You are on page 1of 26

TAM GIÁC CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG QUỐC - NGA TRONG

CỤC DIỆN KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG HIỆN


NAY

Về kinh tế, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phục hồi mạnh mẽ
nhất sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.

Đối với Mỹ, châu Á - Thái Bình Dương là vùng biển hết sức quan trọng
và là khu vực có các đồng minh thân cận. duy trì tự do hàng hải ở châu
Á - Thái Bình Dương đóng vai trò sống còn đối với việc chi phối cục
diện thế giới của Mỹ

Đối với Trung Quốc, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có tầm quan
trọng lớn nhất về kinh tế, an ninh và chính trị. Về góc độ an ninh, Trung
Quốc có chung đường biên giới đất liền với 14 quốc gia và vùng lãnh
thổ thuộc khu vực Đông Nam Á, Nam Á và Trung Á. Đây là “vành đai”,
chiếm một vị trí rất quan trọng đối với an ninh quốc gia của Trung Quốc.
Bên cạnh đó, nước này muốn nắm vai trò dẫn dắt khu vực, nâng cao vị
thế chính trị của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trở thành đối trọng
với châu Âu và Bắc Mỹ  vị thế của Trung Quốc sẽ ngày càng tăng lên
để hiện thực hóa “giấc mộng Trung Hoa”.

Đối với Nga, châu Á - Thái Bình Dương được coi là “lối thoát” trước sự
bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây. Khi Mỹ và châu Âu
đẩy mạnh thực hiện các lệnh trừng phạt đối với Nga liên quan đến sự
kiện bán đảo Crưm được sáp nhập vào Nga, châu Á - Thái Bình Dương
trở thành khu vực quan trọng cho sự chuyển hướng về xuất khẩu của
Nga. Về an ninh - chính trị, Nga tăng cường can dự, nâng cao vai trò ở
châu Á - Thái Bình Dương là nhằm mục tiêu kiềm chế Mỹ, cân bằng với
Trung Quốc, xử lý ổn thỏa quan hệ với Nhật Bản cũng như tìm lại vị thế
cường quốc trong cục diện mới của thế giới, khu vực.

THỰC TRẠNG CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC MỸ - TRUNG QUỐC


- NGA TẠI KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
Quan hệ Mỹ - Trung Quốc - Nga vừa mang tính hợp tác, vừa cạnh tranh,
kiềm chế lẫn nhau, vì lợi ích, mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia.
Trong đó, cặp quan hệ Mỹ - Trung Quốc thể hiện sự cạnh tranh quyết
liệt về kinh tế, địa - chính trị; Mỹ và Nga đang ở thế cạnh tranh về sức
mạnh quân sự, tranh giành ảnh hưởng tại các “điểm nóng” trên thế giới;
Trung Quốc và Nga đang ngày càng xích lại gần nhau hơn, nhằm thay
đổi trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo. Tập trung trên bốn phương diện: địa
- chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ
Công bố các mục tiêu chiến lược quốc gia

Từ sau nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma, thế giới đã
chứng kiến sự phản tỉnh chiến lược của giới lãnh đạo, hoạch định và
nghiên cứu chính sách của Mỹ đối với sự “trỗi dậy” của Trung Quốc.
Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc diễn ra gay gắt và trực diện hơn
sau khi Tổng thống Đ. Trump lên nắm quyền. Chiến lược An ninh quốc
gia của Mỹ xác định Trung Quốc là đối thủ chính, làm ảnh hưởng đến
lợi ích, tranh giành ảnh hưởng với Mỹ, xác định Trung Quốc là trọng
tâm cần đối phó. Mỹ đã thuyết phục các đồng minh Tổ chức Hiệp ước
Bắc Đại Tây Dương (NATO) xác định Trung Quốc là nguy cơ chiến
lược, thay cho Nga như trước đây.

Bên cạnh đó, giới chức Mỹ luôn cảnh giác trước nguy cơ từ phía Nga.
Với vai trò là cường quốc quân sự, sở hữu kho vũ khí hạt nhân khổng lồ,
tài nguyên thiên nhiên phong phú và nguồn nhân lực chất lượng cao,
Nga là đối thủ cạnh tranh chiến lược trực tiếp với Mỹ trên toàn cầu.

Về phía Trung Quốc, do sức mạnh tương quan đã được rút ngắn, nước
này ngày càng tự tin đặt ra các mục tiêu trong quan hệ với Mỹ. Trung
Quốc tỏ ra quyết đoán hơn, không ngại va chạm với Mỹ trong bảo vệ
“lợi ích cốt lõi” của mình nhằm từng bước thay thế vị trí siêu cường của
Mỹ, trước hết là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chỉ rõ Mỹ là đối
thủ cạnh tranh chiến lược trực tiếp, nêu rõ vùng lãnh thổ Đài Loan
(Trung Quốc), Biển Đông là hai trong số các “lợi ích cốt lõi” của quốc
gia này.
Đối với Nga, xác định Mỹ và NATO là mối đe dọa an ninh hàng đầu. Ý
tưởng hình thành Liên minh kinh tế Á - Âu xuất phát từ tham vọng chiến
lược của Nga trở thành siêu cường liên lục địa, cạnh tranh trực diện với
Mỹ ở cấp độ toàn cầu và khu vực, nhất là ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương.

Quan hệ Nga - Trung Quốc mang đặc tính của một “liên minh cơ hội”
nhằm làm suy giảm vị thế chiến lược của Mỹ. Nga khôn khéo thực thi
chính sách đối ngoại thực dụng, không “chọn bên” trong cạnh tranh
chiến lược Mỹ - Trung Quốc đang ngày một căng thẳng.
Đề xướng các ý tưởng, sáng kiến và mô hình phát triển

Làn sóng toàn cầu hóa 3.0 tương ứng với trật tự thế giới do Mỹ chi phối
đang đi vào giai đoạn thoái trào. Về bản chất, Mỹ đang chủ động làm
chậm lại quá trình toàn cầu hóa thông qua việc tăng cường chủ nghĩa
bảo hộ, dùng sức ép chính trị để xét lại nhiều FTA. Các định chế quốc tế
do Mỹ đóng vai trò chủ đạo đều đang phải chịu thách thức suy giảm vai
trò quản trị toàn cầu

Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đề xướng mô hình phát
triển “tự do” và “mở” khi triển khai chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương tự do và rộng mở”. “Tự do” hàm ý không bị cưỡng ép,
quản trị tốt (tôn trọng các quyền cơ bản, minh bạch, chống tham nhũng).
“Mở” nhấn mạnh vấn đề các tuyến giao thông đường biển và đường
không mở, tiếp vận (kết cấu hạ tầng) mở, đầu tư mở, thương mại mở. Ý
tưởng về khu vực “tự do” và “mở” thể hiện sự đối kháng trực tiếp với
hành động của Trung Quốc
Trong khi đó, Trung Quốc chủ động, tích cực thay đổi và xây dựng các
“luật chơi” trên thế giới, tích cực tham gia và điều chỉnh quản trị toàn
cầu, đẩy mạnh cạnh tranh và tranh giành ảnh hưởng quốc tế, hướng tới
vị trí siêu cường lãnh đạo thế giới. Sau khi Tổng thống Đ. Trăm lên cầm
quyền với phương châm “Nước Mỹ trên hết”, thi hành chính sách theo
chủ nghĩa dân tộc, dân túy, Trung Quốc đã chủ động lấp “khoảng trống
quyền lực”, thể hiện trách nhiệm là người thúc đẩy toàn cầu hóa trên
toàn thế giới.
Về phần mình, Nga phản đối gay gắt những hành động theo chủ nghĩa
dân tộc, chủ nghĩa dân túy của Mỹ. Bên cạnh đó, Nga đẩy mạnh phối
hợp với Trung Quốc, kết nối với các nền kinh tế mới nổi trong nhóm
BRICS để đối trọng với Nhóm các nền kinh tế phát triển hàng đầu thế
giới (G-7) do Mỹ lãnh đạo.

