You are on page 1of 35

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ


ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI
QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN
CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH
CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
NHÓM: 08
Giảng viên hướng dẫn: GV. Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

TP. HỒ CHÍ MINH, Ngày 22/07/2022


BẢNG PHÂN CÔNG NHÓM 8

STT Mã số SV Họ và Tên Nhiệm vụ được phân công

1 2013796 Trịnh Hoàng Minh Phần 3.2 + KẾT LUẬN

2 2013832 Phùng Phương Nam Phần 3.1

3 2035036 Trần Văn Nam Phần 1 + MỞ ĐẦU+ TỔNG HỢP

4 2010448 Nguyễn Trung Nghĩa Phần 2.2

5 2013878 Trần Minh Nghĩa Phần 2.1

2
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ………………………………………………………………............4
NỘI DUNG ……………………………………………………………………5
I. Bối cảnh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng …….5
1.1. Bối cảnh lịch sử ……………………………………………………….5
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên………………………………………….8
II. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 5-1941
2.1. Luận cương chính trị ………………………………………………....10
2.2. Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941 ……………………….14
III. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đưỡng lối
cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân ………………………………….21
3.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nội dung Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam ………………………………………….21
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh của Đảng so với Cương lĩnh và Luận cương chính
trị ………………………………………………………………………….30
PHẦN KẾT LUẬN …………………………………………………..............33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………....34

3
PHẦN MỞ ĐẦU

Mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đánh dấu bước quyết định
cho cuộc cách mạng giải phóng đát nước Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, Đảng đã bước lên
vũ đài chính trị, lãnh đạo nhân dân Việt Nam trải qua nhiều gian khó, gian khổ hoàn thành sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộclàm nên thắng lợi hào hùng cách mạng
tháng 8 năm 1945 cùng chiến thắng chống xâm lược mỹ năm 1975 thống nhất đất nước. Một
trong những nhân tố hàng đầu quyết định những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam là
Đảng ta xây dựng và vận dụng thành công đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu bàn về đường lối chiến tranh cách mạng Việt Nam ở
những khía cạnh khác nhau. Đây cũng là một trong những nội dung cốt lõi, cơ bản trong
nghiên cứu và giáo dục lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn đây đó những
cách hiểu chưa đầy đủ, chưa thống nhất từ tiếp cận khái niệm, về bản chất cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này gây ra không ít khó khăn trong nhận thức, giáo dục và
vận dụng những bài học trong đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vào thực tiễn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Kế thừa kết quả nghiên
cứu của các học giả đi trước, trên cơ sở khảo cứu văn kiện Đảng, chúng ta cố gắng đi sâu
phân tích thêm về quá trình hình thành, phát triển và một số đặc điểm đường lối cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam.Chính vì lý do trên thân là thanh
niên thế hệ mới chúng ta cần tích cực nỗ lực học hỏi tìm hiểu thêm về đường lối chủ chương
chính sách đảng từ tìm hiểu tư tưở của đảng. Qua đó, góp phần làm sâu sắc và phong phú
thêm nội hàm khái niệm Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Để hiểu rõ hơn về lịch sử
Đảng, nhóm em chọn bài tiểu luận “QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM” nhóm em chọn đè tài này mục
đích củng cố và tìm hiểu thêm kiến thức quá trình hoàn chỉnh quá trình hoàn chỉnh của đảng
cho bản thân cũng như cần thiết cho thế hệ trẻ hiểu đượcsự cần thiết của viêc học tâp lịch sử
đảng không chỉ hiểu kiến thức mà còn hiểu lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, trách
nhiệm mỗi công dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đát nước theo con đường định
hướng của đảng và nhà nước ta..

4
NỘI DUNG
I. Bối cảnh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

1.1. Bối cảnh lịch sử


1.1.1. Chính sách cai trị của thực dân Pháp:
- Về chính trị:
+ Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân trên cả nước, tước bỏ quyền lực
đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Nhưng vẫn duy trì chính
quyền phong kiến lợi dụng bóc lột đàn áp nhân dân ta dễ hơn. Khởi nghĩa Trương Định,
Nguyễn Trung Trực, Ba Đình,Hùng Lĩnh đều bị thực dân Pháp và chính quyền nhà
Nguyễn đàn áp.
+ Thực hiện chính chia ra đẻ trị chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
Kỳ và thiết lập chế độ cai trị riêng. Đứng đầu xứ Nam kỳ là quan thống đốc, đứng đầu xứ
Trung Kỳ là quan Khâm sứ, đứng đầu Bắc Kỳ là quan thống sứ. Gây xích mích mâu
thuẫn nội bộ giữa nhân dân các vùng khác nhau, khiến phong trào khởi nghĩa không thể
toàn diện dễ bị đàn áp. Như cuộc khởi nghĩa Yên thế, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Yên
Bái… đều bị đàn áp đẫm máu.
+ Thực dân Pháp đã cấu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột về kinh tế và áp bức
chính trị đối với nhân dân ta1.
- Về kinh tế:
+ Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột: cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền,
khai thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đường giao thông, bến
cảng phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Ở Bắc Kì chỉ tính
đến năm 1092 đã có đến 182000 ha ruộng đất bị Pháp chiếm, riêng giáo hội Thiên chúa
đã chiếm 1/4 diện tích cày cấy ở Nam kì.Còn công nghiệp, trước hết bọn thực dân Pháp
tập trung vào hoạt động khai thác than và kim loại. Chỉ tính riêng trong năm 1912 sản
lượng khai thác than đã tăng gấp 2 lần sản lượng khai thác của năm 1903. Trong năm
1922 Pháp đã khai thác hàng vạn tấn quặng kẽm, hàng trăm tấn thiếc, đồng, hàng trăm
kilogam vàng và bạc.Sau công nghiệp khai thác, các ngành sản xuất xi măng, gạch ngói,
điện nước, chế biến gỗ, xay xát gạo, giấy, diêm. Rượu, đường, vải sợi…cũng đem lại cho
chúng một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn.2
1
Nguyễn Thị Quỳnh Trang(12/4/2014)-Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản VIệt Nam
2
Nguyễn Văn Phi(2019)-Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp

