You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Tên đề tài
LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ LIÊN HỆ VẤN ĐỀ
PHÁTTRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH BẠN ĐANG THEO HỌC

HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN: Hà Huỳnh Khánh Tâm


MÃ SỐ SINH VIÊN: 21520100385
LỚP SINH VIÊN: XD21/A1
LỚP HỌC PHẦN: 000011025
TÊN GIẢNG VIÊN: Trương Phi Long

Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Trường Đại học Kiến Trúc TP.HCM Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc

BÀI TIỂU LUẬN MÔN: Triết học Mác - Lênin


Họ và tên sinh viên: Hà Huỳnh Khánh Tâm
Mã số sinh viên: 21520100385
Mã lớp học phần: 000011025

ĐIỂM CỦA BÀI TIỂU LUẬN


Ghi bằng số Ghi bằng chữ Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 1

Họ tên và chữ ký của cán bộ chấm thi thứ 2

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 24 tháng 02 năm 2022


Sinh viên nộp bài
Hà Huỳnh Khánh Tâm

2
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Mục đích chọn đề tài……………………………………………………………4
2. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………...…….…….4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….……...5
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………...….…..5
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài……………………………....…5
6. Kết cấu đề tài……………………………………………………………....……5
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1 Quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn
tại và phát triển………………………………………………………….…………….6
1.1.1 Khái quát quan điểm duy vật lịch sử……………………..……………..6
1.1.2. Vai trò của sản xuất vật chất và người lao động………………………….6
1.1.3. Quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về phương thức sản xuất…………..8
1.2. Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất………………………….…..8
1.2.1. Lực lượng sản xuất………………………………………..……………...8
1.2.2. Lực lượng sản xuất hiện đại………………………………..……..…….11
1.2.3. Người lao động …………………………………………..………….….12
1.2.4. Những yếu tố chủ yếu tác động đến người lao động trong quá trình xây
dựng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay…………...………..………………….14
1.3. Thực trạng của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện nay...15
1.3.1. Những thay đổi tích cực của nhân tố người lao động trong lực lượng sản
xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay……………………………………………………15
1.3.2. Một số hạn chế của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện
đại ở Việt Nam hiện nay………………………………………………………………16
1.4. Vai trò nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất………………….....17
CHƯƠNG 2: CHẤT LƯỢNG VÀ GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CỦA NGÀNH KỸ THUẬT XÂY DỰNG
2.1. Đặc điểm nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay………………………………………………………………………….19
2.2. Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng
trong bối cảnh toàn cầu hoá……………………………………………………..….19
2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng trong bối cảnh toàn
cầu hoá hiện nay………………………………………………………………………19
2.2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động ngành xây dựng trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay…………………………………………………………………22
C. KẾT LUẬN………………………………………………………….…….24
PHỤ LỤC………………………………………………...……………….………..…25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………...……..………….………28

3
MỞ ĐẦU
1. Mục đích chọn đề tài
Thế giới việc làm đang phát triển ngày càng nhanh, tác động đến hàng triệu người
lao động và người sử dụng lao động. Những cải tiến về công nghệ, điển hình là: cách
mạng 4.0, hệ thống thương mại toàn cầu với độ kết nối ngày càng lớn, già hóa dân số,
biến đổi khí hậu là những nhân tố chính làm nên sự thay đổi này.
Theo khảo sát của trang Vieclamtot.com, 1.3 triệu người đã rời các thành phố lớn để
về quê trong đại dịch Covid 19 bùng phát mạnh lần thứ 4. Đáng lo ngại hơn, sau giãn
cách chỉ có 58%, người lao động có ý định quay trở lại làm việc. Những người lao động
chọn ở quê vì muốn tìm kím được công việc ở địa phương gần gũi với gia đình mình
hơn, làm nhhững công việc kinh doanh tự do hay ở các khu công nghiệp mới được xây
dựng ở quê nhà. Tuy nhiên, các hệ thống dịch vụ vẫn phân bố tập trung ở các thành phố
lớn. Quý 3 năm 2021, cả nước có hơn 28 triệu người từ 15 tuổi trở lên chịu ảnh hưởng
tiêu cực của đại dịch Covid 19, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong quý 3 thấp nhất
trong 10 năm trở lại đây. Và lúc này, làm cách nào để hút được các nguồn nhân lực này
trở lại làm việc là một bài toán khó mà các ban lãnh đạo phải đau đầu thảo luận trong
những tháng cuối năm 2021. Để giải quyết và hiểu được vấn đề này, ta phải hiểu được
người lao động có vai trò quan trọng trong lực lượng sản xuất, không chỉ riêng con người
mà nó đã xuất hiện từ các đời vượn cổ - tổ tiên xa xưa của chúng ta.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định
sự sinh tồn phát triển của con người và xã hội - nó cũng chính là cơ sở của sự hình thành
và biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Là một sinh viên, em hiểu rõ người lao
động là người quan trọng trong công cuộc phát triển của toàn nhân loại, họ là các thế hệ
đi trước và là chính em trong tương lai. Dù là nông dân, công nhân hay công dân tri thức
họ đều là lực lượng lao động quan trọng trong lực lượng sản xuất. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã xuất phát từ tiền đề nghiên cứu về lịch sử xã hội là con người hiện thực. Động lực
thúc đẩy con người hoạt động trong tiến trình lịch sử là nhu cầu và lợi ích mà trước hết
là nhu cầu vật chất. Hiện nay, trở thành kỹ sư là mơ ước của rất nhiều bạn trẻ thích kỹ
thuật và công nghệ, muốn làm việc trong lĩnh vực hấp dẫn với mức lương cao. Nhưng
họ vẫn chưa hiểu rõ về nguồn nhân lực của ngành cũng như tầm quan trọng của người
lao động trong lực lượng sản xuất. Để bản thân và các thế hệ trẻ có nhận thức rõ hơn,
sớm hơn về vai trò của bản thân trong tương lai và những người lao động hiện nay,
chuẩn bị cho tương lai phía trước, công hiến hết mình cho đất nước, chính vì thế em
chọn đề tài: “ Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của người lao động trong lực
lượng sản xuất và liên hệ vấn đề phát triển nguồn nhân lực ngành Kỹ thuật xây dựng”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu - vận dụng quan điểm của Triết học Mác lênin, xác định được vai trò
của yếu tố con người trong lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội. Liên hệ
chất lượng nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
4
nay. Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp phát huy, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Hơn hết là để bản thân và thế hệ sau có nhận thức đúng đắn về tầm
quan trọng của người lao động trong lực lượng sản xuất cũng như nguồn nhân lực của
ngành kỹ thuật xây dựng trong tương lai
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: người lao động (nguồn nhân lực Việt Nam); người lao động và sử
dụng lao động trong ngành kỹ thuật xây dựng(các kỹ sư, giám sát công trình)
Phạm vi nghiên cứu: Luận án giới hạn trong phạm vi khảo sát, phân tích thực
trạng người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh
doanh vì lực lượng lao động này chiếm tỷ lệ lớn và cũng phản ánh nét đặc trưng cơ bản
về trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, như phương pháp trừu tượng hóa khoa học,
phương pháp lôgíc - lịch sử... Ngoài ra, trong qua trình thực hiện, em còn sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... để triển khai các nội dung của đề
tài.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
về lực lượng sản xuất, về vai trò của nhân tố người lao động trong phát triển lực lượng
sản xuất. Bài làm cũng dựa trên những quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc phát triển nhân tố con người trong lực
lượng sản xuất. Ngoài ra, tiểu luận cũng dựa trên những cơ sở, lập luận của các nhà
doanh nhân về vấn đề lực lượng lao động của ngành kỹ thuật xây dựng trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.

Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm sáng tỏ thêm thực trạng của nhân tố người
lao động trong lực lượng sản xuất hiện nay; đặc biệt là góp phần làm rõ hơn những ưu
điểm và hạn chế của người lao động là công nhân trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất kinh doanh ở nước ta trong thời gian qua. Đánh giá khách quan thực trạng lực lượng
người lao động ngành xây dựng, từ đó giúp các sinh viên có thể hiểu rõ hơn về cơ hội
làm việc sau này.
6. Kết cấu đề tài: Gồm 02 chương
1. Lý luận chủ nghĩa Mác-lê nin về vai trò của người lao động trong lực
lượng sản xuất
2. Thực trạng và giải pháp cho sự phát triển nguồn nhân lực của ngành kỹ
thuật xây dựng

5
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN VỀ VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1 Quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại
và phát triển.
1.1.1 Khái quát quan điểm duy vật lịch sử
Các nhà tư tưởng triết học trước Mác đã có những tư tưởng triết học xã
hội có giá trị, làm tiền đề, lí luận để triết học Mac-xít kế thừa, phát triển quan
niệm duy vật lịch sử. Tuy nhiên, khuyết điểm chung của họ là phương pháp tư
duy siêu hình trong xem xét bản chất con người xã hội. Phương pháp tư duy siêu
hình đã dẫn đến tuyệt đối hoá vai trò của hoàn cảnh địa lý trong sự phát triển xã
hội hoặc áp dụng quy luật tự nhiên, sinh học một cách máy móc vào đời sống xã
hội. Đặc biệt, trong xem xét bản chất con người và xã hội, các nhà triết học duy
vật trước Mác đã thiếu tính thực tiễn, không xuất phát từ thực tiễn, không hiểu
vai trò hoạt động thực tiễn có tính cách mạng của con người.
“Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại
của những cá nhân con người sống”
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ tiền đề nghiên cứu về lịch sử xã hội
là con người hiện thực. Nghiên cứu về cuộc sống của con người hiện thực, các
nhà kinh điển phát hiện ra phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động
thực tiễn của họ. C.Mác và Ph.Ăngghen viết : “Xã hội - cho dù nó có hình thức
gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”
. Con người, bằng hoạt động của mình đã làm nên lịch sử, đã tạo ra xã hội. Động
lực thúc đẩy con người hoạt động trong tiến trình lịch sử là nhu cầu và lợi ích mà
trước hết là nhu cầu vật chất. Đặc biệt, hai ông lý giải một cách khoa học trên lập
trường duy vật biện chứng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; mối quan hệ giữa
ý thức xã hội và tồn tại xã hội; luận giải được vai trò của sản xuất vật chất và chỉ
ra những quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người, thực chất nó là
những quy luật phản ánh hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử. Lần
đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra những
quy luật, những động lực phát triển xã hội. Đây là một phát minh vĩ đại của
C.Mác, đem lại một cuộc cách mạng trong triết học về xã hội.
1.1.2. Vai trò của sản xuất vật chất và lao động
1.1.2.1. Khái niệm sản xuất vật chất
Đó là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người.
Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm
mục đích thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người. Sản xuất vật chất
giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội
là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan hệ xã hội của con
6
người, nó chính là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài
người. Muốn thực hiện các hoạt động kinh tế, chính trị, pháp luật,... đều phải ăn,
ở, mặc và tư liệu tiêu dùng. Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có
thể nói, điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với thế giới động vật là ở
chỗ: Con người lao động sản xuất, còn loài vật thì không.
1.1.2.2. Khi sản xuất vật chất tức là con người đã lao động.
Chính lao động đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết
định cho con người như:
- Cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, có dáng đi
thẳng, không còn gù lưng như loài vượn. Có sự phân hóa chức năng
giữa chân, tay và bộ óc. Các giác quan của con người cũng phát triển.
- Trong quá trình lao động sản xuất, con người xuất hiện nhu cầu “nói
chuyện” với nhau. Nếu không giao tiếp được với nhau, con người
không thể lao động sản xuất. Do đó, tiếng nói, chữ viết (tức là ngôn
ngữ) xuất hiện, trở thành phương tiện để giao tiếp, trao đổi, truyền
bá tri thức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Nhờ lao động sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hàng hóa, giữa con người
xuất hiện những mối quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực như chính trị,
tôn giáo, đoàn thể, nghệ thuật…
1.1.2.3. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.
Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, nền sản xuất của cải xã hội
không ngừng phát triển từ thấp đến cao. Từ chỗ chỉ dùng công cụ lao động bằng
đá (thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy), con người dần dần chế tạo được công
cụ bằng đồng (vào thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại), sắt (vào thời kỳ đồ sắt từ
thời cổ đại đến trung đại). Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp để phục vụ
sản xuất, con người đã biết dùng máy móc động cơ hơi nước, các hệ thống cơ
khí hóa, hiện đại hóa (vào thời cận đại và hiện đại).
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi
tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật
chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự
biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ
thấp đến cao. Như vậy, sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã hội,suy
đến cùng có nguyên nhân từ tình trạng phát triển của nên sản xuất của xã hội.
Để sản suất vật chất, nội tại quan trọng nhất là yếu tố người lao động trong lực
lượng sản xuất.
1.1.2.4. Vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất vật chất
sản xuất vật chất
Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên cải biến các
dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người. Con người và xã hội loài người được hình thành
và phát triển trong quá trình hoạt động sản xuất vật chất lao động động để sáng
7
tạo ra bản thân con người. Như vậy xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là
nhờ sản xuất vật chất người lao động trong những yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, chỉ có thể đánh giá vai trò quyết định của nguồn nhân lực con người khi đặt
nó trong mối quan hệ với các nguồn nhân lực khác. Sự tồn tại bền vững và sự
phát triển theo con đường tiến bộ của bất cứ quốc gia nào cũng phụ thuộc vào
những nhân tố: Vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn đã được tích lũy
trong nước và nguồn vốn có thể tranh thủ từ nước ngoài. Tuy vậy, những nhân tố
kể trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng từ trong là những khách thể bất động
chứng chỉ trở thành nhân tố động và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực
con người - tức là được nguồn lực con người khơi dậy. Con người là nhân tố chủ
động có đầy đủ khả năng lợi dụng các nhân tố khác gắn kết các nhân tố khác tạo
thành một tổng thể và các nhân tố cần thiết và định hướng tác động của mỗi nhân
tố vào mục tiêu phát triển đất nước.
1.1.3. Quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về phương thức sản xuất
Theo định nghĩa giáo trình triết học Mac-Lenin đưa ra giải thích: “Phương
thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người”
Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức
nhất định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là
phương thức sản xuất. Vì thế, dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi
thời đại lịch sử, người ta có thể phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau, hiểu thời
đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế – xã hội nào. Trong sản xuất, con người
có “quan hệ song trùng”: một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, biểu hiện
ở lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ
sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở
một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người
với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất
quan trọng nhất – quan hệ kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với
người. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân
phối sản phẩm lao động. Đây là quan hệ quy định địa vị kinh tế- xã hội của các
tập đoàn người trong sản xuất, từ đó quy định quan hệ quản lý và phân phối.
1.2. Nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất.
1.2.1. Lực lượng sản xuất
1.2.1.1. Cơ sở lý luận
Lực lượng sản xuất là một khái niệm trung tâm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Việc nghiên cứu rõ nội hàm của khái niệm này là cơ sở để hiểu toàn bộ sự
vận động và phát triển của quá trình sản xuất vật chất trong lịch sử xã hội loài
người.
8
Trong các tác phẩm của mình, mặc dù C.Mác không trực tiếp đưa ra khái
niệm lực lượng sản xuất nhưng nội hàm của khái niệm này đã được ông đề cập
đến ngay từ những tác phẩm đầu tay. Khái niệm này chỉ được kiến giải một cách
khoa học lần đầu tiên vào tháng 3-1845, khi Mác viết tác phẩm “Về cuốn sách
của Phiđrích Lixtơ “Học thuyết dân tộc về kinh tế chính trị học”. Ở đây, Các
Mác chỉ ra tính chất duy tâm trong lý luận của Lixtơ, vạch trần tính chất tư sản
của lý luận đó. Các Mác chỉ ra rằng: lực lượng sản xuất không phải là cái “bản
chất tinh thần” nào đó như Lixtơ nghĩ ra, mà là một sức mạnh vật chất. Ông viết:
“Để xua tan vầng hào quang thần bí có tác dụng cải biến “sức sản xuất”, chỉ cần
mở ra bản tổng quan thống kê đầu tiên ta gặp là đủ. Ở đó có nói về sức nước, sức
hơi nước, sức người, sức ngựa. Tất cả những thứ ấy đều là “lực lượng sản xuất”.
Như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người,
là thước đo trình độ cải biến giới tự nhiên của con người ở mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau. Sự cải biến ấy có thể được hiểu là con người ngày càng thấu hiểu giới
tự nhiên, chung sống hòa bình với giới tự nhiên bởi thực tế cho thấy, chỉ có thể
thấu hiểu và chung sống hòa bình với tự nhiên, con người mới có thể được hưởng
những lợi ích tốt nhất mà giới tự nhiên mang lại.
1.2.1.2. Một số nghiên cứu liên quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản
xuất và sự phát phiển của nhân loại.
Trước sự phát triển không ngừng của khoa học - công nghệ, lực lượng sản
xuất đã có những bước phát triển đáng kể, theo hướng hiện đại. Vì vậy, gần đây
có một số công trình bàn về lực lượng sản xuất hiện đại, lực lượng sản xuất mới.
Dưới góc độ đó, có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu là: Cuốn
sách Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức do hai tác giả Vũ Đình Cự, Trần
Xuân Sầm chủ biên (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009).
Vào buổi đầu của nền văn minh, loại tài nguyên thứ nhất có ý nghĩa quyết
định, ở giai đoạn phát triển cao hơn thì loại tài nguyên thiên nhiên thứ hai có ý
nghĩa quyết định. Tuy nhiên, C. Mác nhấn mạnh rằng sức sản xuất tự nhiên không
đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ (tức chiều hướng
phát triển nhờ tăng năng suất lao động xã hội), ngược lại, “Một thiên nhiên quá
hào phóng sẽ dắt con người đi như dắt tay một đứa trẻ em mới tập đi. Nó không
làm cho sự phát triển của con người thành một sự tất yếu tự nhiên”.
Châu Phi là một ví dụ điển hình, Châu Phi thật ra “rất giàu”, thường được
xem là lục địa giàu về nguồn tài nguyên chiếm hơn 30% trữ lượng khoáng sản
thế giới, trong đó phải kể đến vàng, kim cương, dầu mỏ, đá quý. Tanzania nổi
tiếng với vàng, Congo với đồng, Nambia với Uranium, Botswana với kim cương
( xem tại bản đồ khoáng sản châu Phi). Vậy mà gần 50% dân số châu Phi, đặc
biệt tập trung ở vùng tiểu vùng Sahara châu Phi, sống dưới chuẩn nghèo thế giới
(thu nhập ít hơn $1.25/ngày). Một, châu Phi, theo một nghĩa nào đó, đã không
bắt kịp cuộc “Cách mạng xanh”. Đặc biệt các nước ở vùng sub-Sahara châu Phi
ngay cận xích đạo, cùng với hạn hán, lũ lụt, thiếu kinh nghiệm trong việc làm

