You are on page 1of 26

Tiểu Luận

Môn: Lịch sử văn minh thế giới

Đề tài: Thành tự văn minh Ấn Độ

Học viên: Bùi Việt Hà


Mã sinh viên 1955380022
Lớp tín chỉ: Truyền thông chính sách K39

1
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:

Xã hội loài người phát triển từ thuở hoang dã cho đến ngày nay, có thể ước
chừng 10.000 năm trong một không gian rộng lớn của Trái Đất và được các nhà
khoa học chia ra nhiều thời đại: Cổ Đại, Trung Cổ, Cận Đại và Hiện Đại. trong
mỗi thời đại, xã hội loài người nổi lên một số vùng, mà ở đó xãhội cư dân ở
điểm tập hợp được các giá trị tiên tiến vượt trội trong nhiều lĩnh vực – hình
thành nền văn minh. Riêng thời Cổ Đại có tám nền văn minh lớn được thống kê
(các học giả vẫn tranh cãi về số lượng) gồm: nền văn minh Ai Cập Cổ Đại, nền
văn minh Hy Lạp, nền văn minh La Mã, nền văn minh Tây Á, nền văn minh Ấn
Độ, nền văn minh Trung Hoa, nền văn minh Maya và nền văn minh Andes.

Trong đó, nền văn minh Ấn Độ nổi tiếng về những nền văn minh cổ nhất thế
giới. Trải qua một giai đọan lịch sử dài từ thời Cổ Đại cho đến Trung Đại, văn
minh Ấn Độ đã phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ trên tất cả các
mặt: chữ viết, khoa học, tư tưởng, tôn giáo, đặc biệt là các lĩnh vực nghệ thuật.
Tìm hiểu về nền văn minh Ấn Độ Cổ Trung Đại sẽ giúp chúng ta hiểu nhiều
hơn về nền văn minh này không chỉ đối với đất nước Ấn Độ nói riêng mà còn
ảnh hưởng đến thế giới, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về vấn đề này, em
xin chọn đề tài cho bài tập của minh như sau: “Vai trò và ý nghĩa của những
thành tựu chủ yếu của văn minh Ấn Độ thời Cổ Trung Đại”.

Đối tượng nghiên cứu:

- Nghiên cứu về vai trò và ý nghĩa của những thành tựu nền văn minhẤn Độ cổ
trung đại.

- Tổng quan về Ấn Độ.

- Những yếu tố ảnh hưởng đến nền văn minh, những phát minh, vai tròvà ý
nghĩa của những phát minh ấy.

- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Ấn Độ thời kì cổ trung đại.

- Ngoài còn đề xuất một số ý kiến về việc lưu giữ và bảo tồn các nềnvăn minh
ấy

Phương pháp nghiên cứu:

2
- Phương pháp xã hội học: quan sát và tiếp cận.

- Phương pháp điều tra khảo sát.

- Phương pháp lịch sử.

- Phương pháp phân tích - tổng hợp

Những đóng góp của đề tài:

Qua quá trình học tập, tìm hiểu và nghiên cứu về những thành tựu chủ yếu của
nền văn minh Ấn Độ thời cổ trung đại em đã một phần hiểu được những giá trị
lịch sử của các thành tựu này và được biết thêm về những vai trò và ý nghĩa lớn
lao của những thành tựu đó đối với nền văn minh nhân loại nói chung và đất
nước Ấn Độ nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất những ý kiến về việc khắc phục và
bảo tồn các di sản văn hóa thế giới. Đề tài còn cung cấp thêm tư liệu cho những
ai muốn tìm hiểu về nềnvăn minh cổ đại này.

Kết cấu của tiều luận:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung đềtài còn
được triển khai theo hai chương:

Chương một: Những cơ sở tạo nên nền văn minh Ấn Độ.

Chương hai: Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của văn minh Ấn
Độ thời cổ trung đại.

3
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Chương 1: Những cơ sở tạo nên nền văn minh Ấn Độ.

1.1 Khái niệm chung về văn minh Ấn Độ

Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài
người, tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hóa. Ấn Độ là một trong
những nền văn minh rực rỡ ở phương Đông nói riêng và là một trong những
đỉnh cao của văn minh nhân loại nói chung. Nền văn minh Ấn Độ nảy nở từ rất
sớm với những thành tựu hết sức quý giá,trong đó có những thành tựu tiêu biểu
về các lĩnh vực như: chữ viết, vănhọc, nghệ thuật, khoa học tự nhiên và tư
tưởng, tôn giáo…

1.2 Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ


1.2.1 Điều kiện tự nhiên, dân cư

Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị
chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể
qua các con đèo nhỏ ở tây- bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ
dương.

Hằng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn
(Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phủ sa tới bồi đắp cho những cánh đồng
ở Bắc Ấn.

Nền văn minh Ấn Độ thời cổ đại gồm cả vùng đất ở nước Ấn Độ, Pakixtan,
Neepan, Banawngladet ngày nay.

Về dân cư, người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ
sông Ấn là những người Đraviđa.Ngày nay những người Đraviđa chủ yếu cư trú
ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có
nhiều tộc người Aria tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong quá
trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập,
Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dòng
máu.

1.2.2 Các giai đoạn lịch sử chính

● Thời kỳ văn minh lưu vực sông Ấn:

4
Thời kỳ này kéo dài từ đầu thiên niên kỉ III đến giữa thiên niên kỉ II TCN, được
gọi là thời kỳ văn hóa Harappa

Thành phố Harappa cổ

Năm 1920 giới khảo cổ học đã phát hiện ra hai nền văn hóa đồ đá ở Ấn Độ: văn
hóa Soan ở hạ lưu sông Ấn, văn hóa Madra ở miền Nam tập trung ở hai thành
phố cổ Moohenrodaro và Harappa. Công cuộc khai quật tìm thấy nhiều bản
khắc chữ, những vận dụng sinh hoạt được chế tác tinh xảo, những con dấu bằng
đá có khắc hình động vật, hình vị thần 3 mặt... Thành phố được xây dựng với
quy hoạch mạch lạc. Nghề thủ công phát triển cao: có những món đồ gốm,
những kho mỹ nghệ bằng vàng bạc, những dụng cụ rất tốt bằng đồng thau, ngà
voi và vải sợi được dùng để trao đổi thương mại.

● Thời kỳ Vêda

Thời kỳ Vêda kéo dài từ giữa thiên niên kỷ II đến giữa thiên niên kỷ I. Thời kỳ
này được phản ánh trong bộ Vêda với 4 tập là Rig Vêda (gồm 1028 bài thơ ca
ngợi thần linh được tăng lữ Balamôn ghi chép, đây là nguồn gốc triết lý của
Hinđu giáo sau này), Xama Vêda (là tập hợp các bài ca dùng trong tế lễ, tri thức
về các giai điệu), Atacva Vêda (ghi chép những lời hướng dẫn về nghi lễ chủ
yếu, khấn vái). Tập Vêda cũng ghi chép những nội dung xã hội phong phú như
cách thức chữa bệnh, uy quyền của đẳng cấp Bàlamôn, quyền lực của nhà vua,
những bài thơ tả cảnh ngụ tình... Chủ nhân của thời kỳ lịch sử này là người
Aryan sinh sống chủ yếu ở vùng lưu vực sông Hằng.

5
Xã hội người Aryan chia làm bốn đẳng cấp (chế độ đẳng cấp Varna): Braman
(tăng lữ, nhà vua và quý tộc), Ksatrya (quan lại, võ sĩ), Vaisya (dân tự do khác
nhau), và Suđra (tiện dân nghèo khổ).

Chế độ đẳng cấp Varna lúc khởi nguyên mang ý nghĩa tổ chức và quản lý xã
hội, góp phần xây dựng thể chế chính trị pháp quyền và thẩm quyền, có ý nghĩa
tích cực. Chế độ Varna quy định mọi người phải tuân thủ theo trật tự thiên định:
đẳng cấp cao nhất là Bàlamôn, sau là đẳng cấp vương công quý tộc Koshatya,
đẳng cấp Vaishya là của thương nhân, nông dân, thợ thủ công, và cuối cùng là
đẳng cấp nô lệ Shudra. Tầng lớp dưới phải tuân thủ tuyệt đối tầng lớp trên. Nếu
người đàn bà thuộc đẳng cấp Bàlamôn sống cùng người đàn ông của đẳng cấp
Shudra sẽ sinh ra lớp người không được xã hội thừ nhận, đó chính là lớp người
thuộc hạ đẳng Paria, người cùng khổ.