5
+ Thực dân Pháp nhiều loại thuế sưu cao thuế nặng thuế mới chồng thuế cũ, nhiều
loại thuế vô lý kiến cuộc sống nhân dân ta khốn khổ. Trong đó nặng nhất phải kể đến
thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện, đồng thời chúng còn bắt phu đắp đường, đào
sông, xây cầu, dinh thự, đồn bốt…
+ Chính sách khai thác thuộc địa đã làm biến đổi cơ cấu kinh tế ở nước ta, (xuất hiện
các ngành mới) du nhập quan hệ sản suất tư bản chủ nghĩa, thúc đẩy kinh tế hàng hoá
phát triển, nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào tư bản Pháp. Hàng hóa của Pháp nhập vào
Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ hoặc thuộc đối tượng miễn thuế. Trong khi đó hàng
hóa được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác thì phải chịu với mức
thuế rất cao, có mặt hàng lên đến 120%, do đó mà hầu hết hàng hóa do Việt Nam sản
xuất chủ yếu được xuất khấu qua Pháp.
- Về văn hóa:
+Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hoá, giáo dục thực dân nhằm xóa bỏ truyền
thống, văn hóa lâu đời nhằm đồng hóa dân ta xóa bỏ tinh thần dân tộc của nhân dân ta và
thực hiện chính sách ngu dân để dễ dàng cai trị cai trị. Từ năm 1917 đã thực sự trở thành
“Pháp hoá” gồm có ba cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học Trong ba năm học
đầu tiên đó, học sinh phải học bằng tiếng Pháp. Hơn nữa, chính quyền thuộc địa lại quy
định rất chặt chẽ về hạn tuổi vào học ở các cấp học nên càng góp phần gạt bỏ số học sinh
muốn theo học. Cho đến năm 1930, “tổng cộng học sinh, sinh viên tất cả các trường từ
tiểu học đến đại học chỉ chiếm 1,8% dân số”. Hơn nữa, trong nội dung chương trình
giảng dạy của hệ thống giáo dục này, thực dân Pháp đã loại trừ những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, thay vào đó là chương trình truyền bá “văn minh đại Pháp”
nhằm đào tạo một thế hệ người Việt Nam “mất gốc”, không có tinh thần yêu nước và ý
thức về số phận của người dân mất nước, nô lệ để từ đó phục vụ đắc lực cho công cuộc
thống trị của thực dân1.
+ Duy trì các hủ tục lạc hậu mê tín dị đoan đầu độc nhân dân bằng thuốc phiện, rượu,
cờ bạc, mại dâm kiến nhân dân đói khổ, mất tinh thần đấu tranh. Những thói hư tật xấu
được chính quyền các cấp ra sức dung dưỡng. Nạn cờ bạc được khuyến khích bằng cách
cho mở các sòng bạc để thu thuế. Ngoài những sòng bạc công khai có tính chất thường
xuyên, tổ chức quy mô ở Chợ Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai còn có
nhiều sòng bạc kín được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa ở Hà Nội,
Hải Phòng, Sài Gòn... Tệ uống rượu không bị hạn chế mà thậm chí nhân dân còn bị bắt
phải uống một loại rượu nặng độ do hãng rượu độc quyền Phông ten sản xuất trên cả
nước. Loại rượu này có nồng độ từ 40-45 độ và được nấu từ những loại gạo rẻ tiền rồi sau
đó pha thêm chất hoá học. “Cứ 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán lẻ rượu và thuốc
phiện. Nhưng cũng trong số 1.000 làng đó lại chỉ vẻn vẹn 10 trường học... Hàng năm
1
TRẦN THANH GIANG-Chính sách nô dịch về văn hóa của thực dân Pháp và một số trào lưu văn hóa trước năm
1945 ở Việt Nam.

6
người ta cũng đã tặng từ 23 đến 24 triệu lít rượu cho 12 triệu người bản xứ, kể cả đàn bà
và trẻ con”. Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp dung túng và trở nên phổ biến ở các
thành phố lớn... Ở nông thôn và miền núi, các hủ tục về ma chay cưới xin còn tồn tại, nạn
bói toán, đồng bóng, mê tín dị đoan ngày càng nặng nề1.
1.1.2. Tình hình các giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
- Cơ cấu xã hội biến đổi sâu sắc: xuất hiện các giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội:
+ Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột áp
bức nông dân. Tuy nhiên giai cấp địa chủ có sự phân hoá, một bộ phấn yêu nước tham
gia đấu tranh chống thực dân pháp.
+ Giai cấp tư sản Việt Nam ngay từ khi vừa ra đời đã bị tư sản pháp và tư sản người
Hoa cạnh tranh nền có lực lượng nhỏ bé, yếu ớt, không đủ điều kiện để lãnh đạo
cách mạng dân tộc, dân chủ thành công.
+ Giai cấp Nông dân: là lực lượng đông đảo bị áp bức bóc lột, ngày càng bị khốn
cùng nên tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
(1897-1914) ra đời tập trung ở các thành phố và vùng mỏ: Hải Phòng, Hà Nội, Sài
Gòn, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Năm 1914 có 10 vạn thì năm 1929 có 22 vạn
công nhân.
+ Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức … trong đó
học sinh và trí thức là bộ phận quan trọng. Đời sống của tầng lớp này cùng kiệt khổ, dễ
trở thành người vô sản, họ có lòng yêu nước, căm thù thực dân Pháp xâm lược, lại bị ảnh
hưởng bởi những tư tưởng tiến bộ bên ngoài, nên họ là lực lượng có tinh thần cách mạng
cao.
- Các mâu thuẫn chủ yếu:
+ Mâu thuẫn chủ yếu giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp
công nhân và giai cấp tư bản.
+ Mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt đó là: mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược. Nguyên nhân chính do tinh thần
yêu nước, khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam và do chính sách cai trị của thực dân
Pháp quá mức tàn bạo kiến dân ta đói khổ lầm than phải đứng lên chống lại.

1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên


1
TRẦN THANH GIANG-Chính sách nô dịch về văn hóa của thực dân Pháp và một số trào lưu văn hóa trước năm
1945 ở Việt Nam

7
1.2.1. Hoàn cảnh ra đời của cương lĩnh chính trị
– Vào đầu năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt
Nam, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong
khi đó, số lượng cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí hội ngày thêm
nhiều cần thành lập một đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách
quan và đã có những tiền đề nhất định.
– Ngày 1 tháng 5 năm 1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ về việc giải tán Hội nghị
để thành lập Đảng cộng sản không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút khỏi Đại
hội về nước, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ
trương thành lập Đảng cộng sản.
– Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đẵ họp tại
số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản đảng, cử
ra ban chấp hành trung ương lâm thời, thông qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo
Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng.
– Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội bế mạc,
6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm,
Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng
sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiên chủ trương
này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã
hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có
chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc).
– Sau Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt
cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã tiến
hành Đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 năm 1930,
gồm các đồng chí Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại
Quả, Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại
biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã được đề ra tại
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước. Hội nghị do đòng chí Nguyễn Ái
Quốc đại biểu Quôc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì thông qua 4 văn kiện là Chánh cương
vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình vắn tắt của Đảng, Điều lệ
vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành cương lĩnh chính trị của Đảng. 1

1.2.2. Nội dung cương lĩnh chính trị


Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930)
1
Lâm Viêt Pháp(11/4/2015)- Cương lĩnh đầu tiên đảng Cộng Sản Viêt Nam.

8
– Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản
làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một
tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản
xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa
chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
A. Về phương diện xã hội thì:
a) Dân chúng được tự do tổ chức.
b) Nam nữ bình quyền, v.v..
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
B. Về phương diện chính trị:
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
c) Dựng ra chính phủ công nông binh.
d) Tổ chức ra quân đội công nông.
C. Về phương diện kinh tế:
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý.
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo.
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo.
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp.
f) Thi hành luật ngày làm 8 giờ.1

Sách lược vắn tắt của Đảng (1930)


1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. 

