You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

MÃ HP: HIST106203

ĐỀ TÀI: QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NGUYỄN THỜI KỲ 1802 – 1884

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Trà My

Mã số sinh viên : 4501608092

Giảng viên hướng dẫn : TS Nguyễn Thị Hương

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 04/01/2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

HỌC PHẦN: LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

MÃ HP: HIST106203

ĐỀ TÀI: QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NGUYỄN THỜI KỲ 1802 – 1884

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Trà My

Mã số sinh viên : 4501608092

Giảng viên hướng dẫn : TS Nguyễn Thị Hương

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 04/01/2022


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong tiến trình của lịch sử giữ nước và xây dựng đất nước, ngoại giao đã có vai trò tiên
phong trong giữ vững độc lập nước nhà. Để giữ vững và cai trị được một bộ máy Nhà
nước, người đứng đầu Nhà nước đó cần có những chính sách hợp lí và thực hiện sao
cho hiệu quả. Trong thời đại nay, việc tìm hiểu về những chính sách đối ngoại trong
quá khứ là điều cần thiết bởi nó giúp ta có những bài học kinh nghiệm trong việc xây
dựng chính sách ngoại giao hiệu quả hơn và triều đại nhà Nguyễn là vương triều mà em
lựa chọn để nghiên cứu.

Khi nhắc đến nhà Nguyễn ta đều biết rằng đây là triều đại phong kiến cuối cùng trong
lịch sử Việt Nam. Năm 1802, sau khi đánh bại quân Tây Sơn, làm chủ được toàn bộ
Đàng Trong và Đàng Ngoài, Nguyễn Ánh đặt ra niên hiệu là Gia Long, lập ra nhà
Nguyễn. Bên cạnh những đóng góp to lớn cho đất nước, đây cũng là triều đại gây nhiều
tranh cãi nhất bởi trong giai đoạn từ năm 1802-1884, trải qua 4 đời vua, nội bộ đất nước
dần không ổn định, trong vòng 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc nổi dậy của nhân dân.
Vào những năm 1850, Nguyễn Trường Tộ, người có tư tưởng canh tân được hình thành
trên cơ sở ái quốc, tư tưởng của ông là sự kết hợp giữa Nho giáo với tri thức khoa học
và triết lý phương Tây đã nhận ra sự trì trệ của đất nước và góp ý nhà vua cần học hỏi
để phát triển công nghiệp – thương mại, cải cách quân sự – ngoại giao nhưng vua Tự
Đức lại không thực sự thực hiện những cải cách đó một cách triệt để. Phải chăng chính
sự bảo thủ và chính sách sai lầm của các vua Nguyễn đã khiến đất nước rơi vào tay giặc
ngoại xâm. Khi nói về chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn, ta sẽ thấy rằng các vua
Nguyễn đều mong muốn xây dựng một đất nước phong kiến độc lập trên cơ sở nền tảng
Nho giáo, vẫn có những chính sách cải cách nhưng cuối cùng lại để xảy ra cảnh nước
mất nhà tan. Liệu rằng những chính sách đó có đúng đắn hay không và tại sao vua quan
nhà Nguyễn lại không quyết tâm thực hiện những chính sách đó và triều đình nhà
Nguyễn có thực sự đáng trách hay không? Đó là những yếu tố thôi thúc em chọn đề tài
“Quan hệ đối ngoại của nhà Nguyễn thời kỳ 1802 – 1884” để làm tiểu luận cuối học
phần.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu những sự kiện trong quá khứ, tương tự khi tìm hiểu
về quan hệ ngoại giao giữa nhà Nguyễn và các quốc gia khác trong thời kì nửa đầu thế
kỉ XIX cũng nhằm làm rõ những nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến quá
trình hình thành đường lối ngoại giao lúc bấy giờ.
Trong suốt mấy nghìn năm lịch sử, nói về quan hệ ngoại giao của nước ta không thể
không đề cập đến Trung Quốc, đây là mối quan hệ chủ yếu đối với mỗi triều đại Việt
Nam. Đối với nhà Nguyễn, triều đại nhà Thanh có vai trò chủ yếu nhất trong việc chi
phối quan hệ giữa nước ta với các quốc gia khác. Bên cạnh đó, quan hệ với các nước
lân bang khác như Cao Miên, Xiêm La, Ai Lao cũng là mối quan hệ cần được đề cập
trong quá trình ngoại giao của nhà Nguyễn.

Đối với các nước phương Tây, mối quan hệ đối ngoại của các chính quyền Lê-Nguyễn
đã manh nha từ giai đoạn thế kỷ XVII-XVIII. Vào những năm cuối XVIII, hiệp ước
Versailles được ký kết giữa Giám mục Bá Đa Lộc - đại diện cho chúa Nguyễn Ánh và
hầu tước Montmorin - đại diện cho vua nước Pháp Louis XVI đã không được thực hiện
do cuộc Cách mạng Pháp vào năm 1789. Từ khi vua Gia Long lên ngôi, các tàu buôn
các nước phương Tây bắt đầu bành trướng về Viễn Đông để tìm thị trường tiêu thụ mới,
trong đó gồm Pháp, Anh, Hoa Kỳ và Tây Ban Nha. Những chính sách của vua Nguyễn
đối với các nước phương Tây có thể nói rằng đã ảnh hưởng rất lớn trong việc khiến
nước ta trở thành một nước thuộc địa.

Đối với Việt Nam ngày nay, phát triển và hội nhập quốc tế là điều tất yếu, những chính
sách với các nước phương Đông và phương Tây cũng đều tiến bộ hơn so với thời
Nguyễn rất nhiều. Do đó, việc tìm hiểu về quan hệ ngoại giao của nhà Nguyễn thế kỉ
XIX giúp ta nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực và công bằng hơn trong
việc đánh giá về chính sách ngoại giao lúc bấy giờ và cũng là rút ra bài học trong công
tác đối ngoại của nước ta ngày nay.

3. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành trong việc nghiên cứu đề tài này, các phương pháp lịch sử, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu lịch sử được sử dụng để nghiên cứu và tham
khảo,…

4. Phạm vi nghiên cứu

Chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn

- Thời gian: giai đoạn 1802 – 1884;

- Không gian: Việt Nam và các quốc gia lân cận như Trung Quốc ở phía Bắc, các nước
phía Nam và Tây Nam như Cao Miên, Xiêm La, Ai Lao, … và các nước phương Tây.
5. Bố cục dự kiến

Kết cấu của tiểu luận được chia làm 4 chương:

Chương 1: Bối cảnh thế giới và Việt Nam đầu thế kỉ XIX

Chương 2: Quan hệ ngoại giao của Triều Nguyễn với nhà Thanh.

Chương 3: Quan hệ ngoại giao của Triều Nguyễn với các nước Xiêm La, Chân Lạp.

Chương 4: Quan hệ ngoại giao của Triều Nguyễn với các nước phương Tây.

Và phần Kết luận.