Triển khai hành động trên thực địa

Thứ nhất, xây dựng, củng cố các cơ chế tập hợp lực lượng. Mỹ và Trung
Quốc thúc đẩy hình thành và phát triển cấu trúc an ninh do mình dẫn dắt.
Về phần mình, Trung Quốc thúc đẩy hình thành tập hợp “đàn sếu bay”,
dựa trên nền tảng sức mạnh và ảnh hưởng về kinh tế, thu hút các nước
trong khu vực. Trung Quốc tích cực thúc đẩy xây dựng “quan hệ quốc tế
kiểu mới”, “cộng đồng chung vận mệnh” trong “thời đại mới” với tâm
thế “tiến gần trung tâm vũ đài thế giới”; đồng thời, triệt để sử dụng các
diễn đàn, cơ chế hợp tác quốc tế để tập hợp lực lượng nhằm đối trọng
với Mỹ. Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc trong hình thành, phát
triển cơ chế tập hợp lực lượng còn thể hiện qua sự cọ xát gay gắt giữa
hai đại chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở”
theo trục Đông  - Tây và Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) theo
trục Bắc  - Nam.

Thứ hai, củng cố tiềm lực quốc gia, ngăn chặn sự phát triển của đối thủ.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc đã vượt qua ranh giới của các
tranh chấp thương mại và lộ rõ đó chỉ là một cuộc chiến thu nhỏ trong
một cuộc chiến rộng lớn hơn nhằm cạnh tranh vị trí lãnh đạo thế giới.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc nhắm đến những mục tiêu
chiến lược sâu xa hơn của Mỹ, đó là: Ngăn khả năng tiếp cận của Trung
Quốc đối với các kỹ thuật mũi nhọn mới, cản phá Chương trình Sản xuất
tại Trung Quốc 2025 “Made in China 2025”, làm cho Trung Quốc đi sau,
phụ thuộc vào kỹ thuật của Mỹ và phương Tây, kéo dài hoặc triệt tiêu
khả năng rượt đuổi, bắt kịp và vượt Mỹ của Trung Quốc.

Đối với Nga, Mỹ cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực xuất khẩu năng
lượng sang thị trường các nước châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là
xuất khẩu dầu đá phiến và khí đốt hóa lỏng, được Mỹ xác định là công
cụ hữu hiệu để “kiểm soát” thị trường năng lượng thế giới. Một số
chuyên gia, nhà phân tích nhận định đây là “công cụ” để Mỹ “hạ gục”
Nga trong cạnh tranh chiến lược toàn cầu hiện nay, mở rộng từ thị
trường năng lượng châu Âu sang thị trường năng lượng châu Á  - Thái
Bình Dương.

Thứ ba, can dự tại các “điểm nóng” của khu vực. Về vấn đề Đài Loan
(Trung Quốc), Mỹ coi đây là “con bài chiến lược” để kiềm chế Trung
Quốc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng Mỹ - Trung Quốc vẫn đang
tiếp diễn. Mỹ vẫn bán vũ khí cho Đài Loan và duy trì khả năng quân sự
của vùng lãnh thổ này trước sức ép của Trung Quốc. Đối với vấn đề hạt
nhân trên bán đảo Triều Tiên, đây là khu vực ảnh hưởng chính trị, kinh
tế truyền thống, “vùng đệm” an ninh của Trung Quốc; cũng là mối đe
dọa an ninh đối với Hàn Quốc, đồng minh thân cận của Mỹ tại khu vực.
Về phía Nga, với những tính toán địa - chính trị tại khu vực, Nga tiếp tục
phối hợp chặt chẽ với Trung Quốc trong giải quyết hồ sơ hạt nhân Triều
Tiên. Đối với vấn đề Biển Đông, kiểm soát vùng biển này là bước đi
mang tính quyết định để Trung Quốc hiện thực hóa ý đồ, tham vọng
kiềm tỏa các tuyến hàng hải thế giới trọng yếu qua khu vực.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT TRONG ĐỊNH HƯỚNG ỨNG XỬ CỦA VIỆT


NAM

Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc  - Nga ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương tác động đến sự phát triển và an ninh quốc gia Việt Nam
theo các chiều hướng khác nhau, cả mặt tích cực và tiêu cực trên nhiều
lĩnh vực.

Một là, quán triệt và thực hiện tốt phương châm xác định “đối tác, đối
tượng”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, không để bị đẩy vào thế phải “chọn
bên” trong cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc - Nga.

Hai là, tăng cường ngoại giao đa phương, chủ động đề xuất các sáng
kiến kết nối khu vực, sáng kiến bảo đảm an ninh quốc phòng
Ba là, thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu
vực đang định hình để bảo đảm lợi ích của các quốc gia thành viên trong
đó có Việt Nam.

Bốn là, nâng cao tiềm lực an ninh - quốc phòng để bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chiến lược của đất
nước

ĐỐI THOẠI SHANGRI-LA 2023: XÂY DỰNG CHÂU Á-THÁI


BÌNH DƯƠNG CÂN BẰNG, ỔN ĐỊNH

Nhiều vấn đề đang nổi lên ảnh hưởng tới tình hình an ninh khu vực. Đó
là vấn đề cạnh tranh giữa các nước lớn; tuân thủ luật pháp quốc tế; sử
dụng sức mạnh quân sự trong việc xử lý các vấn đề giữa các cường quốc
với nhau và giữa các cường quốc với các nước trong khu vực; tranh chấp
lãnh thổ; môi trường hay những vấn đề mới về chiến tranh trong tương
lai.

Năm nay chủ đề của Shangri-La rất rộng từ vai trò lãnh đạo của Mỹ ở
khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; xây dựng khu vực châu Á -
Thái Bình Dương cân bằng và ổn định; giải quyết những căng thẳng
trong khu vực; trật tự an ninh hàng hải nổi lên ở châu Á; các sáng kiến
an ninh mới của Trung Quốc đến quan hệ đối tác mới cho an ninh châu
Á - Thái Bình Dương và phát triển các hình thức hợp tác về an ninh.

Trung Quốc từ chối đối thoại với đại diện Mỹ

Đối thoại Shangri-La năm ngoái đã chứng kiến cuộc gặp song phương
đầu tiên giữa Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc khi đó là ông Ngụy
Phượng Hòa và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin, làm dấy lên
hy vọng về một cuộc đối thoại quân sự mới giữa hai cường quốc

Tuy nhiên, những hy vọng này dường như đã đạt được rất ít trong 12
tháng qua. Thay vào đó, quan hệ Trung-Mỹ ngày càng xấu đi, xuống
mức thấp nhất sau chuyến thăm vùng lãnh thổ Đài Loan của cựu Chủ
tịch Hạ viện Nancy Pelosi hồi tháng 8 năm ngoái. Trung Quốc sau đó đã
đình chỉ một số kênh liên lạc giữa quân đội hai nước và những kênh liên
lạc này tới nay vẫn chưa được khôi phục hoàn toàn.

Dẫu vậy, trong những tuần gần đây không phải không có những dấu hiệu
cải thiện trong quan hệ hai nước, đặc biệt là sau cuộc gặp giữa Cố vấn
An ninh quốc gia Mỹ Jake Sullivan và Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban
Công tác đối ngoại trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Vương
Nghị.

Sự quan tâm của các khu vực khác

châu Á - Thái Bình Dương được dự báo là khu vực đóng góp lớn nhất
vào tăng trưởng toàn cầu trong 30 năm tới. Cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn nhằm gia tăng ảnh hưởng, nâng cao vị thế, uy tín ngày
càng quyết liệt, kéo theo các nước phải thay đổi chiến lược nhằm bảo
đảm lợi ích tại khu vực quan trọng này.