1
Hồ Chí Minh(2/1930)Chánh cương vắn tắt của Đảng

9
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến. 
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi
ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia. 
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân
Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới (1)
làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.)
thì phải đánh đổ. 
5. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một
chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu
hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức
dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp. 1

II. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 5-1941
2.1 Luận cương chính trị
2.1.1 Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10 năm 1930)
– Tháng 10/1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều
kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị
(họp từ ngày 14/10 đến 31/10/1930) thông qua bản Luận cương chính trị, án nghị quyết
của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần
kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng.
– Luận cương chính trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương (còn được gọi là Luận cương
cách mạng tư sản dân quyền) do đồng chí Trần Phú khởi thảo. Toàn bộ nội dung Luận
cương chính trị của Ðảng Cộng sản Ðông Dương là những tư tưởng cơ bản về mục tiêu,
nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh cách mạng của Ðảng Cộng sản Ðông Dương; tiếp
tục khẳng định và bổ sung một số vấn đề cốt lõi về con đường cách mạng của Việt Nam
mà Chánh cương vắn tắt đã nêu.
– Nội dung của Luận cương: Mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế
quốc.Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: Tư sản dân quyền là thời
kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng, sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ phát

1
Hồ Chí Minh(2/1930)-Sách lược vắn tắt của Đảng

10
triển bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa đấu tranh thẳng lên con đường XHCN. Nhiệm vụ
của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ phong kiến, thực hành triệt để thổ địa cách
mạng; đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai
nhiệm vụ có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó thổ đại cách mạng là cái cốt của cách
mạng tư sản dân quyền. Về lực lượng cách mạng: Vô sản là động lực chính, nông dân là
động lực mạnh và bộ phận phần tử lao khổ.Về phương pháp cách mạng: Phải dùng võ
trang bao động và theo khuôn phép nhà binh.Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới.Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo
của Đảng là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng.1
– Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là
+ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ,
+ Lập ra chính phủ công nông, tịch thu ruộng đất của địa chủ trao cho nông dân
+ Bãi bỏ các sưu thuế hiện thời, ngày làm công 8 giờ, cải thiện sinh hoạt cho thợ
thuyền và những người lao động
+ Xứ Ðông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết; lập quân đội công
nông
+ Ủng hộ Liên Xô, liên kết với giai cấp công nhân thế giới và phong trào cách mạng
thuộc địa, bàn thuộc địa...
– Phương pháp đấu tranh của quần chúng là:
+ Bãi công, bãi công thị oai, bãi công võ trang, tổng bãi công bạo động
+ Kết hợp đòi quyền lợi hằng ngày như tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm thuế,
chống thuế... với mục đích lớn của Ðảng là đánh đổ đế quốc, địa chủ phong kiến, giành
độc lập, lập chính phủ công nông.
– Về vai trò lãnh đạo của Ðảng, Luận cương chỉ rõ:
+ Ðiều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Ðông Dương là cần phải
có một đảng cộng sản có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc
với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành.
+ Ðảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm
gốc, đại biểu cho quyền lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản, lãnh đạo tranh đấu để
đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
– Những hạn chế của Luận cương chính trị 10-1930 bao gồm:

1
Nội dung luận cương chính trị tháng 10/1930 và chu trình chuyển hướng giải phóng dân tộc 1939-1945

11
+ Một là, Luận cương chưa phân tích sâu sắc đặc điểm của xã hội Việt Nam nên
không nêu được mâu thuẫn chủ yếu cần giải quyết của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp và tay sai của chúng, do đó không đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên hàng đầu.
+ Hai là, Luận cương đánh giá chưa đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản
và mặt yêu nước của tư sản dân tộc, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ
phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Luận cương chính trị nhận
rõ vai trò của liên minh công nông, nhưng lại chưa đề cập vấn đề Mặt trận dân tộc thống
nhất.
2.1.2 Giai đoạn 10/1930 đến 3/1935
Pháp khủng bố và Mị dân sau phong trào 1930 - 1931

- Pháp tiến hành đàn áp, khủng bố khiến cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng.

+ Các cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở CM bị phá vỡ, hàng vạn đảng viên, cán bộ bị
bắt và tù đày giết hại, tù chính trị bị giam tại Hỏa Lò, Khám lớn, Côn Đảo …..

+ Hầu hết các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đãng, các Xứ Ủy bị bắt.

- Chính sách mị dân của Pháp nhằm lôi kéo hay mê hoặc các tầng lớp nhân dân:

+ Về chính trị tăng số đại diện người Việt vào cơ quan lập pháp cấp Kỳ.

+ Về kinh tế cho người Việt tham gia đấu thầu một số công trình.

+ Về văn hóa – xã hội cho tổ chức một số trường Cao đẳng.

+ Lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.

Hoạt động khôi phục phong trào: Phong phú về hình thức và nội dung

– Những đảng viên trong tù đấu tranh kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách
mạng của Đảng, tổ chức vượt ngục; đảng viên không bị bắt tìm cách gây dựng lại tổ chức
Đảng và quần chúng.

– Một số đảng viên hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan trở về nước họat động.

– Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong đã cùng một số đảng
viên cộng sản hoạt động ở trong và nước ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương
Đảng.

12
– 6/1932: Ban lãnh đạo Trung ương thảo ra chương trình hành động của Đảng, chủ
trương đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động, thả tù chính trị, bỏ các
thứ thuế bất công, củng cố và phát triển các đòan thể cách mạng của quần chúng.

– Phong trào đấu tranh của quần chúng như Hội cấy, Hội cày, Hội hiếu hỉ, Hội đọc
sách báo …

– Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra,…

– Cuối 1933 tổ chức Đảng dần hồi phục và củng cố.

– Cuối 1934 đầu 1935, các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ được lập lại.

– Đầu 1935, các tổ chức Đảng và phong trào quần chúng được hồi phục.1

2.1.3 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương 3-1935 tại
Ma cao

– Từ 27/3 đến ngày 31/3/1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất họp tại Ma
Cao (Trung Quốc),có 13 đại biểu trong và ngoài nước.

+ Xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu của Đảng: củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ
quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc.

+ Thông qua Nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng,vận động công nhân, nông dân, binh
lính, thanh niên, phụ nữ; về công tác trong các dân tộc thiểu số, đội tự vệ, cứu tế đỏ.

+ Bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí
thư, Nguyễn Ai Quốc làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.

– Ý nghĩa: Đánh dấu mốc quan trọng Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ
Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến ngoài nước, các tổ chức quần chúng …

2.2 Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941
– Đại hội lần thứ I vào tháng 3 năm 1935. Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất
(tháng 3/1935) khắc phục nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa

1
Lý thuyết sử 12,bài14-Phong trào cách mạng 1930-1935

13
Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.Từ đây cùng
với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc
nguyên tắc “tự chỉ trích” (phê bình và tự phê) với tinh thần “tự chỉ trích Bolshevik phải
có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín
Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và
làm rối loạn hàng ngũ Đảng”, phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “Các khuynh hướng
hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn
“xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”. Ban Chấp
hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc. 1

– Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Chấp hành Trung ương đã
công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã
hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện
tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nảy sinh những khó khăn để
mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”. Tháng 10/1936, Ban Chỉ huy hải ngoại của
Đảng ban hành văn bản “Chung quanh vấn đề chính sách mới” đã chỉ rõ: Cuộc dân tộc
giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể
nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết
vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu
phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn
vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Đó là nhận thức mới phù hợp với tinh
thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, bước đầu khắc phục hạn chế của Luận
cương chính trị tháng 10-1930. Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu
trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và
sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… Sự phát triển mạnh mẽ của phong

1
Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.23-26, 26.