Do sự hạn chế về khả năng nghiên cứu, tài liệu và thời gian, hoàn cảnh nghiên cứu, nên
chắc chắn sẽ có những thiếu sót. Tuy nhiên, em đã vận dụng hết khả năng tìm hiểu thông
qua tài liệu mạng internet, thư viện online, sách,… để tìm ra được những tư liệu liên
quan nhất đến đề tài nên mong cô có thể bỏ qua những thiếu sót của em.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XIX ................. 7
1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực ................................................................................ 7
1.2 Bối cảnh trong nước ............................................................................................. 7
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 8
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI NHÀ THANH
........................................................................................................................................ 8
2.1 Sắc phong và triều cống ....................................................................................... 8
2.2 Thái độ của nhà Nguyễn với Trung Quốc ............................................................ 9
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 11
CHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC
XIÊM LA, CHÂN LẠP ................................................................................................ 11
3.1 Quan hệ ngoại giao với Xiêm la ......................................................................... 11
3.2 Quan hệ ngoại giao với Chân Lạp ...................................................................... 12
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 13
CHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC
PHƯƠNG TÂY ............................................................................................................ 13
4.1 Quan hệ với các nước phương Tây..................................................................... 13
4.1.1 Đối với Hoa Kỳ ........................................................................................... 13
4.1.2 Quan hệ với Anh .......................................................................................... 14
4.2 Quan hệ với Pháp................................................................................................ 16
4.2.1 Thời vua Gia Long ...................................................................................... 16
4.2.2 Thời vua Minh Mạng ................................................................................... 17
4.2.3 Thời vua Thiệu Trị và Tự Đức .................................................................... 18
4.2.4 Các hiệp ước được ký kết giữa nhà Nguyễn và Pháp .................................. 19
Tiểu kết chương 4: ................................................................................................ 20
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 20
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XIX
1.1 Bối cảnh thế giới và khu vực
Vào những năm thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, châu Âu và Bắc Mỹ đã tiến hành thành
công các cuộc cách mạng tư sản, thêm vào đó là cách mạng công nghiệp đầu tiên đã
thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, khoa học kĩ thuật phát triển mạnh đạt
đến trình độ tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ. Những sự lớn mạnh đó đồng nghĩa với
việc các nước tư bản Âu-Mỹ cũng phải đẩy mạnh chiến tranh xâm lược để chiếm đoạt
thị trường và thuộc địa. Những điều đó khiến cho các nước Tư bản ngày càng đua nhau
tranh giành thuộc địa, dẫn đến những chinh phục một cách dã man, tước đoạt nền độc
lập của các quốc gia và châu Á cũng không phải là một ngoại lệ. Trong hành trình ngã
về phương Đông, bên cạnh các nhà hàng hải là những thương nhân và giáo sĩ. Họ mang
theo hàng hóa và Kinh Thánh, mang theo văn hóa vật chất và tinh thần của người châu
Âu. Nhưng đến lượt những đội quân viễn chinh và tướng cai trị, tinh túy của nền văn
minh phương Tây lại bị khúc xạ đến mức sai lệch thể hiện qua những cuộc cướp bóc
man rợ đầy tội ác và những cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo. Trong sự hào nhoáng
của thứ gọi là văn minh, thực dân phương Tây tự phong cho mình sứ mệnh “khai hóa
văn minh” mà không dám thừa nhận âm mưu thật sự của chúng. Do đó, bên cạnh việc
du nhập một nền sản xuất mới, nó đã gây ra một hậu quả không thể chối bỏ là đời sống
vật chất và tinh thần của người dân thuộc địa bị ảnh hưởng rất nhiều.

Ở khu vực châu Á, quá trình bành trướng thế lực của các nước thực dân được đẩy
mạnh với quy mô mạnh mẽ. Trong khi đó, các quốc gia ở châu Á đa số vẫn nằm dưới
ách thống trị của chế độ phong kiến và ở trong tình trạng lạc hậu, trì trệ. Đặc biệt, các
quốc gia phong kiến Đông Nam Á sau một thời gian phát triển ở các thế kỷ trước, đến
thời gian này đều lâm vào khủng hoảng trầm trọng, chính quyền phong kiến Trung ương
suy yếu, nhân dân đứng dậy khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Điều đó làm cho các nước Đông
Nam Á trở thành mục tiêu nhòm ngó, xâm lược của các nước thực dân. Philippine đã
trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha vào năm 1572. Vào năm 1603, Hà Lan bắt đầu tấn
công Indonesia. Các nước Mã Lai, Singapore và Brunei cũng đều trở thành thuộc địa
hoặc là vùng đất bảo hộ của Anh vào cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.

1.2 Bối cảnh trong nước


Sau khi giành lại vương triều từ nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua và lấy
hiệu là Gia long. Nhà Nguyễn được thừa hưởng thành quả to lớn là một đất nước thống
nhất từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ, Phú Xuân
được chọn làm kinh đô. Trải qua giai đoạn 1802-1884, nhà Nguyễn đã có bốn đời vua
là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Với chế độ nhà nước quân chủ chuyên
chế tuyệt đối, Vua là người trực tiếp điều hành mọi việc quan trọng của đất nước, từ lớn
đến nhỏ, không có chức Hoàng hậu, tể tướng, không lấy trạng nguyên cho thi cử, không
phong tước cho người ngoài họ vua: “Nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có Hoàng
phi và các cung tần”, “Quan lại trong triều đại khái theo chế độ nhà Lê nhưng bỏ chức
Tham tụng và Bồi tụng, tức là chức tể tướng đời xưa”. (Trần Trọng Kim, 1919, tr. 531)

Về ngoại giao, đối với các nước phương Tây, nhà Nguyễn thi hành chính sách “bế
quan tỏa cảng”, không giao lưu, buôn bán. Bên cạnh đó, vua Nguyễn còn thi hành chính
sách cấm và tàn sát đạo Thiên chúa. Ở châu Á thì vua Nguyễn lại thần phục nhà Thanh
và tranh giành sự ảnh hưởng ở các nước Ai Lao, Cao Miên,...

Về kinh tế, vua Nguyễn cho thực thi phép quân điền nhằm phân chia ruộng đất
nhưng không thật sự hữu ích do nạn chấp chiếm ruộng đất của giai cấp địa chủ khiến
cho ruộng đất công không còn lại nhiều. Bên cạnh đó là nạn ruộng đất bỏ hoang nên dù
có khai khẩn thêm được hai vùng lớn là Tiền Hải và Kim Sơn cũng không giúp cho diện
tích ruộng đất được cải thiện. Việc khai thác các mỏ vàng, bạc, đồng, chì,… cũng được
mở rộng nhưng cách khai thác còn lạc hậu nên cũng không mang lại hiệu quả cao.

Trong xã hội, do địa chủ sở hữu hầu hết ruộng đất và thiên tai liên tiếp xảy ra
khiến nhân dân lầm than, tha hương cầu thực khắp nơi. Đó cũng là lí do nông dân tụ hội
lại với nhau để nổi dậy khởi nghĩa, chỉ trong nửa đầu thế kỉ XIX đã có hơn 400 cuộc
nổi dậy khởi nghĩa, đây là điều chưa từng xảy ra trong những vương triều trước đó.
Thêm vào đó, việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân và can thiệp quân sự vào Cao
Miên và Ai Lao khiến nền tài chính thiếu hụt, ngân sách trống rỗng, tiềm lực quân sự -
quốc phòng của đất nước cũng bị giảm sút và suy yếu.

Tiểu kết chương 1


Trước những tác động của tình hình thế giới, của khu vực và của cả nội tại của đất
nước đã đặt ra thách thức cho Nhà nước phong kiến Việt Nam đầu thế kỉ XIX việc tìm
ra con đường phát triển đúng đắn và biện pháp phù hợp để đưa đất nước phát triển và
thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa.

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI NHÀ THANH
2.1 Sắc phong và triều cống
Trong ngoại giao với Trung Quốc, nhà Nguyễn tiếp tục thực hiện chủ trương thần
phục. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cử một sứ đoàn qua Tàu xin cầu phong, đứng
đầu là Trịnh Hoài Đức. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó 1802, vua Gia
Long cử thêm Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định sang xin vua Gia Khánh đổi tên cho
nước ta. Vua Gia Long ngỏ ý muốn đặt tên nước là Nam Việt với lẽ rằng “Nam” là An
Nam và “Việt” là Việt. Năm Giáp Tý 1804, triều đình Mãn Thanh cho Tổng đốc Quảng
Tây là Tề Bố Sâm sang làm lễ tấn phong cho vua Gia Long và đưa ra hai sắc dụ:

Một là đặc tên nước ta là Việt Nam bởi cái tên Nam Việt trùng với tên của thời nhà
Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây. Sau đó vua Gia Long đã xuống chiếu cho
bàn dân thiên hạ biết đến. “Việt Nam” chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta, tuy
nhiên nhân dân vẫn hay gọi với cái tên là Đại Việt.