9
nông do vốn quen với việc hái lượm, săn bắn, việc trồng trọt trở nên khó khăn
hơn. Tư duy canh tác tiểu nông, năng suất thấp mặc dù thiên nhiên khá ưu đãi,
đất trù phú, thời tiết êm dịu; vốn dĩ sub-Sahara châu Phi không nóng như chúng
ta vẫn nghĩ. Ở Châu Phi, thiên nhiên còn ban tặng cây BaoBap. Cây baobap là
một trong những loại cây lâu đời có kích thước “khủng” nhất thế giới, ước tính
tuổi thọ của loài cây này có thể lên tới 5.500 năm, có thể nói rằng cây baobap là
nguồn lương thực chính và quan trọng bậc nhất của người Malawi ở châu Phi..
Không những thế nó còn là nhà ở chỗ sinh hoạt của người dân. Có thể thấy, những
nhà lãnh đạo Châu Phi không tập trung phát triển nông nghiệp như các kỹ thuật
gia chính trị gia châu Á. Mối quan tâm của họ là khai thác nguồn tài nguyên sẵn
có hơn là phát triển nông nghiệp.
1.2.1.3. Vai trò của lực lượng sản xuất
Những luận điểm cơ bản về lực lượng sản xuất của C.Mác và Ph.Ăngghen
vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa thời đại được đúc kết như sau:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ rõ
nhất ở trình độ phát triển của phân công lao động.
- Lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và
là động lực của sự phát triển xã hội.
- Lực lượng sản xuất là phương tiện để tiến hành sản xuất vật chất cho
xã hội. Để thỏa mã được nhu cầu cơ bản của con người.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn tới sự phân công lao động xã
hội và năng xuất lao động xã hội tăng. Từ đó sản phẩm sản xuất ra đã
có sự dư thừa, sự dư thừa này chính là một nguyên nhân dẫn tới sự ra
đời của chế độ tư hữu và xuất hiện giai cấp trong xã hội. Như vậy
nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp ở trong xã hội chính là
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,
phản ánh khả năng con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh
hiện thực của mình, sức mạnh đó được khái quát thành lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong
quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội bảo đảm nhu cầu
của con người. Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu
tố vật chất, kỹ thuật nhất định.
Lực lượng sản xuất có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sản xuất
xã hội cũng như quá trình phát triển của lịch sự loài người. Trong 3 yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất thì người lao động là yếu tố quyết định nhất,
quan trọng nhất bởi con người lao động chế tạo ra tư liệu lao động, và một
phần đối tượng lao động, đồng thời là người sử dụng, phát huy vai trò của
tư liệu lao động, công cụ lao động. Ngay khoa học - kỹ thuật là yếu tố cốt
lõi của lực lượng sản xuất, nhưng tự bản thân khoa học không thể gây ra
bất kỳ sự tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông

10
qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát
sinh tác dụng.
1.2.2. Lực lượng sản xuất hiện đại
1.2.2.1. Khái niệm lực lượng sản xuất hiện đại
Trong thời đại ngày nay, những thành tựu của khoa học – công nghệ đã
góp phần quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần làm hiện
đại hóa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên tất cả các yếu tố cấu thành
của nó. Vì vậy, khi nghiên cứu về lực lượng sản xuất, người ta rất chú ý phân tích
đến tính hiện đại của lực lượng sản xuất.
Có thể hiểu lực lượng sản xuất hiện đại là khái niệm dùng để chỉ sự kết
hợp giữa người lao động ở trình độ cao với tư liệu sản xuất tiên tiến, dựa trên hệ
thống công nghệ hiện đại để tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, có tính
bền vững và thân thiện với môi trường sinh thái. Khi phân tích sự phát triển của
lực lượng sản xuất, mặc dù nhấn mạnh đến vai trò của khoa học nhưng C.Mác
không xem nhẹ vai trò của nhân tố người lao động. C.Mác vẫn coi người lao động
là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ điều này, trước hết cần
phân tích quan điểm của C.Mác về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
1.2.2.2. Vai trò và ứng dụng của lực lượng sản xuất hiện đại
Quan điểm của C.Mác về vai trò của khoa học và phán đoán ‘khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp’ được hiểu ở những khía cạnh sau:
- Khoa học có sự gắn kết chặt chẽ với kỹ thuật, sự gắn kết này là một xu
thế tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Điều đó cũng
chứng tỏ khoa học gắn bó chặt chẽ và là yếu tố quan trọng trong việc
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay.
- Gần đây, thời gian để lý thuyết khoa học đi vào thực tiễn sản xuất ngày
càng được rút ngắn lại. Trong những thế kỷ trước, thời gian từ phòng
thí nghiệm đến thực tế sản xuất thường rất lâu nhưng từ cuối thế kỷ
XIX đến nay, nhờ sự phát triển không ngừng của khoa học hiện đại,
quá trình trên đã được rút ngắn rất nhiều.
- Khoa học được thâm nhập vào tất cả các yếu tố cấu thành của lực lượng
sản xuất. Nhờ có khoa học, con người ngày càng tạo ra được nhiều đối
tượng lao động nhân tạo, khắc phục được hạn chế về thời gian sử dụng
và một số đặc tính khác của đối tượng lao động tự nhiên. Cũng nhờ đó
mà trình độ, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không
ngừng được nâng cao.
- Nền khoa học hiện đại phát triển giúp cho xã hội ngày càng văn minh
và tiến bộ. Một minh chứng của khoa học công nghệ phát triển làm
tiền nề cho sự văn minh của xã hội loài người là camera có rất nhiều
trên đường phố - các con hẻm – những nơi công cộng. Tác động trực