14
trào quần chúng từ giữa năm 1936 trở đi khẳng định sự chuyển hướng chỉ đạo cách mạng
đúng đắn của Đảng.

– Hội nghị Trung ương 3 tháng 3/1937, Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra những
điểm về Điều lệ Đảng, hiện tại vẫn là bản Điều lệ do Đại hội Đảng chuẩn y năm 1935,
nhưng bỏ bớt đi mấy đoạn về việc hạn chế tuổi vào Đảng và sự liên hệ của Đảng Cộng
sản với Thanh niên Cộng sản Đoàn để cho thích hợp với con đường chính trị mới, các hội
quần chúng cũng phải chỉnh đốn và cải tổ lại cho thích hợp với hoàn cảnh cụ thể; về tổ
chức của thanh niên, Đảng quyết định lập ra “Đông Dương Thanh niên Phản đế Đoàn"
thay cho Thanh niên Cộng sản Đoàn; lập Hội "Cứu tế bình dân" thay cho "Cứu tế đỏ",
thống nhất các tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, xác định những chủ trương mới
thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển.1

– Hội nghị Trung ương 5 tháng 9/1937, đã nhận định Đảng đã khôi phục lại hệ
thống từ Bắc, Trung, Nam, một tổ chức thống nhất về chính trị và tổ chức. Ảnh hưởng
của Đảng phát triển nhanh chóng và chính sách của Đảng thích hợp với các điều nhu yếu
của các tầng lớp nhân dân. Hội nghị nhắc lại cho toàn thể đảng viên rằng: trong giai đoạn
hiện tại, ta chưa ở vào tình thế trực tiếp cách mạng mà ở vào thời kỳ tranh đấu đòi các
điều cải cách và đòi những điều tự do dân chủ cho toàn thể nhân dân, nên Đảng lãnh đạo
quần chúng tranh đấu phải tránh những hành động kịch liệt, bạo động, có thể khiêu khích
quân thù khủng bố vô ích; phải tuỳ theo tinh thần, lực lượng quần chúng và thái độ của kẻ
thù để quyết định mức độ đấu tranh; phải biết giữ gìn và phát triển lực lượng quần chúng;
phải biết kết thúc cuộc đấu tranh đúng lúc để giữ lấy ảnh hưởng của phong trào. 2

– Hội nghị Trung ương 5 tháng 3/1938, đã nhận định từ khi Mặt trận Nhân dân
Pháp thắng lợi, tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh của quần chúng, tình hình Đông
Dương đã được cải thiện một phần. Nhưng những cải cách dân chủ còn rất hạn chế do xu
hướng phản động ở thuộc địa còn mạnh, do Chính phủ Bơlum Sôtăng (Blum Chautemps)
thiếu kiên quyết, không dám dựa vào sự ủng hộ của nhân dân và vì ở Đông Dương chưa
1
Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 211-220.
2
Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6.

15
có một Mặt trận Dân chủ thống nhất được các tầng lớp nhân dân. Căn cứ vào tình hình và
những ưu, khuyết điểm trên các mặt công tác của Đảng, Hội nghị quyết định thành lập
Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương và coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng
trong giai đoạn hiện tại, chủ trương để có thể lan rộng "xu hướng liên hiệp hành động” và
phát triển thành "một lực lượng hành động mạnh mẽ" cần phải "bỏ hết những khẩu hiệu
quá tả làm cho giai cấp tư sản bản xứ và các đảng phái khác sợ không dám đi với mình".
Mặt khác, đề phòng xu hướng hữu khuynh, chỉ chú trọng giao thiệp với số lãnh tụ ở bên
trên mà không tin vào lực lượng quần chúng. Hội nghị đề ra nhiệm vụ phải củng cố cơ sở
đã có, lập thêm cơ sở mới, chú ý phát triển cơ sở Đảng ở các thành phố, đồn điền, các nhà
máy, xí nghiệp..., củng cố đường dây liên lạc trong Đảng.1

– Tại các hội nghị nói trên, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng dân chủ tư sản dân
quyền vẫn là chống đế quốc, chống phong kiến nhưng trong tình hình lúc đó, mục tiêu
trực tiếp trước mắt của cách mạng là chống phát xít, chống chiến tranh, chống chế độ
phản động thuộc địa, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình. Về khẩu hiệu đấu tranh, tạm
thời chưa nêu khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp” và “Tịch thu ruộng đất của địa chủ
chia cho dân cày” mà nêu khẩu hiệu: “Tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”. Về phương
pháp đấu tranh: kết hợp giữa hình thức công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp với phương
pháp đấu tranh bí mật. Với những chủ trương đúng đắn đó, Đảng ta đã đưa phong trào
cách mạng nước ta phát triển một bước cả về bề rộng và bề sâu. Phong trào đấu tranh của
quần chúng dưới nhiều hình thức liên tục nổ ra. Mặt trận Dân chủ thống nhất được mở
rộng. Cuộc đấu tranh trên bình diện lý luận, tư tưởng chống xu hướng cả lương, tờrốtkít
cung được đẩy mạnh.

- Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939, đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên
lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những
giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ
cốt lõi”...tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã

1
Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr.342-367.

16
hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp
đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ
chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng
dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”. 1

- Hội nghị Trung ương 7 tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận Dân tộc
thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân
biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động
giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp,
Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc
làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”.2

- Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941, Ngày 28/1/1941, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, Người đã triệu tập và chủ trì Hội
nghị. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn
sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ
phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã
đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra
nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Hội nghị
nhận định: “Đế quốc Pháp-Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà
chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào… Quyền lợi tất cả
các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.
Pháp-Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông
Dương”. Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh
tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà
là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”. Hội nghị khẳng
định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại

1
Vǎn kiện Đảng Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 509-567.
2
Vǎn kiện Đảng Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 509-567.

17
được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được”.1

– Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam
giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng
hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh
đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của
bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm
địa tô, giảm tức”.

– Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên
bán đảo Đông Dương.Chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt
là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây
đều thống nhất lấy tên là: Hội Cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội Công nhân
cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ lão cứu quốc, Hội
Nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội Cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt
Minh. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi
dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng
quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp,
Nhật thì: “Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành liên
bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”, “Sự tự do độc lập
của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”.

