, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
70. Lê Phụng Hoàng (2008), Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh, Tủ sách ĐHSP TP. Hồ Chí
Minh.
71. Đào Minh Hồng (2008), Về vai trò của Thái Lan trong ASEAN, Trường ĐH
KHXH&NV TP. Hồ Chí Minh.
72. Quế Lai (1999), Thái Lan truyền thống và hiện đại, NXB Thanh Niên.
73. Nguyễn Tương Lai (2001), Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong những
năm 90, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội.
74. Louis Wiznitzer (1979), Thùng thuốc súng Đông Nam Á, USIS, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
75. Mark Frankland (1980), Campuchia một đấu trường kiểu như Balkan, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
76. Nhóm phóng viên The Observer tại Bang Kok (1979), Tại sao người Thái ủng
hộ Bắc Kinh, The Observer, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ
Chí Minh.
77. Vũ Dương Ninh (1994), Lịch sử Vương quốc Thái Lan, NXB Giáo Dục.
78. James Pringle (1979), Chạy trốn vì kinh hoàng, Newsweek, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
79. Richard Nation (1979), Thái Lan đấu tranh để giữ vững trung lập, Far Easter
Economic Review, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí
Minh.
80. R.P.Paringaux (1979), Chính phủ mới sẽ phải xem xét lại chính sách làm dịu
tình hình trong quan hệ với các nước cộng sản láng giềng, Le Monde, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
81. R.P.Paringaux (1979), Đàn áp và chạy trốn, Le Monde, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
82. R.P.Paringaux (1979), Sự có mặt của quân đội Việt Nam trên biên giới
Campuchia làm các giới quân sự Thái Lan lo lắng, Le Monde, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
83. Lê Văn Quang (1995), Lịch sử vương quốc Thái Lan, NXB TP.Hồ
Chí Minh.
84. Saito (1978), Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thăm Thái Lan,
Asahi Shimbun, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí
Minh.
85. Nguyễn Xuân Sơn – Thái Văn Long (1997), Quan hệ đối ngoại của các nước
ASEAN, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội.
86. Nguyễn Viễn Sự (2007), “Cầu sông Kwai và tuyến đường sắt tử thần”, Báo
Pháp Luật – TP.HCM ngày 13/12(229/1499) và ngày 14/12(230/1500), tr.
12.
87. Tiền Kì Tham (2008), Hồi kí, dịch giả Dương Quốc Anh.
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtq3m3237nmn2ntnmn31n343.
88. Theh Chongkhadikij (1979), Phương trình Campuchia, Bang Kok Post, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
89. The Aurore (1979), Tình hình căng thẳng càng tăng ở biên giới, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
90. The Bangkok Post (1979), Quan điểm của Thanat Khoman, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
91. The Bangkok post (1979), Kế hoạch đưa người Campuchia chạy sang Thái
Lan trở lại Campuchia, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí
Minh.
92. The Economist (1979), Đông Dương những biên giới dễ xâm nhập, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
93. The BBC (1979), Thái Lan tăng cường cho lực lượng quân sự, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
94. The USIA (1979), Cuộc họp báo của Kriang Sak tại Oashinton, Tài liệu tham
khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
95. The USIA (1979), Trợ lý ngoại trưởng Mĩ Holbrooke phủ nhận Mĩ có thay đổi
trong chính sách Đông A, Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ
Chí Minh.
96. The Le Figoro (1979), Thái Lan bị lôi cuốn vào mớ bòng bong Đông Dương,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
97. The Times (1979), Thái Lan trong thế cờ Đông Nam Á, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
98. Trịnh Diêu Thìn & Thanyathip Sripana (2006), Việt kiều Thái Lan trong mối
quan hệ Thái Lan – Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội.
99. Nguyễn Quang Thuần (2007), Quan hệ Campuchia – Việt Nam từ 1985 đến
2006, Luận văn thạc sĩ Lịch Sử, TP. Hồ Chí Minh.
100. Tony Davis (1979), Quan hệ Campuchia – Thái Lan – Việt Nam, Asia Weeks,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
101. TTXVN – PARI (1978), Vấn đề người tị nạn Đông Dương, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, TTXVN – TP.Hồ Chí Minh.
B. Tiếng Anh
102. Asripan (2007), “Thailand Girls talk to the Vietnammes War”, Bangkok Post.
103. Association of Southeast (2008), Joint Press Release of The first Asean,
Ministerial Meeting Bangkok, 8 August 1967, http://www.aseansec.org.
104. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Second Asean,
Ministerial Meeting Jakarta, 6 – 7 August 1968, http://www.aseansec.org.
105. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Third Asean,