Một số quốc gia, tổ chức khu vực, nhất là các nước lớn đã điều chỉnh
chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác,
nhằm thực hiện mục tiêu lợi ích quốc gia, dân tộc, tạo lập cho mình vị
thế có lợi trong cục diện khu vực đang định hình.

Đối thoại Shangri-La năm nay vì vậy còn được xem là cơ hội để các
lãnh đạo an ninh châu Âu đưa ra thông điệp then chốt liên quan đến các
bước tiếp theo trong cách tiếp cận của họ đối với vấn đề quốc phòng Ấn
Độ Dương - Thái Bình Dương.
CHUYÊN GIA PHÂN TÍCH LỢI THẾ QUÂN SỰ CỦA MỸ VÀ
TRUNG QUỐC Ở CHÂU Á

Sức mạnh quân sự Trung Quốc gia tăng ở châu Á – Thái Bình
Dương

Khó có thể phủ nhận sức mạnh quân sự Trung Quốc đang gia tăng ở khu
vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Điều này trước hết thể hiện ở việc Bắc Kinh sẵn sàng thử phản ứng của
Mỹ và các đồng minh châu Á. Gần đây Trung Quốc đã cho các chiến
đấu cơ áp sát máy bay trinh sát của Úc và Canada khi chúng đang làm
nhiệm vụ ở khu vực không phận quốc tế, cho máy bay thâm nhập vào
không phận Đài Loan.

Thứ hai, Bắc Kinh theo dõi sát sao các tàu chiến Mỹ và cử lực lượng
tuần duyên tăng cường hoạt động ở Biển Đông. Bên cạnh đó, Trung
Quốc cũng nỗ lực xây dựng và quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển
Đông.

Thứ ba, ở phía nam Thái Bình Dương, Trung Quốc đang tích cực xúc
tiến hợp tác, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh với các quốc đảo ở khu vực
này.

Hiện Trung Quốc có lực lượng hải quân lớn nhất thế giới và lực lượng
không quân lớn nhất châu Á, cùng kho tên lửa lớn được thiết kế để ngăn
chặn sức mạnh quân sự Mỹ ở Tây Thái Bình Dương nếu khủng hoảng
xảy ra. Trung Quốc vừa mới ra mắt hàng không mẫu hạm thứ ba và cũng
là tàu chiến tân tiến nhất của mình.

Mỹ đang mất lợi thế quân sự ở khu vực

Trong khi quân đội Trung Quốc ngày càng phát triển về sức mạnh, độ
tinh vi và sự tự tin thì khả năng răn đe quân sự do Mỹ dẫn đầu ở khu vực
Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang bị lung lay. Một lý do có thể giải
thích cho vấn đề này là trong khoảng thời gian dài trước đây, Mỹ dường
như sao nhãng chiến lược quốc phòng của mình ở châu Á khi dù coi
thách thức của Trung Quốc là quan trọng nhưng lại đánh giá là không
cấp bách.

Thêm nữa, các kế hoạch phục hồi sự hiện diện của Mỹ đã bị cản trở do
ngân sách không đủ, do phải đặt các ưu tiên khác lên trên và thiếu đồng
thuận ở Washington về cách đối phó với Trung Quốc.

Lầu Năm Góc đã tăng cường đầu tư vào các công nghệ tiên tiến như trí
tuệ nhân tạo, hệ thống mạng và không gian vũ trụ để chuẩn bị cho một
cuộc xung đột công nghệ cao với Trung Quốc có thể xảy ra vào những
năm 2030.

Hồi cuối tháng 3, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã yêu cầu quốc hội phê
duyệt khoản chi ngân sách quốc phòng lớn nhất từ trước đến nay, nhưng
có vẻ phần lớn khoản tiền gia tăng này dù có được duyệt cũng sẽ bị tình
trạng lạm phát làm mất giá. Do đó, về mặt hình thức Mỹ chi “khủng”
nhưng thực tế lại chẳng cải thiện được bao nhiêu.

Một vấn đề nữa là trong khi quân đội Mỹ phân tán trên toàn cầu thì
Trung Quốc có thể tập trung lực lượng ở khu vực lân cận mình để giành
chiến thắng, nếu xung đột xảy ra.

Vị trí quân sự của Mỹ ở châu Á đang mờ nhạt do hàng thập niên


Washington mải bận tâm đến các cuộc xung đột Trung Đông, Nam Á.

Thêm nữa, một mối bận tâm khác có thể làm sao nhãng Mỹ là cuộc
chiến ở Ukraine. Vì cuộc chiến này Mỹ đã phải viện trợ cho Ukraine
hàng chục tỉ USD, đồng thời phải tính toán lại chiến lược quốc phòng và
chiến lược an ninh quốc gia.

Làm sao để Mỹ lật ngược thế cờ?


Để xoay chuyển tình thế, Mỹ phải ưu tiên chú ý đến mối đe dọa từ Trung
Quốc, củng cố sức mạnh quân sự ở châu Á, cung cấp cho Úc, Nhật và
Ấn Độ khả năng quân sự và công nghệ tinh vi hơn để củng cố chiến lược
phòng thủ tập thể.

Mỹ cũng cần khẩn trương mở rộng “Sáng kiến răn đe Thái Bình
Dương”. Sáng kiến này sẽ hướng các khoản chi tiêu bổ sung vào việc
tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ ở phía tây Hawaii bằng cách
phân bổ lực lượng nhiều hơn, cải thiện hậu cần, phòng không cũng như
các biện pháp khác.

Bên cạnh đó, Mỹ có thể củng cố năng lực quân sự của mình trong khu
vực bằng cách tăng từ 5 lên 6 tàu ngầm tấn công đóng tại đảo Guam. Mỹ
có thể mở rộng các hoạt động hàng hải ở Thái Bình Dương và triển khai
nhiều máy bay chiến đấu, tàu chiến, máy bay không người lái và tên lửa
tầm xa tiên tiến hơn đến khu vực.

Các chuyên gia đánh giá rằng Washington đã có bước đi đầu tiên và rất
táo bạo nhằm chia sẻ gánh nặng an ninh cho các đồng minh thông qua
thỏa thuận quốc phòng AUKUS giữa Úc, Anh và Mỹ được công bố vào
năm ngoái. Theo đó nước này sẽ làm việc với Anh để cung cấp cho Úc
các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân và cùng phát triển các
công nghệ quân sự tiên tiến khác.

TRUNG QUỐC VÀ THAM VỌNG TRẬT TỰ AN NINH MỚI Ở


CHÂU Á

Tập Cận Bình đưa ra ý tưởng về một trật tự an ninh Châu Á do chính các
quốc gia Châu Á quản lý, qua đó muốn thay đổi trật tự trong nước và
quốc tế để duy trì đà tăng trưởng kinh tế và hiện thực hóa giấc mơ hồi
sinh Trung Quốc.

Quan ngại về An ninh


Nguyên nhân thúc đẩy sự phản đối ngày càng lớn của Trung Quốc là khá
sâu xa và có tính hệ thống. Theo các nhà lãnh đạo Trung Quốc, những
trở ngại an ninh chủ yếu bắt nguồn từ hệ thống đồng minh an ninh và đối
tác do Mỹ đứng đầu. Những bình luận trên phương tiện truyền thông
chính thống của Trung Quốc thậm chí còn gay gắt hơn. Các lập luận
củng cố cho quan điểm này thể hiện ba lo ngại như sau: trật tự hiện nay
do Mỹ đứng đầu tạo điều kiện cho Mỹ ngăn chặn Trung Quốc; bản chất
của việc liên minh khuyết khích các nước thách thức Trung Quốc trong
vấn đề chủ quyền và an ninh; hệ thống liên minh do Mỹ đứng đầu không
có khả năng đảm bảo an ninh lâu dài cho khu vực.