11
tiếp lên hành vi con người, đẩy lùi các tình trạng tệ nạn xã hội ngày
nay.
Như vậy, có thể hiểu khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp nghĩa là khoa
học tham gia vào quá trình sản xuất bằng việc tạo ra công nghệ, đề ra và xây dựng
phương pháp tổ chức và quản lý để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Vì thế, khoa học chính là một
trong những nhân tố cấu thành không thể thiếu của lực lượng sản xuất hiện đại.
Đây được coi là một trong ba khâu đột phá chiến lược, góp phần phá vỡ những
“điểm nghẽn” đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta nói
riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
1.2.3. Người lao động
1.2.3.1. Khái niệm người lao động
“Con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội”
Trước Mác, những nhà triết học cho rằng: con người là một bộ phận của
giới tự nhiên, là một động vật xã hội, v.v.. nhưng đến Các Mác, ông đã nghiên
cứu con người với tư cách là một thực thể tự nhiên - xã hội, chịu sự tác động,
nhưng không phải là sản phẩm thụ động của tự nhiên và các quan hệ xã hội mà
là chủ thể giữ vai trò quyết định đối với sự vận động, phát triển của thế giới. Khi
bàn đến các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, C.Mác đã khẳng định vai
trò quyết định là nhân tố người lao động. Giới tự nhiên không chế tạo ra bất kỳ
máy móc nào, không chế tạo ra xe hơi, đường sắt, tên lửa, công nghệ AI... Chúng
là sản phẩm lao động của con người. Nếu không có con người chế tạo và sử dụng
công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên thì sẽ không có quá trình sản xuất
vật chất.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động
và năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao
động là chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã
hội. Những người có khả năng lao động, tức là phải có cả sức mạnh cơ bắp và
sức mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đôi bàn tay” và “đầu óc”. Ngoài
ra, người lao động cũng cần có kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo trong lao động.
Như vậy, chỉ những người nào dùng sức mạnh thể chất và tinh thần tham gia vào
quá trình sản xuất nhằm tạo ra của cải, vật chất mới được coi là người lao động
với tư cách là yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.
1.2.3.2. Tiền đề sự phát triển của con người trở thành lực lượng lao
động chất lượng.
Con người có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia,
dân tộc. Báo cáo phát triển con người (HDR), công bố lần đầu tiên năm 1990
trong Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nêu rõ: “Của cải đích thực
của một quốc gia là con người của quốc gia đó”. Để phát triển con người, cần
phải đầu tư vào giáo dục, y tế, kỹ năng… để con người có thể làm việc một cách

12
sáng tạo và có năng suất cao nhất; cần phải bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế mà
con người tạo ra được phân phối rộng rãi và công bằng; cần phải hướng vào việc
tạo cho con người có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội như
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Đây là quan điểm phát triển con người phù
hợp với tư tưởng của Các Mác về phát triển con người toàn diện.
Đảng ta luôn xác định con người là nhân tố quan trọng quyết định mọi
thắng lợi. Cụ thể, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã trên cơ sở xác định giải phóng dân
tộc là cơ sở để giải phóng xã hội, giải phóng con người, để lãnh đạo nhân dân
Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm
1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam
từ thân phận nô lệ thành chủ nhân một nước độc lập.
Một ví dụ nhỏ về chỉ số phát triển con người - HDI (chỉ số phát triển con
người dựa trên kết quả đạt được về thu nhập, giáo dục và y tế) của Việt Nam
những năm gần đây cũng cho thấy, dù còn khó khăn, song Việt Nam đã có những
cố gắng lớn trong thực hiện “Mục tiêu Thiên niên kỷ”. Năm 2016, chỉ số HDI
tổng quát của Việt Nam tăng 1%, lên 0,683 và ở mức trung bình, xếp hạng 115
trên tổng số 188 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm trước đó được cộng đồng quốc
tế đánh giá cao; nhất là vấn đề giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Do năng lực trí tuệ của con người - cũng như người lao động không ngừng
được nâng cao, nên phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình
sản xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Các nhà lãnh đạo ở từng
quốc gia, hiểu rõ tầm quan trọng của con người trong sự phát triển của quốc gia
– của nhân loại. Thế giới đang ngày càng chú trọng vào việc phát triển con người,
với mong muốn con người sẽ trở thành lực lượng lao động chất lượng, có trí tuệ
và không ngừng sáng tạo.
1.2.3.3. Quan điểm của Mác về đặc điểm chung của người lao động
Theo quan điểm của C.Mác, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất,
người lao động phải có cùng một lúc cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần.
Sức mạnh vật chất được thể hiện qua năng lực về thể chất như sức khỏe, thể trạng
của người lao động. Điều đó không chỉ được tạo nên bởi đời sống vật chất, điều
kiện làm việc của người lao động mà nó còn phụ thuộc vào đặc điểm về lứa tuổi,
giới tính của họ. Sức mạnh thể chất là điều kiện cần thiết của quá trình lao động.
Sức mạnh tinh thần được thể hiện qua năng lực về trí tuệ, phẩm chất đạo
đức như kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách
nhiệm trong công việc của người lao động…. Nhờ có sức mạnh về tinh thần, trí
tuệ mà hoạt động sản xuất vật chất của con người mới là hoạt động có mục đích,
có ý thức.
Trong thời kỳ tiền sử, do nhận thức của con người còn nhiều hạn chế nên
để tạo ra của cải vật chất, người lao động chủ yếu sử dụng sức mạnh cơ bắp để
tác động vào giới tự nhiên. Tuy nhiên, khi công cụ lao động đã phát triển, máy
móc cơ khí ra đời, yếu tố kỹ năng, kinh nghiệm trong lao động lại giữ vai trò chủ

13
đạo. Nó giúp những người lao động vận hành các máy móc một các thành thạo,
thuần thục.
Do năng lực trí tuệ của người lao động không ngừng được nâng cao nên
phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra trong quá trình sản xuất và được kết
tinh ở sản phẩm. Vì thế, giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm được tạo ra ngày
càng lớn. Nó không phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào là nguyên vật liệu để sản
xuất ra nó mà phụ thuộc vào hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động
kết tinh vào trong đó.
1.2.4. Những yếu tố chủ yếu tác động đến người lao động trong quá trình
xây dựng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
1.2.4.1. Tác động của giáo dục - đào tạo đến người lao động trong quá
trình xây dựng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Giáo dục - đào tạo có tác động trực tiếp đến việc nâng cao dân trí, trình
độ, tay nghề, kỹ năng cho người lao động. Giáo dục - đào tạo nói chung và đào
tạo nghề nói riêng góp phần quan trọng trong việc trang bị cho người lao động
những tri thức về nghề nghiệp, kỹ năng trong lao động sản xuất, kỹ năng về khoa
học - công nghệ để họ có thể vận hành được những máy móc hiện đại. Ngoài
những tri thức truyền thống đó, giáo dục - đào tạo hiện nay còn trang bị cho người
lao động những tri thức về thị trường, hội nhập, về khả năng nắm bắt và xử lý
thông tin, những tri thức về bản quyền và sở hữu trí tuệ; về an toàn lao động, ý
thức bảo vệ môi trường sinh thái để tạo nên những lao động chất lượng trong lực
lượng sản xuất thời đại ngày nay.
1.2.4.2. Tác động của môi trường xã hội đến người lao động trong quá
trình xây dựng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Môi trường xã hội là điều kiện làm việc, sinh hoạt, ăn, ở; là những chế
độ, chính sách tác động hàng ngày đến công việc, cuộc sống của người lao động,
giúp họ có thêm động lực, phát huy được tối đa tính sáng tạo và khả năng ứng
dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện đại để tạo ra những sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn. Làm cho người lao động được tự do sáng tạo theo
khả năng của mình, biến quá trình lao động là quá trình sáng tạo và cống hiến
chứ không phải là quá trình lao động bị cưỡng bức, bị trói buộc bởi những quy
tắc cứng nhắc.
1.2.4.3. Tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
đến người lao động trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất ở Việt
Nam hiện nay
Với việc tăng cường tự động hóa và ứng dụng số hóa trong quá trình sản
xuất, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông ngày càng mất dần lợi thế; sản
xuất dần chuyển sang những nước phát triển, nhiều lao động có kỹ năng và
chuyên môn cao. Điều này cũng đặt ra một thách thức nếu người lao động không