● Thời kỳ các vương trều

Thời kỳ này kéo dài từ thế kỷ VI TCN đến thế kỷ XII. Đạo phật hình thành và
dần dần lớn mạnh. Trên lãnh thổ Ấn Độ cổ đại, các nhà nước, các vương triều
luôn luôn xung đột với nhau. Các vương triều nổi lên ở mấy thời kỳ nhỏ:

- Thời kỳ hình thành các quốc gai miền Bắc Ấn Độ, khoảng từ đầu thế kỷ
VI TCN, xuất hiện những vương quốc lớn của người Aryan, gồm có 16
nước, trong đó có nước Magađa là mạnh nhất. Sau đó đế quốc Ba Tư rồi
quân đội Makêđôni là mạnh nhất. Sau đó đế quốc Ba Tư rồi quân đội
Makêđôni đã chếm đóng Ấn Độ.
- Đế quốc Môrya (321-184 TCN) là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử
Ấn Độ cổ đại. Thời kỳ này Phật giáo trở thành quốc giáo. Điều này được
minh chứng bởi những di tích kiến trúc Phật giáo cổ nhất tìm được là
chùa trong hang đá, kinh viện, tháp Phật (Stupa ở Sanchi thế kỷ III TCN).
Những tri thức về chính sách nhà nước dười thời các vương triều được
tìm thầy trong cuốn sách lịch sử viết bằng tiếng Sankrít Arthara. Cuốn
sách là khoa học chính thể bàn về lý thuyết và những nguyên tắc cai trị
quốc gia, là nguồn thư lịch cổ rất có ý nghĩa, phản ảnh diện mạo sống xã
hội.
Quốc giáo thời này là Phật giáo. Vua Môrya dã cho xây hơn 84.000 ngôi
chùa, kèo theo vô số sư sãi tăng ni, làm thay đổi hẳn bộ mặt tinh thần xã
hội, văn hóa phát triển rực rỡ. Dưới triều quốc vương vĩ đại Ashôka, đạo
Phật được tôn thờ.

6
- Đế quốc Kushan (60-240) từ Trung Á đã xăm nhập miền tây bắc Ấn Độ
vào khoảng giữa thế kỷ thứ I, lập nên những đế quốc bao trùm phần lớn
phía bắc Ấn Độ, gồm cả vùng trung lưu sông Hằng và vịnh Bengal. Nó
bao gồm cả nhà nước Bactria cổ đại (ở miền Bắc Apganixtan ngày nay)
và Nam Tajikistan. Dưới triều Kushan đạo Phật vẫn phát triển hưng
thịnh. Ấn Độ phát triển mạnh mẽ , đạt nhiều thành tựu xuất sắc trong
nghệ thuật và khoa học. Đất nước thống nhất, các trung tâm văn hóa –
kinh tế xuất hiện.
- Thời vương triều Gupsta – Harsha (thế kỷ III đến thế kỷ VII) là thời Ấn
Độ chủ yếu là bị ngoại xâm xâm lược.
Đế quốc Gúpta (280-550) là một thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ. Điều này
được ghi nhận bởi phức hợp chùa hang Ajanta. Nó được đánh giá là đỉnh
cao của nghệ thuật bởi trình độ sử dụng màu sắc, sử dụng ánh sang, hình
thể, bối cảnh một cách điêu luyện mà sau đó hang nghìn năm mới thấy
xuất hiện ở hội họa phương Tây. Qua những cung điện, vận dụng, y phục,
đồ trang sức phát hiện được trong phức hợp chùa hang cho thấy xã hội
Ấn Độ thời đó đã rất thịnh vượng, phát triển cao về mọi mặt.
- Triều Harsha (590-647) là triều đại huy hoàng với những đóng góp quý
báu cho lịch sử tư tưởng và văn hóa Ấn Độ. Văn học – nghệ thuật rất phát
triển. Phật giáo được bảo trợ nhiệt tình.
Sau những thăng trầm lịch sử Ấn Độ liên tục thay đổi diện mạo vì những
cuộc chiến tranh. Sự xâm nhập của các dân tộc Hồi giáo đã làm nên cuộc
hội nhập văn hóa đặc sắc, biểu hiện qua kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm
nhạc…

Cột Ashoka

7
● Từ cuối trung cổ đến nay:

- Thời Hồi quốc Đêli (1206-1526): do các tộc người Thổ và Pashtun xâm
chiếm các vùng Bắc Ấn và lập nên Hồi quốc Đêli. Hồi quốc đã có sự khởi
đầu của công cuộc phục hưng văn hóa Ấn Độ. Do sự hòa trộn văn hóa
Ấn- Hồi mà các công trình kiến trúc âm nhạc , văn học, tín ngưỡng, trang
phục mang tính tổng hợp
- Thời Môgon (1526-1858): Năm 1526, Mông Cổ đánh chiếm Đêli thành
lập 1 vương triều mới gọi là Môgôn. Vua Akoba (1542-1605) cố gắng tạo
lập quan hệ hữu hảo với văn hóa Ấn Độ giáo. Các hoàng đế tiếp theo thì
cố gắng hoàn thành sự thống trị của Hồi giáo.Vị hoàng đế thứ năm của
triều Môgôn lá Shah Jahan (1628-1658) đã cho xây dựng Taj Mahah
mang đậm phong cách Ấn - Hồi để tưởng niệm ái phi Mumtaz Mhal.

Đến thế kỷ XIX, Ấn Độ dưới ách thống trị của thực dân Anh và vương triều
Môgôn tan rã

- Công ty Đông Ấn Anh quốc xâm nhập vào Ấn Độ từ đầu thế kỷ XVII.
Sau đó nó dần dần tăng sự áp chế cả về kinh tế lẫn chính trị đối với người
Ấn. Khoảng giữa thế kỷ XVIII người Anh đã đòi được quyền dân sự ở
Bengal, đánh dấu sự khởi đầu công cuộc cai trị chính thức cho một thế kr
tiếp theo. Trong thời kỳ Anh-Ấn, có nhứng nạn đói khủng khiếp : người
chết đoi lên tới cả chục triệu. Văn hóa vì thế cũng kém phát triển. Người
Ấn đã kiên trì đấu tranh những mãi đến năm 1947 họ mới giành được độc
lập

Chương 2: Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của nền văn
minh Ấn Độ.

2.1 Những thành tựu văn minh cơ bản

2.1.1 Chữ viết và tiếng nói

Chữ viết Ấn Độ được hình thành rất sớm ở Harappa và Môhenjô Đarô, các nhà
khảo cổ học đã phát hiện được hơn 3.000 con dấu, trong đó có 22 dấu cơ bản.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chữ viết sông Ấn hoàn toàn không có quan
hệ với các chữ viết đã biết, cho đến nay vẫn chưa được dịch mã một cách chắc
chắn.

Đến thế kỷ VI TCN xuất hiện thêm kiểu chữ Kharosthi phỏng theo chữ của
Lưỡng Hà. Kiểu chữ này phát triển thành chữ Brami, sau đó cải tiến tiếp để

8
thành chữ Sancrit dùng để sửa chữa và thống nhất kinh Vêda. Tiếng Sancrit
ngày nay vẫn được dùng ở Ấn Độ và Nêpan. Chữ Pali ra đời cùng đạo Phật,
được đùng để chép Kinh. Tiếng Hinđu là ngôn ngữ chính của vùng Bắc Ấn.
Phía Nam, chữ Tamil được dùng trong văn chương. Trong giao tiếp dùng thổ
ngữ Đraviđan.

Việc chuẩn hoá các ngôn ngữ này cũng như việc soạn thảo những bộ ngữ pháp
đầu tiên đã được tiến hành vào thời kỳ Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Sau độc lập
năm 1947, Hiến pháp Ấn Độ công nhận 15 ngôn ngữ chính thức, tiếng Hinđu và
tiếng Anh đóng vai trò chủ đạo. Đài phát thanh phát trên 25 thứ tiếng, đồng
Rubi in trên mười thứ tiếng.

