Professional Documents
Culture Documents
Chưa Có Final
Chưa Có Final
Đề bài:
Anh/Chị (lập nhóm từ 2-5 người) thiết kế một đề cương phương pháp nghiên
cứu khoa học (research proposal) dựa trên cấu trúc và gợi ý.
Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là quan hệ láng giềng lịch sử, với sự tương đồng về thể
chế chính trị, hai nước từ lâu có những ảnh hưởng lẫn nhau trên nhiều phương diện. Quan hệ Việt
- Trung từ sau Việt Nam có chiều hướng xấu đi, nhiều bất đồng xuất hiện từ sự thân thiết giữa Việt
Nam với Liên Xô, mối liên hệ được Trung Quốc xem là sự đe dọa cho an ninh của nước này. Thất
bại của Trung Quốc trong việc lôi kéo Việt Nam nhằm hạn chế sự hiện diện của Liên Xô ở Việt
Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung cũng là nguyên nhân đóng góp cho những đối lập về
quan điểm, xung đột và mâu thuẫn chính trị ngày càng tăng giữa hai quốc gia. Bên cạnh đó, các
cuộc xung đột quân sự xảy ra tại biên giới Việt Nam - Trung Quốc và một số biện pháp kinh tế và
chính trị mà Trung Quốc tiến hành nhằm cô lập và đe dọa Việt Nam cũng đã khiến quan hệ hai
Với Việt Nam, Campuchia là quốc gia láng giềng có quan hệ gần gũi và sâu sắc. Tuy
nhiên sau chiến tranh Việt Nam, nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan trong các vấn đề lịch sử,
văn hóa và chính trị đã góp phần tạo lập những bất đồng giữa hai quốc gia. Quan hệ giữa Việt Nam
và Campuchia trong giai đoạn 1975-1979 là một mối quan hệ đầy biến động và căng thẳng. Sự can
thiệp của của các cường quốc trong khu vực mà rõ rệt nhất là Trung Quốc đã gây ra nhiều tranh
chấp và xung đột leo thang, diễn ra nổi bật trong giai đoạn 1976-1978. Chính quyền thân Trung
Quốc - Campuchia Dân chủ (Democratic Kampuchea) với sự lãnh đạo của Pol Pot - Ieng Sary
trong giai đoạn này tiến hành đẩy cao mâu thuẫn hai bên thông qua hàng loạt cuộc tấn công vào
2
Qua bản chất mối quan hệ ba nước, sự xích lại gần nhau giữa Trung Quốc và Campuchia
đặt ra nhiều thách thức cho tình hình Việt Nam. Sự tăng cường viện trợ của Trung Quốc đối với
chính quyền Khmer Đỏ khiến lực lượng này phát triển với tốc độ nhanh chóng mặt, thông qua đó
gây sức ép lớn cho công cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới lúc bấy giờ của Việt Nam. Sự tấn công
liên tục từ nhiều mặt trận khiến cho thế và lực của Việt Nam trong giai đoạn này bị ảnh hưởng
đáng kể, chính quyền Trung ương không thể tập trung kiến thiết đất nước sau chiến tranh. Trước
những lý do đó, bài nghiên cứu của nhóm sẽ xem xét những tác động của Trung Quốc đối với vị
thế của Việt Nam thông qua nhân tố Campuchia trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1979.
Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm trả lời câu hỏi: Tác động của Trung Quốc lên vị
thế của Việt Nam thông qua nhân tố Khmer Đỏ đã diễn ra như thế nào trong giai đoạn 1975
- 1979? Nhằm làm xấu hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó tạo thế bao vây cô lập
đối với Việt Nam cả trong khu vực và thế giới, Trung Quốc nói chung và những nhà lãnh đạo
Trung Quốc nói riêng đã lợi dụng “vấn đề” Campuchia mà trong đó nhân tố Khmer Đỏ được chính
quyền Bắc Kinh tận dụng như yếu tố trung gian quan trọng. Những động thái của Trung Quốc góp
phần lớn trong việc làm suy giảm vị thế của Việt Nam. Bài nghiên cứu sẽ hướng đến chứng minh
cho giả thuyết nói trên thông qua nhìn nhận, nghiên cứu những ảnh hưởng này từ đó đánh giá về
mức độ ảnh hưởng của chúng đến vị thế của Việt Nam.