– Sau Hội nghị Trung ương 8, một đại hội gồm đại diện các đảng phái, các tổ chức
quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh với tuyên ngôn: “Liên
hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính

1
 Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, tr.735-739, NXB Chính trị Quốc gia, 2008

18
trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập
cho xứ sở. Việt Nam Độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao độc lập đồng
minh và Cao Miên độc lập đồng minh để cùng thành lập Đông Dương độc lập đồng minh
hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung
giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành
lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm
cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do Quốc dân đại hội cử ra” .

– Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và coi đây
là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã
xác định 4 điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định 6 nhiệm vụ phải thực
hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ
sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang.

– Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách
mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa
phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa, đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho
Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh
đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã hoàn chỉnh sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng
11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược
phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực
lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là
đánh đổ ách thống trị của đế quốc . Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc
của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển
sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm
“Đường Cách mệnh” (1927) và Cương lĩnh Cách mạng đầu tiên (Chánh cương vắn tắt-
Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt) của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

19
– Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là
sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi
mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích
Bolshevik để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc, là
ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại
trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Các hội nghị trung ương 6, 7,8 Đảng đều chủ trương đưa ngọn cờ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng
ruộng đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức
thiết nhất”; khẳng định xúc tiến thời gian khởi nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng. dự
kiến hình thái khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa vũ trang từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa. Trong các hội nghị trung ương để tập trung được toàn thể nhân vào quá trình đấu
tranh vận động cách mạng Đảng chủ trương thành lập các hình thức mặt trận dân tộc
thống nhất, các hội đoàn thể cho phù hợp với từng thời kì. Đặc biệt hội nghị trung ương 8
(19/5/1941) quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng.Việt Nam
độc lập đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải
có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đúng thời cơ; đi từ khởi nghĩa từng
phần lên tổng khởi nghĩa.

Như vậy qua các giai đoạn 1936-1939; 1939 -1941 qua các hội nghị Đảng đã từng
bước hoàn chỉnh và khắc phục những hạn chế của Luân cương 1930. Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5/1941 đã đánh dấu sự chuyển
hướng quan trọng,giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đưa nhân dân bước vào giai
đoạn trực tiếp vận động cứu nước đồng thời hoàn chỉnh đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược giải phóng dân tộc được đề ra tại Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng tháng 11/1939, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc

20
đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đồng thời khắc phục triệt để
những hạn chế của Luận cương Chính trị tháng 10 – 1930 góp phần đưa cách mạng tới
thắng lợi.

III. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đưỡng lối cách
mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

3.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nội dung Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam

3.1.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam

– Năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có những chuyển biến to lớn. Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng
trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, v.v.. Nhân dân ta đang nô nức "tích cực
cầm cự và chuẩn bị tổng phản công". Thực dân Pháp lâm vào thế suy yếu và lúng túng.
Đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp với âm mưu can thiệp sâu vào chiến tranh
Đông Dương. Cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa được thành lập ngày 1-10-1949 làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng giữa phe dân chủ
và phe đế quốc, Việt Bắc trở nên liền một dải với Bắc Kinh và Mátxcơva. Nhân dân ta có
điều kiện thuận lợi nhận sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của Liên Xô, Trung Quốc và
các nước dân chủ nhân dân khác trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

– Trước tình hình mới và để đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc lần
thứ ba của Đảng. Hội nghị tiến hành tại Việt Bắc từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950.

– Do bận công tác đối ngoại, không thể tham dự Hội nghị được, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gửi thư tới Hội nghị, trong đó Người "có vài ý kiến" gửi cho các đồng chí đại
biểu. Người viết: "Xét tình hình trong nước và ngoài nước, thế lực của ta và của địch,
năm nay là năm cuộc kháng chiến của ta chuyển biến lớn... Nhiệm vụ của năm mới là:
hoàn thành việc chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công.

21
– Thời cơ có lợi cho ta, nhưng khó khăn của ta còn nhiều. Tổng phản công là một việc
lớn. Chúng ta chỉ có thể tổng phản công thắng lợi, nếu chúng ta chuẩn bị đầy đủ, khắc
phục mau chóng những nhược điểm, phát triển mau chóng những ưu điểm". Người khẳng
định rằng năm 1950 sẽ là năm đại thắng lợi nếu ta làm trọn được những công việc trước
mắt như sau: giữ vững khối đại đoàn kết của dân tộc; tích cực xây dựng bộ đội chủ lực và
bộ đội địa phương; đánh mạnh vào lực lượng vật chất và tinh thần của địch; động viên
lực lượng toàn dân, tổ chức và vũ trang nhân dân rộng rãi ở vùng tự do cũng như vùng bị
tạm chiếm; liên lạc hành động với nhân dân Pháp và các lực lượng hòa bình dân chủ trên
thế giới... Người còn căn dặn: “Riêng về Đảng, các đồng chí hãy kiểm thảo sự lãnh đạo
của Đảng về chính trị và tổ chức, đề cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong Đảng, tổ
chức việc học tập lý luận và sửa đổi lối làm việc, để cho Đảng ta thành một lực lượng rất
mạnh, đưa dân tộc đến bước thành công". Hội nghị đã thảo luận các báo cáo sau đây:

+“Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công” do Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trường Chinh trình bày;

+“Nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công” do đồng chí Võ
Nguyên Giáp trình bày;

+“Công tác mặt trận và dân vận trong năm chuyển mạnh sang tổng phản công" do
đồng chí Hoàng Quốc Việt trình bày;

+“Phải kiện toàn chính quyền cộng hòa nhân dân để tổng phản công và kiến thiết
chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam” do đồng chí Phạm Văn Đồng trình bày.

– Hội nghị nhất trí với các báo cáo được trình bày tại Hội nghị và thông qua Nghị
quyết của Hội nghị Về việc chuyển mạnh sang tổng phản công.

– Đánh giá tình hình hai năm 1948 - 1949, Nghị quyết chỉ rõ: Ta càng đánh, càng
mạnh, chính quyền nhân dân càng thêm vững chắc, tinh thần quân và dân ta càng cao, các
lực lượng hòa bình và dân chủ thế giới càng ủng hộ nhiệt liệt; nhưng đồng thời càng thấy
rõ mấy nhược điểm lớn: thiếu vũ khí nặng, thiếu quân chính quy, thiếu cán bộ, kinh tế và
văn hóa phát triển chậm so với quân sự và chính trị. Địch được Mỹ - Anh giúp đỡ nhiều,

22
nhưng quân đội viễn chinh bị sút kém về tinh thần, gặp khó khăn về tiếp tế, về bổ sung
quân số, lại phải bố trí phân tán. Địch còn gặp hai khó khăn lớn ngay bên nước Pháp là:
tài chính Pháp ngày một quẫn bách và phong trào phản chiến của nhân dân Pháp ngày
càng cao.