14
có trình độ chuyên môn, không có kỹ năng lao động, không có ý thức tự đổi mới,
sáng tạo thì tất yếu sẽ trở nên lạc hậu.
1.2.4.4. Tác động của hợp tác quốc tế đến người lao động trong quá
trình xây dựng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Hợp tác quốc tế về lao động là quá trình liên kết, hợp tác trên phạm vi khu
vực và thế giới về việc đào tạo, sử dụng lao động. Hợp tác quốc tế về lao động
tạo ra một đội ngũ những người lao động trong lực lượng sản xuất có những phẩm
chất tiên tiến, có khả năng thích ứng với nhiều doanh nghiệp ở các quốc gia khác
nhau. Bên cạnh đó, khi tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động, trình độ tay
nghề và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động cũng ngày càng được nâng cao.
Ngoài ra, hợp tác quốc tế về lao động cũng góp phần đưa nhanh các tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ mới vào sản xuất.
Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất”
cho quan hệ sản xuất mới. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế
để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài,
nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước. Tóm lại, Việt Nam ngày càng nhận thức
và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tiễn nước ta hiện nay.
1.3. Thực trạng của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện nay.
1.3.1. Những thay đổi tích cực của nhân tố người lao động trong lực lượng
sản xuất hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Sau hơn 30 năm đổi mới, không chỉ số lượng người lao động Việt Nam tham gia
vào sản xuất vật chất không ngừng tăng lên mà người lao động cũng đã có những thay
đổi tích cực về chất như sau:
- Lao động trẻ, có sức khỏe. Hiện nay, Việt Nam có quy mô dân số trên
90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu
vực Đông Nam Á. Hằng năm ở nước ta, trung bình có khoảng hơn 1
triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Lực lượng lao động Việt Nam
tương đối trẻ, có 50,2% những người có độ tuổi từ 15 đến 39 tham gia
vào lực lượng lao động. Với nguồn lao động trẻ dồi dào, dân số Việt
Nam hiện nay đang ở trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Nguồn lao
động trẻ sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu những tiến bộ của
khoa học, công nghệ vào sản xuất; thích ứng và bắt nhịp nhanh với quá
trình sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, áp lực lớn và thích ứng được việc
thay đổi nghề nghiệp, điều kiện làm việc theo yêu cầu của quá trình
sản xuất.
- Tri thức, trí tuệ, kĩ năng của người lao động không ngừng được nâng
lên. Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở số lượng lao động đã qua đào tạo.
Năm 2014, trong tổng số 53,7 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực
15
lượng lao động của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua đào tạo, chiếm
18,6% trong tổng số lao động trên cả nước. Tạo ra xu hướng trí thức
hóa công nhân ngày càng rõ nét.
- Sự cần cù, sáng tạo; tính linh hoạt, tháo vát; khả năng thích ứng nhanh;
tích cực ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản. Nhờ đó, người lao động
có năng lực trong việc sản xuất những mặt hàng đòi hỏi sự khéo léo,
tỷ mỷ, có độ tinh xảo cao. Nhiều ngành sản xuất nổi tiếng của nước ta,
nhất là các ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống đã và đang có những
khởi sắc, có khả năng xuất khẩu sang nước ngoài. Nếu như trước đây,
với nền kinh tế bao cấp, người lao động Việt Nam phần lớn đều thụ
động, ỷ lại, chờ thời thì ngày nay, người lao động nước ta đã biết thích
ứng trước những thay đổi của nền sản xuất hiện đại.
1.3.2. Một số hạn chế của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất
hiện đại ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như trên, người lao động Việt Nam vẫn
còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém. Những hạn chế, yếu kém này đã và đang
kìm hãm đáng kể sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại ở nước ta:
- Thể lực, sức khỏe của người lao động Việt Nam còn thấp hơn đáng
kể so với các nước trong khu vực. Trong khi dân số nước ta đứng thứ
13 thế giới, thu nhập bình quân đầu người cũng chỉ ở mức “trung bình
- thấp”. Do đó, đời sống vật chất của người Việt Nam nói chung và
người lao động nước ta nói riêng nhìn chung còn thấp. Vì thế, nên việc
đầu tư cho công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân khá thấp: Chi
tiêu của Chính phủ cho công tác chỉ tương đương với 2,8% GDP. Hơn
50% chi tiêu cho y tế chính là chi tiêu từ túi tiền của bệnh nhân. Ngoài
ra, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động cũng đang là một trong những yếu
tố ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe, thể lực của người lao động cả
trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp ở nước ta hiện nay..
- Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, chất lượng đào tạo chưa cao so
với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi các loại máy
móc theo công nghệ tiên tiến liên tục được tạo ra và đưa vào sản xuất
nhưng trình độ, tay nghề của người lao động nước ta lại chậm biến đổi;
không được đào tạo bài bản để tiếp nhận sự chuyển giao công nghệ
nên chưa thể tận dụng hết những lợi thế của công nghệ hiện đại.
- Tính kỷ luật, ý thức đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường
sinh thái... của người lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đặc trưng
nổi bật nhất của lịch sử kinh tế Việt Nam là sự kéo dài hàng nghìn năm
của công xã nông thôn và nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, tự cấp. Thêm vào
đó, do yêu cầu sống còn của dân tộc trong cuộc đấu tranh lâu dài, chống
lại thiên tai, địch họa đã tạo nên lối sống khép kín, lối làm ăn manh

16
mún “được đến đâu hay đến đó”. Vì vậy, nhiều người lao động tuy có
việc làm nhưng lại chỉ hay nghĩ đến lợi ích trước mắt, dễ dao động, dễ
thay đổi công việc có lợi cho mình. Ngoài ra, do sống chủ yếu trong
làng xã nên người lao động Việt Nam mỗi năm dành quá nhiều thời
gian xả hơi trong các dịp lễ hội, đình đám... gây lãng phí rất lớn nguồn
lao động.
Dễ nhận thấy, ý thức đạo đức nghề nghiệp của người lao động Việt
Nam nhìn chung còn thấp. Với việc đề cao lợi nhuận, nhiều chủ doanh
nghiệp, nhất là các cơ sở sản xuất, chế biến lương thực, thực phẩm đã
sử dụng quá mức cho phép các hóa chất độc hại, phẩm màu. Nhiều
nông dân cũng sử dụng tùy tiện các chất kích thích tăng trưởng trong
chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy hải sản, cây trồng, hoa
màu... để thu được lợi nhuận cao mà không chú ý đến lợi ích của người
tiêu dùng. Điều đó cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển lực lượng
sản xuất theo hướng bền vững.
1.4. Vai trò nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất.
Thứ nhất, người lao động là một “động vật biết chế tạo công cụ” vì ngoài việc sử
dụng những công cụ lao động có sẵn, người lao động đã làm cho một vật “do tự nhiên
cung cấp” trở thành một khí quan hoạt động của con người. Nhờ đó, người lao động đã
tăng thêm sức mạnh của các khí quan vốn có của mình lên gấp bội. Trong quá trình sản
xuất vật chất, người lao động không chỉ tạo ra các công cụ lao động mà còn luôn biết
cải tạo công cụ lao động, làm cho khả năng chinh phục tự nhiên ngày càng lớn hơn.
Trong buổi đầu của lịch sử, lực lượng sản xuất còn thấp kém, người lao động dựa chủ
yếu vào những đối tượng lao động do tự nhiên cung cấp. Khi nền sản xuất ngày càng
phát triển, nhận thức của người lao động ngày càng tăng lên, công cụ lao động ngày
càng được cải tiến, đối tượng lao động ngày càng được mở rộng. Điều đó chứng tỏ người
lao động là chủ thể sáng tạo và là chủ thể sử dụng mọi yếu tố của quá trình sản xuất.
C.Mác khẳng định: “Trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng
mạnh nhất là bản thân giai cấp cách mạng”. Do đó, nếu không có người lao động sẽ
không thể có quá trình sản xuất vật chất.
Thứ hai, người lao động với tri thức và có ý chí biết sử dụng và kết hợp các yếu
tố cấu thành của tư liệu sản xuất như: đối tượng lao động, công cụ lao động, phương
tiện lao động; hiện thực hóa vai trò và tác động của những yếu tố đó để tạo nên sức mạnh
tổng hợp nhằm cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, tất cả những
yếu tố trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ phát huy được vai trò của mình
khi được được người lao động sử dụng trong quá trình cải biến giới tự nhiên. Điều này
đã được C.Mác khẳng định: Một cái máy không dùng vào quá trình lao động là một cái
máy vô ích. Ngoài ra, nó còn bị hư hỏng do sức mạnh hủy hoại của sự trao đổi chất của
tự nhiên. Sắt thì han rỉ, gỗ thì bị mục. Sợi không dùng để dệt hoặc đan thì chỉ là một số
bông bị hư hỏng. Lao động sống phải nắm lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho chúng,
17
biến chúng từ những giá trị sử dụng thành chỉ có tính chất khả năng thành những giá trị
sử dụng và tác động.
Thứ ba, trong khi các yếu tố của tư liệu sản xuất đều hữu hạn và thường bị hao
mòn nhanh theo thời gian thì người lao động, ngoài yếu tố thể lực bị hao mòn chậm thì
các kỹ năng lao động, trình độ tay nghề… luôn có khả năng tự đổi mới, tự nâng cao
thông qua quá trình tự học hỏi, bồi dưỡng, trau dồi tri thức không ngừng để có thể đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất. V.I. Lênin đã khẳng định:
“Trong khi vật chất có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kỹ năng của con người như công
nghệ, bí quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi”. Khẳng định trên đúng đắn vì
suy cho cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối tượng sẵn có trong tự
nhiên) chỉ là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo ra và không ngừng đổi
mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động chỉ là sự phản
ánh trình độ của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Có thể nhận thấy, bản thân khái niệm người lao động trong lực lượng sản xuất
cũng có sự biến đổi qua mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Nó gắn liền với sự biến đổi về
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Sự phát
triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra sự phủ định. Trước kia, người sản xuất và người
quản lý là một, song cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại,
sự tách rời giữa người sản xuất và người quản lý ngày một gia tăng, sự khác biệt phát
triển thành sự đối lập gay gắt trong chế độ tư hữu. Giờ đây, chính sự phát triển cao của
lực lượng sản xuất ở trình độ trí tuệ hoá cao đã và đang diễn ra sự xích lại gần nhau giữa
người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong bất cứ thời đại nào, người lao động cũng
đóng vai trò quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng sự khác nhau giữa
các thời đại kinh tế nằm ở chỗ, trong thời đại nào, yếu tố nào thuộc về người lao động
trong lực lượng sản xuất giữ vai trò quan trọng hơn các yếu tố khác. Bởi vậy, sự thay
đổi vai trò của các yếu tố cấu thành nhân tố người lao động chính là tiêu chí đánh giá sự
khác biệt của nhân tố người lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại với lực lượng
sản xuất trước kia.