2.1.2 Văn học

Từ 3000 năm trước đây, những bộ kinh Vêda đã ra đời và sau đó là các kinh
sách khác, cùng với những truyện thần thoại, cổ tích, sử thi, những bản trường
ca... Đó thực sự là những tác phẩm văn học đầu tiên của Ấn Độ hình thành nền
văn học cổ xưa.

Là đất nước nhiều ngôn ngữ, văn học Ấn Độ truyền thống cũng là một nền văn
học đa ngữ. Ở thời kì đầu, ngôn ngữ chủ yếu dùng để biểu đạt là tiếng Sanscrit
(còn gọi là chữ Phạn). Ngôn ngữ này có nguồn gốc từ hệ Ấn - Âu, có nhiều
quan hệ với các ngôn ngữ vùng Ba Tư và Trung Cận đông. Tiếng Phạn cũng trải
qua 3 thời kỳ phát triển sinh động. Cũng từ đó, nhiều thứ tiếng khác được coi là
biến thái gần gũi của tiếng Phạn như tiếng Pracrit, tiếng Pali. Tuy vậy, càng về
sau, tiếng Phạn cổ điển càng suy thoái, nhường chỗ cho những thổ ngữ khác
phát triển ngày 1 mạnh hơn, nhất là tiếng Hinđu và tiếng Bengali. Cho đến nay
tiếng Phạn được coi là một từ ngữ, xét về phương diện ngôn ngữ. Song, tiếng
Phạn có vai trò to lớn trong lĩnh vực của đời sống văn hoá, tinh thần truyền
thống của Ấn Độ. Riêng ở vùng Nam Ấn, nhóm ngôn ngữ Đraviden được sử
dụng phổ biến hơn cả.

Chữ viết được coi là một thành tự của nền văn học Ấn Độ cổ đại. Vào thế kỷ IV
trước công nguyên, môn ngữ pháp Ấn Độ xuất hiện đã thúc đẩy sự phát triển
của ngôn ngữ học Ấn Độ. Hai loại chữ điển hình là Kharosti và Brami. Kharosti
có ảnh hưởng của chữ viết vùng Ba Tư, Lưỡng Hà, được ghép bằng 252 ký
hiệu, viết từ phải sang trái. Ngược lại, Brami được coi là chữ viết của thần Sáng
tạo Brama, là chữ gốc của các loại chữ viết Ấn Độ sau này. Chữ Brami được
viết từ trái sang phải.

9
Để viết chữ, người Ấn Độ cổ dùng que sắt và sau đó là bút sắt và mực, vuêts
trên lá cây và vỏ cây đã được gia công kỹ. Những trang viết đó được xâu thành
dây như những quyển “sách” đồ sộ, lưu trưc trong các thư viện mà cưa kia được
gọi 1 cách hình ảnh là “kho tàng của nữ thần ngôn ngữ”. Phải gần 1000 năm sau
công nguyên giấy viết mới xuất hiện ở Ấn Độ qua sự giao thương với bên
ngoài.

Ngoài các kinh sách, hệ thống chứ viết ra đời đã làm nảy nở ở Ấn Độ một nền
văn học nghệ thuật phong phú và giàu bản sắc. Bộ kinh Vêda được đánh giá là
các tác phẩm văn học xưa nhất của Ấn Độ và có thể xưa nhất của nhân loại.

Kinh Vêda gồm có 4 bộ. Đó là Rig Vêđa, Yagiuya Vêđa, Sama Vêđa, Ácthava
Vêđa. Trong mỗi bộ đều có phần kinh gốc, phần chú giải và phần phát triển, đề
cao. Phần chú giải (Bramana) và phần phát triển (Upanisat) được soạn vào
những giai đoạn sau nên đôi khi được coi là những bộ kinh riêng biệt.

Các bộ kinh Vêđa là tác phẩm văn học tôn giáo, vừa phản ánh những cố gắng
vươn lên về mặt tư tưởng của con người nguyên thuỷ trước thiên nhiên và hiện
tượng xã hội, vừa phản ánh khát vọng chinh phục và hoà đồng với thiên nhiên.
Những nội dung tư tưởng ấy được thể hiện qua cả những yếu tố hoang đường,
thần bí.

Upanisat là sự tiếp nối của bộ Vêđa và phát triển lên. Upanisat gồm 13 bộ có
ảnh hưởng sâu sắc tới các môn phái triết học sau này.

Ngoài các kinh sách, còn có các điển lệ viết bằng chữ Phạn, phản ánh các vẫn
đề chính trị, xã hội, tâm lí, tình cảm ở Ấn Độ cổ đại. Một cuốn sách không có
tác giả và được coi là do vị thuỷ tổ loài người là Manu viết ra. Nhưng cuốn sách
đã trải qua sự bổ sung, sửa đổi trong nhiều thế kỷ. Cuốn sách này đã đặt nền
móng pháp luật cho chế độ xã hội cổ đại Ấn Độ. Bộ luật Manu mang nội dung
tư tưởng bảo vệ chế độ đẳng cấp và thể chế, quyền uy của đẳng cấp Bàlamôn.

Muộn hơn, trong nền văn học Ấn Độ xưa còn phải kể đến các kinh sách Phật
giáo (bộ Tam Tạng) và các kinh sách của các tôn giáo khác.

Trong các tác phẩm văn học ở Ấn Độ cổ đại, văn xuôi và thơ chỉ là một. Từ tâm
hồn và lối sống nhân ái, khoáng đạt, giản dị, người Ấn luôn thể hiện các đề tài
văn học dưới dạng thơ ca. Ngay cả các lĩnh vực y học, toán học, hoá học....,
người Ấn Độ cũng đưa vào những cách diễn giải hoặc đặt vấn đề với các hình
tượng, ví von đầy âm điệu và sống động. Hầu hết các tác phẩm văn học đều

10
được trình bày dưới dạng những bài thơ, thậm chí là những bài thơ nghìn câu,
với vô số ngụ ngôn dí dỏm và sâu sắc.

Nét đặc sắc cửa văn học Ấn Độ là trường ca. Trường ca ra đời từ sớm và mang
nội dung lịch sử nên còn được gọi là sử thi. Những tập sử thi trường ca nổi tiếng
là Mahabharata và Ramayna. Cùng với thời gian, hai bộ sử thi đó được bổ sung
phong phú hơn và đồ sộ hơn. Cốt truyện của các bộ sử thi là lấy chủ đề tình yêu
và chiến trận.

Mahabharata (những chiến công vĩ đại của dòng họ Barata) là một bộ đại bách
khoa toàn thư về đời sống văn hoá, xã hội và chính trị của Ấn Độ truyền thống.
Không chỉ về nội dung, bộ sử thi Mahabharata còn vĩ đại về kết cấu và nghệ
thuật của tác phẩm. Cốt truyện của sử thi chỉ chiếm chừng 1 phần 4 độ dài, còn
tới 3 phần 4 độ dài tác phẩm là sự gắn kết bằng các câu chuyện phụ. Nghĩa là
bên cạnh những chuyện triết lý sâu xa là những câu ngụ ngôn đặc sắc, chuyện
tình thú vị xem những tình tiết ly kỳ hấp dẫn.

Tác phẩm này đã tồn tại qua hàng chục thế kỷ, được truyển khẩu qua các thế hệ
người dân Ấn Độ và trở thành nguồn cảm hứng của các thể loại văn học.

Ramayana (kỳ tích của hoàng tử Rama) là bộ sử thi lớn thứ hai của văn học Ấn
Độ cổ đại. Tác phẩm được coi là của thần Narada kể lại cho đạo sĩ Vanmiki
chép. Vanmiki cũng là nhân vật nửa truyền thuyết. Tuy vậy, Ramayana đã được
nhiều người sáng tác và bổ sung qua nhiều năm tháng cho đến khi định hình
như văn bản ngày nay.

Nội dung chủ yếu của bộ sử thi nói về cuộc đời và mối tình ly kỳ, đầy trắc trở
nổi chìm nhưng thắn thiết của hoàng tử Rama và nàng công chúa Sita xinh đẹp,
thuỷ chung.