– So sánh thế lực giữa ta và địch, Hội nghị khẳng định: Thế của ta mạnh hơn địch vì:
nội bộ địch lủng củng, còn toàn dân ta đoàn kết kháng chiến; hậu phương địch lung lay
còn hậu phương ta vững và rộng, cơ sở của ta phát triển cả trong vùng tạm bị chiếm; địch
bị phụ thuộc vào Mỹ - Anh, đồng thời mâu thuẫn với Mỹ - Anh, còn ta được lực lượng
hòa bình, dân chủ thế giới, kể cả nhân dân Pháp nhiệt liệt ủng hộ, nhất là từ khi cách
mạng Trung Quốc thành công, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

– Lực của ta hiện còn kém địch về vật chất, nhưng hơn địch về tinh thần. Song lực
lượng vật chất của ta có cơ phát triển mau, lực lượng vật chất của địch cũng có thể phát
triển nữa nhưng không bù lại được lực lượng tinh thần của chúng sa sút mau chóng.

– Thế và lực có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Thế mạnh có thể
chuyển thành lực mạnh. Ta cần phải nhân đà tiến bộ, tích cực phát huy khả năng của ta,
dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, triệt để lợi dụng sự lúng túng và nhược điểm
của địch, làm cho thế lực của ta lớn mạnh hơn "gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị
chuyển mạnh sang tổng phản công trong năm 1950 này”, "để trong năm 1950 ta có thể
chuyển sang tổng phản công được".

– Nghị quyết chỉ rõ: tổng phản công là phản công trong cả một giai đoạn chiến lược
theo một kế hoạch chung cho chiến trường Đông Dương, là phản công từng đợt cho tới
khi địch hoàn toàn thất bại, ta hoàn toàn thắng lợi. Muốn chuyển sang tổng phản công thì
ta phải chiếm ưu thế về quân sự trên chiến trường chính (Bắc Bộ), trong khi ở các chiến
trường khác, ta phải đủ sức kiềm chế địch. Phương châm chiến lược của ta trong cả giai
đoạn tổng phản công là: vận động chiến đóng vai trò chủ yếu, du kích chiến và trận địa
chiến đóng vai trò bổ trợ. Giai đoạn tổng phản công sẽ gay go nhất vì là giai đoạn quyết

23
định thắng bại cuối cùng. Tình hình có khả năng diễn biến: giai đoạn tổng phản công có
thể kéo dài, vì bọn đế quốc Mỹ - Anh tích cực can thiệp vào vấn đề Đông Dương, song
cũng có thể rút ngắn nếu lực lượng dân chủ thế giới phát triển vượt bực và tích cực giúp
đó ta, nếu song song với những thắng lợi của ta, những thắng lợi của lực lượng hòa bình,
dân chủ ở Pháp làm cho nội tình nước Pháp rối loạn, quân đội thực dân Pháp ở Đông
Dương tan rã. Dù sao ta cũng phải chuẩn bị đối phó với mọi tình thế khó khăn, đồng thời
ra sức cố gắng để rút ngắn giai đoạn tổng phản công.

Nghị quyết đề ra chương trình công tác gồm 10 điểm nhằm gấp rút hoàn thành việc
chuẩn bị để chuyển sang tổng phản công trong năm 1950. Mười điểm đó là những việc
cốt yếu và cấp bách thuộc các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế - tài chính,
văn hóa - xã hội và xây dựng Đảng.

– Ngày 4-7-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Thông tri sửa lại những chữ trong
Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ ba vì "Trung ương không muốn đóng khung việc
chuyển sang tổng phản công trong năm 1950".1

– Đến năm 1951, năm thứ sáu của cuộc kháng chiến, thế và lực của chiến tranh nhân
dân có sự phát triển vượt bậc. Sự ủng hộ về tinh thần, vật chất của Liên Xô, Trung Quốc
và các nước anh em tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ba nước Đông Dương đẩy
kháng chiến mau tới thắng lợi hoàn toàn.

– Ta đã có những vùng giải phóng rộng lớn, mở được cửa thông thương quốc tế; lực
lượng vũ trang có khả năng tiêu diệt bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Song, thực
dân Pháp với sự trợ giúp của đế quốc Mỹ, vẫn nỗ lực tăng cường chiến tranh, gây cho ta
nhiều khó khăn, phức tạp.

– Nhằm giải quyết những vấn đề mới mà cách mạng đặt ra, Đại hội đại biểu lần thứ II
Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập. Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Dự Đại hội có 158 đại
biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho trên 76 vạn đảng viên.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam(2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 11, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2

24
– Trong mười ngày làm việc, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận Báo cáo chính trị, Báo
cáo Bàn về cách mạng Việt Nam, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ của Đảng, các báo cáo
bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân
dân, kinh tế tài chính, văn nghệ nhân dân. Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt
Nam, được những người cộng sản Lào và Campuchia nhất trí tán thành, Đại hội quyết
định: Do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào,
Campuchia cần có một đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là
Đảng Lao động Việt Nam.

– Sau Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận
Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc,
phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh, Báo cáo về to
chức và Điều lệ Đảng của Lê Văn Lương...

– Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày (chiều ngày 11-2) là một văn
kiện có giá trị thực tiễn và lý luận to lớn. Báo cáo tổng kết những kinh nghiệm phong phú
của Đảng trong hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng, vạch ra những phương hướng, nhiệm vụ
đưa cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo khẳng định đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài vì độc lập thống nhất, dân chủ của Đảng là đúng đắn, cuộc
kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhất định thắng lợi.
Báo cáo nêu hai nhiệm vụ chính của Đảng lúc này là:

+Một: Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

+Hai: Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.

– Đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn là nhiệm vụ cấp bách. Các
nhiệm vụ khác đều nhằm phục vụ nhiệm vụ cấp bách đó. Báo cáo chỉ rõ, để đưa kháng
chiến đến thắng lợi, phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và các tổ chức quần
chúng đẩy mạnh thi đua yêu nước, thi hành chính sách ruộng đất ở vùng tự do, bồi dưỡng
lực lượng kháng chiến, thành lập Mặt trận thống nhất Việt - Lào - Campuchia, đoàn kết
quốc tế.

25
– Về tổ chức Đảng, Báo cáo khẳng định: "Chúng ta phải có một Đảng công khai, tổ
chức hợp với tình hình thế giới và tình hình trong nước để lãnh đạo toàn dân đấu tranh
cho đến thắng lợi, Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam".

– Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày (ngày 12-
2) phân tích một cách hệ thống và sâu sắc toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về các chính sách của Đảng và về
Đảng Lao động Việt Nam. Báo cáo phân tích xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng
Tám và trong kháng chiến chống Pháp, nêu rõ xã hội Việt Nam chứa chất nhiều mâu
thuẫn, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt
Nam với đế quốc và tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến. Mâu thuẫn chính là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc
xâm lược và tay sai.

– Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, trừ
diệt bọn phản quốc, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, xóa bỏ di tích
phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ phản đế và phản phong có mối quan hệ khăng khít, nhưng trọng tâm của cách
mạng giai đoạn hiện tại là giải phóng dân tộc.

– Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng, thái độ chính trị của các giai cấp trong xã hội, Báo
cáo nêu rõ sự sắp xếp lực lượng cách mạng như sau: lực lượng cách mạng Việt Nam là
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc, chủ
yếu là công nhân và nông dân. Lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công
nhân. Báo cáo chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân.