18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NGÀNH KỸ THUẬT XÂY DỰNG
Với xu thế phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hội nhập quốc tế và mục tiêu đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì việc nâng cao chất lượng ngành đào tạo
nguồn nhân lực ngày càng được chú trọng một trong số đó là ngành xây dựng kỹ thuật
xây dựng. Hiểu một cách đơn giản - là ngành chủ yếu đào tạo chuyên sâu về các lĩnh
vực liên quan đến xây dựng cơ bản như: tư vấn thiết kế, cơ sở tổ chức hoạt động thi
công công trình và quản lý xây dựng, giám sát công trình cũng như các công trình xây
dựng để phục vụ cho đời sống của con người
2.1. Đặc điểm nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay.
Trong ngành xây dựng, thị trường đòi hỏi trình độ về quản lý, sự chuyên nghiệp,
khả năng sử dụng công nghệ để mang lại tính công bằng trong khai thác thị trường. Khi
nhắc đến công nghiệp xây dựng của Nhật Bản, bạn không thể không nhớ đến những cao
ốc với khả năng chống chịu các trận động đất hay những công trình chuyên biệt cho các
cơ sở năng lượng như là hạt nhân, khí ga lỏng… Có thể khẳng định rằng, yếu tố quyết
định 50% chất lượng của một công trình đó chính là các kỹ sư xây dựng.
Ngành xây dựng tạo ra nhiều việc làm nhưng cũng như các ngành kinh tế khác
trong cơ chế thị trường, số lượng việc làm dao động khá lớn theo các giai đoạn trong
chu kỳ phát triển của kinh tế quốc dân. Công nhân xây dựng có tiền lương giờ tương tối
cao và thường làm việc trên 40 giờ mỗi tuần, một bộ phận thậm chí còn làm hơn 45 giờ
mỗi tuần. Tiền lương phụ thuộc vào trình độ và kinh nghiệm, loại hình công việc, mức
độ phức tạp của dự án và điều kiện địa lý. Tiền lương còn biến động theo tình hình thời
tiết và tiến độ thi công của công trình do bộ phận khác làm trước trong dây chuyền thi
công. Tuy an toàn lao động được tổ chức tốt nhưng số tai nạn trong ngành công nghiệp
xây dựng vẫn tương đối cao hơn nhiều ngành khác
2.2. Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng
trong bối cảnh toàn cầu hoá.
2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực ngành kỹ thuật xây dựng trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay.
Thực trạng nguồn nhân lực có một vai trò rất quan trọng trong những dự
án xây dựng, nó ảnh hưởng đến năng suất lao động, tiến độ và chi phí của cả dự
án. Hơn thế nữa, nguồn lao động còn góp phần vào quá trình phát triển kinh tế
của cả nước. Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, vấn đề nguồn lao động
đòi hỏi cao hơn về tay nghề, kỹ năng và chất lượng đào tạo.
2.2.1.1. Tích cực
- Ngành xây dựng Việt Nam còn khá non trẻ với lịch sử, trẻ hơn 60 năm
được đánh dấu bởi quá trình chuyển dịch từ kinh tế Nhà nước sang
19
kinh tế tư nhân. Hiện nay, ngành đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc
với tốc độ tăng trưởng giảm dần. Nhưng áp lực cạnh tranh lại gia tăng
tới năm 2023, dự kiến ngành xây dựng tăng trưởng trung bình
7,1%/năm với thị phần 9 - 10 sản phẩm nhà không để ở, ngược lại xây
dựng nhà ở và cơ sở hạ tầng dự kiến sẽ có tăng trưởng chậm vào giai
đoạn này.
- Đầu năm 2020, Đại dịch covid-19 là làm ảnh hưởng rõ rệt đến nền
kinh tế nói chung cũng như thị trường xây dựng nói riêng. Đặc biệt là
xây dựng bất động sản, du lịch nghỉ dưỡng, tuy nhiên cũng do tác động
của dịch bệnh này đối với Trung Quốc là khá nặng nề kèm theo đó là
hệ quả của chiến tranh Mỹ - Trung, khiến xu hướng chuyển dịch đầu
tư từ Trung Quốc sang Việt Nam ngày càng tăng cao. Do vậy, khu vực
bất động sản công nghiệp lại đang có những hy vọng tăng trưởng tích
cực, theo khảo sát với các giám đốc của các công ty xây dựng trong
giai đoạn 5 năm tới, hai mảng kinh doanh chủ yếu của ngành xây dựng:
hạ tầng và xây dựng công nghiệp. Chiến dịch phòng chống biến đổi
khí hậu các doanh nghiệp xây dựng, hạ tầng được hỗ trợ khi chính phủ
đẩy mạnh đầu tư công với hàng loạt các dự án đầu tư trọng điểm quốc
gia và các công trình công nghiệp quy mô lớn, các dự án hạ tầng, nhắm
vào đô thị và các dự án điện gió và thủy lợi.
- Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế- xã hội cần sự hội nhập
quốc tế và chất lượng cuộc sống ngày càng cao, kéo theo nhu cầu ở
tăng lên, mở ra cơ hội cho ngành kỹ thuật xây dựng ngày càng phát
triển. Hàng loạt các công ty, tập đoàn xây dựng ra đời đẩy mạnh hoạt
động trên thị trường cả nước thậm chí ra nước ngoài. Dẫn đến nhu cầu
tuyển dụng cao, từ đó khẳng định xuất khẩu của ngành là vô cùng lớn,
thể hiện ở việc các cơ sở đào tạo các trường đại học, cao đẳng đang
ngày càng chú trọng và đầu tư về chất lượng nguồn nhân lực cho ngành
này. Sinh viên theo học ngành kỹ thuật xây dựng sẽ được trang bị đầy
đủ những kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp tốt nhất, hiện
nay các trường đào tạo ngành cũng có rất nhiều các chính sách và
chương trình liên kết đào tạo hỗ trợ việc làm cho sinh viên sau khi ra
trường làm việc trong các tập đoàn công ty uy tín chất lượng do đó
sinh viên tốt nghiệp là một kỹ thuật xây dựng đầu sẽ không phải quá
lo lắng vấn đề việc làm và có cơ hội được phát huy thể hiện khả năng
cũng như mở rộng cơ hội phát triển trên con đường sự nghiệp.
- Với bối cảnh hiện tại, song song với việc đẩy mạnh công tác phòng
chống dịch Covid-19, Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành cũng đang
tập trung tìm mọi cách để đẩy mạnh việc hỗ trợ doanh nghiệp, phục
hồi kinh tế. Cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang đề nghị chương trình
800 nghìn tỷ đồng (32 tỷ USD) cho 4 chương trình: Hỗ trợ an sinh,

