You are on page 1of 33

TIỂU LUẬN

Môn: Quan hệ quốc tế

ĐỀ TÀI:

Quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời kỳ tổng thống Donald


Trump tiếp cận dưới góc độ lợi ích quốc gia.

Họ và tên: Bùi Việt Hà

Mã sv: 1955380022

Lớp tín chỉ: QT02001


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới (chiếm hơn 35% GDP toàn
cầu), kim ngạch thương mại song phương đạt trên 663 tỷ USD (năm 2016). Có thể
nói, bất kỳ vấn đề lớn nào trên thế giới, nếu không có sự hợp tác của hai quốc gia
này thì đều khó có thể được giải quyết. Trong hai nhiệm kỳ tổng thống của Barack
Obama, hai nước vẫn xác định duy trì một mối quan hệ “hợp tác ổn định và không
xung đột”, mặc dù quan hệ giữa hai nước cũng luôn phản ánh sự hợp tác và cạnh
tranh ở nhiều cấp độ khác nhau.

Ngày 20-1-2017, ông Donand Trump đã tuyên thệ nhậm chức, trở thành Tổng
thống thứ 45 của Mỹ. Ngay sau khi đắc cử, ông D. Trump đã có nhiều quyết định
làm náo động thế giới. Với chủ trương “America First” (nước Mỹ trước hết), Tổng
thống D. Trump đã cho thấy những nét cơ bản về chính sách đối ngoại của mình là
chống tự do mậu dịch trong xu thế toàn cầu hóa, cắt giảm các chương trình hợp tác
và giúp đỡ quốc tế để gia tăng sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ. Nhưng điều
mà dư luận quan tâm hơn cả là chính sách của ông với Trung Quốc sẽ như thế nào,
sau những tuyên bố cứng rắn mà ông đưa ra khi tranh cử, như tố cáo Bắc Kinh đã
lợi dụng tư cách thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) để thi hành
chính sách phá hoại kinh tế Mỹ; đe dọa an ninh khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, qua việc kiến tạo một hệ thống quân sự khổng lồ ngay giữa Biển Đông,
đồng thời chỉ trích Trung Quốc chưa làm đủ mạnh để ngăn chặn CHDCND Triều
Tiên phát triển chương trình hạt nhân…
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, em chọn vấn đề “Quan hệ Mỹ - Trung
Quốc dưới thời kỳ tổng thống Donald Trump tiếp cận dưới góc độ lợi ích quốc gia”
làm đề tài tiểu luận của mình.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu


- Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ nội dung chủ yếu của quan hệ Mỹ - Trung Quốc thời kỳ tổng thống Donald
Trump; phân tích thực trạng ảnh hưởng nguyên nhân, ảnh hưởng tích cực, hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của vấn đề.

- Nhiệm vụ nghiên cứu:

Tiểu luận làm rõ quan hệ Mỹ - Trung Quốc thời kỳ tổng thống Donald Trump

Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của quan hệ Mỹ - Trung Quốc, tiểu luận xây dựng
những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực của

3. Đối tượng nghiên cứu

Quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald Trump tiếp cận dưới góc
độ lợi ích quốc gia.

4. Kết cấu đề tài

Chương 1: Khái quát tình hình quốc tế và quan hệ Mỹ - Trung Quốc

Chương 2: Nguyên nhân và thực trạng quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng
thống Donald Trump

Kết luận và Tài liệu tham khảo


NỘI DUNG
Chương 1

Khái quát tình hình quốc tế và quan hệ Mỹ - Trung Quốc

1. Tình hình quốc tế:

Sự nổi lên của Nhà nước Hồi giáo tự xưng IS, cuộc chiến ác liệt ở Syria, Anh quốc
tách khỏi EU, tranh chấp Biển Đông leo thang căng thẳng, tiến triển trong việc giải
quyết chương trình hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, chủ nghĩa dân tộc và chủ
nghĩa biệt lập có xu hướng gia tăng, cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung đang có
nhiều diễn biến phức tạp đã tác động không nhỏ đến quan hệ hai nước.

Tình hình trong nước Mỹ và Trung Quốc đang có những diễn biến khó lường, tiềm
ẩm nguy cơ bất ổn. Kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm, không ổn định và những vụ
khủng bố khiến dân chung bất mãn. Từ khi Tổng thống Donald Trump lên cầm
quyền, mâu thuẫn và bất đồng giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đã gây nên
chia rẽ sâu sắc trong nội bộ nước Mỹ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Trong khi đó, nền
kinh tế Trung Quốc đang phát triển chậm lại, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và
nạn tham nũng tràn lan gây ra bất mãn trong dân chúng. Nguồn vốn không ngừng
tháo chạy ra nước ngoài và đồng Nhân dân tệ mất giá khiến giới kinh doanh bi
quan. Chiến dịch chống tham nhũng “Đả hổ diệt ruồi” vẫn đang gây chia rẽ và gặp
nhiều khó khăn.

Trong những năm gần đây, quan hệ Mỹ-Trung luôn là tâm điểm của thế giới. Các
nghiên cứu chỉ ra rằng “chính sách xoay trục” sang khu vực châu Á-Thái Bình
Dương của Mỹ từ cuối năm 2011 là nhằm kiềm chế Trung Quốc, từ đó duy trì vị
thế dẫn dắ́t của Mỹ tại khu vực này. Để trợ giúp cho chiến lược xoay trục, Mỹ tăng
cường can dự vào tranh chấp biển đảo tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, bố trí hệ
thống phòng thủ tại Hàn Quốc, áp đặt các biện pháp thuế quan mới đối với Trung
Quốc… Đáp lại chiến lược của Mỹ, sau khi lên nắ́m quyền vào năm 2012, Tập Cận
Bình đã từ bỏ chiến lược “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình, đề xướng
“Giấc mơ Trung Hoa” để đưa Trung Quốc trở thành cường quốc toàn cầu. Với
những bước đi quyết đoán được hậu thuẫn bởi nguồn lực kinh tế dồi dào, tận dụng
bối cảnh quốc tế có lợi và sự sa lầy của Mỹ, Trung Quốc đã gia tăng đáng kể quyền
lực trên phạm vi toàn cầu bằng cách tăng cường vai trò trong một số định chế quốc
tế (Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Hội nghị Thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế lớn G20)
thậm chí là dẫn dắ́t (Khối những nền kinh tế mới nổi BRICS hay Ngân hàng Đầu
tư Cơ sở hạ tầng châu Á-AIIB), bên cạnh đó là những dự án đầu tư, tài trợ trên
phạm vi toàn cầu với số vốn rất lớn. B. R. Deepak (2014) nhận định “Ngân hàng
Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), Quỹ con đường Tơ lụa (MSR) và Khu vực
thương mại tự do châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP) đã đặt Trung Quốc vào vị trí
trung tâm địa chính trị-kinh tế toàn cầu và điều này đã buộc Mỹ phải tranh giành
vai trò lãnh đạo ít nhất là trong khu vực, thậm chí là toàn cầu.”

Trong khi đó, dù vẫn đóng vai trò dẫn dắ́t thế giới, nhưng quyền lực của Mỹ đã bị
giảm sút do trì trệ kinh tế và sự thiếu quyết đoán cùng tham vọng quá sức của
Chính quyền Obama. Sức mạnh Mỹ bị phân tán cùng lúc cho nhiều mặt trận để
giải quyết các vấn đề và chống chọi với các thế lực chống đối trên phạm vi toàn
cầu, từ đó tạo nên bối cảnh quốc tế bất lợi cho Mỹ. Trong nước thì chính quyền của
Tổng thống Obama để mất niềm tin của người dân dẫn đến việc Đảng Dân chủ
đánh mất quyền kiểm soát lưỡng viện quốc hội vào tay Đảng Cộng hòa, vì vậy
chính sách xoay trục của Mỹ chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Quan hệ Mỹ-Trung trong giai đoạn này luôn trong trạng thái giằng co, đan xen hợp
tác và đấu tranh với lợi ích nghiêng về Trung Quốc. Tuy nhiên, kể từ khi Tổng
thống Donald Trump lên nắm quyền đã phá vỡ trạng thái này, khiến quan hệ giữa
hai nước trở nên căng thẳng và khó dự đoán. Mỹ đã áp dụng tư tưởng của Chủ
nghĩa Trọng thương để bảo hộ sản xuất trong nước, những rào cản thuế đối với
hàng hóa Trung Quốc sẽ được dựng lên; tiếp tục thực hiện chính sách kiềm chế
Trung Quốc, cứng rắ́n và quyết liệt hơn nhằm ngăn chặn những hành động gây hấn
của Trung Quốc trên Biển Đông và Biển Hoa Đông; đặc biệt là Mỹ có những điều
chỉnh trong quan hệ với Đài Loan mà đỉnh điểm là từ bỏ chính sách “Một Trung
Quốc”; tăng cường hơn các hoạt động quân sự tại các nơi gần Trung Quốc như
Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngoài ra, Mỹ tiến hành trừng phạt Trung Quốc về an ninh
mạng và sở hữu trí tuệ.