Ở Trung Quốc, luôn hiện hữu một nỗi sợ rất lớn đó là Mỹ muốn kiềm
chế nước này. Trung Quốc coi việc Mỹ truyền bá các giá trị dân chủ tự
do, nhân quyền, và văn hóa phương Tây được thúc đẩy một phần bởi
tham vọng kiềm chế sức mạnh Trung Quốc. Bắc Kinh dường như không
mấy thuyết phục trước các tuyên bố liên tục của giới chức cấp cao
Washington rằng Mỹ không hề có ý định hoặc mong muốn theo đuổi
chính sách kiềm chế Trung Quốc. Nhưng ngay cả khi Washington có thể
thuyết phục được Bắc Kinh thì sự tồn tại của cấu trúc an ninh hiện nay
có thể dẫn đến khả năng Mỹ theo đuổi chính sách kiềm chế trong
trường hợp quan hệ song phương xấu đi.

Trung Quốc phản đối hệ thống liên minh và coi đây là mối đe dọa đối
với an ninh và chủ quyền của mình. Điều này đặc biệt đúng khi trong
liên minh của Mỹ có các quốc gia đang có tranh chấp với Trung Quốc.
Trung Quốc cho rằng một liên minh với Mỹ sẽ khuyến khích các nước
thách thức Bắc Kinh trong tranh chấp chủ quyền, gây nguy cơ bất ổn và
xung đột tiềm tàng. Việc Mỹ đã cố gắng trấn an các đồng minh thông
qua chính sách tái cân bằng và chỉ trích Trung Quốc “khuấy động bất
ổn” đơn giản là làm tăng thêm những lo ngại này.

Các nhà phê bình Trung Quốc cũng đặt câu hỏi về tính hiệu quả của cấu
trúc an ninh do Mỹ đứng đầu khigiải quyết các mối đe dọa truyền thống
và phi truyền thống. Truyền thông Trung Quốc thường xuyên chỉ trích
việc Mỹ cố gắng ngăn chặn Bắc Triều Tiên bằng việc tăng cường sự hiện
diện quân sự và các cuộc tập trận, thay vì xây dựng lòng tin bằng đối
thoại thông qua Các cuộc Đàm phán Sáu bên. Các bình luận của Trung
Quốc cũng nghi ngờ khả năng của Mỹ và các đồng minh khi đối phó với
các mối đe dọa phi truyền thống.
Tất cả những chỉ trích này dẫn đến một vấn đề lớn hơn. Bắc Kinh cho
rằng cấu trúc an ninh hiện nay do Mỹ đứng đầu không còn hữu ích,
không đảm bảo sự ổn định khu vực cần thiết cho quá trình phát triển của
Trung Quốc. Bắc Kinh coi hệ thống liên minh không có khả năng duy trì
an ninh và bản thân cấu trúc an ninh hiện nay là một mối đe dọa tiềm
năng.

Trở ngại về Cấu trúc?

Nguyên nhân việc Trung Quốc phản đối gay gắt hệ thống liên minh và
đối tác của Mỹ đa phần bởi những quan ngại từ việc Bắc Kinh muốn duy
trì đà tăng trưởng kinh tế trong nước. Quan điểm cho rằng an ninh là yếu
tố cần thiết cho sự phát triển của đất nước, các khía cạnh an ninh trong
nước và quốc tế không thể tách rời, là rất quan trọng giúp người ta hiểu
được nguyên do Trung Quốc chỉ trích hệ thống liên minh của Mỹ. Thông
qua NSC và các tiểu ban lãnh đạo khác mới được thành lập, ông Tập
hướng tới thực hiện những thay đổi mang tính hệ thống và cấu trúc để
tạo thuận lợi cho phát triển toàn diện của đất nước đồng thời cải thiện
môi trường an ninh trong nước lẫn bên ngoà.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định, một trật tự trong
nước và quốc tế ổn định sẽ giúp đảm bảo sự phát triển an ninh quốc gia.
Là một nước có xu hướng xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc phụ thuộc nhiều vào bối cảnh của nền kinh tế toàn cầu. Châu Á đã
sẵn sàng đóng vai trò chèo lái nền kinh tế toàn cầu, nói cách khác điều
này sẽ giúp cho sự tăng trưởng và thịnh vượng của Trung Quốc. Một
phần ba hoạt động thương mại của Châu Á diễn ra bên trong khu vực.
Điều này khiến hòa bình và sự ổn định ở Châu Á ngày càng đóng vai trò
quan trọng đối với tiềm năng kinh tế của khu vực. Việc duy trìtiềm năng
kinh tế của Châu Á ngày càng trở nên cấp thiết nhằm đảm bảo sự thịnh
vượng chung chongười dân Trung Quốc.
Bởi sự thịnh vượng của Trung Quốc sẽ ngày càng gắn chặt với bối cảnh
chung của khu vực, Trung Quốc có động lực mạnh mẽ trong việc kiểm
soát nhiều hơn các quan hệ an ninh khu vực. Việc Trung Quốc giao phó
tương lai an ninh cho một cường quốc bên ngoài như Mỹ và các đồng
minh của nước này giống như việc kỳ vọng nước này phó thác sự thịnh
vượng và an ninh của mình cho Mỹ và các đồng minh.

Tái Định hình Trật tự Khu vực

Chính quyền trung ương thay vào đó đã lựa chọn chiến lược phát triển
như một phương thức chủ yếu để đạt được an ninh trong nước và quốc
tế, điều cần thiết để duy trì đà tăng trưởng của đất nước. “Phát triển” ở
đây có nghĩa là sử dụng có tính toán các nguồn lựccó ưu thể, thay đổi
thực trạng an ninh, chính trị, kinh tế nhằm đem lại các lợi ích về an ninh,
kinh tế, sự ổn định và và uy tín quốc gia. Theo ngôn từ của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, đây là một quá trình mang lại “sự thay đổi về chất và
lượng trong năng lực sản xuất của xã hội tiến bộ” và do đó “mang lại lợi
ích cho người dân Trung Quốc.” Trong khi chủ yếu là về lĩnh vực kinh
tế, phát triển cũng bao gồm các chính sách và bước đi để hiện thực hóa
những thay đổi về quản lý hành chính, chính trị, xã hội và các hình thức
thay đổi “tiến bộ” khác.

Tranh chấp chủ quyền của Trung Quốc với các nước láng giềng, với Việt
Nam liên quan đến giàn khoan Hải Dương 981, với Nhật Bản liên quan
đến quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư, và với Philippines ở Biển Đông,
trong con mắt giới lãnh đạo Trung Quốc được coi như dấu hiệu của một
vấn đề lớn hơn: Thay thế trật tự chính trị và an ninh khu vực bằng một
thực tế kinh tế mới. Đối với Trung Quốc, giải pháp lâu dài nhất do vậy
không nằm ở việc “tập trung” vào các vấn đề tranh chấp cụ thể, mà là
“phát triển” một cách toàn diện trật tự chính trị, an ninh, xã hội phù hợp
với thực tế mới do sức mạnh kinh tế của Trung Quốc chi phối.
Phát triển giống như một chiến lược an ninh khu vực, cũng đem lại cách
thức để đối phó với nước Mỹ với mục tiêu giảm tối đa nguy cơ chiến
tranh. Trung Quốc hy vọng từng bước thay thế các yếu tố cũ bằng một
trật tự an ninh mới có liên kết chặt chẽ với cường quốc kinh tế Châu Á
này. Bắc Kinh hy vọng theo thời gian sẽ làm cho vai trò của Mỹ trở nên
không cần thiết.
Định hình quan hệ hợp tác với Mỹ.
Trung Quốc muốn xây dựng một mối quan hệ ổn định, tạo tiền đề cho sự
thích ứng lớn hơn của Mỹ đối với các lợi ích của Trung Quốc. Hợp tác
quân sự với Mỹ chứng tỏ vị thế của Trung Quốc là một cường quốc hàng
đầu ở Châu Á đồng thời trấn an khu vực rằng Bắc Kinh không muốn tiến
tới một cuộc xung đột với siêu cường của thế giới. Trung Quốc cũng tận
dụng việc hợp tác song phương để thuyết phục Mỹ kiềm chế các đồng
minh của nước này.