Đối tượng bài nghiên cứu sẽ tập trung đi vào phân tích là những chính sách, chủ trương,
các cuộc vận động và cách thức vận động ngoại giao cùng với diễn ngôn của Trung Quốc để nhìn
nhận về những tác động này. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng sẽ đi vào phân tích phối hợp những
tác động mang tính trung gian đến từ lực lượng Campuchia Dân chủ nhằm củng cố và hỗ trợ cho
việc đánh giá, nhận xét những tác động mà Trung Quốc đã thực hiện thông qua nhân tố này nhằm
gây sức ép đến hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
3
Phạm vi nghiên cứu được nhóm giới hạn trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1979 và phân
thành hai giai đoạn để có cái nhìn sâu hơn và rút ra được so sánh về tương đồng, khác biệt. Giai
đoạn đầu tiên là khi Trung Quốc bắt đầu âm thầm xây dựng những chủ trương, chính sách nhằm
tác động đến Việt Nam thông qua hỗ trợ, chi viện cho Khmer Đỏ. Trong thời gian này, chính quyền
Bắc Kinh chưa có những động thái rõ ràng, quyết liệt và chỉ đang dừng ở mức độ can thiệp gián
tiếp đối với “vấn đề Campuchia”. Giai đoạn thứ hai được phân tích là lúc Trung Quốc tiến hành
công khai những chính sách, xu thế chống Việt Nam một cách mạnh mẽ, thực hiện nhiều công
cuộc chống phá, lên án Việt Nam trên trường quốc tế và trong khu vực bằng cách lôi kéo, kêu gọi
sự phản đối đến từ dư luận thế giới là Liên Hợp Quốc và các nước láng giềng trong khu vực như
ASEAN mà trực tiếp nhất là với Thái Lan. Thông qua việc chia phạm vi nghiên cứu làm hai mốc
thời gian và phân tích theo từng giai đoạn sẽ giúp nhóm đưa ra được nhận xét về diễn tiến và đánh
giá được mức độ ảnh hưởng của những tác động của Trung Quốc lên vị thế Việt Nam thông qua
nhân tố Khmer Đỏ mà chủ yếu là thông qua khía cạnh ngoại giao.
Bài nghiên cứu không tham vọng đi sâu phân tích những tác động của Trung Quốc đến
vị thế Việt Nam thông qua nhân tố Khmer Đỏ trên các khía cạnh về kinh tế, xã hội, quân sự nhưng
trong quá trình thực hiện sẽ có những số liệu, viện dẫn quan điểm, nhận định để góp phần hỗ trợ
cho lập luận của nhóm về ảnh hưởng của những tác động nói trên.
Trung Quốc hy vọng dùng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt có thể làm Việt Nam suy
yếu và buộc nhân dân ta phải khuất phục. Khởi đầu bằng việc gây áp lực về kinh tế (cắt viện trợ);
chính trị (kích động bộ phận Hoa kiều); ngoại giao (cô lập, gây chia rẽ Việt Nam với các nước);
phá hoại tiềm lực quân sự bằng các sự kiện khiêu khích vũ trang với mức độ xung đột ngày càng
4
gia tăng trên các vùng biển, đảo và biên giới Việt Nam. Mâu thuẫn trở nên nghiêm trọng khi Trung
Quốc tiếp tay cho Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ) làm công cụ chống phá, gây “suy yếu toàn
diện, chảy máu toàn thân" Việt Nam suốt thời gian dài.