1.1. Những vẫn đề tồn đọng về quan hệ Mỹ - Trung

Xét theo góc độ chính trị, Trung Quốc và Mỹ có hệ thống, truyền thống văn hóa và
các giá trị khác nhau. Do đó, những khác biệt này có thể gây ra hiểu lầm và nghi
ngờ lẫn nhau về nhiều vấn đề. Các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau vẫn nghi ngờ sự trỗi
dậy của Trung Quốc và dẫn đến việc chính quyền Obama khởi xướng chiến lược
“xoay trục sang Châu Á”.

Hơn nữa, quan hệ song phương Mỹ-Trung vẫn còn thiếu sự hỗ trợ vững chắc của
các hiệp ước ràng buộc lẫn nhau. Tổng thống Mỹ mới đắc cử Donald Trump đã
tuyên bố công khai rằng chính quyền của ông sẽ xem xét lại chính sách "một nước
Trung Hoa" vốn là cả “vạch đỏ” đối với Trung Quốc. Trong bối cảnh này, quan hệ
Mỹ-Trung có thể bị trục trặc, sau khi ông Trump tại vị ở Nhà Trắng.

Từ góc độ kinh tế, Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và cả hai
đều là động lực thúc đẩy kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, hai nền kinh tế này có sự
chênh lệch về mức đô phát triển và ở hai đầu khác nhau của dây chuyền sản xuất
và chuỗi giá trị toàn cầu. Kết quả là sự phối hợp chính sách vẫn còn vấp phải nhiều
khó khăn.
Quan trọng hơn, quan hệ kinh tế và thương mại Mỹ-Trung vẫn còn thiếu sự hỗ trợ
thể chế. Hai nước là đối tác thương mại lớn của nhau, nhưng vẫn chưa đàm phán
và ký kết được một thỏa thuận thương mại tự do.

Từ góc độ an ninh, cả Trung Quốc lẫn Mỹ đều không đủ khả năng để xây dựng
một mối quan hệ hài hòa. Hai nước có chiến lược toàn cầu khác nhau và Mỹ vẫn
chưa quen với một Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ. Các chính phủ Mỹ gần đây
đều coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh tiềm tàng và do đó, đã và đang thực hiện
chính sách "bao vây" Trung Quốc, theo logic Chiến tranh Lạnh.

Trong lĩnh vực chính trị và quân sự, Mỹ đã và đang xây dựng một số hệ liên minh
dựa trên các giá trị chung với các nước xung quanh Trung Quốc. Trong lĩnh vực
kinh tế, chính phủ Mỹ đã cố gắng xây dựng các tổ chức thương mại và đầu tư "thế
hệ tiếp theo", loại trừ sự tham gia của Trung Quốc.

Trung Quốc và Mỹ đang đứng trước “ngã ba đường” của phát triển kinh tế bền
vững và đổi mới quốc gia. Cả hai nước đều đang chịu áp lực từ một nền kinh tế thế
giới phát triển chậm chạp và thương mại toàn cầu bị bó buộc. Cả hai nước đều phải
đối mặt với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Cả hai nước
có nghĩa vụ thúc đẩy một thế giới hòa bình, phát triển và hợp tác. Vì vậy, "tinh
thần cùng hội cùng thuyền" vẫn cần được áp dụng đối với quan hệ Mỹ-Trung dưới
thời tân Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Chương 2:

Nguyên nhân và thực trạng quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald
Trump
2. Động thái trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald
Trump
2.1. Về chính trị và anh ninh – quân sự
2.1.1. Vấn đề Đài Loan:

Khi đắc cử Tổng thống, ông D. Trump đã nhiều lần viết trên trang cá nhân Twitter
về việc sẵn sàng xem xét lại chính sách “một Trung Quốc” và ngày 3-12-2016, ông
đã tạo một sự cố ngoại giao khi nhận điện đàm với bà Thái Anh Văn, lãnh đạo Đài
Loan. Hành động này mặc nhiên nhìn nhận bà Thái Anh Văn là Tổng thống Trung
Hoa Dân quốc, trái với nguyên tắc “một Trung Quốc” vẫn được các Tổng thống
Mỹ tôn trọng từ năm 1979.

Đài Loan luôn là mộtvấn đề nhạy cảm trong quan hệ Mỹ - Trung, do vậy, hành
động của ông D. Trump đã bị Trung Quốc phản ứng gay gắt. Thực chất ý đồ của
ông Trump trong chính sách đối với Đài Loan là duy trì hiện trạng do Mỹ định ra,
bảo đảm chắc chắn lợi ích của Mỹ ở khu vực này, đồng thời duy trì sự tồn tại lâu
dài của Đài Loan với tư cách là quân cờ chiến lược kiềm chế Trung Quốc. Ngày
20-1-2017,tổng thống Donand Trump đã có cuộc điện đàm đầu tiên với Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình, khẳng định sự ủng hộ lâu dài của Mỹ đối với chính
sách "một Trung Quốc". Nhờ đó, đã giúp xoa dịu sự căng thẳng giữa hai nước.
Đúng như nhận định của ông John M. Huntsman, cựu Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc:
“Là một doanh nhân, D. Trump thường sẽ tìm kiếm đòn bẩy trong bất kỳ mối quan
hệ nào. Nên nhiều khả năng Tổng thống D.Trump nhìn nhận Đài Loan là một đòn
bẩy hữu ích”.

2.1.2. Cuộc gặp cấp cao đầu tiên:

Cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ - Trung giữa Tổng thống D. Trump và Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình tháng 4-2017 tại Florida (Mỹ) được đánh giá “đã diễn ra theo
cách tốt nhất có thể”. Theo đó, hai nước sẽ tăng cường kết nối, phối hợp trong các
vấn đề quốc tế, khu vực, giải quyết tốt các điểm nóng có liên quan, mở rộng hợp
tác để đối phó với các thách thức mang tính toàn cầu, như chống phổ biến vũ khí
hạt nhân, chống hoạt động tội phạm xuyên quốc gia…; tăng cường hợp tác trong
các cơ chế đa phương, như Liên Hợp quốc, Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới
nổi hàng đầu (G20)… để cùng duy trì hòa bình, ổn định, thịnh vượng trên thế giới.

Mặc dù kết quả chưa thật sự rõ ràng, nhưng cuộc gặp này được coi là dấu mốc
trong việc định hình quan hệ Mỹ - Trung thông qua việc thiết lập các kênh ngoại
giao mới. Kết quả quan trọng nhất về mối quan hệ kinh tế, đó là việc tái cấu trúc
vòng đối thoại song phương và thông báo về kế hoạch 100 ngày để giải quyết vấn
đề nổi trội thương mại và đầu tư. Theo các nhà nghiên cứu, kế hoạch này có thể
bao gồm những nhượng bộ của Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, từ nông sản đến
đầu tư nước ngoài. Nếu những đàm phán này thật sự đem lại những nhượng bộ
đáng kể từ Trung Quốc, thì đây sẽ là một chiến thắng quan trọng của Tổng thống
D. Trump.

Dù quan hệ Mỹ - Trung còn tồn tại khác biệt, song cả Tổng thống D. Trump và
Chủ tịch Tập Cận Bình đều bày tỏ sự tôn trọng lẫn nhau trong cuộc gặp này. Việc
cuộc gặp diễn ra khá sớm (chỉ hơn 2 tháng sau khi ông D. Trump nhậm chức) cho
thấy mong muốn của cả hai bên trong thúc đẩy đối thoại để cải thiện lòng tin lẫn
nhau.

2.1.3. Vấn đề hạt nhân của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên

Khi lên nắm quyền, Tổng thống Mỹ D. Trump hối thúc Trung Quốc kiềm chế
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Ông D. Trump đã đưa ra những phát biểu
cứng rắn rằng, nếu Trung Quốc không giải quyết vấn đề hạt nhân của Cộng hòa
dân chủ nhân dân Triều Tiên thì Mỹ sẽ làm. Đầu tháng 3-2017, Bộ trưởng Ngoại
giao Trung Quốc Vương Nghị kêu gọi Mỹ và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên nhượng bộ để hạ nhiệt căng thẳng. Trung Quốc đề nghị Mỹ, Hàn Quốc chấm
dứt tập trận thường niên, đổi lại việc Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên ngừng
chương trình hạt nhân. Tuy nhiên, đề xuất này đã bị Mỹ - Hàn bác bỏ.