Tận dụng sức mạnh kinh tế để định hướng lại các mối quan hệ.
Là trung tâm của nền kinh tế Châu Á, Bắc Kinh có ảnh hưởng lớn trong
việc tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau ở khu vực và tái tập trung vào
quan hệ song phương nhấn mạnh về lợi ích thương mại và kinh tế. Điều
này khuyến khích các nước hỗ trợ Trung Quốc trong việc xây dựng quan
hệ hợp tác khu vực tăng cường, ở đó Trung Quốc đóng một vai trò lãnh
đạo lớn hơn.
Thích ứng một cách chọn lọc.
Trung Quốc tiếp tục tham gia vào nhiều thể chế và tổ chức mà Mỹ hiện
đang đứng đầu. Trung Quốc có lợi khi tham gia, định hình chương trình
nghị sự cùng các hoạt động của những tổ chức như vậy
Tăng cường các thể chế và cơ chế thay thế.
Tuy nhiên, cùng với đó, Trung Quốc cũng đang củng cố hoặc thiết lập
thêm các thể chế và cơ chế khác về kinh tế và an ninh, qua đó chứng
minh năng lực của nước này trong việc đem lại các lợi ích kinh tế, khả
năng lãnh đạo và đảm bảo sự ổn định bền vững của khu vực.

Xây dựng sức mạnh quân sự và khả năng chống can thiệp.
Trung Quốc xây dựng sức mạnh quân sự hướng tới mục tiêu củng cố an
ninh thông qua việc tăng cường năng lực phòng thủ. Điều này làm tăng
cái giá phải trả và rủi ro xung đột cho các nước đối chọi lại sức mạnh
của Trung Quốc, đồng thời cũng hình thành một rào cản hữu ích chống
lại Mỹ.
Trung Quốc xem việc củng cố các ảnh hưởng về kinh tế, ngoại giao, văn
hóa và an ninh là cách thức bền vững nhất để hiện thực hóa tiềm năng
kinh tế của Châu Á và nâng cao đời sống người dân nước này

Rủi ro từ Bất đồng Chiến lược

Giới lãnh đạo Trung Quốc muốn thay đổi trật tự trong nước và quốc tế
để duy trì đà tăng trưởng kinh tế và hiện thực hóa giấc mơ hồi sinh đất
nước.
Mỹ có thể nhận thấy hệ thống các đồng minh và đối tác của nước này ở
Châu Á đang ngày càng xung đột với Trung Quốc. Hơn nữa, Mỹ vẫn
duy trì sức mạnh đáng kể của một cường quốc độc tôn trong khu vực,
ngay cả khi một số lợi thế tương đối của nước Mỹ đã giảm sút trong
những năm gần đây. Mỹ tái khẳng định giá trị chiến lược trong các liên
minh và tầm quan trọng của lợi ích của các đồng minh. Điều này khiến
Trung Quốc, Mỹ, và các đồng minh của nước này phải đối mặt với các
quyết định ngày càng phức tạp và khó khăn. Nó cũng cho thấy sự suy
giảm đáng kể ảnh hưởng trong một khu vực của thế giới có tầm quan
trọng chiến lược đối với tương lai của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, để trấn
an các nước đồng minh đòi hỏi Mỹ phải sẵn sàng đương đầu với Trung
Quốc trong vấn đề tranh chấp chủ quyền và các vấn đề khác. Điều này
có nguy cơ tổn hại đến quan hệ Mỹ-Trung và gây mất ổn định trật tự khu
vực. Trung Quốc, Mỹ và các đồng minh cần phải hoạch định chính sách
một cách linh hoạt để cân bằng những lợi ích đối lập và duy trì nền hòa
bình và ổn định lâu dài trong khu vực.
HỆ THỐNG - CẤU TRÚC KHU VỰC ẤN ĐỘ DƯƠNG - THÁI
BÌNH DƯƠNG: HIỆN TRẠNG VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG

Từ cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc trong quan hệ quốc tế...

“Hệ thống quốc tế là tổng hợp các chủ thể quan hệ quốc tế và sự tương
tác lẫn nhau giữa chúng được cấu trúc theo những luật lệ và mẫu hình
nhất định”. Lúc này, với tư cách là môi trường bên ngoài, hệ thống quốc
tế sẽ có tác động tới các quốc gia trong hệ thống và tới các mối quan hệ.
Hệ thống quốc tế càng phát triển, những tác động đối với quốc gia và
quan hệ quốc tế sẽ ngày càng lớn.

Trong hệ thống luôn có cấu trúc - bộ phận được coi là quan trọng nhất
của hệ thống. Cấu trúc trong quan hệ quốc tế có ba phương diện chính,
đó là sự phân bố quyền lực, mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung.
Các nước có quyền lực lớn hơn đều muốn đề ra những luật lệ, thúc đẩy
các mẫu hình quan hệ có lợi cho mình để bảo đảm lợi ích và nâng cao vị
thế trong hệ thống - cấu trúc. Quyền lực trong cấu trúc không chỉ giúp
các nước này có tiếng nói lớn hơn mà còn giúp đem lại khả năng thực thi
các mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung. Vai trò của sự phân bố
quyền lực như phương diện chính của cấu trúc dẫn đến sự quan tâm chủ
yếu đến cấu trúc quyền lực và sự phân loại thành cấu trúc đơn cực, hai
cực và đa cực. Trong đó, cực là để chỉ những trung tâm quyền lực trong
hệ thống - cấu trúc quốc tế.

Cấu trúc có sự vận động và hoàn toàn có thể thay đổi. Sự vận động của
cấu trúc có thể thấy được qua sự chuyển dịch trong phân bố quyền lực.
Cấu trúc có thể biến mất khi có sự thay đổi lớn trong phân bố quyền lực.
Khi cấu trúc cũ không còn nữa thì hệ thống quốc tế cũng thay đổi và
xuất hiện cấu trúc mới. Cùng với đó, mẫu hình quan hệ phổ biến và luật
lệ chung cũng thay đổi theo.
Biểu hiện đậm nét của sự vận động cấu trúc chính là một số xu hướng
lớn trong quan hệ quốc tế. Các xu hướng này thường được khởi phát và
thúc đẩy bởi các cường quốc, tức là từ sự phân bố quyền lực. Trong các
xu hướng cũng luôn có những mẫu hình quan hệ và luật lệ nào đó được
coi là phù hợp với xu hướng. Khi các xu hướng này càng phát triển,
những mẫu hình quan hệ và luật lệ đó ngày càng trở nên phổ biến trong
hệ thống quốc tế. Đến thời hiện đại, đã có thêm sự tham gia ngày càng
nhiều của các nước vừa và nhỏ. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế, kinh tế
tri thức... là những xu hướng như vậy của hệ thống - cấu trúc hiện đại.

Như vậy, cấu trúc là bộ phận quan trọng nhất của hệ thống. Cấu trúc tạo
ra nhiều tác động đối với hệ thống quốc tế nói riêng, đối với quan hệ
quốc tế nói chung.
Thứ nhất, sự tồn tại của cấu trúc sẽ tạo ra áp lực, lôi kéo và kết nối các
chủ thể quan hệ quốc tế vào trong hệ thống. Qua đó, cấu trúc giúp hệ
thống quốc tế được mở rộng và phát triển.
Thứ hai, cấu trúc tạo ra sự sắp xếp trong hệ thống mà thường theo thứ
bậc quyền lực.
Thứ ba, cấu trúc được hình thành dựa trên nguyên tắc trật tự. Do đó, cấu
trúc giúp hệ thống quốc tế và quan hệ quốc tế được ổn định hơn.
Thứ tư, cấu trúc gồm cả mẫu hình quan hệ phổ biến và luật lệ chung nên
giúp thể chế hóa và hạn chế tình trạng vô chính phủ trong quan hệ quốc
tế.
Thứ năm, trong hệ thống quốc tế, quan hệ quốc tế luôn chịu tác động từ
cấu trúc. Vì thế, các chủ thể quan hệ quốc tế buộc phải tính toán và hành
động để có sự phù hợp tương đối với cấu trúc.
Thứ sáu, cấu trúc là cơ sở quan trọng giúp thúc đẩy các xu hướng trong
quan hệ quốc tế.
Thứ bảy, sự thay đổi cấu trúc đến mức độ nào đó hoàn toàn có khả năng
dẫn đến sự thay đổi hệ thống quốc tế và từ đó là toàn bộ quan hệ quốc tế
trong hệ thống.

