Professional Documents
Culture Documents
Lý do chọn đề tài
Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các vấn đề của khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương đã thu hút sự chú ý ngày càng nhiều từ những người quan tâm đến quan hệ
quốc tế, sự hợp tác của các khu vực và quốc gia trên thế giới đặc biệt các sinh viên
đam mê tìm hiểu lịch sử, học các chuyên ngành chính trị quốc tế và chính sách đối
ngoại. Trong bối cảnh Châu Á - Thái Bình Dương đang đứng trước những bất ổn tiềm
tàng như những tranh chấp giữa các nước về lãnh thổ trên biển và đất liền, vấn đề
xung đột sắc tộc, tôn giáo ở một số quốc gia… thì việc xác định các đối tác quan hệ và
tranh thủ các mối quan hệ quốc tế để giải quyết ổn thoả những tranh chấp, xung đột đó
là vấn đề hết sức cần thiết. Sự tương tác giữa các cường quốc trong khu vực Châu Á
với Mỹ chiếm khá lớn trong quan hệ quốc tế. Các quốc gia, Hàn Quốc,Trung Quốc và
Nhật Bản - đã có một tầm quan trọng đặc biệt không chỉ với quốc gia của họ mà còn
liên quan, ảnh hưởng mật thiết đến Mỹ.
Sự thất bại của Nhật vào tháng 8 năm 1945 kéo theo sự nổi lên của một nền Hòa
bình kiểu Mỹ ở CA-TBD trong thời kì hậu Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Mặc dù
Chiến tranh Lạnh ở CA-TBD được đặc trưng bởi cấu trúc tam cực, với Mỹ, Trung
Quốc và Liên Xô đứng đầu mỗi cực, cũng như sự dịch chuyển tương quan lực lượng
trong trật tự hình tam giác này, nhưng yếu tố trung tâm lại chính là địa vị ưu việt, hay
như quan điểm của một số người, là vị thế bá quyền của Mỹ. Không giống như Tây
Âu, nơi vai trò lãnh đạo an ninh của Mỹ được đặt trong cấu trúc đa phương xoay
quanh NATO, một hệ thống các liên minh song phương được coi như là xương sống
của quan hệ an ninh trong khu vực CA-TBD. Cố gắng duy nhất trong việc xây dựng
liên minh đa phương thời kì Chiến tranh Lạnh đã thất bại: Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á (SEATO) được thành lập năm 1954 và bao gồm Australia, Anh, Pháp, New
Zealand, Pakistan (cho tới năm 1973), Philippines, Thái Lan và Mỹ. Sự hợp tác không
bao giờ thực sự đạt được vì mức độ da dạng cao giữa các thành viên, SEATO cuối
cùng tan rã vào năm 1977. Một hệ thống các hiệp ước an ninh song phương mà Mỹ
khởi xướng với các đồng minh chủ chốt của nó tại CA-TBD là Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan và Philippines sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã tỏ ra là một sự thay thế
triển vọng hơn cho chủ nghĩa đa phương.
Đặc biệt là bối cảnh khu vực Đông Bắc Á nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương
nói chung trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh bởi lẽ trong giai đoạn này, Mỹ đã và đang
triển khai một chiến lược toàn cầu và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng không
tránh khỏi liên quan. Mục tiêu của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương lúc này
là ngăn cản chủ nghĩa xã hội, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, khống chế các
đồng minh và đây cũng là ba mục tiêu lớn của chiến lược toàn cầu mà chính phủ Mỹ
đặt ra trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Mỹ muốn ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản vì có
liên quan đến vấn đề quốc tế, cụ thể là vấn đề Nam – Bắc Triều Tiên; thứ hai là việc
nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 làm cho Mỹ lo ngại làn
sóng chủ nghĩa cộng sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình Châu Á – Thái Bình Dương. Do
đó, Mỹ cần có những đồng minh cũng như sự ảnh hưởng của mình tại đây, điển hình
là Nhật Bản, Hàn Quốc nhằm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Bắc Triều Tiên, Trung
Quốc… (Bối cảnh khu vực)
Với tham vọng “vươn cánh tay quyền lực” của mình ra toàn thế giới, bành trướng
thế lực toàn cầu, Mỹ đã sẵn sàng chi một khối lượng viện trợ khổng lồ cho các nước
đồng minh thân tín và Hàn Quốc cũng không ngoại lệ. Thông qua việc tìm hiểu các
vấn đề đó, chúng ta khám phá ra những mối quan hệ được đổi mới trong bối cảnh
quốc tế đầy biến động và thay đổi liên tục.