Sau này, vào năm Minh Mạng thứ mười chín tức năm 1938, người đã khẳng định
lại quốc hiệu là Đại Nam với tinh thần chữ “đại” xuất phát từ: “Nay bản triều có cả
phương Nam, bờ cõi ngày càng rộng, một dải phía Đông thông ra tận biển Nam, vòng qua
biển Tây”. Đại Nam nhất thống toàn đồ (bản đồ Việt Nam thời Nguyễn) được thực hiện
trong thời gian này đã trở thành một sử liệu cực quan trọng, vừa là biểu tượng mang tính
chính danh vừa tỏ rõ phạm vi chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa.

Hai là là ấn định thể lệ tiến cống từ nay cứ hai năm một lần và cứ 4 năm một lần
Việt Nam phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.Ngoài những sứ thần chính quy, các sứ giả
lâm thời phụ trách việc chúc mừng, cầu phong, tạ ân, điếu vấn,… cũng được cử sang.
Lễ cống mà nhà Thanh quy định gồm có: vàng (200 lượng), bạc (1000 lượng), sừng tê
giác (2 bộ), lụa vải và gấm (mỗi thứ 100 cây), ngà voi và quế (mỗi thứ 100 cân). Rồi
vua Gia Long thân hành ra Thăng Long ở điện Kính Thiên (cũ) để làm lễ thụ phong bởi
sứ giả không chịu vào Huế. Năm sau Gia Long lại cử sứ bộ sang cảm tạ vua Tàu tại Bắc
Kinh. tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ 50 tuổi vua Gia Khánh.
(Phạm Văn Sơn, 1983, tr.414).

Việc xin phong vương và triều cống của nhà Nguyễn đối với Trung Quốc là thần
phục một cách mù quáng bởi chính sách ngoại giao của triều đình Huế so với nhà Thanh
là “bất di bất dịch”, không có những chính sách linh hoạt. Trong Hoà ước Giáp Tuất
1874, nhà Nguyễn đã cam đoan thích ứng những đường lối ngoại giao với chính sách
ngoại giao của Pháp và không thay đổi những mối quan hệ ngoại giao của mình trước
đó. Điều đó mang nghĩa rằng vua Tự Đức vẫn luôn có tư tưởng thần phục nhà Thanh,
muốn làm tròn nghĩa vụ một nước chư hầu mặc cho bối cảnh xã hội lúc đó vô cùng rối
ren.

2.2 Thái độ của nhà Nguyễn với Trung Quốc


Trong mối quan hệ giữa Việt – Trung đầu thế kỉ XIX, hai bên tương đối hoà thuận
với nhau, các đoàn sứ thần thường xuyên sang thăm hỏi nhau. Các vua Nguyễn đều cố
gắng phát huy truyền thống ngoại giao của dân tộc, bình thường hoá quan hệ với Trung
Hoa để có thể chuyên tâm phát triển đất nước. Vua Gia Long chủ trương đường lối
“trong xưng đế, ngoài xưng vương” với mong muốn khẳng định vai trò của mình.
Những người kế vị Gia Long đều tiếp tục thực hiện lối ứng xử truyền thống, nhận "sắc
phong" và thực hiện nghi lễ “triều cống” với tinh thần hoà hiếu. Sở dĩ các vị vua đều
xưng là hạ thần với Đoàng đế nhà Thanh bởi sự yêu thích Nho học và nghĩ rằng Trung
Quốc là ngọn nguồn của tri thức. Do đó, mỗi lần sứ giả sang Trung Quốc đều mua thư
tịch mang về, nhất là những thư tịch mới phát hình. Việc mua thư tịch của Trung Quốc
không những làm giàu kho tàng tri thức mà còn là tư liệu tham khảo để triều đình nhà
Nguyễn xây dựng những quy định, những luật lệ trong pháp luật, chính trị,… Ví dụ vào
năm 1815, Vua Gia Long đã biên soạn và ban hành bộ luật “Quốc triều luật lệ”, được
biết đến với tên “Hoàng Việt luật lệ” dựa trên bản gốc của Đại Thanh luật.

Ngoài nhiệm vụ dâng triều cống, nhiệm vụ chính khác của sứ thần là thể hiện nước
Nam là một nước có văn hóa. Theo quan điểm của vua Minh Mạng, sứ thần sang nhà
Thanh phải là người giỏi văn học và ngôn ngữ bởi nếu là người kém cỏi thì chỉ nhận lại
sự khinh miệt của Trung Quốc đối với nước ta. Những vị sứ thần này không những phải
đối đáp thơ văn với các quan lại nhà Thanh mà họ Thanh, mà còn phải cạnh tranh với
các sứ giả đến từ Triều Tiên.. Năm 1809 và 1817, khi các sứ giả sửa soạn sang Trung
Quốc, đích thân vua Gia Long đã cho mời họ đến và ra lệnh rằng phải giữ gìn quốc thể
và mối bang giao sao cho chắc. Đến thời vua Minh Mạng vào năm 1840, Bộ lễ báo cáo
với vua rằng sứ thần sang nhà Thanh năm ngoái đã bị xếp đứng phía sau sứ thần các
nước Cao Ly, Nam Chưởng, Xiêm La, Lưu Cầu và hỏi xem ý kiến vua như thế nào.
Vua Minh Mạng nói rằng “việc này do sơ suất của bộ Lễ nhà Thanh, Cao Ly là nước
văn hiến thì đã đành, Nam Chưởng là nước triều cống của chúng ta, Xiêm La và Lưu
Cầu là những nước Di địch nên không thể như vậy được”. Người còn nói thêm rằng
“sau này còn có chuyện như vậy, hãy ra khỏi hàng, thà bị trách phạt còn đỡ hơn”. Ta
có thể thấy rằng, việc các vua Nguyễn làm như thế không phải vì sự tôn trọng đối với
nhà Thanh mà vì lòng tự tôn dân tộc, không muốn đất nước bị phương Bắc coi thường.
Việc tuyển chọn sứ thần tài giỏi về ngoại giao, tri thức lẫn văn hoá không phải chỉ ở
triều Nguyễn mà đã từ các triều đại trước đó. Là những người có học thức, khi bị động
chạm đến bản sắc văn hoá hay độc lập dân tộc, các vua Nguyễn tỏ rõ sự cứng rắn. Khi
bàn về trang phục trong lễ Dụ tế, Minh Mạng khẳng định “Ta tự theo lễ nước ta” (Trần
Văn Cường, 2001, tr 76).

Vào giữa thế kỉ XIX, cuộc chiến tranh Nha phiến lần 1 (1839 – 1842) và lần 2
(1856 – 1860) đã khiến cho Đại Thanh ngày càng suy yếu, mối quan hệ giữa Việt –
Trung cũng từ đó mà dần xa cách. Đến thời vua Tự Đức, sự suy thoái của nhà Thanh
càng làm cho Tự Đức có những hành động tự chủ. Dù Pháp tấn công lần lượt từng miền
của nước ta nhưng vua Nguyễn không có ý định thông báo cho nhà Thanh, triều đình
Huế đã lần lượt kí kết các Hoà ước Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874), Hac-măng
(1883) và Patonot (1884). Kể từ đó, nước ta trở thành một nước thuộc địa – nửa phong
kiến và việc cống nạp cho nhà Thanh cũng chấm dứt.

Tiểu kết chương 2


Trung Quốc luôn là người láng giềng lớn mạnh của Việt Nam nên khi lên ngôi
các vua Nguyễn đều phải kiêng dè. Chính sách của nhà Nguyễn là vừa cương vừa nhu,
bên cạnh những công lao như trên, nhà Nguyễn vẫn thể hiện sự nhu nhược của mình
khi không hề đá động gì đến vùng đất 6 châu An Tây (Hưng Hoá xưa) bị nhà Thanh
xâm chiếm thời Vua Lê – Chúa Trịnh. Có thể các vua Nguyễn sợ rằng với tư tưởng
bành trướng và nhiều lần xâm lược Việt Nam, nếu đòi lại mảnh đất đó chiến tranh sẽ
xảy ra. Dù có thái độ với Mãn Thanh đi nữa, từ vua Gia Long đến Tự Đức cũng vẫn
phải thực hiện chính sách thần phục và nhận phong tước của nhà Thanh, thậm chí trước
thời vua Tự Đức, ai lên ngôi vua đều phải đích thân ra Thăng Long để thụ phong bởi sứ
thiên triều không đồng ý vào Huế.