Không chỉ có vậy, cấu trúc quốc tế không chỉ là tác động bên ngoài mà
còn có thể giúp nâng cao nội lực quốc gia. Từ khi xuất hiện hệ thống
quốc tế, sức mạnh tổng hợp của quốc gia không chỉ bao gồm những
thành tố bên trong quốc gia mà còn gồm cả các nguồn lực từ hệ thống -
cấu trúc, như sự ủng hộ quốc tế, các nguồn lực bên ngoài, các luật lệ có
lợi cho thực hiện lợi ích, khả năng kiềm chế những hành vi bất lợi từ
nước khác...  các nước đều tìm cách mở rộng quan hệ quốc tế để tranh
thủ các nguồn lực từ bên ngoài nhằm nâng cao vị thế và ảnh hưởng trong
hệ thống - cấu trúc quốc tế.

Sự tồn tại hệ thống - cấu trúc là nguyên nhân gây ra hàng loạt vấn đề
trong quan hệ quốc tế. Cạnh tranh giữa các cường quốc không còn đơn
giản chỉ là tạo ra ưu thế quyền lực mà còn cả tranh giành quyền lực
trong cấu trúc. Cấu trúc tạo ra trật tự quốc tế theo kiểu tầng trên - tầng
dưới hay trung tâm - ngoại vi và từ đó là những bất lợi có tính cấu trúc
cho các nước nhỏ. Hệ thống - cấu trúc cũng thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn
nhau nhưng kèm theo đó là sự phụ thuộc bất tương xứng với khoảng
cách giàu - nghèo gia tăng. Các nước lớn chi phối các định chế và luật lệ
quốc tế, từ đó tạo sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Các xu hướng
đem lại lợi ích cho các nước lớn nhiều hơn là cho các nước nhỏ. Trong
chừng mực nào đó, cấu trúc cũng đem lại sự giới hạn đối với chủ quyền
quốc gia, ít nhất trong quan hệ đối ngoại.

Với vai trò trên, cấu trúc chính là nhân tố bên ngoài có khả năng tác
động mạnh đến quan hệ quốc tế và các quốc gia. Tác động của cấu trúc
không chỉ diễn ra trong các vấn đề đối ngoại mà còn ảnh hưởng ngày
càng nhiều đến đời sống nội tại quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
hiện nay.

Tuy nhiên, không phải đương nhiên quốc gia sẽ tuân thủ hay nương theo
các xu hướng của cấu trúc. Quốc gia độc lập và có chủ quyền vẫn có thể
phản ứng hoặc không chấp nhận nếu các tác động từ cấu trúc không có
lợi cho mình. Bản thân các nước lớn cũng thường không hài lòng với
cấu trúc hiện hành nên cũng có xu hướng tìm cách thay đổi cấu trúc về
phương diện nào đó. Điều này thể hiện rõ nhất khi sự phân bố quyền lực
có xu hướng chuyển dịch hay tương quan so sánh quyền lực thay đổi.
Tất cả những điều này khiến cấu trúc vận động và có thể thay đổi.

... đến nhận diện cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương
hiện nay
Hiện nay, các cường quốc đều đã xây dựng chiến lược tiếp cận Ấn Độ
Dương - Thái Bình Dương như một tổng thể. Việc gần đây các nước nói
nhiều đến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được hiểu là sự công nhận
thực tế tính hệ thống của khu vực này.

Như vậy, để đánh giá cấu trúc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình
Dương hiện nay, trước hết tiếp cận từ cấu trúc an ninh - chính trị. Trong
cấu trúc an ninh - chính trị, sự sắp xếp trong phân bố quyền lực dựa trên
tương quan so sánh sức mạnh tổng hợp quốc gia giữa các nước trong hệ
thống. Tuy nhiên, sức mạnh tổng hợp của quốc gia không đơn thuần chỉ
dựa vào các thành tố có tính nội tại mà còn phải tính đến những nguồn
lực mà quốc gia có được từ hệ thống - cấu trúc.

Trong sự phân bố quyền lực này, Mỹ vẫn là nước đứng đầu. Xét trên cấp
độ quốc gia, Mỹ có những ưu thế vượt trội đáng kể trong ba thành tố cơ
bản của sức mạnh tổng hợp quốc gia, đó là quân sự, kinh tế và khoa học
- công nghệ. Trên cấp độ hệ thống, Mỹ có ưu thế hơn các cường quốc
khác với mạng lưới đồng minh trong khu vực. Chưa kể, Mỹ còn có thêm
sự “tiếp sức” từ hệ thống - cấu trúc toàn cầu mà Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương là một bộ phận.
Đứng thứ hai là Trung Quốc. Trung Quốc có ưu thế lớn nhất là dân số
đông và những lợi thế địa lý ngay trong khu vực. Đồng thời, Trung Quốc
có sự trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế để chuyển hóa thành sức mạnh quân
sự, chính trị và khoa học - công nghệ. Sau Mỹ và Trung Quốc là Nhật
Bản, Nga, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Hàn Quốc hay nhóm nước Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tuy nhiên, trên cấp độ hệ thống,
không một nước nào trong số này có được ảnh hưởng và những ưu thế
trong hệ thống - cấu trúc khu vực như Mỹ và Trung Quốc.

Sự vận động đáng chú ý nhất trong phân bố quyền lực của cấu trúc này
chính là sự trỗi dậy của Trung Quốc dẫn đến khoảng cách chênh lệch sức
mạnh giữa Mỹ và Trung Quốc dần thu hẹp lại. Với sự chuyển dịch như
vậy, cấu trúc an ninh - chính trị khu vực đang có xu hướng chuyển sang
hình thái hai cực. Sự thay đổi trong phân bố quyền lực này khiến Trung
Quốc trở nên tự tin hơn và mong muốn có vị trí lớn hơn trong cấu trúc
khu vực. Từ đó, cạnh tranh quyền lực cấu trúc giữa Trung Quốc và Mỹ
đã diễn ra. Cả hai cường quốc đều triển khai những chiến lược lớn, như
Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc và Chiến lược
“Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” (FOIP) của Mỹ
nhằm gia tăng vị thế của mình trong cấu trúc quyền lực khu vực. Cách
thức chủ yếu của cả hai chiến lược này là đều tập hợp lực lượng nhằm
tạo tương quan có lợi và kiểm soát những vị trí địa chiến lược để có
được ưu thế an ninh hoặc ít nhất là ngăn chặn bên kia. Tuy nhiên, có thể
thấy, Trung Quốc chú ý đến hệ thống nhiều hơn khi triển khai BRI trên
diện rộng nhằm lôi kéo các nước, còn Mỹ quan tâm đến cấu trúc nhiều
hơn khi lôi kéo Ấn Độ và hình thành nhóm “Bộ Tứ” (QUAD, bao gồm
các nước Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ và Nhật Bản).
Sự cạnh tranh này kéo theo những thay đổi trong mẫu hình quan hệ phổ
biến và luật lệ chung. Những vận động trên cả ba phương diện của cấu
trúc này khiến quan hệ quốc tế khu vực trở nên căng thẳng và phức tạp.
Nguy cơ xung đột vì thế mà tăng lên so với giai đoạn trước. Sự tập hợp
lực lượng trở nên ráo riết hơn. Dù động thái hiện nay của Mỹ và Trung
Quốc đều có sự kiềm chế nhất định và nhằm mục tiêu chủ yếu là ngăn
chặn đối phương nhưng cũng không thể loại trừ cạnh tranh sẽ trở nên
công khai và gay gắt hơn trong thời gian tới.