Bộ sử thi Ramayana thể hiện một cách sinh động tâm hồn tình cảm trong sáng
và yêu thương, chở che và an ủi những nỗi đau của con người. Bộ sử thi này
được dịch ra nhiều thứ tiếng ở Ấn Độ và cũng là nguồn cảm hứng của các thể
loại văn hoá khác nhau. Ramayana cũng lan truyền hầu khắp các nước Đông -
Nam Á

Hai bộ sử thi Mahabharata được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao. Nhà
phê bình văn học và sử học Pháp Mísơlê (thế kỷ XIX) đã viết: “Những bộ sử thi
Ramayana và Mahabharata chẳng khác gì những kim tự tháp khổng lồ, sừng
sững. Đứng trước những công trình đó, những tác phẩm nhỏ bé của chúng ta ở
phương Tây sẽ phải kính cẩn nghiêng mình...”
11
Quần chúng nhân dân Ấn Độ là chủ nhân của nền văn học lâu đời và phong phú
ở Ấn Độ. Ra đời từ khối quần chúng vĩ đại ấy, nhiều nhà văn, nhà thơ Ấn Độ
thời cổ đại đã thể hiện tài năng to lớn rực rỡ. Trong số họ, nổi bật gương mặt
một tác giả: Kalidasa. Ông là một nhà thơ lớn không chỉ của Ấn Độ mà của cả
thế giới. Ông sống vào khoảng thế kỷ V sau công nguyên.

Vừa làm thơ vừa viết kịch, Kalidasa để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng như trường
ca “Sự ra đời của Thần chiến trang Kumara” (8 bài thơ) và “Dòng dõi Ragu”
(19 bài thơ); một bài đoản ca “Đám mây sứ giả” (khoảng 100 câu thơ); ba vở
kịch “Malavica và Anhimitra”, “Uốcvasi phần thưởng của lòng dũng cảm”,
“Sơcuntola”. Vở kịch “Sơcuntola” đã nổi tiếng ở cả phương Đông lẫn phương
Tây. Đông đảo người đọc bị cuốn hút bởi nội dung trữ tình, cảm động, lòng
nhân đạo, nghệ thuật tình tế và ngôn ngữ trong sáng của nó.

Ngoài ra trong nền văn học Ấn Độ truyền thống còn có nhiều tác gỉa nổi tiếng
và nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Đó là những vở kịch, những bài thơ trữ tình,
truyện kể tự sự... Các tác phẩm này không chỉ được viết nằng tiếng Phạn mà còn
bằng các thứ tiếng địa phương ở Ấn Độ. Những tên tuổi lớn trên văn đàn Ấn Độ
cổ đại là Basa (nhà soạn kịch) Sudraca (nhà soạn kịch) Amaru (nhà thơ) Bilana
(nhà thơ) Narayana (nhà văn) ...

Sang thời cận - hiện đại, trước những biến động lịch sử lớn lao, văn học Ấn Độ
truyền thống cũng có những đổi thay. Nhiều dòng văn học mới xuất hiện nhưng
vẫn giữ được những tinh hoa văn học truyền thống. Vào đầu thế kỷ XX xuất
hiện một ngôi sao lớn trên nền trời văn học Ấn Độ Rabindranat Tago. Ông là
một hiện tượng văn học mang tính quốc tế. Các tác phẩm của ông là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tâm
linh, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế. Ngày nay nền văn học Ấn Độ vẫn
tiếp tục phát triển từ cội rễ là văn học truyền thống.

1.1.1.1. Lễ hội

Lễ hội là một nhu cầu văn hóa thường xuyên của người Ấn Độ. Thuở xa xưa, lễ
hội chỉ mang chức năng tôn giáo hoặc có nguồn gốc từ những nghi lễ của tôn
giáo, liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới các vị thần thánh. Theo thời gian, số
lễ hội tăng lên. Hầu như quanh năm đều có lễ hội diễn ra ở Ấn Độ. Nhưng, nội
dung tôn giáo của một số lễ hội lại mờ nhạt đi. Có những lễ hội hầu như chỉ còn
tính chất thế tục.

12
Lễ hội là nhu cầu tinh thần của người Ấn Độ và là nét đặc săc trong nền văn hóa
Ấn Độ truyền thống. Lễ hội tạo nên hình tượng người vũ nữ uyển chuyển trong
các điệu múa. Những điệu múa của nữ thần Siva luôn có vị trí xứng đáng trong
các lễ hội. Vì vậy, tượng nữ thần Siva đang múa trở thành biểu tượng nghệ thuật
của Ấn Độ

Trong các lễ hội của Ấn Độ, các đám rước thần thường được tổ chức theo nghi
thức truyền thống . Bên cạnh đó là những trò chơi rất đời thường. Yếu tố tôn
giáo và yếu tố thế tục hòa quyện vào nhau tạo nên sức sống văn hóa lâu bền của
lễ hội. Ở nhiều lễ hội ở địa phương, những biến thái trong các quan niệm tôn
giáo của một số giáo phái được thể hiện rất đậm nét.

Một số lễ hội lớn và được coi là quan trọng nhất của Ấn Độ luôn luôn có ý
nghĩa linh thiêng như điểm tựa tinh thần của người dân. Có những lễ hội thu hút
hang triệu, hàng chục triệu người ở những địa điểm nhất định như hội Hooli, hội
Đuxera, hội tắm nước thánh, hội chợ lạc đà, lễ hội đức thánh Brama, hội rước
voi, hội nữ thần Gauri…

Hội lễ Hôli được tổ chức vào mùa xuân. Trong ngày hội, người ta vẩy nước pha
màu đỏ vào nhau để cầu may mắn. Các hoạt động vui chơi thỏa thích diễn ra
thâu đêm. Người ta còn hòa cho vào nước đêm phun hoặc tưới để tưởng nhớ vị
thần tình yêu là Karma. Theo truyền thuyết, vị thần này bị Thần phá hoại Siva
dùng con mắt thứ ba thiêu cháy thành tro.

Lễ hội Đuxera (hội 10 ngày) là 1 trong những lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất
của Ấn Độ. Lễ hội diễn ra từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 trong 10 ngày liên
tục. Lễ hội bắt nguồn từ truyền thuyết kể rằng Hoàng tử Rama đã đấu tranh
chống lại quỷ dữ Ravana, với sự giúp đỡ của thần Đurga. Vì vậy trong lễ hội
người ta dựng những hình nộm lớn các con quỷ Ravana, Maganada và Kuma
Karna. Tượng nữ thần Duga được đặt trên cỗ xe lớn đẩy trên đường. Người ta tổ
chức lễ rước và dâng lễ Phật cho thần Duga. Hoa, thóc và nước được người ta
tung lên tượng nữ thần. Ngày thứ 10 là cao điểm của lễ hội . Tượng nữ thần sẽ
được thả xuống khúc sông được coi là linh thiêng. Người ta đốt pháo thăng
thiên, bắn mũi tên đỏ lửa vào các hình tượng quỷ để diễn mô phỏng lại sự tích.
Những hình tượng quỷ nổ tung và bốc cháy giữa tiếng reo hò của quần chúng.

Hội Đuxera diễn ra ở nhiều vùng ở Ấn Độ. Ở một số vùng, trong lễ hội này
người ta còn tổ chức lễ rước voi. Đầu voi được trang trí màu sắc, hình vẽ sặc sỡ.

13
Lễ hội tắm nước thánh lúc nửa đêm bắt nguồn từ truyền thuyết kể rằng: Trong
cuộc chiến đấu chống ma quỷ để chiếm cái chum đựng đầy rượu tiên , 12 giọt
rượu đã rơi xuống đát , trong đó có 4 giọt rơi xuống Ấn Độ . Có 4 địa phương
được thần thánh hóa nhờ những giọt rượu này. Vì vậy, cứ hai năm 1 lần, người
ta lại tổ chức ngày hội tắm nước thánh ở 4 địa phương trên. Vào lúc nửa đêm,
người ta chen chúc, xô đẩy nhau xuống tắm ở một số dòng sông được coi là
nước thánh để lấy phước và rửa tội.