– Căn cứ tình hình, nhiệm vụ, tính chất cách mạng, Báo cáo vạch ra 12 chính sách của
Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được Đại hội thảo luận và đúc kết
một cách khái quát trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam.

26
– Đại hội thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam.
Căn cứ trách nhiệm mới của Đảng là lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo chiến tranh cách mạng,
số lượng đảng viên đã phát triển, Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam có nhiều điểm
sửa đổi so với Điều lệ năm 1935. Điều lệ mới quy định thời hạn dự bị của đảng viên xuất
thân công nhân từ 2 tháng lên 6 tháng, của đảng viên xuất thân trung nông và tiểu tư sản
từ 4 tháng lên 1 năm.

– Về nhiệm vụ đảng viên, ngoài nhiệm vụ số 1 là thực hiện nghị quyết, chính sách của
Đảng, Điều lệ mới bổ sung thêm nhiệm vụ hết lòng phục vụ quần chúng, học hỏi, giáo
dục quần chúng; kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình; gương mẫu
trong mọi công tác cách mạng. Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng phân tích kỹ vấn đề
mở rộng dân chủ, tăng cường tập trung và phát triển phê bình, tự phê bình trong Đảng.

– Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt
Nam, thông qua Chính cương Điều lệ và Tuyên ngôn của Đảng. Đại hội quyết định sẽ
thành lập những tổ chức cách mạng phù hợp hoàn cảnh Lào và Campuchia. Đảng Lao
động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào và Campuchia lãnh đạo
kháng chiến của hai dân tộc ấy giành thắng lợi cuối cùng. Ban Chấp hành Trung ương
mới của Đảng do Đại hội bầu ra gồm 29 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu giữ
chức Chủ tịch Đảng. Bộ Chính trị do Trung ương bầu gồm 7 ủy viên chính thức: đồng chí
Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí
Thanh, Hoàng Quốc Việt, một ủy viên dự khuyết là đồng chí Lê Văn Lương. Đồng chí
Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội
đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành
mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công
khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng. 1

– Báo cáo chính trị đã tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt
Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra
bài học trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ nhiệm vụ chủ yếu
1
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam(2008), tập 3, NXB Chính trị Quốc gia.

27
trước mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc
lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Đẻ hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra
những chính sách và biện pháp tích cực tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn
thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường
đoàn kết quốc tế; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành “một
Đảng to lớn, mạnh mẽ, chẳc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” để lãnh đạo đưa kháng
chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

– Chính cương Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư
Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2 năm 1951)
thảo luận và thông qua.

+Về tính chất xã hội: Xã hội Việt Nam có ba tính chất: dân chủ nhân dân một phần
thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó đấu tranh lẫn nhau, tuy nhiên cuộc đấu tranh
chủ yếu lúc này là đấu tranh giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu
thuẫn đó được giải quyết trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
của dân tộc Việt Nam.

+Về đối tượng cách mạng: có 2 đối tượng. Đối tượng thứ nhất và cũng là đối tượng
chính, là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là thực dân Pháp và sự can thiệp của đế
quốc Mỹ. Đối tượng thứ hai là chủ nghĩa phong kiến, cụ thể là tàn dư phong kiến phản
động.

+Về Nhiệm vụ cách mạng: Một là, đánh đuổi bọn đế quốc, thực dân xâm lược, giành
lại độc lập, thống nhất thực sự cho dân tộc. Hai là, xóa bỏ tàn dư phong kiến và nửa
phong kiến, xóa bỏ địa chủ, làm cho người cày có ruộng. Ba là, phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tạo tiền đề cho xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ trên có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên nhiệm vụ chính trước mắt chính là hoàn thành
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

28
+Về Động lực của cách mạng Việt Nam: Được xác định gồm có bốn giai cấp: giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có
những thân sĩ (thân hào, địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó lấy nền tảng là giai cấp
công, giai cấp nông và lao động trí óc, giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.

+Về Sắp xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của
Lênin (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản)
gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Đồng chí Trường
Chinh giải thích: Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân
tộc. Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho
nông dân. Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.
Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác-Lênin
mà công lao to lớn thuộc về đồng chí Trường Chinh.

+Về Triển vọng phát triển của cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất
định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và trải qua ba giai đoạn
chính:

-Giai đoạn thứ nhất có nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.

-Giai đoạn thứ hai: xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.

-Giai đoạn thứ ba: xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội.

-Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà có mối liên hệ mật thiết, xen kẽ với nhau.

+Về Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: thông qua điều lệ mới gồm 13 chương
và 71 điều thể hiện rõ: Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích
của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả

29
các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm
tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia, thực hiện
chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam, làm tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội.

+Về Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô.

3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh của Đảng so với Cương lĩnh và Luận cương chính trị

- Trước tiên ta sẽ tìm ra những thiếu sót của Cương lĩnh và Luận cương nhằm xác
định những bổ sung của Đảng trong Chính cương mà đã hoàn chỉnh đường lối cách mạnh
Dân tộc Dân chủ Nhân dân.

Những thiếu sót, hạn chế của Cương lĩnh và Luận cương chính trị

- Với Cương lĩnh chính trị, đó là nội dung vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn
toàn phù hợp với thực tế Việt Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích
khác nhau.

- Với Luận cương chính trị:

+ Chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương.
+ Không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng
ruộng đất.
+ Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, giai cấp tư sản
dân tộc, khả năng lôi kéo bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia Mặt trận dân tộc thống
nhất, chống đế quốc và phong kiến.
Nhằm bổ sung, hoàn thiện đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân,
Đảng đã phân tích những thiếu sót, hạn chế của Cương lĩnh và Luận cương chính trị,
từ đó cho ra đời Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
-Khác với Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục
tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn dài, Luận
cương chính trị là dự án về một cương lĩnh chính trị nhằm bổ sung vài điểm cho Cương

30
lĩnh. Song để hoàn thiện và hạn chế các điểm yếu của hai văn kiện trên, Chính cương
được ra đời là đường lối chính trị chủ yếu của chính đảng trong một thời kỳ nhất định.

Những bổ sung của Chính cương


- Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội.

- Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản và sắp xếp lực lượng cách mạng như trên, cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn này là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ
nhân dân. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thông qua Đảng Lao động Việt Nam, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

=> Có thể thấy rằng Chính cương giờ đây đã khắc phục được thiếu sót của Luận
cương đó chính là “Không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu, nặng về đấu tranh giai cấp
và cách mạng ruộng đất”. Chính cương đề cập nhiều hơn về vấn đề dân tộc từ việc đánh
đuổi đế quốc và giành độc lập, cho đến mối quan hệ giai cấp và dân tộc, cách mạng giờ
đây không phải là nhân dân Việt Nam mà là dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. Không
còn nói trọng điểm vào việc đấu tranh giai cấp và ruộng đất.

- Động lực của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam là giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc,
nhân sĩ yêu nước tiến bộ. Nền tảng là khối liên minh công nông và lao động trí thức.