Thứ hai là, nghiên cứu đề tài để thấy được bức tranh toàn cảnh của quan hệ Hàn
Quốc – Mỹ trên lĩnh vực kinh tế (1948 - 1979). Mối quan hệ này được xác lập từ cơ
sở hình thành, các giai đoạn của mối quan hệ, đến những thành tựu đạt được ra sao?
Các vấn đề xoay quanh mối quan hệ đó. Mỹ đã góp phần phục hồi và phát triển nhanh
nền kinh tế Hàn Quốc như thế nào? Vai trò của Mỹ là gì trong những khoảnh khắc
quan trọng của những thay đổi và chuyển biến ở Hàn Quốc. Hàn Quốc đã làm gì để
tận dụng một cách tối đa những lợi thế có được trong quá trình thiết lập và mở rộng
quan hệ với Mỹ.
Từ một chủ thể lệ thuộc vào sự viện trợ từ Mỹ dần dần thoát khỏi và tiến tới hợp
tác với “người chở che” vậy thì bản thân Mỹ có những động thái hay quan ngại về sự
vươn lên của Hàn Quốc hay không đó cũng là chấm hỏi lớn trong suy nghĩ của nhiều
cá nhân. Cũng từ tổng thể bức tranh từ khi mới “chớm nở” cho đến gặt trái ngọt trong
quan hệ hai nước, phần nào cũng thấy được hiệu quả ngoại giao của hai nước trong
việc thiết lập quan hệ với nhau.
Thứ ba là, thông qua đề tài “Quan hệ kinh tế Hàn Quốc – Mỹ (1948 – 1979), nhóm
chúng tôi muốn phục dựng lại lịch sử quan hệ Hàn Quốc – Mỹ, đặc biệt là quan hệ
kinh tế bởi vì sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc có mối liên hệ chặt chẽ với quan hệ
Hàn Quốc – Mỹ. Hoạt động này diễn ra cụ thể như thế nào thì dựa trên những điều
nhóm chúng tôi tìm hiểu được, chúng tôi mong rằng sẽ góp một phần nhỏ vào tiến
trình nghiên cứu quan hệ Hàn Quốc – Mỹ. (Lý do khoa học)
Thứ tư là, đây là một đề tài thực tập nghiên cứu của nhóm chúng tôi, trải qua hai
năm học vừa qua, chúng tôi cũng bắt đầu có những chuyên môn, thao tác nhất định
trong nghiên cứu lịch sử. Vì lẽ đó chúng tôi hi vọng rằng đề tài của chúng tôi sẽ là
kinh nghiệm nghiên cứu cho các bạn sinh viên khóa sau hoặc những ai có sự quan tâm
đến những vấn đề này có thể dễ tiếp cận hơn. (Lý do thực tiễn)
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ kinh tế Hàn Quốc –
Mỹ (1948 – 1979)” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường với mong muốn được
góp phần vào việc nghiên cứu mối quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ Hàn Quốc –
Mỹ nói riêng trong giai đoạn 1948 – 1979.