Một lễ hội khác là lễ lao động vào đầu tháng 9 hằng năm. Một bức tượng nữ
thần làm bằng bột gạo - nữ thần Gauri - được đặt trang nghiêm trên đường phố.
Vào ngày cuối cùng của lễ hội, người ta đặt những dụng cụ lao động vào nơi
được coi là linh thiêng sau khi đã trát phân bò vào. Những người đi lễ khấn vái,
ban phước lành cho các công cụ lao động của mình.

Song lễ hội quang trọng nhất ở Ấn Độ là những cuộc hành hương đến từ sông
Hằng - sông Mẹ linh thiêng. Truyền thuyết kể rằng, Hằng Hà đã chảy từ trên
trời xuống để rửa sạch mọi tội lỗi ở thế gian. Vì thế người ta tin rằng nếu tắm
nước sông Hằng thì sẽ trong sạch và bình yên.

Hằng năm, hàng vạn người - đôi khi hàng triệu người - từ khắp đất nước Ấn Độ
kéo về trẩy hội , chủ yếu ở 2 nơi là thượng nguồn sông Hằng và thành phố
Bênarat. Khối người đứng thành kính đứng chờ dưới ánh nắng ban mai để cùng
xuống tắm lấy phước lành. Những người hành hương tới còn mang theo bình để
múc nước thiêng về thờ cúng .

Lễ hội Ấn Độ là một phần của đời sống văn hóa truyền thống , góp phần bảo tồn
giá trị tinh thần và xây dựng tâm hồn của người Ấn Độ.

1.1.1.2. Nghệ thuật

● Âm nhạc - múa và sân khấu

Âm nhạc xuất hiện từ rất sớm ở Ấn Độ, nó xâm nhập vào các loại hình nghệ
thuật, tạo nên linh hồn cho hội thoại - kiến trúc - điêu khắc vốn thấm đượm tinh
thần tôn giáo. Gắn liền với Thánh ca trong Vêda, gắn với nghi lễ, múa hát là
nhu cầu tâm linh, là hình thức để con người hòa mình vào vũ trụ. Bharata là nhà
hiền triết đồng thời cũng là nhà âm nhạc có tên tuổi đầu tiên của Ấn Độ, sống
vào đầu công nguyên. Ông đã đúc kết những nguyên tắc cơ bản cảu âm nhạc,
cho rằng âm nhạc phải gợi lên chính cung bậc tình cảm. đó là: yêu thương, hài
hước, bi ai, giận dữ, sự anh hùng, sự kinh ngạc, sự ghê sợ, sự kinh hoàng và sự
bình thản. Từ đó âm nhạc Ấn Độ luôn có tình chất uy nghiêm, sự tập trung, sự
14
thờ phụng. Âm nhạc Ấn Độ có tính dân gian truyền khẩu và biến tấu rất cao.
Điều này làm cho múa hát Ấn Độ rất linh hoạt và hấp hẫn, không đơn điệu và
buồn tẻ như âm nhạc Arập.

Sân khấu Ấn Độ mà Will Durant gọi là tuồng hát (theo cách dịch của Nguyễn
Hiến Lê) cũng cổ như kinh Vêda. Bởi vì các cuộc cũng tế, rước rách, hội hè về
tôn giáo đã là nguồn cảm hứng cho hí khúc Ấn Độ. Múa và sân khấu gần liền
với nhau. Nhưng múa lúc đầu không phải là thứ để tiều khiển, thỏa mãn nhu cầu
thẩm mỹ, mà là thứ để tiêu khiển thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ, mà là thứ múa
thuộc về lễ nghi, dần dà về sau nó mới tăng dần tình chất thẩm mỹ. Dấu tích của
vũ đạo truyền thống để lại trên tác phẩm điêu khắc và hội họa cho thấy sự phô
trương hình thể rất cao ngay cả trong các điệu múa mang tính tôn giáo.

Cho đến tận ngày nay thì hí kịch Ấn Độ vẫn dài gấp hai lần hí kịch phương Tây.
Mỗi vở từ năm tới mười màn. Sự dàn cảnh nhìn chung sơ sài trong khi trang
phục rất lòe loẹt. Vở nào cũng phải có một chuyện tình và một vai hề. Một đặc
điểm khác của sân khấu Ấn Độ là không có bi kịch, vở nào cũng phải có hậu
như để bù lại cái thực tại của kiếp người: ở hiền thì gặp lành, mối tình chung
thủy nào cũng được đoàn viên, người nguyện luôn luôn được trời đáp. Cuối vở
đào kép cầu nguyện một vị thần sung kính nào đó hoặc vị thần nơi họ diễn phù
hộ cho quốc thái dân an.

1.1.1.3. Hội họa - kiến trúc - điêu khắc

● Hội họa

Hội họa ở Ấn Độ xuất hiện từ thời đồ đá mới, thể loại đa dạng, nét vẽ tinh xảo.
Bích họa gồm những bức vẽ lớn trong đền chùa, trên vách đá, trong hang.

Tế họa (bức họa nhỏ xíu) là những họa phẩm vẽ các nhân vật thần thoại, nhân
vật sử thi bằng bút long. Nghệ thuật vẽ chân dung cũng rất phát triển ở triều
Môgôn. Có cả những cuốn sách lý luận nghệ thuật như Sandaga (Ấn họa lục
chi), Shilpa- shastra (Quy luật về mỹ học)... ghi chép những luật lệ, quy tắc của
mỗi nghành nghệ thuật, tạo nên chuẩn mực thống nhất.

Các họa phẩm của hội họa Ấn còn lại đến ngày nay rất ít. Một phần hư hại vì
khí hậu Ấn Độ nóng nực, ẩm thấp. Phần khác khi đạo Hồi thống trị thì nó phá
hủy tiếp những bức họa còn lại. Nhưng trong khu chùa hang Ajanta với 30 ngôi
chùa, xây dựng từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ IX có tới hơn 500 bức bích họa.
Những bức bích họa lớn mạnh khắc trên đá, những bức phù điêu thể hiện những
tích Phật rực rỡ sống động khiến Ajanta trở thành kho báu vô báu của nghệ
15
thuật Ấn Độ. Những họa phẩm cho thấy trình độ sử dụng màu sắc, diễn tả ánh
sáng, hình thể, bối cảnh một cách điêu luyện tài tình mà sau đó hàng nghìn năm
mới thấy ở hội họa châu Âu. Nếu căn cứ vào mức độ giống thật thì các tác phẩm
hội họa Ấn Độ, Trung Quốc không bằng hội họa châu Âu thời Phục Hưng,
nhưng cần lưu ý rằng hội họa châu Âu thời Phục Hưng, nhưng cần lưu ý rằng
hội họa phương Đông nói chung và Ấn Độ nói riêng không chủ trương vẽ đúng
cảnh vật mà chỉ diễn tả tình cảm, chỉ chú trọng tới đường nét hơn là màu sắc, tới
“tâm hồn” hoặc “tinh thần” của người và vật hơn là hình dáng bề ngoài.

● Kiến trúc

Thời kỳ Harappa, các công trình nghệ thuật được xây dựng chủ yếu bằng gạch.
Nhiều dấu hiệu cho thấy thành phố được quy hoạch rõ ràng, hệ thống cấp thoát
nước quy củ. Vật liệu xây dựng chủ yếu bằng gạch, có các nhà cao tầng.

Đến thời kỳ Môrya thì lại chủ yếu bằng đá. Vì quốc giáo là đạo Phật nên tháp
Phật (Stupa) - loại hình kiến trúc đặc trưng của thời này. Bắt đầu chỉ là núi đất
để mai tang, sau những tháp này được xây bằng gạch.

Trong số các tháp này thì Sanchi I (Đại Stupa) nổi hơn cả. Tháp được xây vào
thế kỷ III TCN lúc đầu bằng gạch, sau ốp đá, cao 16,5m đường kính 35m, gồm
4 bộ phận chính: bán cầu - quả trứng vũ trụ; vọng cầu đáy hình vuông; xây trên
bán cầu trên là 3 phiến đá lớn hình đĩa tạo thành chiếc dù lớn; hàng rào đá 120
cột bao quanh bán cầu, xá lỵ của đức Phật đặt trong quan tài pha lê, trong vọng

16
lầu: 4 cổng lớp - kỳ quan điêu khắc, phù điêu vô cùng sống động, tinh xảo, vừa
tôn nghiêm vừa nồng nàn.