Vào ngày 6-4-2017, Tổng thống D. Trump đã ra lệnh không kích vào Syria, sau
khi Mỹ cáo buộc chính phủ của Tổng thống Syria Bashar al-Assad đứng sau vụ tấn
công bằng vũ khí hóa học ở miền bắc Syria khiến hơn 80 người thiệt mạng. Cuộc
tấn công diễn ra ngay trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình. Sau đó, ngày 7-4, Ông D. Trump đã ra lệnh tấn công căn cứ quân sự Syria vì
“lợi ích an ninh quốc gia thiết yếu của Mỹ nhằm ngăn chặn phổ biến và sử dụng vũ
khí hóa học”(4). Các nhà nghiên cứu nhận định, ông D. Trump muốn Trung Quốc
cần phải làm nhiều hơn để ngăn chặn tham vọng phát triển vũ khí hạt nhân của
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên - đồng minh thân cận của Bắc Kinh và
động thái tấn công Syria như một lời nhắc nhở đối với Trung Quốc rằng, Mỹ cũng
có thể làm điều tương tự với Triều Tiên. Và ngay sau đó, Trung Quốc đã công khai
cảnh báo chính quyền Kim Jong Un không nên gây phiền toái với Mỹ bằng chương
trình vũ khí hạt nhân ở khu vực.

2.1.4. Về cơ chế hợp tác song phương

Trong nhiệm kỳ của Barack Obama, hai nước vẫn duy trì cơ chế Vòng đối thoại
Mỹ - Trung hàng năm, bao gồm Đối thoại chiến lược và kinh tế thường niên
(S&ED); Tham vấn về giao lưu nhân dân (CPE) và Đối thoại an ninh chiến lược
(SDD) được khởi xướng vào năm 2009 nhằm giúp hai nền kinh tế lớn nhất thế giới
xử lý những vấn đề phức tạp trong quan hệ song phương. Nội dung của Đối thoại
chiến lược và kinh tế thường niên Mỹ - Trung (S&ED) và Đối thoại an ninh chiến
lược (SDD) bao gồm các vấn đề như chính trị, an ninh, kinh tế, đầu tư, an ninh
mạng, sở hữu trí tuệ, tình hình Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên và Syria,
tranh chấp biển, đảo tại châu Á - Thái Bình Dương, quan hệ quân sự song phương,
và biến đổi khí hậu. Trong khi đó, cuộc Tham vấn về giao lưu nhân dân (CPE)
hàng năm sẽ thảo luận về các biện pháp thúc đẩy mối quan hệ và giao lưu giữa
nhân dân hai nước trong các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, các
vấn đề liên quan tới thể thao, phụ nữ và y tế…

Khi Tổng thống D. Trump lên nắm quyền, hai nước đã nhất trí cơ cấu lại Cuộc đối
thoại Chiến lược và Kinh tế (S&ED) trở thành Đối thoại Chiến lược Mỹ - Trung,
dựa trên 4 cơ chế đối thoại mới: Đối thoại Ngoại giao và An ninh; Đối thoại kinh
tế toàn diện; Đối thoại thực thi Pháp luật và An ninh mạng; Đối thoại Xã hội và
Giao lưu nhân dân. Sự khác nhau giữa Đối thoại Chiến lược và Đối thoại Chiến
lược và Kinh tế là Đối thoại Chiến lược tạo cơ chế vĩnh viễn về vấn đề an ninh
mạng song phương.

2.1.5. Về tranh chấp trên biển

Biển Đông là một trong những vấn đề được đề cập nhiều nhất trong quan hệ Mỹ -
Trung mấy năm gần đây và cũng là một trong những vấn đề “dậy sóng” nhất trong
quan hệ hai nước. Mỹ nhiều lần công khai chỉ trích hoạt động xây dựng và tôn tạo
trái phép đảo nhân tạo của Trung Quốc làm ảnh hưởng đến tự do, an toàn hàng hải
trên Biển Đông, cũng như “đang gây mất an ninh, ổn định” trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương. Trước các hành động của Bắc Kinh, Washington đã tăng cường
sự hiện diện quân sự ở khu vực này. Theo kế hoạch đến năm 2020, Mỹ sẽ triển

khai 60% lực lượng hải quân và không quân tại Thái Bình Dương(5). Những động
thái trên của Mỹ khiến “vết nứt” trong quan hệ song phương ngày càng rộng. Gần
đây, bàn về vấn đề Biển Đông, êkíp của Donald Trump đề xuất gia tăng số tàu
chiến của hải quân Mỹ từ 280 tàu lên 350 để đối phó tốt hơn với các “cuộc tấn
công của Trung Quốc” tại Biển Đông. Thượng nghị sỹ John McCain và Nghị sỹ
Paul Ryan đã nhiều lần bày tỏ mong muốn Mỹ tăng cường hệ thống đồng minh tại
châu Á để đối phó với Trung Quốc.

Mặc dù D.Trump tuyên bố Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), song với thực tế đang diễn ra ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, khi mà
lợi ích của Mỹ còn gắn chặt với khu vực này thì Mỹ sẽ không rời bỏ sự hiện diện ở
đây. Tuy nhiên, vì lợi ích nước Mỹ, D. Trump có thể vẫn tiếp tục thực thi chính
sách “xoay trục”, nhưng với cách làm mới và phương pháp mới. Vấn đề Biển
Đông vẫn sẽ là một trong những trọng tâm trong chính sách “xoay trục” của Mỹ.
Sự cạnh tranh chiến lược của Mỹ với Trung Quốc ở Biển Đông sẽ diễn ra trong
tình trạng “vừa hợp tác vừa đấu tranh”, nhưng mặt cạnh tranh, đấu tranh sẽ gay gắt
hơn.

2.1.6. Về thương mại - tài chính

Quan hệ thương mại Mỹ - Trung phát triển nhanh chóng nhưng không cân bằng và
trải qua nhiều sóng gió. Từ năm 2012, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại
lớn thứ hai của Mỹ (sau Canada), là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Mỹ (sau
Canada và Mexico) và là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Mỹ(7). Đến năm 2016,
giá trị thương mại hàng hóa hai bên đạt khoảng 578,6 tỷ USD(8). Bước vào quý I
của năm 2017, thặng dư thương mại hàng hóa của Mỹ với Trung Quốc tăng 1,2 %
so với cùng kỳ năm 2016, đạt 78,8 tỷ USD, xuất khẩu của Mỹ trong quý I tăng
mạnh, tăng 17 % so với cùng kỳ năm 2016. Tuy nhiên, quan hệ thương mại giữa
hai nước cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Tổng thống D. Trump đã cáo buộc Trung
Quốc cố tình giảm giá để làm cho xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc đắt hơn, và
làm cho hàng nhập khẩu của Trung Quốc sang Mỹ rẻ hơn. Ông cáo buộc Trung
Quốc bán phá giá tại Mỹ, làm hại cho ngành công nghiệp Mỹ.
Từ khi Trung Quốc gia nhập WTO (2001), Đại diện Thương mại Mỹ (USTR)
thường xuyên cáo buộc Chính phủ Trung Quốc không tuân thủ nghĩa vụ của thành
viên WTO về báo cáo các khoản trợ cấp cho WTO. Tháng 4-2017, Mỹ cùng với
EU tiếp tục đối đầu với trợ cấp thép của Trung Quốc, phát hiện khoản trợ cấp hơn
1 tỷ USD cho Công ty sắt và thép Hà Bắc, Công ty thép Shougang, Công ty thép
Trùng Khánh và Công ty sắt và thép Bảo Sơn trong giai đoạn 2011-2014.

Tổng thống D. Trump cũng đã chỉ đạo thực hiện cuộc điều tra để xem xét liệu thép
nhập khẩu có phải là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia hay không. Nếu Bộ Công
thương Mỹ xác định điều này, Tổng thống D. Trump có thể “điều chỉnh nhập
khẩu” bằng cách áp các biện pháp thương mại như thuế nhập khẩu và hạn ngạch.
Mỹ cáo buộc Chính phủ Trung Quốc cung cấp viện trợ tài chính và đầu vào giá rẻ
cho các nhà sản xuất thép chủ lực, do đó thay thế, cản trở nhập khẩu thép của Mỹ
vào thị trường Trung Quốc và toàn cầu, ngăn cản giá cả toàn cầu và tăng thị phần
của Trung Quốc trên thị trường toàn cầu.

Kế hoạch về lịch trình 100 ngày cho việc giải quyết các vấn đề về thương mại và
đầu tư giữa hai nước được đề xuất bởi Chủ tịch Tập Cận Bình trong cuộc gặp với
Tổng thống D. Trump tại Florida (Mỹ) tháng 4-2017. Tuy nhiên, cho đến nay, cả
hai bên vẫn chưa có tiến triển gì.