(ii) về bối cảnh khu vực, sau chiến tranh thế giới thứ hai dưới sức ép quân sự
của Mỹ và Liên Xô, bán đảo Triều Tiên đã bị chia cắt thành hai miền Nam-
Bắc, lấy vĩ tuyến 38 độ Bắc làm đường ranh giới tạm thời. Đông Bắc Á từ
năm 1948 đến 1979 là thời kỳ có sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ, tạo ra các
cuộc chiến và bất ổn kéo dài trong khu vực. Tuy nhiên, cũng chính nơi này
chứng kiến sự phát triển kinh tế của nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc
và Trung Quốc, trở thành những nước có nền kinh tế lớn mạnh và được gọi
là "con rồng" của châu Á;
(iii) về sự hình thành quan hệ Hàn Quốc - Mỹ là do ban đầu, giữa hai nước đều
có mục đích riêng trong việc liên kết mối quan hệ. Mục đích của Hàn Quốc
khi hướng về phía Mỹ là để tìm sự giúp đỡ và ổn định trong giai đoạn phục
hồi sau chiến tranh, và hy vọng Mỹ sẽ là chỗ dựa vững chắc trong tương lai.
Về phía Mỹ, liên minh với Hàn Quốc giúp ngăn chặn sự ảnh hưởng của các
quốc gia cộng sản và bảo vệ sự tồn tại của Hàn Quốc.
• Chương 2: Quan hệ kinh tế Hàn Quốc – Mỹ (1948 – 1979)
Chương gồm 2 nội dung chính:
Giai đoạn 1948-1961:
(i) trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào quan hệ viện trợ, mặc dù trong giai đoạn
này Hàn được Mỹ viện trợ với những con số khổng lồ nhưng nền kinh tế Hàn Quốc
trong những năm 1950 vẫn chưa thật sự phát triển mạnh, phần lớn những khoản viện
trợ đều dùng trong việc xây dựng lại các cơ sở hạ tầng cốt yếu. (ii) về quan hệ đầu tư
ở giai đoạn 1948-1961 vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc, cũng bởi vì tác động của chiến
tranh Triều Tiên khiến cho những khoản đầu tư của doanh nhân Mỹ liên tục giảm
mạnh, và tránh đầu tư trực tiếp vào Hàn Quốc. (ii) Về quan hệ thương mại, Hàn Quốc
mắc phải vấn đề về sự chênh lệch trong xuất nhập khẩu đã tạo ra một khoảng thâm hụt
khổng lồ trong ngân sách nhà nước, và Hàn phải dùng khoản viện trợ từ Mỹ để bù đắp
cho lỗ hỏng kinh tế trong khoảng những năm 1950. Suy cho cùng, trong những năm
1948-1961, mối quan hệ giữa hai nước chỉ là mối quan hệ một chiều theo nghiêng về
Mỹ, một mối quan “cho – nhận”, và bản chất thật sự của nguồn viện trợ là “phương
tiện” mà Mỹ sự dụng để thâu tóm khu vực Đông Bắc Á không chỉ riêng Hàn Quốc.
Giai đoạn 1961-1979:
(i) Đối với giai đoạn này thì quan hệ viện trợ có sự suy giảm khi mà tổng thống
Park Chung Hee nhận ra rằng không phải cứ tiếp dựa vào những nguồn viện
trở của Mỹ thì sẽ vực dậy được nền kinh tế. Đây là giai đoạn đánh dấu chấm
hết cho mối quan hệ viện trợ giữa Hàn Quốc và Mỹ, dần chuyển sang quan hệ
hợp tác có lợi và bình đẳng cho nhau;
(ii) Đối với quan hệ đầu tư lại là lĩnh vực trọng tâm trong giai đoạn này. Sự vắng
mặt nguồn đầu tư của Mỹ trong nhiều năm kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên
diễn ra, đến đầu những năm 1960 giới kinh doanh Mỹ đã quay trở lại Hàn
Quốc. Khi mà lợi ích kinh tế được đặt lên hàng đầu buộc các công ty Mỹ đầu
tư vào Hàn Quốc. Song Hàn Quốc vẫn luôn cố gắng xâm nhập vào thị trường
Mỹ thông qua chiến lược hướng ngoại đã mở ra cánh cửa cho các công ty Hàn
khác để đầu tư vào Mỹ. Trong đó, quan hệ đầu tư song phương, sự đầu tư của
Mỹ vào Hàn Quốc tăng lên cũng đồng nghĩa với sự giảm dần để đi đến ngừng
hẳn phụ thuộc vào nguồn viện trợ của Mỹ. Nhưng ngược lại, việc Hàn Quốc
đẩy mạnh chiến lược hướng ngoại vẫn không làm cho việc đầu tư của Hàn
Quốc vào Mỹ cao lên và những năm sau đó cũng tăng nhưng không đáng kể.