Các chùa hang Ajanta, Enlora được xây dựng từ thế kỷ II TCN và được hoàn tất
trong gần 800 năm. Riêng di tích hang động Ajanta có tất cả 30 hang, gồm
Thánh dường Phật giáo và các khu phụ cận. Giai đoạn đầu người ta không bố trí
các tượng Phật. Giai đoạn đầu người ta không bố trí các tượng Phật. Giai đoạn
xây dựng thứ hai sau đó 300 năm thì tượng Phật hiện điện khắp nơi.

Theo phong cách Hinđu giáo thì đền đài là loại hình nghệ thuật phổ biến nhất,
đó là những đền nổi được xây bằng đá, chức năng chủ yếu là thờ thần. Có sự
khác biệt theo hai phong cách Aryan ở miền Bắc và Đraviđan ở miền Nam,
Palitana là một trong những điểm hành hương đẹp nhất ở Ấn Độ, một kỳ quan
nghệ thuật được xây dựng trên đồi cao. Nơi đây có gần 900 ngôi đền thờ được
chạm trổ rất tinh vi trên đá cẩm thạch, xây dựng cách đây gần ngàn năm. Quần
thể đền đài này là nơi ở của các vị thần, những ngôi đền thờ có kiến trúc đẹp
nhất Ấn Độ đều quy tụ tại đây.

Theo phong cách Hồi giáo, do phê phán thờ phụng ngầu tượng, mà người Hồi
giáo không có điêu khắc, hội họa nhưng lại rất phát triển giáo đường lăng tẩm.
Giáo đường là kiến trúc lối mái vòm. Bên cạnh thường có tháp giáo đường -
những cột đá khổng lồ. Người Hồi không hỏa thiêu xác chết như người Hinđu
mà mai tang, xây lăng tẩm.

Taj Mahah không những là công trình kiến trúc nổi tiếng của Ấn Độ mà còn
xứng đáng với sự bình chọn là một trong những kỳ quan thế giới. Lăng được
xây dựng bằng đá cẩm thạch, vàng, bạc châu báu… Ngôi đền được xây dựng từ
năm 1632 đến năm 1654 mới hoàn thành, với công sức của gần 24 nghìn lao
dộng, kết tinh trí tuệ người Ba Tư, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Italia, Ấn Độ…

Lăng Taj Mahah là một kỳ tích trong lịch sử kiến trúc Ấn Độ, ngày nay đã trở
thành một trong bảy kỳ quan thế giới. Lăng mộ dài 576m rộng 293m, được hợp
thành từ tiền đình, cửa chính, vườn hoa, lăng mộ chính và hai đền Mislim.
Trước lăng mộ có suối nước phun hình chữ thập, nghiêng mình soi bóng xuống
mặt hồ. Tổng thể kiến trúc của Taj Mahah liên quan mật thiết tới số 4 như 4 mặt
của lăng đều có 4 tòa thấp, vườn hoa được phân chia thành 4 hình vuông giống
nhau. Số 4 linh thiêng của Hồi giáo, tượng trưng cho than thánh và hòa bình nên
có 4 mái vòm nhỏ quanh vòm chính, ở 4 góc có 4 tháp nhọn vươn cao 40m như
cây sáo thổi lên trời, có 4 hồ nước, 4 hoa viên bao quanh.

17
● Điêu khắc

Tượng Phật xuất hiện từ đầu công nguyên, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Hy
Lạp, chủ yếu được tạc từ đá trắng và đá xanh. Tượng Phật gồm ba tư thế: đứng
(quyền lực), ngồi (thiền định) và nằm (nhập cõi niết bàn). Trong quá trình lịch
sử, tượng Phật bị chi phối bởi nhiều phong cách nghệ thuật khác. Miền Bắc Ấn
đường nét tượng Phật thanh thoát và gắn với phong cách của Hy Lạp hơn.
Chẳng hạn tượng Phật Tổ có hình dáng, nét mặt gần giống thần Apôlông, các vị
thần và thánh Ấn Độ cũng quấn những áo, khăn lướt thướt như trên các hiên
đền thờ của Phidias. Còn ở miền Nam quan niệm truyền thống vẫn chi phối diện
mạo các pho tượng, với nét mặt tròn trịa phúc hậu và phong thái ung dung tĩnh
tại.

Nghệ thuật tạc tượng thần linh của Ấn Độ rất độc đáo, tính hiện thực bị phủ mờ
trong khói sương tôn giáo. Các vị thần được thể hiện gần với chức năng xã hội
tỏng mỗi kiếp giáng trần. Thần Shiva có 4 tay, 4 chân, 3 mặt gắn với 3 chức
năng sáng tạo - bảo vệ - hủy diệt. Nhưng không phải ở bất kỳ đâu Shiva cũng
mang diện mạo như nhau. Biểu tượng chung của thần là da trắng, 4 cánh tay là
phương biểu thị chức năng thông trị, 3 mắt của thần chỉ mặt trời, mặt trăng và
ngọn lửa thế gian biểu thị khả năng nhìn được quá khứ, tương lai và hiện tại của
thần. Thần gió Vaiyu có mái tóc rối bời, hùng dung lao vút khắp bầu trời trên cỗ
xe bằng vàng, mạnh mẽ và quyền quy.Thượng thần Vishnu lúc đầu được biểu
đạt với chức năng là thần lực khiến mặt trời vượt qua 7 tầng vũ trụ, dần dần
cùng với sự phát triển của đạo Hinđu, Vishnu thành thần bảo vệ với hàng chục
kiếp hóa thân trong cõi trần. Krixna là vị thần được yêu mến nhất trong các vị
thần Ấn Độ được quan niệm là tượng trưng cho vẻ đẹp thần thánh, cho niềm vui
và tình yêu của tuổi thơ… Những pho tượng, những bức phù điêu vừa khổ hạnh
tôn nghiêm, vừa siêu thoát điệu đàng, phản ánh rất rõ đời sống tinh thần của xã
hội Ấn Độ.

1.1.1.4. Tôn giáo

Ấn Độ là đất nước của tôn giáo, nơi chung sống hòa hợp của hầu hết các tôn
giáo thế giới. Từ thuở bình minh của lịch sử, tôn giáo đã có vai trò quan trọng
trong đời sống, chi phối sâu sắc xã hội Ấn Độ. Trong số các tôn giáo này nổi bật
là đạo Bàlamôn, về sau phát triển thành đạo Hinđu và đạo Phật. Ngày nay ở Ấn
Độ có 2 dòng tôn giáo chính:

- Tôn giáo bản địa: Bàlamôn - Hinđu, Phật, Jain, Sikn


- Tôn giáo ngoại pháp nhập: Hồi, Thiên chúa, Do thái, Bái hỏa giáo.
18
Từ những tôn giáo chính trên lại phát sinh những giáo phái khác khiến Ấn Độ
thành quê hương của hàng trăm đạo, mỗi đạo có hình tượng, giáo chủ và nghi lễ
riêng rất phong phú và phức tạp. Tôn giáo thấm vào mọi mặt đời sống, đằng sau
đó là chính trị, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, lễ hội, những cuộc hành hương,
những truyền thuyết, những món ăn đặc trưng. Hiện nay hơn 80% dân số Ấn Độ
theo đạo Hinđu, tôn giáo lớn thứ 2 ở Ấn Độ là Hồi giáo. Giáo dân đạo Hồi ở Ấn
Độ đứng thứ 2 trên thế giới, sau Indonexia.

● Đạo Hinđu (Ấn Độ giáo)

Đạo Hinđu khởi nguồn từ tín ngưỡng dân gian, hình thành như một tôn giáo vào
thời Vêda. Veda chính là kinh điển sớm nhất của tôn giáo này. Sau đó phát triển
thành đạo Bàlamôn và cuối cùng thành đạo Hinđu chính thống. Hinđu là tôn
giáo đa thần,linh thiêng hóa những hiện tượng tự nhiên nhất là bò cái. Các hiện
tượng tự nhiên đó chuyển hóa và quy vào ba vị thần: Brahma (Đấng Sáng tạo),
Vishnu (thần Bảo vệ) và Shiva (thần Hủy diệt).