CHƯƠNG 3: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC
XIÊM LA, CHÂN LẠP
3.1 Quan hệ ngoại giao với Xiêm la
Xiêm từ lâu vẫn luôn muốn quấy rối Chân Lạp, lợi dụng việc chiến tranh giữa
Nguyễn Ánh và triều Tây Sơn, Xiêm đã bắt đầu làm bá quyền khu vực, bành trướng
lãnh thổ, muốn đẩy mạnh sự bảo hộ tại Cao Miên và Chân Lạp.

Sau khi vua Nặc Ấn mất năm 1796, đến năm 1806 Nặc Chân mới được lên ngôi
do Xiêm lấy lí do Nặc Chân khi ấy còn nhỏ, không thể giải quyết việc triều chính. Mặc
dù thần phục Xiêm La nhưng Nặc Ông Chân vẫn cử sứ đoàn sang diện kiến vua Gia
Long ở Thăng Long, điều đó khiến vua Xiêm phật lòng. Tuy có xung đột trong việc
giành quyền bảo hộ ở Chân Lạp nhưng mối quan hệ Xiêm – Việt nhìn chung vẫn giữ
được sự hoà hảo. Khi Tây Sơn nắm quyền, vua Gia Long đã sống lưu vong nhiều năm
trên đất Xiêm và được vua Xiêm giúp đỡ nhiều lần trong công cuộc giành lại vương
quyền. Năm 1803, sau khi khôi phục vương triều, vua Gia Long đã cho đại sứ sang
Xiêm báo tin và đặt quan hệ ngoại giao giữa hai nước và từ đó hai bên thường sang tặng
vật phẩm quý cho nhau. Vua Nguyễn và vua Xiêm La quyết định cùng đặt ảnh hưởng
ở Chân Lạp, muốn Chân Lạp “thần phục kép” bằng con đường hòa bình.

Nhìn chung, mối quan hệ giữa nhà Nguyễn đối với Xiêm lúc thì thân thiện, lúc thì
tranh chấp. Những chính sách ngoại giao hai bên chỉ là nghi thức, không bao hàm được
tất cả những vấn đề. Chính vấn đề các nước Ai Lao, Chân Lạp mới cho thấy hết được
mối quan hệ giữa triều đình Huế và Bangkok do xuất phát từ lợi ích của cả hai bên.
Nhìn chung, Xiêm bề ngoài thân thiện với nhà Nguyễn nhưng vẫn luôn chờ đợi thời cơ
để tranh giành quyền lực cho mình.

3.2 Quan hệ ngoại giao với Chân Lạp


Từ lâu Chân Lạp luôn yếu thế hơn mỗi khi bị Xiêm tấn công, do đó luôn cần sự
giúp đỡ của Việt Nam. Lợi dụng cơ hội nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn đang tranh đấu,
năm 1779, dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh (Phya Tak) đã phân chia lãnh thổ Cao
Miên.

Khi Nặc Chân lên ngôi, vua Xiêm liền có ý định cho 3 người anh em của Nặc
Chân tranh chấp quyền lợi. Đến năm 1810, sau khi vua Rama I mất, Nặc Chân đã giết
hai viên quan Xiêm đang sống tại Chân Lạp. Xiêm hay tin đó đã đưa quân ào ạt vào
thành La Bích, nhân cơ hội đó, Xiêm xúi Nặc Nguyên là em của Nặc Chân nổi loạn.
Nặc Chân lo sợ cử sứ thần sang Huế cầu viện binh. Vua Gia Long lúc bấy giờ đã cử Lê
Văn Duyệt dẫn theo 1 vạn quân hộ vệ đưa Nặc Chân trở về buộc Xiêm và Nặc Ông
Nguyên phải rút lui. Để phòng ngừa việc này xảy ra lần nữa, Lê Văn Duyệt quyết định
đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên và xây thành Nam Vang cùng thành La Lem. Sau đó
vua Thế Tổ (Gia Long) sai Nguyễn Văn Thụy đem 1000 quân sang trấn giữ nơi đây.
Khi Nặc Chân qua đời mà không có con trai kế tự, quan phụ trách việc bảo hộ Chân
Lạp là Trương Minh Giảng đưa em gái Nặc Chân là Ang Mey lên làm Quận Chúa,
đương thời gọi là Ngọc Vân Công Chúa. Ông còn cho đổi Chân Lạp thành Trấn Tây
thành, gồm 32 phủ và 2 huyện, cho quan chức chăm sóc mọi chuyện quân sự và dân sự.
(Trần Trọng Kim, 1919, tr.191).

Triều đại Cao Miên coi như đã chấm dứt, nhà Nguyễn cai trị gián tiếp qua triều
đình của Ang Mey trong khi Xiêm mở cuộc xâm lăng và làm chủ ở vùng Tây Bắc. Thêm
vào đó, quan lại Việt làm nhiều điều càn rỡ, lại bắt cả Ngọc Vân công chúa đem về Gia
Định để quản thúc, các quan Chân Lạp là La Kiên, Trà Long làm việc cho nhà Nguyễn
cũng bị cho là thân Xiêm nên bị bắt. Nhân dân Chân Lạp dưới chế độ bảo hộ hà khắc
của vua Minh Mạng đã bất mãn nổi lên đánh phá, Xiêm La lợi dụng dịp này giúp em
Nặc Chân là Nặc Đôn khởi nghĩa, quân triều đình dẹp mãi không xong. Năm 1840, khi
vua Thánh Tổ mất thì các nhà cầm quyền ở Trấn Tây cũng buộc phải rút về An Giang.
Trương Minh Giảng vốn là người quen thuộc với vùng đất đó nay buộc phải rút về, ông
uất ức rồi lâm bệnh mà chết ngày 27/09/1841. (Trần Trọng Kim, 1919, tr.191).
Tiểu kết chương 3
Sự can thiệp và mở rộng ảnh hưởng của nhà Nguyễn vào việc của các nước lân
bang từ thời vua Gia Long đến Thiệu Trị khiến cho mọi mặt của đất nước dần suy giảm.
Trong hoàn cảnh lúc đó, điều cần thiết là phải có những chính sách để phát triển đất
nước thì những vị vua nhà Nguyễn đã làm điều trái lại với nhu cầu đất nước bấy giờ.

CHƯƠNG 4: QUAN HỆ NGOẠI GIAO CỦA TRIỀU NGUYỄN VỚI CÁC NƯỚC
PHƯƠNG TÂY
4.1 Quan hệ với các nước phương Tây
4.1.1 Đối với Hoa Kỳ
Thời vua Gia Long, quan hệ nước ta với Hoa Kỳ chưa phát triển. Vào năm 1802,
một công ty tàu biển của Hoa Kỳ đã quyết định gửi một con tàu đến Việt Nam với mong
muốn tìm nguồn cung cấp đường và cà phê. Chiếc tàu được chọn mang tên Fame với
thuyền trưởng là Jeremiah Briggs, cập bến tại cảng Đà Nẵng ngày 21/5/1803, đánh dấu
lần đầu tiên một thương thuyền của Hoa Kỳ giong buồm ở Việt Nam. Được sự đồng ý
của vua Gia Long, tàu chạy dọc bờ biển để tìm chỗ thả neo và buôn bán, nhưng vì gió
to không thể vào được bờ, ngày 10/06/1803 tàu Fame đã rời Việt Nam sang Manila.