Mỹ cũng cáo buộc Trung Quốc thao túng tiền tệ, “đùa giỡn” với thương mại quốc
tế. Trong thông báo tháng 4-2017, Bộ Ngân khố Mỹ kết luận rằng Trung Quốc mới
chỉ thỏa mãn 1 trong 3 điều kiện đối với hành vi thao túng tiền tệ là thâm hụt
thương mại song phương đạt mức 20 tỷ USD hoặc hơn. Trong khi đồng Nhân dân
tệ của Trung Quốc suy yếu hơn đồng USD và các đồng tiền khác, Bộ Ngân khố
Mỹ cho rằng, Trung Quốc đã có các bước đáng kể để can thiệp vào thị trường tiền
tệ để tăng giá trị của đồng tiền nước này, đã chi một khoản ước tính là 435 tỷ USD
trong năm 2016 để hạn chế tình trạng mất giá đồng tiền của mình. Trước khi bản
báo cáo được đưa ra, Tổng thống D. Trump cũng nói với tờ Wall Street Journal,
ông quyết định không coi Trung Quốc là quốc gia thao túng tiền tệ do thực tế
Trung Quốc không thao túng và bởi ông không muốn gây hấn với Bắc Kinh trong
cuộc thảo luận giữa hai nước nhằm giải quyết vấn đề CHDCND Triều Tiên. Tuy
nhiên, Bộ Ngân khố Mỹ vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và cho rằng, trong
quá khứ Trung Quốc thường xuyên can thiệp để làm suy yếu đồng tiền của mình,
tạo ra sự chuyển hướng thương mại khiến cho công nhân và các công ty Mỹ gặp
“khó khăn lớn lâu dài”. Bộ Ngân khố Mỹ khẳng định sẽ tiếp tục giám sát các chính
sách của Trung Quốc gây hạn chế khả năng tiếp cận thị trường đối với các nhà xuất
khẩu Mỹ và tiến trình chậm trong việc giảm thâm hụt thương mại của Mỹ với
Trung Quốc.

Nhiều chuyên gia quốc tế đã nhận định, quan hệ Mỹ - Trung dưới thời Donald
Trump sẽ có xu hướng căng thẳng hơn và cuộc chiến thương mại giữa hai quốc gia
có tiềm lực kinh tế đứng đầu thế giới có thể xảy ra với mức độ khó lường. Nhà
phân tích G. Rachman viết trên tờ Financial Times (Anh) số đầu năm 2017: "Khả
năng xung khắc giữa chủ nghĩa dân tộc Mỹ và Trung Quốc tại vùng Thái Bình
Dương có vẻ tăng lên kể từ khi ông Donald Trump thắng cử".

Hợp tác và cạnh tranh sẽ luôn luôn là hai mặt song song tồn tại trong quan hệ giữa
các quốc gia, đặc biệt là giữa hai siêu cường Mỹ - Trung. Có thể thấy, với chủ
trương “Nước Mỹ trước hết” (America First), Tổng thốngDonald Trump chắc chắn
sẽ lấy lý do “an ninh quốc gia” làm “vũ khí” để tiến hành xem xét nghiêm khắc
hơn đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, với tư duy kinh tế hoá chính trị đã được xem
là nền tảng trong quan hệ Mỹ - Trung, thì kể cả an ninh, quốc phòng đều có thể
được Tổng thống D. Trump đặt lên bàn thương lượng vì lợi ích “nước Mỹ là số
một”. Mọi xung đột vốn có trong quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh đều có thể
được hóa giải dựa vào nguyên tắc nêu trên. Đây chính là sự khác biệt trong quan hệ
Mỹ - Trung dưới thời Tổng thống Trump so với các chính quyền tiền nhiệm.

2.2. Nguyên nhân quan hệ Mỹ - Trung Quốc căng thẳng


2.2.1. Hệ thống quốc tế

Bước sang thế kỷ 21, cả thế giới đã chứng kiến sự tăng tốc của toàn cầu hóa. Sự
tăng tốc này một mặt làm gia tăng nhanh chóng nhu cầu hội nhập và tương tác, mặt
khác lại làm nảy sinh và sâu sắ́c thêm các mẫu thuẫn giữa các chủ thể trên phạm vi
rộng hơn. Tuy nhiên các chủ thể trong hệ thống quốc tế, bên cạnh quốc gia còn có
các chủ thể phi quốc gia (Non-state Actor) như tổ chức quốc tế, công ty xuyên
quốc gia, từ đó tạo nên sự đan xen lợi ích giữa nhiều chủ thể khác nhau khiến cho
các chủ thể không thể chỉ làm theo ý mình hoặc chỉ nghĩ đến xung đột mà phải
điều chỉnh bản thân cho phù hợp hoặc phải hợp tác với nhau. Từ đó, vai trò của các
thể chế toàn cầu như (Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới) hay khu vực
(Liên minh châu Âu, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) được tăng cường để bảo
đảm ổn định và thúc đẩy sự tương tác giữa các chủ thể. “Các nhà lý thuyết hệ
thống cho rằng hệ thống quốc tế có tác động quan trọng lên các quốc gia; môi
trường quốc tế ràng buộc và quy định các quốc gia một cách mạnh mẽ”. Như vậy
hệ thống quốc tế tuy theo quan điểm của Chủ nghĩa Hiện thực là vô chính phủ (cấu
trúc quyền lực giữa các quốc gia được sắ́p xếp theo chiều ngang) nhưng theo quan
điểm của Chủ nghĩa Tự do thì lại không vô tổ chức, ví dụ: Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) buộc siêu cường số 1 thế giới là Mỹ phải hạ thuế đối với mặt hàng
thép của Ấn Độ vào năm 2000; Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc đã ngăn chặn thành công xung đột Liban - Israel năm 2006……

Hệ thống quốc tế là hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, các chủ thể khác nhau trong hệ
thống vừa có thể bị ảnh hưởng vừa có thể bị tổn thương bởi hành động của các chủ
thể khác, ví dụ, hành động Trung Quốc tăng cường quân sự hóa ở Biển Đông năm
2016 đã đe dọa chủ quyền lãnh thổ, tự do và an ninh hàng hải đối với một số quốc
gia khác; thông tin thị trường lao động Mỹ khởi sắ́c trong tháng 6 năm 2016 đã
khiến cho thị trường chứng khoán chủ chốt toàn cầu tăng điểm ngay tức thì. Từ
phân tích này có thể thấy, dự đoán thứ nhất hợp lý hơn dự đoán thứ hai.

Bước sang thế kỷ 21, quan hệ Mỹ - Trung đã trở thành tâm điểm của thế giới, cựu
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (2014) đã thừa nhận quan hệ Mỹ - Trung có tính
nhân-quả nhất trên thế giới ngày nay, vì vậy cần được quản lý hết sức cẩn thận và
quan hệ này là nhân tố quan trọng nhất định hình thế kỷ 21. Sự hợp tác Mỹ-Trung
cần thiết cho sự ổn định và phát triển toàn cầu như chống khủng bố, ngăn ngừa phổ
biến vũ khí hạt nhân, ứng phó với biến đổi khí hậu và khủng hoảng tài chính và
tăng cường vai trò của các thể chế quốc tế. Hơn nữa, xét từ góc độ quyền lực, cán
cân quyền lực Mỹ-Trung cũng không còn quá nghiêng về Mỹ. Xét từ góc độ kinh
tế, Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trung Quốc là chủ nợ
hàng đầu của Mỹ, Mỹ là nhà nhập khẩu lớn nhất của Trung Quốc. Hai nền kinh tế
lớn này có sự phụ thuộc vào nhau rất chặt chẽ, nhất cử̉ nhất động của hai nền kinh
tế này đều ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Xét từ góc độ quân sự, Mỹ là cường
quốc quân sự số 1 thế giới với hệ hống các liên minh quân sự rộng khắ́p toàn cầu
và được xem là “cảnh sát” toàn cầu. Dù tiềm lực quân sự của Trung Quốc không
bằng Mỹ, Trung Quốc cũng không có hệ thống các liên minh quân sự như Mỹ,
nhưng với tiềm lực quân sự hiện có, Trung Quốc vẫn có đủ sức để tạo ra mối răn
đe sống còn đối với Mỹ nếu xảy ra xung đột. Một cuộc chiến Mỹ-Trung sẽ là thảm
họa không chỉ đối với hai nước mà là toàn cầu.

Xét theo yếu tố hệ thống, Mỹ hoặc Trung Quốc nếu đơn phương gây căng thẳng
một cách phi lý thì sẽ không chỉ bị bên còn lại đáp trả, mà còn bị các thể chế quốc
tế và những quốc gia bị ảnh hưởng phản đối. Từ đó dẫn đến chính bản thân mình
cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu Mỹ hoặc Trung Quốc bất chấp các thể chế và các chủ
thể trong hệ thống quốc tế để làm theo ý mình, thì hệ thống quốc tế sẽ bị hủy hoại,
trật tự thế giới bị đảo lộn, thế giới sẽ rối loạn.

Với quan niệm truyền thống của Mỹ là Mỹ có vai trò duy trì trật tự thế giới, trong
khi đó Trung Quốc cũng ý thức được mình đang trong quá trình trỗi dậy, cả hai sẽ
không làm như vậy. Quan hệ Mỹ-Trung có thể có những căng thẳng, nhưng sẽ khó
có xung đột hoặc biến động lớn nào xảy ra.

2.2.2. Hệ thống chính trị quốc nội

Đã có những sự tranh luận về ảnh hưởng của hệ thống chính trị quốc nội đối với
chính sách đối ngoại của quốc gia, chẳng hạn như Chủ nghĩa Hiện thực tấn công
không coi trọng hệ thống chính trị quốc nội nhưng Chủ nghĩa Hiện thực phòng thủ
thì lại rất coi trọng hệ thống chính trị quốc nội, Chủ nghĩa Hiện thực tân cổ điển
hài hòa hơn khi coi trọng cả hệ thống quốc tế và hệ thống chính trị quốc nội.

