You are on page 1of 292

8 Các doanh nghiệp và thị trường cạnh tranh

Sự cạnh tranh tạo ra những thị trường tốt nhất và những con người tàn ác nhất.

Thách thức: Chi phí của việc vận tải đường bộ ngày càng tăng cao

Các doanh nghiệp liên tục phàn nàn về chi phí và tệ quan liêu mà các quy định của
chính phủ áp đặt lên họ. Các tài xế xe tải và các công ty vận tải đường bộ ở Mỹ có
một mối quan tâm đặc biệt. Phí liên bang và tiểu bang đã tăng lên đáng kể trong
những năm gần đây và các tài xế xe tải đã phải tuân thủ nhiều quy định mới.

Cục An Toàn Vận Tải Hành Khách Liên Bang cùng các cơ quan vận tải tiểu bang ở
41 tiểu bang quản lý giấy phép vận tải đường bộ liên tiểu bang thông qua thỏa thuận
đăng ký nhà cung cấp dịch vụ thống nhất. Dựa theo trang web của Cục An Toàn Vận
Tải Hành Khách Liên Bang năm 2013 có 27 loại quy định dành cho người điều khiển
phương tiện giao thông, 16 loại quy định về phương tiện, 42 loại quy định cho công
ty, 4 loại quy định về vật liệu nguy hiểm và 14 loại quy định hướng dẫn khác (Tất
nhiên, họ có thể đã thêm một số quy tắc bổ sung trong khi tôi viết câu cuối cùng này
1
). Tài xế xe tải cũng phải duy trì bảo hiểm tối thiểu, đăng ký thanh toán lệ phí và
tuân theo các chính sách khác nhau của các tiểu bang trước khi FMCSA cấp các thẩm
quyền thực tế (cấp giấy phép vận hành). Quá trình đăng ký ấy phức tạp và tốn thời
gian đến nỗi các công ty phải trả số tiền đáng kể để các nhà môi giới đẩy nhanh quá
trình nộp đơn và quan tâm đến các yêu cầu cấp phép của nhà nước.

Đối với xe tải lớn, phí đăng ký liên bang hàng năm có thể vượt qua con số 8.000
USD.
Để hoạt động, các tài xế xe tải và doanh nghiệp phải trả thêm nhiều khoản phí và
điều lệ tốn kém. Đây phần lớn là chi phí trọn gói, được trả một lần – không liên quan
đến số km đã điều khiển – đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây. Trong giai
đoạn khủng hoảng tài chính 2007 – 2009, nhiều băng đã tăng phí hàng năm từ vài
trăm lên vài nghìn đô la cho mỗi xe tải. Trước khi tham gia kinh doanh vận tải đường
bộ liên bang, một doanh nghiệp phải tham gia vào quy trình đảm bảo an toàn cho
người mới tham gia, quy trình này đã nâng cao tiêu chuẩn về tuân thủ việc vượt qua
cuộc kiểm tra an toàn dành cho người mới tham gia bắt đầu từ năm 2009. Tính đến
năm 2012, mỗi chiếc xe tải phải trang bị bổ sung một máy ghi âm điện tử trên xe, ghi
lại thời gian di chuyển, khoảng cách di chuyển và có giá $1.500. Những chi phí cố
định mới này có ảnh hưởng gì đến giá và lượng cung thị trường của ngành vận tải
đường bộ? Liệu các doanh nghiệp riêng lẻ có cung cấp nhiều hơn hoặc ít dịch vụ vận
tải đường bộ hơn? Số lượng doanh nghiệp trên thị trường tăng lên hay giảm xuống?
(Như vậy chúng ta sẽ thảo luận ở cuối chương, câu trả lời cho một trong những câu
hỏi này thật đáng ngạc nhiên)

1 Quả thực lần đầu tôi kiểm tra sau khi viết câu đó, tôi thấy họ đã thêm quy định mới cấm tài xế xe
tải nhắn tin khi đang lái xe.( Tất nhiên, nhiều quy tắc và quy định này giúp bảo vệ xã hội nói chung
và tài xế xe tải nói riêng)

Một trong những câu hỏi chính mà một hãng vận tải đường bộ hoặc các doanh
nghiệp đặt ra là “ Chúng ta nên sản xuất bao nhiêu?” Để chọn được mức sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp phải xem xét hàm chi phí và số lượng có thể bán
ở một mức giá nhất định. Số lượng mà công ty có thể bán được phụ thuộc vào nhu
cầu của người tiêu dùng trên thị trường và niềm tin của công ty về cách hành xử của
các công ty khác trên thị trường. Hành vi của các doanh nghiệp phụ thuộc vào cơ cấu
thị trường: số lượng doanh nghiệp trên thị trường, mức độ dễ dàng mà các doanh
nghiệp có thể gia nhập và rời khỏi thị trường và khả năng của các doanh nghiệp trong
việc tạo sự khác biệt cho sản phẩm của mình với đối thủ.

Trong chương này chúng ta xem xét cấu trúc thị trường cạnh tranh, trong đó có
nhiều các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm giống hệt nhau và các doanh nghiệp
có thể dễ dàng gia nhập hay rời bỏ thị trường. Bởi vì mỗi hãng sản xuất một phần
nhỏ trong tổng sản lượng thị trường và sản lượng của nó giống hệt với các hãng khác
nên mỗi hãng là người chấp nhận giá và không thể tăng giá cao hơn giá thị trường.
Nếu cố gắng làm như vậy hãng này sẽ không thể bán bất kỳ sản phẩm nào của mình
vì người tiêu dùng sẽ mua hàng hóa đó với giá thấp hơn từ các hãng khác trên thị
trường. Giá thị trường tóm tắt tất cả những điều doanh nghiệp cần biết về nhu cầu của
người tiêu dùng và hành vi của đối thủ cạnh tranh. Do đó, sự cạnh tranh của doanh
nghiệp có thể bỏ qua hành vi cụ thể của từng đối thủ trong việc quyết định nên sản
xuất bao nhiêu.2
Cơ cấu thị trường: Số lượng doanh nghiệp ở thị trường, sự dễ dàng mà doanh nghiệp có thể tham
gia và rời khỏi thị trường và khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo sự khác biệt cho sản phẩm
của mình với đối thủ .

Trong chương này chúng ta kiểm tra 4 chủ đề chính

1. Cạnh tranh hoàn hảo: Doanh nghiệp cạnh tranh là người chấp nhận giá do đó nó
phải đối mặt với tác động ngang của đường cầu.
2. Tối đa hóa lợi nhuận: Để tối đa hóa lợi nhuận, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đưa ra
2 quyết định: sản xuất bao nhiêu và có sản xuất hay không?
3. Cạnh tranh trong ngắn hạn: Chi phí biến đổi xác định mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, cạnh tranh đường cung doanh nghiệp và đường cung của thị trường và cùng
với nhu cầu của thị trường, trạng thái cân bằng cạnh tranh trong ngắn hạn.
4. Cạnh tranh trong dài hạn: Cung của doanh nghiệp, cung của thị trường và trạng
thái cân bằng cạnh tranh trong dài hạn khác với trong ngắn hạn vì các doanh nghiệp
có thể thay đổi đầu vào cố định trong ngắn hạn.

8.1 Cạnh tranh hoàn hảo


Cạnh tranh là một cấu trúc thị trường chung có những đặc tính rất đáng mong đợi, vì
vậy việc so sánh các cấu trúc thị trường khác với cạnh tranh là rất hữu ích. Trong
phần này, chúng tôi mô tả các đặc tính của doanh nghiệp và thị trường cạnh tranh.

Chấp nhận giá


Khi hầu hết mọi người nói về “ các công ty cạnh tranh” họ muốn nói đến các công ty
là đối thủ cho cùng một khách hàng. Theo cách giải thích này bất kỳ thị trường nào
có nhiều hơn một công ty đều có tính cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với một nhà kinh tế
học, chỉ một số thị trường đa công ty này là có tính cạnh tranh.

Các nhà kinh tế cho rằng thị trường có tính cạnh tranh nếu mỗi doanh nghiệp trên thị
trường chấp nhận một mức giá: một doanh nghiệp không thể tác động đáng kể đến
giá thị trường đối với đầu ra sản phẩm của nó hoặc giá mua đầu vào. Tại sao một
doanh nghiệp cạnh tranh lại chấp nhận một mức giá?
2 Ngược lại, mỗi công ty độc quyền theo nhóm phải xem xét hành vi của từng đối thủ cạnh tranh
với mình, như chúng ta thảo luận ở chương 13.

Bởi vì nó không có sự lựa chọn. Doanh nghiệp phải chấp nhận một mức giá nếu phải
đối mặt với đường cầu nằm ngang mức giá thị trường. Nếu đường cầu nằm ngang ở
mức giá thị trường thì hãng đó có thể bán bao nhiêu tùy thích ở mức giá đó, do đó
hãng không có động cơ để giảm giá. Tương tự hãng không thể tăng giá bán bằng
cách hạn chế sản lượng vì nó phải đối mặt với một lượng cầu co giãn vô hạn ( xem
chương 3): Giá tăng nhẹ sẽ khiến lượng cầu của nhóm giảm xuống bằng 0.

Tại sao đường cầu của hãng lại nằm ngang


Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có 5 đặc điểm buộc doanh nghiệp phải chấp nhận
giá:

1. Thị trường bao gồm nhiều người mua và người bán nhỏ.
2. Tất cả các hãng đều sản xuất những sản phẩm giống hệt nhau.
3. Mọi người tham gia thị trường đều có đầy đủ thông tin về giá cả và đặc tính
sản phẩm.
4. Chi phí giao dịch không đáng kể.
5. Các doanh nghiệp có thể dễ dàng tham gia và rời bỏ thị trường.

Số lượng lớn người mua và người bán

Nếu số lượng người bán trên thị trường ít hoặc rất nhiều thì không một công ty nào
có thể tăng hoặc giảm giá thị trường. Càng có nhiều doanh nghiệp tham gia thị
trường thì sản lượng của một doanh nghiệp càng ít ảnh hưởng đến sản lượng thị
trường và do đó ảnh hưởng đến giá thị trường.

Ví dụ, 107.000 nông dân trồng đậu nành ở Mỹ là người chấp nhận mức giá. Nếu
một người trồng trọt điển hình rút lui khỏi thị trường, nguồn cung thì trường sẽ chỉ
giảm 1/107.000 = 0,00093% nên giá thị trường sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể. Mỗi
trang trại đậu nành có thể bán sản lượng nhiều nhất có thể ở mức giá cân bằng thị
trường hiện hành, vì vậy mỗi trang trại phải đối mặt với một đường cầu là đường
nằm ngang theo giá thị trường.
Tương tự như vậy, cạnh tranh hoàn hảo đòi hỏi người mua cũng phải là người chấp
nhận giá. Ví dụ: nếu các công ty chỉ bán cho một người mua duy nhất, chẳng hạn như
nhà sản xuất vũ khí chỉ được phép bán cho chính phủ thì người mua có thể ấn định
giá và thị trường không có tính cạnh tranh không hoàn hảo.

Sản phẩm giống nhau

Các doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo bán các sản phẩm giống hệt
nhau hoặc đồng nhất. Người tiêu dùng không hỏi trang trại nào trồng táo Granny
Smith vì họ coi tất cả táo Granny Smith về cơ bản là giống hệt nhau. Nếu sản phẩm
của tất cả các doanh nghiệp là giống hệt nhau thì khó có một doanh nghiệp nào có thể
tăng giá cao hơn mức giá hiện tại của các doanh nghiệp khác.

Ngược lại, trong thị trường ô tô – thị trường không có tính cạnh tranh hoàn hảo – các
đặc điểm của BMW 5 Series và Honda Civic khác nhau đáng kể. Những sản phẩm
này có tính khác biệt hoặc không đồng nhất. Sự cạnh tranh từ Civics sẽ không hiệu
quả lắm trong việc ngăn chặn BMW tăng giá.

Thông tin đầy đủ:

Nếu người mua biết rằng các công ty khác nhau đang sản xuất những sản phẩm
giống hệt nhau và họ biết mức giá của tất cả các công ty thì không một công ty nào
có thể đơn phương tăng giá của mình cao hơn giá cân bằng thị trường. Nếu họ cố
gắng làm như vậy, người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm tương tự từ một công ty khác.
Tuy nhiên nếu người tiêu dùng không biết rằng các sản phẩm giống hệt nhau hoặc họ
không biết giá của các công ty khác thì một công ty có thể tăng giá mà vẫn bán được
hàng.

Chi phí giao dịch không đáng kể

Thị trường cạnh tranh hoàn hảo có chi phí giao dịch rất thấp. Người mua và người
bán không phải tốn nhiều thời gian, tiền bạc để tìm nhau hoặc thuê luật sư viết hợp
đồng để thực hiện giao dịch 3. Nếu chi phí giao dịch thấp, khách hàng sẽ dễ dàng mua
hàng của công ty đối thủ nếu nhà cung cấp thông thường của khách hàng tăng giá.

Ngược lại nếu chi phí giao dịch cao, khách hàng có thể chấp nhận sự tăng giá từ một
nhà cung cấp truyền thống.Ví dụ, vì một số người tiêu dùng thích mua sữa ở cửa
hàng tiện lợi địa phương hơn là đi vài dặm đến siêu thị nên cửa hàng tiện lợi có thể
tính chi phí nhiều hơn siêu thị một chút mà không mất tất cả khách hàng.

Trong một số thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nhiều người mua và người bán tập
trung lại trong một phòng do đó chi phí giao dịch gần như bằng không. Ví dụ, chi phí
giao dịch rất thấp tại các cuộc đấu giá hoa hàng ngày của FloraHolland ở Hà Lan, nơi
thu hút 7.000 nhà cung cấp và 4.500 người mua từ khắp nơi trên thế giới. Nó có
125.000 giao dịch đấu giá mỗi ngày, với 12 tỷ bông hoa cắt cành và 1,3 tỷ cây trồng
được giao dịch trong một năm.

Gia nhập và rút lui tự do

Các doanh nghiệp có thể tham gia và rút khỏi thị trường một cách tự do dẫn đến
một số lượng lớn các doanh nghiệp trong một thị trường và thúc đẩy việc chấp nhận
giá. Giả sử một công ty có thể tăng giá và tăng lợi nhuận của nó. Nếu các công ty
khác không thể tham gia thị trường, công ty sẽ không phải là người chấp nhận giá.
Tuy nhiên, nếu các công ty khác có thể gia nhập thị trường một cách dễ dàng và
nhanh chóng thì lợi nhuận cao sẽ khuyến khích các công ty mới gia nhập thị trường
cho đến khi giá bị đẩy lùi về mức ban đầu. Thoát khỏi thị trường tự do cũng rất quan
trọng: Nếu các doanh nghiệp có thể tự do tham gia thị trường nhưng không thể thoát
ra dễ dàng nếu giá giảm, họ không muốn tham gia thị trường để đáp lại cơ hội lợi
nhuận tạm thời. 4

Cạnh tranh hoàn hảo tại sở giao dịch hàng hóa Chicago

Sàn giao dịch hàng hóa Chicago, nơi người mua và người bán có thể giao dịch lúa
mì và các hàng hóa khác có nhiều đặc điểm khác nhau của cạnh tranh hoàn hảo bao
gồm hàng nghìn người mua và người bán là người chấp nhận giá. Bất cứ ai cũng có
thể là người mua hoặc người bán. Thật vậy, một thương nhân có thể mua lúa mì vào
buổi sáng và bán nó vào buổi chiều. Họ kinh doanh các sản phẩm gần như giống hệt
nhau. Người mua và người bán có đầy đủ thông tin về sản phẩm, giá cả, được đăng
tải để mọi người cùng xem. Nhưngc người tham gia thị trường không lãng phí thời
gian để tìm người muốn giao dịch và họ có thể dễ dàng đặt lệnh mua hoặc bán trực
tiếp qua điện thoại hoặc điện tử mà không cần giấy tờ do đó chi phí giao dịch không
đáng kể. Cuối cùng người mua và người bán có thể dễ dàng gia nhập thị trường và
giao dịch nhịp nhàng. Những đặc điểm này dẫn đến sự phong phú của người mua và
người bán cũng như dẫn đến hành vi chấp nhận giá của những người tham gia thị
trường này.

Những sai lệch so với cạnh tranh hoàn hảo


Nhiều thị trường có một số nhưng không phải tất cả đặc điểm của của cạnh tranh
hoàn hảo, nhưng chúng vẫn có tính cạnh tranh cao nên người mua và người bán trong
mọi mục đích thực tế, đều là người chấp nhận giá. Ví dụ, chính phủ có thể hạn chế
việc gia nhập thị trường, nhưng nếu thị trường có nhiều người mua và người bán, họ
vẫn có thể là người chấp nhận giá. Nhiều thành phố sử dụng luật phân vùng để hạn
chế số lượng một số loại cửa hàng hoặc nhà nghỉ nhất định, tuy nhiên ở những thành
phố này vẫn có một số lượng lớn các doanh nghiệp này. Các thành phố khác áp đặt
chi phí giao dịch tương đối lớn lên những người mới tham gia bằng cách yêu cầu họ
mua giấy phép, phát hành trái phiếu và bộ máy quan liêu của thành phố vận hành
chậm chạp, tuy nhiên vẫn có một số lượng đáng kể các công ty tham gia vào thị
trường. Tương tự, ngay cả khi chỉ một số khách hàng có đầy đủ thông tin thì cũng có
thể đủ để ngăn chặn các công ty đi chệch hướng đáng kể trong việc chấp nhận giá. Ví
dụ, khách du lịch không biết giá ở các cửa hàng khác nhau, nhưng người dân địa
phương biết và sử dụng kiến thức của mình để ngăn cản một cửa hàng tính giá cao
bất thường.

Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ cạnh tranh và cạnh tranh một cách hạn chế
hơn so với những thuật ngữ khác. Đối với một nhà kinh tế học, một công ty cạnh
tranh là người chấp nhận giá. Ngược lại, khi hầu hết mọi người nói về các công ty
cạnh tranh , điều đó có nghĩa là các công ty là đối thủ của cùng một khách hàng.
Ngay cả trong một thị trường chỉ có một vài doanh nghiệp, các doanh nghiệp vẫn
cạnh tranh để giành được cùng một khách hàng nên họ cạnh tranh theo nghĩa rộng
hơn. Từ giờ trở đi, chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ cạnh tranh và cạnh tranh để chỉ tất
cả các thị trường trong đó không có người mua hoặc người bán có thể tác động đáng
kể đến giá thị trường – họ là người chấp nhận giá – ngay cả khi thị trường cạnh tranh
không hoàn hảo.
3. Số giờ trung bình mỗi tuần mà một người Mỹ và một người Trung Quốc dành để mua sắm: 4,10 .
—Harper’s Index, 2008.
4. Ví dụ, nhiều chính phủ yêu cầu các công ty phải đưa ra cảnh báo cho công nhân sáu tháng trước
khi họ rời khỏi thị trường hoặc trả cho họ một khoản phí thôi việc.
Dẫn xuất đường cầu của một doanh nghiệp cạnh tranh
Các đường cầu mà các doanh nghiệp cạnh tranh riêng lẻ phải đối mặt có thực sự
bằng phẳng không? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi sử dụng biểu đồ cung cầu đã
được sửa đổi để rút ra đường cầu cho một công ty riêng lẻ. Một doanh nghiệp riêng lẻ
phải đối mặt với một đường cầu dư: nhu cầu thị trường không được đáp ứng bởi
những người bán khác ở bất kỳ mức giá nào. Hàm cầu thặng dư của hãng, Dr (p), cho
biết lượng cầu của hãng ở mức giá p. Một công ty chỉ bán cho người chưa mua hàng
từ người bán khác. Chúng ta có thể xác định lượng cầu còn lại đối với một hãng cụ
thể ở mỗi mức giá có thể bằng cách sử dụng đường cầu thị trường và đường cung của
tất cả các công ty khác trên thị trường. Lượng cầu của thị trường là một hàm số của
giá : Q = D(p). Đường cung của các hãng khác là So(p). Hàm cầu dư bằng hàm cầu
thị trường, D(p), trừ đi hàm cung của tất cả các doanh nghiệp khác:

Dr(p) = D(p) - So(p)

Ở mức giá cao đến mức số lượng được cung cấp bởi các công ty khác, So(p), lớn
hơn lượng cầu của thị trường, D(p), thì lượng cầu còn lại, Dr(p) bằng 0.

Trong hình 8.1, chúng ta rút ra được nhu cầu còn lại đối với một công ty sản xuất
ghế kim loại của Canada. Bảng b thể hiện đường cầu thị trường, D, và cung cấp tất cả
ngoại trừ một công ty sản xuất, m, So .5 Khi giá mỗi chiếc ghế là 66$, lượng cung của
các công ty khác, 500 chiếc (trong đó một đơn vị là 1.000 ghế kim loại) mỗi năm,
chính xác bằng cầu thị trường (bảng b), do đó lượng cầu dư của hãng còn lại (phần a)
bằng 0.

Với mức giá dưới 66$ , các hãng sản xuất ghế khác không sẵn sàng cung cấp nhiều
như nhu cầu của thị trường. Ví dụ, tại mức giá là 63$ , nhu cầu thị trường là 527
chiếc, nhưng các hãng khác chỉ muốn cung cấp 434 chiếc. Kết quả là lượng cầu dư
của từng doanh nghiệp ở mức giá 63$ là 93 (= 527 - 434) chiếc. Do đó, đường cầu
thặng dư ở bất kỳ mức giá nào cũng là chênh lệch theo chiều ngang giữa đường cầu
thị trường và đường cung của các doanh nghiệp khác.
Đường cầu dư Thị trường không được đáp ứng bởi bất kỳ người bán khác ở bất kỳ mức giá nào.

5.Hình vẽ sử dụng đường cung và cầu co giãn không đổi. Độ co giãn của cung, η =
3,1, là dựa trên hàm chi phí ước tính từ Robidoux và Lester (1988) cho các nhà sản
xuất đồ nội thất văn phòng ở Canada. Tôi ước tính độ co giãn của cầu là ε = -1,1
bằng cách sử dụng dữ liệu từ Thống kê Canada, Nhà sản xuất nội thất văn phòng.

Hình 8.1 Đường cầu thặng dư


Đường cầu còn lại, Dr(p), mà một công ty sản xuất đồ nội thất phải đối mặt là nhu cầu thị trường , D(p), trừ đi
nguồn cung của các hãng khác trên thị trường, S0(p). Đường cầu thặng dư thẳng hơn nhiều so với đường cầu thị
trường.

(a) Doanh nghiệp (b) Thị trường

100 100
p,$ trên một chiếc ghế kim loại
p,$ trên một chiếc ghế kim loại S0

66 ----------------------------------------- 66 ----------------------------------------

63 ---------------------------------------- Dr 63 -----------------------------------------

0 0

93 434 500 527


q , Hàng nghìn ghế Q, Hàng nghìn ghế
kim loại mỗi năm kim loại mỗi năm
Đường cầu thặng dư mà hãng phải đối mặt trong phần a phẳng hơn nhiều so với thị
trường đường cầu trong phần b. Kết quả là độ co giãn của đường cầu thặng dư cao
hơn nhiều so với độ co giãn của thị trường.

Nếu thị trường có n doanh nghiệp giống hệt nhau, độ co giãn của cầu, εi, đối diện với
hãng i là

εi = nε - (n - 1)ηo, (8,2)

ở đây ε là độ co giãn của cầu thị trường (số âm), ηo là độ co giãn cung của mỗi công
ty khác (thường là số dương) và n - 1 là số công ty khác (xem Phụ lục 8A về đạo
hàm).

Như phương trình 8.2 cho thấy, đường cầu thặng dư của một công ty càng co giãn
thì càng có nhiều hãng, n, tham gia thị trường, cầu thị trường, ε, càng co giãn và độ
co giãn cung của các hãng khác càng lớn, ηo. Độ co giãn của cầu dư, εi, cần phải co
giãn ít nhất bằng nε nếu đường cung dốc lên sao cho số hạng thứ hai tạo thành ước
tính co giãn hơn. Vì vậy, sử dụng nε làm xấp xỉ là bảo toàn. Ví dụ mặc dù độ co giãn
thị trường ước tính của cầu đối với đậu nành là rất kém co giãn ở khoảng ε = -0,2, vì
n = 107.000, cầu dư còn lại đối với một trang trại đậu nành ít nhất phải là 107,000 *
(-0.2) = -21,400, tức là cực kỳ đàn hồi.

Giải quyết vấn đề 8.1 Thị trường sản xuất ghế kim loại Canada có n = 78 doanh
nghiệp. Độ co giãn của cung ước tính là η = 3,1 và độ co giãn của cầu ước tính là ε =
-1,1. Giả sử các doanh nghiệp giống hệt nhau, hãy tính độ co giãn của cầu đối với
một công ty. Đường cầu thặng dư của nó có co giãn cao hay không?

Trả lời:

1. Sử dụng phương trình 8.2 và độ co giãn ước tính để tính cầu thặng dư tính đàn hồi
mà doanh nghiệp phải đối mặt. Thay hệ số co giãn vào phương trình 8.2, ta thấy rằng

εi = nε - (n - 1)ηo

= [78 * (-1.1)] - [77 * 3.1]

= -85,8 - 238,7 = -324,5.

Nghĩa là, một công ty điển hình phải đối mặt với độ co giãn của cầu dư là -324,5.
2. Thảo luận xem độ co giãn này có cao không. Ước tính εi gần gấp 300 lần độ co
giãn của thị trường là -1,1. Nếu một hãng tăng giá thêm 1/10% thì số lượng nó có thể
bán giảm gần 1/3. Vì vậy, mô hình cạnh tranh giả định rằng hãng này phải đối mặt
với một đường cầu nằm ngang với mức giá vô hạn độ đàn hồi không phải là cường
điệu quá nhiều.

Tại sao chúng tôi nghiên cứu về cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo rất quan trọng vì hai lý do. Thứ nhất, nhiều thị
trường có thể được mô tả một cách hợp lý là có tính cạnh tranh. Nhiều thị trường
nông sản và hàng hóa khác, sàn giao dịch chứng khoán, bán lẻ và bán buôn, xây dựng
công trình và các loại thị trường có nhiều hoặc tất cả các thuộc tính của một thị
trường cạnh tranh hoàn hảo. Mô hình cung và cầu cạnh tranh hoạt động đủ hiệu quả ở
các thị trường này, nó dự đoán chính xác tác động của những thay đổi về thuế, chi
phí, thu nhập và các yếu tố khác về cân bằng thị trường.

Thứ hai, một thị trường cạnh tranh hoàn hảo có nhiều đặc tính mong muốn (xem
Chương 9). Các nhà kinh tế sử dụng mô hình cạnh tranh hoàn hảo làm lý tưởng để so
sánh các thị trường trong thế giới thực. Trong suốt phần còn lại của cuốn sách này,
chúng tôi cho rằng xã hội nói chung sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu các đặc tính của thị
trường cạnh tranh hoàn hảo không được giữ vững. Từ thời điểm này trở đi, để ngắn
gọn, chúng tôi sử dụng cụm từ thị trường cạnh tranh để chỉ thị trường cạnh tranh
hàon hảo trừ khi chúng tôi lưu ý rõ ràng về sự không hoàn hảo.

8.2 Tối đa hóa lợi nhuận


“Quá gay gắt? Không quan tâm đến chi phí. Nếu đó thực sự là một bức tranh đẹp
(một viễn cảnh đẹp) chúng ta sẽ thực hiện nó.” —Samuel Goldwyn

Các nhà kinh tế thường cho rằng tất cả các doanh nghiệp – không chỉ các doanh
nghiệp cạnh tranh – đều muốn tối đa hóa lợi nhuận của họ. Một lý do là nhiều doanh
nhân nói rằng mục tiêu của họlà tối đa hóa lợi nhuận. Lý do thứ hai là một doanh
nghiệp – đặc biệt là một doanh nghiệp cạnh tranh – không tối đa hóa lợi nhuận có
khả năng bị thua lỗ và bị đẩy ra khỏi hoạt động kinh doanh.
Trong phần này, chúng tôi xem xét làm thế nào bất kỳ loại công ty nào - không chỉ
là công ty cạnh tranh – đều tối đa hóa lợi nhuận của mình. Sau đó chúng tôi xem xét
làm thế nào một công ty cạnh tranh nói riêng có thể tối đa hóa lợi nhuận.

Lợi nhuận
Lợi nhuận của 1 hãng, π, là chênh lệch giữa doanh thu của hãng, R, và chi phí của
hãng, C:

π=R–C

Nếu lợi nhuận âm, m<0, doanh nghiệp thua lỗ.

Việc đo lường doanh thu bán hàng của một công ty rất đơn giản: doanh thu là giá
nhân với số lượng. Việc đo lường chi phí khó khăn hơn. Đối với một nhà kinh tế học,
thước đo chính xác của chi phí là chi phí cơ hội hoặc chi phí kinh tế: giá trị của sự
lựa chọn tốt nhất của bất kỳ đầu vào nào mà công ty sử dụng. Như đã thảo luận ở
Chương 7, toàn bộ chi phí cơ hội đầu vào được sử dụng có thể vượt quá chi phí rõ
ràng hoặc chi phí tự chi trả được ghi trong báo cáo kế toán tài chính. ự khác biệt này
rất quan trọng vì một công ty có thể mắc sai lầm nghiêm trọng nếu đo lường lợi
nhuận không chính xác bằng cách bỏ qua một số chi phí cơ hội liên quan.

Chúng tôi luôn coi lợi nhuận hay lợi nhuận kinh tế là doanh thu trừ đi chi phí cơ
hội (kinh tế). Vì lý do thuế hoặc lý do khác, lợi nhuận kinh doanh có thể khác. Ví dụ,
nếu một công ty chỉ sử dụng chi phí rõ ràng thì lợi nhuận được báo cáo của nó có thể
lớn hơn lợi nhuận kinh tế.

Một vài ví dụ minh họa sự khác biệt trong hai thước đo lợi nhuận và tầm quan
trọng của sự khác biệt này. Giả sử bạn thành lập công ty riêng của mình 6 .Bạn phải
trả các chi phí rõ ràng như tiền lương của công nhân và giá nguyên vật liệu. Giống
như nhiều chủ sở hữu, bạn không tự trả lương cho mình. Thay vào đó, bạn mang về
nhà lợi nhuận kinh doanh là 20.000 USD mỗi năm.

Các nhà kinh tế học cho rằng lợi nhuận của bạn ít hơn 20.000 USD. Lợi nhuận kinh
tế bằng lợi nhuận kinh doanh của bạn trừ đi mọi chi phí cơ hội bổ sung. Giả sử thay
vì điều hành công việc kinh doanh của riêng mình, bạn có thể kiếm được 25.000
USD một năm khi làm việc cho người khác. Chi phí cơ hội của thời gian bạn làm
việc cho doanh nghiệp của mình là 25.000 đô la - khoản tiền lương bạn đã bỏ lỡ. Vì
vậy, mặc dù công ty của bạn đã thực hiện lợi nhuận kinh doanh là 20.000 USD, tổn
thất kinh tế của bạn (lợi nhuận kinh tế âm) là 5.000 USD. Nói cách khác, cái giá để
trở thành ông chủ của chính bạn là 5.000 USD.

Bằng cách chỉ nhìn vào lợi nhuận kinh doanh và bỏ qua chi phí cơ hội, bạn kết
luận rằng việc điều hành doanh nghiệp của bạn mang lại lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu
xét đến lợi nhuận kinh tế, bạn nhận ra rằng làm việc cho người khác sẽ tối đa hóa thu
nhập của bạn.Tương tự, khi một công ty quyết định có nên đầu tư vào một dự án kinh
doanh mới hay không, nó phải xem xét cách sử dụng vốn thay thế tốt nhất tiếp theo.
Một công ty đang xem xét thành lập một chi nhánh mới ở Túcon phải xem xét tất cả
những lựa chọn thay thế - đặt chi nhánh ở Santa Fe, gửi số tiền mà chi nhánh sẽ phải
trả vào ngân hàng và kiếm lãi,v.v. Nếu cách sử dụng tiền thay thế tốt nhất là gửi nó
vào ngân hàng và kiếm 10.000 USD tiền lãi mỗi năm, công ty chỉ nên xây dựng chi
nhánh mới ở Tucson nếu công ty dự kiến kiếm được lợi nhuận kinh doanh từ 10.000
USD trở lên mỗi năm. Tức là công ty chỉ nên thành lập chi nhánh Tucson nếu lợi
nhuận kinh tế từ chi nhánh mới bằng không hoặc dương. Nếu lợi nhuận kinh tế của
nó bằng 0 thì nó đang kiếm được cùng mức lợi nhuận trên đầu tư của mình như khi
nó đưa tiền vào giải pháp thay thế tốt nhất tiếp theo, đó là ngân hàng. Từ thời điểm
này trở đi, khi chúng tôi sử dụng thuật ngữ lợi nhuận, chúng tôi muốn nói đến lợi
nhuận kinh tế trừ khi chúng tôi đặc biệt đề cập đến lợi nhuận kinh doanh.

Hai bước để tối đa hóa lợi nhuận


Lợi nhuận của một hãng thay đổi theo mức sản lượng của nó. Hàm lợi nhuận của
hãng là:

π(q) = R(q) - C(q)


6 Michael Dell thành lập công ty máy tính đặt hàng qua thư khi còn học đại học. Ngày nay,
công ty của ông là một trong những công ty máy tính cá nhân lớn nhất thế giới. Forbes ước tính tài
sản của ông Dell ở mức 15,3 tỷ USD tính đến tháng 3 năm 2013.

Một công ty quyết định bán bao nhiêu sản phẩm để tối đa hóa lợi nhuận của mình.
Để tối đa hóa lợi nhuận của mình, bất kỳ doanh nghiệp nào (không chỉ các doanh
nghiệp cạnh tranh, chấp nhận giá) đều phải trả lời hai câu hỏi:

 Quyết định đầu ra. Nếu hãng sản xuất thì mức sản lượng q* là bao nhiêu để
tối đa hóa lợi nhuận hoặc giảm thiểu tổn thất?
 Quyết định dừng sản xuất. Sản xuất q* hay ngừng hoạt động và không sản
xuất ra sản phẩm nào sẽ có lợi hơn?
Đường cong lợi nhuận trong Hình 8.2 minh họa hai quyết định cơ bản này. Hãng này
làm thua lỗ ở mức sản lượng rất thấp và rất cao và lợi nhuận dương ở mức đầu ra vừa
phải. Đường lợi nhuận lúc đầu tăng lên rồi giảm xuống, đạt lợi nhuận tối đa là π* khi
đầu ra của nó là q*. Bởi vì hãng kiếm được lợi nhuận dương ở mức sản lượng đó nên
nó chọn sản xuất q* đơn vị sản lượng.

Quy tắc đầu ra Một công ty có thể sử dụng một trong ba quy tắc tương đương để
chọn mức sản lượng cần sản xuất. Tất cả các loại hình doanh nghiệp đều tối đa hóa
lợi nhuận bằng cách sử dụng các quy tắc giống nhau. Quy tắc đơn giản nhất là

Quy tắc đầu ra 1: Công ty đặt sản lượng ở mức tối đa hóa lợi nhuận.

Đường cong lợi nhuận trong hình 8.2 đạt cực đại tại π* khi sản lượng là q *. Nếu
công ty biết toàn bộ đường cong lợi nhuận của mình, nó có thể ngay lập tức thiết lập
sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận.

Ngay cả khi công ty không biết hình dạng chính xác của đường cong lợi nhuận, nó
vẫn có thể tìm ra mức tối đa bằng cách thử nghiệm. Công ty tăng nhẹ sản lượng của
mình. Nếu lợi nhuận tăng, hãng sẽ tăng sản lượng nhiều hơn. Hãng tiếp tục tăng sản
lượng cho đến khi lợi nhuận không thay đổi. Tại mức sản lượng đó, doanh nghiệp
đang ở đỉnh của đường cong lợi nhuận. Nếu lợi nhuận giảm khi hãng tăng sản lượng
lần đầu tiên thì hãng sẽ cố gắng giảm sản lượng. Nó tiếp tục giảm sản lượng cho đến
khi đạt đến đỉnh của đường cong lợi nhuận.

Lợi ích cận biên Sự thay đổi lợi nhuận của một công ty nhận được từ việc bán thêm
một cái nữa đơn vị đầu ra.

Những gì công ty đang làm là xác định bằng thực nghiệm độ dốc của đường cong lợi
nhuận. Độ dốc của đường cong lợi nhuận là lợi nhuận cận biên của hãng: sự thay đổi
trong lợi nhuận mà hãng thu được từ việc bán thêm một đơn vị sản lượng Δπ / Δq 7.

Hình 8.2 Tối đa hóa lợi nhuận


Bằng cách đặt sản lượng ở mức q*
hãng sẽ tối đa hóa lợi nhuận của nó ở π , Lợi nhuận
mức π*
Δπ = 0
π*
Lợi nhuận

Δπ > 0 Δπ < 0
1 1

0
q, đơn vị mỗi
q*
7 Lợi ích cận biên là đạo hàm của hàm lợi nhuận π(q), đối với số lượng, dπ(q)/dq. ngày
,
Trong hình, cận biên lợi nhuận hoặc độ dốc dương khi sản lượng nhỏ hơn q*, bằng 0
khi sản lượng là q*, và âm khi sản lượng lớn hơn q*. Do đó quy tắc tương đương thứ
2 là

Quy tắc đầu ra 2: Một hãng đặt sản lượng ở mức lợi nhuận cận biên bằng 0.

Cách thứ ba để thể hiện quy luật sản lượng tối đa hóa lợi nhuận này là về mặt chi phí
và doanh thu. Lợi nhuận cận biên phụ thuộc vào chi phí cận biên và doanh thu cận
biên của công ty. Chi phí biên của một hãng (MC) là lượng mà chi phí của hãng thay
đổi nếu nó sản xuất thêm một đơn vị sản lượng (Chương 7): MC =ΔC / Δq , trong đó
ΔC là sự thay đổi về chi phí khi sản lượng thay đổi một lượng Δq.

Tương tự, doanh thu cận biên của một công ty, MR, là sự thay đổi trong doanh thu
mà nó nhận được từ việc bán thêm một đơn vị sản phẩm: ΔR / Δq, trong đó ΔR là sự
thay đổi trong doanh thu. Nếu một hãng đang bán q đơn vị sản phẩm bán thêm một
đơn vị sản lượng thì doanh thu tăng thêm MR(q) sẽ làm tăng lợi nhuận nhưng chi phí
tăng thêm, MC(q), sẽ làm giảm lợi nhuận của hãng. Sự thay đổi lợi nhuận của hãng
khi sản xuất thêm một đơn vị là chênh lệch giữa doanh thu cận biên và chi phí cận
biên:9

Lợi ích cận biên (q) = MR(q) - MC(q).

Doanh thu cận biên (MR): Sự thay đổi về doanh thu một công ty thu được từ việc
bán thêm một đơn vị sản lượng.

Liệu doanh nghiệp có được trả tiền khi sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm không?
Nếu doanh thu cận biên từ đơn vị sản lượng cuối cùng này vượt quá chi phí cận biên,
MR(g) > MC(g), thì lợi nhuận cận biên của hãng là dương, MR(q)- MC(q) > 0, do đó
hãng sẽ có lợi khi tăng sản lượng. Hãng tiếp tục tăng sản lượng cho đến khi lợi nhuận
cận biên = MR(g) – MC(g) = 0. Ở đó, doanh thu cận biên của nó bằng chi phí cận
biên: MR(q) = MClg). Nếu hãng sản xuất nhiều sản lượng hơn khi chi phí cận biên
vượt quá doanh thu cận biên, MR(q) < MC(q), sản lượng tăng thêm làm giảm lợi
nhuận của hãng. Vì vậy, quy tắc tương đương thứ ba là (Phụ lục 8B):

Quy tắc đầu ra 3: Một hãng đặt sản lượng ở mức doanh thu cận biên bằng doanh thu
biên của nó trị giá:

MR(q) = MC(q).

8 Doanh thu cận biên là đạo hàm của hàm doanh thu theo số lượng: MR(q) = dR(q)/dq.

9 Vì lợi nhuận là π(q) = R(q) - C(q), nên lợi nhuận cận biên là chênh lệch giữa doanh thu cận biên
và chi phí cận biên:

dπ (q ) dR (q) dC ( q )
= − = MR-MC
dq dq dq

Quy tắc tắt máy Hãng chọn sản xuất nếu nó có thể tạo ra lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu
công ty thua lỗ, liệu nó có đóng cửA=πr^2a không? Câu trả lời thật đáng ngạc nhiên
là "Nó còn tùy". Quy tắc về việc một công ty có nên đóng cửa hay không có thể được
thể hiện theo hai cách tương đương. Cách đầu tiên để phát biểu quy tắc là

Quy tắc đóng cửa 1: Công ty chỉ đóng cửa nếu nó có thể giảm tổn thất bằng cách
làm như vậy.

Trong ngắn hạn, công ty có các chi phí biến đổi, chẳng hạn như chi phí lao động và
vật liệu, và chi phí cố định, chẳng hạn như nhà xưởng và thiết bị (Chương 7). Nếu chi
phí cố định bị giảm xuống, chi phí này không thể tránh được bằng cách ngừng hoạt
động - công ty sẽ phải trả chi phí này cho dù có đóng cửa hay không. Vì vậy, chi phí
cố định chìm không liên quan đến quyết định đóng cửa. Khi đóng cửa, công ty ngừng
nhận doanh thu và ngừng thanh toán các chi phí có thể tránh được, nhưng vẫn bị mắc
kẹt với chi phí cố định. Vì vậy, việc công ty chỉ đóng cửa nếu doanh thu của nó thấp
hơn chi phí có thể tránh được. Giả sử doanh thu hàng tuần của công ty là R = 2.000
USD, chi phí biến đổi của nó là VC = 1.000USD và chi phí cố định của nó là F=
3.000 USD, là mức giá mà nó phải trả cho một chiếc máy mà nó không thể bán lại
hoặc sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác. Công ty này đang thua lỗ trong ngắn
hạn:

π = R - VC - F = $2,000 - $1,000 - $3,000 = -$2,000.

Nếu công ty đóng cửa, nó sẽ mất chi phí cố định, 3.000USD, do đó tốt hơn là nên
tiếp tục hoạt động. Doanh thu của nó vượt quá mức trang trải chi phí biến đổi có thể
tránh được và bù đắp một số chi phí cố định.

Tuy nhiên, nếu doanh thu của nó chỉ là 500 USD, thì khoản lỗ của nó là 3.500 USD,
lớn hơn khoản lỗ chỉ từ chi phí cố định là 3.000 USD. Bởi vì doanh thu của nó thấp
hơn chi phí biến đổi có thể tránh được nên công ty giảm lỗ bằng cách đóng cửa.

Tóm lại, công ty chỉ so sánh doanh thu với chi phí biến đổi khi quyết định có nên
ngừng hoạt động hay không. Vì chi phí cố định bị giảm nên công ty phải trả chi phí
này cho dù có đóng cửa hay không. Chi phí cố định chìm không liên quan đến quyết
định đóng cửa. 10

Về lâu dài, mọi chi phí đều có thể tránh được vì hãng có thể loại bỏ tất cả bằng cách
đóng cửa. Do đó, về lâu dài, khi công ty có thể tránh được mọi tổn thất bằng cách
ngừng hoạt động, thì việc đóng cửa nếu công ty phải đối mặt với bất kỳ khoản lỗ nào
là có lợi. Do đó, chúng ta có thể phát biểu lại quy tắc tắt máy như sau:

Quy tắc đóng cửa 2: Công ty chỉ đóng cửa nếu doanh thu của nó thấp hơn
mức có thể tránh được trị giá. Cả hai phiên bản của quy tắc đóng cửa đều
có thể áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp trong ngắn hạn và
dài hạn.

8.3 Cạnh tranh trong ngắn hạn


Sau khi xem xét cách các doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận nói chung,
bây giờ chúng ta xem xét hành vi tối đa hóa lợi nhuận của các doanh
nghiệp cạnh tranh, rút ra đường cung của họ và sau đó xác định trạng thái
cân bằng cạnh tranh trong ngắn hạn. Trong phần tiếp theo, chúng ta kiểm
tra các công ty cạnh tranh và thị trường cạnh tranh trong dài hạn.

Ngắn hạn là khoảng thời gian đủ ngắn để ít nhất một đầu vào không thể
thay đổi (Chương 6). Bởi vì một công ty không thể nhanh chóng xây dựng
một nhà máy mới hoặc thực hiện các khoản đầu tư vốn lớn khác nên một
công ty mới không thể thâm nhập thị trường trong thời gian ngắn. Tương
tự, một công ty không thể rút lui hoàn toàn trong ngắn hạn. Nó có thể chọn
không sản xuất - đóng cửa - nhưng nó bị mắc kẹt với một số đầu vào cố
định như nhà máy hoặc nguồn vốn khác mà nó không thể nhanh chóng bán
hoặc chuyển nhượng cho các mục đích sử dụng khác. Về lâu dài, tất cả các
yếu tố đầu vào đều có thể thay đổi để các doanh nghiệp có thể gia nhập và
rút lui hoàn toàn khỏi ngành.

Chúng ta xử lý ngắn hạn và dài hạn một cách riêng biệt vì hai lý do. Đầu tiên,
các công ty tối đa hóa lợi nhuận có thể chọn hoạt động thua lỗ trong ngắn hạn,
trong khi về lâu dài họ không làm như vậy. Thứ hai, đường cung dài hạn của một
công ty thường khác với đường cung ngắn hạn của nó.