16 năm sau, chiếc tàu thứ hai được ghi nhận đến Việt Nam là tàu Franklin do thuyền
trưởng John White chỉ huy, được cho là đến với mục đích muốn thiết lập quan hệ thương
mại với Việt Nam. Ngày 02/01/1819 tàu Franklin cập bến tại cảng Vũng Tàu, sau đó
thuyền trưởng đã nói chuyện với quan chức địa phương và được hứa là sẽ cấp giấy phép
cho vào Sài Gòn nhưng chờ mãi không thấy có hồi âm. Sau đó có một vị quan nói rằng
cần phải có giấy phép của triều đình thì tàu của ngoại quốc mới được phép cập vào Sài
Gòn. John White quyết định đến Huế để yết kiến vua nhưng khi đó vua Gia Long đang
tuần du ở Bắc Hà nên không thể gặp mặt. Sau đó, White đưa thuyền đến Manila và hy
vọng có thể tìm thấy người phiên dịch viên rồi sẽ quay trở lại Việt Nam sau. (Robert
Hopkins Miller, 1990, tr 18). Có thể thấy, trong thời gian trị vì của vua Gia Long, quan
hệ giữa nước ta với Hoa Kỳ chưa phát triển.

Vào thời vua Minh Mạng, một phái bộ do Edmud Roberts được đích thân Tổng
thống Andrew Jackson cử sang Ấn Độ Dương đem theo quốc thư của Tổng thống với
mong muốn ký kết Hiệp định thương mại. Tháng 1 năm 1832, con tàu Peacock cùng
đoàn đại sứ đến Việt Nam, xin trình quốc thư lên nhà vua nhưng đã bị khước từ và vua
cho rằng thư đó không chỉ đích danh người nhận. Mặc dù vua Minh Mạng đã từ chối
nhưng vẫn cho phép phái đoàn được buôn bán với điều kiện phải tuân theo pháp luật đã
định. Tàu của Hoa Kỳ nếu đến lần nữa phải cập bến ở vịnh Trà Sơn (Quảng Nam) và
không được phép lên bờ làm nhà. Sau khi nhận thư, Edmud Roberts đã rời Việt Nam. 4
năm sau đó, ngày 14/5/1836 phái đoàn của Edmud Roberts một lần nữa đến vịnh Trà
Sơn. Lần này, vua Minh Mạng có thái độ rộng rãi hơn nhưng sau đó Edmud Roberts bị
ốm nặng đành phải rời cảng để qua Macao chữa bệnh. Ngày 12/06/1836, sau khi đến
Macao thì ông qua đời. Hơn nữa, phái đoàn Hoa Kỳ lại muốn Việt Nam phải trả lời thư
của Tổng thống trong vòng 3 ngày nhưng khi đó những phiên dịch giỏi lại không có
mặt.

Sự khác biệt về văn hóa, phong tục tập quán là yếu tố cản trở sự phát triển giữa
Hoa Kỳ và Việt Nam. Hoa Kỳ đã có những ý định và mong muốn trong việc giao thương
với Việt Nam nhưng lại thiếu những hiểu biết và sự kiên nhẫn cần thiết khi tiến hành
thương thuyết với triều Nguyễn và phía nhà Nguyễn đối với nước phương Tây vẫn luôn
có sự e dè và có góc nhìn thiển cận.

4.1.2 Quan hệ với Anh


Trong thời gian trị vì của vua Gia Long, quan hệ Việt – Anh cũng không phát triển
nhiều bởi trước khi lên ngôi, giữa vua và người Anh đã có những xích mích khi một
chiếc tàu buôn của Nguyễn Ánh cho người Pháp chỉ huy đã bị người Anh bắt giữ. Khi
Nguyễn Ánh lên ngôi, người Anh đã đến để đặt quan hệ thông thương với Việt Nam.
Năm 1803, J.W.Roberts với tư cách là đại diện công ty Ấn Độ của Anh đã đến với mục
đích thương thuyết về ngoại giao và thương mại nhưng bị vua Gia Long từ chối. Năm
1804, người Anh tiếp tục cử người đến Việt Nam để tặng phẩm vật và đưa thư xin cho
được đi lại buôn bán ở Đà Nẵng. Vua Gia Long vẫn từ chối nhận quốc thư lẫn phẩm
vật. Tuy nhiên, Người ra chỉ thị từ nay người Anh nếu muốn đến buôn bán ở Việt Nam
thì cũng sẽ được đối xử như với người của bất cứ nơi nào khác. Mặc dù sau đó phái bộ
Anh lại tiếp tục 3 lần đưa thư xin đặt quan hệ thông thương nhưng vẫn bị từ chối. Về
sau, do nhu cầu mua vũ khí, người Anh vẫn đem hàng hoá đến bán nhưng vua Gia Long
vẫn giữ thái độ kì thị. Vua Gia Long tuy có thiện chí với người Pháp nhưng lại thành
kiến với người Anh. Vua đề phòng người Anh bởi cho rằng họ là bọn Man Di, xảo trá,
không cùng nòi giống với ta nên lòng dạ họ cũng khác hẳn ta. (Trần Nam Tiến, 2005,
tr 67).

Đường lối ngoại giao nước ta sang thời vua Minh Mạng thì hoàn toàn bị động, bài
trừ cả người Anh và người Pháp. Các phái đoàn Anh quốc đến Việt Nam đã không thể
ký kết bất kỳ hiệp ước ngoại giao nào với nhà Nguyễn. Tuy nhiên, vua Minh Mạng vẫn
cho phép tàu Anh sang để buôn bán tại các hải cảng như cảng Sài Gòn, cửa Hàn (Đà
Nẵng), cửa Thuận An (Huế), trừ hai nơi là Hà Tiên và Kẻ Chợ.
Những năm cuối thời gian trị vì, nhìn thấy được sự phát triển mạnh mẽ của chủ
nghĩa tư bản Tây phương, vua Minh Mạng đã dần có những nhận thức mới trong quan
điểm và có một số hành động cụ thể. Giai đoạn cuối năm 1939 đầu năm 1940, vua Minh
Mạng đã cử người sang để quan sát những kĩ thuật của phương Tây. Người cử phái
đoàn đến Pénang và Calcutta xem họ chuẩn bị chiến sự như thế nào, đến Jakarta xem
Hà Lan có động tĩnh ra sao,… (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007, tập XXII, tr 44).
Không những thế, người còn cử một phái bộ sang Anh với thiện chí muốn thiết lập quan
hệ ngoại giao với Anh. 11/1939, một phái bộ do Tư vụ Trần Viết Xương dẫn đầu sang
Anh và Pháp để thương thuyết và đặt bang giao với hai nước ấy. Phái bộ nhà Nguyễn
gồm 4 người: Tư vụ Trần Viết Xương, Thư lại Tôn Thất Thường cùng 2 viên thông
ngôn, một người dịch tiếng Pháp và một người dịch tiếng Anh. Sau khi đến Pháp không
đạt kết quả như ý, phái đoàn tiếp tục đến Anh. Ngày đầu tiên đến London, sứ bộ xin yết
kiến Thủ tướng Anh nhưng được đáp lại với thái độ lưng chừng. Cuộc gặp gỡ không hề
đề cập đến tinh thần thân thiện, tình trạng quân sự và chính trị giữa hai nước. Thủ tướng
giới thiệu phái bộ nhà Nguyễn đến gặp Bộ trưởng Palmerston - người đã được báo cáo
về tình hình quân sự yếu kém của Việt Nam, cũng như những lời nhận xét về chính sách
đối nội và đối ngoại của Minh Mạng. Thấy được sự yếu kém của Việt Nam, Palmerston
đã từ chối đặt quan hệ ngoại giao, mục đích của đoàn sứ giả bất thành. Tuy không đạt
được những mong muốn nhưng những nỗ lực đó của vua Minh Mạng đã chứng tỏ quan
điểm mới của nhà vua trước những tác động của tình hình thế giới và khu vực nhưng
tiếc rằng những hành động đó cũng nhà vua lúc bấy giờ đã quá muộn màng.