Có thể thấy việc việc đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc mà đặc biệt là Mỹ
trong giai đoạn 1961-1979 rất mờ nhạt và sự chênh lệch rất lớn khi so sánh tỷ
lệ đầu tư Mỹ ở Hàn Quốc và ngược lại;
(iii) Về quan hệ thương mại, thời điểm này Hàn Quốc vào những năm 1960 chỉ là
một thị trường không mấy tiềm năng và chỉ chiếm dưới 1% tổng giá trị xuất
nhập khẩu. Trao đổi thương mại trong giai đoạn này được nhận xét là tương
đối ổn định. Song sự chênh lệch xuất nhập khẩu của Hàn đối với thị trường
Mỹ gây nên những cuộc xung đột thương mại diễn ra ngày càng trầm trọng.
(ii) Về hạn chế của quan hệ Hàn Quốc – Mỹ, chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành
vay mượn nợ các nước khác nhằm bù vào lỗ hỏng kinh tế vì các chính sách
thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vay mượn từ những nước tư bản khác cũng
đã bộc lộc được những hạn chế của nó. Về phía Mỹ, từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai nguồn viện trợ của Mỹ vào Hàn Quốc lên đến hàng tỷ USD. Đặc
biệt các khoản viện trợ này đều nguồn viện trợ không hoản lại.
(iii) Tác động của quan hệ Hàn Quốc – Mỹ, Đối với Hàn, những khoản viện trợ
của Mỹ đã giúp Hàn Quốc tăng trưởng kinh tế, tăng cường quan hệ quốc tế,
xây dựng hay tạo cơ sở hạ tầng quan trọng, và tăng cường quan hệ sản xuất.
Về những năm sau đó các doanh nghiệp của Hàn dần có những chuyển biến
tích cực, quy mô lớn, vốn đầu tư tăng. Trái ngược là sự phụ thuộc vào nguồn
viện trợ tài chính của Mỹ không thể giúp Hàn Quốc có được sự phát triển
kinh tế bền vững. Đối với Mỹ, phải liên tục thay đổi các chính sách đối bởi
không chỉ Hàn là đồng minh Mỹ cần hỗ trợ. Việc mỹ viện trợ Hàn Quốc
cũng đã củng cố vị thế của Mỹ với tư cách là một nhà lãnh đạo thế giới trong
mục đích chống sự lan rộng của chũ nghĩa cộng sản. Về sau Mỹ cắt giảm
viện trợ đã tác động đến Mỹ buộc Mỹ phải thay đổi chính sách và chiến lược
của mình đối với đồng minh của Mỹ cũng chính vì thế đã phát sinh ra nhiều
cuộc xung đột thương mại. Đối với tác động khu vực, quan hệ kinh tế Hàn
Quốc – Mỹ chuyển từ bất bình đẳng sang quan hệ hợp tác và bình đẳng đã
tác động đến khu vực Đông Bắc Á, tạo xu hướng bình thường hoá quan hệ
trọng tâm là các nước Nhật Bản, Trung Quốc và Triều Tiên.
NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Bối cảnh và sự hình thành quan hệ Hàn – Mỹ
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới lại một lần nữa nằm trong một cục diện
chiến tranh mới đó là Chiến tranh Lạnh. Chiến tranh Lạnh đã phân chia thế giới thành
hai phe đối lập, một bên là những nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu, bên còn lại
là những nước chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng đầu. Cả hai phe đều ra sức chạy đua
vũ trang nhằm tranh giành vị trí “bá chủ” toàn cầu. Chính cục diện thế giới lúc bấy giờ
đã có tác động không nhỏ đến tình hình khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói
chung và bán đảo Triều Tiên nói riêng.