Trong cả ngắn hạn và dài hạn, một doanh nghiệp cạnh tranh, giống như các
doanh nghiệp khác, trước tiên xác định mức sản lượng tại đó nó tối đa hóa lợi
nhuận (hoặc giảm thiểu tổn thất). Thứ hai, nó quyết định nên sản xuất hay đóng
cửa.

Quyết định sản lượng ngắn hạn

Chúng ta đã thấy rằng bất kỳ doanh nghiệp nào cũng tối đa hóa lợi nhuận của mình
ở mức sản lượng mà lợi ích cận biên bằng 0 hoặc tương đương, khi chi phí cận
biên bằng doanh thu cận biên. Bởi vì nó đối mặt với một đường cầu nằm ngang,
một hãng cạnh tranh có thể bán bao nhiêu đơn vị sản phẩm nó muốn theo giá thị
trường, p. Do đó, doanh thu của một công ty cạnh tranh, R = pq, tăng p nếu nó bán
thêm một đơn vị sản phẩm, do đó doanh thu cận biên của nó là p.7 Ví dụ, nếu công
ty phải đối mặt với giá thị trường là $2 một đơn vị, thì doanh thu là $10 nếu bán
được 5 chiếc và $12 nếu bán được 6 chiếc, do đó doanh thu cận biên của nó cho
chiếc thứ sáu là $2 = $12 - $10 (giá thị trường). Bởi vì doanh thu cận biên của một
doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá thị trường, một doanh nghiệp cạnh tranh tối đa
hóa lợi nhuận sẽ sản xuất mức sản lượng mà tại đó chi phí cận biên của nó bằng
giá thị trường:

MC(q) = p (8,3)

7
Chúng ta có thể rút ra kết quả này bằng cách sử dụng phép tính. Bởi vì R(q) = pq, MR = dR(q)/dq = d(pq)/dq = p.
Để minh họa cách một công ty cạnh tranh tối đa hóa lợi nhuận của mình,
chúng ta hãy cùng xem xét một công ty đại diện trong ngành sản xuất vôi
có tính cạnh tranh cao ở Canada. Vôi là một khoáng chất phi kim loại được
sử dụng trong vữa, thạch cao, xi măng, bột tẩy trắng, thép, giấy, thủy tinh
và các sản phẩm khác. Đường chi phí trung bình ước tính của nhà máy vôi,
AC, đầu tiên giảm xuống và sau đó tăng lên trong phần a của Hình 8.3. 8
Như mọi khi, đường chi phí cận biên MC, cắt đường chi phí trung bình tại
điểm tối thiểu của nó. Nếu giá thị trường của vôi là p = $8/tấn thì doanh
nghiệp cạnh tranh phải đối mặt với đường cầu nằm ngang (đường doanh
thu cận biên) ở mức $8. Đường MC cắt đường cầu của công ty (hoặc
đường giá hoặc doanh thu cận biên) tại điểm e, nơi sản lượng của công ty
là 284 đơn vị (trong đó một đơn vị là một nghìn tấn).

Do đó, tại mức giá thị trường là $8, hãng cạnh tranh tối đa hóa lợi nhuận
của mình bằng cách sản xuất 284 đơn vị. Nếu công ty sản xuất ít hơn 284
đơn vị, giá thị trường sẽ cao hơn chi phí cận biên. Kết quả là, hãng có thể
tăng lợi nhuận bằng cách mở rộng sản lượng vì hãng kiếm được nhiều tiền
hơn trên tấn tiếp theo, p = $8, so với chi phí sản xuất nó, MC < $8. Nếu
hãng sản xuất hơn 284 đơn vị, giá thị trường sẽ thấp hơn chi phí biên MC
> $8, và hãng có thể tăng lợi nhuận bằng cách giảm sản lượng. Do đó,
doanh nghiệp cạnh tranh tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách sản xuất
mức sản lượng mà tại đó chi phí cận biên bằng doanh thu cận biên, tức là
giá thị trường.9

giá thị trường (hoặc doanh thu trung bình), p = R(q)/q = pq/q, và chi phí
trung bình của nó, AC = C(q)/q:
π (q) R (q)−C (q) R(q) C (q)
= = − = p−AC . (8.4)
q q q q

8
Con số này dựa trên hàm chi phí biến đổi ước tính của Robidoux và Lester (1988). Trong hình, chúng tôi giả định rằng
mức tối thiểu của đường chi phí biến đổi trung bình là $5 ở mức sản lượng 50.000 tấn. Dựa trên thông tin từ Cơ quan
Thống kê Canada, chúng tôi đặt chi phí cố định sao cho chi phí trung bình là $6 cho 140.000 tấn.
9
Công ty chọn mức sản lượng để tối đa hóa tổng lợi nhuận thay vì lợi nhuận trung bình trên mỗi tấn. Nếu công ty sản
xuất 140 chiếc, trong đó chi phí trung bình được giảm thiểu ở mức $6, thì công ty sẽ tối đa hóa lợi nhuận trung bình ở
mức $2, nhưng tổng lợi nhuận sẽ chỉ là $280.000. Mặc dù công ty mất đi 50¢ lợi nhuận mỗi tấn khi sản xuất 284 đơn vị
thay vì 140 đơn vị, nhưng công ty sẽ bù đắp phần lợi nhuận bị mất trên mỗi tấn bằng cách bán thêm 144 đơn vị. Với lợi
nhuận $1,50/tấn, tổng lợi nhuận của công ty là $426.000, cao hơn $146.000 so với mức 140 đơn vị.
Với 284 đơn vị, lợi nhuận trung bình trên mỗi đơn vị của công ty vôi là
$1,50 = p - AC(284) = $8 - $6,50, và lợi nhuận của công ty là π = $1,50
284.000 = $426.000 . Bảng b cho thấy lợi nhuận này là lợi nhuận tối đa có
thể có vì nó là đỉnh của đường lợi nhuận.×

Hình 8.3 Mộ t cô ng ty cạ nh tranh lợ i nhuậ n như thế nà o?


(a) Mộ t hã ng sả n xuấ t vô i cạ nh tranh tố i đa hó a lợ i nhuậ n củ a nó ở mứ c π* = $426.000, trong đó
GIẢIthu cậ n Nếu
doanh chi làphí
biên, MR, giácủa mộtng,công
thị trườ ty bằcạnh
p = $8, ng chitranh
phí cậtăng doMC.
n biên, giá(b)của
Đườyếu tố sản
ng cong lợ i xuất
QUYẾT
nhuậ n tương ứhoặc
ng đạ tthuế
đỉnh tăng,
điểm ởngười quản
mứ c 284 đơnlývị của công
vô i. Chi phítyướcó thểđườ
c tính nhanh chóng
ng cong xác định
dự a trên
VẤN và Lester
Robidoux mức(1988).
độ điều chỉnh sản lượng bằng cách tính chi phí cận biên của công ty đã
p, USD/tấn

ĐỀ 8.210 thay đổi như thế nào và áp dụng quy tắc tối đa hóa lợi nhuận. Giả sử tỉnh
(a)
MC
Manitoba của Canada áp dụng mức thuế cụ thểAC(trên mỗi đơn vị) là tấn trên
mỗi tấn vôi được sản xuất e trong tỉnh. Manitoba chỉ có một công ty sản xuất
8  p = MR
(a) vôi nên thuế chỉ ảnh hưởng đến công ty đó và do đó hầu như không ảnh
hưởngπ đến giá thị trường. Nếu thuế được áp dụng, công ty ở Manitoba nên
= $426,000
6,5 thay đổi mức sản lượng như thế nào để tối đa hóa lợi nhuận và lợi nhuận tối
6 đa của nó thay đổi như thế nào?
Trả lời
0 1. Hãy chỉ
140 ra thuế làm284
dịch chuyển đường chi
q, Nghìn tấn phí cận biên và chi phí trung
vôi/năm

bình như thế nào. Đường chi phí cận biên trước thuế của công ty là MC 1 và
(b)
đường chi phí trung bình trước thuế của công ty là AC 1. Vì thuế cụ thể cộng
t vào chi phí đơn vị nên nó làm dịch chuyển đường chi phí biên sau thuế lên
426
Chi phí, doanh thu, Nghìn

MC2 = MC1 + t và đường chi phí π(q) trung bình sau thuế thành AC2 = AC1 + t

(xem Chương 7).


MC2 = MC1 + t
AC2 = AC1 + t
p, USD/đơn

MC1
đô la

vị

0 140 284 AC1


q, nghìn tấn vôi/năm

-100 e2
p  
A p = MR
ộ e1 t
B
AC1(q1)

t
AC2(q2)

2. Xác định điểm cân bằng trước thuế và sau thuế và số tiền mà hãng điều
chỉnh sản lượng của mình. Khi đường chi phí cận biên trước thuế MC 1
chạm vào đường cầu nằm ngang p tại e1 thì lượng tối đa hóa lợi nhuận là q1.
Đường chi phí cận biên sau thuế, MC2, cắt đường cầu, p, tại e2 trong đó
lượng tối đa hóa lợi nhuận là Q2. Do đó, để đáp ứng với thuế, hãng sản xuất
ít hơn q1 - q2 đơn vị sản phẩm.
3. Cho biết lợi nhuận thay đổi như thế nào sau thuế. Bởi vì giá thị trường
không đổi nhưng đường chi phí trung bình của hãng dịch chuyển lên trên
nên lợi nhuận của hãng ở mọi mức sản lượng đều giảm. Công ty bán ít đơn
vị hơn (vì MC tăng) và tạo ra ít lợi nhuận trên mỗi đơn vị hơn (do AC tăng).
Lợi nhuận sau thuế diện tích A = π2 = [p - AC2(q2)]q2, lợi nhuận trước thuế
diện tích A + B = π1 = [p - AC1(q1)]q1 nên lợi nhuận giảm dần theo diện
tích B do phải đóng thuế. 10

QUYẾT ĐỊNH ĐÓNG CỬA NGẮN HẠN

Khi một công ty xác định mức sản lượng giúp tối đa hóa lợi nhuận hoặc giảm thiểu
tổn thất, nó phải quyết định xem có nên sản xuất ở mức sản lượng đó hay đóng cửa
và không sản xuất gì. Quyết định này là dễ dàng đối với hãng vôi trong Hình 8.3 vì ở
mức sản lượng tối đa hóa lợi nhuận, hãng sẽ tạo ra lợi nhuận kinh tế dương. Tuy
10
Chúng ta có thể giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng phép tính. Lợi nhuận của công ty là π = pq - [C(q) + tq], trong đó C(q) là chi phí trước
thuế của công ty và C(q) + tq là chi phí sau thuế. Chúng ta đạt được điều kiện cần thiết để công ty tối đa hóa lợi nhuận sau thuế bằng cách lấy đạo
hàm bậc nhất của lợi nhuận theo số lượng và đặt nó bằng 0:

dπ d ( pq) d [ C ( q ) +tq ]
dq
=
dq

dq
=p−
dC ( q )
dq [
+t = p−[ MC+ t]=0.
]
Do đó công ty sản xuất với p = MC + t.
nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu một công ty có nên đóng cửa nếu nó thua lỗ trong ngắn
hạn hay không.

Tất cả các công ty - không chỉ các công ty cạnh tranh - đều sử dụng cùng một quy tắc
đóng cửa: Công ty chỉ đóng cửa nếu có thể giảm lỗ bằng cách làm như vậy. Công ty
chỉ đóng cửa nếu doanh thu của nó thấp hơn chi phí biến đổi có thể tránh được: R(q)
< VC(q). Đối với một công ty cạnh tranh, quy tắc này là pq< VC(q). (8.5)

Bằng cách chia cả hai vế của phương trình (8.5) cho đầu ra, chúng ta có thể viết điều
kiện này dưới dạng p< VC(q)/q= AVC(q).

Một doanh nghiệp cạnh tranh sẽ đóng cửa nếu giá thị trường thấp hơn chi phí biến
đổi trung bình ngắn hạn ở mức tối đa hóa lợi nhuận. Chúng ta minh họa logic đằng
sau quy tắc này bằng ví dụ về hãng vôi. Chúng ta xem xét ba trường hợp trong đó giá
thị trường (1) cao hơn chi phí trung bình tối thiểu (AC), (2) thấp hơn chi phí trung
bình tối thiểu nhưng ít nhất bằng hoặc cao hơn chi phí biến đổi trung bình tối thiểu ,
hoặc (3) dưới mức chi phí biến đổi trung bình tối thiểu.

Giá thị trường cao hơn AC tối thiểu: Nếu giá thị trường cao hơn chi phí trung bình
của công ty ở số lượng sản xuất, công ty sẽ kiếm được lợi nhuận và do đó, công ty sẽ
hoạt động. Trong phần (a) của Hình 8.3, đường chi phí trung bình của hãng vôi cạnh
tranh đạt mức tối thiểu là $6/tấn ở 140 đơn vị. Do đó, nếu giá thị trường trên 6$, công
ty kiếm được lợi nhuận p - AC trên mỗi đơn vị nó bán và vận hành. Trong hình, giá
thị trường là $8 và công ty kiếm được lợi nhuận là $426.000.

Giá thị trường nằm giữa AC tối thiểu và AVC tối thiểu: Trường hợp khó khăn là khi
giá thị trường thấp hơn chi phí trung bình tối thiểu nhưng ít nhất cũng bằng chi phí
biến đổi trung bình tối thiểu. Nếu giá nằm trong phạm vi này, công ty sẽ thua lỗ,
nhưng nó giảm tổn thất bằng cách vận hành thay vì ngừng hoạt động.

Hình 8.4 (mô phỏng đường chi phí cận biên và chi phí trung bình của công ty vôi từ
phần (a) của Hình 8.3 và thêm đường chi phí biến đổi trung bình) minh họa

Hình 8.4 Quyết định đó ng cử a trong ngắ n hạ n

Nhà máy sả n xuấ t vô i cạ nh


tranh hoạ t độ ng nếu giá
phù hợ p trên mứ c tố i thiểu
củ a đườ ng chi phí biến đổ i
trung bình, điểm a, ở mứ c
$5. Vớ i giá thị trườ ng là
$5,50, cô ng ty sả n xuấ t 100
đơn vị vì giá đó cao hơn
trường hợp này đối với công ty vôi. Đường chi phí trung bình của công ty vôi đạt
tối thiểu là $6 cho 140 đơn vị, trong khi đường chi phí biến đổi trung bình của hãng đạt
mức tối thiểu là $5 cho 50 đơn vị. Nếu giá thị trường nằm trong khoảng từ 5 đến 6 đô
la, công ty vôi sẽ lỗ tiền (lợi nhuận của công ty là âm) vì giá thấp hơn AC của nó,

5,14
5,00 a
nhưng công ty không đóng cửa.
Ví dụ: nếu giá thị trường là $5,50, công ty sẽ giảm thiểu tổn thất bằng cách sản
xuất 100 đơn vị tại đó đường chi phí cận biên cắt đường giá. Với 100 đơn vị, chi phí
trung bình là $6,12, do đó khoản lỗ của công ty là -62¢ = p - AC(100) = $5,50 - $6,12
trên mỗi đơn vị bán được.
Tại sao hãng vẫn sản xuất khi đang thua lỗ? Lý do là công ty giảm lỗ bằng cách
vận hành thay vì đóng cửa vì doanh thu vượt quá chi phí biến đổi - hay tương đương,
giá thị trường vượt quá chi phí biến đổi trung bình. Nếu công ty đóng cửa trong ngắn
hạn, nó sẽ chịu một khoản lỗ bằng với chi phí cố định là $98.000, bằng tổng của hình
chữ nhật A và B.11
Nếu công ty hoạt động và sản xuất q = 100 đơn vị, chi phí biến đổi trung bình của
nó là AVC = $5,14, thấp hơn giá thị trường p = 5,50 USD mỗi tấn. Nó kiếm được thêm
36¢ = p - AVC = $5,50 - $5,14 trên mỗi tấn so với chi phí biến đổi trung bình.

Sự khác biệt giữa doanh thu của công ty và chi phí biến đổi, R - VC, là hình chữ
nhật B = $36.000, có chiều dài 100 nghìn tấn và chiều cao 36¢. Do đó, nếu công ty
hoạt động, nó chỉ mất $62.000 (hình chữ nhật A), nhỏ hơn khoản lỗ nếu nó đóng cửa là
$98.000. Công ty chịu khoản lỗ do hoạt động ít hơn so với việc đóng cửa vì doanh thu
của công ty nhiều hơn chi phí biến đổi và do đó giúp giảm khoản lỗ từ chi phí cố định.
Giá thị trường nhỏ hơn AVC tối thiểu Nếu giá thị trường giảm xuống dưới mức tối
thiểu của chi phí biến đổi trung bình, $5, trong Hình 8.4, thì công ty nên đóng cửa
trong ngắn hạn. Ở bất kỳ mức giá nào thấp hơn chi phí biến đổi trung bình tối thiểu,
doanh thu của công ty sẽ thấp hơn chi phí biến đổi, do đó, công ty sẽ lỗ nhiều hơn khi
hoạt động so với việc đóng cửa vì mỗi đơn vị bán ra sẽ bị lỗ thêm vào chi phí cố định
mà nó bị mất. nếu nó đóng cửa.

Tóm lại, một công ty cạnh tranh sử dụng quy trình đưa ra quyết định gồm hai
bước để tối đa hóa lợi nhuận của mình. Đầu tiên, công ty cạnh tranh xác định sản
lượng tối đa hóa lợi nhuận hoặc giảm thiểu tổn thất khi chi phí cận biên bằng giá thị
trường (tức là doanh thu cận biên): p = MC. Thứ hai, công ty chọn sản xuất số lượng
đó trừ khi nó sẽ lỗ nhiều hơn do hoạt động hơn là đóng cửa. Do đó, một công ty cạnh
tranh chỉ đóng cửa trong ngắn hạn nếu giá thị trường thấp hơn mức tối thiểu của
đường chi phí biến đổi trung bình.

11
Chi phí trung bình là tổng của chi phí biến đổi bình quân và chi phí cố định bình quân, AC = AVC + F/q (Chương 7).
Do đó, khoảng cách giữa đường chi phí trung bình và đường chi phí biến đổi trung bình ở bất kỳ mức đầu ra nào là AC
- AVC = F/q. Do đó, chiều cao của hình chữ nhật A + B là AC(100) - AVC(100) = F/100 và chiều dài của hình chữ nhật
là 100 đơn vị, do đó diện tích của hình chữ nhật là F, hoặc 98.000 USD = 62.000 USD + 36.000 USD .
Ứng dụng
Sự ngưng sản xuất Sản xuất dầu bắt đầu và dừng lại trong ngắn hạn khi giá thị trường biến
dầu, cát dầu và đá động. Năm 1998-1999 khi giá dầu thấp trong lịch sử, 74.000 trong số
phiến dầu 136.000 giếng dầu ở Hoa Kỳ tạm thời đóng cửa hoặc bị bỏ hoang vĩnh
viễn. Vào thời điểm đó, Terry Smith, tổng giám đốc của Công ty Sản xuất
Dầu Tidelands, người đã đóng
cửa 327 trong số 834 giếng của
công ty mình, nói rằng ông sẽ
vận hành các giếng này một lần
nữa khi giá tăng trên $10 một
thùng - chi phí biến đổi trung
bình tối thiểu của ông. Lấy dầu
từ các giếng dầu là việc tương
đối dễ dàng. Việc lấy dầu từ các
nguồn khác khó khăn và tốn kém hơn, vì vậy các công ty sử dụng các
nguồn thay thế đó có chi phí biến đổi trung bình tối thiểu cao hơn - điểm
ngừng hoạt động cao hơn - và do đó đóng cửa với giá cao hơn các công
ty bơm dầu từ giếng. Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng Canada có trữ
lượng dầu lớn thứ ba được biết đến trên thế giới, 174 tỷ thùng (ước tính
tính đến năm 2012), chỉ sau Ả Rập Saudi và Venezuela và vượt xa Iran ở
vị trí thứ tư. Tuy nhiên, bạn hiếm khi nghe nói về trữ lượng dầu khổng lồ
của Canada, bao phủ một khu vực có kích thước của Florida, bởi vì 97%
trữ lượng đó nằm trong cát dầu. Cát dầu là hỗn hợp của dầu mỏ nặng
(bitum), nước và sa thạch. Khai thác dầu từ cát dầu rất tốn kém và gây ô
nhiễm đáng kể trong quá trình sản xuất. Để giải phóng bốn thùng dầu thô
khỏi cát, một bộ xử lý phải đốt tương đương với thùng thứ năm. Với công
nghệ hiện có, hai tấn cát dầu chỉ mang lại một thùng (42 gallon) dầu.
Việc khai thác cát dầu lớn đầu tiên bắt đầu vào những năm 1960, nhưng
vì giá dầu thường thấp hơn chi phí biến đổi trung bình 25 mỗi thùng để
thu hồi dầu từ cát vào thời điểm đó, sản xuất thường xuyên bị đóng cửa.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những cải tiến công nghệ trong quy
trình sản xuất đã làm giảm chi phí biến đổi trung bình xuống còn
$18/thùng. Chính vì điều đó, cùng với giá dầu cao hơn, đã dẫn đến việc
sản xuất cát dầu liên tục mà không ngừng hoạt động. Tính đến năm 2013,
hơn 50 công ty dầu mỏ đã hoạt động trong cát dầu Canada, bao gồm các
nhà sản xuất quốc tế lớn như Exxon-Mobile, BP (trước đây là British
Petroleum) và Royal Dutch Shell,
các nhà sản xuất lớn của Canada như Suncor và Husky, và các công ty
từ Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Một lượng lớn dầu ẩn trong cát
dầu có thể bị lấn át bởi những thứ được tìm thấy trong đá phiến dầu, đó
là đá trầm tích có chứa dầu. Theo ước tính hiện tại, các mỏ đá phiến dầu
ở Colorado và các khu vực lân cận ở Utah và Wyoming chứa 800 tỷ
thùng có thể thu được, tương đương với 40 năm tiêu thụ dầu của Mỹ.
Hoa Kỳ có từ 1 đến 2 nghìn tỷ thùng có thể thu được từ đá phiến dầu, ít
nhất gấp bốn lần trữ lượng dầu thô đã được chứng minh của Ả Rập
Saudi, nằm trong các bể ngầm. Một báo cáo của lực lượng đặc nhiệm
liên bang kết luận rằng Hoa Kỳ sẽ có thể sản xuất 3 triệu thùng dầu mỗi
ngày từ đá phiến dầu và cát vào năm 2035. Shell Oil báo cáo rằng chi
phí biến đổi trung bình của họ để khai thác dầu từ đá phiến dầu là $30
một thùng ở Colorado. Trong những năm gần đây, giá dầu thế giới thấp
nhất là $39/thùng vào ngày 12/12/2008. Kể từ đó, giá đã tăng đáng kể,
đạt $100/thùng vào đầu năm 2011 và duy trì gần hoặc cao hơn mức đó
cho đến giữa năm 2013. Do đó, sản xuất đá phiến dầu đã trở nên có lãi
và khai thác đang được diễn ra.
GIẢI Nhân viên kế toán của một công ty cạnh tranh, khi xem xét sổ sách của
QUYẾT công ty, thấy rằng công ty đã chi gấp đôi cho nhà máy của mình, một
VẤN chi phí cố định, như người quản lý của công ty đã nghĩ trước đây. Người
quản lý có nên thay đổi mức đầu ra vì thông tin mới này không? Thông
ĐỀ 8.3 tin mới này ảnh hưởng đến lợi nhuận như thế nào?
Trả lời
1. Cho thấy rằng sự thay đổi chi phí cố định không ảnh hưởng đến
quyết định của công ty. Công ty sản xuất bao nhiêu và có đóng cửa
trong ngắn hạn hay không chỉ phụ thuộc vào chi phí biến đổi của công
ty. (Công ty chọn mức sản lượng của mình sao cho chi phí cận biên của
nó - chỉ phụ thuộc vào chi phí biến đổi - bằng với giá thị trường và nó
chỉ tắt nếu giá thị trường thấp hơn chi phí biến đổi trung bình tối thiểu.)
Học được rằng số tiền chi cho nhà máy lớn hơn so với trước đây không
nên thay đổi mức sản lượng mà người quản lý chọn.
2. Cho thấy sự thay đổi trong cách nhân viên kế toán đo lường chi phí
cố định không ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh tế. Sự thay đổi trong định
giá của nhân viên kế toán về số tiền lịch sử chi cho nhà máy có thể ảnh
hưởng đến lợi nhuận kinh doanh ngắn hạn của công ty nhưng không ảnh
hưởng đến lợi nhuận kinh tế thực sự của công ty. Lợi nhuận kinh tế dựa
trên chi phí cơ hội - số tiền mà công ty có thể thuê nhà máy cho người
khác - chứ không phải dựa trên các khoản thanh toán lịch sử.

Đường cung vững chắc ngắn hạn


Chúng ta chỉ chứng minh cách một công ty cạnh tranh chọn sản lượng
của mình cho một mức giá thị trường nhất định theo cách tối đa hóa lợi
nhuận hoặc giảm thiểu tổn thất. Bằng cách lặp lại phân tích này ở các
mức giá thị trường khác nhau có thể, chúng ta có thể chỉ ra số lượng mà
công ty cạnh tranh cung cấp thay đổi như thế nào theo giá thị trường.
Khi giá thị trường tăng từ p 1= $5 đến p2 = $6 đến p3 = $7 đến p4 = $8
công ty vôi tăng sản lượng từ 50 lên 140 lên 215 đến 285 đơn vị mỗi
năm, như Hình 8.5 cho thấy. Sản lượng tối đa hóa lợi nhuận ở mỗi mức
giá thị trường được xác định bởi giao điểm của đường cầu có liên quan
— đường giá thị trường — và của công ty

Hình 8.4 Số lượng tối đa hóa lợi nhuận thay đổi theo giá như thế nào

Khi giá thị trường


tăng, công ty sản xuất S
p, USD/tấn

vôi sản xuất nhiều e4


sản lượng hơn. Sự 8  p4
AC
thay đổi về giá theo
e3
đường cong chi phí 7  p3
q, Nghìn tấn vôi/năm

Hình 8.6 Cung thị trường ngắn hạn của 5 công ty sản xuất vôi giống hệt nhau

a) Đường cung ngắn hạn, S1, đối với một công ty sản xuất vôi điển hình là MC của nó
trên mức tối thiểu của AVC
b) Đường cung thị trường, S5, là tổng theo chiều ngang của các đường cung của mỗi
hãng trong số năm hãng giống nhau. Đường cong S4 cho thấy đường cung thị trường
sẽ như thế nào nếu chỉ có bốn công ty trên thị trường.
(a) Công ty (b) Thị trường

S1 S2 S3
p, USD/tấn

p, USD/tấn

7 S1 7
S4
6,47 6,47
AVC S5
6 6

5 5

MC
Hình b minh
0 họa đường
50 140 175 cung thị trường cạnh 0 50 tranh,
150 đường
250 đậm S5 trong700đó trục
100 200
hoành là sản lượng thị trường, Q,vôi/năm
q, Nghìn tấn mỗi năm. Trục giá giống nhau trong hai tấn
q, Nghìn bảng.
vôi/năm

Nếu giá thị trường thấp hơn 5$/tấn thì không có hãng nào cung cấp sản phẩm, do
đó cung thị trường bằng 0. Ở mức giá 5$, mỗi hãng sẵn sàng cung cấp q = 50 đơn
vị, như trong phần a. Do đó, cung thị trường là Q = 5q = 250 đơn vị trong bảng b.
Với giá $6/tấn, mỗi hãng cung cấp 140 đơn vị, do đó cung thị trường là 700 (= 5 ×
140) đơn vị.

Tuy nhiên, giả sử thị trường có ít hơn 5 công ty trong ngắn hạn. Các đường màu
sáng ở phần b thể hiện đường cung thị trường của nhiều doanh nghiệp khác nhau.
Đường cung thị trường là S1 với một hãng chấp nhận giá, S2 với hai hãng, S3 với ba
hãng và S4 với bốn hãng. Đường cung thị trường phẳng hơn khi số lượng doanh
nghiệp trên thị trường tăng lên vì đường cung thị trường là tổng theo chiều ngang
của các đường cung doanh nghiệp ngày càng dốc lên. Khi số lượng doanh nghiệp
tăng lên rất lớn, đường cung thị trường tiến đến một đường nằm ngang ở mức $5.
Do đó, các doanh nghiệp càng sản xuất giống nhau ở một mức giá nhất định thì
đường cung thị trường ngắn hạn ở mức giá đó càng phẳng (co giãn hơn). Kết quả
là càng có nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường thì giá càng phải tăng ít hơn để
nguồn cung thị trường ngắn hạn tăng đáng kể. Người tiêu dùng phải trả $6/tấn để
có được 700 đơn vị vôi với 5 công ty nhưng phải trả $6,47/tấn để có được số
lượng đó chỉ với 4 công ty

Cung thị trường ngắn hạn với các doanh nghiệp khác nhau: Nếu các doanh
nghiệp trong một thị trường cạnh tranh có chi phí biến đổi trung bình tối thiểu
khác nhau thì không phải tất cả các doanh nghiệp đều sản xuất ở mọi mức giá.
Những điểm dừng khác nhau này ảnh hưởng đến hình dạng của đường cung thị
trường ngắn hạn. Giả sử rằng hai công ty duy nhất trên thị trường vôi là công ty
vôi điển hình của chúng ta có đường cung S1 và một công ty khác có chi phí biên
và chi phí trung bình tối thiểu cao hơn với đường cung S2 trong Hình 8.7. Hãng
đầu tiên sản xuất nếu giá thị trường ít nhất là $5, trong khi hãng thứ hai không sản
xuất trừ khi giá từ $6 trở lên. Với mức giá $5, hãng thứ nhất sản xuất 50 đơn vị, vì
vậy

Hình 8.7 Cung thị trường ngắn hạn của hai hãng vôi khác nhau
8
Đường cung S1 giống
2
S
p, USD/tấn

1
S S
như đường cung của
một hãng vôi điển hình 7
trong Hình 8.6. Công
ty thứ hai có MC nằm
ở bên trái đường chi 6
phí của công ty ban
đầu và có mức AVC tối
thiểu cao hơn. Do đó,
số lượng
đường trênnó,
cung của đường
S2, cung thị trường, S, là 50 đơn vị. Trong khoảng từ $5 đến $6,
5

nằm phía trên và bên


trái đường cung của
hãng ban đầu, S1. 0 25 50 100 140 165 215 315 450
q, Q, Nghìn tấn vôi/năm
Đường cung thị
chỉ có hãng đầu tiên sản xuất, do đó cung thị trường S bằng với lượng cung của
hãng đầu tiên S1. Ở mức giá trên $6, cả hai hãng đều sản xuất, do đó đường cung
thị trường là tổng theo chiều ngang của hai đường cung riêng lẻ của họ. Ví dụ, ở
mức giá $7, hãng thứ nhất sản xuất 215 đơn vị và hãng thứ hai cung cấp 100 đơn
vị, do đó lượng cung thị trường là 315 đơn vị.

Đối với các công ty giống nhau, nơi cả hai công ty đều đang sản xuất, đường cung
thị trường phẳng hơn đường cung của một trong hai công ty. Do hãng thứ hai
không sản xuất ở mức giá thấp như hãng thứ nhất nên đường cung thị trường ngắn
hạn có độ dốc lớn hơn (cung ít co giãn hơn) ở mức giá tương đối thấp so với trường
hợp các hãng giống hệt nhau.

Ở những nơi có các doanh nghiệp khác nhau, chỉ có doanh nghiệp có chi phí thấp
mới cung cấp hàng hóa ở mức giá tương đối thấp. Khi giá tăng, hãng còn lại có chi
phí cao hơn bắt đầu cung cấp, tạo ra đường cung thị trường giống như bậc thang.
Càng nhiều nhà cung cấp với chi phí khác nhau thì càng có nhiều bước trên đường
cung thị trường. Khi giá tăng và nhiều doanh nghiệp cung cấp hàng hóa hơn, đường
cung thị trường phẳng hơn, do đó, chỉ cần mức tăng giá nhỏ hơn để tăng nguồn
cung lên một lượng nhất định. Nói cách khác, các doanh nghiệp càng có nhiều chi
phí khác nhau thì đường cung thị trường ở mức giá thấp càng dốc. Sự khác biệt về
chi phí là một trong những cách giải thích tại sao một số đường cung thị trường lại
dốc lên.

Cân bằng cạnh tranh ngắn hạn

Bằng cách kết hợp đường cung thị trường ngắn hạn và đường cầu thị trường, chúng
ta có thể xác định trạng thái cân bằng cạnh tranh ngắn hạn. Đầu tiên chúng ta trình
bày cách xác định trạng thái cân bằng trên thị trường vôi và sau đó chúng ta xem
xét trạng thái cân bằng thay đổi như thế nào khi các doanh nghiệp bị đánh thuế.
Giả sử thị trường vôi có năm doanh nghiệp giống nhau ở trạng thái cân bằng
ngắn hạn. Phần a của Hình 8.8 thể hiện đường chi phí ngắn hạn và đường cung
S1 của một hãng điển hình và phần b thể hiện đường cung thị trường cạnh tranh
ngắn hạn tương ứng, S.
Trong bảng b, đường cầu ban đầu D1 cắt đường cung thị trường tại E1, điểm cân
bằng của thị trường. Lượng cân bằng là Q1 = 1.075 đơn vị vôi mỗi năm và giá
thị trường cân bằng là $7.
Mỗi hãng cạnh tranh có một đường cầu nằm ngang ở mức giá cân bằng là $7.
Mỗi hãng chấp nhận giá chọn sản lượng của mình tại điểm đường chi phí cận
biên cắt đường cầu ngang tại e1 trong phần a. Vì mỗi hãng đang tối đa hóa lợi
nhuận của mình tại e1 nên không hãng nào muốn thay đổi hành vi của mình, vì
vậy e1 là điểm cân bằng của hãng. Mỗi công ty kiếm được lợi nhuận ngắn hạn
với diện tích A + B = $172.000, là lợi nhuận trung bình trên mỗi tấn, p - AC =
$7 - $6,20 = 80¢, nhân với sản lượng của công ty, q1 = 215 đơn vị. Sản lượng
thị trường cân bằng, Q1, là số lượng doanh nghiệp, n, nhân với sản lượng cân
bằng của mỗi doanh nghiệp: Q1 = nq1 = 5 × 215 đơn vị = 1.075 đơn vị (phần b)
Bây giờ giả sử đường cầu dịch chuyển tới D2 . Điểm cân bằng thị trường mới là
E2, ở đó giá chỉ là 5$. Tại mức giá đó, mỗi hãng sản xuất q = 50 đơn vị và sản
lượng thị trường là Q = 250 đơn vị. Trong phần a, mỗi hãng lỗ 98.500 USD,
khu vực A + C, vì hãng này kiếm được trung bình mỗi tấn (p - AC) = ($5 -
$6,97) = -$1,97 và hãng bán được q2 = 50 đơn vị. Tuy nhiên, một công ty như
vậy không đóng cửa vì giá bằng với chi phí biến đổi trung bình của công ty, do
đó công ty đang trang trải các chi phí tự chi trả của mình.

Hình 8.8 Cân bằng cạnh tranh ngắn hạn trên thị trường vôi

(a) Đường cung ngắn hạn là đường chi phí biên nằm trên chi phí biến đổi trung bình tối thiểu là $5. Nếu giá
là $5, mỗi hãng lỗ trong ngắn hạn là (p - AC)q = ($5 - $6,97) × 50.000 = -$98.500, diện tích A + C. Ở
mức giá $7, lợi nhuận ngắn hạn là một hãng vôi điển hình là (p - AC)q = ($7 - $6,20) × 215.000 =
$172.000, diện tích A + B.
(b) Nếu thị trường vôi chỉ có 5 doanh nghiệp trong ngắn hạn, cung thị trường là S, và đường cầu thị trường
là D1, thì cân bằng ngắn hạn là E1, giá thị trường là 7$ và sản lượng thị trường là Q1 = 1.075 đơn vị. Nếu
đường cầu dịch chuyển sang D2 thì cân bằng thị trường là p = $5 và Q2 = 250 đơn vị.

(a) công ty (b) thị trường

8 8 D1
p, USD/tấn

S
p, USD/tấn

S1

e1
7  7  E1
6,97

A B AC

6,20 D2
6 AVC 6

C
Q1 = 1.075

GIẢI Tác động lên trạng thái cân bằng ngắn hạn của mức thuế cụ thể t trên mỗi đơn
QUẾ vị được thu từ tất cả n doanh nghiệp trên thị trường là gì? Sự xuất hiện của
T thuế là gì?
VẤN Đáp án:
ĐỀ
8.4 1. Cho thấy thuế làm dịch chuyển đường chi phí cận biên và chi phí trung
bình của một công ty điển hình và do đó làm dịch chuyển đường cung của
nó như thế nào. Trong Giải quyết vấn đề 8.2, chúng ta đã chỉ ra rằng mức
thuế như vậy làm cho đường chi phí cận biên, đường chi phí trung bình và
(do đó) chi phí trung bình tối thiểu của công ty dịch chuyển lên t, như minh
họa trong phần a của hình. Kết quả là, đường cung ngắn hạn của hãng, ký
hiệu S1 + t, dịch chuyển lên t so với đường cung trước thuế, S1.
S1 + t (b) Thị trường
(a) Công ty
1
S
p, USD/đơn vị
p, USD/đơn vị

AVC + t
S+t

t S
p2 AVC e2 E2
p1 + t
 t 
p1  e1 t  E1

MC
MC + t

q2 q1 Q2=nq2 Q1=nq1 Q, đơn vị/năm


q, đơn vị/năm
2. Hãy chỉ ra đường cung thị trường dịch chuyển như thế nào. Đường cung
thị trường là tổng của tất cả các đường cung của từng hãng riêng lẻ, do
đó, nó cũng dịch chuyển lên theo t, từ S đến S + t trong phần b của hình.
3. Xác định xem cân bằng thị trường ngắn hạn thay đổi như thế nào. Cân
bằng thị trường ngắn hạn, trước thuế là E1, trong đó đường cầu thị trường
dốc xuống D cắt S trong phần b. Ở trạng thái cân bằng đó, giá là p1 và số
lượng là Q1, bằng n (số lượng doanh nghiệp) nhân với số lượng q 1 mà một
doanh nghiệp điển hình sản xuất ở mức p1. Cân bằng thị trường ngắn hạn,
sau thuế, E2, được xác định bởi giao điểm của D và đường cung sau thuế,
S + t, xảy ra tại p2 và Q2. Bởi vì giá sau thuế p2 cao hơn chi phí biến đổi
trung bình tối thiểu sau thuế nên tất cả các doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản
xuất, nhưng họ sản xuất ít hơn trước: q2 < q1. Do đó, lượng cân bằng
giảm từ Q1 = nq1 xuống Q2 = nq2
4. Thảo luận về tác động của thuế. Giá cân bằng tăng, nhưng ít hơn toàn bộ
số tiền thuế: p2 < p1 + t. Tác động của thuế được chia sẻ giữa người tiêu
dùng và nhà sản xuất vì cả đường cung và đường cầu đều dốc (Chương
3).

8.4. Cạnh tranh về lâu dài


Tôi nghĩ có một thị trường thế giới cho khoảng năm máy tính.

—Thomas J. Watson, Chủ tịch IBM, 1943

Trong dài hạn, các doanh nghiệp cạnh tranh có thể thay đổi các đầu vào đã được cố
định trong ngắn hạn, do đó, đường cung thị trường và doanh nghiệp dài hạn khác với
các đường cung ngắn hạn. Sau khi xem xét ngắn gọn cách một công ty xác định
đường cung dài hạn của mình để tối đa hóa lợi nhuận, chúng tôi xem xét mối quan hệ
giữa đường cung thị trường ngắn hạn và dài hạn và các điểm cân bằng cạnh tranh.

Tối đa hoá lợi nhuận trong cạnh tranh dài hạn

Hai quyết định tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp – sản xuất bao nhiêu và có sản
xuất bao nhiêu – về dài hạn thì đơn giản hơn so với trong ngắn hạn. Về lâu dài, thông
thường tất cả các chi phí đều có thể thay đổi, do đó công ty không cần phải xem xét
liệu chi phí cố định có thể giảm bớt hay có thể tránh được.
Công ty chọn số lượng tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách sử dụng các quy tắc
tương tự như trong ngắn hạn. Công ty chọn số lượng tối đa hóa lợi nhuận dài hạn,
chênh lệch giữa doanh thu và chi phí dài hạn. Tương tự, nó hoạt động khi lợi nhuận
cận biên dài hạn bằng 0 và doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên dài hạn.

Sau khi xác định mức sản lượng q* để tối đa hóa lợi nhuận hoặc giảm thiểu tổn thất,
hãng sẽ quyết định nên sản xuất hay đóng cửa. Như thường lệ, công ty sẽ đóng cửa
nếu doanh thu thấp hơn chi phí có thể tránh được hoặc chi phí biến đổi. Bởi vì tất cả
các chi phí đều có thể thay đổi trong dài hạn, nên về lâu dài công ty sẽ đóng cửa nếu
nó gây ra tổn thất kinh tế do hoạt động.

Đường cung doanh nghiệp dài hạn

Đường cung dài hạn của một công ty là đường chi phí biên dài hạn nằm trên mức tối
thiểu của đường chi phí trung bình dài hạn (vì tất cả các chi phí đều có thể thay đổi
trong dài hạn). Công ty được tự do lựa chọn vốn trong dài hạn, do đó đường cung dài
hạn của công ty có thể khác biệt đáng kể so với đường cung ngắn hạn của nó.

Công ty lựa chọn quy mô nhà máy để tối đa hóa lợi nhuận kinh tế dài hạn dựa trên
niềm tin về tương lai. Nếu dự báo sai, nó có thể bị mắc kẹt với một nhà máy quá nhỏ
hoặc quá lớn so với mức sản xuất trong ngắn hạn. Công ty sẽ hành động để sửa chữa
sai lầm này về quy mô nhà máy về lâu dài.

Công ty trong Hình 8.9 có các đường chi phí ngắn hạn và dài hạn khác nhau. Trong
ngắn hạn, công ty sử dụng nhà máy nhỏ hơn quy mô dài hạn tối ưu nếu giá là 35
USD. (Cũng có thể có quy mô nhà máy ngắn hạn quá lớn.) Công ty sản xuất 50 đơn
vị sản lượng mỗi năm trong ngắn hạn, trong đó chi phí cận biên ngắn hạn, SRMC,
bằng giá và tạo ra một khoản lợi nhuận ngắn hạn. lợi nhuận kinh doanh bằng diện
tích A. Đường cung ngắn hạn của công ty, SSR, là chi phí biên ngắn hạn trên mức tối
thiểu, 20 USD, của chi phí biến đổi trung bình ngắn hạn, SRAVC.

Nếu công ty kỳ vọng giá vẫn ở mức 35 USD thì về lâu dài họ sẽ xây dựng một nhà
máy lớn hơn. Sử dụng nhà máy lớn hơn, công ty sản xuất 110 sản phẩm mỗi năm,
trong đó chi phí cận biên dài hạn, LRMC, bằng giá thị trường. Nó kỳ vọng sẽ tạo ra
lợi nhuận dài hạn, diện tích A + B, lớn hơn lợi nhuận ngắn hạn tính theo diện tích B
vì nó bán được thêm 60 đơn vị và chi phí trung bình dài hạn cân bằng của nó, LRAC
= 25$, thấp hơn chi phí trung bình dài hạn cân bằng của nó. chi phí trung bình ngắn
hạn ở trạng thái cân bằng là 28$.

Hình 8.9 Đường cung ngắn hạn và dài hạn


LRAC
P,$ mỗi đơn vị

SSR
SRAC SLR

SRAVC S
35

28
25
24
20

LRMC

SRMC

0 50 110 Q, đơn vị mỗi


năm

Đường cung dài hạn của công ty, SLR, bằng 0 dưới chi phí trung bình tối thiểu là 24
USD và bằng chi phí biên dài hạn, LRMC, ở mức giá cao. Hãng sản xuất trong dài
hạn nhiều hơn trong ngắn hạn, 110 đơn vị thay vì 50 đơn vị, và kiếm được lợi nhuận
cao hơn, khu vực A + B thay vì chỉ khu vực A.

Công ty không hoạt động khi thua lỗ trong dài hạn khi tất cả các yếu tố đầu vào đều
thay đổi. Nó sẽ ngừng hoạt động nếu giá thị trường giảm xuống dưới mức chi phí
trung bình dài hạn tối thiểu của công ty là 24 USD. Do đó, đường cung dài hạn của
doanh nghiệp cạnh tranh là đường chi phí cận biên dài hạn trên 24 USD.

Quy mô của nhà máy chế biến ethanol

Khi một số lượng lớn các công ty ban đầu xây dựng các nhà máy chế biến ethanol, họ
đã xây dựng những nhà máy tương đối nhỏ. Khi thị trường ethanol phất vào nửa thập
kỷ đầu của thế kỷ XXI, với mức giá đạt mức cao nhất là 4,23 USD/gallon vào tháng
6 năm 2006, nhiều công ty đã xây dựng các nhà máy lớn hơn hoặc tăng đáng kể quy
mô nhà máy của họ. Nhà máy trung bình công suất tăng gần gấp đôi từ năm 1999 đến
năm 2012.

Đường cung thị trường dài hạn

Đường cung thị trường cạnh tranh là tổng theo chiều ngang của các đường cung của
từng doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn. Bởi vì số lượng doanh nghiệp tối đa
trên thị trường là cố định trong ngắn hạn (cần có thời gian để xây dựng nhà máy mới,
mua thiết bị và thuê nhân công), nên chúng ta cộng các đường cung của một số doanh
nghiệp đã biết để có được số lượng doanh nghiệp tối đa trên thị trường trong ngắn
hạn. đường cung thị trường. Cách duy nhất để thị trường cung cấp thêm sản lượng
trong ngắn hạn là các doanh nghiệp hiện tại phải sản xuất nhiều hơn.