The Perspective Of Disputes And Conflicts” của tác giả Lưu Văn Quyết và Nguyễn Thị Ánh
Nguyệt nhận định Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong chính sách Đông Nam Á của Trung
Quốc. Chính quyền Bắc Kinh cần Việt Nam trở thành một quốc gia “không mạnh, không chia rẽ,
không độc lập và phụ thuộc vào Trung Quốc” (Karl D. Jackson, 2014, tr.41). Bài viết sử dụng các
phương pháp nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu logic và nghiên cứu quan hệ quốc tế qua việc trình
bày một cách toàn diện và sâu sắc về bối cảnh lịch sử, cũng như những mâu thuẫn trong quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc từ sau năm 1975. Ngoài ra, nhóm tác giả còn sử dụng các phương pháp
như: thống kê, so sánh… để quan sát, đánh giá đề tài một cách khoa học và khách quan hơn.
Về vấn đề tranh chấp người Việt gốc Hoa, nhóm tác giả đã phân tích từng giai đoạn phía
Trung Quốc lan truyền những lập luận cáo buộc Chính phủ Việt Nam, nhằm kích động tâm lý dân
tộc, mở đầu cho làn sóng hồi hương của người Hoa ở Việt Nam. Cùng với cáo buộc đó, từ cuối
năm 1975, lấy cớ “giải quyết nhiều vấn đề cho người Hoa”, bất chấp luật pháp và tập quán quốc
tế, phía Trung Quốc cũng gửi công hàm cho Chính phủ Việt Nam đơn phương chấm dứt mọi hỗ
trợ kinh tế và kỹ thuật, đồng thời rút toàn bộ chuyên gia Trung Quốc đang làm việc tại Việt Nam
về nước. Đòn đánh của chính quyền Bắc Kinh đưa ra đúng lúc Việt Nam đang phải hàn gắn những
vết thương chiến tranh, làm nghiêm trọng thêm những khó khăn về kinh tế và đời sống của nhân
From The Perspective Of Disputes And Conflicts” chỉ tập trung lý giải những căng thẳng trong
mối quan hệ Trung Quốc - Việt Nam - Campuchia qua sự hỗ trợ toàn diện của Trung Quốc đối với
5
Campuchia, lý do chính quyền Bắc Kinh đã tích cực sử dụng “con bài" Khmer Đỏ để kích động
thù hằn, gây chiến tranh nhằm chống phá Việt Nam. Nhóm tác giả cũng đi đến kết luận tất cả động
thái của Trung Quốc nêu trên đều hướng tới một mục tiêu chung chính là đưa Việt Nam và
Campuchia đi đến đối đầu quân sự ở mức cao nhất là chiến tranh. Tuy nhiên bài viết chưa khai
thác được quan điểm và mục tiêu chiến lược của Trung Quốc thông qua nhân tố Khmer Đỏ nhằm
kiềm chế sự ảnh hưởng, suy giảm sức mạnh cũng như huỷ hoại tiềm lực của Việt Nam. Cũng như
quá trình Trung Quốc thực hiện trong quan hệ ngoại giao và trên mặt trận quân sự để gây “chảy
máu" và làm “suy kiệt" Việt Nam. Vì sau cùng, những hành động xâm lược, tàn ác, diệt chủng của
Tập đoàn Pol Pot qua biên giới đã buộc Việt Nam phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Lực lượng Khmer Đỏ trước khi nhận được hỗ trợ quân sự và kinh tế từ Trung Quốc không
được xem là lực lượng lớn mạnh, đối lập hoàn toàn với Việt Nam - quốc gia lớn hơn cả về kích