Trên thực tế ảnh hưởng của hệ thống chính trị quốc nội đến chính sách đối ngoại là
không thể phủ định vì chính sách đối ngoại là nhằm để bảo vệ và đạt được các lợi
ích quốc gia. Vì vậy nhiều nghiên cứu cho rằng hệ thống chính trị quốc nội là một
bộ phận đặc biệt giải thích cho chính sách đối ngoại. Để hiểu được ảnh hưởng này
thì cần phải làm rõ cơ chế hoạch định và những yếu tố tác động đến chính sách đối
ngoại của Mỹ và Trung Quốc.

Hiến pháp Mỹ không quy định cụ thể việc hoạch định chính sách đối ngoại, nhưng
Tổng thống Mỹ dựa vào các ủy ban, bộ, hội đồng thuộc chính phủ để xây dựng và
thực thi chính sách đối ngoại, tuy nhiên cần có sự chuẩn thuận (ngân sách, tính hợp
pháp) của Quốc hội để chính sách đối ngoại đó có thể thực hiện được. Ngoài ra,
Quốc hội Mỹ cũng có thể trực tiếp tham gia vào hoạch định chính sách đối ngoại
bằng các luật hay quyết định, chẳng hạn như Quốc hội Mỹ nếu thông qua dự luật
trừng phạt Trung Quốc do Thượng nghị sĩ Mỹ Marco Rubio đệ trình “sẽ buộc
chính quyền của Tổng thống Donald Trump phải có các biện pháp cứng rắ́n với
Trung Quốc”. Ở quốc gia dân chủ như Mỹ, dư luận công chúng rất quan trọng đối
với chính sách đối ngoại. Một chính sách đối ngoại không hợp lòng dân, hậu quả
tức thời là những cuộc biểu tình của người dân sẽ tạo nên lực cản rất lớn đối với
chính sách đối ngoại, hậu quả sâu xa là người dân Mỹ sẽ bỏ phiếu cho đảng đối lập
để hạ bệ đương kim Tổng thống và đảng cầm quyền. Bầu cử̉ là sự quyết định của
người dân đối với sự cầm quyền của bất cứ chính đảng nào ở Mỹ.

Khác với Mỹ, Trung Quốc là nước Xã hội Chủ nghĩa và chỉ do Đảng Cộng sản
cầm quyền. Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo toàn diện đất nước Trung Quốc.
Vì vậy, dù Bộ Ngoại giao là cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại, “nhưng các
chính khách trong Thường vụ Bộ Chính trị mới là những người phụ trách chính
sách đối ngoại với Mỹ, Nhật Bản và Đài Loan”. Như vậy, cơ quan quyền lực tối
cao quyết định chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Mỹ là Thường vụ Bộ
chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, tiếng nói của người dân được
nuôi dưỡng bởi chủ nghĩa dân tộc luôn có tác động không nhỏ đến chính sách đối
ngoại của Trung Quốc, đặc biệt là chính sách đối ngoại đối với Mỹ. Theo Susan L.
Shirk (2008), “mỗi khi công chúng quan tâm nhiều đến một vấn đề nào đó, giới
lãnh đạo lại cảm thấy cần phải hành động cứng rắ́n để chứng tỏ sự mạnh mẽ của
họ. Giống như những trang hảo hán Tàu, họ từ bỏ thái độ trung dung thường thấy
trong các vấn đề quốc tế và thể hiện mình như những siêu anh hùng theo chủ nghĩa
dân tộc”. Một thế lực có ảnh hưởng quan trọng đến chính sách đối ngoại của Trung
Quốc là Quân Giải phóng Nhân dân (PLA). PLA có tiếng nói có trọng lượng trong
các cơ quan quyền lực của Trung Quốc như “chiếm đa số ghế trong Ban Chấp
hành Trung ương (khoảng 22%) số ủy viên chuyên trách và có 2 đại diện trong số
24 thành viên Bộ Chính trị… khoảng 10% đại biểu cơ quan lập pháp của Trung
Quốc - Quốc hội Nhân dân thuộc giới mặc quân phục” và có thành viên trong Tiểu
ban Lãnh đạo Trung ương LSGs, cơ quan được lãnh đạo bởi Tổng Bí thư và chịu
trách nhiệm báo cáo với Thường vụ Bộ Chính trị. PLA “luôn luôn có ảnh hưởng
chính trị vì mối quan hệ mật thiết của nó với giới tinh hoa trong Đảng và hào
quang chiến thắ́ng của quân đội cách mạng”, điển hình là Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản đồng thời là Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Tuy nhiên, ảnh hưởng của PLA
đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc chủ yếu được thể hiện ở vai trò là cơ
quan sở hữu sức mạnh quân sự và đảm bảo an ninh quốc gia. PLA có những lợi ích
riêng, khi an ninh Trung Quốc được cho là bị đe dọa thì lợi ích của PLA sẽ tăng
lên, từ đó tạo ra “yếu tố Diều hâu” trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Từ hệ thống chính trị quốc nội Mỹ có thể thấy, Đảng Cộng hòa, với truyền thống
là: Mỹ là lãnh đạo và cảnh sát thế giới, không nước nào được qua mặt; biên giới là
một điều tất yếu để định nghĩa và bảo vệ một quốc gia, biên giới là một thứ bất khả
xâm phạm; Mỹ là thế lực đạo đức vĩ đại nhất trong tất cả các quốc gia trên thế giới;
mối đe dọa lớn nhất đối với thế giới là độc tài, chủ nghĩa Hồi giáo; tăng cường
ngân sách quốc phòng, chiến tranh đôi lúc là giải pháp tốt và duy nhất, hòa bình
thông qua sức mạnh, vì địch chỉ sợ sức mạnh chứ không sợ lời nói, không giới hạn
sức mạnh, quy mô và mục tiêu chiến tranh, sẽ thúc ép chính quyền của Donald
Trump cứng rắ́n với Trung Quốc,, đặc biệt trong tranh chấp lãnh thổ với các nước.
Tuy nhiên, do “hai cường quốc đã lệ thuộc vào nhau ở mức độ cao, sự xâm nhập
lẫn nhau giữa hai nền kinh tế là rất sâu đậm”, “Trung Quốc cho phép Hoa Kỳ tránh
được những nguy cơ ngày càng tăng của tình trạng thiếu tiết kiệm, chính sách tài
khóa thiếu thận trọng, và tăng trưởng thu nhập hộ gia đình yếu”. Nếu căng thẳng
đến mức xung đột làm ảnh hưởng lớn đến chính nước Mỹ thì dư luận và các nhóm
lợi ích tại Mỹ sẽ không để yên. Vì vậy, Mỹ tăng cường các hành động gây căng
thẳng những sẽ không để xảy ra xung đột quy mô lớn giữa Mỹ và Trung Quốc.
Trong khi đó ở Trung Quốc, mục đích tối cao của chính sách đối ngoại Trung
Quốc là duy trì quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ nghĩa dân tộc
trong dân chúng và thế lực quân đội ở Trung Quốc cũng sẽ thúc ép lãnh đạo Đảng
Cộng sản Trung Quốc phải cứng rắ́n và quyết liệt với Mỹ, đặc biệt trong vấn đề
tranh chấp lãnh thổ và Đài Loan, Biển Đông, vấn đề thương mại. Đảng Cộng sản
Trung Quốc phải đối mặt với sự bất mãn của dân chúng và sự thúc ép của các tập
đoàn, công ty xuất khẩu để có các biện pháp cứng rắn đáp trả Mỹ.

2.3. Thực trạng quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald
Trump

Sau khi trở thành tổng thống, ngày 8/11/2016, ông Trump sang thăm Trung Quốc
lần đầu, tiếp nối tập quán truyền thống của hai người tiền nhiệm Bill Clinton và
Barak Obama trước đó. Sau gần 2 năm, trước ngày diễn ra cuộc bầu cử giữa nhiệm
kỳ vào ngày 6.11.2018, chính phủ Donald Trump đang ở trong tình trạng chiến
tranh thương mại toàn diện với Trung Quốc; một nửa số hàng hóa Trung Quốc
xuất sang Mỹ và tuyệt đại đa số hàng hóa Mỹ xuất sang Trung Quốc bị gia tăng
thuế suất, quan hệ Mỹ - Trung đã hoàn toàn “đi lệch khỏi quỹ đạo”. Cục diện hợp
tác gần 40 năm nay giữa hai thực thể kinh tế lớn nhất toàn cầu hoàn toàn thay đổi,
sự đối đầu cùng các động thái giao tranh từng bước leo thang với mức độ kinh
hoàng.