Tuy nhiên, về lâu dài, các doanh nghiệp có thể tham gia thị trường. Vì vậy, trước khi
chúng ta có thể cộng tất cả các đường cung của doanh nghiệp có liên quan để có
được đường cung thị trường dài hạn, chúng ta cần xác định có bao nhiêu doanh
nghiệp trên thị trường ở mỗi mức giá thị trường có thể có. Bây giờ chúng ta xem xét
chi tiết việc gia nhập và rời bỏ thị trường ảnh hưởng như thế nào đến đường cung thị
trường dài hạn.

Sự gia nhập và rút lui : số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường trong dài hạn được
quyết định bởi sự gia nhập và rút lui của các doanh nghiệp. Trong dài hạn, mỗi hãng
quyết định gia nhập hay rút lui tùy thuộc vào việc nó có thể tạo ra lợi nhuận dài hạn
hay không.

Ngay cả về lâu dài, việc gia nhập thị trường vẫn bị hạn chế ở một số thị trường vì các
doanh nghiệp phải đối mặt với chi phí đáng kể khi gia nhập, chẳng hạn như chi phí
ban đầu lớn hoặc các rào cản gia nhập, chẳng hạn như hạn chế của chính phủ. Ví dụ,
nhiều chính quyền thành phố giới hạn số lượng xe taxi, tạo ra một rào cản không thể
vượt qua nhằm ngăn cản thêm nhiều xe taxi vào. Tương tự, việc bảo hộ bằng sáng
chế ngăn cản các công ty mới sản xuất sản phẩm được cấp bằng sáng chế cho đến khi
bằng sáng chế hết hạn.

Tuy nhiên, trong các thị trường cạnh tranh hoàn hảo, không được kiểm soát, các công
ty có thể tự do gia nhập và rút lui trong thời gian dài. Ví dụ, nhiều công ty xây dựng
chỉ cung cấp dịch vụ lao động tham gia và rời khỏi thị trường nhiều lần trong năm.
Tại Hoa Kỳ trong quý 4 năm 2011, ước tính có khoảng 202.000 doanh nghiệp nhỏ
mới gia nhập thị trường và 191.000 doanh nghiệp rời bỏ thị trường.16 Tỷ lệ gia nhập
và rời bỏ thị trường hàng năm của các doanh nghiệp này đều vào khoảng 10% tổng
số doanh nghiệp mỗi năm.

Ở những thị trường như vậy, sự dịch chuyển của đường cầu thị trường sang phải sẽ
thu hút các doanh nghiệp tham gia. Ví dụ, nếu không có quy định của chính phủ, thị
trường taxi sẽ có quyền ra vào tự do. Chủ xe có thể tham gia hoặc rời khỏi thị trường
một cách nhanh chóng. Nếu đường cầu đi taxi dịch chuyển sang phải, giá thị trường
sẽ tăng và các tài xế taxi hiện tại sẽ kiếm được lợi nhuận cao bất thường trong ngắn
hạn. Nhìn thấy lợi nhuận này, các chủ xe khác sẽ tham gia thị trường, khiến đường
cung thị trường dịch chuyển sang phải và giá thị trường giảm. Sự gia nhập sẽ tiếp tục
cho đến khi công ty cuối cùng gia nhập - công ty cận biên - tạo ra lợi nhuận dài hạn
bằng 0

Vì vậy, trong một thị trường có sự gia nhập và rút lui tự do :

■ Một doanh nghiệp tham gia thị trường nếu nó có thể tạo ra lợi nhuận dài hạn, π > 0.

■ Một doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường để tránh thua lỗ dài hạn, π < 0

Nếu các doanh nghiệp trong một thị trường đang kiếm được lợi nhuận dài hạn bằng 0
thì họ không quan tâm đến việc ở lại thị trường hay rút lui. Chúng tôi cho rằng nếu
họ đã có mặt trên thị trường thì họ sẽ tiếp tục ở lại thị trường khi họ không kiếm
được lợi nhuận dài hạn nào.

Doanh nghiệp, công ty thức ăn nhanh mở thị trường vào Nga

Các nhà hàng thức ăn nhanh của Mỹ đang tràn vào Nga. Khi McDonald’s mở nhà
hàng đầu tiên tại Quảng trường Pushkin vào năm 1990, các công nhân đã chào đón
hàng nghìn khách hàng xếp hàng dài. Tính đến năm 2013, McDonald’s có 357 nhà
hàng ở 85 thành phố ở Nga và có kế hoạch để mở thêm 150 nữa trong ba năm tới.
Trong nhiều năm, McDonald's ít phải đối mặt với sự cạnh tranh của phương Tây, bất
chấp sự phổ biến của đồ ăn nhanh phương Tây. Hóa đơn trung bình tại một cửa hàng
thức ăn nhanh ở Nga là 8,92 USD so với 6,50 USD ở Hoa Kỳ (mặc dù thu nhập của
người Nga chỉ bằng 1/6 thu nhập của Hoa Kỳ)

Nhận ra cơ hội kiếm lợi một cách muộn màng, các chuỗi khác đang tràn vào Nga.
Subway xuất hiện ở Nga vào năm 1994 và có hơn 400 nhà hàng tính đến năm 2013.
Họ cho biết sẽ có 1.000 cửa hàng vào năm 2015. Burger King đã mở 22 nhà hàng chỉ
trong hai năm và hiện có 70 nhà hàng. Wendy's có 2 nhà hàng và có kế hoạch mở tới
180 trên khắp nước Nga vào năm 2020. Yum Brands (sở hữu KFC, Pizza Hut và
Taco Bell) đã công bố kế hoạch tăng gần gấp đôi số lượng nhà hàng ở Nga và các
nước thuộc Liên Xô cũ lên khoảng 400 vào năm 2015, với mục tiêu kiếm được 1 tỷ
USD trong doanh thu hàng năm.

Moscow là một cơ hội chín muồi để các nhà hàng pizza xuất hiện và phát triển. Với
dân số 13 triệu người, nơi đây chỉ có khoảng 300 nhà hàng pizza. Ngược lại,
Manhattan, với dân số chỉ bằng khoảng 1/10 (1,6 triệu người) lại có 4.000 tiệm bánh
pizza.

Christopher Wynne, một người Mỹ thông thạo tiếng Nga và có chuyên môn về Nga
trong nghiên cứu phổ biến vũ khí, đã rời bỏ sự nghiệp ban đầu của mình để mở nhà
hàng pizza ở Nga. Ông đã mua 51% quyền kinh doanh của Papa John's ở Nga. Mặc
dù phải cạnh tranh với các chuỗi cửa hàng Sbarro và Domino's của Hoa Kỳ và một
chuỗi của Nga, Pizza Fab rika, cùng nhiều chuỗi khác, nhưng anh ấy nói: “Tôi có thể
thành công kể cả trong giấc ngủ của mình vì có rất nhiều cơ hội kinh doanh ở đây”.
Năm 2011, ông Wynne mở cửa hàng Papa John's thứ 25 tại Nga, tăng gấp đôi số
lượng so với năm trước. 19 cửa hàng đang ở Moscow. Ông hy vọng sẽ có 50 nhà
hàng ở Moscow và khu vực lân cận vào năm 2013.

Mỗi nhà hàng tốn khoảng 400.000 USD để mở, nhưng một nhà hàng có thể bắt đầu
kiếm được lợi nhuận hoạt động sau ba tháng. Ông Wynne sẽ tiếp tục mở cửa hàng
cho đến khi nhà hàng cận biên kiếm được lợi nhuận kinh tế bằng 0.

Cung của thị trường dài hạn với các công ty giống hệt nhau và gia nhập tự do
Đường cung thị trường dài hạn bằng phẳng tại mức chi phí trung bình dài hạn tối
thiểu nếu các doanh nghiệp có thể tự do tham gia và rời khỏi thị trường, không giới
hạn số lượng doanh nghiệp có chi phí giống nhau và giá đầu vào không đổi. Kết quả
này xuất phát từ lý luận của chúng tôi về đường cung ngắn hạn, trong đó chúng tôi
chỉ ra rằng nguồn cung thị trường phẳng hơn thì càng có nhiều doanh nghiệp tham
gia thị trường. Với nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường trong dài hạn, đường
cung thị trường thực tế là bằng phẳng. (“Nhiều” là 10 công ty trên thị trường dầu
thực vật.)

Đường cung dài hạn của một nhà máy dầu thực vật điển hình, S1 trong phần a của
Hình 8.10, là đường chi phí biên dài hạn phía trên chi phí trung bình dài hạn tối thiểu
là 10 USD. Bởi vì mỗi hãng sẽ đóng cửa nếu giá thị trường dưới 10 USD, đường
cung thị trường dài hạn sẽ bằng 0 tại mức giá dưới 10 USD. Nếu giá tăng trên 10 đô
la, các công ty đang kiếm được lợi nhuận dương, vì vậy các công ty mới tham gia,
mở rộng sản lượng thị trường cho đến khi lợi nhuận giảm về 0, khi đó giá lại là 10 đô
la. Đường cung thị trường dài hạn trong phần b là một đường nằm ngang tại mức chi
phí trung bình dài hạn tối thiểu của một doanh nghiệp điển hình là 10$. Ở mức giá
10$, mỗi hãng sản xuất q = 150 đơn vị (trong đó một đơn vị bằng 100 tấn). Như vậy,
tổng sản lượng do n doanh nghiệp sản xuất trên thị trường là Q = nq = n * 150 đơn
vị. Sản lượng thị trường bổ sung có được nhờ các công ty mới tham gia thị trường.

Tóm lại, đường cung thị trường dài hạn nằm ngang nếu thị trường có sự gia nhập và
rút lui tự do, không giới hạn số lượng doanh nghiệp có chi phí giống nhau và giá đầu
vào không đổi. Tiếp theo chúng ta xem xét bốn lý do tại sao đường cung thị trường
dài hạn không bằng phẳng: sự gia nhập hạn chế, sự khác biệt về hàm chi phí giữa các
doanh nghiệp, giá đầu vào tăng (hoặc giảm) khi sản lượng tăng, hoặc một quốc gia
yêu cầu một phần lớn hàng hóa từ thị trường thế giới.

Cung thị trường dài hạn khi sự gia nhập bị hạn chế : Đầu tiên, nếu số lượng doanh
nghiệp trên thị trường bị hạn chế trong dài hạn thì đường cung thị trường dốc lên. Số
lượng doanh nghiệp bị hạn chế nếu chính phủ hạn chế số lượng đó, hoặc nếu doanh
nghiệp cần

Hình 8.10 Cung cấp thị trường và công ty dài hạn với các công ty dầu thực vật giống
hệt nhau
(a) Đường cung dài hạn của một nhà máy dầu thực vật điển hình,S1, là đường chi phí cận biên
dài hạn trên mức tối thiểu chi phí trung bình là 10 đô la. (b) Đường cung thị trường dài hạn
là theo chiều ngang ở mức tối thiểu của chi phí trung bình dài hạn tối thiểu của một công
ty điển hình. Mỗi hãng sản xuất 150 đơn vị, do đó sản lượng thị trường là 150n, trong đó n
là số lượng hãng.

10 10

150

nguồn lực khan hiếm hoặc nếu việc gia nhập tốn kém. Một ví dụ về nguồn lực khan
hiếm là số lượng lô đất có hạn để có thể xây dựng một khách sạn sang trọng bên bờ
biển ở Bãi biển Miami. Chi phí gia nhập cao hạn chế số lượng doanh nghiệp tham gia
thị trường vì các doanh nghiệp chỉ tham gia nếu lợi nhuận kinh tế dài hạn lớn hơn chi
phí gia nhập.

Cách duy nhất để có được nhiều sản lượng hơn nếu số lượng doanh nghiệp bị hạn chế
là các doanh nghiệp hiện tại phải sản xuất nhiều hơn. Vì đường cung của các doanh
nghiệp riêng lẻ dốc lên nên đường cung thị trường dài hạn cũng dốc lên. Lý do cũng
giống như trong ngắn hạn, như phần b của Hình 8.6 minh họa, với điều kiện là không
quá năm công ty có thể tham gia. Đường cung thị trường là đường S5 dốc lên, là tổng
theo chiều ngang của đường chi phí cận biên dốc lên trên chi phí trung bình tối thiểu
của năm công ty.

Cung thị trường dài hạn khi các doanh nghiệp khác biệt Lý do thứ hai khiến một số
đường cung thị trường dài hạn dốc lên là do các doanh nghiệp khác nhau. Các doanh
nghiệp có chi phí trung bình dài hạn tối thiểu tương đối thấp sẵn sàng tham gia thị
trường với mức giá thấp hơn các doanh nghiệp khác, dẫn đến đường cung thị trường
dài hạn dốc lên (tương tự như ví dụ ngắn hạn trong Hình 8.7).
Nhiều thị trường có một số doanh nghiệp có chi phí thấp và các doanh nghiệp có chi
phí cao hơn.17 Nếu các doanh nghiệp có chi phí thấp hơn có thể sản xuất nhiều sản
lượng như thị trường mong muốn thì chỉ có các doanh nghiệp có chi phí thấp mới sản
xuất và đường cung thị trường dài hạn nằm ngang ở mức tối thiểu của đường chi phí
trung bình của hãng có chi phí thấp. Đường cung dài hạn hướng lên dốc chỉ khi các
công ty có chi phí thấp hơn không thể sản xuất nhiều sản lượng như nhu cầu thị
trường bởi vì mỗi công ty này có năng lực hạn chế và số lượng các công ty này cũng
có hạn.

17Syverson (2004) ước tính rằng, trong ngành công nghiệp sản xuất 4 chữ số (được xác định hẹp) điển hình của Hoa Kỳ,

nhà máy ở phân vị thứ 90 tạo ra sản lượng nhiều hơn 90% từ cùng một đầu vào như nhà máy ở phân vị thứ 10. Atalay

(2012) nhận thấy rằng 7% độ lệch chuẩn (thước đo sự biến thiên) của năng suất ở cấp độ nhà máy này là do sự khác

biệt về giá nguyên liệu mà các nhà máy phải đối mặt. Vì vậy, những thị trường này có sự khác biệt đáng kể về chi phí.

Đường cung dài hạn dốc lên của bông

Nhiều nước sản xuất bông. Chi phí sản xuất khác nhau giữa các quốc gia do sự khác
biệt về chất lượng đất đai, lượng mưa, chi phí tưới tiêu, chi phí lao động và các yếu
tố khác.

Độ dài của mỗi đoạn giống như bậc thang của đường cung bông dài hạn trong biểu
đồ là số lượng được sản xuất bởi quốc gia được dán nhãn. Số lượng mà các quốc gia
có chi phí thấp có thể sản xuất phải bị giới hạn, nếu không chúng ta sẽ không quan
sát được sản lượng của các quốc gia có chi phí cao hơn.

Giá,
$1
kg

United States Iran


1.56 S
Nicaragua,Turkey
1.71
1.43 Brazil
Australia
1.27 Argentina
1.15
1.08
Pakistan
0.71

Cotton, tỉ tấn 1 năm


1 2 3 4 5 6 6.8

Độ cao của mỗi đoạn đường cung là chi phí sản xuất trung bình tối thiểu điển hình ở
quốc gia đó. Chi phí sản xuất trung bình ở Pakistan thấp hơn một nửa so với Iran.
Đường cung có dạng bậc thang vì chúng ta đang sử dụng mức trung bình của chi phí
trung bình ước tính ở mỗi quốc gia, là một con số. Nếu chúng ta biết đường cung của
từng doanh nghiệp ở mỗi quốc gia này thì đường cung thị trường sẽ có hình dạng
mượt mà hơn.

Khi giá thị trường tăng lên, số lượng các nước sản xuất tăng lên. Với giá thị trường
dưới 1,08 USD/kg, chỉ có Pakistan sản xuất. Nếu giá thị trường dưới 1,50 USD thì
Mỹ và Iran sẽ không sản xuất. Nếu giá tăng lên 1,56 USD, Hoa Kỳ cung cấp một
lượng lớn bông. Trong phạm vi này của đường cung, nguồn cung rất co giãn. Để Iran
sản xuất, giá phải tăng lên 1,71 USD. Giá tăng trong phạm vi đó chỉ dẫn đến lượng
cung tăng tương đối nhỏ. Do đó, đường cung tương đối kém co giãn ở mức giá trên
1,56 USD.

Cung thị trường dài hạn khi giá đầu vào thay đổi theo đầu ra

Lý do thứ ba khiến đường cung thị trường có thể dốc là do giá đầu vào không ổn
định. Ở những thị trường mà giá yếu tố sản xuất tăng hoặc giảm khi sản lượng tăng,
đường cung dài hạn dốc xuống ngay cả khi các doanh nghiệp có chi phí giống nhau
và có thể tự do gia nhập và rút lui.

Nếu thị trường mua một phần tương đối nhỏ trong tổng số lượng yếu tố sản xuất
được bán thì khi sản lượng thị trường mở rộng, giá của yếu tố sản xuất đó khó có thể
bị ảnh hưởng. Ví dụ, nha sĩ không thuê đủ nhân viên lễ tân sẽ ảnh hưởng đến mức
lương thị trường của nhân viên lễ tân.

Ngược lại, nếu thị trường mua phần lớn tổng doanh thu của một yếu tố sản xuất thì
giá của yếu tố đầu vào đó có nhiều khả năng thay đổi theo sản lượng thị trường. Khi
các nhà sản xuất rượu vang mở rộng và mua nhiều nho làm rượu vang hơn, giá của
những loại nho này có thể tăng lên do các nhà sản xuất rượu vang là người mua chính
những loại nho này và diện tích đất trồng nho bị hạn chế.

Để sản xuất nhiều hàng hóa hơn, các doanh nghiệp phải sử dụng nhiều đầu vào hơn.
Nếu giá của một số hoặc tất cả đầu vào tăng khi mua nhiều đầu vào hơn thì chi phí
sản xuất hàng hóa cuối cùng cũng tăng. Chúng tôi gọi thị trường trong đó giá đầu vào
tăng cùng với đầu ra là thị trường có chi phí tăng. Rất ít công nhân thép không sợ độ
cao và sẵn sàng xây dựng những tòa nhà cao tầng, do đó đường cung của họ dốc lên.
Khi nhiều tòa nhà chọc trời được xây dựng cùng một lúc, nhu cầu về những công
nhân này sẽ dịch chuyển sang bên phải, đẩy mức lương của họ tăng lên.

Chúng ta giả định rằng tất cả các doanh nghiệp trên thị trường đều có cùng đường chi
phí và giá đầu vào tăng khi sản lượng thị trường mở rộng. Chúng tôi sử dụng đường
chi phí của một công ty đại diện trong phần a của Hình 8.11 để rút ra đường cung thị
trường dốc lên trong phần b.

Khi giá đầu vào tương đối thấp, mỗi doanh nghiệp giống hệt nhau có cùng đường chi
phí biên dài hạn, MC1, và đường chi phí trung bình, AC1, trong phần a. Một hãng
điển hình sản xuất ở mức chi phí trung bình tối thiểu e1 và bán q1 đơn vị sản phẩm.
Cung thị trường là Q1 trong bảng b khi giá thị trường là p1. Các công ty n1 cùng bán
Q1 = n1q1 đơn vị sản phẩm, là điểm E1 trên đường cung thị trường trong phần b.

Hình 8.11 Cung thị trường và doanh nghiệp dài hạn trong thị trường chi phí tăng

(a) Ở mức sản lượng thị trường tương đối thấp, Q1 (trong bảng b), đường chi phí
cận biên và chi phí trung bình dài hạn của công ty là MC1 và AC1. Ở mức sản
lượng thị trường cao hơn Q2, đường chi phí dịch chuyển lên trên MC2 và AC2
vì giá đầu vào cao hơn. Với các hãng giống hệt nhau, mỗi hãng sản xuất ở mức
chi phí trung bình tối thiểu, chẳng hạn như điểm e1 và e2. (b) Đường cung thị
trường dài hạn, S, có độ dốc hướng lên.

(b) Doanh nghiệp Thị trường


P,$ mỗi đơn vị
P,$ mỗi đơn vị

MC2
MC1
AC2

S
1
AC
e2
P2 e2
e1
p1 e1

q1 q2 Q1=n1q1 Q2=n2q2

Nếu đường cầu thị trường dịch chuyển ra ngoài, giá thị trường tăng lên p2, các hãng
mới gia nhập và sản lượng thị trường tăng lên Q2, khiến giá đầu vào tăng. Kết quả là
đường chi phí biên dịch chuyển từ MC1 sang MC2 và đường chi phí trung bình tăng
từ AC1 lên AC2. Một hãng điển hình sản xuất ở mức chi phí trung bình tối thiểu cao
hơn, e2. Tại mức giá cao hơn này, có n2 doanh nghiệp hoạt động trên thị trường, do
đó sản lượng thị trường là Q2 = n2q2 tại điểm E2 trên đường cung thị trường

Do đó, trong cả thị trường chi phí tăng và thị trường chi phí không đổi - trong đó giá
đầu vào không đổi khi sản lượng tăng - các doanh nghiệp sản xuất ở mức chi phí
trung bình tối thiểu trong dài hạn. Sự khác biệt là chi phí trung bình tối thiểu tăng khi
sản lượng thị trường tăng trong thị trường có chi phí tăng, trong khi chi phí trung
bình tối thiểu không đổi trong thị trường có chi phí không đổi. Tóm lại, đường cung
dài hạn dốc lên trong thị trường có chi phí tăng và bằng phẳng trong thị trường có chi
phí không đổi.

Trong các thị trường có chi phí giảm, khi sản lượng thị trường tăng thì ít nhất một số
giá yếu tố sẽ giảm. Kết quả là, trong một thị trường có chi phí giảm, đường cung thị
trường dài hạn dốc xuống.

Hiệu suất tăng theo quy mô có thể làm giá các yếu tố sản xuất giảm. Ví dụ, khi thị
trường máy tính cá nhân còn non trẻ, nhu cầu về ổ cứng thấp hơn ngày nay. Kết quả
là những ổ đĩa đó được lắp ráp một phần bằng tay với chi phí tương đối cao. Khi nhu
cầu về các ổ đĩa này tăng lên, việc tự động hóa nhiều quy trình sản xuất hơn để các ổ
đĩa có thể được sản xuất với chi phí trên mỗi đơn vị thấp hơn là điều thực tế. Việc
giảm giá các ổ đĩa này làm giảm giá thành của máy tính cá nhân.

Vì vậy, lý thuyết cho chúng ta biết rằng đường cung thị trường cạnh tranh dài hạn có
thể bằng phẳng, dốc lên hoặc dốc xuống. Nếu tất cả các doanh nghiệp đều giống nhau
trong một thị trường mà các doanh nghiệp có thể tự do tham gia và giá đầu vào
không đổi thì đường cung thị trường dài hạn sẽ bằng phẳng. Nếu sự gia nhập bị hạn
chế, các doanh nghiệp có chi phí khác nhau, hoặc giá đầu vào tăng theo đầu ra,
đường cung dài hạn sẽ dốc lên. Cuối cùng, nếu giá đầu vào giảm cùng với sản lượng
thị trường thì đường cung dài hạn có thể dốc xuống.

Đường cung thị trường dài hạn với thương mại

Lý do thứ tư khiến đường cung thị trường có thể dốc là do một quốc gia có nhu cầu
lớn về hàng hóa được bán trên thị trường thế giới . Nhiều hàng hóa như bông và dầu
được giao dịch trên thị trường thế giới. Giá và lượng cân bằng thế giới đối với một
hàng hóa được xác định bởi giao điểm của đường cung thế giới – tổng theo chiều
ngang của các đường cung của mỗi nước sản xuất – và đường cầu thế giới – tổng
theo chiều ngang của các đường cầu của mỗi nước tiêu dùng.

Một quốc gia nhập khẩu một hàng hóa có đường cung là tổng theo chiều ngang của
đường cung của ngành công nghiệp trong nước và đường cung của nhập khẩu.
Đường cung dài hạn trong nước là tổng các đường cung của tất cả các doanh nghiệp
trong nước mà chúng ta vừa mới tìm ra. Tuy nhiên, chúng ta cần xác định đường
cung nhập khẩu.

Quốc gia này nhập khẩu nguồn cung thặng dư của thế giới, trong đó đường cung
thặng dư là lượng mà thị trường cung cấp mà những người có cầu khác không tiêu
thụ ở bất kỳ mức giá nào.18 Hàm cung nhập khẩu của quốc gia là hàm cung thặng
dư, Sr(p), đó là lượng cung cấp cho quốc gia này ở mức giá p. Vì quốc gia này chỉ
mua phần cung thế giới S(p) mà không được tiêu thụ bởi bất kỳ người cầu nào khác
trên thế giới Do(p), nên hàm cung thặng dư của quốc gia đó là

Sr (p) = S(p) - Do (p).

Ở mức giá cao đến mức Do(p) lớn hơn S(p), nguồn cung dư Sr(p) bằng 0.

Theo truyền thống, người ta thường sử dụng cụm từ cung vượt mức khi thảo luận về thương mại
quốc tế và nguồn cung dư thừa, mặc dù các thuật ngữ này tương đương nhau.
Trong Hình 8.12, chúng ta tính được đường cung thặng dư của Nhật Bản đối với
bông trong phần a bằng cách sử dụng đường cung thế giới, S, và đường cầu của phần
còn lại của thế giới, Do, trong phần b. Tỷ lệ khác nhau đối với trục số lượng trong hai
bảng. Ở mức giá 850 USD/tấn, nhu cầu ở các quốc gia khác làm cạn kiệt nguồn cung
thế giới (Do giao với S ở mức 32 triệu tấn mỗi năm), do đó Nhật Bản không có
nguồn cung dư. Ở mức giá cao hơn nhiều, 935 USD, nguồn cung dư thừa của Nhật
Bản, 4 triệu tấn, là sự chênh lệch giữa nguồn cung thế giới, 34 triệu tấn và lượng cầu
ở nơi khác, 30 triệu tấn. Như hình minh họa, đường cung thặng dư đối diện với Nhật
Bản gần với đường nằm ngang hơn nhiều so với đường cung thế giới.

Độ co giãn của nguồn cung thặng dư, ηr, đối với một quốc gia nhất định là (theo lập
luận tương tự như trong Phụ lục 8A)

ηr = η/θ – ( 1 – θ ) εo/θ, (8.7)

trong đó η là độ co giãn của cung thị trường, εo là độ co giãn của cầu của các quốc
gia khác, và θ = Qr /Q là phần sản lượng của thế giới của nước nhập khẩu.

Nếu một quốc gia nhập khẩu một phần nhỏ nguồn cung của thế giới, chúng tôi kỳ
vọng quốc gia đó sẽ phải đối mặt với đường cung thặng dư nằm ngang, gần như co
giãn hoàn toàn. Mặt khác, một người tiêu dùng hàng hóa tương đối lớn có thể phải
đối mặt với đường cung thặng dư dốc lên.

Chúng ta có thể minh họa sự khác biệt này đối với bông, trong đó η = 0,5 và ε = -0,7
(Green và cộng sự, 2005), gần như bằng εo. Hoa Kỳ nhập khẩu θ = 0,1% lượng bông
của thế giới, do đó độ co giãn cung dư của nước này là

co giãn gấp 2.398,6 lần so với độ co giãn của cung trên thế giới. Tỷ trọng nhập khẩu
của Canada lớn hơn 10 lần, θ = 1%, do đó độ co giãn cung dư của nước này “chỉ”
119,3.

Hình 8.12 Dư thừa hoặc hình cung thặng dư


Đường cung dư thừa của Nhật Bản, Sr, đối với bông là sự chênh lệch theo chiều
ngang giữa đường cung của thế giới, và đường cầu của các nước khác trên thế giới, D
°

đường cung dư thừa của nhật bản cung thế giới và phần còn lại của nhu cầu thế giới

S
P,$ mỗi tấn

P,$ mỗi tấn

935 Sr
935
850 850

Do

0 4 8 30 34 32
Q, triệu tấn một năm
4 Q, triệu tấn một năm

Tuy nhiên, đường cung thặng dư của nó gần như nằm ngang: Giá tăng 1% sẽ khiến
nhập khẩu tăng hơn gấp đôi, tăng 119,3%. Ngay cả θ = 2,5% của Nhật Bản cũng dẫn
đến độ co giãn tương đối ηr = 46,4. Ngược lại, Trung Quốc nhập khẩu 18,5% lượng
bông của thế giới, do đó độ co giãn cung dư của nước này là 5,8. Mặc dù độ co giãn
cung dư thừa của nó lớn hơn 11 lần so với độ co giãn của thế giới, nhưng nó vẫn đủ
nhỏ để đường cung dư thừa của nó dốc lên.

Do đó, nếu một quốc gia nhập khẩu một phần nhỏ sản lượng của thế giới thì quốc gia
đó phải đối mặt với đường cung nhập khẩu nằm ngang ở mức giá cân bằng thế giới.
Nếu đường cung trong nước ở mọi nơi đều cao hơn giá thế giới thì nước đó chỉ nhập
khẩu và đối mặt với đường cung nằm ngang. Nếu một phần nào đó trong đường cung
trong nước dốc lên của nó thấp hơn giá thế giới thì đường tổng cung của nó là đường
cung trong nước dốc lên theo giá thế giới, và sau đó nằm ngang theo giá thế giới
(Chương 9 cho thấy một đường cung dầu).

Phân tích thương mại này cũng áp dụng cho thương mại trong một quốc gia. Ứng
dụng sau đây cho thấy rằng nó có thể được sử dụng để xem xét thương mại giữa các
khu vực địa lý hoặc khu vực pháp lý chẳng hạn như các bang.

Đường cong cung cấp xăng tái chế


Bạn không thể mua xăng được bán ở Milwaukee ở các khu vực khác của Wisconsin.
Khí đốt ở Houston không giống như khí đốt ở miền Tây Texas. California,
Minnesota, Nevada và hầu hết các thành phố lớn nhất của Mỹ sử dụng một hoặc
nhiều trong số ít nhất 46 hỗn hợp đặc biệt (đôi khi được gọi là nhiên liệu thông
thường), trong khi phần lớn phần còn lại của đất nước sử dụng khí đốt thông thường.
Bởi vì các hỗn hợp pha trộn đặc biệt thường được thiết kế để cắt giảm ô nhiễm không
khí nên chúng có nhiều khả năng được yêu cầu bởi Bản sửa đổi Đạo luật Không khí
Sạch của Hoa Kỳ, luật pháp tiểu bang hoặc pháp lệnh địa phương ở những khu vực
có vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng. Ví dụ, mục tiêu của Chương trình Nhiên liệu Cải
cách (RFG) của liên bang là giảm lượng kiến gây ô nhiễm hình thành tầng ozone trên
mặt đất. Nó quy định cả tiêu chí về hàm lượng (chẳng hạn như giới hạn hàm lượng
benzen) và tiêu chuẩn hiệu suất dựa trên lượng khí thải cho các nhà máy lọc dầu.

Ở các bang sử dụng xăng thường xuyên, các nhà bán buôn ở một bang vận chuyển
xăng qua các bang khác để đáp ứng với giá cao hơn một chút ở các bang lân cận. Do
đó, đường cung dư của xăng thông thường ở một trạng thái nhất định gần như nằm
ngang.
Ngược lại, xăng thường không được nhập khẩu vào các khu vực pháp lý yêu cầu pha
trộn đặc biệt. Rất ít nhà tinh chế sản xuất ra bất kỳ hỗn hợp đặc biệt nào. Chỉ có 13
nhà máy lọc dầu ở California có thể sản xuất hỗn hợp xăng đặc biệt ít gây ô nhiễm
của California, Xăng cải tiến California (CaRFG).19 Bởi vì các nhà máy lọc dầu yêu
cầu nâng cấp tốn kém để sản xuất một loại khí mới, nên họ thường không chuyển từ
sản xuất loại khí này sang loại khí khác. . Vì vậy, ngay cả khi giá xăng tăng ở
California, các nhà bán buôn ở các bang khác cũng không gửi xăng đến California, vì
họ không thể bán xăng thông thường một cách hợp pháp ở California và sẽ tốn quá
nhiều chi phí để bắt đầu sản xuất CaRFG.

Do đó, không giống như đường cung dư xăng gần như nằm ngang đối với dòng xăng
thông thường, đường cung dư xăng được điều chỉnh lại cuối cùng có độ dốc hướng
lên. Với số lượng tương đối nhỏ, các nhà máy lọc dầu có thể sản xuất nhiều xăng hơn
mà không phải chịu chi phí cao hơn, do đó đường cung ở khu vực này tương đối
bằng phẳng. Tuy nhiên, để sản xuất lượng xăng lớn hơn nhiều, các nhà máy lọc dầu
phải vận hành nhà máy của họ suốt ngày đêm và chuyển đổi một phần lớn hơn của
mỗi gallon dầu thành xăng, làm phát sinh chi phí sản xuất cao hơn. Do chi phí cao
hơn nên họ sẵn sàng bán số lượng lớn hơn trong phạm vi này chỉ với mức giá cao
hơn, do đó đường cung dốc lên.

19
Auffhammer và Kellogg (2011) cho thấy quy định của California giúp giảm tầng ozone trên mặt
đất, cải thiện đáng kể chất lượng không khí, nhưng các quy định hiện hành của liên bang không có
hiệu quả.

Khi các nhà máy lọc dầu đạt công suất, dù giá có cao đến đâu, các công ty cũng
không thể sản xuất thêm xăng (ít nhất là cho đến khi các nhà máy lọc dầu mới đi vào
hoạt động), do đó đường cung trở nên thẳng đứng.

California thường hoạt động ở phần dốc lên của đường cung. Vào cuối mùa hè năm
2009, khi giá xăng giảm ở phần còn lại của đất nước, giá xăng ở California đã tăng
thêm 30¢ mỗi gallon so với giá trung bình toàn quốc do một loạt vấn đề sản xuất tại
các nhà máy lọc dầu.

Brown và cộng sự. (2008) nhận thấy rằng khi RFG liên bang lần đầu tiên được áp
dụng, giá ở các khu vực đô thị được quản lý đã tăng trung bình 3¢ mỗi gallon so với
các khu vực không được kiểm soát. Tuy nhiên, mức tăng là hơn 7¢ ở một số thành
phố như Chicago khi đường cầu chuyển từ giao nhau với đường cung ở phần bằng
phẳng sang cắt đường cung ở phần dốc lên.

Giải vấn đề 8.5

Trong ngắn hạn, điều gì sẽ xảy ra với giá xăng thị trường cạnh tranh nếu đường cầu ở
một bang dịch chuyển sang phải khi nhiều người chuyển đến bang đó hoặc bắt đầu lái
những chiếc SUV ngốn xăng? Trong câu trả lời của bạn, hãy phân biệt giữa các khu
vực bán xăng thông thường và các khu vực pháp lý yêu cầu pha trộn đặc biệt.

Câu trả lời

1. Hãy chỉ ra tác động của sự dịch chuyển của đường cầu tại các khu vực sử dụng
xăng thông thường. Tại khu vực sử dụng xăng thông thường, đường cung ở
phần a của hình là đường nằm ngang vì các doanh nghiệp ở các bang lân cận
sẽ cung cấp đủ lượng xăng như mong muốn theo giá thị trường. Do đó, khi
đường cầu dịch chuyển sang phải từ D1 đến D2, trạng thái cân bằng dịch
chuyển dọc theo đường cung từ e1 đến e2 và giá vẫn ở mức p1

Xăng thường xăng pha trộn đặc biệt


P,$ một gallon

P,$ một gallon

e3

P1 S P1
e1 e2 e1 e2

D1 D2 D1 D2 D3
Q, tỷ gallon xăng mỗi ngày Q, tỷ gallon xăng mỗi ngày

Hãy chỉ ra tác động của cả sự dịch chuyển nhỏ và lớn của đường cầu tại một khu vực
pháp lý sử dụng sự kết hợp đặc biệt. Đường cung ở bảng b được vẽ như mô tả trong
Ứng dụng. Nếu đường cầu dịch chuyển nhẹ sang phải từ D1 đến D2 thì giá không đổi
tại p1 vì đường cầu mới cắt đường cung ở vùng phẳng tại e2. Tuy nhiên, nếu đường
cầu dịch chuyển xa hơn về bên phải đến D3 thì điểm giao nhau mới, e3, nằm ở phần
dốc lên của đường cung và giá sẽ tăng lên p3. Do đó, những “sự tăng vọt” về nhu cầu
không lường trước có nhiều khả năng gây ra sự tăng giá đột biến—sự tăng giá lớn —
ở những khu vực pháp lý sử dụng các hỗn hợp đặc biệt.20

Cân bằng cạnh tranh dài hạn

Giao điểm của đường cung và cầu thị trường dài hạn quyết định trạng thái cân bằng
cạnh tranh dài hạn. Với các doanh nghiệp giống hệt nhau, giá đầu vào không đổi và
việc gia nhập và xuất cảnh tự do, cung thị trường cạnh tranh dài hạn nằm ngang ở
mức chi phí trung bình dài hạn tối thiểu, do đó giá cân bằng bằng chi phí trung bình
dài hạn. Sự dịch chuyển của đường cầu chỉ ảnh hưởng đến lượng cân bằng chứ
không ảnh hưởng đến giá cân bằng, giá cân bằng không đổi ở mức chi phí trung
bình dài hạn tối thiểu.

Đường cung thị trường trong ngắn hạn khác với trong dài hạn, do đó trạng thái cân
bằng cạnh tranh dài hạn khác với trạng thái cân bằng ngắn hạn. Mối quan hệ giữa
trạng thái cân bằng ngắn hạn và dài hạn phụ thuộc vào vị trí đường cầu thị trường
cắt đường cung thị trường ngắn hạn và dài hạn. Hình 8.13 minh họa điểm này bằng
cách sử dụng đường cung ngắn hạn và dài hạn cho thị trường nhà máy sản xuất dầu
thực vật.

Hình 8.13 Cân bằng ngắn hạn và dài hạn của dầu thực vật

(a)Một nhà máy dầu thực vật điển hình sản xuất ở nơi giá bằng MC của nó, do đó, nó
sẵn sàng sản xuất 150 đơn vị dầu ở mức giá 10 USD, hoặc 165 đơn vị ở mức giá 11
USD. (b) Đường cung thị trường ngắn hạn, SSR, là tổng theo chiều ngang của đường
chi phí cận biên ngắn hạn của 20 doanh nghiệp riêng lẻ trên chi phí biến đổi trung
bình tối thiểu, 7$. Đường cung thị trường dài hạn, SLR, nằm ngang tại mức chi phí
trung bình tối thiểu là 10$. Nếu đường cầu là D1, ở trạng thái cân bằng ngắn hạn, F1,
20 doanh nghiệp bán 2.000 đơn vị dầu ở mức giá 7 USD. Ở trạng thái cân bằng dài
hạn, E1, 10 doanh nghiệp bán 1.500 đơn vị với giá 10 USD. Nếu cầu là D2 thì trạng
thái cân bằng ngắn hạn là F2(11$, 3.300 đơn vị, 20 công ty) và trạng thái cân bằng
dài hạn là E2 ($10, 3.600 đơn vị, 24 công ty).
doanh nghiệp Thị trường

P,$ trên tấn

P,$ trên tấn


AC
SSR
F2 AVC F2
10
E2 SLR
11 e E1
F1 F1
9

0 165 3300 3600


100 150 1500 2000

q,trăm tấn dầu một năm Q,trăm tấn dầu một năm

20
Thị trường bán buôn xăng có thể không có tính cạnh tranh hoàn toàn, đặc biệt ở những khu
vực sử dụng hỗn hợp đặc biệt. Hơn nữa, khí có thể được lưu trữ. Do đó, sự khác biệt về giá
giữa các khu vực pháp lý cũng có thể là do các yếu tố khác (Borenstein và cộng sự, 2004).

8.4 Cạnh tranh trong dài hạn


Đường cung ngắn hạn của một doanh nghiệp điển hình trong phần a là chi phí
biên trên mức tối thiểu của chi phí biến đổi bình quân là 7 USD. Ở mức giá 7$,
mỗi hãng sản xuất 100 đơn vị, vì vậy trong ngắn hạn 20 doanh nghiệp trên thị
trường cùng nhau cung cấp 2,000 (= 20 * 100) đơn vị dầu trong bảng b. Tại
mức giá cao hơn, thị trường ngắn hạn đường cung dốc lên vì nó là tổng theo
chiều ngang của đường chi phí cận biên dốc lên của doanh nghiệp.

Chúng tôi giả định rằng các doanh nghiệp sử dụng cùng một quy mô nhà máy
trong ngắn hạn và dài hạn để chi phí trung bình tối thiểu là 10 USD trong cả
ngắn hạn và dài hạn. Bởi vì tất cả các hãng có cùng chi phí và có thể tham gia
tự do, đường cung thị trường dài hạn bằng phẳng với chi phí trung bình tối
thiểu là 10$ trong bảng b. Ở mức giá từ 7 đến 10 USD, các doanh nghiệp cung
cấp hàng hóa bị lỗ trong ngắn hạn nhưng không bị lỗ trong dài hạn.

Nếu đường cầu thị trường là D1, cân bằng thị trường ngắn hạn, F1, nằm dưới
và ở bên phải điểm cân bằng thị trường dài hạn, E1. Mối quan hệ này bị đảo
ngược nếu đường cầu thị trường là D2.21
Trong ngắn hạn, nếu cầu thấp đến mức D1, giá thị trường ở trang thái cân bằng
ngắn hạn , F1, là $7. Ở mức giá đó, mỗi hãng trong số 20 hãng sản xuất 100
đơn vị, ở mức f1 trong bảng a. Các doanh nghiệp thua lỗ vì giá 7 USD thấp hơn
chi phí trung bình ở mức 100 đơn vị. Những tổn thất này đẩy một số doanh
nghiệp ra khỏi thị trường trong thời gian dài, do đó sản lượng thị trường giảm
và giá thị trường tăng. Ở trạng thái cân bằng dài hạn E1, giá là $10, và mỗi
hãng sản xuất 150 đơn vị , e, và hòa vốn. Như nhu cầu thị trường chỉ có 1,500
đơn vị, chỉ có 10 (= 1,500/150) doanh nghiệp sản xuất, do đó một nửa số
doanh nghiệp sản xuất trong ngắn hạn sẽ rời khỏi thị trường.22 Như vậy, với D1
đường cầu, giá tăng và sản lượng giảm trong dài hạn.

Nếu nhu cầu mở rộng đến D2, trong ngắn hạn, mỗi hãng trong số 20 hãng đều
mở rộng sản lượng của mình lên 165 đơn vị, f2, và giá tăng lên $11, tại đó các
hãng kiếm được lợi nhuận: Giá $11 là cao hơn chi phí trung bình ở mức 165
đơn vị. Những lợi nhuận này thu hút sự gia nhập trong dài hạn chạy và giá
giảm. Ở trạng thái cân bằng dài hạn, mỗi hãng sản xuất 150 đơn vị, e,và 3,600
đơn vị được bán trên thị trường, E2, bởi 24 doanh nghiệp (= 3,600/150). Như
vậy, với đường cầu D2, giá giảm và sản lượng tăng trong dài hạn.

_____________________________
21
Sử dụng dữ liệu từ Cơ quan thống kê Canada, tôi ước tính độ co giãn của cầu đối với dầu
thực vật là ε = -0.8. Cả D1 và D2 đều là các đường cầu co giãn không đổi, nhưng lượng cầu
tại bất kì mức giá nào trên D2 đều gấp 2,4 lần giá trên D1.
22
Làm thế nào để chúng ta biết doanh nghiệp nào rời đi? Nếu các doanh nghiệp giống hệt
nhau, lý thuyết không nói gì về doanh nghiệp nào rời đi và doanh nghiệp nào ở lại. Các
doanh nghiệp rời đi không tạo ra lợi nhuận kinh tế và những doanh nghiệp ở lại tạo ra lợi
nhuận kinh tế bằng 0, vì vậycác doanh nghiệp không quan tâm đến việc họ ở lại hay rút lui.

CHƯƠNG 8 Các Doanh Nghiệp và Thị Trường Cạnh Tranh


MC
p, $ trên P ӛi đơn Yӏ AC2 = AC1 + L /q

p, $ trên P ӛi đơn Yӏ
. .
AC1
e2 E2
S2
p2 p2

p1 .
e1
p1 . E1
S1

Q, Trên P ӛi đơn v
q1 q2 q, trên P ӛi đơn Yӏ Q2 = n2q2 Q1 = n1q1
Các khoản phí mới, cao hơn và các chi phí gộp khác làm tăng chi phí vận hành cố định lên ℒ . Trong phần a, thuế nhượng quyền thương mại
một lần, làm dịch chuyển đường chi phí trung bình của một công ty điển hình lên từ AC1 đến
AC2 = AC1 + ℒ /q nhưng không ảnh hưởng đến chi phí cận biên (xem câu trả lời cho Bài toán đã giải 7.2). Kết quả là, tối thiểu chi phí trung
bình tăng từ e1 lên e2.
Biết rằng số lượng tài xế xe tải giống hệt nhau sẵn sàng hoạt động trong thị trường này, đường cung thị trường dài hạn nằm ngang ở mức trung
bình tối thiểu trị giá. Do đó, đường cung thị trường dịch chuyển lên trên trong bảng b một lượng tương đương khi chi phí trung bình tối thiểu
tăng lên. Do nhu cầu thị trường có xu hướng đi xuống đường cong D, trạng thái cân bằng mới, E2, có lượng thấp hơn, Q2 < Q1, và giá cao
hơn, p2 > p1, so với trạng thái cân bằng ban đầu, E1.
Khi giá thị trường tăng, số lượng hãng sản xuất tăng từ q1 lên q2 trong bảng a. Bởi vì đường chi phí cận biên dốc lên ở điểm cân bằng ban đầu,
khi đường chi phí trung bình dịch chuyển lên do chi phí cố định cao hơn, đường chi phí mới điểm tối thiểu trên đường chi phí trung bình
tương ứng với sản lượng lớn hơn mức trạng thái cân bằng ban đầu.
Vì vậy, bất kỳ doanh nghiệp vận tải đường bộ nào còn hoạt động trên thị trường đều sản xuất với khối lượng lớn hơn. Bởi vì số lượng thị
trường giảm nhưng mỗi hãng còn lại trên thị trường vẫn sản xuất hơn nữa, số lượng doanh nghiệp trên thị trường phải giảm. Ở trạng thái cân
bằng ban đầu, số doanh nghiệp là n1 = Q1/q1. Số lượng doanh nghiệp cân bằng mới, n2 = Q2/q2, phải nhỏ hơn n1 vì Q2 < Q1 và q2 > q1. Vì vậy,
sự gia tăng trong chi phí cố định làm cho giá và số lượng thị trường tăng lên và số lượng xe vận tải các công ty sụp đổ, như hầu hết mọi người
mong đợi, nhưng nó có tác động đáng ngạc nhiên rằng nó khiến các công ty sản xuất tăng số lượng dịch vụ mà họ cung cấp.