thước và dân số so với cả Campuchia. Tác giả Karl D. Jackson đã sử dụng phương pháp thu thập
sử học và phân tích diễn ngôn trong Cambodia 1978: War, Pillage, and Purge in Democratic
Kampuchea. Qua đó bài viết đưa ra những phản đối với ý kiến của Cựu Cố vấn An ninh Quốc gia
Hoa Kỳ Zbigniew Brzezinski rằng “xung đột” Việt Nam - Campuchia là một cuộc “chiến tranh
uỷ nhiệm” (proxy war). Song, bài viết khẳng định sự đồng tình rằng “xung đột” này không thể duy
trì nếu thiếu sự viện trợ đáng kể từ Moscow và Bắc Kinh1, trong đó nguồn viện trợ của Bắc Kinh
là đổ vào lực lượng Khmer Đỏ. Qua đó thấy được khả năng Khmer Đỏ tấn công Việt Nam là rất
thấp bởi nhiều hạn chế về kinh tế, quân sự mà Trung Quốc với tiềm lực của mình thành công trở
thành “chỗ dựa" để lực lượng này nổ súng với Việt Nam và Khmer Đỏ ngược lại, trở thành cơ hội
1
Jackson (1979, p. 79, 80)
6
hoàn hảo để Trung Quốc lợi dụng nhằm đối trọng với liên minh Việt - Xô mà mục đích sâu xa hơn
Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong The Sino-Vietnamese Conflict: Power Play among
Communist Neighbors chỉ ra Việt Nam không có được vai trò ảnh hưởng như mong muốn đối
với Campuchia như với Lào sau chiến tranh Đông Dương lần thứ hai năm 1975. Sự chia rẽ giữa
chính quyền Campuchia và Việt Nam đã tạo cho Trung Quốc cơ hội tận dụng nhân tố Khmer Đỏ
nhằm cản trở ảnh hưởng lan rộng của chính quyền Hà Nội trên toàn Đông Dương2. Tuy nhiên bài
nghiên cứu chưa phân tích đầy đủ vai trò của Khmer Đỏ nói riêng và Campuchia nói chung trong
âm mưu lợi dụng của Trung Quốc nhằm gây ảnh hưởng lên vị thế của Việt Nam. Charles
McGregor trong bài nghiên cứu China, Vietnam, and The Cambodian Conflict: Beijing's End
Game Strategy đã có bước tiến sâu hơn khi miêu tả chính sách Trung Quốc dưới hai thuật ngữ là
“containment" (ngăn chặn) và “rollback” (kìm hãm sự ảnh hưởng). Người viết đã nêu việc Trung
Quốc ủng hộ kháng chiến Khmer Đỏ, lực lượng mà vào thời điểm đó có những mâu thuẫn lớn và
là nguyên nhân làm sa lầy lực lượng Việt Nam ở Campuchia, chính là một phần của chiến lược
hạn chế thực thi quyền lực (containment) và hạn chế sức mạnh (rollback) của Việt Nam3.
Sheldon W. Simon trong Kampuchea: Vietnam's "Vietnam" cho rằng sự ổn định của
Campuchia sẽ củng cố quyền kiểm soát của Hà Nội trên toàn bộ Đông Dương. Kết quả này được
Trung Quốc xem là mối đe dọa chiến lược và nếu thành công, Trung Quốc sẽ đối đầu với Đông
Dương thù địch ở phía nam và kẻ thù truyền kiếp Liên Xô đang có sự liên hiệp chặt chẽ với Việt
Nam ở phía Bắc. Chính quyền Bắc Kinh tin rằng phải hỗ trợ Khmer Đỏ, lực lượng có lập trường
chống Việt Nam kiên quyết, bất chấp những phản đối với các động thái tàn bạo trong nội bộ chế
độ này.