Giáo lý của đạo Hinđu xoay quanh 4 vấn đề:

- Thứ nhất, về mói quan hệ giữa bản ngã các thể (Atman) với bản ngã vũ
trụ (Brahman), đạo Hinđu cho rằng Brahman là yếu tố thần linh thấm
nhuần bởi vạn vật, còn Atman chỉ là cái đặc thù trong từng con người,
từng sự vật. Điều đó có nghĩa là trong Brahman có Atman và mỗi Atman
là một phần của Brahman có Atman và mỗi Atman là một phần của
Brahman. Nói một cách khác, giữa con người (dạng vi mô) với vũ trụ
(dạng vĩ mô) có sự hòa đồng, chúng vốn đồng nhất, chỉ khác nhau về
hình thể.
- Thứ hai, trong quan niệm về đạo (Dharma), người Hinđu cho rằng vận
động của tất cả các sự vật, mọi sự sinh thành đều bị chi phối bởi một
nguyên lý, một trật tự, một quy luật khách quan ngoài ý muốn của con
người vì thế phải hành động theo đạo pháp, phải vì quyền lợi thiêng liêng,
không vụ lợi.
- Thứ ba, các tín đồ Hinđu có quan niệm về luân hồi (Samara) và nghiệp
báo (Karman). Theo đó, con người không thực sự chết đi mà lại chuyển
sang một kiếp sống khác, tái sinh trong vòng luân hồi. Mỗi niềm vui, nỗi
buồn, sướng khổ của kiếp này là hậu quả của kiếp trước, mọi hành động
đúng sai trong kiếp này sẽ phải trả giá trong kiếp sau.
- Thứ tư, tuy rằng có luân hồi, nghiệp báo nhưng vẫn có thể giải thoát
được. Con đường giải thoát (Moska) chính là sự thành tâm sùng tín đối

19
với tôn giáo, luôn luôn cố gắng làm điều thiện, chấp nhận thân phận của
mình.

● Đạo Phật

Đạo Phật là một tôn giáo đặc biệt: tôn giáo vô thần. Nó cho rằng thế giới do
nhân duyên tạo nên chứ không có đấng sáng tạo Brahman. Vì lẽ này đạo Phật bị
coi là tà giáo ở Ấn Độ.

Phật giáo ra đời vào thế kỷ VI TCN, do thái tử Siddharta Gautama sáng lập.
Đạo Phật có mục đích tìm nguyên nhân và phương thức giải thoát nỗi khổ cho
con người, chủ trương đề cao đạo đức, tư tưởng bác ái, hướng tới xã hội bình
đẳng, hòa đồng.

Thế giới quan Phật giáo mang tính duy vật và vô thần, có chứa đựng nhiều yếu
tố nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ trong
quan niệm về tính tự thân sinh thành và biến đổi của vạn vật, không do một lực
lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Tính biện chứng sâu sắc thể hiện
trong luận giải về tính chất “vô ngã”, “vô thường”, luật nhân quả “duyên” của
đạo này.

Nhân sinh quan là phần trọng tâm của triết học Phật giáo. Phật giáo bác bỏ
Brahman và Atman, nhưng lại thừa nhận có Kalpa (kiếp), Kácma (nghiệp) trong
Upanisad.

Học thuyết của Phật giáo đề ra nguyên tắc vô ngã, vô thường (không có cái tôi,
mọi vật đều có sinh có diệt, không gì tồn tại vĩnh viễn), khẳng định Tứ điệu đế
(Bốn chân lý):

Khổ đế là chân lý thứ nhất. Sự khổ đau là phổ biến “đời là bể khổ”, không ai có
thể tránh được. “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển” (Khế kinh), cõi đời
không vui, cõi đời toàn là khổ. Những nỗi vui, nếu có, cũng chỉ là tạm bợ, hào
nhoáng như một lớp sương bên ngoài mà thôi; chứ bản chất của cõi đời là đau
khổ. Cõi đời là một biển đầy mồ hôi và nước mắt, trong ấy chúng sinh đang bơi
lội, ngụp lặn, chìm nổi, trôi lăn.

Có nhiều nỗi khổ: Sinh khổ (khổ trong lúc sinh, khổ trong đời sống), lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tăng hội khổ, ngũ uẩn xí
thạnh khổ (thân người cũng là thân ngũ uẩn: sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn, thức uẩn). Những nỗi khổ này không chừa một ai.

20
Tập đế là chân lý về nguyên nhân nỗi khổ. Những nguyên nhân cụ thể có nhiều
có nhiều, nhưng có thể nói gọn lại trong ba chữ: tham, sân, si.

Diệt đế là chân lý về sự chấm dứt nỗi khổ, Phải từ bỏ gốc rễ nỗi khổ nằm ngay
trong bản thân con người là ái dục và vô mình, từ bỏ tham – sân – si để đạt tới
Niết bàn.Chân lý về sự giải thoát, cùng với vô thường – vô ngã tạo nên tam
pháp ấn của Phật giáo.

Đạo đế là chân lý về con đường diệt khổ, đạt tới sự giải thoát. Con đường ấy
nhiều ngả, thường được gọi là bất chính đọa mà chung quy là suy nghĩ, nói
năng, hành động đúng đắn, là sự tu dưỡng, sự giải thoát cho mình, đạt đến trạng
thái tĩnh tâm tuyệt đối.

Đạo Phật đã được truyền bá ra nhiều nước xung quanh và phát triển thành hai
phái: Tiểu thừa (Hinayana – nghĩa là cỗ xe nhỏ): chỉ có xuất gia tu hành mới rũ
bỏ mọi ham muốn (Đông Nam Á), và Đại thừa (Mahayana – nghĩa là cỗ xe
lớn): mọi người sống theo giáo lý Đạo Phật đều có thể giác ngộ và tới cõi niết
bàn (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản…)

1.2.3.7. Các trào lưu triết học của Ấn Độ

- Ấn Độ là một trong những cái nôi của triết học phương Đông. Hệ thống triết
học hoàn chỉnh của Ấn Độ bao gồm các quan niệm về tôn giáo, vũ trụ, nhân
sinh, tư duy, tình cảm đến các hoạt động của các thế hệ triết gia.

- Có rất nhiều trường phái nhưng tựu trung lại có 2 phái: Phái Chính thống: với
6 hệ phái và phái tà giáo có 3 hệ phái.

- Đặc điểm của triết học Ấn độ:

+ Đề cập đến tất cả các vấn đề cơ bản của triết học hiện đại, trong đó phần
sinh động và giàu sức sống nhất là phần triết học nhân bản.

+ Triết học Ấn độ có hình thức biểu đạt, Triết học Ấn và tôn giáo đan xen
với nhau, tạo nên vẻ đẹp thâm trần và bí ẩn

Tư tưởng đặc sắc nhất trong triết học Ấn là tư tưởng về con đường giải thoát.

1.2.3.8 . Khoa học - kĩ thuật

● Thiên văn học: Ra đời từ rất sớm ở Ấn Độ, tác phẩm thiên văn học cổ nhất là
Xitdanca ra đời năm 425 TCN. Họ đã biết đến nhật thực, nguyệt thực, hạ chí,
đông chí, xuân thu và phân thu; quả đất, mặt trăng đều là hình cầu, biết sự vận

21
động của các ngôi sao chính cũng nhờ phân biệt được 5 hành tinh: Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Hải tinh. Đặc biệt người Ấn Độ biết chia một năm làm 12 tháng
theo chu kì mặt trăng, mỗi tháng 30 ngày, cứ 5 năm có một tháng nhuận.

● Toán học: Người Ấn Độ cổ đại có đóng góp quan trọng trong việc phát minh
ra cách đếm của hệ số 10, trong đó có số 0 mà người Ấn Độ gọi là Synhia (tiếng
không). Hệ số đếm của Ấn Độ được coi là hệ số hoàn thiện nhất trong tất cả mọi
hệ số đếm thời cổ đại.

- Họ biết đại số từ rất sớm với tất cả các số căn, số âm, các quy tắc về hoán
vị, tổ hợp. Đến thế kỉ VIII, người Ấn Độ đã giải được những phƣơng trình
vô định bậc 2 mà châu Âu gần 1000 năm sau mới biết cách giải.