BẢN TÓM TẮT


1.Cạnh tranh hoàn hảo. Cạnh tranh trong đó người mua và người bán là
hoàn hảo là một thị trường cấu trúc người chấp nhận giá. Mỗi hãng phải
đối mặt với một đường cầu nằm ngang. nhuận được tối đa hóa khi lợi nhuận
Một công ty đường cầu nằm ngang vì biên bằng 0 hoặc tương đương khi
hoàn toàn phù hợp thị trường cạnh doanh thu biên bằng chi phí biên. Thứ
tranh hoàn hảo có năm đặc điểm: có hai, hãng quyết định có nên sản xuất
một số lượng rất lớn người mua và hay không.
người bán nhỏ, các doanh nghiệp sản
3. Cạnh tranh trong ngắn hạn. Để tối
xuất các sản phẩm giống hệt nhau
đa hóa lợi nhuận của mình, một doanh
(đồng nhất), người mua có đầy đủ
nghiệp cạnh tranh (giống như một
thông tin về giá cả, đặc tính sản phẩm,
doanh nghiệp trong bất kỳ cấu trúc thị
chi phí giao dịch không đáng kể, có
trường nào khác) chọn mức sản lượng
quyền ra vào tự do về lâu dài. Nhiều thị
tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí
trường có tính cạnh tranh cao – các
cận biên. Bởi vì một doanh nghiệp
doanh nghiệp gần như trở thành người
cạnh tranh là người chấp nhận giá,
chấp nhận giá – ngay cả khi họ không
doanh thu cận biên của nó bằng giá thị
sở hữu tất cả năm đặc điểm liên quan
trường, do đó nó ấn định sản lượng sao
đến cạnh tranh hoàn hảo.
cho giá bằng chi phí cận biên. Các
2. Tối đa hóa lợi nhuận. Hầu hết các công ty mới không thể tham gia trong
công ty đều tối đa hóa lợi nhuận kinh thời gian ngắn. Ngoài ra, các doanh
tế, tức là doanh thu trừ đi chi phí kinh nghiệp trong ngành có một số đầu vào
tế (chi phí rõ ràng và chi phí ngầm). Vì cố định không thể thay đổi và không
lợi nhuận kinh doanh, tức là doanh thu thể tránh được chi phí. Theo nghĩa này,
trừ đi chi phí hiện tượng, không bao các doanh nghiệp không thể thoát khỏi
gồm chi phí tiềm ẩn nên lợi nhuận kinh nỗ lực của ngành công nghiệp trong
tế có xu hướng nhỏ hơn lợi nhuận kinh ngắn hạn. Tuy nhiên, một doanh
doanh. Một công ty kiếm được lợi nghiệp tối đa hóa lợi nhuận sẽ đóng
nhuận kinh tế bằng 0 đang kiếm được cửa và không sản xuất nếu giá thị
nhiều tiền nhất có thể nếu các nguồn trường thấp hơn chi phí biến đổi trung
lực của nó được dành cho những mục bình tối thiểu. Vì vậy, đường cung
đích sử dụng thay thế tốt nhất. Để tối ngắn hạn của một hãng cạnh tranh là
đa hóa lợi nhuận, tất cả các doanh đường chi phí cận biên của nó nằm trên
nghiệp (không chỉ các doanh nghiệp chi phí biến đổi trung bình tối thiểu.
cạnh tranh) phải đưa ra hai quyết định. Đường cung thị trường ngắn hạn là
Đầu tiên, công ty xác định số lượng mà tổng các đường cung của số lượng
tại đó lợi nhuận của nó cao nhất. Lợi doanh nghiệp sản xuất cố định trong
ngắn hạn. Trạng thái cân bằng cạnh tố cố định trong dài hạn. Đường cung
tranh ngắn hạn được xác định bởi sự thị trường dài hạn là tổng theo chiều
giao nhau của đường cầu thị trường và ngang của các đường cung của tất cả
đường cung thị trường ngắn hạn. các doanh nghiệp trên thị trường. Nếu
tất cả các doanh nghiệp đều giống
4. Cạnh tranh trong dài hạn. Trong
nhau, việc gia nhập và rút lui dễ dàng
dài hạn, doanh nghiệp cạnh tranh đặt
và giá đầu vào không đổi thì đường
sản lượng ở mức giá thị trường bằng
cung thị trường dài hạn bằng phẳng ở
chi phí cận biên dài hạn. Nó sẽ ngừng
mức chi phí trung bình tối thiểu. Nếu
hoạt động nếu giá thị trường thấp hơn
các doanh nghiệp khác nhau, việc gia
mức tối thiểu của chi phí dài hạn trung
nhập khó khăn hoặc tốn kém, giá đầu
bình của nó, bởi vì tất cả các chi phí
vào thay đổi theo đầu ra, hoặc một
đều có thể thay đổi trong dài hạn. Do
quốc gia có nhu cầu lớn về một mặt
đó, đường cung của doanh nghiệp cạnh
hàng trên thị trường thế giới, đường
tranh là chi phí biên dài hạn cao hơn
cung thị trường dài hạn sẽ có độ dốc.
chi phí trung bình dài hạn tối thiểu.
Giá và lượng cân bằng trên thị trường
Đường cung dài hạn của một hãng có
dài hạn khác với giá và lượng cân bằng
thể có độ dốc khác với đường cung
ngắn hạn.
ngắn hạn vì nó có thể thay đổi các yếu

Câu hỏi
Mọi câu hỏi đều có sẵn trên MyEconLab; * = câu trả lời xuất hiện ở cuối cuốn sách
này; A = bài toán đại số; C = bài toán tính toán.

1. Cạnh tranh hoàn hảo b. Một số lượng lớn các doanh nghiệp
trên thị trường.
1.1 Một doanh nghiệp cạnh tranh phải
đối mặt với một đường cầu thặng dư c. Đường cầu thị trường tương đối co
tương đối nằm ngang. Các điều kiện giãn ở điểm cân bằng
sau đây có làm cho đường cầu phẳng
d. Đường cung của các doanh nghiệp
hơn không (và tại sao)?
khác tương đối co giãn.
a. Dễ dàng nhập cảnh.
2007, Hoa Kỳ có 347.760 trang trại
ngô. Giả sử rằng các trang trại có quy
mô gần như bằng nhau, độ co giãn của
cầu đối với một trang trại là bao nhiêu?(
Gợi ý: Xem giải quyết vấn đề 8.1.)
1.2 Tại sao chi phí giao dịch cao hoặc
thông tin không hoàn hảo có xu hướng 1.4 Dựa trên phương trình 8.2, độ co
ngăn cản hành vi chấp nhận giá? giãn dư của cầu đối với một doanh
nghiệp tăng bao nhiêu khi số lượng
1.3 Dựa trên Roberts và Schlenker (sắp doanh nghiệp tăng thêm một doanh
xuất bản), độ co giãn của cầu ngô là ε = nghiệp?
-0,3 và độ co giãn của cung là η = 0,15.
Theo Điều tra Dân số Nông nghiệp năm (Gợi ý: Xem Giải quyết vấn đề 8.1.) A
hoặc C

2. Tối đa hóa lợi nhuận

2.1 Một công ty có nên đóng cửa (và b. Chi phí biến đổi của nó là VC =
tại sao) nếu doanh thu của nó là R = 1.001 USD, và chi phí cố định chìm F
1.000 USD mỗi tuần, = 500 USD?

a. Chi phí biến đổi của nó là VC =


$500, và chi phí cố định chìm của nó là 2.2 Một công ty có nên đóng cửa nếu
F = $600? doanh thu hàng tuần của nó là 1.000
USD, chi phí biến đổi là 500 USD và
chi phí cố định là 800 USD, trong đó
600 USD có thể tránh được nếu nó
đóng cửa? Tại sao?

2.3 Một doanh nghiệp cạnh tranh có USD để đưa vở nhạc kịch của họ tới
nên sản xuất khi đang thua lỗ (tạo ra Broad way (Kevin Flynn và Patrick
lợi nhuận kinh tế âm) không? Tại sao Healy, “How the Numbers Add Up
hoặc tại sao không? [Way Up] cho 'Spider-Man,' ” Mới
York Times, ngày 23 tháng 6 năm
2.4 Các nhà sản xuất của “Spider-Man:
2011). Chỉ riêng họ đã chi 9 triệu USD
Turn Off the Dark” đã chi 75 triệu
cho phim trường, trang phục và giày.
Chi phí hoạt động của họ là 1,2 triệu hơn bảy năm để hoàn vốn cho các nhà
đô la một tuần tính đầu tư. Chỉ có 18 buổi biểu diễn ở
Broadway từng kéo dài bảy năm hoặc
lâu hơn. “Người nhện” nên đóng cửa
hay tiếp tục hoạt động? Tại sao?

đến tháng 1 năm 2011. Kể từ đó, họ đã *2.5 Hàm lợi nhuận của một công ty là
cải tiến chương trình và giảm chi phí π(q) = R(q) - C(q) = 120q - (200 + 40q
hoạt động xuống khoảng 1 triệu đô la +10q2). Mức sản lượng dương tối đa
một tuần. Buổi biểu diễn đã bán hết vé hóa lợi nhuận của hãng là bao nhiêu?
nhưng (hoặc giảm thiểu sự mất mát của nó) ?
Doanh thu, chi phí biến đổi và lợi
mang lại từ 1,2 triệu đến 1,3 triệu USD nhuận của công ty là bao nhiêu? Nó
mỗi tuần. Các nhà sản xuất thừa nhận nên hoạt động hay ngừng hoạt động
rằng với mức thu nhập hiện tại của bộ trong thời gian ngắn? C
phim, “Người Nhện” sẽ cần phải chiếu

3. Cạnh tranh trong ngắn hạn

*3.1 Đường chi phí cận biên có thể có là bao nhiêu? Điều kiện tối đa hóa lợi
hình chữ U. Kết quả là đường MC có nhuận của hãng là gì? C
thể chạm vào đường cầu hoặc đường
3.4 Hàm chi phí của Acme Laundry là
giá của doanh nghiệp ở hai mức sản
C(q) = 10 + 10q + q2, do đó hàm chi
lượng. Sản lượng tối đa hóa lợi nhuận
phí cận biên của nó là
là bao nhiêu? Tại sao?
MC = 10 + 2q, trong đó q là tấn quần
3.2 Nếu hàm chi phí của John’s Shoe
áo được giặt sạch. Hãy rút ra đường chi
Repair là C(q) = 100 + 10q - q2 + 1/3
phí trung bình và chi phí biến đổi trung
q3 , và hàm chi phí cận biên của nó là
bình của công ty. Hãng nên chọn q nào
MC = 10 - 2q + q2, điều kiện tối đa hóa
để tối đa hóa lợi nhuận nếu giá thị
lợi nhuận của nó là gì khi giá thị
trường là p? Nó sản xuất được bao
trường là p?A
nhiêu nếu giá thị trường cạnh tranh là p
*3.3 Nếu hàm chi phí của một doanh = 50? A
nghiệp cạnh tranh là C(q) = a + bq +
3.5 Nếu một khoản trợ cấp cụ thể
cq2 + dq3, trong đó a, b, c và d là các
(thuế âm) s chỉ được trao cho một
hằng số, hàm chi phí cận biên của hãng
doanh nghiệp cạnh tranh, doanh nghiệp
đó nên thay đổi mức sản lượng như thế Bạn có thể tìm được một q duy nhất,
nào để tối đa hóa lợi nhuận và lợi tối đa hóa lợi nhuận theo p không?
nhuận tối đa của nó thay đổi như thế
(Gợi ý: Xem Giải bài toán 8.2.) C
nào? (Gợi ý: Xem Giải quyết vấn đề
8.2.) 3.9 Ban đầu, giá thị trường là p = 20,
và chi phí biến đổi trung bình tối thiểu
3.6 Câu trả lời cho Vấn đề đã giải
của công ty cạnh tranh là 18, trong khi
quyết 8.2 sẽ thay đổi như thế nào nếu
chi phí trung bình tối thiểu của công ty
thay vì một loại thuế cụ thể, Manitoba
là 21. Công ty có nên đóng cửa không?
áp đặt thuế theo giá trị (xem Chương 3)
Tại sao? Bây giờ chi phí biến đổi trung
là α phần trăm đối với vôi được sản
bình của công ty này tăng 3 lần ở mọi
xuất ở tỉnh đó? (Gợi ý: Xem Giải quyết
số lượng, trong khi các công ty khác
vấn đề 8.2. Giá thị trường đóng vai trò
trên thị trường không bị ảnh hưởng.
gì trong phân tích hai loại thuế?)
Điều gì xảy ra với chi phí trung bình
3.7 Chức năng chi phí trước thuế của của nó? Công ty này có nên đóng cửa?
Beta Laundry là C(q) = 30 + 20q + q2 , Tại sao?
vì vậy hàm chi phí cận biên của nó là
3.10 Trong quảng cáo trên đài phát
MC = 20 + 2q.
thanh, Mercedes-Benz ở San Francisco
a. Số lượng nào tối đa hóa lợi nhuận nói rằng nó đã được sở hữu và điều
của hãng nếu giá thị trường là p? Nó hành bởi cùng một gia đình ở cùng một
sản xuất bao nhiêu nếu p = 60? địa điểm trong 51 năm (tính đến năm
2013). Sau đó nó đưa ra hai khẳng
b. Nếu chính phủ áp dụng một mức
định: thứ nhất, đó là bởi vì họ đã sở
thuế cụ thể là t = 2 thì lượng lợi nhuận
hữu mảnh đất này từ rất lâu, nên chi
sau thuế là bao nhiêu? Nó hoạt động
phí đầu tư thấp hơn so với các đại lý ô
hay ngừng hoạt động? (Gợi ý: Xem
tô khác ở gần đó, và thứ hai, do chi phí
phần Giải quyết vấn đề 8.2.) A
đầu tư thấp hơn nên họ có chi phí thấp
3.8 Nếu hàm chi phí trước thuế của hơn nên cho phép họ tính giá thấp hơn
Cửa hàng sửa giày John là C(q) = 100 cho ô tô của mình. Thảo luận về tính
+ 10q - q2 + 1/3 q3, và nó phải đối mặt logic của những tuyên bố này. (Gợi ý:
với mức thuế cụ thể là t = 10, vậy tối Xem Giải quyết vấn đề 8.3.)
đa hóa lợi nhuận của nó là bao nhiêu?
3.11 Theo Đơn đăng ký “Ngăn chặn
nếu giá thị trường là p?
khai thác dầu, cát dầu và đá phiến
dầu”, chi phí biến đổi trung bình tối đổi này ảnh hưởng như thế nào đến
thiểu để xử lý cát dầu đã giảm từ 25 đường cung của một hãng cạnh tranh
USD/thùng vào những năm 1960 điển hình và đường cung của tất cả các
xuống còn 18 USD do tiến bộ công hãng sản xuất dầu từ cát dầu.
nghệ. Trong hình, hãy cho thấy sự thay

3.12 Mỏ vàng cuối cùng đang hoạt thay đổi trong lợi nhuận cân bằng của
động ở California đã đóng cửa sau Thế hãng.
chiến II vì việc khai thác trở nên không
3.13 Vào mùa hè năm 2012, do tôm
có lãi khi giá vàng là 34,71 USD/ounce
hùm dồi dào, giá tôm hùm ở Maine đã
(khoảng 446 USD theo đô la hiện tại).
giảm xuống còn 1,25 USD/pao, thấp
Tuy nhiên, vào năm 2012, giá vàng đã
hơn 70% so với mức bình thường và
đạt mức cao lịch sử, dao động quanh
gần mức thấp nhất trong 30 năm. Theo
mức 1.700 USD/ounce. Kết quả là,
Bill Adler, người đứng đầu Hiệp hội
hoạt động khai thác vàng đá cứng quy
những người nuôi tôm hùm
mô lớn đầu tiên trong hơn nửa thế kỷ
Massachusetts, “Bất cứ thứ gì dưới 4
đã được mở cửa trở lại, và một số hoạt
đô la [một pound], những người nuôi
động khác dự kiến sẽ mở cửa trở lại
tôm hùm không thể kiếm được tiền”
vào năm 2013 (Don Thompson, “Gold
(Jerry A. Dicolo và Nicole Friedman,
Mining is Back in the Sierra Foothills,”
“Giá tôm hùm tăng vọt”, Wall Street
Appeal- Đảng Dân chủ, ngày 17 tháng
Journal, tháng 7 16,2012). Ít nhất 30
12 năm 2012;
tàu thuyền thông báo sẽ ở lại cảng cho
www.macrotrends.net/1333/gold-and-
đến khi giá tăng. Tuy nhiên, ngư dân
silver-prices-100-year-histocal-chart,
Canada và các nước Mỹ khác vẫn tiếp
xem ngày 22 tháng 6 năm 2013).
tục thu hoạch tôm hùm. Tại sao một số
a. Hãy chỉ ra trong hình thông tin này tàu tôm hùm ngừng đánh bắt trong khi
hàm ý gì về hình dạng của hàm chi phí những tàu khác vẫn tiếp tục?
khai thác vàng.
*3.14 Đối với những người nông dân
b. Sử dụng hàm chi phí mà bạn đã vẽ trồng táo Red Delicious ở Washington,
ở phần a để chỉ ra việc giá vàng trên thị năm 2001 là một năm khủng khiếp
trường tăng lên ảnh hưởng như thế nào (Linda Ashton, “Việc thu hoạch bội thu
đến lượng vàng mà một công ty cạnh khiến những nông dân trồng táo đang
tranh khai thác được. Hãy chỉ ra sự gặp khó khăn,” San Francisco
Chronicle, ngày 9 tháng 1 năm 2001). Marijuana Farms,” San Francisco
Giá trung bình của Red Delicious là Chronicle, ngày 21 tháng 7 năm 2010 ;
10,61 USD/hộp, thấp hơn nhiều so với Malia Wollan, “Oakland, Tìm kiếm sự
mức đóng cửa là 13,23 USD. Nhiều nâng đỡ tài chính, Phê duyệt các trang
nông dân đã không hái táo khỏi cây trại cần sa khổng lồ,” NewYork Times,
của họ. Những nông dân khác san ngày 21 tháng 7 năm 2010). Một đề
phẳng cây của họ, thoát khỏi vùng đất xuất kêu gọi xây dựng một trang trại
Đỏ Kinh doanh tốt đẹp mãi mãi, khiến rộng 100.000 feet vuông, rộng bằng hai
25.000 mẫu đất bị ngừng sản xuất. Tại sân bóng đá. Trước khi hợp pháp hóa
sao một số trang trại chọn không hái này, chỉ có cá nhân mới có thể trồng
táo và những trang trại khác lại san cần sa. Những người nông dân nhỏ này
bằng cây của họ? (Gợi ý: Hãy xem xét phàn nàn gay gắt, cho rằng các công ty
chi phí biến đổi trung bình và kỳ vọng lớn sẽ đẩy họ ra khỏi ngành mà họ đã
về giá cả trong tương lai.) góp phần xây dựng do lợi thế kinh tế
theo quy mô. Vẽ hình để minh họa tình
3.15 Năm 2009, cử tri ở Oakland,
huống đó. Trong những điều kiện nào
California, đã thông qua biện pháp
(chẳng hạn như chi phí tương đối, vị trí
đánh thuế cần sa y tế (cần sa), hợp
của đường cầu, số lượng doanh nghiệp
pháp hóa nó một cách hiệu quả. Năm
có chi phí thấp) thì những người trồng
2010, Hội đồng Thành phố đã thông
trọt nhỏ hơn, chi phí cao hơn sẽ bị loại
qua các quy định cho phép các trang
khỏi hoạt động kinh doanh? (Vào năm
trại cần sa quy mô công nghiệp không
2012, chính phủ liên bang đã chấm dứt
có giới hạn về quy mô nhưng yêu cầu
hoạt động kinh doanh này ở Oakland.
mỗi trang trại phải trả một khoản phí
Tuy nhiên, Colorado và Washington đã
$211.000 mỗi năm (Matthai Kuruvila,
thông qua luật cho phép bán cần sa kể
“Oakland Allows Industrial-scale
từ năm 2013.)

3.16 Quốc gia châu Phi Lesotho chiếm phẩm của Lesotho dịch chuyển xuống
phần lớn xuất khẩu thu nhập—90% dốc do hạn ngạch dệt may đối với
năm 2004—từ các nhà máy dệt may Trung Quốc chấm dứt, dẫn đến xuất
của họ. Những chiếc áo phông của khẩu của Trung Quốc tăng lên và tỷ giá
Walmart và áo len lông cừu của hối đoái đồng đô la Mỹ so với đồng
JCPenney có thể được sản xuất ở đó. tiền nước này sụt giảm. Các nhà máy
Năm 2005, đường cầu đối với các sản may mặc của Lesotho đã phải bán quần
áo trị giá khoảng 55 USD ở Mỹ để trả 3.17 Internet đang ảnh hưởng đến việc
lương hàng tháng cho một công nhân vận chuyển trong kỳ nghỉ lễ. Trong
nhà máy vào năm 2002, nhưng họ phải những năm qua, thời gian vận chuyển
bán trung bình từ 109 USD đến 115 bận rộn nhất là tuần lễ Tạ ơn. Bây giờ
USD vào năm 2005. Kết quả là, trong khi mọi người đã trở nên thoải mái hơn
quý đầu tiên của năm 2005, 6 trong số với thương mại điện tử, họ sẽ mua
50 nhà máy quần áo ở Lesotho đóng hàng vào cuối năm và có nhiều khả
cửa. khi giá thế giới giảm mạnh xuống năng được vận chuyển quà tặng hơn
dưới mức chi phí biến đổi trung bình (hơn là mua hàng tại địa phương).
tối thiểu của họ. Những lần ngừng hoạt FedEx, cùng với Ama zon và các công
động này đã loại bỏ 5.800 trong số ty thương mại điện tử khác, thuê thêm
50.000 việc làm trong ngành may mặc. nhân công trong thời gian này và nhiều
Việc sa thải tại các nhà máy khác đã nhân viên thường xuyên ghi lại số giờ
loại bỏ thêm 6.000 nhân công nữa. Kể làm thêm đáng kể.
từ năm 2002, Lesotho đã mất khoảng
a. Chi phí cận biên và chi phí trung
30.000 việc làm trong ngành dệt may.
bình của công ty có khả năng tăng hay
a. Đường cầu của các nhà máy dệt giảm với hoạt động kinh doanh bổ
Lesotho có hình dạng như thế nào và sung này? (Thảo luận về tính kinh tế
tại sao? (Gợi ý: Họ là những người theo quy mô và độ dốc của đường chi
chấp nhận giá trên thị trường thế giới.) phí cận biên và chi phí trung bình.)

b. Sử dụng số liệu để cho thấy sự gia b. Sử dụng các biểu đồ thị trường
tăng xuất khẩu của Trung Quốc ảnh doanh nghiệp cạnh nhau để thể hiện tác
hưởng như thế nào đến đường cầu mà động lên số lượng doanh nghiệp, giá và
các nhà máy Lesotho gặp phải. sản lượng cân bằng cũng như lợi nhuận
của sự thay đổi theo mùa trong nhu cầu
c. Thảo luận xem sự thay đổi tỷ giá
đối với các nhà bán lẻ điện tử trong cả
hối đoái ảnh hưởng như thế nào đến
ngắn hạn và dài hạn. Giải thích lý do
đường cầu của họ và giải thích tại sao.
của bạn.
d. Sử dụng số liệu để giải thích tại sao
3.18 Cam rốn được trồng ở California
các nhà máy phải đóng cửa tạm thời
và Arizona. Nếu Arizona bắt đầu thu
hoặc vĩnh viễn. Làm thế nào một nhà
thuế cụ thể cho mỗi quả cam từ các
máy quyết định đóng cửa tạm thời hay
công ty của mình, điều gì sẽ xảy ra với
vĩnh viễn?
đường cung thị trường dài hạn? (Gợi ý:
Giả sử rằng tất cả các công ty ban đầu nào không? Nếu có thì bao nhiêu? Liệu
đều có chi phí như nhau. Câu trả lời khoản phí này có ảnh hưởng đến tổng
của bạn có thể phụ thuộc vào việc có số tiền mà người tiêu dùng phải trả cho
xảy ra sự gia nhập không giới hạn hay hàng tạp hóa không?
không. Xem Giải quyết vấn đề 8.4.)
3.21 Mỗi doanh nghiệp trong số 10
3.19 Tác động lên trạng thái cân bằng doanh nghiệp trên thị trường cạnh
ngắn hạn của một khoản trợ cấp cụ thể tranh có hàm chi phí C = 25 + q2, do
s trên mỗi đơn vị được cấp cho tất cả n đó chi phí cận biên của nó là MC = 2q.
doanh nghiệp trên thị trường là gì? Tỷ Hàm cầu thị trường là Q = 120 - p. Xác
lệ trợ cấp là gì? (Gợi ý: Xem Giải định giá cân bằng, số lượng mỗi hãng
quyết vấn đề 8.4.) và số lượng thị trường. A

3.20 Tính đến năm 2013, khách hàng


tại các cửa hàng tạp hóa và dược phẩm 3.22 Một cú sốc làm đường cầu dịch
ở California phải trả thêm 10¢ cho mỗi chuyển sang phải. Những đặc tính nào
túi giấy mà cửa hàng cung cấp (cửa của thị trường có thể dẫn đến sự gia
hàng giữ khoản phí này). Liệu khoản tăng lớn trong giá cân bằng?(Gợi ý:
phí như vậy có ảnh hưởng đến chi phí Xem
cận biên của bất kỳ hàng hóa cụ thể

phần thảo luận về hình dạng của thị trường đường cung và giải bài toán 8.5.)

4. Cạnh tranh trong dài hạn

4.1 Vào tháng 6 năm 2005, Eastman giấy và tổng chi phí trung bình (lại ở
Kodak tuyên bố sẽ không sản xuất giấy mức sản lượng tối ưu) không?
ảnh đen trắng nữa - loại giấy dùng để
4.2 Vẽ lại Hình 8.9 cho thấy tình
rửa ảnh bằng quy trình phòng tối
huống trong đó quy mô nhà máy ngắn
truyền thống. Kodak đưa ra quyết định
hạn quá lớn so với quy mô nhà máy dài
dựa trên việc thay thế nhiếp ảnh kỹ
hạn tối ưu.
thuật số bằng nhiếp ảnh truyền thống.
Khi đưa ra quyết định rút lui, Kodak có *4.3 Luật pháp Hoa Kỳ yêu cầu công
so sánh giá giấy và chi phí biến đổi ty phải thông báo cho công nhân của
trung bình (ở mức sản lượng tối ưu) mình trước 6 tháng trước khi có thể
không? Ngoài ra, Kodak có so sánh giá
đóng cửa nhà máy có ảnh hưởng gì đến hàng năm ở Hoa Kỳ từ năm 1986 đến
doanh nghiệp và trạng thái cân bằng thị năm 1991, thì con số đó đã tăng lên
trường? 10.300 vào năm 1999 và lên 13.588
vào năm 2005.23 Sử dụng biểu đồ song
4.4 Mỗi doanh nghiệp trong thị trường
song để minh họa sự đổi mới công
cạnh tranh có hàm chi phí C = q2, do đó
nghệ này ảnh hưởng đến lâu dài như
hàm chi phí cận biên của nó là MC =
thế nào. chạy đường cung và trạng thái
2q. Hàm cầu thị trường là Q = 24 - p.
cân bằng trên thị trường này.
Xác định giá cân bằng dài hạn, số
lượng mỗi doanh nghiệp, số lượng thị 4.6 Ứng dụng “Đường cung dài hạn
trường và số lượng doanh nghiệp. A dốc lên đối với bông” cho thấy đường
cung về tấn bông. Thảo luận về trạng
4.5 Máy quay video cầm tay giá rẻ đã
thái cân bằng nếu đường cầu thế giới
cách mạng hóa thị trường nội dung
cắt đường cung này theo (a) phần
khiêu dâm hạng nặng. Trước đây, làm
phẳng có nhãn Brazil hoặc (b) phần
phim cần có thiết bị đắt tiền và chuyên
thẳng đứng sau đây. Các trang trại ở
môn kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ ai có
Hoa Kỳ làm gì?
vài trăm đô la và một bàn tay khá ổn
định có thể mua và sử dụng một máy 4.7 Vẽ lại Hình 8.11 để cho thấy điều
quay video để làm phim. Kết quả là, gì sẽ xảy ra nếu chi phí yếu tố sản xuất
nhiều công ty mới đã gia nhập thị giảm khi số lượng của ngành tăng.
trường, và đường cung phim khiêu
*4.8 Phương trình đạo hàm 8.7. (Gợi ý:
dâm đã dịch chuyển đáng kể sang bên
Sử dụng phương pháp tương tự như
phải. Trong khi chỉ có 1.000 đến 2.000
phương pháp được sử dụng trong Phụ
đầu phim khiêu dâm được phát hành
lục 8A.) C

_________________________________________________________
23
“Thương hiệu thịt,” Nhà kinh tế học, ngày 14 tháng 8 năm 1999: 56;

internet-filter-review.toptenreviews.com/internet-pornography-statistics-pg9.html.

*4.9 Tính đến năm 2013, thuế cụ thể (Chouinard và Perloff, 2004) phát hiện
của liên bang đối với xăng là 18,4¢ ra rằng tác động (Chương 3) của thuế
mỗi gallon và thuế cụ thể của tiểu bang cụ thể liên bang đối với người tiêu
dao động từ 8¢ ở Alaska đến 43¢ ở dùng thấp hơn đáng kể so với thuế cụ
California. Một nghiên cứu thống kê thể của bang. Khi thuế cụ thể của liên
bang tăng thêm 1¢, giá bán lẻ tăng liệu hấp thụ dầu khác nhau cũng như
khoảng 0,5¢: Người tiêu dùng bán lẻ các hàng hóa và dịch vụ khác để giảm
chịu một nửa mức thuế. Ngược lại, khi thiểu thiệt hại từ vụ tràn dầu. Sử dụng
một bang sử dụng xăng thông thường các biểu đồ thị trường và doanh nghiệp
tăng thuế cụ thể thêm 1¢ thì ảnh hưởng cạnh nhau để thể hiện tác động (số
của thuế gần như rơi hoàn toàn vào lượng doanh nghiệp, giá cả, sản lượng,
người tiêu dùng: Giá bán lẻ tăng gần lợi nhuận) của sự thay đổi nhu cầu như
1¢. vậy trong một ngành như vậy trong cả
ngắn hạn và dài hạn. Giải thích câu trả
a. Các tác động của thuế xăng dầu cụ
lời của bạn phụ thuộc như thế nào vào
thể của liên bang và tiểu bang đối với
việc thay đổi nhu cầu dự kiến là tạm
các công ty là gì?
thời hay lâu dài.
b. Giải thích tại sao ảnh hưởng của
4.11 Trước cuối những năm 1990,
người tiêu dùng đến thuế xăng dầu cụ
người dân mua vé máy bay qua đại lý
thể của liên bang và tiểu bang lại khác
du lịch. Khi việc bãi bỏ quy định về
nhau khi giả định rằng thị trường có
hàng không vào cuối những năm 1970
tính cạnh tranh. (Gợi ý: Xét đường
đã khiến lượng du lịch hàng không ở
cung thặng dư của một bang so với
Mỹ tăng gấp ba lần từ năm 1975 đến
đường cung của quốc gia đó.)
năm 2000, số lượng đại lý du lịch đã
c. Sử dụng phương trình cung thặng tăng từ 45.000 lên 124.000. Vào cuối
dư (Phương trình 8.6), ước tính độ co những năm 1990, các trang web du lịch
giãn của cung thặng dư đối với một Internet như Travelocity, Expedia,
trạng thái so với độ co giãn của cung Priceline và Orbitz đã gia nhập thị
quốc gia là bao nhiêu. Để đơn giản, giả trường. Kết quả là các đại lý du lịch bắt
sử rằng tất cả 50 trạng thái đều giống đầu biến mất. Trong số các đại lý du
hệt nhau. A lịch làm việc năm 2000, 10% còn lại
vào năm 2001, 6% khác vào năm 2002
4.10 Vụ tràn dầu năm 2010 ở Vịnh và 43% vào năm 2010 (Waldfogel,
Mexico đã khiến công ty dầu mỏ BP và 2012). Sử dụng số liệu để giải thích
chính phủ Hoa Kỳ tăng cường đáng kể điều gì đã xảy ra trên thị trường đại lý
việc mua dịch vụ tàu thuyền, các vật du lịch.

5. Thách thức
5.1 Trong Giải pháp thách thức, việc thời chính quyền Bush, đã bị chấm dứt
phân tích liệu các chi phí trọn gói như dưới thời chính quyền Obama). Những
phí đăng ký có được thu hàng năm hay tác động ngắn hạn và dài hạn của việc
chỉ một lần khi công ty bắt đầu hoạt cho phép tài xế Mexico tham gia vào
động có tạo ra sự khác biệt hay không? giá cả, số lượng thị trường và số lượng
Mỗi loại thuế đặc quyền này sẽ ảnh tài xế xe tải ở Hoa Kỳ là gì?
hưởng như thế nào đến đường cung dài
*5.4 Các phòng khám phá thai hoạt
hạn của công ty? Giải thich câu trả lời
động trong một thị trường cạnh tranh
của bạn.
gần như hoàn hảo, gần đạt điểm hòa
5.2 Thay đổi câu trả lời được đưa ra vốn. Medoff (2007) ước tính rằng độ
trong Giải pháp Thử thách trong thời co giãn của cầu phá thai theo giá là -
gian ngắn thay vì về lâu dài. 1,071 và độ co giãn theo thu nhập là
1,24. Giá thực trung bình của việc phá
(Gợi ý: Câu trả lời phụ thuộc vào nhu
thai vẫn tương đối ổn định trong 25
cầu đường cong cắt đường cung ngắn
năm qua, điều này cho thấy đường
hạn ban đầu đường cong.)
cung nằm ngang.
5.3 Hiệp định Thương mại Tự do Bắc
a. Giá thị trường của việc phá thai và
Mỹ năm 1995 quy định vận tải đường
số ca phá thai sẽ thay đổi bao nhiêu
bộ đường dài hai chiều qua biên giới
nếu đánh thuế trọn gói vào các phòng
Hoa Kỳ-Mexico. Các tài xế xe tải Mỹ
khám phá thai và tăng chi phí trung
phản đối, cho rằng xe tải Mexico
bình tối thiểu của họ lên 10%? Sử dụng
không cần phải đáp ứng
một hình ảnh để minh họa câu trả lời
các tiêu chuẩn an toàn và môi trường của bạn.
tương tự như xe tải của Hoa Kỳ. Họ lo
b. Giá thị trường của việc phá thai và
ngại rằng sự kết hợp giữa chi phí cố
số ca phá thai sẽ thay đổi bao nhiêu
định thấp hơn và mức lương thấp hơn ở
nếu đánh thuế trọn gói đối với các
Mexico sẽ dẫn đến việc các tài xế
phòng khám phá thai làm tăng chi phí
Mexico sẽ mất việc kinh doanh từ họ.
trung bình tối thiểu lên 10%? Sử dụng
Những phàn nàn của họ đã làm trì hoãn
một hình ảnh để minh họa câu trả lời
việc thực hiện thỏa thuận này (ngoại
của bạn.
trừ một chương trình thí điểm nhỏ dưới

p GXҕ
ng mô KLҒ
nh
9 FDҕ
nh tranh
Không cần phải cố gắng nhiều hơn những gì công chúng có thể chịu đựng.

—Thomas Jefferson.

Từ năm 1996 đến năm 2010, Úc đã hứng chịu đợt hạn hán tồi tệ nhất trong lịch sử,
7 Ki ch W
Kӭ c “Cạn khô lớn”, làm giảm đáng kể lượng nước dự trữ trên khắp vùng đông nam nước
Úc. Mưa lớn trên phần lớn miền trung và đông bắc Australia vào năm 2010 mang lại sự
Hạn chế về cứu trợ hạn chế ở đó, nhưng nhiều khu vực, bao gồm cả vùng nông nghiệp chính, vẫn
nước “khô phải chịu hạn hán cho đến ngày nay. Để giảm mức tiêu thụ nước nói chung, chính
lớn” quyền các bang và các cơ quan cấp nước của Úc đã cấm sử dụng nước ngoài trời bắt
đầu từ năm 2002. Ít nhất 75% người dân Úc phải đối mặt với các hạn chế bắt buộc về
nước trong năm 2008 và hầu hết người Úc vẫn bị hạn chế về nước
vào năm 2013. Thiên nhiên đã buộc chính phủ phải áp dụng các
biện pháp hạn chế này. để giảm lượng nước tiêu thụ. Tuy nhiên,
liệu hạn chế sử dụng nước ngoài trời có phải là cách tốt hơn để
giảm lượng nước tiêu thụ tổng thể hơn là cho phép giá nước tăng
để cân bằng thị trường? Người tiêu dùng nào được lợi và người
tiêu dùng nào bị thiệt khi áp dụng các hạn chế?

Trong chương này, chúng tôi minh họa cách sử dụng mô hình thị trường cạnh
tranh để trả lời những loại câu hỏi này. Một trong những điểm mạnh chính của mô
hình cạnh tranh là nó có thể dự đoán những thay đổi trong chính sách của chính phủ
như những thay đổi liên quan đến khẩu phần và thương mại cũng như những cú sốc
khác như sự nóng lên toàn cầu và những phát hiện lớn về tiết kiệm chi phí, ảnh
hưởng đến người tiêu dùng và nhà sản xuất như thế nào.

Chúng ta bắt đầu chương này bằng cách đề cập đến việc các công ty cạnh tranh
kiếm được bao nhiêu trong thời gian dài và ai thu được lợi nhuận cao bất thường. Sau
đó, chúng tôi đưa ra thước đo mà các nhà kinh tế thường sử dụng để xác định liệu
người tiêu dùng hay doanh nghiệp được hay mất khi trạng thái cân bằng của thị
trường cạnh tranh thay đổi. Sử dụng thước đo như vậy, chúng ta có thể dự đoán liệu
một thay đổi chính sách có mang lại lợi ích cho người chiến thắng nhiều hơn là gây
hại cho người thua cuộc hay không. Để quyết định có nên áp dụng một chính sách cụ
thể hay không, các nhà hoạch định chính sách có thể kết hợp những dự đoán này với
các quan điểm (giá trị) quy chuẩn của họ, chẳng hạn như liệu họ quan tâm hơn đến
việc giúp đỡ nhóm được lợi hay nhóm thua cuộc.

Đối với hầu hết mọi người, thuật ngữ phúc lợi đề cập đến các khoản chi trả của
chính phủ cho người nghèo. Không có ý nghĩa như vậy được ngụ ý khi các nhà kinh
tế sử dụng thuật ngữ này. Các nhà kinh tế sử dụng phúc lợi để đề cập đến phúc lợi
của các nhóm khác nhau như người tiêu dùng và nhà sản xuất. Họ gọi việc phân tích
tác động của một sự thay đổi đối với phúc lợi của các nhóm khác nhau là một nghiên
cứu về kinh tế học phúc lợi.

9.1 Lợi nhuận bằng 0 cho các doanh nghiệp cạnh tranh trong dài hạn
1. Lợi nhuận bằng 0 cho các doanh nghiệp cạnh tranh trong dài hạn. Trong trạng thái cân bằng thị
Trong chương trường cạnh tranh dài hạn, các công ty tối đa hóa lợi nhuận hòa vốn, do đó các công ty không cố
này, chúng ta gắng tối đa hóa lợi nhuận sẽ thua lỗ và rời khỏi thị trường.
2. Phúc lợi người tiêu dùng. Người tiêu dùng được giúp đỡ hay bị tổn hại bao nhiêu do thay đổi giá
xem xét bảy chủ cân bằng có thể được đo lường bằng cách sử dụng thông tin từ đường cầu hoặc hàm hữu dụng.
đề chính 3. Phúc lợi của người sản xuất. Nhà sản xuất được hay mất bao nhiêu từ sự thay đổi của giá cân
bằng có thể được đo lường bằng cách sử dụng thông tin từ đường chi phí cận biên hoặc bằng cách
đo lường sự thay đổi trong lợi nhuận.
4. Cạnh tranh tối đa hóa phúc lợi. Cạnh tranh tối đa hóa thước đo phúc lợi xã hội dựa trên phúc lợi
của người tiêu dùng và nhà sản xuất.
5. Các chính sách làm dịch chuyển đường cung và đường cầu. Các chính sách của chính phủ làm
dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ gây hại cho người
tiêu dùng và làm giảm phúc lợi.
6. Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu. Các chính sách của chính phủ như thuế,
trần giá, giá sàn và thuế quan tạo ra sự chênh lệch giữa đường cung và đường cầu làm giảm lượng
cân bằng, tăng giá cân bằng cho người tiêu dùng và giảm phúc lợi.
7. So sánh cả hai loại chính sách: Nhập khẩu. Các chính sách hạn chế nguồn cung (như hạn ngạch
hoặc cấm nhập khẩu) hoặc tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu (chẳng hạn như thuế quan, là thuế
đánh vào hàng nhập khẩu) có những tác động phúc lợi khác nhau khi cả hai chính sách đều giảm
lượng nhập khẩu bằng nhau.

9.1 Lợi nhuận bằng không cho các công ty cạnh tranh
trong dài hạn
Các công ty cạnh tranh không kiếm được lợi nhuận trong dài hạn cho dù việc gia
nhập thị trường có hoàn toàn tự do hay không.

Do đó, các doanh nghiệp cạnh tranh phải tối đa hóa lợi nhuận.

Không có lợi nhuận dài hạn khi tham gia miễn phí

Đường cung dài hạn nằm ngang nếu các doanh nghiệp được tự do tham gia thị
trường, các doanh nghiệp có chi phí như nhau và giá đầu vào không đổi. Tất cả các
doanh nghiệp trên thị trường đang hoạt động ở mức chi phí trung bình dài hạn tối
thiểu. Nghĩa là, họ không quan tâm đến việc đóng cửa hay không vì họ không kiếm
được lợi nhuận.

Một hàm ý của quy tắc tắt máy (Chương 8) là công ty sẵn sàng hoạt động trong
thời gian dài ngay cả khi nó tạo ra lợi nhuận kinh tế bằng 0, tức là doanh thu trừ đi
chi phí cơ hội. Bởi vì chi phí cơ hội bao gồm giá trị của khoản đầu tư tốt nhất tiếp
theo, với lợi nhuận kinh tế dài hạn bằng 0, công ty đang kiếm được lợi nhuận kinh
doanh thông thường mà nó có thể kiếm được bằng cách đầu tư vào nơi khác trong
nền kinh tế.

Ví dụ, nếu chủ sở hữu công ty có không xây dựng nhà máy mà công ty sử dụng để
sản xuất, người chủ có thể đã tiêu số tiền đó vào hoạt động kinh doanh khác hoặc gửi
tiền vào ngân hàng. Khi đó, chi phí cơ hội của nhà máy hiện tại là lợi nhuận bị mất đi
từ những gì chủ sở hữu có thể kiếm được bằng cách đầu tư tiền vào nơi khác.

Lợi nhuận kế toán sau thuế trên vốn trong 5 năm của tất cả các công ty là 10,5%,
cho thấy rằng công ty điển hình kiếm được lợi nhuận kinh doanh là 10,5 ¢ cho mỗi
đô la nó tạo ra.

Đầu tư vào vốn (Forbes). Những công ty này kiếm được lợi nhuận kinh tế gần như
bằng 0 nhưng lợi nhuận kinh doanh lại dương. Vì chi phí kinh doanh không bao gồm
tất cả các chi phí cơ hội nên lợi nhuận kinh doanh lớn hơn lợi nhuận kinh tế. Do đó,
một công ty tối đa hóa lợi nhuận có thể tiếp tục kinh doanh nếu không kiếm được lợi
nhuận kinh tế dài hạn nhưng sẽ đóng cửa nếu không kiếm được lợi nhuận kinh doanh
dài hạn bằng 0.

Lợi nhuận dài hạn bằng không khi việc gia nhập bị hạn chế

Ở một số thị trường, các doanh nghiệp không thể thâm nhập để đáp ứng các cơ
hội lợi nhuận dài hạn. Một lý do khiến số lượng doanh nghiệp còn hạn chế là do
nguồn cung đầu vào bị hạn chế: chỉ có rất nhiều đất phù hợp để khai thác uranium;
chỉ một số ít người có những kỹ năng vượt trội cần thiết để chơi bóng rổ chuyên
nghiệp.