=> Hơn nữa ở việc “Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu
tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia Mặt
trận dân tộc thống nhất, chống đế quốc và phong kiến” Chính cương đã khắc phục bằng
cách nêu lên rằng họ chính là động lực của cách mạng Việt Nam, những gì họ mang lại

31
và vai trò của họ hiện nay đã được đánh giá tốt hơn, được công nhận là nền tảng cho khối
liên minh công nông và lao động trí thức.

Hoàn chỉnh của Chính cương


=> Chính cương nêu lên mâu thuẫn chủ yếu của Đông Dương là mâu thuẫn kinh tế
và mâu thuẫn giai cấp một cách gián tiếp đó là giải quyết vấn đề mâu thuẫn thay vì nêu
bật ra dễ gây xung đột.

Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân.

Cùng với các văn kiện đã thông qua tại Đại hội, “Chính cương Đảng Lao động
Việt Nam” thể hiện sự hoàn chỉnh thêm một bước đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân được vạch ra trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, đường lối đó soi
đường dẫn đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
=> Chính cương giờ đây đã nêu lên trực tiếp giai cấp lãnh đạo, mục tiêu, đường lối,
xác định kẻ thù một cách rõ ràng. Không như Cương lĩnh, Chính cương được xây dựng
để phù hợp với thời đại hiện hành nên sẽ có thay đổi theo thời kỳ chứ không cố định,
ngoài ra, Chính cương được viết nhằm không hiểu sai văn bản và để tránh phát sinh
những điều khác bất hảo dựa trên những kinh nghiệm đi trước của Luận cương và Cương
lĩnh.

32
PHẦN KẾT LUẬN

– Đất nước ta đứng trước những thách thức lớn đang diễn ra trên thế giới, có thể kể
đến là sự hoành hành của dịch COVID-19 từ năm 2020 và ở thời điểm hiện tại là xung
đột Nga – Ukraine. Những khó khăn mà các thách thức này mang lại không hề nhỏ, ngoài
việc là ảnh hưởng vô cùng nặng nề đến nền kinh tế thì nền chính trị thế giới cũng bị lay
động ít nhiều. Tình hình an ninh khu vực và thế giới có thể diễn biến phức tạp bất cứ lúc
nào nên việc trang bị kiến thức là vô cùng cần thiết.
– Do đó, những kiến thức về chính trị dù đã lâu vẫn có thể áp dụng cho tình hình hiện
tại, việc nắm bắt, hiểu rõ những văn kiện chính trị chắc chắn là nghĩa vụ thiết yếu của
sinh viên nhằm góp phần có trách nhiệm với công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
– Đầu tiên là hiểu rõ về bối cảnh lịch sử Việt Nam vào thời kỳ dưới ách thống trị và
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, tìm hiểu về nguyên nhân dẫn đến hình thành
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, phân tích mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ, đối
tượng và vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn này.
– Sau đó chính là nắm bắt được bối cảnh lịch sử từ tháng 10/1930 đến 05/1941 và sự
ra đời của Luận cương chính trị nhằm khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc từ tháng 03/1935 đến tháng 05/1941. Xác định được chiến được,
nhiệm vụ, động lực cách mạng, giai cấp lãnh đạo và hình thức đấu tranh của dân tộc ta.
– Cuối cùng là xác định được những yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam và tìm
hiểu nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam. Nêu bật ra các điểm giống nhau,
khác nhau của Cương lĩnh và Luận cương chính trị. Hơn nữa, biết được những thiếu sót
hạn chế của hai văn kiện này nhằm hiểu rõ được tính cấp thiết cho sự ra đời của Chính

33
cương Đảng Lao động Việt Nam với vai trò bổ sung, hoàn chỉnh hơn so với hai văn kiện
trên và xây dựng hoàn thiện đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Nguyễn Văn Phi(2019)-Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
https://ket-noi.com/blog/threads/cuong-linh-dau-tien-cua-dang-cong-san-viet-
nam.165686/
2. Nguyễn Thị Quỳnh Trang(12/4/2014)-Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng
sản VIệt Nam. https://ket-noi.com/blog/threads/de-cuong-duong-loi-cach-mang-dang-
cong-san-viet-nam.165879/
3. Trần Thanh Giang-Chính sách nô dịch về văn hóa của thực dân Pháp và một số
trào lưu văn hóa trước năm 1945 ở Việt Nam.
4. Lâm Viêt Pháp(11/4/2015)- Cương lĩnh đầu tiên đảng Cộng Sản Viêt Nam.
https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-tuyen
giao/thong-tin-tu-lieu/cac-cuong-linh-cua-dang-cong-san-viet-nam-551004.html
5. Hồ Chí Minh(2/1930)Chánh cương vắn tắt của Đảng. http://kllct.dlu.edu.vn/vi/tai-
lieu-tham-khao-2785/chanh-cuong-van-tat-cua-dang-1930-3ed1e
6. Hồ Chí Minh(2/1930)-Sách lược vắn tắt của Đảng. http://kllct.dlu.edu.vn/vi/tai-
lieu-tham-khao-2785/sach-luoc-van-tat-cua-dang-1930-fd24f
7. Nội dung luận cương chính trị tháng 10/1930 và chu trình chuyển hướng giải
phóng.
https://tusach.thuvienkhoahoc.com/wiki/Đường_lối_đấu_tranh_giành_chính_quyền_(1930_–
_1945)
8. Lý thuyết sử 12,bài 14-Phong trào cách mạng 1930-1935

34
9. Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.23-26, 26.https://baocantho.com.vn/su-hinh-thanh-
phat-trien-hoan-thien-duong-loi-chien-luoc-cach-mang-giai-phong-dan-toc-cua-dang-thoi-
a137451.html
10. Văn kiện Đảng toàn tập(2000),Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, tr.735-739, NXB Chính trị Quốc gia,
2008
12. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam-đại hội đảng lần thứ 2.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-
thu-ii/chinh-cuong-dang-lao-dong-viet-nam-1448
13. Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. https://vi.wikipedia.org/wiki/C
%C6%B0%C6%A1ng_l%C4%A9nh_ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B_c%E1%BB
%A7a_%C4%90%E1%BA%A3ng_C%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n_Vi%E1%BB
%87t_Nam#:~:text=M%E1%BB%A5c%20ti%C3%AAu%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc
%20m%E1%BA%AFt%20v%E1%BB%81,b%E1%BB%8F%20c%C3%A1c%20th
%E1%BB%A9%20qu%E1%BB%91c%20tr%C3%A1i%2C
14. So sánh cương lĩnh chính trị và luận cương chính tri. https://luathoangphi.vn/so-sanh-
cuong-linh-chinh-tri-va-luan-cuong-chinh-tri/
15. Ngô Đức Hải. Ưu điểm và hạn chế của cương lĩnh chính trị đầu tiên.
https://thatim.com/uu-diem-va-han-che-cua-cuong-linh-chinh-tri-dau-tien
16. Nội dung của Chính phủ Đảng Lao động Việt Nam.
https://www.studocu.com/id/document/universitas-tompotika/corporate-law/noi-dung-
cua-chinh-cuong-dang-lao-dong-viet-nam/16732993

35

You might also like