20
việc làm; Hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã; Hỗ trợ phát triển kết cấu
hạ tầng; Bộ Xây dựng cũng đang đề xuất một gói hỗ trợ 65.000 tỷ cho
gói nhà ở công nhân..
2.2.1.2. Hạn chế
- Khó khăn lớn nhất của ngành xây dựng trong một thời gian dài chính
là bị trói buộc bởi các thủ tục và quy định. Từ 21/9/2021, sau khi có
lệnh nới lỏng giãn cách, các doanh nghiệp xây dựng đều cố gắng khắc
phục mọi khó khăn để bù đắp lại khoảng thời gian đã mất do giãn cách,
ngừng việc. Tuy nhiên, khả năng thanh toán của các chủ đầu tư đã luôn
bị chậm trễ, mạch tài chính của các chủ đầu tư cũng bị đứt gãy cộng
với việc siết chặt tín dụng BĐS của Ngân hàng Nhà nước để kiểm soát
rủi ro, nên khá nhiều dự án bị tắc dòng tiền. Chủ đầu tư không vay
được ngân hàng, dẫn đến tài chính của các nhà thầu rất khó khăn. Bên
cạnh đó thủ tục hồ sơ thanh quyết toán của các gói đầu tư công cũng
còn rất phức tạp, nhiêu khê, mất thời gian. Ví dụ các nhà thầu đang
tham gia gói thầu đường cao tốc Bắc - Nam bị chậm trễ về thủ tục giải
ngân, về thủ tục mua mỏ đất để lấp nền...
- Một vấn đề nan giải nữa cho các nhà thầu xây dựng trong năm 2021 là
giá vật liệu xây dựng tăng phi mã trong cả năm, đặc biệt là giá thép có
thời điểm tăng đến 30 - 40% so với tháng 11/2020. Tất cả các vật liệu
đều tăng cao dẫn đến giá thành xây dựng đều nhích lên từ 7 - 10%. Tuy
nhiên, đơn giá thi công của nhà thầu lại không được tăng tương ứng,
do hợp đồng ký đơn giá cố định với chủ đầu tư hoặc hợp đồng trọn gói.
- Những công việc chiếm 20% chi phí xây dựng nhưng lại là yếu tố then
chốt quyết định khả năng và chất lượng thi công của mỗi công trình.
Sản phẩm đa dạng và môi trường hoạt động khó kiểm soát khiến cho
phần lớn các hoạt động công trình xây dựng đều cần đến con người.
Phần lớn nhân lực là lao động phổ thông, trong xây dựng sử dụng lao
động thời vụ (lao động ngắn hạn) là chủ yếu. Theo khảo sát mới nhất
của GSO, lao động thời vụ chiếm tới 60% nhân lực trong các doanh
nghiệp xây dựng, việc sử dụng loại hình lao động này tăng tính linh
hoạt cho doanh nghiệp xây dựng. Là một yếu tố cạnh tranh quan trọng
do khối lượng công việc của ngành thường không ổn định, có nhiều
biến động về địa điểm và khối lượng công việc.
Theo tổng cục thống kê ngành xây dựng Việt Nam sử dụng khoảng
3,4 triệu lao động trên 15 tuổi, đứng thứ 5 trong số các ngành kinh tế cả
nước. Tuy nhiên chỉ một phần rất nhỏ trong số những lao động này đã qua
đào tạo, cũng theo số liệu tổng cục thống kê tính đến quý 2019, có khoảng
13,2 triệu lao động trên 15 tuổi đã qua đào tạo. Trong đó, tỷ lệ lao động
xây dựng đã qua đào tạo chỉ đạt 13,1%, lượng lao động này chủ yếu là
nhóm quản lý và kỹ thuật vận hành máy móc vì vậy chỉ chiếm tỷ trọng

21
nhỏ nhưng đây lại là lực lượng nhân sự chủ chốt của doanh nghiệp xây
dựng, ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng cạnh tranh của tổ chức.
Theo số liệu của bộ xây dựng, cơ cấu nguồn nhân lực của ngành
gồm tỷ lệ cơ cấu kỹ sư trung cấp - chuyên nghiệp, công nhân học nghề là
11.305 trong khi đó với các nước trên thế giới tỷ lệ này là 1.410. Với tỷ lệ
này, tại nhiều công trình lớn đang xảy ra cảnh lao động nông nhàn làm
thay việc cho công nhân kỹ thuật, thực trạng này là đáng báo động về nhu
cầu nhân lực chất lượng, cần được qua đào tạo bài bản hiểu biết về nghề
nghiệp, có chuyên môn và kỹ năng công việc nhất là ở các cấp quản lý.
Theo đánh giá, việc tổ chức đào tạo ở các cấp học còn nặng nề về lý thuyết
thiếu thời gian thực hành không chú trọng việc nâng cao trình độ kỹ thuật
và chuyên môn cho các cấp quản lý. Thực trạng này được xem là trong
những nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động thấp, tiến độ chất lượng
sản phẩm còn kém, làm giảm sức cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa,
hạn chế năng lực khi tham gia vào thị trường quốc tế.
2.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động ngành xây dựng trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Tốc độ phát triển của ngành xây dựng quá nhanh, vấn đề đầu tư và các số
lượng công trình xây dựng đang trên đà tăng trưởng mạnh, nhưng nhiều cơ chế
chính sách liên quan đến quản lý tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế thị trường còn chưa theo kịp. Sau đây là một số gợi ý
giúp nâng cao chất lượng nhân lực ngành xây dựng:
- VACC đề xuất Chính phủ hỗ trợ về vốn bằng việc cho vay ưu đãi giá
rẻ và thủ tục đơn giản để các doanh nghiệp xây dựng vượt qua được
thách thức trước mắt.
- Bên cạnh đó, việc cải tiến các thủ tục đấu thầu và hợp đồng xây dựng
trong đó cần quyết tâm đưa việc bảo lãnh thanh toán khoản 35% cuối
của hợp đồng để giải mã việc nợ đọng xây dựng tồn tại như một căn
bệnh trầm kha từ nhiều năm nay. Đây là các vấn đề liên quan đến Luật
Đấu thầu, quy định về bảo lãnh.
- Có biện pháp để chỉ đạo các Sở Xây dựng địa phương cập nhật kịp thời
chính xác sự biến động của giá vật liệu trên thị trường nhằm giảm thiểu
những thiệt thòi cho các nhà thầu xây dựng. Đây là vấn đề quy định
liên quan đến Luật giá...
- Chú trọng đào tạo ngay tại các trường đại học, cao đẳng về nhà sản
xuất cho các doanh nghiệp. Có được đội ngũ lao động ngành nghề có
chất lượng ngay từ đầu, giảm chi phí đào tạo lại nhân lực sau khi vào
làm việc. Không chỉ có vậy, nó còn hạn chế tình trạng “thừa thầy thiếu
thợ”, quản lý phải làm công việc của kỹ thuật.
- Định kỳ đánh giá tay nghề của đội ngũ lao động, tìm ra những điểm
còn hạn chế trong tổ chức. Từ đó, lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có những

22
giải pháp phù hợp nhằm thu hút nhân sự chất lượng cao, gia tăng sự
hài lòng và cam kết của nhân viên. Cũng thông qua hoạt động đánh giá
này, nhà quản lý có những điều chỉnh phù hợp nhằm gia tăng hiệu quả
làm việc giúp doanh nghiệp đạt mục tiêu đề ra.
- Xây dựng và đề cao mô hình học tập ngay trong doanh nghiệp, nhất là
đối với đội ngũ cán bộ quản lý. Nhất là doanh nghiệp ngành xây dựng
hiện nay, đang quá chú trọng về phát triển kinh doanh mà quên đi công
tác đào tạo nội bộ, việc này khiến cho chất lượng nguồn nhân lực sản
xuất doanh nghiệp lao đao. Khi không giữ chân được nhân tài, chính
vì vậy doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc nâng cao
chất lượng đội ngũ quản lý từ việc phát triển năng lực lãnh đạo đến
việc nâng cao tư duy ra quyết định giải quyết vấn đề.
- Nâng cao nhận thức của người lao động về vai trò, vị trí, trách nhiệm
của mình trong nền sản xuất. Để nâng cao vai trò, vị thế, trách nhiệm
của người lao động trong nền sản xuất hiện đại, cần đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ sản xuất.
Cần cải tạo đồng bộ cả ba quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối sản phẩm một cách thỏa đáng, phù hợp. Điều đó góp phần xóa bỏ
tình trạng “lao động bị tha hóa”, “lao động bị cưỡng bức”.
Ngành xây dựng là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế có nhiệm vụ đi trước
mở đường trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước hướng tới mục tiêu đưa nước
ta trở thành nước công nghiệp hóa hiện đại hóa để hoàn thành trọng trách đó càng được
quan tâm và phát triển về mọi mặt đặc điểm là yếu tố nguồn nhân lực. Năm 2021, dịch
bệnh Covid-19 phức tạp đã ảnh hưởng rất lớn đến mọi lĩnh vực trong nền kinh tế, trong
đó có ngành xây dựng. Tuy nhiên, với sự điều hành linh hoạt của chính phủ, các doanh
nghiệp xây dựng đã vượt qua đại dịch Covid-19 tương đối thành công.