Người ta có thể nghĩ rằng các doanh nghiệp có thể kiếm được lợi nhuận kinh tế
dài hạn dương ở những thị trường như vậy; tuy nhiên, điều đó không đúng. Lý do
khiến các doanh nghiệp kiếm được lợi nhuận kinh tế bằng 0 là vì các doanh nghiệp
đấu thầu đầu vào khan hiếm sẽ đẩy giá của nó lên cao cho đến khi lợi nhuận của
doanh nghiệp bằng 0.

Giả sử số mẫu đất thích hợp để trồng cà chua là có hạn. Hình 9.1 cho thấy đường
chi phí trung bình của một trang trại điển hình nếu chi phí thuê đất bằng 0 (đường chi
phí trung bình chỉ bao gồm chi phí lao động, vốn, vật liệu và năng lượng của trang
trại chứ không phải đất đai). Tại mức giá thị trường p*, hãng sản xuất q* giạ cà chua
và kiếm được lợi nhuận là π*, hình chữ nhật được tô màu trong hình.
Như vậy, nếu chủ đất không thu tiền thuê đất thì người nông dân có lời.

Thật không may cho người nông dân, chủ đất thuê đất với giá π*, nên người nông
dân thực sự không kiếm được lợi nhuận. Vì sao chủ đất lại đòi giá cao như vậy? Lý
do là π* là chi phí cơ hội của đất: Đất có giá trị π* đối với những nông dân tiềm năng
khác. Những người nông dân này sẽ đấu thầu với nhau để thuê mảnh đất này cho đến
khi giá thuê tăng lên π*.

Tiền thuê này là chi phí cố định đối với người nông dân vì nó không thay đổi
theo sản lượng. Do đó, tiền thuê ảnh hưởng đến đường chi phí trung bình của trang
trại nhưng không ảnh hưởng đến đường chi phí cận biên.
MC
+ unh 9.1 * Li thuê
AC (bao gồm tiền thuê)

p, $ P ӛi JLҥ
Nếu không phải trả tiền thuê đất, một trang trại có đất
chất lượng cao sẽ kiếm được lợi nhuận dài hạn dương
là π*. Tuy nhiên, do đấu thầu cạnh tranh đối với mảnh
đất này, tiền thuê đất bằng π*, do đó, chủ đất thu được
p*
tất cả lợi ích từ mảnh đất ưu việt và người nông dân π* = W
LӅn thuê AC (không bao gồm
không thu được lợi nhuận kinh tế dài hạn nào. tiền thuê nhà)

q* q, giạ cà chua mỗi năm

9.1 Lợi nhuận bằng 0 đối với các doanh nghiệp cạnh tranh trong dài hạn

Kết quả là, nếu trang trại hoàn toàn sản


xuất, nó sẽ tạo ra q*, trong đó chi phí biên
của nó bằng giá thị trường, bất kể tiền thuê
được tính là bao nhiêu. Đường chi phí
trung bình cao hơn trong hình bao gồm tiền
thuê bằng π*. Điểm tối thiểu của đường chi
phí trung bình này là p* tại q* giạ cà chua,
do đó người nông dân kiếm được lợi nhuận
kinh tế bằng 0. Nếu đường cầu dịch sang
trái khiến giá thị trường giảm, người nông
dân sẽ chịu lỗ trong ngắn hạn. Về lâu dài, giá thuê đất sẽ giảm đủ để một lần nữa mỗi
trang trại không thu được lợi nhuận kinh tê

Tiền thuê

khoản thanh toán cho chủ


sở hữu đầu vào vượt quá
mức tối thiểu cần thiết để
cung cấp yếu tố đó
Việc nông dân sở hữu hay thuê đất có tạo nên sự khác biệt không? Không thực
sự. Chi phí cơ hội đối với người nông dân sở hữu đất đai tốt hơn là số tiền mà
mảnh đất đó có thể được cho thuê trong thị trường đất đai cạnh tranh. Vì vậy, lợi
nhuận kinh tế của cả đất sở hữu và đất thuê đều bằng 0 tại điểm cân bằng dài hạn.

Đất chất lượng tốt không phải là nguồn tài nguyên khan hiếm duy nhất. Giá của
bất kỳ yếu tố cố định nào cũng sẽ được đẩy lên theo cách tương tự cho đến khi lợi
nhuận kinh tế của công ty bằng 0 trong dài hạn. Tương tự, chính phủ có thể yêu
cầu một công ty phải có giấy phép hoạt động và sau đó giới hạn số lượng giấy
phép có sẵn. Giá của giấy phép được tăng lên bởi những người tham gia tiềm năng,
đẩy lợi nhuận về 0. Ví dụ, phí giấy phép là hơn nửa triệu đô la một năm cho một
quầy bán xúc xích cạnh bậc thềm của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở Thành
phố New York.1

Đầu vào khan hiếm, chẳng hạn như người có năng lực cao hoặc đất đai, sẽ kiếm
được giá trị cơ hội bổ sung. Giá trị tăng thêm này được gọi là tiền thuê: một khoản
thanh toán cho chủ sở hữu đầu vào vượt quá mức tối thiểu cần thiết để cung cấp
yếu tố đó.

Bonnie quản lý một cửa hàng với mức lương 40.000 USD, số tiền được trả cho
một người đàn ông điển hình. Trong thị trường bán lẻ có tính cạnh tranh cao này,
các công ty thường không kiếm được lợi nhuận kinh tế. Tuy nhiên, vì Bonnie là
một nhà quản lý xuất sắc nên công ty của cô kiếm được lợi nhuận kinh tế là 50.000
USD một năm. Các công ty khác nhận thấy Bonnie đang làm tốt công việc nên đề
nghị mức lương cao hơn cho cô ấy. Việc đấu thầu các dịch vụ của cô đã khiến mức
lương của cô lên tới 90.000 USD: mức lương cơ bản 40.000 USD cộng với 50.000
USD tiền thuê nhà. Sau khi trả khoản tiền thuê này cho Bonnie, cửa hàng thuê cô
ấy không kiếm được lợi nhuận kinh tế nào, giống như các công ty khác trên thị
trường.

Tóm lại, nếu một số doanh nghiệp trên thị trường tạo ra lợi nhuận kinh tế ngắn
hạn nhờ đầu vào khan hiếm thì các doanh nghiệp khác trên thị trường sẽ đấu thầu
để có được đầu vào đó. Việc đấu thầu này làm tăng giá yếu tố sản xuất cho đến khi
tất cả các công ty không kiếm được lợi nhuận dài hạn. Trong một thị trường như
vậy, đường cung phẳng vì tất cả các doanh nghiệp đều có chi phí trung bình dài
hạn tối thiểu như nhau.
Những người có khả năng đặc biệt có thể kiếm được thu nhập đáng kinh
2
ngạc. Mặc dù không có luật nào ngăn cản mọi người cố gắng trở thành một nghệ sĩ
giải trí hoặc vận động viên chuyên nghiệp, nhưng hầu hết chúng tôi không có đủ
tài năng để người khác trả tiền để xem chúng tôi biểu diễn. Dựa theo

_____________________________________________
1
Giá trị đấu giá của giấy phép này đạt 643.000 USD vào năm 2009, nhưng đã giảm kể từ đó vì các cựu
chiến binh khuyết tật được phép thi đấu mà không phải trả phí. (Trong bức ảnh quầy bán xúc xích, tôi là
anh chàng mặc áo sơ mi xanh với vẻ mặt ngơ ngác.) Tính đến năm 2013, mức phí cao nhất ở Thành phố
New York là 1,39 triệu đô la một năm để vận hành một xe bán xúc xích bên ngoài Quán rượu cũ trên nhà
hàng Xanh ở Công viên Trung tâm.
2
Tuy nhiên, tài sản của những người nổi tiếng vẫn tiếp tục thu tiền thuê ngay cả sau khi họ qua đời. Năm
2011, Elizabeth Taylor kiếm được 210 triệu USD. Năm 2012, Michael Jackson kiếm được 160 triệu USD,
Elvis Pres ley 55 triệu USD và họa sĩ truyện tranh Peanuts Charles Schulz 37 triệu USD. Ngay cả Albert
Einstein cũng kiếm được 10 triệu USD từ việc sử dụng hình ảnh của mình cho các sản phẩm như bộ dụng
cụ học tập Baby Einstein của Disney.

(Forbes.com, ngày 24 tháng 10 năm 2012 và ngày 23 tháng 10 năm 2013.)


Forbes.com (26/08/2013), năm 2012, Madonna kiếm được 125
triệu USD, đứng đầu các ngôi sao và nhà sản xuất phim khác.
Những người khác kiếm được số tiền lớn bao gồm Steven
Spielberg với 100 USD và Simon Cowell với 95 triệu USD. Đặt
những khoản thu này vào một góc độ, số tiền này vượt quá tổng
sản phẩm quốc nội của một số quốc gia nhỏ (giá trị tổng sản
lượng của đất nước) chẳng hạn như 38 triệu USD cho Tuvalu
với 10.698 người (CIA.gov, 2013).
Tiger Woods đang có một cuộc đời đầy thú vị với tư cách là tay golf vĩ đại nhất thế giới và một ngôi sao quảng cáo—kiếm được 100 triệu đô
Ӭ ng Gөng la mỗi năm từ các hợp đồng quảng cáo—khi anh và phần lớn sự nghiệp quảng cáo của mình dừng lại khi anh đập vỡ xe ngay trước cửa nhà
mình. vào khoảng 2:30 sáng ngày 27 tháng 11 năm 2009. Một loạt tiết lộ về cuộc sống cá nhân của anh ấy diễn ra trong vài ngày tiếp theo đã
7LӅn thuê Tiger làm tổn hại thêm đến danh tiếng trong sáng của anh ấy trước công chúng và một số người chứng thực đã đình chỉ sử dụng anh ấy trong các
quảng cáo của họ hoặc loại bỏ anh ấy hoàn toàn.
Woods Knittel và Stango (sắp xuất bản) đã đánh giá thiệt hại tài chính đối với các cổ đông của các công ty này bằng cách sử dụng phương pháp
nghiên cứu sự kiện, trong đó họ so sánh giá cổ phiếu của các công ty sử dụng Mr. Woods trong chương trình khuyến mãi của họ so với giá
thị trường chứng khoán nói chung và giá cổ phiếu của đối thủ cạnh tranh gần gũi. các công ty. Họ đã xem xét khoảng thời gian từ khi vụ va
chạm đến khi ông Woods thông báo vào ngày 11 tháng 12 rằng ông sẽ nghỉ chơi gôn “vô thời hạn”. Kết quả của họ cho chúng ta biết về số
tiền thuê mà anh ta nhận được.
Họ ước tính rằng các cổ đông của các công ty được ông Woods chứng thực đã mất từ 5 đến 12 tỷ USD tài sản, điều này phản ánh ước
tính của các nhà đầu tư chứng khoán về thiệt hại do các chứng thực không còn hiệu lực trong những năm tới. Năm nhà tài trợ chính của ông
Woods—Accenture, Electronic Arts, Gatorade (PepsiCo), Gillette và Nike — mất tổng cộng 5,3% giá trị thị trường tổng hợp của họ trong vòng
15 ngày sau vụ tai nạn.
Khoản lỗ lớn hơn đối với các nhà tài trợ chính liên quan đến thể thao của anh ấy là Electronic Arts, Gatorade và Nike. Như Knittel và
Stango chỉ ra, sự tài trợ từ các công ty không liên quan đến thể thao, chẳng hạn như Accenture (“một công ty tư vấn quản lý, dịch vụ công
nghệ và gia công toàn cầu”), có lẽ không làm tăng giá trị tổng thể của thương hiệu Tiger. Có lẽ, khi ông Woods đàm phán thỏa thuận ban đầu
với Accenture, ông đã thu được toàn bộ lợi nhuận vượt trội tạo ra cho Accenture dưới dạng tiền thuê khoảng 20 triệu USD một năm. Do đó,
chúng tôi không mong đợi Accenture sẽ mất nhiều sau khi kết thúc mối quan hệ với ông Woods, như ước tính của Knittel và Stango cho thấy.
Ngược lại, việc hợp tác với các công ty liên quan đến thể thao như Nike có lẽ đã làm tăng giá trị của cả thương hiệu Nike và Tiger, đồng
thời tạo ra các cơ hội tài chính khác cho ông Woods. Nếu vậy, Nike có thể đã thu được một phần lợi nhuận được tạo ra khi hợp tác với Tiger
Woods trên mức từ 20 đến 30 triệu USD mà Nike trả cho anh hàng năm. Do đó, các cổ đông của các công ty liên quan đến thể thao này đã
phải chịu một khoản lỗ khá lớn do sự thất bại của ông Woods. (Tuy nhiên, khi Woods bắt đầu chơi tốt hơn vào năm 2012–2013, một số lời tán
thành của ông đã quay trở lại và thu nhập hàng năm của ông tăng lên 78 triệu USD - vẫn thấp hơn đáng kể so với thu nhập trước tai nạn của
ông.)

Sự cần thiết phải tối đa hóa lợi nhuận

Tội ác tồi tệ nhất đối với người lao động là một công ty không hoạt động có
lãi. —Samuel Gompers, chủ tịch đầu tiên của Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ.

Trong một thị trường cạnh tranh với các công ty giống hệt nhau và tự do gia
nhập, nếu hầu hết các công ty đều tối đa hóa lợi nhuận thì lợi nhuận sẽ bị đẩy về 0
tại điểm cân bằng dài hạn. Bất kỳ doanh nghiệp nào không tối đa hóa lợi nhuận –
tức là bất kỳ doanh nghiệp nào đặt sản lượng sao cho chi phí cận biên vượt quá
giá thị trường hoặc không sử dụng các phương pháp sản xuất hiệu quả nhất về
mặt chi phí – sẽ thua lỗ. Vì vậy, để tồn tại trong thị trường cạnh tranh, doanh
nghiệp phải tối đa hóa lợi nhuận của mình.
9.2 Phúc lợi người tiêu dùng
Các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách muốn biết người tiêu dùng được
hưởng lợi hay bị tổn hại bao nhiêu từ những cú sốc ảnh hưởng đến giá và lượng
cân bằng. Người tiêu dùng bị tổn hại ở mức độ nào nếu chính quyền địa phương áp
đặt thuế bán hàng để tăng thêm doanh thu? Để trả lời câu hỏi như vậy, chúng ta cần
một số cách để đo lường phúc lợi của người tiêu dùng. Các nhà kinh tế sử dụng
thước đo phúc lợi dựa trên lý thuyết người tiêu dùng (Chương 4 và 5).

Nếu chúng ta biết hàm hữu dụng của người tiêu dùng, chúng ta có thể trả lời
trực tiếp câu hỏi một sự kiện ảnh hưởng như thế nào đến phúc lợi của người tiêu
dùng. Nếu giá thịt bò tăng, đường ngân sách đối diện với người ăn thịt bò sẽ quay
vào trong, do đó người tiêu dùng sẽ ở trên đường bàng quan thấp hơn tại điểm cân
bằng mới. Nếu chúng ta biết mức hữu dụng liên quan đến đường bàng quan ban
đầu và đường bàng quan mới, chúng ta có thể đo lường tác động của một loại thuế
mới xét theo sự thay đổi của mức hữu dụng.

Cách tiếp cận này không thực tế vì một vài lý do. Đầu tiên, chúng ta hiếm khi
biết được hàm hữu dụng của mỗi cá nhân. Thứ hai, ngay cả khi chúng ta có những
thước đo hữu ích dành cho nhiều người tiêu dùng khác nhau, chúng ta cũng không
có cách nào rõ ràng để so sánh chúng. Một người có thể nói rằng anh ta nhận được
1.000 tiện ích (đơn vị tiện ích) từ cùng một gói mà người tiêu dùng khác nói rằng
mang lại cho cô ấy 872 tiện ích. Người đầu tiên không nhất thiết phải hạnh phúc
hơn – anh ta có thể đang sử dụng một thang đo khác.

Kết quả là, chúng tôi đo lường phúc lợi của người tiêu dùng bằng đô la. Thay
vì hỏi một câu hỏi khá ngớ ngẩn “Bạn sẽ mất bao nhiêu tiện ích nếu thời gian đi
làm hàng ngày của bạn tăng thêm 15 phút?” chúng ta có thể hỏi “Bạn sẽ trả bao
nhiêu để tránh việc thời gian đi làm hàng ngày của bạn tăng thêm mười lăm phút?”
hoặc “Bạn sẽ phải trả bao nhiêu tiền cho khoản thu nhập bị mất nếu quãng đường
đi làm hàng ngày của bạn dài hơn 15 phút?” Việc so sánh đô la giữa mọi người sẽ
dễ dàng hơn so với các tiện ích.

Chúng tôi bắt đầu bằng cách giới thiệu phương pháp được sử dụng rộng rãi
nhất để đo lường phúc lợi của người tiêu dùng. Sau đó, chúng tôi chỉ ra cách nó có
thể được sử dụng để đo lường tác động của sự thay đổi giá đối với phúc lợi của
người tiêu dùng.

Đo lường phúc lợi của người tiêu dùng bằng đường cầu
Phúc lợi của người tiêu dùng từ một hàng hóa là lợi ích mà người tiêu dùng
nhận được từ việc tiêu thụ hàng hóa đó trừ đi chi phí mà người tiêu dùng phải trả
để mua hàng hóa đó. Bạn nhận được bao nhiêu niềm vui từ một món hàng cao hơn
giá của nó? Nếu bạn mua một món hàng đúng với giá trị của nó, bạn sẽ không
quan tâm đến việc thực hiện giao dịch đó hay không. Tuy nhiên, bạn thường mua
những thứ có giá trị hơn giá trị của chúng. Hãy tưởng tượng bạn đang chơi quần
vợt dưới trời nắng nóng và rất khát nước. Bạn có thể mua một cốc nước ngọt từ
máy bán hàng tự động với giá 1 USD, nhưng bạn sẽ sẵn sàng trả nhiều hơn vì bạn
quá khát. Kết quả là, bạn nên mua hàng này sẽ tốt hơn nhiều so với việc không
mua.

Nếu chúng tôi có thể đo lường số tiền bạn sẵn sàng trả nhiều hơn số tiền bạn đã
trả thì chúng tôi sẽ biết bạn kiếm được bao nhiêu từ giao dịch này. Thật may mắn
cho chúng ta, đường cầu chứa thông tin chúng ta cần để thực hiện phép đo này.

Mức sẵn sàng chi trả phí cận biên. Để phát triển thước đo phúc lợi dựa trên
đường cầu, chúng ta cần biết đường cầu chứa những thông tin gì. Đường cầu phản
ánh mức sẵn lòng trả cận biên của người tiêu dùng: số tiền tối đa mà người tiêu
dùng sẽ chi cho một đơn vị tăng thêm. Mức sẵn sàng chi trả cận biên của người
tiêu dùng là giá trị cận biên mà người tiêu dùng đặt cho đơn vị sản phẩm cuối
cùng.

Đường cầu của David về tạp chí mỗi tuần, phần a của Hình 9.2, cho thấy mức
độ sẵn sàng cận biên của anh ấy để mua số lượng tạp chí khác nhau. David đặt giá
trị cận biên cho tạp chí đầu tiên là 5 đô la. Kết quả là, nếu giá của một tạp chí là 5
USD, David

Hình 9.2 Thặng dư tiêu dùng

(a) Đường cầu tạp chí của David có dạng bậc thang. Khi giữa việc mua và không mua. Do đó, tổng thặng
giá là 3$, anh ta mua ba tạp chí, điểm c. Giá trị cận biên dư tiêu dùng của anh ta là phần bóng mờ CS1 +
của tạp chí đầu tiên của David là $5, diện tích CS1 + E1, CS2 + CS3 = $3. (b) Việc Steven sẵn sàng trả tiền
và chi tiêu của anh ấy là $3, diện tích E1, do đó thặng dư mua thẻ giao dịch là độ cao của đường cầu trơn tru
tiêu dùng của anh ấy là CS1 = $2. Thặng dư tiêu dùng của của anh ấy. Tại mức giá p1, chi tiêu của Steven là
anh ta là 1 đô la cho tạp chí thứ hai, khu vực CS2, và là 0 E (= p1q1), thặng dư tiêu dùng của anh ấy là CS,
đô la (và do đó không được dán nhãn) cho tạp chí thứ ba, và tổng giá trị anh ấy đặt vào việc tiêu thụ thẻ giao
mua một tạp chí, chỉ điểm a trên đường cầu. Giá sẵn sàng cận biên của anh ta để
mua tạp chí thứ hai là 4 đô la, vì vậy nếu giá giảm xuống còn 4 đô la, anh ta mua
hai tạp chí, b. Giá sẵn sàng cận biên của anh ấy để mua ba tạp chí là 3 đô la, vì vậy
nếu giá tạp chí là 3 đô la, anh ấy mua ba tạp chí, c.

Thặng dư tiêu dùng Sự chênh lệch tiền tệ giữa số tiền mà người tiêu dùng sẵn
sàng trả cho số lượng hàng hóa đã mua và số tiền thực tế mà hàng hóa đó phải trả
được gọi là thặng dư tiêu dùng (CS). Thặng dư tiêu dùng là thước đo giá trị đồng
đô la của niềm vui tăng thêm mà người tiêu dùng nhận được từ giao dịch vượt quá
mức giá của nó.

Thặng dư tiêu dùng (CS) Thặng dư tiêu dùng của David từ mỗi tạp chí bổ sung là mức sẵn
chênh lệch tiền tệ giữa số tiền lòng trả cận biên của anh ấy trừ đi số tiền anh ấy phải trả để có
mà người tiêu dùng sẵn sàng
được tạp chí.
trả cho số lượng hàng hóa đã
mua và giá thực tế của hàng
hóa đó
Giá sẵn lòng trả cận biên của anh ta cho tạp chí đầu tiên, $5, là diện
tích CS1 + E1 trong Hình 9.2. Nếu giá là 3 USD thì số tiền chi tiêu
cho tạp chí đầu tiên là khu vực E1 = 3 USD * 1 = 3 USD. Do đó,
thặng dư tiêu dùng của anh ta trên tạp chí đầu tiên là mức sẵn lòng
trả biên cho tạp chí đó, CS1, trừ đi chi tiêu của anh ta, E1, là diện
tích CS1 = (CS1 + E1) - E1 = $5 - $3 = $2. Bởi vì giá sẵn lòng trả
cận biên của anh ta cho tạp chí thứ hai là 4 đô la, thặng dư tiêu dùng
của anh ta cho tạp chí thứ hai có diện tích nhỏ hơn CS2 = 1 đô la.
Giá sẵn lòng trả cận biên của anh ta cho tạp chí thứ ba là 3 đô la,
bằng với số tiền anh ta phải trả để có được nó, do đó thặng dư tiêu
dùng của anh ta bằng 0, CS3 = 0 đô la (và do đó không được biểu
thị dưới dạng diện tích trong hình). Anh ta thờ ơ giữa việc mua và
không mua tạp chí thứ ba.

Với mức giá 3$, David mua ba cuốn tạp chí. Tổng thặng dư tiêu
dùng của anh ta từ ba tạp chí anh ta mua là tổng thặng dư tiêu dùng
mà anh ta nhận được từ mỗi tạp chí sau: CS1 + CS2 + CS3 = $2 +
$1 + $0 = $3. Tổng thặng dư tiêu dùng 3 đô la này là số tiền tăng
thêm mà David sẵn sàng chi để có quyền mua ba tạp chí với giá 3
đô la mỗi tạp chí. Do đó, thặng dư tiêu dùng của một cá nhân là
diện tích dưới đường cầu và phía trên giá thị trường tính đến số
lượng người tiêu dùng mua.

David không sẵn lòng mua tạp chí thứ tư trừ khi giá giảm xuống
còn 2 đô la hoặc thấp hơn. Nếu mẹ của David tặng anh ấy cuốn tạp

chí thứ tư như một món quà, thì giá trị cận biên mà David đặt cho
tạp chí thứ tư đó, 2 đô la, sẽ thấp hơn giá trị biên mà mẹ anh ấy mua
là 3 đô la.

Chúng ta có thể xác định thặng dư tiêu dùng để có đường cầu


trơn tru theo cách tương tự như đường cầu bậc thang bất thường của
David. Steven có một đường cầu bằng phẳng về thẻ giao dịch bóng
chày, bảng b của Hình 9.2. Độ cao của đường cầu này đo lường
mức độ sẵn lòng trả của anh ta để mua thêm một thẻ. Sự sẵn lòng
này thay đổi tùy theo số lượng thẻ anh ta mua trong một năm. Tổng
giá trị anh ta đặt ra để có được thẻ q1 mỗi năm là diện tích dưới
đường cầu lên đến q1, diện tích CS và E. Diện tích E là chi tiêu thực
tế của anh ta cho thẻ q1. Vì giá là p1 nên chi tiêu của anh ta là
p1.q1. Thặng dư tiêu dùng của Steven từ việc tiêu dùng thẻ giao
dịch q1 là giá trị của việc tiêu dùng những thẻ đó, diện tích CS và E,
trừ đi chi tiêu thực tế của anh ấy, E, để có được chúng, hoặc CS. Do
đó, thặng dư tiêu dùng của anh ta, CS, là diện tích dưới đường cầu
và phía trên đường nằm ngang tại mức giá p1 cho tới số lượng anh
ta mua, q1.

Giống như việc chúng tôi đo lường thặng dư tiêu dùng của một cá
nhân bằng cách sử dụng đường cầu của cá nhân đó, chúng tôi đo
lường thặng dư tiêu dùng của tất cả người tiêu dùng trên thị trường
bằng cách sử dụng đường cầu thị trường. Thặng dư tiêu dùng thị
trường là phần diện tích nằm dưới đường cầu thị trường phía trên
giá thị trường cho đến số lượng người tiêu dùng mua.

Tóm lại, thặng dư tiêu dùng là một thước đo thực tế và tiện lợi về
phúc lợi của người tiêu dùng. Có hai lợi ích khi sử dụng thặng dư
tiêu dùng thay vì lợi ích để thảo luận về phúc lợi của người tiêu
dùng. Thứ nhất, thặng dư tiêu dùng tính bằng đô la của một số cá
nhân có thể dễ dàng so sánh hoặc kết hợp, trong khi độ thỏa dụng
của các cá nhân khác nhau không thể dễ dàng so sánh hoặc kết hợp.
Thứ hai, việc đo lường thặng dư tiêu dùng là tương đối dễ dàng,
trong khi đó rất khó để có được thước đo hữu ích một cách trực tiếp.
Để tính thặng dư tiêu dùng, tất cả những gì chúng ta phải làm là đo
diện tích dưới đường cầu.

Mọi người khác nhau về mức độ sẵn sàng chi trả cho một mặt
ỨNG DỤNG
hàng nhất định. Chúng ta có thể xác định mức độ sẵn lòng trả của
Mức độ sẵn lòng các cá nhân cho một đồng xu La Mã quảng cáo - một đồng sesterce
thanh toán và (ban đầu có giá trị tương đương với hai con lừa rưỡi) có hình Hoàng
Thặng dư tiêu dùng đế Balbinus - bằng số tiền họ trả giá trong một cuộc đấu giá trên
trên eBay eBay. Trên trang web của mình, eBay lập luận một cách chính xác
(như chúng tôi trình bày trong Chương 14) rằng chiến lược tốt nhất
của một cá nhân là đặt giá thầu theo mức độ sẵn lòng trả của người
đó: giá trị tối đa mà người trả giá đặt cho món hàng đó. Từ những gì
eBay báo cáo, chúng tôi biết giá thầu tối đa của mỗi người ngoại trừ
người chiến thắng: eBay sử dụng đấu giá theo giá thứ hai, trong đó
người chiến thắng trả giá thầu cao thứ hai cộng với số tiền tăng
thêm. (Mức tăng phụ thuộc vào quy mô của giá thầu. Ví dụ: mức
tăng là 1 USD cho giá thầu từ 25 USD đến 100 USD và 25 USD
cho giá thầu từ 1.000 USD đến 2.499,99 USD.)

Trong hình, giá thầu cho đồng xu được sắp xếp từ cao nhất đến
thấp nhất . Vì mỗi thanh trên biểu đồ biểu thị giá thầu cho một đồng
xu nên hình vẽ cho thấy có bao nhiêu đơn vị có thể được bán cho
nhóm người đặt giá thầu này ở các mức giá khác nhau. Đó là, đó là
đường cầu nghịch đảo của thị trường.

Bapna và cộng sự. (2008) đã thiết lập một trang Web (không còn hoạt động
nữa) tự động đặt giá thầu trên eBay vào thời điểm cuối cùng - một quá trình được
gọi là bắn tỉa. Để sử dụng trang web, các cá nhân phải nêu rõ số tiền tối đa mà họ
sẵn sàng trả để tác giả biết được mức độ sẵn sàng trả của người trả giá cao nhất.
Bapna và cộng sự. nhận thấy rằng người tiêu dùng trung bình có mức sẵn lòng trả
tối đa cho hàng hóa cao hơn 4 USD so với chi phí trung bình là 14 USD. Họ ước
tính CS và chi phí E cho tất cả người mua trên eBay và tính toán rằng CS/E = 30%.
Nghĩa là, thặng dư tiêu dùng của người đấu giá đạt được là 30% chi tiêu của họ.

ẢNH HƯỞNG CỦA SỰ THAY ĐỔI GIÁ TỚI THẶNG DƯ TIÊU


DÙNG
Nếu đường cung dịch chuyển lên trên hoặc chính phủ áp dụng thuế bán hàng
mới thì giá cân bằng sẽ tăng, làm giảm thặng dư tiêu dùng. Chúng tôi minh họa tác
động của việc tăng giá đối với thặng dư tiêu dùng trên thị trường bằng cách sử
dụng đường cung và cầu ước tính đối với hoa hồng trà ngọt và trà lai được bán ở
Hoa Kỳ (3) Sau đó, chúng tôi thảo luận về những thị trường nào có thể bị tổn thất
thặng dư tiêu dùng lớn nhất do giá cả tăng.

Giả sử rằng việc áp dụng thuế mới làm cho giá hoa hồng (bán buôn) tăng từ
mức giá cân bằng ban đầu là 30¢ lên 32¢ mỗi thân hoa hồng, sự dịch chuyển dọc
theo đường cầu trong Hình 9.3. Thặng dư tiêu dùng là diện tích A + B + C =
173,74 triệu USD mỗi năm ở mức giá 30¢, và chỉ có diện tích A = 149,64 triệu
USD ở mức giá 32¢ (4) . Do đó, tổn thất trong thặng dư tiêu dùng do tăng giá là B
+ C = 24,1 triệu USD mỗi năm.

Nhìn chung, khi giá tăng, thặng dư tiêu dùng giảm nhiều hơn (1) doanh thu
ban đầu chi cho hàng hóa càng lớn và (2) đường cầu càng kém co giãn (Phụ lục
9A). Chi tiêu nhiều hơn cho một hàng hóa khi đường cầu của nó dịch về bên phải
nhiều hơn nên các vùng như A, B và C trong Hình 9.3 lớn hơn. B + C càng lớn thì
thặng dư tiêu dùng càng giảm do mức giá tăng theo phần trăm nhất định. Tương tự,
càng ít

3.Tôi đã ước tính mô hình này bằng cách sử dụng dữ liệu từ Tóm tắt Thống kê của Hoa Kỳ,
Cây trồng trồng hoa, Sản phẩm trồng hoa và Làm vườn Môi trường, và
usda.mannlib.cornell.edu. Giá được tính bằng đô la thực năm 1991.

4.Chiều cao của tam giác A là 25,8¢ = 57,8¢ - 32¢ mỗi thân và đáy là 1,16 tỷ thân cây mỗi
năm, vậy diện tích của nó là 12 * 0,258 USD * 1,16 tỷ = 149,64 triệu USD mỗi năm. Hình chữ
nhật B là 0,02 USD * 1,16 tỷ = 23,2 triệu USD. Tam giác C là 12 * 0,02 USD * 0,09 tỷ = 0,9
triệu USD.

Hình 9.3 Thặng dư tiêu dùng từ hoa hồng giảm khi giá tăng

Khi giá hoa


hồng tăng 2¢
mỗi cành từ Đường cầu co giãn (càng gần đường thẳng đứng), người tiêu
mức 30 cent dùng càng ít sẵn sàng từ bỏ hàng hóa, do đó người tiêu dùng
mỗi thân, lượng không cắt giảm tiêu dùng nhiều khi giá tăng, dẫn đến tổn thất
cầu giảm từ thặng dư tiêu dùng lớn hơn.
1,25 xuống 1,16
tỷ cành mỗi Giá cao hơn gây ra tổn thất thặng dư tiêu dùng lớn hơn ở một
năm. Thiệt hại số thị trường so với các thị trường khác. Người tiêu dùng sẽ được
trong thặng dư hưởng lợi nếu các nhà hoạch định chính sách, trước khi áp thuế,
tiêu dùng do cân nhắc xem thuế ở thị trường nào có thể gây hại cho người tiêu
mức giá cao dùng nhiều nhất
hơn ở khu vực
B và C là 24,1
triệu USD mỗi
năm.

ỨNG DỤNG Chúng ta có thể sử dụng các ước tính về đường cầu để dự đoán xem
việc tăng giá hàng hóa nào gây ra tổn thất lớn nhất trong thặng dư
tiêu dùng. Bảng này cho thấy sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng
Hàng hóa có (ΔCS) tính bằng tỷ đô la năm 2012 do giá của nhiều hàng hóa khác
thặng dư tiêu nhau tăng 10%. Như chúng ta kỳ vọng, bảng này cho thấy doanh
dùng lớn bị thu (giá nhân với số lượng) được chi cho một hàng hóa càng lớn thì
mất do tăng tổn thất trong thặng dư tiêu dùng càng lớn.5 Giá tăng 10% gây ra
giá tổn thất thặng dư tiêu dùng lớn hơn nhiều nếu nó được áp dụng cho
các dịch vụ y tế, 176 tỷ đô la, so với nếu nó được áp dụng cho rượu
và thuốc lá, 21 tỷ đô la, vì nhiều hơn được chi cho các dịch vụ y tế.

Thoạt nhìn, mối quan hệ giữa độ co giãn của cầu và tổn thất thặng dư tiêu dùng
trong bảng có vẻ lạc hậu: Một phần trăm thay đổi nhất định về giá có tác động lớn
hơn đến thặng dư tiêu dùng đối với các đường cầu tương đối co giãn. Tuy nhiên, mối
quan hệ này là ngẫu nhiên: Hàng hóa có doanh thu lớn lại có đường cầu tương đối co
giãn. Tác động của sự thay đổi giá phụ thuộc vào cả doanh thu và độ co giãn của cầu.
Trong bảng này, quy mô tương đối của doanh thu quan trọng hơn độ co giãn tương
đối.

Nếu chúng ta có thể giữ doanh thu không đổi và thay đổi độ co giãn, chúng ta sẽ
thấy rằng tổn thất thặng dư tiêu dùng do tăng giá sẽ lớn hơn khi đường cầu trở nên
kém co giãn hơn. Nếu đường cầu về rượu và thuốc lá co giãn gấp 10 lần, -1,62, trong
khi doanh thu giữ nguyên—đường cầu trở nên phẳng hơn ở mức giá và số lượng ban
đầu—thì tổn thất thặng dư tiêu dùng sẽ ít hơn khoảng 2 triệu đô la.

Giải quyết vấn đề Giả sử hai đường cầu tuyến tính đi qua điểm cân bằng ban đầu e1.
9.1 Một đường cầu ít co giãn hơn đường kia tại e1. Đối với đường cầu
nào, việc tăng giá sẽ gây ra tổn thất thặng dư tiêu dùng lớn hơn?

Trả lời
1. Vẽ hai đường cầu và chỉ ra đường cầu nào kém co giãn hơn ở
trạng thái cân bằng ban đầu. Hai đường cầu cắt nhau tại e1
trong biểu đồ. Đường cầu dốc hơn thì kém co giãn hơn ở e1. (6)

6.Như chúng ta đã thảo luận ở Chương 3, độ co giãn của cầu theo giá, ε

= (ΔQ/Δp)(p/Q), bằng 1 trên độ dốc của đường cầu, Δp/ΔQ, nhân với tỷ lệ giữa giá và
lượng. Tại điểm giao nhau mà cả hai đường cầu có cùng mức giá, p1 và số lượng, Q1,
đường cầu càng dốc thì độ co giãn của cầu càng thấp.

2. Hãy minh họa rằng việc tăng giá gây ra tổn thất thặng dư tiêu
dùng lớn hơn với đường cầu kém co giãn hơn. Nếu giá tăng từ
p1 lên p2, thặng dư tiêu dùng chỉ giảm -C với đường cầu tương
đối co giãn và -C - D với đường cầu tương đối kém co giãn

9.3 PHÚC LỢI CỦA NHÀ SẢN XUẤT


Thặng dư sản xuất Lợi ích của nhà cung cấp khi tham gia thị trường được
(PS) sự khác biệt giữa đo bằng thặng dư sản xuất (PS), là sự khác biệt giữa số
số lượng hàng hóa bán tiền bán hàng hóa và số tiền tối thiểu cần thiết để người
được và số tiền tối bán sẵn sàng sản xuất hàng hóa đó. Mức tối thiểu số tiền
thiểu cần thiết để mà người bán phải nhận để sẵn sàng sản xuất là chi phí
người bán sẵn sàng sản xuất có thể tránh được của hãng (quy tắc ngừng hoạt
sản xuất hàng hóa động ở chương 8).

Đo thặng dư sản xuất bằng đường cung


Để xác định thặng dư nhà sản xuất của một hãng
cạnh tranh, chúng ta sử dụng đường cung của nó: đường
chi phí biên nằm trên chi phí biến đổi trung bình tối thiểu
(Chương 8). Đường cung của hãng trong phần a của Hình
9.4 trông giống như một cầu thang. Chi phí cận biên để
sản xuất đơn vị thứ nhất là MC1 = $1, là diện tích nằm
dưới đường chi phí cận biên nằm trong khoảng từ 0 đến
1. Chi phí cận biên để sản xuất đơn vị thứ hai là MC2 =
$2, v.v. Chi phí biến đổi, VC, của việc sản xuất bốn đơn
vị là tổng chi phí biên của bốn đơn vị đầu tiên:

VC = MC1 + MC2 + MC3 + MC4 = $1 + $2 + $3 + $4 = $10.

Nếu giá thị trường p là 4$ thì doanh thu của công ty từ việc bán đơn vị sản phẩm
đầu tiên vượt quá chi phí của nó một lượng PS1 = p - MC1 = $4 - $1 = $3, là thặng
dư nhà sản xuất ở đơn vị đầu tiên. Thặng dư sản xuất của hãng là 2 đô la cho đơn vị
thứ hai và 1 đô la cho đơn vị thứ ba. Ở đơn vị thứ tư, giá bằng chi phí cận biên, do đó
hãng chỉ hòa vốn. Kết quả là, tổng thặng dư nhà sản xuất của công ty, PS, từ việc bán
bốn đơn vị với giá 4 USD mỗi đơn vị là tổng thặng dư nhà sản xuất của bốn đơn vị
này:

PS = PS1 + PS2 + PS3 + PS4 = $3 + $2 + $1 + $0 = $6.

Về mặt đồ họa, tổng thặng dư của nhà sản xuất là diện tích nằm trên đường cung
và dưới giá thị trường tính đến số lượng thực tế được sản xuất. Lý do tương tự này
cũng đúng khi đường cung của công ty trơn tru.
Thặng dư sản xuất có quan hệ chặt chẽ với lợi nhuận. Thặng dư sản xuất là doanh
thu R trừ đi chi phí biến đổi VC:

PS = R - VC.

Trong phần a của Hình 9.4, doanh thu là 4 $ * 4 = 16 $ và chi phí biến đổi là 10 $,
do đó thặng dư của nhà sản xuất là 6 $. Lợi nhuận bằng doanh thu trừ đi tổng chi phí
C, bằng chi phí biến đổi cộng chi phí cố định, F: π = R - C = R - VC - F. Như vậy,
chênh lệch giữa thặng dư sản xuất và lợi nhuận, PS - π = (R - VC) - (R - VC - F) = F,
là chi phí cố định. Nếu chi phí cố định bằng 0 ( thường xảy ra trong dài hạn ), thặng
dư của nhà sản xuất bằng lợi nhuận.7
7
:Mặc dù mỗi hãng cạnh tranh không tạo ra lợi nhuận trong dài hạn, những người sở hữu nguồn
lực khan hiếm được sử dụng trong thị trường đó có thể kiếm được tiền thuê. Vì vậy, những người sở
hữu nguồn lực khan hiếm có thể nhận được thặng dư sản xuất dương trong dài hạn.

Hình 9.4 Thặng dư sản xuất


a) Thặng dư sản xuất của hãng, 6 b) Thặng dư nhà sản xuất trên thị
USD, là diện tích bên dưới giá trường là diện tích nằm phía
thị trường, 4 USD, và cao hơn trên đường cung và dưới mức
chi phí cận biên (cung đường giá thị trường, p*, tùy theo số
cong) lên đến số lượng bán,4. lượng được sản xuất, Q*. Diện
Diện tích dưới đường chi phí tích bên dưới đường cung và
cận biên cho đến số lượng đơn bên trái của lượng sản phẩm
vị thực tế được sản xuất là chi được thị trường sản xuất, Q*, là
phí sản xuất biến đổi. chi phí biến đổi để sản xuất ra
mức sản lượng đó.
Một cách giải thích khác về thặng dư của nhà sản xuất là lợi ích từ thương
mại. Trong ngắn hạn, nếu công ty sản xuất và bán các giao dịch tốt của mình thì
nó sẽ kiếm được lợi nhuận là R - VC - F. Nếu công ty đóng cửa và không giao
dịch, nó sẽ mất chi phí cố định - F. Do đó, thặng dư của nhà sản xuất bằng lợi
nhuận từ thương mại trừ đi lợi nhuận (lỗ) do không giao dịch hàng hóa.

(R - VC - F) - (-F) = R - VC = PS

Sử Dụng Thặng Dư Sản Xuất


Ngay cả trong ngắn hạn, chúng ta có thể sử dụng thặng dư của nhà sản xuất
để nghiên cứu tác động của bất kỳ cú sốc nào không ảnh hưởng đến chi phí cố
định của doanh nghiệp, chẳng hạn như sự thay đổi giá của sản phẩm thay thế
hoặc đầu vào. Những cú sốc như vậy làm thay đổi lợi nhuận một lượng chính
xác như khi chúng làm thay đổi thặng dư của nhà sản xuất vì chi phí cố định
không thay đổi.

Ưu điểm chính của thặng dư sản xuất là chúng ta có thể sử dụng nó để đo


lường tác động một cú sốc đối với tất cả các doanh nghiệp trên thị trường mà
không cần phải đo lường lợi nhuận của từng doanh nghiệp trên thị trường một
cách riêng biệt. Chúng ta có thể tính thặng dư của nhà sản xuất thị trường bằng
cách sử dụng đường cung thị trường giống như cách chúng ta tính thặng dư sản
xuất của một công ty bằng cách sử dụng đường cung của nó.

Thặng dư nhà sản xuất thị trường ở phần b Hình 9.4 là diện tích trên đường
cung và dưới giá thị trường, p*, tùy theo số lượng bán ra, Q*. Đường cung thị
trường là tổng theo chiều ngang của các đường chi phí cận biên của mỗi doanh
nghiệp (Chương 8). Kết quả là, chi phí biến đổi của tất cả các công ty trên thị
trường sản xuất Q là diện tích dưới đường cung giữa 0 và sản lượng thị trường,
Q.

Giải quyết vấn đề 9.2


Nếu đường cung ước tính về hoa hồng là tuyến tính thì thặng dư của nhà sản
xuất bị mất bao nhiêu khi giá hoa hồng giảm từ 30¢ xuống 21¢ mỗi cành (do đó
số lượng bán ra giảm từ 1,25 tỷ xuống 1,16 tỷ cành hoa hồng mỗi năm)?

Trả lời

1. Vẽ đường cung và thể hiện sự thay đổi trong thặng dư sản xuất do thay đổi giá.
Hình vẽ cho thấy đường cung ước tính về hoa hồng. Điểm a cho biết lượng
cung ở mức giá ban đầu là 30¢ và điểm b phản ánh số lượng lượng cung ở mức
giá thấp hơn, 21¢. Sự mất mát trong thặng dư của nhà sản xuất là tổng của hình
chữ nhật D và tam giác E.
Giá gốc, 30¢ Giá thấp hơn,21¢ Thay đổi(triệu USD)

Thặng dư sản xuất D + E + F F −(D + E) = −108.45

2. Tính thặng dư sản xuất bị mất bằng cách cộng diện tích hình chữ nhật D và tam
giác E. Chiều cao của hình chữ nhật D là hiệu giữa ban đầu và giá mới, 9¢, và cơ
sở của nó là 1,16 tỷ thân cây mỗi năm, do đó diện tích của D (không phải tất cả đều
được hiển thị trong hình do trục số lượng bị đứt) là 0,09 USD mỗi thân cây * 1,16
tỷ thân cây mỗi năm = 104,4 triệu USD mỗi năm. Các chiều cao của tam giác E
cũng là 9¢, và chiều dài của nó là 90 triệu thân cây mỗi năm, do đó nó diện tích là
1/2 * 0,09 USD mỗi thân * 90 triệu thân mỗi năm = 4,05 triệu USD mỗi năm. Như
vậy, tổn thất trong thặng dư sản xuất do giá giảm là 108,45 triệu USD/năm.