Sự hình thành hai phe đối lập cũng như sự ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội đã
khiến cho Mỹ cảm nhận được sự uy hiếp và không thể không triển khai một chiến
lược toàn cầu mới đặc biệt là ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Sự hiện diện của
Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cùng với chiến lược chống cộng toàn cầu
đã tạo nên một cục diện chính trị mới ở khu vực này.
Trên thực tế, không phải đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc thì Hàn Quốc
và Mỹ mới bắt đầu có những dấu hiệu hợp tác với nhau mà trên thực tế, mối quan hệ
giữa hai quốc gia này đã được bắt đầu từ rất sớm thông qua một hiệp ước được ký
giữa Mỹ và Triều Tiên năm 1882 – Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị, Thương mại và
Hàng Hải, đây cũng được xem là hiệp ước đầu tiên mà Triều Tiên ký với một quốc gia
phương Tây. Bên cạnh đó, việc ký kết một hiệp ước với một trong những cường quốc
phương Tây lúc bấy giờ cũng nằm trong chính sách đối ngoại của Triều Tiên nhằm
kiềm hãm sự ảnh hưởng cũng như đe dọa từ Nhật Bản và Nga. Trái ngược với mong
muốn của Triều Tiên, đối với Mỹ, việc ký kết hiệp ước với Triều Tiên như một phần
nhỏ trong nỗ lực của phương Tây nhằm “mở cửa” Châu Á cũng như đạt được mục
đích ban đầu của Mỹ là thiết lập quan hệ với Triều Tiên trên lĩnh vực thương mại và
điều đó hoàn toàn không có tác động gì đến việc Mỹ sẽ can thiệp vào cuộc tranh giành
quyền lực của Nhật Bản, Nga và cả Trung Quốc tại bán đảo Triều Tiên.
Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã giúp cho Triều Tiên thoát khỏi
sự chiếm đóng của Nhật Bản và giành được độc lập. Đồng thời, sau Hội nghị Yalta
(2/1945) và những thỏa thuận sau đó của các nước thắng trận, Mỹ đã nhanh chóng đưa
quân đội vào phía Nam bán đảo Triều Tiên và bắt đầu quyền kiểm soát tại khu vực
này. Những năm sau đó, với sự hậu thuẫn của Mỹ, nhà nước Đại Hàn Dân Quốc (Hàn
Quốc) chính thức ra đời ở phía Nam bán đảo Triều Tiên vào ngày 15/8/1948 và kể từ
đây quan hệ giữa Hàn Quốc và Mỹ cũng chính thức được thiết lập.
Ban đầu, mục đích của Hàn Quốc khi ngả về phía Mỹ là do Mỹ lúc bấy giờ là một
cường quốc lớn mạnh trong thế giới tư bản cũng như trên toàn thế giới. Với tài lực đủ
mạnh mẽ của Mỹ làm cho Hàn Quốc tin rằng Mỹ sẽ là nhân tố giúp Hàn Quốc phục
hồi lại sau chiến tranh cũng như sẽ là chỗ dựa vững chắc cho Hàn Quốc trong tương
lai. Về phía Mỹ, việc Mỹ liên minh với Hàn Quốc mục đích là để ngăn chặn sự ảnh
hưởng của các quốc gia cộng sản lên nước này cũng như đảm bảo sự tồn tại của Hàn
Quốc với tư cách là một quốc gia phi cộng sản nằm trong sự ảnh hưởng của Mỹ, đây
cũng là một trong những chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Nhằm giữ vững tầm ảnh hưởng của Mỹ tại Hàn Quốc cũng như ngăn chặn sự lan
rộng của chủ nghĩa cộng sản, ngay sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Mỹ đã tìm
mọi cách để xây dựng và củng cố thế đứng chân cho chính quyền Hàn Quốc trên mọi
phương diện. Cùng với việc đứng ra đảm nhận thay gánh nặng quốc phòng và tăng
cường viện trợ kinh tế cho Hàn Quốc, Mỹ đã dàn xếp với các nước lớn khác để tạo ra
thế cân bằng chiến lược ở Bán đảo Triều Tiên. Hiệp ước phòng thủ chung giữa Mỹ và
Hàn Quốc (1/10/1953) và Hiệp ước Hữu nghị, Thương mại và Hàng hải giữa Mỹ và
Hàn Quốc (28/11/1956) đã được ký kết trong giai đoạn này. Với hàng loạt các văn
kiện ngoại giao được ký kết trong giai đoạn 1953 – 1956, liên hệ giữa Hàn Quốc và
Hoa Kỳ trở nên đặc biệt sâu sắc trong những năm 50, 60 của thế kỷ XX, xây dựng nền
móng cho mối quan hệ liên minh bất đối xứng trong đó Hàn Quốc phụ thuộc chặt chẽ
vào Mỹ.