Trong thời gian tranh cử vào Nhà Trắng, ông Trump phẫn nộ cáo buộc Trung Quốc
cướp đi cơ hội việc làm của người Mỹ. Ông tuyên bố: “ngày đầu tiên sau khi nhậm
chức sẽ coi Trung Quốc là nước thao túng hối suất” và còn cam kết, sẽ khiến cho
những người lãnh đạo “xảo quyệt” của Trung Quốc không còn có cơ hội chiến
thắng Mỹ bằng trí tuệ và mánh khóe trong các cuộc đàm phán.
Thế nhưng, trong năm đầu tiên nắm quyền, Donald Trump đã 3 lần gặp gỡ ông Tập
Cận Bình tựa hồ đã thay đổi bộ mặt cứng rắn của ông đối với Trung Quốc. Bắt đầu
là cuộc gặp gỡ tại trang trại riêng Mar-a-Lago, đến gặp gỡ bên lề Hội nghị cấp cao
G20 Hamburg, rồi đến cuộc trà đàm tại Bảo Uẩn Lâu trong Cố Cung Bắc Kinh.
Hai nhà lãnh đạo không từ mọi cơ hội thể hiện “quan hệ cá nhân tốt đẹp” trên các
phương tiện truyền thông. Người lãnh đạo Trung Quốc phát hiện ra rằng, sự công
kích Trung Quốc của ông Donald Trump chỉ dừng ở trên Twitter mà thôi.

Nhưng bước sang nửa cuối năm 2018, ông Donald Trump bỗng quay trở lại với bộ
mặt cứng rắn với Trung Quốc trong thời gian tranh cử, bắt đầu thực hiện những lời
cam kết khi đó. Đầu tháng 7, Mỹ gia tăng thuế suất đối với 34 tỷ USD hàng hóa
Trung Quốc nhập khẩu, cuộc chiến mậu dịch Mỹ - Trung chính thức khai màn. Từ
đó, đường dây điện thoại nóng giữa Donald Trump và Tập Cận Bình vốn hoạt
động nhộn nhịp nay không đổ chuông nữa. Cuối tháng 9, ông Trump khi phát biểu
tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã phê phán đích danh Trung Quốc. Đến ngày
4/10, Phó Tổng thống Mike Pence khi phát biểu tại Viện nghiên cứu Hudson đã
dùng những lời lẽ chưa từng có khi nói về chính sách với Trung Quốc. Đây được
coi là tín hiệu cho thấy cuộc cạnh tranh toàn diện máu lửa Mỹ - Trung đã đến gần.

Bên cạnh đó, trong năm 2019 xung đột địa chính trị Mỹ-Trung có thể mở rộng
sang châu Phi. Ông John R. Bolton, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống
Donald Trump hồi cuối năm ngoái tiết lộ chính quyền Mỹ đã công bố một chiến
lược châu Phi mới tập trung chống lại sự mở rộng ảnh hưởng của Nga và Trung
Quốc tại “lục địa đen”. Đứng đầu chương trình nghị sự kinh tế của Bắc Kinh, châu
Phi được Trung Quốc coi là mục tiêu tiềm năng về đầu tư trong tương lai. Khu vực
này không chỉ có nguồn tài nguyên đa dạng, dồi dào, nhất là dầu mỏ và các kim
loại quý, mà còn được đánh giá là một thị trường tiềm năng với sức tiêu thụ mạnh.
Hơn 10 năm trở lại đây, Trung Quốc đã và đang dần thay thế Mỹ cũng như một số
nước châu Âu trở thành quốc gia có tầm ảnh hưởng nhất tại khu vực châu Phi. Đây

được xem là đòn bẩy chiến lược giúp Trung Quốc gia tăng sức mạnh, mở rộng ảnh
hưởng nhằm đối trọng với chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Tác động lớn tiếp theo đối với mối quan hệ Mỹ-Trung năm 2019 là cuộc đối đầu
khốc liệt giữa hai siêu cường trên đấu trường công nghệ. Trung Quốc hiện đang
dồn toàn lực vào kế hoạch "Made in China 2025" nhằm trở thành quốc gia dẫn đầu
thế giới trong các lĩnh vực trí thông minh nhân tạo, robot, hàng không vũ trụ và các
ngành công nghệ khác. Để kiềm chế Trung Quốc, Cục Công nghiệp và An ninh
Mỹ (BIS), cơ quan thuộc Bộ Thương mại, đã công bố một đề xuất có tiêu đề Đánh
giá kiểm soát đối với một số công nghệ mới, trong đó có nội dung bao gồm trí tuệ
nhân tạo, công nghệ sinh học, điện toán, định vị, hệ thống phân tích dữ liệu,
robot... Dựa trên danh sách đề xuất này, Chính phủ Mỹ sẽ xem xét và đánh giá các
sản phẩm có liên quan và đưa vào danh sách kiểm soát xuất nhập khẩu. Hiện nay,
các công tố viên Mỹ đang đẩy mạnh việc điều tra nhằm vào các công ty Trung
Quốc bị cho là có mưu đồ đánh cắp bí mật thương mại. Quan chức Bộ Tư pháp đã
tiết lộ, một số văn bản khởi tố đang được xem xét. Những động thái này của
Washington chắc chắn sẽ đẩy cuộc đối đầu công nghệ Mỹ-Trung lên một tầng nấc
mới trong năm 2019.

2.4. Lợi ích chung có giới hạn và sự thiếu tầm nhìn chung
2.4.1. Vấn đề Triều Tiên

Vấn đề Triều Tiên là điển hình nhất ở khía cạnh này. Sau khi chờ đợi sự ủng hộ
tích cực hơn từ phía Bắc Kinh trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng hạt nhân ở
Triều Tiên, Donald Trump đã lựa chọn một chiến lược gây áp lực tối đa cứng rắn
hơn nhiều, với việc đe dọa tấn công quân sự, bác bỏ nguyên tắc “kiên nhẫn chiến
lược” mà người tiền nhiệm của ông bảo vệ. Sau vụ thử hạt nhân mạnh nhất của
Triều Tiên mới đây vào năm 2017, theo sau là 2 vụ thử tên lửa liên lục địa có khả
năng chạm tới lãnh thổ Mỹ, Mỹ đã gia tăng sức ép đối với các công ty Trung Quốc
bị cáo buộc không tuân thủ các biện pháp trừng phạt đã được Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc nhất trí bỏ phiếu thông qua. Sự thay đổi ngoạn mục trong năm
2018, khi nhà lãnh đạo Triều Tiên chấp nhận nguyên tắc về một cuộc gặp với
Donald Trump, trên cơ sở phi hạt nhân hóa có thể diễn ra, đã khiến Bắc Kinh ngạc
nhiên. Lo sợ bị xem là đứng ngoài lề, sau một cuộc điện đàm giữa Chủ tịch Tập
Cận Bình và Tổng thống Donald Trump, phía Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng Mỹ
sẵn sàng phối hợp với Trung Quốc. Lời mời vội vàng dành cho Kim Jong-un, vốn
chưa từng được tiếp đón ở Bắc Kinh kể từ khi lên cầm quyền vào năm 2012, có
cùng mục tiêu là cố gắng đưa Trung Quốc trở lại vị trí trung tâm cuộc chơi.

Tuy nhiên, đằng sau những sáng kiến này cũng có sự thất bại của những lập trường
mơ hồ của Trung Quốc, không thể bỏ rơi đồng minh Triều Tiên của mình, nóng
lòng muốn duy trì sự tồn tại của một nước đệm và quan tâm hơn đến việc Mỹ rút
khỏi khu vực, kể cả thông qua việc ủng hộ khôi phục một cuộc đối thoại dựa trên
kế hoạch “đóng băng kép” việc thử hạt nhân của Triều Tiên để đổi lấy “những đảm
bảo an ninh”, trong đó có việc giảm bớt sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu
vực.

Ngay cả bây giờ, Trung Quốc cũng muốn khôi phục một kiểu đối thoại nào đó,
theo phương thức đàm phán 5 hay 6 bên, cho dù thực tế là kể từ vòng đàm phán
đầu tiên diễn ra vào năm 2003, không có kết quả cụ thể nào đạt được ngoại trừ việc
hạt nhân hóa hoàn toàn của chế độ Triều Tiên.

2.4.2. Các vấn đề hàng hải


Ở Biển Đông, mặc dù căng thẳng đã bớt gay gắt vào năm 2017, vì Trung Quốc
không chiếm đóng các cấu trúc địa hình mới, nhưng Mỹ đã tiếp tục trở lại các hoạt
động tự do hàng hải (FONOP) vào tháng 5/2017 để ủng hộ hơn nữa quyết tâm của
Mỹ đối phó với những thách thức của Trung Quốc đối với luật pháp quốc tế và các
FONOP ở biển khơi. Washington cũng tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với
phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế La Hay bác bỏ các tuyên bố lãnh thổ của
Trung Quốc ở Biển Đông và chỉ trích bất kỳ hành động ép buộc nào nhằm thay đổi
nguyên trạng bằng vũ lực. Cuối cùng, khi đối mặt với sự trỗi dậy của hải quân
Trung Quốc – và các đơn vị bảo vệ bờ biển của họ – Mỹ cũng lựa chọn tiếp tục
tăng cường sự hiện diện quân sự của mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
với việc phái 2 nhóm tàu sân bay đến khu vực này vào năm 2017, trong bối cảnh
khủng hoảng với Triều Tiên cũng như căng thẳng với Trung Quốc.