9.4 Cạnh tranh tối đa hoá phúc lợi


Chúng ta nên đo lường phúc lợi của xã hội như thế nào? Người dân đã đề
xuất nhiều biện pháp phúc lợi hợp lý. Một thước đo thường được sử dụng để đo
lường phúc lợi xã hội, W, là tổng thặng dư tiêu dùng cộng với thặng dư nhà sản
xuất:

W = CS + PS.

Biện pháp này ngầm coi trọng phúc lợi của người tiêu dùng và nhà sản xuất như
nhau. Bằng cách sử dụng thước đo này, chúng tôi đang đưa ra đánh giá về giá trị
rằng phúc lợi của người tiêu dùng và của nhà sản xuất đều quan trọng như nhau.

Không phải ai cũng đồng ý rằng xã hội nên cố gắng tối đa hóa thước đo phúc
lợi này. Các nhóm nhà sản xuất tranh luận về việc ban hành luật có thể giúp ích
cho họ ngay cả khi điều đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng nhiều hơn mức mà
nhà sản xuất thu được - như thể chỉ có thặng dư của nhà sản xuất mới quan trọng.
Tương tự, một số người ủng hộ người tiêu dùng cho rằng chúng ta chỉ nên quan
tâm đến người tiêu dùng, do đó phúc lợi xã hội chỉ nên bao gồm thặng dư của
người tiêu dùng.

Chúng tôi sử dụng thước đo thặng dư tiêu dùng cộng với thặng dư nhà sản xuất
trong chương này (và hoãn thảo luận sâu hơn về các khái niệm phúc lợi khác cho
đến chương tiếp theo). Một trong những kết quả nổi bật nhất trong kinh tế học là
các thị trường cạnh tranh tối đa hóa thước đo phúc lợi này. Nếu sản lượng được sản
xuất ít hơn hoặc nhiều hơn mức cạnh tranh thì phúc lợi sẽ giảm.

Sản xuất ít hơn sản lượng cạnh tranh sẽ làm giảm phúc lợi. Tại điểm cân bằng
cạnh tranh trong Hình 9.5, e1, trong đó sản lượng là Q1 và giá là p1, thặng dư tiêu
dùng CS1 = A + B + C, nhà sản xuất thặng dư PS1 = D + E, và tổng phúc lợi W1
= A + B + C + D + E. Nếu sản lượng giảm xuống Q2 để giá tăng lên p2 tại e2,
thặng dư tiêu dùng là CS2 = A, thặng dư nhà sản xuất là PS2 = B + D, và phúc lợi
là W2 =A+B+D.

Sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng là

ΔCS=CS2 -CS1 =A-(A+B+C)= -B-C.

Người tiêu dùng mất B vì phải trả p2 - p1 nhiều hơn mức giá cạnh tranh cho
đơn vị Q2 mà họ mua. Người tiêu dùng mất C vì họ chỉ mua Q2 chứ không phải
Q1 ở mức giá cao hơn.

Sự thay đổi trong thặng dư sản xuất là

ΔPS=PS2 -PS1 =(B+D)-(D+E)=B-E.


Nhà sản xuất thu được B vì họ bán đơn vị Q2 với giá p2 thay vì giá p1. Họ mất E
vì họ bán ít đơn vị Q2 - Q1 hơn.

Sự thay đổi về phúc lợi, ΔW = W2 - W1 (8)

ΔW = ΔCS + ΔPS = (-B - C) + (B - E) = -C - E.

Tổn thất vô ích Khu vực B là sự chuyển giao từ người tiêu dùng sang nhà sản xuất
(DWL) —số tiền tăng thêm mà người tiêu dùng trả cho các đơn vị Q2 sẽ
thuộc về người bán—vì vậy nó không ảnh hưởng đến phúc lợi.
Mức giảm phúc lợi Phúc lợi giảm vì người tiêu dùng mất C và nhà sản xuất mất E
ròng do mất đi thặng không mang lại lợi ích gì cho ai. Sự sụt giảm phúc lợi này, ΔW = -
dư của một nhóm mà C - E, là tổn thất vô ích (DWL): mức giảm phúc lợi ròng do mất
không được bù đắp thặng dư của một nhóm mà không được bù đắp bằng lợi ích của
bằng lợi ích của nhóm khác từ một hành động làm thay đổi thị trường sự cân bằng.
nhóm khác từ một
hành động làm thay
______________________________
đổi trạng thái cân
bằng thị trường. 8.Sự thay đổi về phúc lợi là ΔW=W2 -W1 =(CS2 +PS2)-(CS1 +PS1)

=(CS2 -CS1)+ (PS2 - PS1) = ΔCS + ΔPS.

Hình 9.5 Tại sao giảm sản lượng từ mức cạnh tranh lại làm giảm phúc lợi

Giảm sản lượng từ mức đổi ΔPS = B - E. Nhìn chung, phúc lợi
cạnh tranh Q1 xuống giảm ΔW = -C - E, đây là tổn thất vô
Q2 khiến giá tăng từ p1 ích (DWL) đối với xã hội.
lên p2. Người tiêu dùng
bị thiệt: Thặng dư của
người tiêu dùng lúc này
là A, giảm ΔCS = -B -
C. Người sản xuất có
thể được hoặc mất:
Thặng dư của người sản
xuất lúc này là B + D,
thay
Tổn thất vô ích là do người tiêu dùng đánh giá sản lượng tăng thêm cao hơn
chi phí biên để sản xuất ra nó. Tại mỗi mức đầu ra giữa Q2 và Q1, mức sẵn lòng
trả biên của người tiêu dùng cho một đơn vị khác độ cao của đường cầu—lớn hơn
chi phí biên của việc sản xuất đơn vị tiếp theo độ cao của đường cung. Ví dụ, tại
e2, người tiêu dùng định giá đơn vị sản lượng tiếp theo ở mức p2, lớn hơn nhiều so
với chi phí biên MC2 để sản xuất ra đơn vị đó. Việc tăng sản lượng từ Q2 lên Q1
làm tăng chi phí biến đổi của doanh nghiệp theo diện tích F, diện tích nằm dưới
đường chi phí biên (cung) giữa Q2 và Q1. Người tiêu dùng định giá sản lượng tăng
thêm này theo diện tích nằm dưới đường cầu giữa Q2 và Q1, diện tích C + E + F.
Do đó, người tiêu dùng đánh giá sản lượng tăng thêm theo C + E cao hơn chi phí
để sản xuất ra nó.

Thất bại thị Xã hội sẽ tốt hơn nếu sản xuất và tiêu thụ thêm đơn vị hàng hóa
trường này hơn là chi tiêu số tiền này vào hàng hóa khác. Tóm lại, tổn thất
vô ích là chi phí cơ hội của việc từ bỏ một số hàng hóa này để mua
Sản xuất hoặc tiêu thêm một hàng hóa khác. Tổn thất vô ích phản ánh sự thất bại của
dùng kém hiệu quả, thị trường – sản xuất hoặc tiêu dùng không hiệu quả – và thường
thường do giá vượt do giá không bằng chi phí biên.
quá chi phí cận
biên
Giải quyết vấn đề
9.3 Chứng minh rằng việc tăng sản lượng vượt quá mức cạnh tranh sẽ
làm giảm phúc lợi vì chi phí để sản xuất ra sản lượng tăng thêm này
vượt quá giá trị mà người tiêu dùng đặt vào nó.

Trả lời

1. Hãy chứng minh rằng việc đặt sản lượng trên mức cạnh tranh
đòi hỏi giá phải giảm để người tiêu dùng mua thêm sản lượng.
Hình vẽ cho thấy tác động của việc tăng sản lượng từ mức cạnh
tranh Q1 lên Q2. Tại điểm cân bằng cạnh tranh e1, giá là p1. Để
người tiêu dùng mua thêm sản lượng ở quý 2, giá phải giảm
xuống p2 tại e2 trên đường cầu.

2. Hãy chỉ ra thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất thay đổi
như thế nào khi mức sản lượng tăng. Bởi vì giá giảm từ p1
xuống p2, thặng dư tiêu dùng tăng ΔCS = C + D + E, là diện tích
giữa p2 và p1 ở bên trái của đường cầu. Ở mức giá ban đầu p1,
thặng dư của nhà sản xuất là C + F. Chi phí để sản xuất lượng
sản phẩm lớn hơn là diện tích nằm dưới đường cung lên đến
Q2,B + D + E + G + H. Các hãng chỉ bán số lượng này với giá
p2Q2 , diện tích F + G + H. Như vậy, thặng dư sản xuất mới là F
- B - D - E. Kết quả là sản lượng tăng làm thặng dư sản xuất
giảm ΔPS = -B - C - D - E.
3. Xác định phúc lợi thay đổi như thế nào bằng cách cộng phần
thay đổi trong thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất. Bởi vì
nhà sản xuất mất nhiều hơn người tiêu dùng thu được nên tổn
thất vô ích là

DWL = ΔW = ΔCS + ΔPS = (C + D + E) + (-B - C - D - E) = -B.


4.Giải thích tại sao phúc lợi thay đổi do đặt giá khác với chi phí cận biên. Giá
mới, p2, nhỏ hơn chi phí biên MC2 của việc sản xuất Q2. Quá nhiều thứ đang
được sản xuất. Lỗ ròng xảy ra do người tiêu dùng đánh giá sản lượng ngoài Q2
- Q1 chỉ bằng E + H, nhỏ hơn chi phí bổ sung, B + E + H, của việc sản xuất nó.
Lý do cạnh tranh tối đa hóa phúc lợi là vì giá bằng chi phí biên ở trạng thái cân
bằng cạnh tranh. Ở trạng thái cân bằng cạnh tranh, cầu bằng cung, đảm bảo giá
bằng chi phí biên. Khi giá bằng chi phí cận biên, người tiêu dùng định giá đơn
vị sản phẩm cuối cùng bằng đúng số tiền mà họ phải bỏ ra để sản xuất ra nó.
Nếu người tiêu dùng định giá đơn vị cuối cùng cao hơn chi phí sản xuất biên thì
phúc lợi sẽ tăng nếu sản xuất được nhiều hơn. Tương tự, nếu người tiêu dùng
định giá đơn vị cuối cùng thấp hơn chi phí biên của nó thì phúc lợi sẽ cao hơn ở
mức sản xuất
thấp hơn.
ỨNG DỤNG

Sự mất mát nặng nề của


những món quà Giáng sinh

Bạn thích thú với đôi tất len màu xanh chanh đắt tiền với những chú gấu bông màu
tím đang nhảy múa mà dì Fern tặng bạn đến mức nào? Thông thường giá trị của
một món quà vượt quá giá trị mà người nhận đặt vào nó.

Cho đến khi thẻ quà tặng ra đời, chỉ có 10% đến 15% quà tặng dịp lễ là tiền tệ. Một
món quà bằng tiền mặt ít nhất cũng mang lại niềm vui cho người nhận bằng một
món quà có giá trị tương đương.

tương tự nhưng không thể đổi thành tiền mặt. (Vậy điều gì sẽ
xảy ra nếu việc tặng tiền mặt là khó khăn?) Tất
nhiên, có thể một món quà có thể mang lại nhiều
niềm vui cho người nhận hơn là chi phí mà người
tặng phải trả—nhưng điều đó có thường xuyên xảy ra
với bạn không? Một món quà hiệu quả là món quà
mà người nhận đánh giá cao ngang bằng với giá trị
của món quà mà người tặng phải trả hoặc hơn. Sự
khác biệt giữa giá của món quà và giá trị của nó đối
với người nhận là một tổn thất nặng nề đối với xã
hội. Joel Waldfogel (1993, 2009) đã hỏi các sinh viên
đại học Yale xem sự mất mát nặng nề này lớn đến
mức nào. Ông ước tính tổn thất nặng nề là từ 10%
đến 33% giá trị quà tặng. Waldfogel (2005) nhận
thấy rằng người tiêu dùng đánh giá cao việc mua
hàng của chính họ ở mức cao hơn từ 10% đến 18%,
trên mỗi đô la chi tiêu, so với các mặt hàng nhận
được dưới dạng quà tặng.9 Thực tế, chỉ 65% người
mua sắm trong kỳ nghỉ cho biết họ không trả lại một
món quà nào sau kỳ nghỉ lễ vào năm 2010.
Waldfogel nhận thấy
rằng những món quà từ bạn bè và “ những người
quan trọng” là hiệu quả nhất, trong khi những
món quà không dùng tiền mặt từ các thành viên
trong đại gia đình lại kém hiệu quả nhất(mất một
phần ba giá trị).May mắn thay, ông bà, cô dì chú
bác là những người thường đưa tiền mặt nhất.
Với chi tiêu cho kỳ nghỉ lễ ở Hoa Kỳ là khoảng
66 tỷ USD năm 2007, Waldfogel kết luận rằng
một ước tính dè dặt về tổn thất nặng nề của lễ
Giáng sinh, lễ Hanukkah và các ngày lễ khác có
nghi thức tặng quà là khoảng 12 tỷ USD. (Và đó
là chưa tính khoảng 2,8 tỷ giờ dành cho việc
mua sắm.) Câu hỏi vẫn là tại sao mọi người
không tặng tiền mặt thay vì quà. Thật vậy, 61%
người Mỹ tặng thẻ quà tặng như một món quà
ngày lễ. (Thẻ quà tặng tương đương với tiền mặt,
mặc dù một số thẻ chỉ có thể được sử dụng ở
một cửa hàng cụ thể.) Hơn 110 tỷ USD thẻ quà
tặng đã được mua vào năm 2012 tại Hoa Kỳ.
Nếu lý do người khác không tặng tiền mặt hoặc
thẻ quà tặng là vì họ thích thú khi chọn được
món quà “hoàn hảo”, thì tổn thất vô ích được
điều chỉnh theo sự hài lòng của người tặng sẽ
thấp hơn so với những tính toán này gợi ý. (Ồ,
đồ ngu xuẩn!)

9.5 CHÍNH SÁCH LÀM DỊCH CHUYỂN ĐƯỜNG


CUNG VÀ CẦU
Tôi không pha trò. Tôi chỉ theo dõi chính phủ và báo cáo sự thật. - Will Rogers
Một trong những lý do chính khiến các nhà kinh tế phát triển các công cụ
phúc lợi là để dự đoán tác động của các chương trình của chính phủ làm thay
đổi trạng thái cân bằng cạnh tranh. Hầu như mọi hành động của chính phủ đều
ảnh hưởng đến trạng thái cân bằng cạnh tranh theo một trong hai cách. Một số
các chính sách của chính phủ làm thay đổi đường cầu hoặc đường cung, chẳng
hạn như giới hạn số lượng doanh nghiệp trên thị trường. Những thứ khác, chẳng
hạn như thuế bán hàng, tạo ra một khoảng cách giữa giá và chi phí cận biên
khiến chúng không bằng nhau, ngay cả khi chúng ở trạng thái cân bằng cạnh
tranh ban đầu.

Những can thiệp của chính phủ này đưa chúng ta từ trạng thái cân bằng cạnh
tranh không bị ràng buộc sang trạng thái cân bằng cạnh tranh mới, có ràng
buộc. Bởi vì phúc lợi được tối đa hóa ở trạng thái cân bằng cạnh tranh ban đầu,
các ví dụ về chính phủ gây ra những thay đổi mà chúng tôi xem xét ở đây làm
giảm phúc lợi. Trong các chương sau, chúng ta sẽ xem xét thị trường trong đó
sự can thiệp của chính phủ có thể làm tăng phúc lợi vì ban đầu phúc lợi không
được tối đa hóa.11

Trong Thế chiến II, hầu hết các quốc gia liên quan đều hạn chế doanh số bán
hàng tiêu dùng hàng hóa để tài nguyên của quốc gia có thể được sử dụng cho nỗ
lực chiến tranh. Tương tự, Chính phủ có thể làm cho đường cung dịch chuyển
sang trái bằng cách hạn chế số lượng doanh nghiệp trên thị trường, chẳng hạn
như cấp phép cho taxi.

Trong Giải pháp thách thức (ở phần sau của chương này), chúng ta xem xét
một chính sách có ảnh hưởng đến đường cầu. Trong phần này, chúng tôi tập
trung vào các chính sách ảnh hưởng đến đường cung. Chính phủ, các tổ chức
khác và áp lực xã hội hạn chế số lượng doanh nghiệp theo ít nhất ba cách. Số
lượng doanh nghiệp bị hạn chế rõ ràng ở một số thị trường, chẳng hạn như dịch
vụ taxi. Ở các thị trường khác, một số thành viên trong xã hội bị cấm tham gia
sở hữu công ty hoặc thực hiện một số công việc hoặc dịch vụ nhất định. Ở các
thị trường khác, số lượng doanh nghiệp được kiểm soát gián tiếp bằng cách tăng
chi phí gia nhập hoặc rút lui.
10
Mọi người có thể giải quyết một món quà đáng thất vọng bằng cách tặng lại nó. Một số gia
đình đã chuyền cùng một loại bánh trái cây cho các thành viên trong gia đình trong nhiều
thập kỷ. Theo một cuộc khảo sát, 33% phụ nữ và 19% nam giới thừa nhận rằng họ đã tặng
một món quà không mong muốn (và 28% số người được hỏi nói rằng họ sẽ không thừa nhận
nếu được hỏi liệu họ có làm như vậy không).
11
Phúc lợi giảm khi chính phủ hạn chế tiêu thụ các sản phẩm cạnh tranh mà tất cả chúng ta
đều đồng ý là hàng hóa như thực phẩm và dịch vụ y tế. Ngược lại, nếu hầu hết xã hội muốn
ngăn cản việc sử dụng một số sản phẩm nhất định, chẳng hạn như thuốc gây ảo giác và thuốc
lá, thì các chính sách hạn chế tiêu dùng có thể làm tăng một số biện pháp phúc lợi xã hội.

Hạn Chế Số Lượng Doanh Nghiệp


Giới hạn về số lượng doanh nghiệp gây ra sự dịch chuyển của đường cung
sang trái, làm tăng giá cân bằng và làm giảm lượng cân bằng. Người tiêu dùng
đang bị tổn hại: Họ không mua nhiều như họ muốn ở mức giá thấp hơn. Các
công ty tham gia thị trường khi các giới hạn được áp dụng lần đầu tiên sẽ được
hưởng lợi từ lợi nhuận cao hơn.

Để minh họa những kết quả này, chúng tôi kiểm tra các quy định về taxi.
Quốc gia trên toàn thế giới hạn chế số lượng xe taxi. Để vận hành một chiếc
taxi ở những thành phố này về mặt pháp lý, bạn phải có giấy phép do thành phố
cấp, có thể là một mảnh giấy hoặc một huy chương.

Hai lời giải thích được đưa ra cho quy định như vậy. Đầu tiên, việc sử dụng
giấy phép để hạn chế số lượng xe taxi sẽ làm tăng thu nhập của người sở hữu
giấy phép, thường là chủ đội xe taxi, những người vận động hành lang các quan
chức thành phố về những hạn chế như vậy. Thứ hai, một số quan chức thành
phố cho rằng việc hạn chế xe taxi cho phép điều chỉnh hành vi của tài xế taxi tốt
hơn và bảo vệ người tiêu dùng. (Tuy nhiên, có vẻ như các thành phố có thể trực
tiếp điều chỉnh hành vi và không hạn chế số lượng xe taxi).

Dù biện minh cho quy định như vậy là gì thì việc giới hạn số lượng xe taxi
sẽ làm tăng giá thị trường. Nếu thành phố không giới hạn số người vào, số
lượng gần như không giới hạn các tài xế taxi tiềm năng có chi phí như nhau có
thể tự do tham gia.

Phần a của Hình 9.6 cho thấy đường chi phí cận biên của một chủ xe taxi
điển hình, MC, và đường chi phí bình quân AC 1. Đường MC dốc lên vì chi phí
cơ hội của một tài xế taxi điển hình khi làm việc nhiều giờ hơn sẽ tăng khi tài
xế taxi làm việc nhiều giờ hơn (thu hút nhiều khách hàng hơn). Sự dịch chuyển
ra ngoài của đường cầu được đáp ứng bởi các doanh nghiệp mới gia nhập, do
đó, đường cung dài hạn của việc đi taxi, S 1 trong phần b, là nằm ngang tối thiểu
là AC1 (Chương 8). Đối với đường cầu thị trường trong hình, điểm cân bằng là
E1, trong đó giá cân bằng ,p 1 ,bằng mức tối thiểu AC1 của một chiếc taxi thông
thường. Tổng số chuyến đi là Q1 = n1q1, trong đó n1 là số lượng xe cân bằng và
q1 là số chuyến đi mỗi tháng do một xe taxi thông thường cung cấp.

Thặng dư tiêu dùng, A + B + C, là diện tích nằm dưới đường cầu thị trường
ở trên p1 đến Q1. Thặng dư sản xuất bằng không vì đường cung nằm ngang tại
giá thị trường, bằng chi phí cận biên và chi phí trung bình. Vì vậy, phúc lợi
cũng giống như thặng dư tiêu dùng.

Pháp luật giới hạn số lượng giấy phép vận hành taxi ở mức n 2 < n1. Thị
trường đường cung, S2 , là tổng theo chiều ngang của các đường chi phí cận
biên phía trên chi phí trung bình tối thiểu của n 2 doanh nghiệp trên thị trường.
Để thị trường sản xuất nhiều hơn n 2q1 đi xe, giá phải tăng để khiến các hãng n 2
cung cấp nhiều hơn.

Với cùng đường cầu như trước, giá thị trường cân bằng tăng lên p 2. Ở mức
giá cao hơn này, mỗi hãng taxi được cấp phép sản xuất nhiều hơn trước nhờ
hoạt động nhiều giờ hơn, q2 > q1, nhưng tổng số chuyến đi, Q2 = n2q2, giảm vì
số lượng xe, n2, giảm. Thặng dư tiêu dùng là A, thặng dư sản xuất là B, và phúc
lợi là A + B.

Hình 9.6 Ảnh hưởng của việc hạn chế số lượng xe taxi
Sự hạn chế về số lượng xe taxi khiến nguồn cung đường cong dịch chuyển
từ S1 sang S2 trong ngắn hạn và trạng thái cân bằng thay đổi từ E 1 sang E2. Kết
quả là thặng dư bị mất đi, C, là một tổn thất vô ích đối với xã hội. Về lâu dài,
lợi nhuận bất thường, π, được tạo ra bởi hạn chế sẽ trở thành tiền thuê cho
người sở hữu giấy phép. Với tư cách là chủ sở hữu giấy phép tăng phí sử dụng
giấy phép, chi phí trung bình đường cong tăng lên AC 2 , do đó tài xế taxi kiếm
được lợi nhuận dài hạn bằng không. Nghĩa là, thặng dư của nhà sản xuất sẽ đến
mức cho phép người giữ xe chứ không phải tài xế taxi.
Không hạn chế Những hạn chế Thay đổi

Thặng dư tiêu dùng, CS A+B+C A −B − C = ΔCS Thặng dư sản xuất, PS 0 B B=


ΔPS

Phúc lợi,W = CS + PS A+B+C A+B −C = ΔW= DWL

Do đó, do giá vé (giá) cao hơn theo hệ thống giấy phép, thặng dư tiêu dùng
giảm ΔCS = -B – C

Thặng dư sản xuất của người sở hữu giấy phép may mắn tăng lên ΔPS = B.

Kết quả là tổng phúc lợi giảm: ΔW = ΔCS + ΔPS = (-B - C) + B = -C,

Đó là một mất mát vô ích.

Bằng cách ngăn chặn các hãng taxi tiềm năng khác tham gia vào thị trường,
hạn chế giấy phép tạo ra lợi nhuận kinh tế, khu vực được dán nhãn π trong bảng
a, dành cho chủ giấy phép. Ở nhiều thành phố, những giấy phép này có thể
được bán hoặc cho thuê, do đó chủ sở hữu nguồn tài nguyên khan hiếm, giấy
phép, có thể thu được lợi nhuận bất thường hoặc cho thuê.
Tiền thuê giấy phép hoặc tiền thuê ngầm do người sở hữu giấy phép trả
khiến chi phí trung bình của tài xế taxi tăng lên AC 2. Bởi vì tiền thuê cho phép
sử dụng xe taxi trong một khoảng thời gian nhất định nên đó là một chi phí cố
định không liên quan đến sản lượng. Kết quả là, nó không ảnh hưởng đến chi
phí cận biên.

Tài xế taxi kiếm được lợi nhuận kinh tế bằng 0 vì giá thị trường, p2, bằng
chi phí trung bình của họ, mức tối thiểu là AC 2. Thặng dư sản xuất, B, được tạo
ra bởi các giới hạn về quyền truy cập thuộc về chủ sở hữu ban đầu của giấy
phép thay vì tài xế taxi hiện tại. Do đó, chủ sở hữu giấy phép là những người
duy nhất được hưởng lợi từ các hạn chế và cái được ít hơn cái mất của người
khác. Nếu chính phủ thu tiền thuê hàng năm dưới hình thức giấy phép hàng
năm thì số tiền thuê này có thể được phân phối cho mọi người dân thay vì chỉ
một vài chủ sở hữu giấy phép may mắn.

Ở nhiều thành phố, giá thuê và ảnh hưởng phúc lợi do những luật này gây ra
là rất lớn. Mức độ thiệt hại đối với người tiêu dùng và lợi ích của người có giấy
phép phụ thuộc vào mức độ một thành phố hạn chế nghiêm ngặt số lượng xe
taxi.

Taxi cấp phép ứng dụng

Tiếc là chỉ có những người biết điều hành đất nước lại bận lái taxi và cắt tóc-
George Burns.

Các thành phố trên khắp thế giới bao gồm hầu hết các thành phố lớn của
Hoa Kỳ, Canada và Châu Âu cấp giấy phép và giới hạn số lượng xe taxi. Một
số thành phố quy định số lượng taxi nghiêm ngặt hơn nhiều so với những người
khác. Tokyo có năm lần nhiều taxi như thành phố New York, nơi có ít giấy
phép hơn ngày nay so với khi việc cấp phép bắt đầu vào năm 1937. San
Francisco, vốn hạn chế nghiêm ngặt số lượng xe taxi, chỉ có số lượng xe taxi
bằng một phần mười như Washington, D.C., nơi có ít người hơn nhưng không
hạn chế số lượng xe taxi. Mức độ hạn chế của việc cấp phép khác nhau giữa các
thành phố: Số lượng cư dân trên mỗi chiếc taxi là 757 ở Detroit, 748 ở San
Francisco, 538 ở Dallas, 533 ở Baltimore, 350 ở Boston, 301 ở New Orleans và
203 ở Honolulu.

Nơi xe taxi bị hạn chế nghiêm ngặt, như ở thành phố New York, người có
giấy phép taxi kiếm được lợi nhuận hoạt động cao bất thường. Hơn nữa, người
sở hữu giấy phép-được gọi là một huy chương-có thể bán chúng với số tiền lớn.
Trong năm 2012, chủ sở hữu huy chương taxi của Thành phố New York đã bán
nó với giá hơn 1,3 triệu đô la. 12 Giá trị của tất cả giấy phép taxi của Thành phố
New York là hơn 19,5 tỷ đô la, lớn hơn bảy lần so với giá trị bảo hiểm 2,6 tỷ đô
la của trung tâm thương mại Thế giới vào năm 2001.

Abelson (2010) ước tính rằng những người sống ở Sydney, Australia sẽ
kiếm được 265 USD triệu USD mỗi năm bằng cách dỡ bỏ các hạn chế về taxi,
và phần lớn trong số đó, 221 triệu USD, sẽ đến tay người tiêu dùng. Các phong
trào hướng tới tự do hóa việc gia nhập thị trường taxi bắt đầu ở Hoa Kỳ vào
những năm 1980 và ở Thụy Điển, Ireland, Hà Lan và Vương quốc Anh vào
những năm 1990, nhưng quy định chặt chẽ vẫn còn phổ biến trên toàn thế giới.
12
Vào năm 2013, Thành phố New York đã bổ sung một loại giấy phép taxi mới và tuyên bố
sẽ bán thêm 2.000 huy chương (nâng số lượng huy chương lên 15.000), điều này có thể làm
giảm giá trị của một chiếc huy chương. Thành phố ước tính rằng việc bán huy chương sẽ thu
về 1 tỷ đô la, nghĩa là giá trị của mỗi huy chương là 500.000 đô la. Tuy nhiên, ngay sau khi
các huy chương bổ sung được phê duyệt, các huy chương đã được rao bán với giá hơn một
triệu đô la mỗi chiếc.

Tăng Chi Phí Đầu Vào Và Đầu Ra


Thay vì trực tiếp hạn chế số lượng doanh nghiệp có thể tham gia thị trường,
chính phủ và các tổ chức khác có thể tăng chi phí gia nhập, do đó gián tiếp hạn
chế số lượng đó. Tương tự như vậy, việc tăng chi phí rút lui khỏi thị trường sẽ
ngăn cản một số công ty gia nhập.

Rào cản gia nhập Chính phủ cũng có thể làm cho đường cung dịch chuyển sang
trái bằng cách tăng chi phí gia nhập. Nếu chi phí của nó lớn hơn chi phí của các
công ty đã có mặt trên thị trường, một công ty tiềm năng có thể không tham gia
thị trường ngay cả khi các công ty hiện tại đang kiếm được lợi nhuận. Bất kỳ chi
phí nào chỉ rơi vào những người gia nhập tiềm năng chứ không phải những công
ty hiện tại sẽ không khuyến khích việc gia nhập. Rào cản gia nhập dài hạn là một
hạn chế rõ ràng hoặc một chi phí chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp mới tiềm
năng-các doanh nghiệp hiện tại không bị hạn chế hoặc không phải chịu chi phí.

(Rào cản gia nhập một hạn chế rõ ràng hoặc một chi phí chỉ áp dụng cho các
công ty mới tiềm năng-các công ty hiện tại không bị hạn chế hoặc không chịu chi
phí. Vào thời điểm họ gia nhập, các công ty hiện tại phải trả nhiều chi phí khi gia
nhập thị trường mà những người mới tham gia phải gánh chịu, chẳng hạn như chi
phí cố định để xây dựng nhà máy, mua thiết bị và quảng cáo sản phẩm mới. Ví
dụ: chi phí cố định đối với McDonald's và các chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh
khác khi mở một nhà hàng thức ăn nhanh mới là khoảng 2 triệu USD. Những chi
phí cố định này là chi phí gia nhập nhưng không phải là rào cản gia nhập vì
chúng áp dụng như nhau cho cả những người hiện tại và những người mới gia
nhập. Chi phí phát sinh của cả hai những công ty hiện tại và những người mới gia
nhập không ngăn cản các công ty tiềm năng tham gia vào thị trường nếu các công
ty hiện tại đang kiếm được tiền. Những người tham gia tiềm năng biết rằng họ
cũng sẽ làm như vậy như các công ty hiện có khi họ bắt đầu hoạt động, vì vậy họ
sẵn sàng tham gia miễn là có cơ hội lợi nhuận.

Chi phí chìm lớn có thể là rào cản gia nhập theo hai điều kiện. Thứ nhất, nếu
vốn thị trường hoạt động không hiệu quả khiến các doanh nghiệp mới gặp khó
khăn trong việc huy động vốn, các doanh nghiệp mới có thể không thâm nhập
được vào các thị trường có lợi nhuận. Thứ hai, nếu một công ty phải chịu một chi
phí chìm lớn, làm tăng tổn thất nếu rút lui, công ty có thể miễn cưỡng tham gia
vào một thị trường mà ở đó nó không chắc chắn về thành công.

Hạn chế xuất cảnh Chính phủ Hoa Kỳ, Châu Âu và các chính phủ khác
có luật trì hoãn thời gian nhanh chóng mà một số công ty (thường là lớn) có thể
phá sản để cung cấp cho người lao động cảnh báo về việc sa thải. Mặc dù những
hạn chế này giữ cho số lượng doanh nghiệp trên thị trường tương đối cao trong
ngắn hạn nhưng chúng có thể làm giảm số lượng doanh nghiệp trên thị trường về
lâu dài.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 108

Tại sao hạn chế rút lui lại hạn chế số lượng doanh nghiệp trong một thị
trường? Giả sử bạn đang cân nhắc việc thành lập một công ty xây dựng mà
không cần vốn hoặc các yếu tố cố định khác. Đầu vào duy nhất của công ty là
lao động. Bạn biết rằng có rất ít nhu cầu về xây dựng trong thời kỳ kinh doanh
suy thoái và vào mùa đông. Để tránh phải trả lương cho công nhân khi công
việc kinh doanh trì trệ, bạn có kế hoạch đóng cửa trong khoảng thời gian đó.
Bởi vì bạn có thể tránh thua lỗ bằng cách đóng cửa trong thời kỳ nhu cầu thấp,
bạn tham gia thị trường này nếu lợi nhuận kinh tế dự kiến của bạn trong thời
kỳ thuận lợi bằng 0 hoặc dương.

Một đạo luật yêu cầu một công ty phải cảnh báo công nhân của mình sáu tháng
trước khi sa thải họ nhằm ngăn chặn việc công ty đóng cửa nhanh chóng. Các chủ
sở hữu của công ty biết rằng nó sẽ thường xuyên bị thua lỗ trong thời kỳ kinh
doanh suy thoái vì nó sẽ phải trả lương cho công nhân của mình tới sáu tháng trong
những khoảng thời gian mà họ không có việc gì để làm. Biết rằng công ty sẽ phải
chịu những khoản lỗ thường xuyên này, các chủ sở hữu ít có xu hướng tham gia thị
trường. Trừ khi lợi nhuận kinh tế trong những thời kỳ thuận lợi cao hơn nhiều so
với con số 0 - đủ cao để bù đắp khoản lỗ của bạn - chủ sở hữu sẽ không chọn tham
gia vào thị trường . Nếu các rào cản rút lui giới hạn số lượng doanh nghiệp thì phân
tích tương tự mà chúng tôi đã sử dụng để kiểm tra các rào cản gia nhập sẽ được áp
dụng. Do đó, rào cản rút lui có thể làm tăng giá, giảm thặng dư tiêu dùng và giảm
phúc lợi.

9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu
Các chính sách phổ biến nhất của chính phủ tạo ra sự chênh lệch giữa cung và
cầu là thuế doanh thu (hoặc trợ cấp) và kiểm soát giá. Vì những chính sách này tạo
ra khoảng cách giữa chi phí cận biên và giá cả nên quá ít hoặc quá nhiều đều được
sản xuất. Ví dụ, thuế làm cho giá vượt quá chi phí cận biên – giá trị của người tiêu
dùng hàng hóa cao hơn chi phí để sản xuất ra nó - dẫn đến thặng dư tiêu dùng,
thặng dư sản xuất và phúc lợi giảm.

Tác động phúc lợi của thuế bán hàng


Thuế bán hàng mới làm cho giá mà người tiêu dùng phải trả tăng lên (Chương
3), dẫn đến mất đi thặng dư tiêu dùng, ΔCS < 0, và giảm giá mà các doanh nghiệp
nhận được, dẫn đến thặng dư của nhà sản xuất giảm, ΔPS < 0.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 109

Tuy nhiên , loại thuế mới mang lại cho chính phủ nguồn thu thuế mới,

ΔT = T > 0 (nếu doanh thu thuế bằng 0 trước thuế mới này).
Giả sử rằng chính phủ làm điều gì đó hữu ích với nguồn thu từ thuế, chúng
ta nên đưa doanh thu từ thuế vào định nghĩa về phúc lợi: W = CS + PS + T. Kết
quả là, sự thay đổi trong phúc lợi là ΔW = ΔCS + ΔPS + ΔT.
Ngay cả khi chúng ta tính doanh thu từ thuế vào thước đo phúc lợi của mình,
một loại thuế cụ thể chắc chắn sẽ làm giảm phúc lợi trong một thị trường cạnh
tranh. Chúng tôi biểu thị tổn thất phúc lợi từ một mức thuế cụ thể t = 11¢ trên mỗi
cành hoa hồng trong Hình 9.7.
Khi không có thuế, giao điểm của đường cầu, D và đường cung, S, xác định
trạng thái cân bằng cạnh tranh, e1, ở mức giá 30¢ mỗi cành và số lượng 1,25 tỷ
cành hoa hồng mỗi năm. Thặng dư tiêu dùng là A + B + C, thặng dư nhà sản
xuất là D + E + F, doanh thu thuế bằng 0 và tổn thất vô ích bằng 0.
Thuế cụ thể làm dịch chuyển đường cung hiệu dụng lên 11¢, tạo ra một cái
nêm 11¢ (Chương 3) giữa giá mà người tiêu dùng trả, 32¢, và giá mà nhà sản xuất
nhận được, 32¢ - t = 21¢. Sản lượng cân bằng giảm từ 1,25 xuống 1,16 tỷ
cành/năm.

Khoản tăng thêm 2¢ trên mỗi thân cây mà người mua phải trả khiến thặng dư
tiêu dùng giảm B + C = 24,1 triệu USD mỗi năm, như chúng tôi đã trình bày trước
đó. Do giá mà các công ty nhận được giảm 9¢, họ mất thặng dư sản xuất D + E =
108,45 triệu USD mỗi năm (Đã giải quyết vấn đề 9.2). Chính phủ thu được doanh
thu từ thuế tQ = 11¢ mỗi thân cây * 1,16 tỷ thân cây mỗi năm = 127,6 triệu USD
mỗi năm, khu vực B + D.

Tổn thất tổng cộng của thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất chỉ được bù đắp
một phần bằng khoản thu được từ thuế của chính phủ, do đó phúc lợi giảm xuống:

ΔW = ΔCS + ΔPS + ΔT = - 24.1 USD - 108.45 U S D + 127.6 USD

= - 4,95 triệu USD mỗi năm.


Tổn thất vô ích này là khu vực C + E.
Tại sao xã hội phải chịu tổn thất nặng nề? Lý do là thuế làm giảm sản lượng từ
mức cạnh tranh nơi phúc lợi được tối đa hóa. Một lời giải thích tương đương cho
sự kém hiệu quả hoặc tổn thất này đối với xã hội là thuế tạo ra sự chênh lệch giữa
giá và chi phí cận biên. Tại điểm cân bằng mới, người mua sẵn sàng trả 32¢ cho
một bông hồng nữa, trong khi chi phí cận biên đối với doanh nghiệp chỉ là 21¢ (=
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 110

giá trừ t). Không nên sản xuất ít nhất một bông hồng nữa nếu người tiêu dùng sẵn
sàng trả gần nhiều hơn một phần ba chi phí sản xuất nó? Đó là những gì nghiên
cứu phúc lợi của chúng tôi chỉ ra.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 111

Hình 9.7 Tác động của thuế cụ thể đối với hoa hồng
Thuế cụ thể t = 11¢ đối với hoa hồng tạo ra 11¢ mỗi T = tQ = 127,6 triệu USD mỗi năm. Sự mất mát vô ích phần chênh lệch giữa
giá khách hàng trả, 32¢, và mức đối với xã hội là C + E = 4,95 triệu USD mỗi năm.

p, ¢ mỗi thân cây


S + 11¢ S

t = 11¢
A
e2
 32 B C
 30

t = 11  e1
 D
 Cầu
 21

1.16 1.25

Q, Hàng tỷ cành hoa hồng mỗi năm

Không thuế Thuế cụ thể Sự thay đổi (triệu USD)


Thặ ng dư tiêu dù ng, CS ABC A B  C  24.1  CS
Thặ ng dư sả n xuấ t, PS D E F F D  E  108.45  PS
Thuế thu nhậ p, T  tQ 0 BD B  D  127.6  T
Phú c lợ i, W  CS  PS  T A B C DEF A B D F C  E  4.95  DWL
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 112

Ứ ng dụng Chi phí xã hội của việc thu thuế là tổn thất vô ích do thuế gây ra.
Chi phí vô Blundell và cộng sự. (2012) nhận thấy rằng tổn thất vô ích trên mỗi đô
ích của việc la doanh thu từ thuế xăng dầu tăng lên là 4,3% đối với người thu nhập
cao, 9,2% đối với người thu nhập trung bình và 3,9% đối với người tiêu
tăng doanh
thu thuế dùng Hoa Kỳ có thu nhập thấp.13
Tại sao thuế xăng dầu lại gây bóp méo hơn đối với người tiêu dùng có
xăng dầu
thu nhập trung bình? Một phần nguyên nhân là do người tiêu dùng có
thu nhập trung bình ở Mỹ và Canada phản ứng nhanh hơn trước những
thay đổi của giá xăng so với người
Tiêu dùng có thu nhập thấp và thu nhập cao. Nghĩa là, người tiêu dùng
có thu nhập trung bình có đường cầu co giãn hơn. Thông thường, lượng
cầu càng giảm do thuế thì phạm vi càng rộng, tam giác tổn thất vô ích và
tỷ lệ tổn thất vô ích trên doanh thu thuế càng lớn, như minh họa cho Bài
toán đã giải quyết tiếp theo.

13Nhóm thu nhập thấp của Hoa Kỳ bao gồm 25% những người có
thu nhập thấp nhất và có thu nhập trung bình là 42.500 USD mỗi
năm. Nhóm thu nhập trung bình có thu nhập trung bình là 57.500
USD. Thu nhập trung bình của nhóm thu nhập cao là 72.500 USD.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 113
Giải quyết vấn đề 9.4

Hai đường cầu tuyến tính đi qua điểm cân bằng ban đầu e1. Một đường cầu ít co giãn hơn
đường kia tại e1. Đường cung ngang ban đầu cũng đi qua e1. Đối với đường cầu nào thì
tổn thất vô ích từ một loại thuế cụ thể t lớn hơn? Tỷ lệ tổn thất vô ích (DWL) trên doanh
thu thuế (T) là bao nhiêu?
Trả lời
1. Vẽ đường cung nằm ngang và cộng hai đường cầu có độ dốc khác nhau cắt nhau tại
điểm cân bằng ban đầu, e1, trên đường cung. Trong hình, đường cung ban đầu và đường
cầu cắt nhau tại e1, trong đó lượng cân bằng là Q1 and giá là p1. Đường cầu phẳng hơn
tương đối co giãn hơn như Bài toán đã giải 9.1 giải thích.
p, $ mỗi đơn vị

Nhu cầu tương đối không co giãn (tại e1)


Cung + t
P1 + t D
E
B
P1 Cung
C

e3 e2

Q3 Q2 Q1 Q, Đơn vị mỗi tuần

Nhu cầu tương đối Nhu cầu tương đối


Co giãn Không co giãn
Khoản mất không, DWL B+C C+E
Thuế thu nhập, T A A+B+D
DWL B+C C+E
T A A+B+D

2. Hãy chỉ ra thuế cụ thể làm dịch chuyển đường cung như thế nào và xác định điểm
cân bằng mới cho hai đường cầu. Một mức thuế cụ thể t làm dịch chuyển đường
cung lên t ở mọi nơi (Chương 3). Đường cầu tương đối kém co giãn cắt đường cung
mới này tại e2, trong đó lượng cân bằng mới là Q2 và giá cân bằng mới là p1 + t.
Đường cầu tương đối co giãn cắt đường cung mới tại e3, tại đó lượng cân bằng là Q3
và giá lại là p1 + t.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 114
3. Xác định DWL cho hai đường cầu DWL là diện tích bên dưới đường cầu và phía
trên đường cung giữa lượng cân bằng mới và Q1. Do đó, DWL là vùng C + E có
đường cầu tương đối kém co giãn và B + C có đường cầu tương đối co giãn. Cho B
> E, DWL lớn hơn với đường cầu co giãn hơn.

4. Xác định DWL/ T cho hai đường cầu. Doanh thu từ thuế gấp t lần lượng cân bằng.
Do đó, T là hình chữ nhật nằm giữa hai đường cung, khác nhau một điểm t, giữa 0
và lượng cân bằng. Doanh thu thuế là diện tích A với đường cầu tương đối co giãn
và A + B + D đối với đường cầu tương đối không co giãn. Do đó, DWL / T là (B +
C)/A cho đường cầu tương đối co giãn và (C + E)/(A + B + D) đối với đường cầu
tương đối không co giãn. Bởi vì, lớn hơn và T nhỏ hơn đối với đường cầu tương
đối co giãn nên DWL/T phải lớn hơn đối với đường cầu tương đối co giãn.
Tác động phúc lợi của trợ cấp
Trợ cấp là một loại thuế âm. Vì vậy, tác động của nó lên sản lượng là ngược
lại với tác động của thuế. Tuy nhiên, trợ cấp cũng làm giảm phúc lợi. Bởi vì
giá mới thấp hơn chi phí cận biên (không được trợ cấp), trợ cấp sẽ gây ra sản
xuất dư thừa, làm giảm phúc lợi như Bài toán 9.3 cho thấy.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 115

Giả sử chính phủ cấp cho người sản xuất hoa hồng một khoản
trợ cấp cụ thể là s = 11¢ mỗi thân. Tác động của trợ cấp lên giá
Giải quyết và lượng cân bằng, thặng dư tiêu dùng, thặng dư sản xuất, chi
vấn đề 9.5
tiêu chính phủ, phúc lợi và tổn thất vô ích là gì?

Trả lời

1. Chỉ ra trợ cấp làm dịch chuyển đường cung và ảnh hưởng đến trạng thái cân bằng
như thế nào.
Trợ cấp cụ thể làm dịch chuyển đường cung S trong hình xuống s = 11¢ tới
đường cong có nhãn S - 11¢. Do đó, trạng thái cân bằng chuyển từ e1 sang e2,
do đó số lượng bán ra tăng lên (từ 1,25 lên 1,34 tỷ cành hoa hồng mỗi năm),
giá mà người tiêu dùng phải trả giảm (từ 30¢ xuống 28¢ mỗi cành) và số tiền
mà nhà cung cấp nhận được. , bao gồm cả trợ cấp, tăng (từ 30¢ lên 39¢), do đó
chênh lệch giữa số tiền người tiêu dùng trả và số tiền người sản xuất nhận được
là 11¢.