2
Hung (1979, p. 1046)
3
Mcgregor (1990, p. 267)
7
Tuy nhiên, bài nghiên cứu của Simon không đi vào nhận định ý nghĩa sâu xa của những
viện trợ của Trung Quốc đối với Khmer Đỏ. Riding with the Devils: China’s Role in the
Cambodian and Sri Lankan Conflicts của Patrick Hein chỉ ra viện trợ của Trung Quốc cho
Campuchia đều nhằm đối trọng với viện trợ của Xô Viết cho Việt Nam đồng thời làm suy thoái
Việt Nam và nhân tố Khmer Đỏ chính là một “nước cờ” trung gian hiệu quả. Những viện trợ này
hoàn toàn không vì mục đích đảm bảo sự phát triển kinh tế hiệu quả hay góp phần giảm đói nghèo
ở nước này4. Nếu đưa ra so sánh, sự hậu thuẫn của chính quyền Bắc Kinh với Khmer Đỏ không
hề nhỏ đối với sự ủng hộ về chính trị và lòng trung thành từ Khmer Đỏ trong việc chống lại ảnh
hưởng của Việt Nam ở Đông Dương mà Trung Quốc nhận được5.
Cùng đề cập đến một vấn đề, tác giả Major Edward W.Ross trong bài China’s
Pedagogical War - Conflicting Interests in Indochina đã lập luận rằng động thái của Trung
Quốc bắt tay với Mỹ, Nhật, ASEAN không chỉ nhằm ngăn chặn sự bành trướng của liên minh Xô
- Việt. Tác giả cho rằng việc hợp tác, giao lưu với các nước khác và đặc biệt là ASEAN còn nhằm
mục tiêu cải thiện vị thế của Trung Quốc, vốn nằm trong chiến lược trở thành quốc gia công nghiệp
hoá, hiện đại hoá vào năm 2000 của họ từ trước, và điều đó khiến Trung Quốc trở thành đối trọng
với Liên Xô. Bên cạnh đó, tác giả mở rộng thêm nguyên nhân Trung Quốc tranh thủ hợp tác với
các nước khác, đặc biệt là Mỹ: Nếu Trung Quốc đánh Việt Nam trước khi nhận được sự ủng hộ
của thế giới, thì họ sẽ bị đánh giá là “hiếu chiến” và đánh mất sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế
trong vấn đề Đài Loan. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả thực hiện nghiên cứu với đối tượng là
các chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc trước sự thù địch của Việt Nam. Sử dụng góc
nhìn chủ nghĩa hiện thực, tác giả nhận định cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc tại
4
Hein (2017, p. 81, 82)
5
Hein (2017, p. 82)
8
biên giới phía Bắc năm 1979 là biện pháp cần thiết để chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa bá quyền
từ Việt-Xô. Tuy nhiên, bài viết thể hiện một số điểm hạn chế. Tác giả không phân tích rõ ràng và
đánh giá được hiệu quả của những chính sách đối ngoại của Trung Quốc về vấn đề Việt Nam -
Campuchia cũng như chưa trả lời được liệu thế giới có ủng hộ việc Trung Quốc tấn công Việt Nam
hay không. Ngoài ra, bài viết chỉ chủ yếu tập trung vào bề nổi là chủ nghĩa bá quyền Xô-Việt và
chưa có sự mở rộng về các nguyên nhân khác nhau trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc.