23
KẾT LUẬN
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên nguồn lực khoa học
công nghệ nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất. Bởi lẽ những
nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy
những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa
dạng và phong phú các lĩnh vực khoa học khác nhau có thể hiểu nguồn lực theo những
cách khác nhau nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân
tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau tạo nên sự phát triển của
một sự vật hiện tượng nào đó từ cách hiểu như vậy nguồn lực con người là những yếu
tố có thể huy động sử dụng để thúc đẩy nền kinh tế đất nước và sự phát triển của xã hội.
Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
đã có những bước phát triển đáng kể so với trước kia: Công cụ lao động và đối tượng
lao động ngày càng được cải tiến; khoa học - công nghệ được ứng dụng ngày càng nhiều
vào quá trình sản xuất, góp phần đáng kể trong việc giải phóng sức lao động, tăng năng
suất lao động và hiện đại hóa nền sản xuất. Đặc biệt, với quan điểm: Coi con người là
trung tâm của mọi sự phát triển, Đảng ta đã rất chú trọng đến việc phát triển nhân tố con
người, coi việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong ba khâu đột phá chiến lược quan trọng. Do đó, người lao động Việt Nam đã có
những bước phát triển đáng kể về thể lực, sức khỏe; trình độ, tay nghề; khả năng thích
nghi, tính sáng tạo... Tuy nhiên, nhìn chung, con người Việt Nam nói chung và người
lao động nước ta vẫn còn còn nhiều hạn chế cả về thể lực và trình độ tay nghề; ý thức
đạo đức nghề nghiệp, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái chưa cao. Điều đó ảnh hưởng
đáng kể đến độ bền, sự dẻo dai, tính chuyên nghiệp, khả năng đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nền sản xuất hiện đại ở người lao động nước ta.
Một thị trường thay đổi, cùng với tiến bộ công nghệ và những nhân tố mới có
tính đột phá sẽ tạo ra cú hích thay đổi toàn diện hoạt động của ngành xây dựng. Những
cú hích như công nghệ sản xuất mới, quá trình số hóa sản phẩm, số hóa các kênh bán
hàng, công nghệ vật liệu mới đều được dự báo tăng lên so với giai đoạn trước. Tất cả
những thay đổi trên đã và đang làm cho toàn ngành xây dần “lột xác” với một diện mạo
hoàn toàn mới, trở nên mạnh hơn, bền bỉ hơn. Ngành đang cần nguồn nhân lực chất
lượng cao, chú trọng kỹ năng chuyên môn – kỹ năng tay nghề, có kiến thức hiện đại văn
minh, góp phần phát triển ngành trong và ngoài nước.
Như vậy, phát triển nhân tố người lao động chính là cách thức quan trọng, đóng
vai trò quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất hiện nay, góp phần đáng kể vào việc
thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, phát triển kinh tế tri thức và tăng cường hội nhập quốc tế.

24
PHỤ LỤC
Được biết, các dự án hạ tầng lớn trong năm 2022 sẽ được Chính phủ tập trung
đẩy nhanh tiến độ, như cao tốc Bắc-Nam, Cảng HKQT Long Thành..

Biểu đồ triển vọng ngành xây dựng hạ tầng năm 2022 với động lực đầu tư công
(Hình 1.1)

25
Sắp tới là thời điểm chín muồi của nhóm xây dựng hạ tầng năng lượng. Trong
giai đoạn 2020-2045, mục tiêu tăng trưởng kép công suất NLTT là 7.3%, chiếm 41%
tổng công suất điện cả nước năm 2045, tăng mạnh so với mức 25.8% năm 2020.
Biểu đồ cơ cấu nhóm xây dựng hạ tầng năng lượng trong nhiều năm sắp tới
(Hình 1.2)

26
Sơ đồ một số xu hướng nổi bật ngành xây dựng trong thời kỳ hậu COVID-

19
(Hình 1.3)

Theo thống kế của SSI Research, các doanh nghiệp ngành Xây dựng ghi nhận
mức tăng trưởng thị giá đến 58% trong năm 2021. Các doanh nghiệp có cổ phiếu ghi
nhận mức biến động tốt nhất bao gồm Công ty cổ phần Xây dựng FLC Faros - ROS
(+390%); Tập đoàn xây dựng Hòa Bình - HBC (+86%). Nếu loại trừ các cổ phiều như
ROS, HUT thì ngành xây dựng trong năm 2021 đạt mức tăng 28%. Theo SSI Research,
kết quả khả quan này phản ánh một phần kỳ vọng lợi nhuận phục hồi của các doanh
nghiệp xây dựng trong năm 2022.
Cụ thể, Luật Đất đai 2013 có thể sẽ được xúc tiến sửa đổi trong năm 2022 để
hoàn thành vào tháng 5/2023. Bên cạnh đó, việc xem xét sửa đổi, bổ sung quy định trong
Luật Nhà ở 2014 về việc công nhận chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại đối với chù đầu
tư có quyền sử dụng đất 100% là đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp không phải
là đất ở. Nếu được thông qua sẽ có hàng loạt dự án bất động sản được khởi động, tạo ra
khối lượng việc làm rất lớn cho các doanh nghiệp xây dựng.
Đối với 2 doanh nghiệp là Công ty Cổ phần Xây dựng Coteccons (CTD) và Công
ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng Hoà Bình (HBC) trong năm 2021, có giá trị hợp đồng
mới tương ứng khoảng 25 nghìn tỷ đồng và 18 nghìn tỷ đồng, gấp 2 lần so với năm
2020. Theo nhận định của SSI Research, việc giá thép xây dựng điều chỉnh giảm trong
năm 2022 có thể giúp cải thiện biên lợi nhuận cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực thầu
xây dựng.

27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chủ biên GS.TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình Triết học Mác-Lênin.
2. Lê Thị Chiên (2015), “Về lực lượng sản xuất hiện đại”, Tạp chí Lý luận
Chính trị, số 5, tr.24-30.
3. Lê Thị Chiên (2017), “Yếu tố người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt
Nam sau 30 năm đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 53-59.
4. VNDirect, “Triển vọng ngành xây dựng hạ tầng năm 2022 với động lực đầu
tư công”, diễn đàn Vimoney, https://vi.money/trien-vong-nganh-xay-dung-
ha-tang-2022-vndirect-52550/ . 21/02/2022
5. Lê Sáng, “Triển vọng ngành xây dựng năm 2022”, Báo Diễn đàn doanh
nghiệp, https://diendandoanhnghiep.vn/trien-vong-nganh-xay-dung-nam-
2022-lac-quan-trong-than-trong-216128.html. 21/02/2022
6. PGS.TS. Ngô Tuấn Nghĩa, “Con người là mục tiêu và động lực trong đường
lối phát triển kinh tế”, Tuyên Giáo, https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-
dang-vao-cuoc-song/con-nguoi-la-muc-tieu-va-dong-luc-trong-duong-loi-
phat-trien-kinh-te-134202 .12/02/2022
7. Diệu Hoa, “8 nhiệm vụ trọng tâm ngành xây dựng trong năm 2022”, Diễn đàn
doanh nghiệp, https://diendandoanhnghiep.vn/8-nhiem-vu-trong-tam-nganh-
xay-dung-trong-nam-2022-213440.html. 20/02/2022
8. TS. Lê Minh Nghĩa, “Giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (phần 1)”, Trang thông tin điện
tử Hội đồng Lý luận Trung ương, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/gia-
tri-cot-loi-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-moi-quan-he-giua-luc-luong-san-
xuat-va-quan-he-san-xuat--phan-1.html. 12/02/2022
9. Lê Thị Chiên (2016), “Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam theo tinh thần
của Đại hội XII”, Tạp chí Thông tin Lý luận chính trị, số 9, 10 (22, 23), tr.
16-23.

28

You might also like