Dưới thời vua Thiệu Trị, quan hệ với nước Anh cũng không phát triển, tuy nhiên
vua Thiệu Trị vẫn cho những thương nhân người Anh ghé vào bờ để lấy nước và củi,
tránh bão, miễn thuế nhập cảng và còn tổ chức cứu hộ khi họ lâm nạn. Quan hệ giữa
nhà Nguyễn với Anh quốc thực sự chấm dứt khi toàn quyền Anh ở Hồng Kông là John
Davis dẫn đầu một chiến hạm và một tàu máy đến Cửa Hàn cùng với quốc thư của Nữ
hoàng. Davis mong muốn hai nước cùng nhau hợp tác về kinh tế lẫn quân sự để có thể
chống lại Pháp khi cần. Tuy nhiên, giống như những vị vua trước, vua Thiệu Trị vẫn
luôn cảnh giác với tư bản nước ngoài và từ chối không tiếp. Viên quan trấn giữ Đà Nẵng
là Tôn Thất Thường và John Davis đã tranh luận nhiều ngày. Sau đó, triều đình Huế đã
tặng nhiều vật phẩm cho họ, tận 10 ngày sau hai tàu chiến mới rời đi. (Trần Nam Tiến,
2005, tr 184).
4.2 Quan hệ với Pháp
4.2.1 Thời vua Gia Long
Nhờ chịu ơn người Pháp trong công cuộc giành lại vương quyền từ nhà Tây Sơn,
vua Gia Long đã trả ơn bằng việc giữ lại vài người Pháp và ban cho họ chức võ quan
cao cấp như Jean Baptiste Chaigneau, Philippe Vannier, de Forsans, Despiau. Họ được
hưởng chế độ đãi ngộ rất tốt và có tên tiếng Việt riêng, thậm chí còn được vua Gia Long
miễn cho lệ mỗi khi diện kiến vua không cần sụp lạy năm lần như những vị quan triều
đình khác mà chỉ cần năm vái. Mặc dù làm việc cho triều Nguyễn nhưng những người
này đều muốn tìm cơ hội để giành quyền lợi về cho nước Pháp. Mặc dù trước đó Pháp
đã có những hành động quan tâm đến việc giao thương ở Việt Nam nhưng trong khoảng
thời gian từ năm 1802 đến 1812, Pháp còn đang trong cuộc cách mạng Tư sản nên không
có những hoạt động buôn bán đáng kể. Sau khi lên nắm quyền, Hoàng đế Napoléon
Bonaparte bắt đầu bành trướng lãnh thổ và chú ý đến Việt Nam. Bonaparte cho rằng vai
trò của Giáo hội và các giáo sĩ sẽ có ích trong việc che giấu những mưu đồ chính trị và
thương nghiệp của ông. Năm 1815, khi chính quyền của Napoléon bị lật đổ, việc giao
thương của người Pháp được mở rộng hơn. Giai đoạn 1815 – 1817 đã có nhiều đề nghị
được đưa lên triều đình Pháp với mong muốn nối lại quan hệ với Việt Nam. Từ năm
1817, những chuyến tàu mang cờ Pháp lại dần xuất hiện ở bến Sài Gòn và Đà Nẵng và
tất cả họ đều được vua Gia Long hoan nghênh, giúp đỡ. Tàu Henry và tàu Lapaix khi
đến Đà Nẵng và Sài Gòn cũng đều được vua Gia Long cử Vannier và Chaigneau đến
giúp đỡ. Vua còn miễn thuế cho tàu buôn, chỉ ra những thứ hàng gì nên đem sang bán
ở Việt Nam,… tích cực tạo những điều kiện thuận lợi cho việc mua bán của các thương
nhân Pháp. Nhìn chung, quan hệ thương mại Pháp – Việt thời vua Gia Long khá tốt đẹp.

Tuy nhiên, một sự kiện xảy ra năm 1817 đã khiến cho vua Gia Long phật ý và bắt
đầu đề phòng Pháp. Khi thuyền trưởng Kergariou đưa tàu Cybèle cập bến ở cửa Hàn
và xin ra Huế yết kiến vua, ông đã nhắc lại Hiệp ước Versailles 1787. Vua Gia Long
sau đó mặc dù vẫn tiếp đãi tử tế nhưng không cho Kergariou triều kiến và từ chối nhận
vật phẩm với lí do không có quốc thư. Những chuyến tàu sau đó của Pháp đã bắt đầu
khiến cho triều đình Huế lo ngại bởi lo sợ rằng sẽ có một Hoà ước tương tự năm 1787.
Do đó, những mối quan hệ kinh tế riêng lẻ là được phép nhưng việc kí kết các hiệp ước
thương mại thì nhà vua đều tìm mọi lí do để từ chối.

Bên cạnh đó, việc phát triển cực mạnh của đạo Thiên Chúa ở Việt Nam đã dần
khiến cho vua Gia Long e ngại, nhất là khi các giáo sĩ Pháp ngấm ngầm hay công khai
phản đối việc vua Gia Long chọn hoàng tử Đảm làm thái tử thay vì con trai của hoàng
tử Cảnh. Là người cộng tác từ lâu với Bá Đa Lộc, ông đã sớm nhận thức được sự nguy
hại của Thiên chúa giáo đến độc lập quốc gia nhưng vì mang ơn người Pháp nên không
thể công khai chống đạo, chỉ có thể hạn chế sự phát triển của đạo Thiên chúa.

4.2.2 Thời vua Minh Mạng


Trước khi qua đời, vua Gia Long đã dặn dò hoàng tử Đảm phải cẩn thận với người
Pháp, do đó, đối với Pháp, vua Minh Mạng đặc biệt không có cảm tình và cho rằng đó
là bọn man di, mọi rợ, là quân xâm lược, bài trừ cả đạo Thiên chúa, cấm đạo, giết đạo
khiến cho nhiều giáo sĩ đặt cho vua Minh Mạng biệt danh là "Néron Việt Nam". (Phạm
Văn Sơn, 1983, tr. 422). Những vị quan người Pháp được Gia Long trọng dụng nay lại
bị Minh Mạng lạnh nhạt, khi Jean Baptiste Chaigneau trở lại Việt Nam, tuy các lễ vật
được vua tiếp nhận vui vẻ nhưng họ không còn được trọng dụng nữa. Vua Nguyễn nói
với Chaigneau rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam
vẫn sẽ đối xử tốt đẹp với người Pháp.

Tóm lại, dưới thời vua Minh Mạng, chỉ có các thỏa thuận mua bán với cá nhân
người Pháp được chấp nhận. Do đó, quốc thư của Pháp đình xin đặt Chaigneau làm
Lãnh Sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua hợp tác. Năm 1822, tàu Cléopatre đến
Tourane đến diện kiến vua qua chức vụ đặc sứ của vua Louis XVIII. Mặc dù có sự can
thiệp và vận động của Chaigneau, vua Minh Mạng vẫn từ chối hội kiến vì nghi ngờ rằng
khi không có ai theo dõi, các giáo sĩ trên thuyền sẽ lén lút thực hiện hoạt động truyền
giáo. Năm 1824, Pháp lại phái hai thương thuyền khác đến nước ta là Thétis và
Espérauce để dâng quốc thư và xin giao hiếu thông thương, và một lần nữa họ bị từ
chối. Khi đó Chaigneau đã rời Việt Nam nên vua Minh Mạng lấy cớ rằng không còn ai
có thể phiên dịch được quốc thư của vua Louis XVIII nhưng sự thật là khi đó ở nước ta
có rất nhiều giáo sĩ đang truyền đạo, việc dịch tiếng Pháp không phải là điều khó khăn.
Dù vậy, người Pháp vẫn cố chấp muốn nối lại quan hệ hai bên. Năm 1826, cháu Baptiste
Chaigneau là Eugène Chaigneau đến Việt Nam nhưng cũng không gặt hái được kết quả
gì, năm 1829 ông trở về nước. Quan hệ ngoại giao giữa Việt – Pháp ngày càng khó khăn
hơn.