Tác giả Richard Chen trong bài Deng's War - Assessing the Success of the Sino
Vietnamese War đã dùng phương pháp truy nguyên, đưa ra ba mục đích của cuộc chiến Việt -
Trung mà nhà cầm quyền Trung Quốc hướng tới: Ngăn chặn sự hình thành liên minh Xô - Việt;
Tái củng cố quyền lực của Đặng Tiểu Bình; Tái thiết lập Trung Quốc như một bá chủ khu vực. Để
trở thành bá chủ khu vực, Trung Quốc đã sử dụng nhân tố Khmer Đỏ trong vấn đề an ninh biên
giới Việt - Trung như một cái cớ để họ tiến hành tấn công bằng vũ lực với Việt Nam. Tuy nhiên,
tác giả cho rằng vấn đề Campuchia không tác động đáng kể đến vị thế của Việt Nam trong khu
vực vì quân đội Việt Nam vẫn đóng quân ở Campuchia đến năm 1989 bất chấp những lần bị Trung
Quốc lên án về những việc Việt Nam đang tiến hành thực hiện trên lãnh thổ Campuchia. Đồng
thời tác giả cũng nhận định rằng lí do thực sự mà Trung Quốc “dạy Việt Nam một bài học“ không
nằm ở việc Việt Nam tấn công Campuchia mà còn phục vụ cho mục đích sâu xa đó là bành trướng
Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam (1977-1979) là một trong những cuộc
chiến tranh lớn của dân tộc trong thế kỷ XX. Bản thân cuộc chiến có thể đã xuất hiện như một
cuộc xung đột nhỏ và không máu mặt trong tiến trình lịch sử Việt Nam, tuy nhiên tác động của nó
lớn hơn những gì có thể dễ dàng tưởng tượng được vì tính thời điểm của nó. Cuộc xung đột ở biên
9
giới Tây Nam càng làm cho quan hệ Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 1975-1979 trở nên phức
tạp với những bất đồng sâu sắc. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau, nghiên cứu về âm mưu của
Trung Quốc đối với Việt Nam thông qua chính quyền Pol Pot cho đến nay còn nhiều “khoảng
trống” khi chưa có nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống tiếp cận quan hệ từ góc độ tranh chấp,
xung đột biên giới Việt Nam - Campuchia. Chính vì thế, đối với bài nghiên cứu này, nhóm muốn
tập trung làm rõ những tác động của Trung Quốc lên vị thế của Việt Nam thông qua nhân tố Khmer
Đỏ giai đoạn 1975-1979, trước hết là vì những tác động thực tế lên Việt Nam mà cuộc chiến gây
ra vẫn chưa được nhận định một cách đúng đắn, toàn diện.
Về thực tiễn, nghiên cứu tác động của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
ở biên giới Tây Nam, trong đó: Làm rõ chính sách, tuyên bố của Trung Quốc nhằm tác động lên
vị thế của Việt Nam; Lý do Trung Quốc lựa chọn lực lượng Khmer Đỏ là công cụ trong kế hoạch
răn đe Việt Nam; cũng như đánh giá hiệu quả âm mưu của chính quyền Bắc Kinh thông qua bè lũ
Pol Pot nhằm huỷ hoại Việt Nam, cần được nghiên cứu đa chiều từ nhiều phía, một cách khách
quan ở nhiều góc độ. Ngoài ra, bài nghiên cứu sẽ nhìn nhận lại một cách nghiêm túc trên tinh thần
khoa học, để từ đó rút ra được bản chất cốt lõi của cuộc chiến trên một số vấn đề như âm mưu, thủ
đoạn, hệ quả và tác động của các sự kiện đó trong tiến trình lịch sử dân tộc cũng như quan hệ quốc
tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, bài nghiên cứu cũng sẽ
đưa ra những nhận xét, đánh giá; qua đó lưu ý những bài học kinh nghiệm trong quan hệ ngoại
Để chứng minh cho lập luận, giả thiết được nêu trên, bài nghiên cứu sẽ áp dụng phương
10
Sự lựa chọn phương pháp truy nguyên có nhiều tác dụng. Đầu tiên, sử dụng phương pháp
truy nguyên sẽ giúp xác định được động cơ dẫn đến quyết định của Trung Quốc, từ đó tạo lập cơ
sở vững chắc cho các phân tích về sau, chẳng hạn như vì sao Trung Quốc muốn tác động lên vị
thế của Việt Nam thông qua nhân tố Khmer Đỏ. Thứ hai là tạo ra quy trình và hệ thống hỗ trợ việc
nghiên cứu dữ liệu. Nhìn nhận vấn đề trong một hệ thống giúp dễ dàng nhận diện các tác động của
Trung Quốc lên vị thế của Việt Nam thông qua nhân tố Khmer Đỏ. Thứ ba là đánh giá tính hiệu
quả của tác động của Trung Quốc đến vị thế của Việt Nam thông qua nhân tố Khmer Đỏ.