Tuy nhiên, dù cấu trúc hai cực đang định hình rõ rệt hơn nhưng chính
cấu trúc hiện thời đã góp thêm tác động ngăn không cho kịch bản tương
tự Chiến tranh lạnh xảy ra trong một vài năm tới. Mức độ chênh lệch
quyền lực trong phân bố giữa Mỹ và Trung Quốc chưa đủ tương đương
để có thể đối đầu quyết liệt. Xu hướng hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau
vẫn đủ mạnh để góp phần kiềm chế cạnh tranh gia tăng thành xung đột
quyền lực công khai.

Trong cấu trúc kinh tế, xét trên cấp độ quốc gia, Mỹ vẫn là nền kinh tế
lớn nhất với GDP bình quân đầu người cao. Trung Quốc là nền kinh tế
lớn thứ hai nhưng GDP bình quân đầu người vẫn thuộc mức thu nhập
trung bình. Nhật Bản cũng là một thế lực kinh tế lớn. Xét trên cấp độ hệ
thống, đây là ba thế lực kinh tế có ảnh hưởng vượt trội trong khu vực.
Cả ba nước này đều có vị thế lớn trong cấu trúc kinh tế khu vực khi nắm
được những thể chế kinh tế lớn trong khu vực. Cả ba nước này đều có tỷ
trọng quan hệ thương mại và dòng đầu tư khá lớn với tất cả các nước
trong khu vực, do đó có khả năng tác động đến toàn hệ thống. Trong đó,
Mỹ vẫn là nước có kim ngạch thương mại và các dòng đầu tư lớn nhất
thế giới, vượt hơn đáng kể so với Trung Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên,
trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, cán cân so sánh này lại
không chênh lệch lớn do sự trỗi dậy kinh tế nhanh chóng của Trung
Quốc. Mức độ phụ thuộc kinh tế đáng kể của các nước trong khu vực
vào Trung Quốc đã giúp gia tăng ảnh hưởng của nước này lên hệ thống -
cấu trúc kinh tế khu vực.
Cũng như cấu trúc an ninh - chính trị, sự vận động chủ yếu trong cấu
trúc kinh tế khu vực là sự cạnh tranh kinh tế tăng lên giữa hai nền kinh
tế lớn nhất là Mỹ và Trung Quốc. Thực chất sự cạnh tranh này đã diễn ra
trước đó nhưng trở nên gay gắt và công khai kể từ khi Mỹ phát động
cuộc chiến thương mại năm 2018. Nguyên nhân có tính cấu trúc của sự
cạnh tranh này chính là vai trò kinh tế khu vực ngày càng tăng của Trung
Quốc. Tất cả những điều này đã đe dọa quyền lực cấu trúc của Mỹ trong
khu vực. Mỹ đã phản ứng lại bằng chiến lược FOIP với nhiều dự án kinh
tế là thành phần của chiến lược.

Như vậy, do sự chuyển dịch đáng kể trong phân bố quyền lực kinh tế
nên cạnh tranh tăng lên trong cấu trúc kinh tế khu vực. Kèm theo đó là
sự cạnh tranh kinh tế cũng trở nên công khai hơn cùng những luật lệ
khác nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh
tế giữa Mỹ - Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống đủ lớn để tạo
ra sự ràng buộc lẫn nhau trước những thay đổi lớn.

Trong cấu trúc phi vật chất, sự phân bố phức tạp hơn và mức độ chênh
lệch không rõ ràng như hai cấu trúc lĩnh vực trên. Điều này được quy
định bởi sự đa dạng văn hóa - xã hội cũng như sức sống mạnh mẽ của
các nền văn hóa bản địa trong khu vực. Các giá trị của phương Tây có từ
thời kỳ thực dân và được tiếp sức thêm bởi toàn cầu hóa ngày nay. Các
giá trị của Trung Quốc có lợi thế về không gian lịch sử và cộng đồng
người Hoa đông đảo nên có ảnh hưởng ở Đông Bắc Á và một phần
Đông Nam Á. Tương tự như vậy là các giá trị của nền văn minh Ấn Độ
hiện diện nhiều ở Nam Á và một phần Đông Nam Á. Các nền văn hóa
còn lại tuy có thể ảnh hưởng không lớn bằng nhưng lại có sức sống
mạnh mẽ cùng ý thức giữ gìn bản sắc quốc gia được hun đúc bởi nền
tảng lịch sử lâu dài. Không những thế, sự đa dạng giá trị ở đây còn tăng
thêm không chỉ bởi đến từ nhiều nguồn khác nhau mà còn vì sự tiếp thu,
tiếp biến và hỗn dung cũng khác nhau giữa các xã hội. Đối với các xã
hội ở đây, sự ảnh hưởng của các giá trị bên ngoài là có nhưng không đến
mức lấn át và chi phối. Có ba sự vận động đáng chú ý trong cấu trúc này.
Sự vận động thứ nhất là dưới tác động của mâu thuẫn Mỹ - Trung Quốc
trong hai cấu trúc trên, cạnh tranh giá trị giữa Mỹ và Trung Quốc cũng
tăng theo. Trung Quốc đưa ra các giá trị mới như “cộng đồng chung vận
mệnh nhân loại”, còn Mỹ tiếp tục dựa vào các giá trị “dân chủ”, “nhân
quyền”. Không còn ngấm ngầm như trước, sự cạnh tranh này trở nên
công khai.

Sự vận động thứ hai là nỗ lực của các nước khác trong khu vực. Do sự
phân bố quyền lực trong cấu trúc phi vật chất ở Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương không chênh lệch nhiều như trong cấu trúc an ninh - chính
trị và cấu trúc kinh tế, các nước trong khu vực đều có cơ hội để nâng cao
vị thế của mình trong cấu trúc phi vật chất khu vực.

Sự vận động thứ ba chịu tác động nhiều của đại dịch COVID-19 khi hiện
nay, thế giới chứng kiến sự nổi lên của các yếu tố phi vật chất, như trách
nhiệm quốc tế, đạo đức, nhân đạo... Sự nhấn mạnh các yếu tố này trong
đại dịch COVID-19 đem lại khả năng hình thành nên những chuẩn mực
mới trong quan hệ quốc tế ở khu vực và trên thế giới. Quốc gia nào có
được những yếu tố phi vật chất đó hoàn toàn có thể mở rộng ảnh hưởng
trong hệ thống cũng như có khả năng tác động đến luật chơi trong cấu
trúc. Vì thế, các cường quốc trong khu vực đã đẩy mạnh các yếu tố đó để
nâng cao ảnh hưởng trong hệ thống thông qua hỗ trợ y tế, ngoại giao
khẩu trang, ngoại giao vắc-xin...