Những vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn đã thấy được mối nguy hiểm của Tây
phương từ lâu nên không muốn dây dưa nhiều, vua Gia Long đối xử tốt với người Pháp
chỉ vì mang ơn nhưng trong thâm tâm vẫn có sự e dè. Đến thời vua Minh Mạng thì
Người cho rằng không còn lí do để kiêng nể người Pháp bởi càng liên hệ mật thiết với
Pháp thì các quốc gia phương Tây khác cũng sẽ để ý đến nước ta.
4.2.3 Thời vua Thiệu Trị và Tự Đức
Chính sách đối ngoại với Tây phương dưới thời vua Thiệu Trị không có gì thay
đổi so với thời Minh Mạng nhưng Thiệu Trị tỏ ra ôn hòa hơn trong vấn đề truyền đạo.
Ông đã cho phóng thích 5 giáo sĩ người Pháp là Miche, Duclos, Galy, Berneux và
Charrier đang phải chịu án tử hình. Trong năm 1845 và 1846, Thiệu Trị ân xá 2 lần cho
vị giáo sĩ ngoan cố bất chấp luật lệ Việt Nam là Lefebre và để ông trở lại Singapore.
Nhìn chung, Thiệu Trị có những nhân nhượng trong vấn đề tôn giáo, theo ông “phải tìm
nhiều cách để giảng dụ, khai hóa, khiến cho đổi lỗi làm lành, chứ nếu đều gia hành pháp
cả thì e có quá đáng” (Trần Nam Tiến, 2005, tr. 149).

Khi triều đình Huế bắt đầu hòa nhã hơn thì Pháp đã bắt đầu có động thái gây hấn
can thiệp vào nước ta. Năm 1843, một chiếc tàu Pháp mang tên Erigone cập bến Đà
Nẵng, thuyền trưởng là Cécille đã lập một bản báo cáo gửi về Chính phủ Pháp và đề
nghị rằng chính phủ Pháp cần có những hành động can thiệp vào Việt Nam để có được
sự tự do buôn bán và giảng đạo. Một năm sau, Đại tá Lapierre và Trung tướng Rigault
de Genouilly đã đệ lên vua Thiệu Trị quốc thư của Pháp về việc cấm đạo, giết đạo, yêu
cầu triều đình Việt Nam noi theo Trung Quốc, cho phép đạo Thiên Chúa được tự do
truyền bá. Trong khi đợi câu trả lời của vua Thiệu Trị, tại Đà Nẵng, mỗi khi Pháp thấy
tàu thuyền đến gần liền tấn công, tàn sát nhiều người và làm đắm thuyền mà không một
lời báo trước. Sự khiêu khích của Pháp đã làm cho vua Thiệu Trị giận dữ, Ngài đã bàn
với triều thần việc chiến tranh, cho tăng cường đồn lũy, đúc thêm súng. Chính sự gây
hấn của Pháp đã làm phá vỡ chính sách ôn hoà mà vua Thiệu Trị đã thực hiện trước đó,
vua cho tăng cường chính sách “cấm đạo” trở lại, thay đổi thái độ trong quan hệ với các
thương nhân và giáo sĩ phương Tây. Người ra lệnh nếu thấy Pháp lần gần, không kể
thuyền buôn hay thuyền quân, quan quân gần biển phải lập tức phải đuổi đi, không để
cho Pháp thả neo. Tuy nhiên, trong lúc tình hình đất nước đang căng thẳng, vua Thiệu
Trị đã qua đời vào ngày 4/11/1847.

Vua Tự Đức (hiệu Dực Tông) lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước khó khăn. Trước
những tham vọng của phương Tây, vua Tự Đức không hề có một sự đổi mới nào trong
đối nội lẫn đối ngoại. Việc tăng cường chính sách cấm đạo, giết đạo của nhà vua tạo
thêm cái cớ cho Pháp tấn công ta. Khi giám mục Pellerin đề xuất việc can thiệp bằng
vũ lực vào Việt Nam để bảo vệ giáo sĩ ông ta đã nhận được khá nhiều sự ủng hộ. Ngày
22/4/1857, Hoàng đế Napoléon III cho thành lập “Hội đồng Nam Kỳ” với mục đích xét
lại hiệp ước Versailles năm 1787 để hợp pháp hoá việc mang quân sang nước ta. Mặc
dù thực tế là sau khi ký kết, Pháp đã không thi hành Hiệp ước vì xảy ra cách mạng, “Hội
đồng Nam Kỳ” vẫn dựa vào cái cớ đó để yêu cầu nhà Nguyễn cắt đất, và rồi xâm lược
nước ta. Ngày 31/8/1858, quân Pháp xổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở màn cho
quá trình xâm lược Việt Nam, thời kì ngoại giao hòa bình giữa Việt Nam và Pháp cũng
chấm dứt.

4.2.4 Các hiệp ước được ký kết giữa nhà Nguyễn và Pháp
4.2.4.1 Hiệp ước Nhâm Tuất (1862)

Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, Pháp thừa thắng lần lượt tấn công và chiếm các tỉnh
Định Tường, Biên Hòa và Vĩnh Long. Điều đó làm cho triều đình nhà Nguyễn hốt
hoảng, lo sợ nên đã ký hiệp ước với Pháp vào ngày 5/6/1862. Nội dụng của hiệp ước
Nhâm Tuất đã nhượng cho chúng nhiều quyền lợi. Hiệp ước gồm 12 điều khoản, trong
đó gồm những nội dung chính như: triều đình phải đồng ý nhượng hẳn cho Pháp 3 tỉnh
miền Đông Nam Kỳ gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hoà và đảo Côn Lôn; bồi thường
20 triệu quan, tức khoảng 280 vạn lạng bạc; mở 3 cửa biển Đà Nẵng, Ba Lạc, Quảng
Yên để Pháp và Tây Ban Nha được tự do buôn bán; Pháp sẽ trả lại cho nhà Nguyễn nếu
như chấm dứt được các hoạt động chống Pháp của nhân dân ở 3 tỉnh Đông Nam Kỳ.

4.2.4.2 Hiệp ước Giáp Tuất (1874)

Sau những chiến thắng vang dội ở Bắc Kỳ, đặc biệt là trận Cầu Giấy lần 1 năm 1973,
triều đình Huế lại ký với Pháp Hiệp ước Giáp Tuất làm dấy lên sự phẫn nộ đối với nhân
dân và các sĩ phu yêu nước. Hiệp ước 1874 gồm 22 điều khoản, theo đó triều đình nhà
Nguyễn sẽ chính thức thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, trao cho Pháp
quyền đi lại, buôn bán, kiểm soát và điều tra tình hình ở Việt Nam,…

4.2.4.3 Hai bản Hiệp ước Quý Mùi (1883) và Giáp Thân (1884)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi là Harmand (Hác – măng) được ký kết vào ngày 25/8/1883,
tại kinh đô Huế do Pháp soạn thảo sẵn với những nội dung chủ yếu sau: Việt Nam được
đặt dưới sự bảo hộ của Pháp. Vùng thuộc địa Nam Kì của Pháp từ năm 1874 sẽ được
mở rộng ra đến hết tỉnh Bình Thuận. Bắc Kì, gồm Thanh – Nghệ – Tĩnh sẽ thuộc vùng
bảo hộ của Pháp. Những vùng đất còn lại thuộc Trung Kì sẽ do triều đình quản lí nhưng
các công việc sẽ do đại diện của Pháp ở Huế sẽ trực tiếp điều khiển. Sau Hiệp ước Hác
– măng, các hoạt động chống Pháp ở Bắc Kì vẫn tiếp tục diễn ra. Để chấm dứt chiến sự,
Chính phủ Pháp đã cử Patonot sang Việt Nam kí thêm một bản Hiệp ước vào ngày
6/6/1884. Bản Hiệp ước này căn bản dựa trên Hiệp ước Hác – măng nhưng sửa chữa
một số điều khoản nhằm xoa dịu dư luận và mua chuộc thêm những phần tử phong kiến
đầu hàng. Hai bản Hiệp ước 1883 và 1884 đã đánh dấu sự chấm dứt của triều đại phong
kiến nhà Nguyễn, can tâm làm tay sai cho giặc, khiến đất nước bước vào thời kì Pháp
thuộc.
Tiểu kết chương 4:
Nguyên nhân nước ta rơi vào tay Pháp trước hết nằm ở đường lối, chính sách của vua
quan triều Nguyễn, trước hết là vua Tự Đức. Triều đình đã đi từ sai lầm này đến sai lầm
khác, vì xem nhẹ sức nhạnh của Pháp mà tăng cường chính sách cấm đạo, bế quan tỏa
cảng, không tổ chức toàn dân chống giặc mà còn quá nhu nhược, muốn dựa vào nhà
Thanh để chống Pháp nhưng vì nhà Thanh đã thỏa hiệp với thực dân Pháp trên số phận
của Đại Nam, đi từ sự nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Với Hiệp ước Pa tơ nốt
1884, Đại Nam hoàn toàn mất đi độc lập, bị xóa tên trên bản đồ thế giới và trở thành
thuộc địa của Pháp.