Ministerial Meeting Cameron Highlands, 16 – 17 December 1969.
http://www.aseansec.org.
106. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fourth Asean,
Ministerial Meeting Manila, 12–13 March 1971, http://www.aseansec.org.
107. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fifth Asean Ministerial
Meeting Singapore, 13 – 14 April 1972, http://www.aseansec.org.
108. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Sixth Asean Ministerial
Meeting Pattaya, 16 – 18 April 1973, http://www.aseansec.org.
109. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Seventh Asean
Ministerial Meeting Jakarta, 7 – 9 May 1974,http://www.aseansec.org.
110. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Eighth Asean Ministerial
Meeting Kuala Lumpur, 13–15 May 1975, http://www. aseansec. org.
111. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Ninth Asean
Ministerial Meeting Manila, 24 – 26 June 1976, http://www.aseansec.org.
112. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Tenrth Asean
Ministerial Meeting Singapore, 5 – 8 July 1977, http://www.aseansec.org.
113. Association of Southeast (2008), Joint Press Release of The Eleventh Asean,
Ministerial Meeting Pattaya, 14 – 16 June 1978, http://www. Aseansec.org.
114. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Twelfth Asean
Ministerial Meeting Bali, 28 – 30 June 1979,http://www.aseansec.org.
115. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Thirteenth Asean,
Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 25 – 26 June 1980,
http://www. aseansec. org.
116. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fourteenth Asean,
Ministerial Meeting Manila, 17 – 18 June 1981, http://www.aseansec. org.
117. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Fifteenrth Asean,
Ministerial Meeting Singapore, 14 – 16 June 1982, http://www.aseansec. org.
118. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Sixteeth Asean Ministerial
Meeting Bangkok, 24 – 25 June 1983, http://www.aseansec.org.
119. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Seventeenrth Asean,
Ministerial Meeting Jakarta, 9 – 10 July 1984, http://www.aseansec. org.
120. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Eiteenrth Asean,
Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 9 July 1985, http://www.aseansec. org.
121. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Ninteenrth Asean,
Ministerial Meeting Manila, 23 – 28 June 1986, http://www.aseansec.
org.
122. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Twentienth Asean,
Ministerial Meeting Manila, 15 – 16 June 1987, http://www.aseansec.
org.
123. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The 21st Asean
Ministerial Meeting Manila, 4 – 5 July 1988, http://www.aseansec.org.
124. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The 22nd Asean
Ministerial Meeting Manila, 3 – 4 July 1989, http://www.aseansec.org.
125. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The 23rd Asean
Ministerial Meeting Manila, 24 – 25 July 1990, http://www.aseansec.org.
126. Association of Southeast (2008), Joint Communique of The Twenty fourth
Asean, Ministerial Meeting Manila, 19 – 20 July 1991,
http://www.aseansec.org.
127. Clack D. Neher (1987), Politic in Southeast Asia, Rochester.
128. Frederic A Moritz (1978), The refugee people of VietNam, Chiritian Science
Monitor.
129. Pandey BN, South and Autheast Asia 1945 – 1979, Problems and Policies,
Lon Don.
130. WHKMLA (2007), History of Thailand 1967–1973,
http://zum.de/whkmla/region/seasia/thai19671973.html.
131. Wyatt P.K (1982), Thailand – A Short history, New Haven and London.
PHỤ LỤC 1
TỘI ÁC CỦA CHẾ ĐỘ POLPOT

http://i607.photobucket.com/albums/tt152/h0rr0rphoto/images1086997_cam1.jpg
Trên cánh đồng chết ở Campuchia
Nguồn (http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675)

Tội ác chồng chất của chế độ Polpot


Nguồn (http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675)
Bia tưởng niệm những người bị chế độ Polpot giết hại
Nguồn:(http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675).

Tra tấn dã man phụ nữ và trẻ em


Nguồn:(http://forum.eplay.vn/zero/showthread.php?t=57675).
PHỤ LỤC 2
HÌNH ẢNH QUÂN ĐỘI VIỆT NAM TẠI CAMPUCHIA

Quân Việt Nam – dân Campuchia thân thiết và gần gũi (Svay Rieng 1979)
Nguồn (http://www.vapa.org.vn/vie/modules.php?name=News&file=save&sid=3416)

Đài tưởng niệm


quân tình nguyện
Việt Nam tại PhnomPenh. Ảnh VA
Nguồn (http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/01/822673/)
Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam 12/1978 - 1/1979
(Nguồn: http://vi.wikipedia.org)

Xe tăng T54 của Việt Nam rút về nước năm 1988.


(Nguồn: http://vi.wikipedia.org).

You might also like