Bắc Kinh chỉ trích việc phổ biến các FONOP ở Biển Đông, cũng như việc ủng hộ
Nhật Bản – và Đài Loan – đang phải đối mặt với các cuộc tấn công bất ngờ của hải
quân Trung Quốc, coi đó là nhân tố chính sẽ phá hoại “lòng tin chiến lược” giữa
Mỹ và Trung Quốc. Và vào mùa Xuân năm 2018, hải quân Trung Quốc đã tổ chức
cuộc tập trận lớn nhất của họ trong khu vực.

Một yếu tố khác rất quan trọng đối với Nhật Bản, nước có lẽ lo ngại không có sự
can dự của Mỹ vào các kịch bản xung đột ở những “vùng xám” với Trung Quốc, là
Tổng thống Mỹ đã khẳng định trong các cuộc hội đàm của ông với Thủ tướng
Shinzo Abe hồi tháng 4/2017 – như người tiền nhiệm của ông từng làm trong một
vài dịp – rằng quần đảo Senkaku (Điếu Ngư), mà Trung Quốc cũng tranh giành
chủ quyền với nhiều lần xâm phạm các vùng biển trong khu vực hoặc các vùng
biển lân cận bằng lực lượng dân quân bảo vệ tàu đánh bắt cá, cảnh sát biển và hải
quân Quân giải phóng nhân dân, được đề cập trong Điều 5 của Hiệp ước hợp tác và
an ninh Nhật-Mỹ.
2.4.3. Tầm nhìn chiến lược có mâu thuẫn

Ở cấp độ lớn hơn, tầm nhìn chiến lược của Mỹ về Trung Quốc đã trở nên cứng rắn.
Được công bố vào đầu năm 2018, Chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ chỉ
trích Trung Quốc là một cường quốc “theo chủ nghĩa xét lại” có mục tiêu là đuổi
Mỹ ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương và làm suy yếu các đồng minh của
Washington trong khu vực bằng các chiến lược kinh tế “trục lợi”.

Về hệ thống liên minh và chính sách tái cân bằng đối với châu Á, việc tiếp tục
dường như chiếm ưu thế với cam kết thậm chí còn lớn hơn, đặc biệt về năng lực
quân sự. Điều này cũng đi ngược với hy vọng của Trung Quốc là chứng kiến Mỹ
rút khỏi vũ đài châu Á để quay trở lại Trung Đông, Iraq và Afghanistan.

Tầm quan trọng của các liên minh không chỉ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc mà cả
với Philippines cũng như sự hợp tác với Thái Lan hay Singapore – bị Trung Quốc
chỉ trích là “lỗi thời và được thừa hưởng từ cuộc Chiến tranh Lạnh” – được tái
khẳng định trong một vài dịp bởi Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, Chủ tịch
Hội đồng An ninh quốc gia Henry McMaster và bởi chính Tổng thống Trump
trong chuyến công du dài ngày của ông đến châu Á hồi tháng 11/2017.

Là biểu hiện cụ thể của khái niệm khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – bắt
chước khái niệm “kim cương an ninh” của Thủ tướng Shinzo Abe được đưa ra vào
năm 2012 – hội nghị 4 bên (Bộ tứ) đầu tiên đưa Mỹ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ đến
với nhau đã diễn ra vào tháng 11/2017 trong thời gian Tổng thống Trump có
chuyến công du đến châu Á. Là một cường quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương có lãnh thổ ở cả 2 đại dương, Pháp đã bày tỏ sự quan tâm của mình
sau chuyến thăm của Tổng thống Macron đến Ấn Độ hồi tháng 3/2018. Mục tiêu là
nhằm nâng cao sự an toàn cho các tuyến liên lạc trên biển trong khu vực Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương, củng cố hơn nữa sự tôn trọng đối với luật biển và thúc
đẩy việc xây dựng năng lực và hợp tác về hậu cần và khả năng tiếp cận các cảng,
nhằm đối phó với khái niệm “Con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc như là
một phần của chiến lược lớn Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của họ.

2.4.4. Mạng lưới các liên minh dựa trên các giá trị chung

Ngay cả khi Trung Quốc giờ đây cũng là nước ủng hộ chủ nghĩa đa phương, ít nhất
là bề ngoài, và cho dù nước này không chú trọng đến nhân quyền, thì hệ thống liên
minh của Donald Trump ở châu Á vẫn dựa trên các “giá trị chung” được nhìn nhận
là phù hợp nhất với sự ổn định kinh tế và chiến lược. Trong bài phát biểu tại Hội
nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á (APEC) diễn ra ở Đà Nẵng vào
tháng 11/2017, Donald Trump đã bảo vệ một “khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình
Dương tự do và cởi mở” coi đó như một sự lựa chọn thay thế cho “giấc mộng
Trung Hoa” của Sáng kiến “Vành đai và Con đường” dựa trên tầm nhìn mang tính
phân cấp cao độ về mối quan hệ giữa các nước. Trước quan niệm về thế giới – hay
ít nhất là khu vực – lấy Trung Quốc làm trung tâm này, Mỹ và các đồng minh của
Mỹ phản đối một khái niệm giống như mạng lưới theo chủ nghĩa quân bình nhiều
hơn mà cũng ám chỉ các trách nhiệm chung ở cấp độ cao hơn.

Mạng lưới các liên minh và quan hệ đối tác này đã tìm được sức sống mới bằng
cách bao gồm cả Ấn Độ, vốn đã phải đối mặt với tình trạng căng thẳng kéo dài
nhiều tuần với Trung Quốc trong năm 2017 tại khu vực Doklam bất chấp sự phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế ngày một gia tăng giữa 2 nước.

Mạng lưới này cũng đối phó với chiến lược hàng hải mới của Trung Quốc “về 2
đại dương”, mà mục tiêu của nó là nhằm tăng cường năng lực triển khai của Hải
quân Quân giải phóng nhân dân về phía Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Việc mở cơ sở hậu cần ở Djibouti vào năm 2017 và việc phát triển hợp tác với Sri
Lanka, Pakistan hay Maldives, thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng cảng biển,
cũng là những dấu hiệu rõ rệt của tham vọng bành trướng trên biển của Trung
Quốc.

Ngoài năng lực hàng hải đơn thuần, Trung Quốc cũng đang tiếp tục phát triển năng
lực chống tiếp cận của họ nhằm hạn chế sự can thiệp của Mỹ vào khu vực châu Á-
Thái Bình Dương. Trước việc Trung Quốc tiếp tục phát triển năng lực quân sự của
mình – với mức tăng ngân sách là 8,2%, đạt 175 tỷ USD vào năm 2018 – cũng như
mối đe dọa Triều Tiên sát sườn hơn, Mỹ tiếp tục ủng hộ việc triển khai các hệ
thống chống tên lửa ở châu Á. Việc này bao gồm cả Hàn Quốc bất chấp việc Moon
Jae-in, được biết đến là người có lập trường thận trọng hơn về sự hiện diện quân sự
của Mỹ, đắc cử tổng thống.

Bất chấp sức ép mạnh mẽ của Trung Quốc, dưới dạng chiến tranh thương mại vào
năm 2017, Hàn Quốc vẫn tiếp tục triển khai trên lãnh thổ của mình Hệ thống
phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD), điều đã được quyết định vào
năm 2016. Về phần mình, Nhật Bản cũng đang tăng cường hợp tác phòng thủ với
Mỹ, đạt được các năng lực nhằm đáp ứng tốt hơn mong muốn của Washington về
việc mua sắm vũ khí, hợp tác công nghệ và phòng thủ chung.

2.4.5. Sẵn sàng cho một cuộc chiến thương mại chính thức

Cuối cùng, vấn đề thương mại đã trở thành một trong những vấn đề kiện tụng lớn
giữa Bắc Kinh và Washington. Ứng cử viên Trump đã đắc cử nhờ vào lập trường
bảo hộ, bảo vệ các ngành công nghiệp và công ăn việc làm của Mỹ, và cáo buộc
các nước “trục lợi” lợi dụng nền kinh tế cởi mở của Mỹ, trong đó có Trung Quốc.
Việc đánh thuế 45% đối với hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc là một trong
những hứa hẹn của ông trong chiến dịch tranh cử.

Nếu trong những tháng đầu nhiệm kỳ Tổng thống Donald Trump dường như nôn
nóng muốn “đạt được một thỏa thuận” với Bắc Kinh, đặc biệt dưới sức ép của các
nhóm lợi ích nhất định – trong đó có các nhà bán lẻ công nghiệp và đại trà trong
lĩnh vực điện tử tiêu dùng – mà đã phát triển trong sự hiệp lực và nhờ vào những
đặc trưng của chế độ Trung Quốc, thì sự vỡ mộng về khu vực này cũng như về
Triều Tiên đã lan tràn và Donald Trump đã lựa chọn chấp nhận mạo hiểm mà phát
động một cuộc chiến thương mại với Bắc Kinh.