KẾT LUẬN
Không thể phủ nhận rằng trong vòng 80 năm cai trị đất nước, triều đại nhà
Nguyễn đã từng là một vương triều vững mạnh trong khu vực Đông Nam Á, để lại một
di sản không nhỏ, có thể được tận dụng đến ngày nay. Nhưng dù có tận tâm như thế
nào, nhà Nguyễn vẫn phải chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc mất đi nền độc lập,
khiến nhân dân phải chịu cảnh áp bức trong hơn 60 năm. Trong bối cảnh khu vực trong
và ngoài nước đầu thế kỉ XIX, thay vì thực hiện những chính sách cải cách một cách
triệt để, mở rộng giao thương buôn bán, thắt chặt quan hệ ngoại giao với các quốc gia
có nền khoa học, công nghệ phát triển,nhà Nguyễn lại thực hiện chính sách “bế quan
toả cảng”, đi ngược lại với xu thế phát triển của đất nước, nhu cầu của nhân dân.

Chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn giai đoạn 1802 – 1884 đã để lại những bài
học kinh nghiệm quý giá trong quá trình ngoại giao hiện nay. Nắm bắt được những sai
lầm trong quá khứ, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn kịp thời nắm bắt được những tình
hình đang diễn ra trên thế giới, hiểu được thế và lực của đất nước để có được những
chính sách kịp thời, xây dựng Việt Nam thành quốc gia phát triển, làm cho đất nước ta
có được cơ đồ, tiềm lực và vị thế uy tín không những trong khu vực Châu Á mà còn
trên thế giới. Đó cũng là điều cuối cùng mà Bác Hồ mong muốn khi viết trong Di chúc
của Người: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Tài liệu sách

1. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (2001). Đại cương lịch sử
Việt Nam tập 1. Hà Nội: NXB Giáo dục.

2. Hà Văn Thư, Trần Hồng Đức (1996). Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam. Hà Nội:
NXB Văn hoá – thông tin.

3. Phạm Văn Sơn (1983). Việt Sử Toàn Thư - Từ Thượng Cổ Đến Hiện Đại. NXB Nam
Nghệ xã.

4. Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Viện sử học biên dịch (2007). Đại Nam thực
lục chính biên. Hà Nội: NXB Giáo dục.

5. Nguyễn Thế Long (2005). Bang giao Đại Việt triều Nguyễn. Hà Nội: NXB Văn hóa
Thông tin.

6. Yu Insun (2009). Lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thế kỷ XIX - Thể chế triều
cống, thực và hư. Nghiên cứu lịch sử, số 9, tr. 20-29.

7. Đinh Thị Dung (2001). Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ 19.
Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Sư phạm TP.HCM.

8. Nguyễn Văn Luận (2017). Triều Nguyễn với việc dung hòa mối quan hệ Việt Nam -
Chân Lạp - Xiêm la, tránh nguy cơ chiến tranh nửa đầu thế kỉ XIX 1802 – 1847). ĐHSP
TP.HCM - Tạp chí Khoa học xã hội và nhân văn tập 14, Số 5, tr 134 – 139.

9. Đoàn Nguyệt Linh và Nguyễn Hoàng Vinh (2005). Quan hệ Việt – Xiêm nửa đầu thế
kỉ XIX. ĐH Cần Thơ – Tạp chí Nghiên cứu khoa học 2005: 4, tr 238 – 244.

10. Robert Hopkins Miller (1990). The United States and Vietnam 1787-1941.
Washington DC, National Defense University Press, page 18.

11. Phan Huy Lê (2008). Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội 2008, tr 3 – 7.

12. Nguyễn Phan Quang (1976). Lịch sử Việt Nam (1427 – 1858) tập 2. Hà Nội: NXB
Giáo dục.
 Tài liệu mạng

1. Lê Nguyễn (2021). Ngoại giao của triều Nguyễn với các nước lân bang. Truy cập
ngày 10/12/2021, tại: https://trithucvn.org/van-hoa/ngoai-giao-cua-trieu-nguyen-voi-
cac-lan-bang.html

2. Nguyễn Minh Phương (2021). Chính sách ngoại giao của triều Nguyễn tại Đà Nẵng
nửa đầu thế kỷ XIX. Truy cập ngày 10/12/2021, tại:

https://tongocthao.wordpress.com/2021/03/31/chinh-sach-ngoai-giao-cua-trieu-
nguyen-tai-da-nang-nua-dau-the-ky-xix/

3. Hồng An (2006). Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào ? Truy cập ngày 12/12/2021, tại:
https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/dieu-tra/quoc-hieu-viet-nam-co-tu-khi-nao-
479253

4. Vũ Viết Tuân (2017). Ghi nhận công lao nhà Nguyễn. Truy cập ngày 12/12/2021,
tại: https://tuoitre.vn/ghi-nhan-cong-lao-nha-nguyen-1269184.htm

5. Huỳnh Thiệu Phong (2016). Công trạng các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn,
đôi điều suy ngẫm. Truy cập ngày 15/12/2021, tại:
https://nghiencuulichsu.com/2016/03/28/cong-trang-cua-cac-chua-nguyen-va-vuong-
trieu-nguyen-doi-dieu-suy-ngam/

6. Vĩnh Khánh (2021). Vì sao tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ không thành?
Truy cập ngày 17/12/2021, tại: https://kinhtedothi.vn/thong-diep-tu-lich-su-vi-sao-tu-
tuong-canh-tan-cua-nguyen-truong-to-khong-thanh-408398.html

7. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2007). Triều Nguyễn và xã hội
Việt Nam thế kỷ XIX. Truy cập ngày 17/12/2021, tại: http://vusta.vn/chitiet/tin-tuyen-
sinh-dao-tao/Trieu-Nguyen-va-xa-hoi-Viet-Nam-the-ky-XIX-1011

8. Vũ Dương Huân (2014). Nhìn lại chính sách đối ngoại và ngoại giao thời nhà
Nguyễn. Truy cập ngày 20/12/2021, tại: http://conglydaiviet.vn/bai/648/nhin-lai-chinh-
sach-doi-ngoai-va-ngoai-giao-thoi-nha-nguyen

9. Đào Đức Chương (2017). Lịch sử bang giao Việt Mỹ dưới thời nhà Nguyễn. Truy cập
ngày 22/12/2021, tại: http://viethocjournal.com/2018/12/lich-su-bang-giao-viet-my-
duoi-thoi-nha-nguyen/

10. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2005). Quan hệ Hoa Kỳ và Việt
Nam, những bài học lịch sử. Truy cập ngày 22/12/2021, tại: http://vusta.vn/chitiet/tin-
tuyen-sinh-dao-tao/Quan-he-Hoa-Ky-va-Viet-Nam-nhung-bai-hoc-lich-su-1011
11. Lê Nguyễn (2020). Vấn đề ngoại giao Việt – Pháp dưới triều Nguyễn. Truy cập
ngày 25/12/2021, tại: https://trithucvn.org/van-hoa/van-de-ngoai-giao-viet-phap-duoi-
trieu-nguyen-p1.html

12. Hồ Bá Thâm (2015). Về "Điều mong muốn cuối cùng" trong Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Truy cập ngày 3/1/2022, tại: https://www.thanhuytphcm.vn/tin-tap-
chi/so-tay-xay-dung-dang-9-2015/ve-dieu-mong-muon-cuoi-cung-trong-di-chuc-cua-
chu-tich-ho-chi-minh-1443580952

You might also like