2. Chứng tỏ rằng người tiêu dùng và nhà sản xuất đều được hưởng lợi. Người tiêu
dùng và người sản xuất hoa hồng rất vui mừng khi được các thành viên khác
trong xã hội trợ cấp. Bởi vì giá giảm cho khách hàng, thặng dư tiêu dùng tăng từ
A + B lên A + B + D + E. Bởi vì các doanh nghiệp nhận được nhiều hơn trên
mỗi thân cây sau khi trợ cấp, thặng dư của nhà sản xuất tăng từ D + G lên B + C
+ D + G ( dưới mức giá họ nhận được và trên đường cung ban đầu).

3. Cho biết chi tiêu chính phủ tăng bao nhiêu và xác định ảnh hưởng đến phúc lợi.
Bởi vì chính phủ trả trợ cấp 11¢ mỗi thân cây cho mỗi thân cây được bán nên
chi tiêu của chính phủ đi từ 0 đến hình chữ nhật B + C + D + E + F. Do đó,
phúc lợi mới là tổng của thặng dư tiêu dùng mới và thặng dư sản xuất thặng dư
trừ đi chi phí của chính phủ.
Như bảng bên dưới cho thấy, phúc lợi giảm từ A + B + D + G xuống A + B + D
+ G - F.
Tổn thất vô ích, sự sụt giảm phúc lợi này, ΔW = -F, là kết quả của việc sản
xuất quá nhiều: chi phí cận biên đối với người sản xuất thân cây cuối cùng, 39¢,
vượt quá lợi ích cận biên đối với người tiêu dùng, 28¢.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 116

p, ¢ mỗi thân cây


S

A
39¢ S  11¢

C
 B
s = 11¢  e1 F
 30¢
 28¢ D e2

E
Cầu

G
s = 11¢

1.25 1.34

Q, Hàng tỷ cành hoa hồng mỗi năm

Không trợ cấp Trợ cấp Thay đổi (Triệu USD)

Thặng dư tiêu dùng CS AB A B  D  E D  E  116.55  CS

Thặng dư sản xuất, PS D G BCDG B  C  25.9  PS

Chi tiêu chính phủ, X 0 B  C  D  E  F B  C  D  E  F  147.4  X

Phúc lợi, W  CS  PS  X A B D G A B  D  G  F  F  4.95 DWL

Tác động phúc lợi của giá sàn


Bất kể tôn giáo của bạn là gì, bạn nên cố gắng trở thành một chính phủ

theo chương trình, nhờ đó bạn sẽ có được cuộc sống vĩnh cửu

—Lynn Martin (cựu Dân biểu Hoa Kỳ)


Ở một số thị trường, chính phủ đặt ra mức giá sàn hoặc giá tối thiểu, là mức giá
thấp nhất mà người tiêu dùng có thể trả hợp pháp cho hàng hóa. Ví dụ, ở hầu hết
các nước, chính phủ tạo ra mức giá sàn cho ít nhất một số mức giá nông sản để đảm
bảo với người sản xuất rằng họ sẽ nhận được ít nhất mức giá p cho hàng hóa của họ.
Nếu giá thị trường cao hơn p thì chương trình hỗ trợ không còn phù hợp. Tuy nhiên,
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 117
nếu giá thị trường thấp hơn p, chính phủ sẽ mua càng nhiều sản lượng cần thiết để
đẩy giá lên tới p. Kể từ năm 1929 (bắt đầu cuộc Đại suy thoái), chính phủ Hoa Kỳ
đã sử dụng giá sàn hoặc các chương trình tương tự để giữ giá của nhiều sản phẩm
nông nghiệp cao hơn mức giá mà cạnh tranh sẽ quyết định ở các thị trường không
được kiểm soát.

Chương trình yêu thích của tôi là trợ cấp len và mohair. Chính phủ Hoa Kỳ đã
tiến hành hỗ trợ giá len sau Chiến tranh Triều Tiên để đảm bảo “nguồn cung cấp
chiến lược” cho đồng phục. Quốc hội sau đó đã bổ sung thêm trợ cấp cho mohair,
mặc dù mohair không được sử dụng trong quân đội

Trong một số năm, trợ cấp mohair đã vượt quá số tiền mà người tiêu dùng trả
cho mohair, và trợ cấp cho len và mohair đã lên tới 1/5 tỷ đô la trong vòng 10 năm
qua nửa thế kỷ đầu hỗ trợ. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc chấm dứt các khoản trợ
cấp này vào năm 1995 đã gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Nhờ Thượng nghị sĩ
Phil Gramm, một nhà bảo thủ tài chính nổi tiếng và những người yêu nước khác
(chủ yếu đến từ Texas, nơi sản xuất nhiều mohair), khoản trợ cấp đã được phục hồi
vào năm 2000! Đại diện Lamar Smith kịch liệt phản đối những người đặt câu hỏi về
sự cần thiết phải trợ cấp cho mohair: “Mohair rất phổ biến! Tôi có một chiếc áo len
mohair! Đó là cái tôi yêu thích nhất!” Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.

Nông nghiệp đã cung cấp 60 triệu USD để nuôi dê Angora vào năm 1990, và
ngân sách năm 2010 kêu gọi trợ cấp 8 triệu USD cho loài mohair. Nó đã bị hủy bỏ
vào năm sau, nhưng vẫn còn trong sổ chờ được hồi sinh.

Hỗ trợ giá nông nghiệp Bây giờ chúng tôi chỉ ra tác động của việc hỗ trợ giá
nông nghiệp truyền thống bằng cách sử dụng đường cung và cầu ước tính cho thị
trường đậu nành (Holt, 1992). Giao điểm của đường cầu thị trường và đường cung
thị trường trong Hình 9.8 xác định trạng thái cân bằng cạnh tranh, e, trong trường
hợp không có
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 118

Hình 9.8 Tác động của hỗ trợ giá đối với đậu nành

Nếu không có hỗ trợ giá của chính phủ, trạng thái cân bằng
là e, trong đó p1 = 4,59 USD mỗi giạ và Q1 = 2,1 tỷ lên Qd, do đó chính phủ phải mua Qg = Qs - Qd với giá

giạ đậu nành mỗi năm (dựa trên ước tính ở Holt, 1992). Với trị giá 1,283 tỷ USD mỗi năm. Tổn thất vô ích là
mức hỗ trợ giá p = $5,00 mỗi giạ, sản lượng bán ra tăng lên
Qs và sức mua của người tiêu dùng giảm
p, USD mỗi giạ

Cung

A
Hỗ trợ giá

D
B C
Cầu

p = 5.00
F

E G

p1 = 4.59

e
MC

Q1 = 2.1
Qd = 1.9
Qs = 2.2

Không hỗ trợ giá Hỗ trợ giá Thay đổi (Triệu USD)


Qg
Thặ ng dư tiêu dù ng, CS ABC A B  C  864  CS
Thặ ng dư sả n xuấ t, PS EF B C D E F B  C  D  921  PS
Chi tiêu chính phủ ,  X 0 –C  D  F  G C  D  F  G  1,283  X
Phú c lợ i, W  CS  PS  X ABCEF ABEG C  F  G  1,226  W  DWL

Q, Tỷ giạ đậu nành mỗi năm


9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 119

chương trình hỗ trợ giá, trong đó giá cân bằng là p1 = 4,59 USD mỗi giạ và lượng
cân bằng là Q1 = 2,1 tỷ giạ mỗi năm.

Với mức hỗ trợ giá đậu nành p = $5,00 mỗi giạ và cam kết của chính phủ mua
càng nhiều sản lượng mà nông dân muốn bán, số lượng bán ra là Qs = 2,2 tỷ giạ.14
Tại p, người tiêu dùng mua sản lượng ít hơn, Qd = 1,9 tỷ giạ , so với Q1 mà lẽ ra họ
đã mua ở mức giá do thị trường xác định p1. Kết quả là thặng dư tiêu dùng giảm B
+ C = 864 triệu USD. Chính phủ mua Qg = Qs - Qd ≈ 0,3 tỷ giạ mỗi năm, tức là
lượng cung dư thừa, với chi phí T = p * Qg = C + D + F + G = 1,283 tỷ USD.

Chính phủ không thể bán lại sản phẩm trong nước vì nếu cố gắng làm như vậy,
họ sẽ chỉ thành công trong việc giảm giá mà người tiêu dùng phải trả. Chính phủ
lưu trữ sản phẩm hoặc gửi nó ra nước ngoài.

Mặc dù nông dân đạt được thặng dư sản xuất B + C + D = 921 triệu USD,
chương trình này là một cách không hiệu quả để chuyển tiền cho họ. Giả sử rằng
việc mua hàng của chính phủ không có mục đích sử dụng thay thế, thì sự thay đổi
trong phúc lợi là ΔW = ΔCS + ΔPS - T = -C - F - G = -1,226 tỷ USD mỗi năm.15
Khoản lỗ vô ích này phản ánh hai biến dạng trong thị trường này:
Sản xuất dư thừa. Sản lượng được sản xuất ra nhiều hơn lượng tiêu thụ, vì vậy Qg
được lưu trữ, tiêu hủy hoặc vận chuyển ra nước ngoài.

Tiêu dùng kém hiệu quả. Với số lượng họ thực sự mua, Qd, người tiêu dùng sẵn
sàng trả 5 USD cho giạ đậu nành cuối cùng, cao hơn chi phí biên MC = 3,60 USD
để sản xuất giạ đậu nành đó.

Hỗ trợ g i á t h a y t h ế Do hỗ trợ giá, chính phủ đã mua và dự trữ số lượng lớn


thực phẩm, phần lớn trong số đó được phép hư hỏng. Kết quả là, chính phủ bắt đầu
giới hạn số lượng nông dân có thể sản xuất. Bởi vì chính phủ không chắc chắn về số
lượng nông dân sẽ sản xuất nên họ đặt ra hạn ngạch hoặc giới hạn về số lượng đất
mà nông dân có thể sử dụng để hạn chế sản lượng của họ. Ngày nay, chính phủ sử
dụng một chương trình trợ cấp thay thế. Chính phủ quy định giá hỗ trợ, p. Nông dân
quyết định trồng bao nhiêu và bán tất cả sản phẩm của họ cho người tiêu dùng ở
mức giá p, để cân bằng thị trường. Sau đó, chính phủ sẽ cấp cho nông dân một
khoản thanh toán thiếu hụt bằng chênh lệch giữa hỗ trợ và giá thực tế, p - p, cho
mỗi đơn vị bán được, để nông dân nhận được giá hỗ trợ cho toàn bộ vụ mùa của họ.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 120

Giải Những tác động nào lên thị trường đậu nành khi hỗ trợ giá 5
quyết vấn USD/giạ bằng cách sử dụng khoản thanh toán thiếu hụt đối với giá
đề 9.6 và số lượng cân bằng, thặng dư tiêu dùng, thặng dư nhà sản xuất và
tổn thất vô ích?

Trả lời

1. Mô tả chương trình ảnh hưởng như thế nào đến giá và lượng
cân bằng. Nếu không có hỗ trợ giá, trạng thái cân bằng là e1
trong hình, trong đó giá là p1 = 4,59 USD và số lượng là 2,1
tỷ giạ mỗi năm. Với mức giá hỗ trợ là 5$/giạ, điểm cân bằng
mới là e2. Nông dân sản xuất với số lượng ở mức giá đường
hỗ trợ chạm vào đường cung của họ ở mức 2,2 tỷ giạ. Giá
cân bằng là độ cao của đường cầu ở mức 2,2 tỷ giạ, tương
đương khoảng 4,39 USD mỗi giạ. Do đó, giá cân bằng giảm
và lượng tăng.

14Trong phần lớn thập kỷ qua, mức hỗ trợ giá đậu nành là khoảng 5 USD/giạ; tuy nhiên, nó đã tăng lên 6 USD
vào năm 2013.

15Cách đo lường tổn thất vô ích này đánh giá thấp tổn thất thực sự. Chính phủ cũng trả chi phí lưu trữ và quản
lý. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, cơ quan điều hành các chương trình hỗ trợ trang trại, có khoảng 105.000 nhân viên
vào năm 2010, hoặc cứ 8 trang trại thì có một công nhân nhận được hỗ trợ (mặc dù nhiều nhân viên của USDA
có trách nhiệm công việc khác, chẳng hạn như quản lý chương trình phiếu thực phẩm).
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 121

Không hỗ trợ giá Hỗ trợ giá Thay đổi

Thặng dư tiêu dùng, CS AB A BD E D  E  CS

Thặng dư sản xuất, PS DG B C DG B  C  PS

Chi tiêu chính phủ, X 0 B  C  D  E  F B  C  D  E  F  X

Phúc lợi, W  CS  PS  X A B DG AB D G F F  W  DWL

1. Thể hiện các tác động phúc lợi. Bởi vì giá mà người tiêu dùng phải trả giảm từ p1
xuống p2, thặng dư tiêu dùng tăng theo diện tích D + E. Người sản xuất hiện nhận
được p thay vì p1, do đó thặng dư sản xuất của họ tăng B + C. Thanh toán của chính
phủ là chênh lệch giữa giá hỗ trợ, p = $5, và giá mà người tiêu dùng phải trả, p2 =
$4,39, nhân với số lượng đơn vị bán ra, 2,2 tỷ giạ mỗi năm, hay hình chữ nhật B + C +
D + E + F. Vì chi tiêu của chính phủ vượt quá lợi ích mà người tiêu dùng và nhà sản
xuất thu được nên phúc lợi giảm theo tam giác tổn thất vô ích F.16

Ứng dụng Số tiền EU trả cho các doanh nhân ở Serbia-Montenegro để trợ cấp
Trợ cấp trang đường trước khi nhận ra rằng ở đó không có ngành đường:
trại lớn đến
mức nào và ai 1,2 triệu USD. —Chỉ số Harper, 2004
nhận được
Hầu như mọi quốc gia trên thế giới đều trợ cấp cho nông dân của mình.
chúng?
Mặc dù sự hỗ trợ của chính phủ dành cho nông dân đã giảm ở các nước
phát triển trong thập kỷ qua, nhưng sự hỗ trợ vẫn ở mức cao. Nông dân ở
các nước phát triển đã nhận được 252 tỷ USD tiền hỗ trợ trực tiếp cho
nhà sản xuất nông nghiệp (trợ cấp) trong năm 2011, trong đó có 74 tỷ
USD

16So với chương trình hỗ trợ giá đậu nành trong Hình 9.8, phương pháp thanh toán thiếu hụt dẫn
đến tổn thất vô ích nhỏ hơn (ít hơn 1/10 so với ban đầu) và chi tiêu chính phủ thấp hơn (mặc dù
tổng chi tiêu không nhất thiết phải nhỏ hơn).
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 122

ở Liên minh Châu Âu, 31 tỷ USD ở Hoa Kỳ, 7 tỷ USD ở Canada và 5 tỷ USD ở
Nhật Bản.

Các khoản thanh toán này chiếm một tỷ lệ lớn trong doanh số bán trang trại thực
tế ở nhiều quốc gia, trung bình là 19% ở các nước phát triển. Tỷ lệ này dao động từ
58% ở Na Uy, 54% ở Thụy Sĩ, 52% ở Nhật Bản, 18% ở Liên minh châu Âu, 14% ở
Canada, 8% ở Hoa Kỳ, 1,5% ở Úc và chỉ 1% ở New Zealand.

Tổng số tiền hỗ trợ nông nghiệp của Hoa Kỳ là 147 tỷ USD, tương đương 1%
tổng sản phẩm quốc nội của Hoa Kỳ. Mỗi người trưởng thành ở Hoa Kỳ trả 650
USD một năm để hỗ trợ nông nghiệp. Bạn đã nhận được đầy đủ giá trị cho số tiền
của bạn?

Phần lớn trợ cấp trang trại của Hoa Kỳ thuộc về các tập đoàn nông nghiệp lớn
chứ không phải dành cho nông dân nghèo. Theo Nhóm Công tác Môi trường vào
năm 2013, 3/4 số tiền thanh toán thuộc về 10% hoạt động trang trại và chủ đất lớn
nhất và giàu có nhất, trong khi gần 2/3 số nông dân không nhận được khoản thanh
toán trực tiếp nào. Thật vậy, 23 thành viên Quốc hội đã nhận được khoản thanh toán
và 394 triệu USD đã được chuyển đến tay các chủ nhà vắng mặt sống ở các thành
phố lớn.

Tác động phúc lợi của giá trần

Ở một số thị trường, chính phủ đặt ra mức giá trần: mức giá cao nhất mà một
công ty có thể tính một cách hợp pháp. Nếu chính phủ đặt mức trần thấp hơn mức
giá cạnh tranh trước kiểm soát, người tiêu dùng sẽ cầu nhiều hơn lượng cân bằng
trước kiểm soát và các doanh nghiệp cung cấp ít hơn số lượng đó (Chương 2). Thặng
dư của nhà sản xuất phải giảm vì các doanh nghiệp nhận được mức giá thấp hơn và
bán được ít đơn vị hơn.
Do giá trần, người tiêu dùng mua hàng hóa ở mức giá thấp hơn nhưng bị người
bán giới hạn số lượng họ có thể mua. Bởi vì bán được ít hơn so với mức cân bằng
trước khi kiểm soát, xã hội chịu tổn thất vô ích: Người tiêu dùng đánh giá cao hàng
hóa hơn chi phí biên của việc sản xuất thêm đơn vị
Việc đo lường tổn thất vô ích này có thể đánh giá thấp tổn thất thực sự vì hai lý
do. Đầu tiên, vì người tiêu dùng muốn mua nhiều sản phẩm hơn số lượng bán ra nên
họ có thể dành thêm thời gian để tìm kiếm cửa hàng có sản phẩm để bán. Hoạt động
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 123
tìm kiếm này (thường không thành công) là lãng phí và do đó gây thêm tổn thất nặng
nề cho xã hội. Deacon và Sonstelie (1989) tính toán rằng cứ 1 đô la người tiêu dùng
tiết kiệm được nhờ giá thấp hơn do chính sách kiểm soát giá xăng dầu của Hoa Kỳ
vào năm 1973, họ đã mất 1,16 USD thời gian chờ đợi và các yếu tố khác.17
Thứ hai, khi giá trần tạo ra lượng cầu dư thừa, những khách hàng may mắn mua
được hàng hóa có thể không phải là người tiêu dùng đánh giá cao nó nhất. Trong một
thị trường không có trần giá, tất cả người tiêu dùng coi trọng hàng hóa cao hơn giá thị
trường sẽ mua nó, còn những người đánh giá thấp hơn thì không, do đó những người
tiêu dùng đánh giá cao nhất sẽ mua hàng hóa đó. Ngược lại với việc kiểm soát giá
trong đó hàng hóa được bán trên cơ sở ai đến trước được phục vụ trước, người tiêu
dùng đến cửa hàng trước có thể không phải là người tiêu dùng có mức sẵn lòng trả
cao nhất. Với việc kiểm soát giá, nếu một khách hàng may mắn mua được một đơn vị
hàng hóa có mức sẵn lòng trả là p1, trong khi một người không thể mua được nó có
mức sẵn lòng trả là p2 > p1, thì chi phí phân bổ cho xã hội của việc này đơn vị bị bán
nhầm người tiêu dùng là p2 - p1.18

17Ngược lại, kiểu tìm kiếm lãng phí này sẽ không xảy ra nếu hàng hóa được phân phối một cách hiệu quả nhưng không
công bằng cho mọi người theo các tiêu chí phân biệt đối xử như chủng tộc, giới tính hoặc mức độ hấp dẫn, bởi vì những
người đang bị phân biệt đối xử biết rằng việc tìm kiếm là vô nghĩa.
18Chi phí phân bổ này sẽ giảm hoặc loại bỏ nếu tồn tại thị trường bán lại nơi người tiêu dùng đánh giá cao hàng hóa có thể
mua nó từ người tiêu dùng đánh giá thấp hàng hóa nhưng thật may mắn khi có thể mua được nó ngay từ đầu.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 124

Giải quyết Tác động lên trạng thái cân bằng, thặng dư tiêu dùng, thặng dư
vấn đề 9.7
nhà sản xuất và phúc lợi là gì nếu chính phủ đặt ra mức giá trần,
p, dưới mức giá cân bằng cạnh tranh không được kiểm soát?
Trả lời
1. Thể hiển trạng thái cân bằng ban đầu không được điều chỉnh. Giao điểm của đường
cầu và đường cung xác định trạng thái cân bằng cạnh tranh, không được kiểm soát, e1,
trong đó lượng cân bằng là Q1.
2. Hãy chỉ ra mức cân bằng thay đổi như thế nào theo mức giá trần. Bở i vì mứ c giá
trầ n, p, đượ c đặ t dướ i mứ c giá câ n bằ ng củ a p1, nên mứ c giá trầ n sẽ rà ng buộ c
(là m giả m mứ c giá mà ngườ i tiêu dù ng phả i trả ). Ở mứ c giá thấ p hơn nà y, cầ u củ a
ngườ i tiêu dù ng tă ng lên Qd trong khi số lượ ng doanh nghiệp sẵ n sà ng cung cấ p
giả m xuố ng Qs, do đó chỉ có Qs = Q2 đơn vị đượ c bá n ở trạ ng thá i câ n bằ ng mớ i,
e2. Như vậ y, việc kiểm soá t giá là m cho lượ ng và giá câ n bằ ng giả m nhưng ngườ i
tiêu dù ng lạ i có lượ ng cầ u dư thừ a Qd - Qs.
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 125
9.6 Các chính sách tạo ra sự chênh lệch giữa cung và cầu 126

3. Mô tả các tác động phúc lợi. Bởi vì người tiêu dùng có thể mua các đơn vị Q
với giá thấp hơn so với trước khi có sự kiểm soát, nên họ có được diện tích D.
Tuy nhiên, người tiêu dùng sẽ mất thặng dư tiêu dùng C vì họ chỉ có thể mua
các đơn vị Q thay vì các đơn vị sản lượng Q1.

Do đó, người tiêu dùng đạt được thặng dư tiêu dùng ròng D - C. Bởi vì họ
bán ít đơn vị hơn ở mức giá thấp hơn, doanh nghiệp mất thặng dư nhà sản xuất
-D - E. Một phần tổn thất này, D, được chuyển sang người tiêu dùng dưới dạng
giá thấp hơn, nhưng phần còn lại, E, là một tổn thất cho xã hội. Tổn thất vô ích
đối với xã hội ít nhất là ΔW = ΔCS + ΔPS = -C - E.
Ứng dụng Từ năm 1954 đến năm 1989, luật liên bang Hoa Kỳ áp đặt mức
giá trần đối với việc bán khí đốt tự nhiên giữa các bang. Luật này
Chi phí xã hội của không áp dụng cho việc bán hàng tại các bang sản xuất khí đốt ở Tây
giá trần khí đốt tự Nam—chủ yếu là Louisiana, Oklahoma, New Mexico và Texas.
nhiên
Do đó, người tiêu dùng ở Trung Tây và Đông Bắc, nơi phần lớn
khí đốt được sử dụng, ít có khả năng mua được lượng khí đốt tự nhiên
như họ muốn, không giống như người tiêu dùng ở Tây Nam. Bởi vì
họ không thể mua khí đốt tự nhiên, một số người tiêu dùng đáng lẽ
phải làm như vậy đã không lắp đặt hệ thống sưởi bằng khí đốt tự
nhiên. Vì hệ thống sưởi ấm đã tồn tại được nhiều năm nên thậm chí
ngày nay, nhiều gia đình vẫn sử dụng nhiên liệu bẩn hơn như dầu
sưởi do sự kiểm soát giá cả hàng thập kỷ này.

Bằng cách so sánh hành vi của người tiêu dùng trước và sau giai
đoạn kiểm soát, Davis và Kilian (2011) ước tính rằng nhu cầu về
khí đốt tự nhiên vượt quá doanh số khí đốt tự nhiên được quan sát
trung bình là 19,4% từ năm 1950 đến năm 2000. Họ tính toán rằng
chi phí phân bổ trung bình là 3,6 tỷ USD hàng năm. trong nửa thế
kỷ này. Khoản lỗ bổ sung này gần bằng một nửa tổn thất vô ích
hàng năm ước tính từ việc kiểm soát giá 10,5 tỷ USD (MacAvoy,
2000). Tổng thiệt hại là 14,1 USD (= 10,5 USD + 3,6) tỷ USD.19

9.7 So sánh cả hai loại chính sách: Nhập khẩu


Chúng ta đã xem xét các ví dụ về chính sách của chính phủ làm thay đổi
đường cung hoặc đường cầu và các chính sách tạo ra khoảng cách giữa cung
và cầu. Chính phủ sử dụng cả hai loại chính sách này để kiểm soát thương
mại quốc tế.
lại lợi ích cho quốc gia nhập khẩu. Nếu chính phủ giảm nhập khẩu một mặt
hàng, giá nội địa sẽ tăng; lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước sản xuất
hàng hóa đó sẽ tăng, nhưng người tiêu dùng trong nước sẽ bị thiệt hại. Phân
tích của chúng tôi sẽ cho thấy tổn thất cho người tiêu dùng vượt quá lợi nhuận
cho người sản xuất.

Chính phủ của quốc gia nhập khẩu (có khả năng) có thể sử dụng một trong
bốn chính sách nhập khẩu sau:

■ Cho phép tự do thương mại. Bất kỳ công ty nào cũng có thể bán ở nước
này mà không bị hạn chế.

■ Cấm tất cả hàng nhập khẩu. Chính phủ đặt hạn ngạch nhập khẩu bằng 0.

■ Thiết lập hạn ngạch tích cực. Chính phủ hạn chế nhập khẩu xuống còn Q.

■ Đặt thuế quan. Chính phủ áp dụng thuế được gọi là thuế quan (hoặc thuế)
đối với hàng hóa nhập khẩu

Chúng tôi so sánh phúc lợi dưới thương mại tự do với phúc lợi dưới hạn
ngạch và cấm vận, vốn làm thay đổi đường cung, và với phúc lợi dưới thuế
quan, tạo ra khoảng cách giữa cung và cầu.

Để minh họa sự khác biệt về phúc lợi dưới các chính sách khác nhau này,
chúng tôi xem xét thị trường dầu thô của Hoa Kỳ. Chúng tôi đưa ra hai giả
định để đơn giản hóa: Chúng tôi giả định rằng chi phí vận chuyển là bằng
không và đường cung của tiềm năng.

19
Tỷ lệ phần trăm tổn thất vô ích của người tiêu dùng, khu vực C trong hình trong Bài tập đã giải 9.7, là 9,3
tỷ đô la mỗi năm; thị phần của người bán, khu vực E, là 1,2 tỷ đô la; do đó, tổng tổn thất vô ích là 10,5 tỷ đô
la. Người tiêu dùng may mắn mua được xăng sẽ tiết kiệm được 6,9 tỷ đô la từ việc trả giá thấp hơn, đây là
khoản chuyển nhượng từ người bán. Do đó, tổng cộng người tiêu dùng mất 7,0 tỷ đô la ( = 9,3 + 4,6 - 6,9) tỷ
đô la và các doanh nghiệp mất 8,1 tỷ đô la ( = 1,2 + 6,9) tỷ đô la.

Cho phép nhập


khẩu hàng hóa
nước ngoài mang
ngang ở mức giá thế giới p*. Với những giả định này, nước nhập khẩu, Hoa
Kỳ, có thể mua bao nhiêu hàng hóa này tùy ý với giá p* mỗi đơn vị: Đây là
nước tiếp nhận giá trong thị trường thế giới vì nhu cầu của nước này quá nhỏ
để ảnh hưởng đến giá thế giới.

Thương mại tự do so với cấm nhập khẩu


Không có quốc gia nào từng bị hủy hoại bởi thương mại. —Benjamin Franklin

Ngăn chặn nhập khẩu vào thị trường trong nước sẽ làm tăng giá, như
chúng tôi đã minh họa trong Chương 2 cho thị trường gạo Nhật Bản. Trong
Hình 9.9, đường cung nội địa ước tính của Hoa Kỳ, Sa, là dốc lên trên và
đường cung nước ngoài là đường ngang tại thế giới. Giá dầu thô thế giới
trung bình là 93 USD/thùng trong tuần lễ ngày 26 tháng 4 năm 2013. Đường
cung tổng thể của Hoa Kỳ, S1, là tổng hợp theo chiều ngang của đường cung
nội địa và đường cung nước ngoài. Do đó, S 1 giống như đường cung nội địa
dốc lên cho các mức giá dưới 93 USD và là đường ngang ở mức 93 USD. Với
thương mại tự do, Hoa Kỳ nhập khẩu dầu thô nếu giá nội địa của họ khi
không nhập khẩu vượt quá giá thế giới.

Cân bằng thương mại tự do, e1, được xác định bởi giao điểm của S1 và đường
cầu, tại đó giá nội địa bằng giá thế giới, 93 USD, và lượng là 15 triệu thùng
mỗi ngày. Tại mức giá cân bằng, cung nội địa là 7,3, vì vậy nhập khẩu là 7,7
(= 15 - 7,3). Thặng dư người tiêu dùng của Hoa Kỳ là A + B + C, thặng dư
nhà sản xuất của Hoa Kỳ là D và thặng dư tổng thể của Hoa Kỳ là A + B + C
+ D. Trong suốt cuộc thảo luận về thương mại của chúng tôi, chúng tôi bỏ
qua các tác động phúc lợi ở các quốc gia khác.

Nếu nhập khẩu bị cấm, đường cung tổng thể của Hoa Kỳ, S 2, là đường cung
nội địa của Mỹ, Sa. Sự cân bằng đạt được tại e 2, nơi S2 cắt với đường cầu. Giá
cân bằng mới là 218 USD và lượng cân bằng mới, 10,2 triệu thùng mỗi ngày,
được sản xuất trong nước. Thặng dư người tiêu dùng là A, thặng dư nhà sản
xuất là B + D và thặng dư tổng thể là A + B + D.

thất
Hàngdo loại
hóabỏnhập
thương mại tự do
khẩu là đường
ng thế giới là đường ngang ở mức giá thế giới là 93 USD, đường cung tổng thể của
Hoa Kỳ không? Không. Lệnh cấm giúp ích cho các nhà sản xuất dầu thô của
Hoa Kỳ nhưng lại gây thiệt hại cho người tiêu dùng Hoa Kỳ nhiều hơn. Vì giá
cao hơn, các công ty trong nước thu được thặng dư nhà sản xuất là ΔPS = B ≈
$ 1,09 tỷ mỗi ngày. Sự thay đổi trong thặng dư của người tiêu dùng là ΔCS =
- B - C ≈ - $ 1,58 tỷ mỗi ngày. Đó là, người tiêu dùng mất $ 1,45 (= 1,58 /
1,09) cho mỗi $ 1 mà nhà sản xuất thu được từ lệnh cấm. Tổn thất vô ích của
Hoa Kỳ là sự thay đổi trong phúc lợi, ΔW: tổng hợp của lợi ích đối với nhà
sản xuất và thiệt hại đối với người tiêu dùng, ΔW = ΔPS + ΔCS ≈ - $ 481
triệu mỗi ngày hoặc - $ 176 tỷ mỗi năm. Tổn thất vô ích này chiếm 44% (=
0,481 / 1,09) lợi ích đối với nhà sản xuất.

Thương mại tự do và thuế quan

Thuế quan, n. Một bảng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, được thiết kế để
bảo vệ nhà sản xuất trong nước khỏi sự tham lam của khách hàng. - Ambrose
Bierce

Chính phủ sử dụng thuế quan cụ thể — t đô la mỗi đơn vị — và thuế quan
theo giá trị — α phần trăm giá bán. Trong những năm gần đây, thuế quan đã
được áp dụng trên toàn thế giới, phổ biến nhất là đối với các sản phẩm nông
nghiệp.21 Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ thường xuyên tranh luận về
thuế quan tối ưu đối với dầu thô như một cách để tăng thu hoặc giảm “sự phụ
thuộc” vào dầu nước ngoài.

Bạn có thể đang tự hỏi mình, “Tại sao chúng ta phải nghiên cứu thuế quan
nếu chúng ta đã xem xét thuế? Thuế quan không chỉ là một loại thuế khác
sao?” Ý kiến hay! Thuế quan chỉ là thuế. Nếu chỉ bán hàng nhập khẩu, tác
động của thuế quan ở nước nhập khẩu cũng giống như chúng tôi đã trình bày
cho thuế bán hàng. Chúng tôi nghiên cứu thuế quan riêng biệt vì thuế quan
chỉ được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu, vì vậy nó ảnh hưởng đến nhà sản
xuất trong nước và nước ngoài khác nhau.

Lệnh cấm có
giúp ích gì cho
hàng hóa nhập khẩu, tất cả các điều khác đều như nhau, chúng không tạo ra
nhiều thuế hoặc ảnh hưởng đến số lượng cân bằng bằng thuế áp dụng cho tất
cả hàng hóa trong thị trường. De Melo và Tarr (1992) tính toán rằng thuế suất
giá trị gia tăng thêm 15% đối với các sản phẩm xăng dầu sẽ tạo ra doanh thu
thuế cao hơngần năm lần so với thuế nhập khẩu bổ sung 25% đối với dầu và
khí đốt.

20
Tôi đã suy ra các đường cung và cầu tuyến tính này bằng cách sử dụng dữ liệu cho tuần lễ ngày
26 tháng 4 năm 2013 và ước tính độ co giãn cung và cầu của Baumeister và Peersman (sắp tới).
21
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các quốc gia thương mại đã ký Hiệp định chung về
Thuế quan và Thương mại (GATT), hạn chế khả năng trợ cấp xuất khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu
bằng hạn ngạch và thuế quan. Các quy tắc cấm hầu hết các khoản trợ cấp xuất khẩu và hạn ngạch
nhập khẩu, ngoại trừ khi nhập khẩu đe dọa “phá vỡ thị trường” (thuật ngữ này, thật không may,
không được định nghĩa). GATT cũng yêu cầu rằng bất kỳ thuế quan mới nào phải được bù đắp
bằng việc giảm thuế quan khác để bồi thường cho nước xuất khẩu. Các sửa đổi của GATT và các
thỏa thuận được đàm phán bởi người kế nhiệm của nó, Tổ chức Thương mại Thế giới, đã giảm
hoặc loại bỏ nhiều thuế quan.

Để minh họa tác động của thuế quan, giả sử chính phủ áp dụng thuế quan cụ
thể là t = $40 mỗi thùng dầu thô. Với thuế quan này, các công ty sẽ không
nhập khẩu dầu vào Hoa Kỳ trừ khi giá dầu ở Hoa Kỳ ít nhất là $40 so với giá
thế giới, $93. Thuế quan tạo ra một khoảng cách giữa giá thế giới và giá dầu
ở Hoa Kỳ. Thuế quan này khiến đường cung tổng thể chuyển từ S 1 sang S3
trong Hình 9.10. Vì đường cung dầu thế giới là đường ngang ở mức giá 93
USD, nên việc thêm thuế quan 40 USD sẽ dịch chuyển đường cung này lên
trên sao cho nó nằm ngang ở mức 133 USD. Tức là, phần còn lại của thế giới
sẽ cung cấp một lượng dầu không giới hạn ở mức 133 USD bao gồm cả thuế
quan. Do đó, đường cung tổng thể của Hoa Kỳ với thuế quan, S 3, bằng đường
cung nội địa cho các mức giá dưới 133 USD và là đường ngang ở mức 133
USD.

Cân bằng mới, e3, xảy ra tại giao điểm của S 3 với đường cầu. Tại mức cân
bằng này, giá là 133 USD và lượng là 13,3 triệu thùng dầu thô mỗi ngày. Với
Vì thuế quan chỉ mức giá cao hơn này, các công ty trong nước cung cấp 8,1 triệu thùng dầu thô
được áp dụng cho mỗi ngày, vì vậy nhập khẩu là 5,2 (= 13,3 - 8,1) triệu thùng dầu thô mỗi ngày.
Thuế quan bảo vệ các nhà sản xuất Hoa Kỳ khỏi sự cạnh tranh của nước
ngoài. Thuế quan càng lớn, lượng dầu thô nhập khẩu càng ít, do đó giá mà
các công ty trong nước có thể tính càng cao. (Với một thuế quan đủ lớn,
không có gì được nhập khẩu, và giá tăng lên mức không thương mại, 218
USD.) Với thuế quan 40 USD, thặng dư nhà sản xuất của các công ty trong
nước tăng lên khu vực B ≈ $ 308 triệu mỗi ngày.

Vì giá tăng thêm 40 USD, thặng dư người tiêu dùng giảm xuống B + C + D
+ E ≈ $ 566 triệu mỗi ngày. Chính phủ nhận được thu thuế, T, bằng khu vực
D ≈ $ 208 triệu mỗi ngày.

Tổn thất vô ích là C + E = $ 50 triệu mỗi ngày, hoặc $ 18,3 tỷ mỗi năm. 22 Vì
thuế quan không hoàn toàn loại bỏ nhập khẩu, nên tổn thất về tổng thặng dư
nhỏ hơn so với việc cấm nhập khẩu tất cả hàng nhập khẩu.

Chúng ta có thể giải thích hai thành phần của tổn thất vô ích này. Đầu tiên, C
là tổn thất từ việc các công ty trong nước sản xuất 8,1 triệu thùng mỗi ngày
thay vì 7,3 triệu thùng mỗi ngày. Các công ty trong nước sản xuất thêm sản
lượng này vì thuế quan đẩy giá từ 93 USD lên 133 USD. Chi phí sản xuất
thêm 0,8 triệu thùng dầu thô mỗi ngày trong nước là C + G. Nếu người Mỹ
mua dầu này với giá thế giới, chi phí sẽ chỉ bằng G. Do đó, C là chi phí bổ
sung từ việc sản xuất thêm 0,8 triệu thùng dầu thô mỗi ngày trong nước thay
vì nhập khẩu.

Thứ hai, E là tổn thất do tiêu dùng do người tiêu dùng Hoa Kỳ mua quá ít
dầu, 13,3 thay vì 15 triệu thùng mỗi ngày, do sự gia tăng giá do thuế quan.
Người tiêu dùng Hoa Kỳ đánh giá giá trị của sản lượng này là E + H, diện
tích dưới đường cầu của họ giữa 13,3 và 15, trong khi giá trị trên thị trường
quốc tế chỉ là H. Do đó, E là sự khác biệt giữa giá trị ở giá thế giới và giá trị
mà người tiêu dùng Hoa Kỳ đặt cho 1,7 triệu thùng dầu thô thêm này mỗi
ngày.

ình 9.10: Tác động của thuế quan (hoặc hạn Thuế nhập khẩu t = $40 mỗi thùng dầu nhập
gạch) khẩu hoặc hạn ngạch 5,2 triệu thùng mỗi ngày
khiến giá dầu thô của Hoa Kỳ tăng lên $133, cao
hơn $40 so với giá thế giới. Theo thuế quan,
trạng thái cân bằng, e3, được xác định bởi điểm
giao nhau của đường cung tổng thể của Hoa Kỳ S 3 So với thương mại tự do, các nhà sản xuất
và đường cầu D. Theo hạn ngạch, e 3 được xác thu được diện tích B và người tiêu dùng
định bởi khe hở số lượng 5,2 triệu thùng mỗi mất diện tích B + C + D + E từ thuế quan
ngày giữa số lượng được yêu cầu, 13,3 triệu hoặc hạn ngạch. Nếu chính phủ trao
thùng mỗi ngày, và số lượng cung cấp bởi các quyền hạn ngạch cho các nhà sản xuất
công ty trong nước, 8,1 triệu thùng mỗi ngày, với nước ngoài, thì tổn thất trọng lượng là C
giá $133 mỗi thùng. + D + E. Với thuế quan, thu nhập thuế
quan của chính phủ tăng lên D, do đó tổn
thất trọng lượng chỉ là C + E.

Cầu
Sa=S2
p, $ một thùng

A
218 e2

e3
133 S3
t=40 B E
D e1
C
93
S1 Giá Thế Giới
8:1 7:3 13:3
H
Q. Triệu Thùng dầu mỗi ngày

U.S. Thương mại tự do Thuế quan hoặc hạn Thay đổi (triệu đô la)
ngạch của Hoa Kỳ
Dư thừ a ngườ i tiêu dù ng ABCDE A B  C  D  E  566
(CS)
Dư thừ a nhà sả n xuấ t (PS) F BF B  308
Doanh thu thuế quan (T) 0 D (thuế quan) D  208 (thuế quan)

0 (hạ n nghạ ch) 0 (hạ n nghạ ch)

Phú c lợ i từ thuế quan

W  CS  PS  T ABCDEF ABDF C  E  DWL  50

Phú c lợ i từ hạ n ngạ ch

W  CS  PS ABCDEF ABF C  D  E  DWL  258

Thương mại tự do so với hạn ngạch


Tác động của hạn ngạch đối với nhập khẩu tương tự như tác động của thuế quan. Trong Hình
9.10, nếu chính phủ hạn chế nhập khẩu xuống 5,2 triệu thùng mỗi ngày, hạn ngạch ràng buộc vì
7,7 triệu thùng mỗi ngày đã được nhập khẩu theo thương mại tự do. Nếu giá bằng $133, khoảng
cách giữa số lượng được yêu cầu, 13,3 triệu thùng mỗi ngày, và số lượng cung cấp bởi các công
ty trong nước, 8,1 triệu thùng mỗi ngày, là 5,2 triệu thùng mỗi ngày. Do đó, hạn ngạch nhập
khẩu 5,2 triệu thùng mỗi ngày dẫn đến cùng một trạng thái cân bằng, e3, như thuế quan $40.

Với hạn ngạch, lợi ích cho nhà sản xuất trong nước, B, và thiệt hại cho người tiêu dùng, C +
E, tương tự như với thuế quan. Điểm khác biệt chính giữa thuế quan và hạn ngạch là ai

nhận được D. Với thuế quan, chính phủ thu được doanh thu thuế quan bằng diện tích D
Khi sử dụng hạn ngạch, ai nhận được D phụ thuộc vào cách phân bổ hạn ngạch. Hầu hết
các chính phủ sử dụng một trong ba phương pháp để phân bổ hạn ngạch: hạn ngạch có thể là
(1) Được bán hoặc đấu giá, (2) được trao cho các công ty nhập khẩu trong nước, hoặc (3)
được trao cho các công ty xuất khẩu nước ngoài.

Nếu chính phủ tính phí $40 mỗi thùng (hoặc đấu giá hạn ngạch tăng cùng số tiền), họ sẽ
chiếm được diện tích D, vì vậy tác dụng của hạn ngạch và thuế quan là như nhau. Tuy nhiên,
các chính phủ hiếm khi thu phí hoặc đấu giá hạn ngạch.

Nếu chính phủ trao hạn ngạch cho các công ty nhập khẩu trong nước, họ sẽ chiếm được D.
Do đó, phúc lợi trong nước là như nhau với thuế quan và hạn ngạch, nhưng các nhà nhập
khẩu chứ không phải chính phủ chiếm được lợi nhuận với hạn ngạch.

Cuối cùng, nếu chính phủ trao hạn ngạch cho các nhà sản xuất nước ngoài, họ sẽ kiếm
được thêm lợi nhuận chênh lệch giá D vì họ mua hạn ngạch dầu thô, 5,2 triệu thùng mỗi
ngày, với giá thế giới, $93, nhưng bán nó với giá $133. Do đó, tổn thất trọng lượng là C + E
= $50 triệu mỗi ngày với thuế quan nhưng C + D + E = $258 triệu mỗi ngày với hạn ngạch.
Do đó, quốc gia nhập khẩu sẽ tốt hơn khi sử dụng thuế quan hơn là áp dụng hạn ngạch làm
giảm nhập khẩu cùng một lượng nếu quyền hạn ngạch được trao cho người nước ngoài.
Ứng Dụng Cuộc chiến thương mại thuế gà

Khi nào một chiếc van không phải là van? Bỏ cuộc? Câu trả lời là "Khi có thuế gà." Vẫn chưa rõ
ràng? Chào mừng bạn đến thế giới Alice in Wonderland của các cuộc chiến tranh thương mại.

Mấy lần một tháng, Ford Motor Co. chuyển những chiếc xe tải Transit Connect mới tinh từ nhà
máy ở Thổ Nhĩ Kỳ sang Hoa Kỳ, nơi hầu hết đều được giao đến một nhà kho gạch. Tại đó, 65
công nhân xé bỏ cửa sổ sau, ghế sau và dây đai an toàn ghế sau và gửi vải, các bộ phận bằng
thép và kính để tái chế.

Tại sao? Bởi vì bằng cách vận chuyển những chiếc xe tải nhẹ có ghế ngồi, Ford có thể nói với
Hải quan Hoa Kỳ rằng họ đang nhập khẩu toa xe, chủ yếu chở người, thay vì xe tải thương mại,
chủ yếu chở hàng. Lý do Ford quan tâm đến định nghĩa là vì thuế quan nhập khẩu một chiếc xe
tải là 25%, nhưng nó chỉ là 2.5% đối với một chiếc toa xe. Như vậy, bằng cách lắp thêm và sau
đó tháo dỡ ghế ngồi và cửa sổ với chi phí hàng trăm đô la mỗi chiếc xe tải, Ford đã tiết kiệm
được hàng nghìn đô la tiền thuế quan.