- Người Ấn cũng biết hình học, biết tính diện tích các hình chữ nhật, hình
vuông, hình tam giác và biết tính một cách khá chính xác số = 3,1416; đồng
thời biết được cả những cơ sở của lượng giác học.

● Y học: cũng đạt nhiều thành tựu lớn, các thầy thuốc Ấn Độ đã biết dùng phẫu
thuật để chữa bệnh nhờ cắt màng mắt, lấy sỏi thận, lấy thai, nắn lại các chỗ
xương gãy...

- Nhiều tác phẩm y học được xuất bản: “Y học toát yếu” (625), “Luận cảo về
trị liệu” (thế kỉ XI), “Về giải phẫu và sinh lí của Bava Mixra” (1550), “Trị
bệnh bằng các loại thực vật”, tìm ra nhiều loại cây có giá trị chữa bệnh.
Quyển từ điền đƣợc thảo thế từ thế kỉ XI của Surôxva (liệt kê cây thuốc và
cách điều trị).

- Nhiều sách thuốc của Ấn Độ nổi tiếng và có tác dụng trong thực tế. Do vậy
được dịch ra bằng tiếng Ả Rập. Người Ả Rập đã mời các danh y Ấn Độ sang
mở nhà thương và trường dạy y khoa cho họ.

● Hóa học Ấn Độ cũng ra đời sớm và phát triển do yêu cầu của kĩ nghệ nhuộm,
thuộc da, chế tạo xà phòng, thủy tinh... Đặc biệt kĩ thuật luyện sắt ở Ấn Độ đạt
tới mức hoàn hảo. Chiếc cột sắt Đê li cao hơn 7m, đường kính 40cm, nặng 6,5
tấn được dựng lên vào năm 380 lúc nào cũng bóng nhẵn, dù để ngoài trời cũng
không bị hoen rỉ.

- Từ thế kỉ VI, người Ấn Độ đã đạt trình độ cao về các kĩ nghệ hóa học nhờ
chế tạo các loại thuốc mê, thuốc ngủ, chế tạo các muối kim loại...

22
Tóm lại, thởi cổ - trung đại, Ấn Độ đạt được những thành tựu văn hóa rực rỡ.
Nền văn hóa đó để lại những dấu ấn đậm nét, mang bản sắc dân tộc độc đáo đã
làm cho Ấn Độ trở thành một trung tâm văn minh lớn vào loại bậc nhất của thế
giới cổ trung đại. Nền văn hóa ấy đã ảnh hưởng rất sâu sắc tới sự phát triển của
Ấn Độ trong các giai đoạn về sau và đã có những đóng góp rất quan trọng vào
nền văn minh của thế giới.

2.2.Vai Trò và ý nghĩa của những thành tựu văn minh Ấn Độ

2.2.1 Vai trò của những thành tựu văn minh Ấn Độ

Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng có cơ sở hình thành, quá trình phát triển
rồi đến diệt vọng. Văn minh cổ đại phương Đông nói chung và phát triển rồi
đến diệt vong. Văn minh cổ đại phương Đông nói chung và văn minh Ấn Độ
nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung ấy. Qua mọi thời kỳ
thăng trầm của lịch sử, nền văn minh Ấn Độ vẫn tỏa sáng. “Chiếc nôi” văn hóa
cổ đại phương Đông vẫn có sức lan tỏa mạnh mẽ ra các khu vực xung quanh:
Nhiều yếu tố văn hóa Ấn Độ được truyền bá sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc
Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; văn hóa Trung Quốc, đặc biệt
là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các
nước khác; văn hóa Ai Cập – Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không lâu song những
thành tựu của nó không chỉ có ảnh hưởng trong khu vực mà còn tỏa sáng ra các
khu vực khác của thế giới,… Cùng với sự lan tỏa của các nền văn hóa cổ đại là
sự xuất hiện của các nền văn hóa mới như Arập, Nhật Bản, Korea,… Bức tranh
văn hóa Ấn Độ, do vậy càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa
đấu tranh chống lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Ấn Độ vừa tiếp
thu những yếu tố văn hóa mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho vườn hoa
văn hóa của dân tộc mình. Bức tranh văn hóa Ấn Độ từ đây càng ngày càng rực
rỡ sắc màu. Trong giai đoạn hiện nay, những giá trị của văn minh Ấn Độ vẫn
còn đang lan tỏa rộng khắp. Những giá trị ấy như một liều thuốc tinh thần để
con người Ấn Độ quay về với cội nguồn, quay về tìm hiểu quá khứ rực rỡ của
ông cha, cũng như làm cơ sở cho việc tiếp thu những giá trị mới của nền văn
minh nhân loại.

2.2.2 Ý nghĩa của những thành tựu văn minh Ấn Độ

Nền văn minh Ấn Độ đã đạt được những thành tựu hết sức rực rỡ, đa dạng trên
tất cả các lĩnh vực. Các thành tựu về chữ viết, văn học, nghệ thuật, khoa học tự
nhiên và các tư tưởng, tôn giáo… đã góp phẩn làm nên nền văn minh Ấn Độ,
đưa văn minh Ấn Độ lên đỉnh cao của văn minh nhân loại.
23
Việc tìm hiểu về văn minh Ấn Độ cổ đại có một ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta
hiểu rõ bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự phát triển của lịch sử của đất
nước này. Ngoài ra, nó còn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến
trình hội nhập của khu vực nói chung và đất nước nói riêng trong thời đại ngày
nay.

Kết luận
Những trang lịch sử của đất nước Ấn Độ thời cổ trung đại đã cho ta thấy được
một thời kì hào hùng, đẫm máu và nước mắt của các cuộc đấu tranh giành
quyền lực, mở mang bờ cõi và các cuộc chiến chống lại các thế lực xâm lăng.
Một thời kì bi thương nhưng rất đỗi hào hùng và trong giai đoạn khó khăn đó ta
vẫn thấy ngời lên một nền văn minh rực rỡ. Và đó cũng chính là một trong
những ngọn nguồn của văn minh nhân loại. Nhân dân Ấn Độ sớm đạt được
những thành tựu to lớn về chữ viết, văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên, tư
tưởng tôn giáo… tất cả những thành tựu đó mang một giá trị lớn lao về lịch sử
và ít nhiều cũng ảnh hưởng đến đời sống và văn hóa Ấn Độ nói riêng và thế giới
nói chung, trong đó có Việt Nam. Việc phát hiện ra những thành tựu văn hóa đó
giúp chúng ta hiểu them về đất nước Ấn Độ và có những hiểu biết về những
bước tiến của xã hội loài người. Chính những thành tựu như thế đã khẳng định
sự tồn tại và phát triển của loài người từ buổi sơ khai cho đến nay.

Ông cha ta ngày xưa đã làm nên những thành tựu, nhiệm vụ của chúng ta ngày
nay là phải biết trân trọng, lưu giữ để những thành tựu ấy mãi được lưu truyền
và không bị mài mòn theo thời gian. Trên cơ sở đó chúng ta cũng phải biết phát
huy những giá trị lịch sử ấy để tạo ra những thành tựu mới góp phần làm phong
phú them cho kho tàng văn minh của nhân loại.

Tài liệu tham khảo:


- Lịch sử văn minh thế giới- Nguyễn Văn Đại. Nhà xuất bản lao động.
- Ấn Độ hôm qua và hôm nay – PTS. Đinh Trung Kiên. Nhà xuất bản
chính trị quốc gia.
- Đại học Nha Trang, Giáo trình Lịch sử Văn Minh thế giới, TS Nguyễn
Văn Tuấn.

MỤC LỤC
24
I. MỞ ĐẦU TRANG
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………..1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………...1
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………….2
5. Đóng góp đề tài…………………………………………………………2
6. Bố cục đề tài…………………………………………………………….2
II. NỘI DUNG
1.1 Khái niệm chung về văn minh Ấn Độ………………………………….3
1.2 Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ…………………………………3

Chương 2: Vai trò ý nghĩa của những thành tựu chủ yếu của nền văn minh
Ấn Độ

II.1Thành tựu chính của văn minh Ấn Độ…………………………………..7


II.2Vai trò và ý nghĩa của những thành tựu văn minh Ấn Độ……………...22

KẾT LUẬN………………………………………………………………...23

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….23

25
26

You might also like