Ban đầu, biện pháp dễ thấy nhất, do nó cũng ảnh hưởng đến các đối tác lớn của
Washington, là quyết định của Mỹ áp đặt mức thuế 25% và 10% tương ứng đối với
các sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu.

Nhưng hậu quả đáng kể nhất đối với Bắc Kinh chắc chắn là việc kích hoạt trở lại
Mục 301 của Đạo luật thương mại năm 1974 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, vốn
trực tiếp nhắm vào “chủ nghĩa dân tộc công nghệ” của Trung Quốc mà tính độc
đoán của nó giúp nước này có thể huy động tất cả mọi phương tiện cần thiết để đạt
được các mục tiêu được trình bày chi tiết trong kế hoạch “Made in China năm
2025”.

Kế hoạch này, được công bố vào năm 2015, tập trung vào các bước “đại nhảy vọt”
về công nghệ trong các ngành công nghệ cao, bao gồm viễn thông, mạng và trí tuệ
nhân tạo, kể cả việc thông qua các cuộc chuyển giao công nghệ từ các công ty
nước ngoài muốn đầu tư vào Trung Quốc. Kế hoạch này, cũng như toàn bộ kế
hoạch nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc, sở hữu một khía cạnh quan trọng là
sự phát triển kép công nghệ quân sự cũng như công nghệ dân sự.

Kết quả là, Donald Trump cũng công bố những khoản thuế mới đối với các sản
phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc trong khu vực công nghệ cao và viễn thông, có
nguy cơ tác động đến lợi ích của các công ty lớn của Mỹ có cơ sở sản xuất chính
vẫn ở Trung Quốc.
Bất chấp tầm quan trọng của những biện pháp này, phản ứng của Trung Quốc ban
đầu là khá thận trọng. Trung Quốc chẳng những chưa hoàn thành việc tái cân bằng
nền kinh tế mà còn tiếp tục phụ thuộc vào hàng hóa xuất khẩu sang các thị trường
phát triển lớn, trước tiên là thị trường Mỹ, mà tiếp nhận 18,3% hàng xuất khẩu của
Trung Quốc.

Vì vậy, Bắc Kinh chủ trương giải quyết căng thẳng “thông qua đàm phán”, tránh
một cuộc chiến thương mại. Chính quyền Trung Quốc đã cử 2 phái viên đều là ủy
viên Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ sang Washington – Ủy viên
Quốc vụ viện Dương Khiết Trì và cố vấn kinh tế của Chủ tịch Tập Cận Bình Lưu
Hạc. Đối với các nhà phân tích Trung Quốc, quyết định cử các phái viên cấp cao
như vậy là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc sẵn sàng nhượng bộ trong một lĩnh vực
mang tính sống còn đối với nền kinh tế và sự ổn định xã hội của mình, và là lĩnh
vực mà Trung Quốc, một nước xuất khẩu lớn, dễ bị tổn thương hơn nhiều so với
Mỹ. Mong đợi này dựa vào thực tế rằng kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2001,
Trung Quốc chưa bao giờ thực sự có nghĩa vụ phải thực hiện những hứa hẹn đã
đưa ra và có lẽ hy vọng tình trạng này tiếp diễn.

Tuy nhiên, với những tuyên bố mới của Donald Trump về việc xem xét tăng thuế
tới mức 100 tỷ USD đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc, ban lãnh đạo Trung
Quốc đã phản ứng mạnh mẽ hơn. Chiến lược “người hùng” của Chủ tịch Tập Cận
Bình, uy tín cá nhân của ông và của chế độ không cho phép Trung Quốc không đưa
ra phản ứng gì trước động thái “làm nhục” này của Mỹ. Bất chấp thực tế rằng nền
kinh tế của chính họ và khu vực nông nghiệp dễ bị tổn thương nhất (nhưng khó có
thể nhận thấy hơn) có thể chịu ảnh hưởng nặng nề của những quyết định đó, Trung
Quốc đã tuyên bố áp đặt mức thuế 25% đối với một loạt hàng hóa nhập khẩu của
Mỹ là thịt lợn, các loại hạt, hoa quả, rượu và vài ngày sau đó là đậu tương.
Tuy vậy, dường như những tuyên bố và biện pháp này về cơ bản là một phần của
chiến thuật đàm phán. Tuy nhiên, với giọng điệu hung hăng và tham vọng hơn, tờ
Thời báo Hoàn cầu, trong phiên bản tiếng Trung, đã kêu gọi “đoàn kết xung quanh
đảng cộng sản và nhà nước” để Trung Quốc chiến thắng trong cuộc chiến thương
mại này, thêu dệt rằng phía Mỹ dựa vào “vũ lực” còn Trung Quốc dựa vào “ý chí”.
Tờ báo này cũng nhấn mạnh thực tế rằng “tương lai ở phía Trung Quốc” để gạt bỏ
mọi nghi ngờ về khả năng Trung Quốc giành chiến thắng trong một “cuộc chiến
thương mại thế giới”.

KẾT LUẬN

Việc Donald Trump trở thành Tổng thống Mỹ mở ra một giai đoạn rất bấp bênh
trong khu vực có tầm quan trọng lớn đối với thế giới và đặc biệt đối với Liên minh
châu Âu. Các cường quốc khu vực vấp phải một Trung Quốc hung hăng hơn, sẽ
cần được làm yên lòng, nhưng không chắc rằng chiến lược khiêu khích của Tổng
thống Trump đang đi đúng hướng, dẫu rằng chiến lược này dường như khẳng định
ý chí cam kết của Mỹ tại châu Á trước Trung Quốc.

Về vấn đề Đài Loan, sự leo thang căng thẳng với Bắc Kinh không phải do việc
Donald Trump đắc cử, ngược lại, nếu Đài Loan chỉ là một con tốt trong chiến lược
mặc cả giữa Washington và Bắc Kinh, như ông Trump dường như nhấn mạnh điều
này trên Twitter và sự phân tích của Michael Pillsbury khi cho rằng, do vấp phải
thách thức này, Trung Quốc có thể chấp nhận nhượng bộ lớn về các vấn đề thương
mại, hệ quả đối với Đài Bắc sẽ rất tiêu cực giữa sự rút lui của Mỹ và sự gia tăng
căng thẳng quân sự với Bắc Kinh.
Cuối cùng, quyết tâm của Donald Trump và những người thân cận của ông là đạt
được những kết quả thực sự từ phía Bắc Kinh cả về thương mại hoặc chiến lược,
xét lại chiến lược trong đối thoại - nhân danh sự cam kết - từ lâu chỉ có lợi cho
những lợi ích của Trung Quốc cả ở trong và ngoài khu vực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. http://www.nghiencuubiendong.vn/quan-h-quc-t/6419-quan-he-my-trung-se-
nhu-the-nao-duo-thoi-donald-trump
2. “Quan hệ quốc tế”, Lê Minh Châu
3. http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/2076-dong-thai-
moi-trong-quan-he-my-trung-quoc-duoi-thoi.html
4. “Quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald Trump”, N.N. Anh
/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngòai, Tập 33, Số 2 (2017) 21-33
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................ 2

1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................2

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................3

3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................3

4. Kết cấu đề tài....................................................................................................3

NỘI DUNG.............................................................................. 4

Chương 1.............................................................................................................4

Khái quát tình hình quốc tế và quan hệ Mỹ - Trung Quốc.................................4

1. Tình hình quốc tế:......................................................................................4

1.1. Những vẫn đề tồn đọng về quan hệ Mỹ - Trung.................................6

Chương 2:............................................................................................................7

Nguyên nhân và thực trạng quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống
Donald Trump.....................................................................................................7

2. Động thái trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald
Trump...............................................................................................................7

2.1. Về chính trị và anh ninh – quân sự......................................................8

2.1.1. Vấn đề Đài Loan:.............................................................................8

2.1.2. Cuộc gặp cấp cao đầu tiên:..............................................................8

2.1.3. Vấn đề hạt nhân của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên.........9

2.1.4. Về cơ chế hợp tác song phương....................................................10

2.1.5. Về tranh chấp trên biển..................................................................11


2.1.6. Về thương mại - tài chính..............................................................12

2.2. Nguyên nhân quan hệ Mỹ - Trung Quốc căng thẳng........................15

2.2.1. Hệ thống quốc tế............................................................................15

2.2.2. Hệ thống chính trị quốc nội...........................................................17

2.3. Thực trạng quan hệ Mỹ - Trung Quốc dưới thời tổng thống Donald
Trump..........................................................................................................20

2.4. Lợi ích chung có giới hạn và sự thiếu tầm nhìn chung.....................22

2.4.1. Vấn đề Triều Tiên..........................................................................22

2.4.2. Các vấn đề hàng hải.......................................................................23

2.4.3. Tầm nhìn chiến lược có mâu thuẫn...............................................25

2.4.4. Mạng lưới các liên minh dựa trên các giá trị chung......................26

2.4.5. Sẵn sàng cho một cuộc chiến thương mại chính thức...................27

KẾT LUẬN............................................................................ 30

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................31

You might also like