KẾT LUẬN
Quan hệ kinh tế Hàn Quốc - Mỹ từ 1948 - 1979 đã được khái quát qua hai giai đoạn
và giai đoạn đầu tiên 1948 - 1961 thể hiện “quan hệ một chiều” hơn là quan hệ song
phương bởi chủ thể Hàn Quốc luôn phụ thuộc và nhận hỗ trợ quá nhiều từ Mỹ - một
đồng minh và là một siêu cường có mặt tại châu Á ngay thời điểm đó để có thể giúp
đỡ Hàn Quốc vực dậy sau chiến tranh Triều Tiên. Giai đoạn 1948 - 1961 được Mỹ và
cả Hàn Quốc quan tâm đến vấn đề phòng thủ an ninh và chính trị hơn là đặt nặng về
kinh tế. Cùng với những nỗi lo và ám ảnh sau chiến tranh nên tình hình kinh tế lẫn
chính trị Hàn Quốc bất ổn và quá lệ thuộc vào Mỹ việc tạo nên một quan hệ kinh tế
thực sự với Mỹ lúc này là khó khăn cho Hàn Quốc. Vì vậy kết quả thu được trong
quan hệ kinh tế Hàn - Mỹ là không đáng kể, và chỉ được biểu thị qua việc viện trợ và
nhận viện trợ.
Trải qua những nỗ lực của phía Hàn Quốc để phát triển kinh tế và chứng minh sức
mạnh quốc gia Hàn Quốc dưới thời đương nhiệm của Tổng thống Park Chung Hee
1961 - 1979 quan hệ kinh tế Hàn Mỹ đã có những thay đổi đáng kể về tính chất
chuyển dần từ viện trợ sang hợp tác song phương với các lĩnh vực đầu tư, thương mại
đôi bên cùng có lợi, Hàn và Mỹ đã có những nút mở cho quan hệ kinh tế không còn
nhiều sự phụ thuộc và chi phối từ đối phương.
Nhìn chung, quan hệ kinh tế Hàn Quốc – Mỹ đã trải qua những thay đổi mạnh mẽ,
từng bước đi từ mối quan hệ bất cân xứng đến quan hệ song phương bình đẳng, hợp
tác và cùng phát triển. Với những chuyển biến khó lường của môi trường quốc tế và
khu vực, Hàn - Mỹ đã có những thay đổi chính sách của riêng chính quốc và cả đối
sách với liên minh của mình để duy trì hướng tới một quan hệ vững chắc cùng có lợi
cho cả hai.
Không thể phủ nhận vai trò tích cực của Mỹ trong việc hỗ trợ, và nâng tầm kinh tế
Hàn Quốc trong giai đoạn khó khăn sau chiến tranh Triều Tiên và trong việc tạo điều
kiện cho nền kinh tế Hàn Quốc về sau chuẩn bị cho sự tăng trưởng đột phá hơn vào
những năm 1960 và 1970 là không thế phủ nhận. Tuy nhiên, một bài học quan trọng
mà chúng ta có thể học được từ mối quan hệ ban đầu này là Hàn Quốc chỉ có thể bắt
đầu phát triển kinh tế sau khi họ đảm nhận trách nhiệm quản lý nền kinh tế của chính
mình, sau khi Mỹ cắt giảm viện trợ nước ngoài cho Hàn Quốc sau năm 1959.