 Nói tóm lại, hiện trạng và xu hướng vận động của hệ thống - cấu trúc
khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được cho là thể hiện sự cạnh
tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong cả ba cấu trúc an ninh - chính trị,
kinh tế và phi vật chất với mục tiêu chung là tranh giành quyền lực cấu
trúc trong hệ thống - cấu trúc khu vực tổng thể. Sự cạnh tranh này làm
gia tăng tình trạng bất ổn trong khu vực. Trong những năm tới, mức độ
cạnh tranh phụ thuộc vào sự lựa chọn chính sách của Mỹ và Trung
Quốc. Dù vậy, sự cạnh tranh vẫn sẽ tiếp tục và tình trạng bất ổn trong
khu vực vẫn sẽ kéo dài bởi nguyên nhân cấu trúc không nhanh chóng
mất đi. Tuy nhiên, trong hệ thống - cấu trúc khu vực hiện thời, cùng với
tác động của hệ thống - cấu trúc thế giới, vẫn có những lực ngăn cản sự
cạnh tranh leo thang quá mức để chuyển thành xung đột lớn. Đó là mẫu
hình hợp tác và hội nhập quốc tế, vai trò của luật lệ chung, sự nổi lên
của kinh tế, yêu cầu hòa bình và an ninh, sự phụ thuộc lẫn nhau trên
nhiều lĩnh vực, yêu cầu phối hợp quốc tế để đối phó với các vấn đề
chung. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa, các quốc gia ngày
càng chịu tác động từ môi trường bên ngoài. Tác động này càng tăng lên
khi các nước đều chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và thúc đẩy hội
nhập quốc tế. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu
sắc, sự giao thoa giữa các lĩnh vực đối nội và đối ngoại ngày càng mở
rộng cho thấy môi trường quốc tế ảnh hưởng lớn đối với an ninh và phát
triển của mọi quốc gia.

MỸ, TRUNG VÀ TRỌNG TÂM CẠNH TRANH CHIẾN LƯỢC


CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG

Thưa Đại sứ, nhìn lại quan hệ Mỹ - Trung năm 2021, đặc biệt là với việc
Mỹ có Tổng thống mới từ tháng 1, ông nhìn nhận như thế nào về chính
sách của Mỹ đối với Trung Quốc và ngược lại, chính sách của Trung
Quốc với Mỹ, trong suốt 1 năm qua?

Thứ nhất, về chính sách đối ngoại, ông Biden khẳng định “nước Mỹ trở
lại” với vai trò toàn cầu và lãnh đạo của mình. Điều này khác với chính
sách cũ của ông Trump là “nước Mỹ trên hết”.

Thứ hai, nước Mỹ trở lại để củng cố đồng minh và các đối tác, trở lại với
hệ thống toàn cầu và chủ nghĩa đa phương.

Thứ ba là nước Mỹ coi trọng việc chuyển dịch trọng tâm địa chiến lược
sang Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Việc rút khỏi Afghanistan một
cách kiên quyết để dồn lực cho châu Á - Thái Bình Dương thể hiện rất rõ
điều này.

Về mặt nước lớn và cạnh tranh Mỹ - Trung, trong chỉ dẫn chiến an ninh
quốc gia và đối ngoại của Mỹ, có mấy điểm rất đáng chú ý. Đó là:
Coi Trung Quốc là thách thức lớn nhất của thế kỷ 21. Trung Quốc là
nước duy nhất có đủ tiềm lực về kinh tế, quốc phòng, công nghệ và đối
ngoại có thể thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ và trật tự thế giới mà
Mỹ và phương Tây xây dựng từ sau Thế chiến 2. Người ta gọi đây là sự
thức tỉnh chiến lược của nước Mỹ.

Thứ hai là củng cố các đồng minh và đối tác.


Thứ ba là tham gia các thể chế đa phương và chuyển dịch địa chiến lược
sang châu Á - Thái Bình Dương. Tại điểm thứ hai, ta thấy một loạt hoạt
động của nước Mỹ để thực hiện việc này. Đó là củng cố hệ thống đồng
minh châu Âu. Đáng chú ý nhất là chuyến thăm hồi tháng 6 của Biden
thăm châu Âu, củng cố quan hệ với NATO, EU, dự G7 và bao gồm cả
việc tính toán lại quan hệ với Nga mà dường như ưu tiên hàng đầu vẫn là
chiến lược cạnh tranh với Trung Quốc.

Mỹ tiến hành hàng loạt chuyến thăm châu Á - Thái Bình Dương

Về đa phương, Mỹ coi trọng vấn đề biến đổi khí hậu, tham gia lại hiệp
định Paris, trở lại hiệp định hạt nhân với Iran, trở lại với Tổ chức Y tế
thế giới, Hội đồng nhân quyền…

Về quan hệ với Trung Quốc, Mỹ vẫn giữ lại tất cả những gì về cạnh
tranh thời ông Trump, đặc biệt về đánh thuế và những giới hạn trừng
phạt liên quan đến Trung Quốc. Trong khi đó, nước Mỹ tiến hành đồng
thời 2 vấn đề: Khẳng định Trung Quốc là thách thức lớn nhất, đồng thời
nhấn mạnh 3 điểm - cạnh tranh khi cần, hợp tác khi có thể và đối thủ khi
bắt buộc.

Quan điểm của Trung Quốc

Nhìn vào mối quan hệ này, có gì đáng lo, đáng mừng?

Xuất hiện hình thế mới khi hai bên dù cạnh tranh với nhau, coi nhau là
đối thủ chiến lược nhưng lại tìm cách quản trị để không xảy ra xung đột
và đổ vỡ quan hệ.
Đến cuộc gặp trực tuyến tháng 11 giữa ông Tập Cận Bình và Joe Biden
thì câu chuyện quản trị chiến lược trở nên rất rõ ràng. Vấn đề ở đây là
hai bên còn cạnh tranh chiến lược với nhau rất nhiều, trên quy mô toàn
cầu nhưng trọng tâm chuyển dịch về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Với Trung Quốc, nước này tiếp tục khát vọng vươn lên. Kể từ sự kiện
Alaska đến nay, Bắc Kinh đã thể hiện rõ quan điểm: Một mặt cần môi
trường để vươn lên nhưng đồng thời cũng đòi hỏi thế giới công nhận vai
trò cường quốc của họ.

Nhưng Bắc Kinh cũng có yêu cầu - như Mỹ - là quản trị cuộc cạnh tranh
này để quan hệ hai bên không bị đổ vỡ.

Cọ xát hai cường quốc

Đây là câu chuyện cọ xát giữa một cường quốc đang vươn lên và cường
quốc tại vị, giữa ngôi số 1 và 2. Cuộc cạnh tranh này là lâu dài và là
cạnh tranh chiến lược trên tất cả các mặt. Nhưng hai bên không có lợi
ích gì khi quan hệ đổ vỡ hay xung đột đối đầu, kể cả đối đầu không
mong muốn, cho nên phải tìm cách quản trị.

Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung hiện tại rất khác so với cạnh tranh đối
đầu thời Mỹ - Xô. Thời Mỹ - Xô là hai bên tạo ra hai hệ thống biệt lập
và đối đầu nhau, thậm chí muốn triệt tiêu nhau. Còn cạnh tranh Mỹ -
Trung là cạnh tranh về ngôi vị và quyền lợi, nhưng giữa họ vẫn đan xen
chằng chịt những lợi ích. Ví dụ đánh thuế rất nhiều, trừng phạt rất nhiều
nhưng thương mại hai nước vẫn tiếp tục gia tăng.

Nghĩa là hai bên phải lựa chọn những mặt cạnh tranh và vẫn phải tính
toán mặt có thể hợp tác như biến đổi khí hậu hay vấn đề Iran, thậm chí là
bán đảo Triều Tiên. Hay trong câu chuyện về Đài Loan, rất nóng nhưng
Mỹ vẫn phải khẳng định chính sách “Một Trung Quốc” và không muốn
đây trở thành vấn đề xung đột quân sự.
Qua mấy điểm như vậy thấy rõ tín hiệu trong quan hệ Mỹ - Trung, đó là
chắc chắn tiếp tục cạnh tranh chiến lược nhưng đồng thời quản trị cạnh
tranh - không ai có lợi ích khi quan hệ đổ vỡ.

Thứ ba, dù cạnh tranh với nhau, nhưng Mỹ - Trung không thể tạo ra
những hệ thống biệt lập nên phải tranh thủ các nước khác. Ở châu Á -
Thái Bình Dương, cả hai nước đều đưa ra nhiều sáng kiến.

You might also like