Phương pháp lịch sử giúp tái lập tiến trình của vấn đề theo trình tự thời gian thông qua
các nguồn tư liệu thu thập từ các bài báo cáo, bài viết, sách trắng để nghiên cứu và từ đó tìm ra các
điều kiện hình thành cũng như quá trình ra đời và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
Việc kết hợp cả hai phương pháp giúp quá trình thu thập và xử lý dữ liệu hợp lý theo trình
tự thời gian. Qua đó giúp việc chứng minh lập luận, giả thiết của bài nghiên cứu trở nên chắc chắn
và có tính logic.
Phương pháp truy nguyên và lịch sử được áp dụng vào trong bài nghiên cứu như sau:
Bước 1: Xác định khung lý thuyết nghiên cứu bao gồm tập hợp các khái niệm được sử dụng để
giải thích, mô tả cho vấn đề đang nghiên cứu. Lý thuyết đưa ra dựa trên cơ sở các học thuyết để từ
Bước 2: Thiết lập phạm vi nghiên cứu và liệt kê các sự kiện theo thứ tự thời gian trong giai đoạn
Bước 3: Đưa ra lập luận của bài nghiên cứu về tác động của Trung Quốc đến vị thế của Việt Nam
11
Bước 4: Tìm các sự kiện, bằng chứng, số liệu, báo cáo thông qua: Sách Trắng Việt Nam, các
chuyến thăm quốc tế, diễn ngôn của lãnh đạo Trung Quốc có chia sẻ về vấn đề Việt Nam -
Campuchia để đánh giá, phân tích nhằm củng cố cho lập luận.
Bước 5: Tiến hành tổng hợp và sắp xếp các số liệu theo phạm vi nghiên cứu để đánh giá và phân
tích được tác động của Trung Quốc đến vị thế của Việt Nam thông qua nhân tố Khmer Đỏ diễn ra
Nghiên cứu về những tác động của Trung Quốc lên vị thế Việt Nam thông qua nhân tố
Khmer Đỏ giai đoạn từ 1975 đến 1979 nhìn chung bị hạn chế nhiều xuất phát từ nguyên nhân khan
hiếm nguồn tài liệu. Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, nhóm sẽ cố gắng tiến hành thu thập các dữ
liệu sơ cấp và thứ cấp để phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Dữ liệu sơ cấp sẽ được nhóm tiến hành
thu thập và phân tích trong Sách Trắng Quốc phòng Việt Nam trong phạm vi nghiên cứu từ năm
1975 đến 1979 nhằm đảm bảo tính xác thực và có thêm kiến thức, lập luận cho bài nghiên cứu. Dữ
liệu thứ cấp sẽ được tổng hợp thông qua các bài báo cáo, bài báo, kỷ yếu hội thảo khoa học, các
bài nghiên cứu đi trước chia sẻ điểm chung về chủ đề. Thông qua các nguồn dữ liệu trên, nhóm sẽ
tập trung phân tích các chính sách, chủ trương, diễn ngôn của các đối tượng nghiên cứu nhằm tạo
cơ sở củng cố cho luận điểm và giả thuyết mà nhóm đặt ra, qua đó đánh giá được tính hiệu quả và
cung cấp bức tranh tổng quát hơn về đề tài nghiên cứu.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mcgregor, C. (1990). China, Vietnam, and the Cambodian Conflict: Beijing’s End Game
2. Van Quyet, L., & Nguyet, N. M. (2021). Vietnam-china relations in 1975-1978: approached
from the perspective of disputes and conflicts. Revista De Investigaciones Universidad Del
3. Nguyen Manh Hung (1979). The Sino-Vietnamese Conflict: Power Play among Communist
4. Karl D. Jackson (1979). Cambodia 1978: War, Pillage, and Purge in Democratic Kampuchea.
221-223. https://www.jstor.org/stable/45314768
6. Patrick Hein (2017). Riding with the Devils: China’s Role in the Cambodian and Sri Lankan
13