Ford đang hợp pháp lách luật một loại thuế quan được áp dụng từ nửa thế kỷ trước, phát sinh
trong một cuộc tranh chấp thương mại. Vào đầu những năm 1960, sau khi các nước châu Âu áp
dụng thuế quan cao đối với gà nhập khẩu từ Hoa Kỳ để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước, Hoa
Kỳ đã trả đũi bằng cách áp dụng thuế nhập khẩu đối với xe tải và xe tải thương mại do nước
ngoài sản xuất, vẫn còn hiệu lực. Nghĩa là thuế quan có thể dẫn đến tổn thất về xã hội vượt quá
cả những thiệt hại trực tiếp của chúng. Trớ trêu thay, ngược lại với chiến lược nhập khẩu lén lút
của Ford có trụ sở tại Hoa Kỳ, các công ty Toyota, Nissan và Honda có trụ sở tại Nhật Bản đã
tránh được thuế quan bằng cách lắp ráp xe tải của họ tại Hoa Kỳ.

Trục lợi
Cho rằng thuế quan và hạn ngạch gây tổn hại cho nước nhập khẩu, tại sao chính phủ
Nhật Bản, Hoa Kỳ và các chính phủ khác lại áp dụng thuế quan, hạn ngạch hoặc các rào
cản thương mại khác?

Lý do là vì các nhà sản xuất trong nước có thể thu được lợi nhuận lớn từ các hành động
của chính phủ như vậy; do đó, họ cần phải tổ chức và vận động chính phủ để ban hành
các chính sách thương mại này. Mặc dù người tiêu dùng nói chung phải chịu những
thiệt hại lớn, nhưng hầu hết các cá nhân tiêu dùng chỉ phải chịu thiệt hại không đáng kể.
Hơn nữa, người tiêu dùng hiếm khi tổ chức vận động hành lang chính phủ về các vấn
đề thương mại. Do đó, ở hầu hết các quốc gia, các nhà sản xuất thường có thể thuyết
phục (nài nỉ, gây ảnh hưởng hoặc hối lộ) các nhà lập pháp hoặc quan chức chính phủ để
hỗ trợ họ, ngay cả khi người tiêu dùng phải chịu những thiệt hại hơn đáng kể.

Nếu các nhà sản xuất trong nước có thể thuyết phục chính phủ áp dụng thuế quan, hạn
ngạch hoặc chính sách khác làm giảm nhập khẩu, họ sẽ thu được thêm thặng dư của nhà
sản xuất (tiền thuê), chẳng hạn như diện tích B trong Hình 9.9 và 9.10. Các nhà kinh tế
học gọi những nỗ lực và chi phí để thu được tiền thuê hoặc lợi nhuận từ các hành động
của chính phủ là tìm kiếm tiền thuê. Nếu các nhà sản xuất hoặc các nhóm lợi ích khác
hối lộ các nhà lập pháp để gây ảnh hưởng đến chính sách, thì việc hối lộ là sự chuyển
giao thu nhập và do đó không làm tăng tổn thất trọng lượng (trừ khi chọn chính sách có
hại). Tuy nhiên, nếu hành vi tìm kiếm tiền thuê này — chẳng hạn như thuê các nhà vận
động hành lang và tham gia vào việc quảng cáo để gây ảnh hưởng đến các nhà lập pháp
— sử dụng hết tài nguyên, thì tổn thất trọng lượng từ thuế quan và hạn ngạch sẽ thấp
hơn mức tổn thất thực sự đối với xã hội. Các nhà sản xuất trong nước có thể chi tiêu tới
mức tăng thặng dư của nhà sản xuất để gây ảnh hưởng đến chính phủ. 23 Thật vậy, một
số nhà kinh tế học cho rằng doanh thu thuế quan của chính phủ được bù đắp hoàn toàn
bởi chi phí hành chính và hành vi tìm kiếm tiền thuê. Nếu vậy (và nếu thuế quan và hạn
ngạch không ảnh hưởng đến giá thế giới), thì tổn thất đối với xã hội từ thuế quan và hạn
ngạch là tất cả sự thay đổi trong thặng dư của người tiêu dùng, chẳng hạn như diện tích
B + C trong Hình 9.9 và diện tích B + C + D + E trong Hình 9.1

Lopez và Pagoulatos (1994) đã ước tính tổn thất trọng lượng và các thiệt hại bổ sung do các hoạt
động tìm kiếm tiền thuê ở Hoa Kỳ trong các sản phẩm thực phẩm và thuốc lá. Họ ước tính rằng
tổn thất trọng lượng (theo đô la năm 2013) là 17,8 tỷ đô la, chiếm 2,6% tổng giá trị tiêu dùng
trong nước của các sản phẩm này. Tổn thất trọng lượng lớn nhất là trong sản xuất sữa và đường,
chủ yếu sử dụng hạn ngạch nhập khẩu để tăng giá trong nước. Lợi ích thu được trong thặng dư
của nhà sản xuất là 64,4 tỷ đô la, tương đương 9,5% tổng giá trị tiêu dùng trong nước, trong khi
thiệt hại cho người tiêu dùng là 84,8 tỷ đô la, tương đương 12,5% tổng giá trị tiêu dùng trong
nước. Chính phủ thu được 2,6 tỷ đô la tiền thuế quan, tương đương 0,4% tổng giá trị tiêu dùng.

Nếu tất cả thặng dư của nhà sản xuất được chi tiêu cho hành vi tìm kiếm tiền thuê, thì tổng thiệt
hại sẽ là 82,3 tỷ đô la, tương đương 12,1% tổng giá trị tiêu dùng, gấp 4,6 lần tổn thất trọng
lượng đơn thuần. Do đó, tùy thuộc vào mức độ tìm kiếm tiền thuê, thiệt hại đối với xã hội nằm
trong khoảng từ tổn thất trọng lượng là 17,8 tỷ đô la đến 82,3 tỷ đô la.

Giải pháp thách thức


Hạn chế nước "Big Dry"

Chúng ta có thể sử dụng phân tích phúc lợi để trả lời các câu hỏi thách thức được đặt ra ở đầu
chương liên quan đến đợt hạn hán lớn của Úc, Big Dry. Liệu xã hội có tốt đẹp hơn hay phúc lợi
cao hơn nếu nó giảm tổng lượng sử dụng nước bằng cách hạn chế sử dụng nước ngoài trời hoặc
tăng giá nước cho tất cả các mục đích sử dụng? Ai là người thắng và ai là người thua?

Chúng tôi sử dụng hình để so sánh tác động phúc lợi của hai chính sách. Đường cầu màu xanh
nhạt là nhu cầu sử dụng nước trong nhà, chẳng hạn như uống nước, tắm và vệ sinh. Không được
hiển thị là đường cầu sử dụng ngoài trời (chẳng hạn như tưới cỏ), mà vì đơn giản, chúng tôi giả
sử là một lượng Q không đổi ở bất kỳ giá nào lên đến p3. Đường cầu tổng thể màu xanh đậm là
tổng số theo chiều ngang của đường cầu trong nhà và đường cầu ngoài trời.

Đợt hạn hán đã khiến đường cung ngắn hạn, dốc đứng dịch chuyển sang bên trái so với vị trí
thông thường của nó. Nó là dọc tại Q1, là số gigaliter nước có sẵn. Nếu chính phủ cho phép giá
cả thỏa mãn thị trường, giá cân bằng là p2, nơi đường cung giao với đường cầu tổng thể. Thay
vào đó, để giữ giá thấp, chính phủ cấm sử dụng nước ngoài trời, vì vậy thị trường giải phóng tại
p1, nơi đường cung giao với đường cầu trong nhà.

Với hạn chế sử dụng nước, cơ quan cấp nước bán nước với giá p1 và thu được doanh thu là p1 *
Q1, bằng diện tích hình chữ nhật C. Thặng dư của người tiêu dùng là diện tích A + B, là diện
tích dưới đường cầu trong nhà trên p1. Như vậy, phúc lợi tổng thể của xã hội là A + B + C.

Ngược lại, nếu không hạn chế sử dụng nước, giá cả là p2. Cơ quan cấp nước thu được doanh
thu bằng B + C + D. Thặng dư của người tiêu dùng là A + E, là diện tích dưới đường cầu tổng
thể trên p2. Nếu, như trong hình, E 7 B, thì ...

gười tiêu dùng lớn hơn nếu không có hạn chế. Phúc lợi tổng thể của xã hội là A + B + C + D + E. Do đó
phúc lợi lên D + E, đó là tổn thất trọng lượng từ hạn chế.

ho phép giá tăng lên đến p2, người tiêu dùng sẽ phân bổ số lượng Q1 gigaliter nước có sẵn cho sử dụng
eo ý muốn của họ, sử dụng Q2 trong nhà và Q1 - Q2 ngoài trời. Nếu sử dụng ngoài trời bị cấm, một
iá trị sử dụng ngoài trời cao hơn p2 sẽ sẵn sàng trả p2 để mua Q1 - Q2 gigaliter nước cho sử dụng ng
i tiêu dùng khác đánh giá giá trị số lượng nước đó cho sử dụng trong nhà giữa p1 và p2 sẽ sẵn sàng bán
c giao dịch như vậy khả thi, xã hội sẽ được hưởng lợi từ các giao dịch này giữa những người tiêu dùn
g lên đến p2, chúng ta sẽ có cùng mức sử dụng nước như khi cho phép các giao dịch của người tiêu dùn

y hại cho những người muốn tưới nước bên ngoài. Chính sách thay thế là tăng giá từ p1 lên p2 gây
g nước trong nhà - đặc biệt là những người nghèo - trừ khi họ được bồi thường về tài chính. Chính p
u thêm từ việc thu phí cao hơn để bồi thường cho những người tiêu dùng nghèo. Grafton và Ward (200
ng dư của người tiêu dùng do hạn chế sử dụng nước ngoài trời ở Úc so với việc cho phép giá tăng để
được mức giảm tương tự về nhu cầu nước trên đường cầu ban đầu, giá phải tăng hơn gấp đôi từ p1 = 1
L) lên p2 = 2,35 đô la Mỹ mỗi kL. Họ ước tính rằng tổn thất trong thặng dư của người tiêu dùng do sử
hay vì điều chỉnh giá là 235 triệu đô la mỗi năm, tương đương khoảng 150 đô la mỗi hộ gia đình, thấp
hóa đơn nước trung bình của hộ gia đình Sydney. Ngoài ra, xã hội phải chịu chi phí phân bổ vì một
rả nhiều hơn những gì họ đang trả

Chương 10: Cân bằng tổng thể và phúc lợi kinh tế


Thách thức: luật chống giá cắt cổ
Sau thảm họa, giá cả có xu hướng tăng. Trung bình giá xăng tăng thêm 46cents mỗi lít xăng sau
trận bão Katrina vào năm 2005 đã tàn phá nhà máy lọc dầu ở bờ Gulf. Chính phủ ở các bang đã
buộc áp dụng luật chống giá cắt cổ để ngăn chặn giá tăng, trong khi giá có thể bị điều chỉnh dễ
dàng bởi các bang bên cạnh. Ví dụ, luật chống giá cắt cổ ở Louisiana có hiệu lực từ khi thống
đốc Bobby Jindal thông báo tin khẩn về vụ tràn dầu vào năm 2010, điều này có thể ảnh hưởng
đến bờ Louisiana.

Thông thường, giá xăng dầu ngay lập tức tăng thêm một vài cent sau trận siêu bão cát vào tháng
10 năm 2012, một vài trạm xăng đã tăng giá bán lẻ lên 135% cao hơn giá bán sỉ. Văn phòng bộ
trưởng bộ tư pháp New York Eric T. Schneiderman đã nhận về hơn 500 lời phàn nàn về việc giá
tăng cắt cổ trong tuần bão. Bộ trưởng bộ tư pháp đã kiện 4 trạm xăng và đặt ra chính sách về
tăng giá cơ hội với 25 trạm xăng khác vào tháng 5 2013

Kể từ 2013, thủ đô của Hoa Kỳ và 34 bang có luật chống tăng giá cơ hội. California, Maine,
New Jersey, Oklahoma, Oregon, and West Virginia đã đặt ra “Phần trăm tăng giá tối đa” trong
việc giá sẽ tăng bao nhiêu sau mỗi đợt thiên tai, khoảng 10-25% của mức giá trước khi xảy ra
thiên tai. 16 bang cấm việc tăng giá vô lý. Connecticut, Georgia, Hawaii, Kentucky, Louisiana,
Mississippi, and Utah có lệnh cấm dứt khoát với việc tăng giá sau mỗi hiểm họa xảy ra

Hầu hết các chính sách trên được thông qua sau các đợt thiên tai. California thông qua chính
sách của họ sau vụ động đất Northridge. Georgia ban hành luật chống tăng giá cơ hội của họ sau
vụ hạn hán kéo dài vào 1994.Tóm lại, cứ mỗi bang sau khi gặp phả thiên tai sẽ có một chính
sách riêng trong khi bang bên cạnh không có.

Tổng thống thông qua luật chống tăng giá cơ hội vì nó phổ biến. Sau khi giá ga ở Katrina tăng,
một cuộc khảo sát thăm dò của ABC News/Washington Post chỉ ra rằng chỉ 16% người tham gia
tin rằng việc tăng giá là chính đáng, 72.7% người tham gia nghĩ rằng “ các công ty dầu và những
người bán ga đang chiếm thế cạnh tranh độc quyền”, 7.4% người tham gia nói rằng cả 2 ý kiến
trên đều đúng và số còn lại hoặc không đưa ra ý kiến hoặc theo 1 trong 2 ý trên.

Ở chương 2, chúng ta sẽ chỉ ra rằng kiểm soát giá toàn cầu có thể mang đến những bất lợi. Tuy
nhiên, liệu việc kiểm soát giá chỉ ảnh hưởng 1 bang mà không ảnh hưởng đến các bang kế bên?
Nó sẽ tác động đến giá và sản lượng bán ra như thế nào ở cả 2 bang? Người mua sẽ được lợi gì
từ những chính sách đó?

Trong trường hợp thiên tai xảy ra, một sự thay đổi trong chính sách của chính phủ hoặc các yếu
tố bất ngờ khác thường sẽ tác động đến giá cân bằng và sản lượng ở ít nhất một thị trường. Để
quyết định sự hiệu quả của một sự thay đổi, chúng ta cần nghiên cứu mối tương quan giữa các
thị trường. Ở chương này, chúng ta sẽ làm rõ số liệu về trạng thái cân bằng của 1 thị trường nhỏ
và trạng thái cân bằng của cả tất cả thị trường.

Chúng ta sẽ tìm hiều cách một xã hội xác định rằng một trạng thái cân bằng cụ thể nào đó là
thực sự cần thiết. Để làm điều đó chúng ta phải trả lời 2 câu hỏi “ Liệu trạng thái cân bằng có
thực sự hiệu quả” và “ Liệu trạng thái cân bằng có thực sự công bằng?”

Trả lời cho câu hỏi trạng thái cân bằng có thực sự hiệu quả, cả tiêu dùng và sản xuất đều hiệu
quả. Sản xuất chỉ thực sự hiệu quả khi và chỉ khi nó không thể sản xuất ra nhiều hơn ở trong
mức giá hiện tại. Tiêu dùng chỉ hiệu quả khi và chỉ khi hàng hóa không thể bị phân phối lại giữa
mọi người do đó ít nhất sẽ có người hưởng lợi và không ai phải chịu thiệt. Trong chương này
chúng ta sẽ chỉ ra cách để quyết định tiêu dùng hiệu quả

Trong khi “ trạng thái cân bằng thực sự hiệu quả” còn là một câu hỏi mang tính khoa học. Nó
hoàn toàn có thể mọi người trong xã hội có thể trả lời câu hỏi về sự hiệu quả.
Về câu trả lời về sự công bằng, xã hội nên đưa ra một đánh giá thực sự giá trị về mỗi người
trong xã hội đều có nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn dự kiến. Một ý kiến phổ biến trong các nền
văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân đó là mỗi cá nhân là tốt nhất và rất hợp lý bởi nó được đánh giá
từ phúc lợi xã hội của mỗi người. Tuy nhiên, để đưa ra một lựa chọn mang tính xã hội về một
vấn đề ảnh hưởng đến nhiều hơn một người, chúng ta phải tiến hành một phép so sánh về quan
hệ nhân sinh, nghĩa là chúng ta phải quyết định thứ con người nhận là quan trọng hơn hay hay
thứ người khác mất đi là quan trọng hơn.Ví dụ, ở chương 9 chúng ta đã thảo luận về việc giá
trần hạ thấp đi tổng phúc lợi điều này đã đưa ra một đánh giá về giá trị rằng lượng cung cầu dư
nên được đo bằng nhau. Những người thiện chí và những người khác có thể phản đổi kịch liệt về
sự công bằng.

Như bước đầu trong nghiên cứu về phúc lợi, rất nhiều nhà kinh tế học sử dụng một tiêu chuẩn về
giá trị được gọi là Pareto principle để đánh giá sự phân phối hàng hóa và dịch vụ khác nhau.
Thông qua quy tắc này, một thay đổi làm cho một người tốt lên mà không phải làm hại ai trở
nên đáng ao ước. Một sự phân bố là Pareto efficient nếu như có sự phân bố lại sẽ lảm ảnh hưởng
đến ít nhất 1 người.

Có lẽ, bạn đồng ý rằng mọi chính sách đến từ chính phủ sẽ làm người dân có lợi là đáng ao ước.
Vậy bạn có đồng ý rằng một chính sách giúp cho một người có lợi mà không ảnh hưởng đến
người khác là đáng ao ước? Còn chính sách giúp 1 nhóm mà không gây thiệt hại đến nhóm khác
thì sao? Nó có vẻ như mọi người sẽ đồng ý đến cách để trả lời câu hỏi trên, chứ không phải là
câu trả lời.

Câu hỏi về sự hiệu quả và sự công bằng luôn được đưa ra dù ở trong một cộng đồng nhỏ, Cứ
cho rằng gia đình bạn sẽ tụ họp vào tháng 11 và mọi người đều muốn bánh bí ngô. Số lượng
bánh bạn có phụ thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi về sự hiệu quả và sự công bằng: “ Làm thế
nào để ta có thể làm một chiếc bánh to nhất có thể với nguyên liệu ta đang có?” và “ Chúng ta sẽ
chia cái bánh như thế nào?” Và có lẽ việc làm thế nào để làm chiếc bánh to nhất có thể sẽ dễ hơn
việc làm thế nào để chia chiếc bánh một cách công bằng.

Những nhà kinh tế thông thường sẽ sử dụng các lý thuyết kinh tế để trả lời câu hỏi khoa học về
sự hiệu quả để làm điều đó mà không cần những đánh giá dựa trên giá trị. Để nghiên cứu câu hỏi
về sự công bằng, họ nên làm những đánh giá dựa trên giá trị, giống cách chúng ta làm những số
liệu về phúc lợi ở chương 9. Ở chương này chúng ta sẽ nghiên cứu nhiều quan điểm hơn về sự
công bằng.

10.1 Trạng thái cân bằng thông thường


Chúng ta đã sử dụng phương pháp phân tích cân bằng cục bộ: một nghiên cứu về trạng thái cân
bằng và sự thay đổi của trạng thái cân bằng ở một thị trường tách biệt. Trong phương pháp cân
bằng cục bộ, chúng ta giữ nguyên giá và sản lượng của một mặt hàng khác, chúng ta đã không
để đến những biến cố trong thị trường này làm ảnh hưởng đến giá và sản lượng cân bằng của thị
trường khác.

Khi điểu này được công bố, phương pháp phân tích cục bộ nghe có vẻ ích kỉ. Dù vậy, nó là
không cần thiết. Giả sử rằng chính phủ đưa ra một mức thuế cho mặt hàng vòng lắc eo. Nếu thuế
hợp lý, nó sẽ ảnh hưởng mạnh đến sản lượng bán ra. Trong khi vòng lắc eo bị đánh thuế quá
nhiều có vẻ sẽ làm ảnh hưởng đến thị trường ô tô, dịch vụ y tế hoặc nước cam. Thật vậy, nó ảnh
hưởng đến cầu của các mặt hàng đồ chơi khác. Do đó một phép phân tích cân bằng cục bộ về
hậu quả của thuế sẽ làm cho chúng ta cảm thấy thuyêt phục nhất. Tìm hiểu về tất cả thị trường
cùng với phân tích thuế này là tốt nhất là không cần thiết mà nó điều tệ nhất là nó có thể gây
tranh cãi.

Đôi khi chúng ta phải dùng phép phân tích cân bằng tổng thể: nghiên cứ về trạng thái cân bằng
được quyết định như thế nào ở tất cả thị trường cùng lúc.Ví dụ, việc phát hiện ra mỏ dầu lớn ở
một đất nước nhỏ sẽ làm tăng thu nhập của người dân nước đó và việc tăng thu nhập sẽ làm ảnh
hưởng đến thị trường của cả nước. Đôi khi các nhà kinh tế mô phỏng lại nhiều thị trường trong
nền kinh tế và tìm ra trạng thái cân bằng chung của tất cả thị trường cùng lúc bằng cách dùng mô
phỏng trên máy tính.

Các nhà kinh tế thường nhìn vào trạng thái cân bằng của một vài thị trường cùng lúc. Chúng ta
có thể tưởng tượng rằng việc đánh thuế vào truyện tranh làm ảnh hưởng đến giá của truyện
tranh, điều này có thể ảnh hưởng đến giá của trò chơi điện tử vì trò chơi điện tử là lựa chọn thay
thế truyện tranh đối với nhiều người. Thế nhưng việc đánh thuế vào truyện tranh không làm ảnh
hưởng đến cầu của máy rửa bát. Do đó, thật hợp lý để tiến hành một cuộc phân tích trên nhiều
thị trường về ảnh hưởng của thuế lên truyện tranh bằng cách nhìn vào thị trường truyện tranh,
trò chơi điện tử và một vài thị trường liên quan như phim và thẻ bài. Và đó được gọi là phân tích
trạng thái cân bằng đa thị trường, nó bao gồm các thị trường liên quan, giống như phân tích
trạng thái cân bằng chung.

Thị trường gần như có liên quan đến nhau nếu như sự gia tăng giá ở một thị trường dẫn đến sự
dịch chuyển của đường cung và cầu của thị trường khác. Giả sử rằng việc đánh thuế vào café
dẫn đến giá café tăng. Giá café tăng dẫn đến đường cầu của trà dịch chuyển sang phải vì trà và
café là hàng hóa thay thế. Giá café tăng cũng làm cho đường cầu của kem dịch chuyển sang trái
vì café và kem là hàng hóa bổ sung.
Tương tự như vậy đường cung ở các thị trường cũng có liên quan đến nhau. Nếu một người
nông dân sản xuất ngô và đậu nành, giá ngô tăng sẽ lảm ảnh hưởng đến lượng ngô mà người
nông dân chọn sản xuất.

Thị trường đôi khi có liên kết với nhau nếu đầu ra của một thị trường là đầu vào của thị trường
khác. Việc tăng giá của bo mạch máy tính sẽ làm cho giá của máy tính tăng.

Do đó, một sự kiện ở một thị trường có thể làm ảnh hưởng đến các thị trường liên quan với
nhiều lý do.Thật vậy, một sự kiện đơn lẻ có thể là sự bắt đầu của một chuỗi những tác động qua
lại lẫn nhau giữa các thị trường.

Phản hồi của các thị trường cạnh tranh


Để diễn tả hiệu ứng lan tỏa trong thị trường, chúng ta nghiên cứu về thị trường ngô và đậu nành
sử dụng đường cung cầu xác định bởi Holt (1992). Người tiêu dùng và nhà sản xuất sử dụng ngô
và đậu nành thay đổi cho nhau nên đường cung và cầu của hai mặt hàng trên là liên quan

đến nhau. Lượng cầu ngô và đậu nành đều phụ thuộc vào giá ngô và đậu nành cùng với vài yếu
tố khác. Tương tự như vậy lượng cung cũng phụ thuộc vào giá.

Chúng ta có thể diễn tả ảnh hưởng của mọt biến cố trong thị trường của cả hai mặt hàng bằng
cách theo dõi một chuỗi các sự việc ở cả hai thị trường. Các bước trên có thể hoàn thành nhanh
chóng hoặc cũng có thể tốn một chút thời gian phụ thuộc vào thời gian phản hồi của người tiêu
dùng và nhà sản xuất.

Đường cung cầu ban đầu của ngô là S0c và D0c cắt nhau ở điểm cân bằng ban đầu e0c. trong
biểu đồ a hình 10.1. Giá của ngô là 2.15$ 1 giạ và lượng ngô là 8.44 tỉ giạ mỗi năm. Đường cung
cầu ban đầu của đậu nành, S0s và D0s cắt nhau ở e0s ở biểu đồ b, giá lúc đó là 4.12$ một giạ và
lượng đậu nành là 2.07 tỉ giạ mỗi năm . Cột đầu tiên ở hình 10.1 cho ta thấy giá và sản lượng
cân bằng của hai mặt hàng.

Giả sử cầu nước ngoài về ngô ở U.S giảm dẫn đến xuất khẩu ngô giảm 10% và tổng cầu của ngô
dịch chuyển từ D0c sang D1c trong biểu đồ a. Điểm cân bằng mới là e1c, tại đây D1c cắt S0c.
Giá của ngô giảm dần 11% về 1.9171$ một giạ, và lượng giảm 2,5% xuống 8.227 tỉ giạ mỗi
năm.

Nếu chúng ta tiến hành phân tích cân bằng cục bộ, chúng ta dừng ở đây. Trong phân tích cân
bằng chung , chúng ta cần tiếp tục tìm hiểu sự thay đổi ở thị trường ngô ảnh hưởng đến thị
trường đậu nành thế nào. Bởi vì sự thay đổi này ban ngay từ đầu làm giá của ngô giảm liên quan
đến giá của đậu nành( vẫn giữ nguyên), người tiêu dùng chuyển sang dùng ngô thay vì đạu nành.
Đường câu đậu nành dịch chuyển sang trái từ D0s sang D2s ở trong biểu đồ b.

Trong trường hợp giá ngô giảm liên quan đến giá của đậu nành, người nông dân sản xuất thêm
đậu nành ở các mức giá: Đường cung của đậu nành dịch chuyển ra phía ngoài S2s. Đường cầu
mới của đậu nành D2s cắt đường cung mới của đậu nành S2s, ở điểm cân bằng mới e2s tại mức
giá 3.8325$ một giạ, giảm 7% và lượng là 2.0514 giạ mỗi năm, giảm nhiều hơn 1%

Hóa ra là, giá đậu nành giảm liên quan đến giá ngô không dẫn đến sự dịch chuyển đường cầu
của ngô nhưng làm dịch chuyển đường cung của ngô, S3c sang bên phải. Điểm cân bằng mới là
e3c, nơi S3c và D1c cắt nhau. Giá giảm xuống 1.9057$ một giạ ngô và lượng xuống còn 8.2613
tỉ giạ mỗi năm.

Hình 10.1 Mối quan hệ của thị trường ngô và đậu bắp
Sự giảm ở trong giá của ngô làm ảnh hưởng đến đường cầu của đậu nanh, D4s, nó dịch chuyển
nhiều hơn về bên trái và đường cung, S4s, dịch chuyển nhiều hơn về bên phải ở trong hình b. Ở
điểm cân bằng mới e4s, D4s và S4s cắt nhau, giá và sản lưởng của đậu nành giảm nhẹ xuống
3.818$ một giạ và 2.0505 tỉ giạ mỗi năm.

Sự tác động qua lại giữa các thị trường tiếp tục, với một sự dịch chuyển nhỏ của đường cung và
cầu. Điểm cân bằng cuối cùng đạt ở điểm không đường cung cầu nào dịch chuyển nữa. Điểm
cân bằng ở hai thị trường là e3c ở trong biểu đồ a và e4s trong biểu đồ b.

Bảng 10.1 Sự điều chỉnh trong thị


trường ngô và đậu nành
NGÔ ĐẬU NÀNH
Bư Giá Lượn Giá Lượn Nếu chúng ta muốn đi tìm hiểu ảnh hưởng trong sự dịch
ớc g g chuyển đường cầu nước ngoài của thị trường ngô, chúng
Ba 2.15 8.44 4.12 2.07 ta cần phân tích cân bằng cục bộ. Theo phương pháp
n phân tích cân bằng cục bộ, giá của ngô giảm 10,8%
đầu xuống 1.9171$. Đối nghịch, trong phân tích cân bằng
(0)
chung, giá giảm 11,4% xuóng 1.905$, ít hơ 1.2cent một
1 1.917 8.227
1 giạ. Do đó phân tích cân bằng cục bộ đã có những sai số
2 3.832 2.051 trong ảnh hưởng về giá khoảng 0.6 điểm phân trăm.
5 4 Tương tự, sản lượng giảm 25% theo phân tích cân bằng
3 1.905 8.261 cục bộ và chỉ 2.1% theo phân tích cân bừng chung. Trong
7 3 thị trường này, độ dốc theo phân tích cân bằng cục bộ là
4 3.818 2.050 nhỏ
5
5 1.905 8.263
08 08
6 3.817 2.050
28 43
.
.
.
. Giải quyết vấn đề 10.1
Cu 1.905 8.263 3.817 2.050
ối 05 18 24 43
ng
Bởi vì rất nhiều người tiêu dùng phải lựa chọn giữa trà và café, phương trình cầu của trà và café
phụ thuộc vào giá của cả 2, Giả sử phương trình đường cầu của trà và café là

Qc = 120 - 2pc + pt,

Qt = 90 - 2pt + pc,

Qc là sản lượng café, Qt là sản lượng trà, pc là giá café, pt là giá của trà. Cả 2 cây trồng trên
được trồng ơ nhiều nơi trên thế giới nên đường cung của chúng không liên quan đến nhau.
Chúng ta giả sử rằng trong ngắn hạn, đường cung không co giãn cho trà và café là Qc=45 và
Qt=30. Tính giá và sản lượng cân bằng. Giả sử rằng trời lạnh làm dịch chuyển trong đường cầu
của café về Qc=30. Vậy yếu tố trời lạnh làm ảnh hưởng đến giá và sản lượng như thế nào?

Trả lời
1.Thay số vào vế phải của phương trình cung cầu của café ta được 120 - 2pc + pt = 45 hay pt =
2pc – 75. Còn thị trường của trà 90 - 2pt + pc = 30 hay pc = 2pt – 60. Cho ta hai phương trình và
hai ẩn, pt và pc.

2.Thay ẩn pt từ phương trình café trừ đi phương trình trà sau khi thu được kết quả là giá của café
thì dùng kết quả đó để tìm giá trà. Bằng cách lấy pt = 2pc - 75 thay pc = 2pt – 60 ta được pc =
4pc - 150 - 60. Giải ẩn pc ta được pc=7. Thay pc=70 vào phương trình café ta được pt = 2pc - 75
= 140 - 75 = 65. Thay các giá trị vừa tìm vào lại phương trình đường cầu, ta được giá cân bằng
đúng bằng giá đã cho: Qc=45 và Qt=30.

3. Lặp lại số liệu Qc=30. Sản lượng cân bằng của thị trường café là 120 - 2pc + pt = 30, hay pt =
2pc – 90. Thay vào phương trình cân bằng của trà, ta được pc = 4pc - 180 - 60, suy ra pc = 240/3
= 80, do đó pt = 2pc - 90 = 70.Từ đây rút ra được giá của café tăng lên 10 và giá của trà tăng lên
5 do tời lạnh, làm giảm sản lượng café đi 15 và sản lượng trà không đổi.

Tiền lương tối thiểu với bảo hiểm không đầy đủ


Chúng ta dùng phân tích cân bằng cục bộ ở chương 2 để thử ảnh hưởng của luật tiền lương thiểu
tác động đến thị trường lao động. Tiền lương tối thiểu làm cho lượng cầu lao động ít hơn lượng
cung lao động. Những người lao động mất việc sẽ không thể tìm việc ở nơi khác, do đó họ tiếp
tục thất nghiệp.

Tuy nhiên, câu chuyện thay đổi ngay lập tức nếu luật tiền lương tối thiểu chỉ bảo vệ lao động ở
một số ngành trong nền kinh tế, như chúng ta sử dụng phân tích cân bằng chung. Trong quá khứ,
luật tiền lương tối thiểu của U.S không bảo vệ lao động ở tất cả các ngành trong nền kinh tế.
Khi tiền lương tối thiểu được áp dụng vào một lĩnh vực được bảo hiểm trong nền kinh tế, tiền
lương tăng sẽ dẫn đến lượng cầu lao động của ngành đó giảm. Người lao động di chuyển từ
ngành được bảo hiểm sang ngành không được bảo hiểm sẽ làm giảm tiền lương của ngành đó đi.
Khi luật tiền lương tối thiểu ở U.S lần đầu được áp dụng vào 1938, một vài nhà kinh tế đã đùa
rằng mục đích của việc này là để duy trì các gia đình nông. Luật tiền lương tối thiểu làm cho lao
động từ các nhà máy và các ngành được bảo hiểm chuyển sang nông nghiệp, ngành mà không có
luật bảo hiểm.

Hình 10.2 cho chúng ta thấy ảnh hưởng của luật tiền lương tối thiểu khi sự bao phủ là chưa
hoàn toàn. Đường tổng cầu, D ở hình c, là tổng ngang của đường cầu cho dịch vụ lao động ở
ngành được bảo hiểm,Dc ở trong hình a, và đường cầu ở ngành không được bảo hiểm,Du ở hình
b. Với sự vắng mặt của luật tiền lương tối thiểu, tiền lương của cả hai ngành là w1, được xác
định bởi điểm cắt của đường tổng cầu,D và đường tổng cung,S. Ở mức lương đó, L1c thời gian
làm việc hàng năm được thuê ở trong ngành được bảo hiểm, L1u là thời gian làm việc hàng năm
được thuê ở trong ngành không được bảo hiểm, và L1=L1c + L1u tổng thời gian làm việc hàng
năm.

Nếu tiền lương tối thiểu của w được áp dụng trong lĩnh vực được bảo hiểm, lao động ở trong
ngành đó giảm xuống L2c. Để xác định tiền lương và lượng lao dộng ở trong ngành không được
bảo hiểm, chúng ta trước hết cần phải xác định có bao nhiêu dịch vụ lao động khả dụng cho
ngành đó.

Bất cứ ai không tìm được việc trong ngành có bảo hiểm chuyển sang ngành không có bảo hiểm.
Đường cung lao động cho ngành không được bảo hiển ở hình b là đường cung dư: lượng cung
thị trường không đáp ửng dược người có nhu cầu ơ trong các ngành khác ở các mức lương khác
nhau. Với luật tiền lương tối thiểu ở trong ngành được bảo hiểm, phương trình cung dư ở ngành
khong được bảo hiểm là

Su(w) = S(w) - Dc(w).


Do đó, cung dư ở trong các ngành không được bảo hiểm, Su(w), trong tổng cung, S(w), ở các
mức lương w trừ đi lượng lao động được sử dụng ở trong ngành được bảo hiểm, L2c=Dc(w).

Giao điểm của Du và Su được xác định la w2, tiền lương mới ở trong ngành không được bảo
hiểm, và L2u, lượng lao động mới. Phân tích cân bằng chung chỉ ra tiền lương tối thiểu làm cho
lao động ở ngành được bảo hiểm giảm đi, lượng lao động ở ngành không được bảo hiểm tăng
nhẹ ở ngành không được bảo hiểm, và tiền lương ở ngành không được bảo hiểm giảm xuống
dưới mức cạnh tranh. Do đó, luật tiền lương tối thiểu với độ bao phủ chưa hoàn toàn tác động
đến mức lương và lao động ở nhiều ngành những không gây ra thất nghiệp.

Khi tiền lương tối ở U.S lần đầu được thông qua vào 1938, chỉ 56% lao động làm việc trong
ngành được bảo hiểm. Hiện nay tiền lương tối thiểu ở nhiều bang cung cấp bảo hiểm không
hoàn toàn.

Hơn 145 thành phố ở U.S và đất nước giờ có lương sinh hoạt tối thiểu, một hình thức mới của
luật tiền lương tối thiểu, ở mức tối thiểu đủ để cho một người lao động có thể sống trên mức
nghèo ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Luật về mức lương đủ sống đưa ra phạm vi bảo hiểm không
đầy đủ, thường chỉ áp dụng cho các nhân viên của chính phủ hoặc các công ty ký hợp đồng với
chính phủ đó.
Giải quyết vấn đề 10.2
2. Cho thấy sự dịch chưởng của cầu lao động trong ngành được bảo hiểm và kết quả của sự dịch
chuyển của đường tổng cầu. Thuế làm cho đường cầu lao động ở ngành được bảo hiểm dịch
chuyển sang trái từ D1c sang D2x. Như đã thấu, đường tổng cầu dịch chuyển vào trong D2.

3.Xác định mức lương cân bằng sử dụng đường tổng cung và tổng cầu, sau đó xác định lao động
ở cả hai ngành. Lao động dịch chuyẻn giưuax các ngành đến khi mức lương mới là bằng nhau ở
cả hai ngành là w2, được xcs định bởi giao điểm của đường tổng cầu mới,D2 và đường tổng
cung,S. Lao động ở trong bàng dược bảo hiểm là L2c, và lao động ở ngành không được bảo
hiểm là L2u.

4.So sánh điểm cân bằng. thuế làm cho tiền lương, tổng lao động và lao đọng ở trong ngành
được bảo hiểm giảm và lao động ở ngành khong được bảo hiểm tăng.

Ứng dụng
Cuộc di dân
Philadenphia và một vài thành phố khác đánh thuế tiền lương, trong khi ở vùng ngoại ô họ
không làm vậy ( hoặc họ đặt ra ở mức thấp hơn). Philadenphia lấy tiền thuế lao đọng của người
dân cho dù làm việc ở trong thành phố hay từ những người dân ở vùng khác làm việc ở thành
phố của họ. Thật không may, Viẹc này đã làm cho mọi người chuyển sang sinh sống và làm việc
ở vùng ngoại ô. Để bù đắp khoản việc mất đi, thành phố đã ban hành chính sách giảm thuế tiền
lương. Trong chính sách, thuế tiền lương của người lao động Philadelphia giảm nhẹ qua thời
gian từ mức 4.96% vào năm 1983 đến 1995 còn 3.924% cho cư dân và 3.495% cho người ở nơi
khác vào 2013

Nghiên cứu được thực hiện ở Philadelphia ước tính rằng nếu như thành phố giảm mức thuế tiền
lương xuống 0.4175 điểm phần trăm, 30500 người nữa sẽ làm việc ở trong thành phố. Giảm thuế
địa phương có hiệu lực hơn là giảm thuế theo pháp luật bởi vì thông thường người lao động sẽ
không rời khỏi đất nước để tránh thuế, những họ sẽ cân nhắc chuyển về ngoại ô. Thật vậy, tốc
độ tăng trưởng ở khu vực ngoại ô của City Line Avenue, chạy dọc biên giới Philadelphia, cao
hơn so với khu vực trong phạm vi thành phố.
Ứng dụng
Chuyến bay đô thị

Philadelphia và một số thành phố khác đánh thuế tiền lương, trong khi các khu vực ngoại ô không (
họ áp dụng mức thuế thấp hơn nhiều). Philadelphia thu thuế tiền lương từ cư dân cho dù họ có làm
trong thành phố hay không và từ những người không cư trú làm việc trong thành phố. Thật không
tình trạng này khiến người dân và việc làm rời khỏi Philadelphia đến các vùng ngoại ô. Để bù đắp
việc mất việc làm như vậy, thành phố đã ban hành chương trình giảm thuế tiền lương dần dần. Trong
chương trình, thuế tiền lương đối với công nhân Philadelphia đã giảm chậm theo thời gian từ mức
nhất là 4,96% vào năm 1983 đến năm 1995 xuống 3,924% đối với cư dân và 3,495% đối với người k
cư trú vào năm 2013. Một nghiên cứu được thực hiện cho Philadelphia ước tính rằng nếu thành ph
thuế tiền lương xuống 0,4175 điểm phần trăm, sẽ có thêm 30.500 người làm việc trong thành phố.
cắt giảm thuế tiền lương địa phương hiệu quả hơn việc cắt giảm liên bang vì nói chung, nhân viê
không rời khỏi đất nước để tránh thuế, nhưng họ sẽ cân nhắc việc chuyển đến vùng ngoại ô. Thật vậ
phát triển đã lớn hơn ở phía ngoại ô của Đại lộ City Line, chạy dọc theo biên giới của Philadelphia, so
phía trong ranh giới thành phố.
10.2 Giao dịch giữa hai người
Thuế quan, hạn ngạch và các hạn chế thương mại khác thường gây thiệt hại cho cả quốc gia nhập khẩ
xuất khẩu (Chương 9). Lý do là cả hai bên tham gia vào một giao dịch thương mại tự nguyện đều hư
lợi từ giao dịch đó hoặc họ sẽ không tham gia giao dịch. Sử dụng mô hình cân bằng chung, chúng t
chứng minh rằng tự do thương mại là hiệu quả Pareto: Sau khi tất cả các giao dịch tự nguyện diễ
chúng tôi không thể phân bổ lại hàng hóa cho một người tốt hơn mà không gây thiệt hại cho người k
Đầu tiên, chúng tôi chứng minh rằng thương mại giữa hai người có tính chất Pareto này. Sau đó, ch
tôi chỉ ra rằng tính chất tương tự cũng áp dụng khi nhiều người giao dịch bằng cách sử dụng thị trư
cạnh tranh.

Số lượng hàng hóa


Giả sử Jane và Denise sống gần nhau trong vùng hoang dã của Massachusetts. Một trận bão tuyế
hoàng ập đến, cô lập họ. Họ phải giao dịch với nhau hoặc chỉ tiêu thụ những gì họ có trong tay.

Cùng nhau, họ có 50 dây củi và 80 thanh kẹo và không có cách nào để sản xuất thêm bất kỳ loại hàn
nào. Tài sản của Jane — số lượng hàng hóa ban đầu của cô ấy — là 30 dây củi và 20 thanh kẹo. T
của Denise là 20 (= 50 - 30) dây củi và 60 (= 80 - 20) thanh kẹo.

Vì vậy, Jane có tương đối nhiều củi hơn, và Denise có tương đối nhiều kẹo hơn. Chúng tôi thể hiện n
tài sản này trong Hình 10.3. Tấm a và b là các sơ đồ đường vô cảm điển hình (Chương 4 và 5) tro
chúng tôi đo dây củi trên trục dọc và thanh kẹo trên trục ngang. Tài sản của Jane là e j (30 dây củi
thanh kẹo) trong panel a, và tài sản của Denise là e d trong panel b. Cả hai panel đều cho thấy đườ
cảm thông qua tài sản.

Nếu chúng ta lấy sơ đồ của Denise, xoay nó và đặt nó lên sơ đồ của Jane, chúng ta sẽ có được hộp
panel c. Loại hình này, được gọi là hộp Edgeworth (đặt theo tên của một nhà kinh tế học người
Francis Ysidro Edgeworth), minh họa cho sự trao đổi giữa hai người có tài sản cố định của hai loại
hóa. Chúng tôi sử dụng hộp Edgeworth này để minh họa một mô hình cân bằng chung trong đó chú
xem xét việc đồng thời trao đổi củi và kẹo.

ản trong hộp Edgeworth (c) Tài sản của họ nằm ở e trong hộp Edgeworth được
hình thành bằng cách kết hợp các panel a và b. Jane
thích các gói hàng trong A và B hơn e. Denise thích các
Chiều cao của hộp Edgeworth đại diện cho 50 dây củi, và chiều dài đại diện cho 80 thanh kẹo, là tài
hợp của Jane và Denise. Gói e cho thấy cả hai tài sản. Đo từ điểm gốc của Jane, 0 j, ở góc dưới cùng
của sơ đồ, chúng ta thấy rằng Jane có 30 dây củi và 20 thanh kẹo tại tài sản e. Tương tự, đo từ điểm g
Denise, 0d, ở góc trên bên phải, chúng ta thấy rằng Denise có 60 thanh kẹo và 20 dây củi tại e.

Thương mại có lợi cho cả hai bên


Jane và Denise có nên giao dịch không? Câu trả lời phụ thuộc vào sở thích của họ, được tóm tắt bở
đường vô cảm của họ. Chúng tôi đưa ra bốn giả định về sở thích và hành vi của họ:

■ Tối đa hóa tiện ích. Mỗi người tối đa hóa tiện ích của mình.

■ Đường vô cảm có hình dạng thông thường. Đường vô cảm của mỗi người có hình dạng lồi th
thường.

■ Không bão hòa. Mỗi người có tiện ích cận biên nghiêm ngặt tích cực cho mỗi loại hàng hóa, vì vậy
người muốn có càng nhiều loại hàng hóa càng tốt (không ai trong số họ bao giờ bão hòa).

■ Không phụ thuộc lẫn nhau. Tiện ích của mỗi người không phụ thuộc vào mức tiêu thụ của ngườ
(không ai trong số họ cảm thấy hài lòng hoặc không hài lòng với mức tiêu thụ của người kia), và
tiêu thụ của người này không gây hại cho người kia (mức tiêu thụ củi của một người không gây
nhiễm khói làm phiền người khác).

ình 10.3 phản ánh những giả định này. Trong bảng a, đường vô cảm của Jane, I 1j, qua điểm tài sản củ
à lồi so với điểm gốc của cô, 0j. Jane vô cảm giữa ej và bất kỳ gói hàng nào khác trên I 1j. Cô thích các
g nằm trên I1j hơn ej và thích ej hơn các điểm nằm dưới I 1j. Panel c cũng cho thấy đường vô cảm của cô
gói hàng mà Jane thích hơn tài sản của cô nằm trong các khu vực tô bóng A và B, nằm trên đường vô
cô, I1j.

ơng tự, đường vô cảm của Denise, I1d, qua tài sản của cô là lồi so với điểm gốc của cô, 0 d, ở góc dưới b
anel b. Đường vô cảm này, I 1d, vẫn là lồi so với 0d trong panel c, nhưng 0d nằm ở góc trên bên phải củ
worth. (Có thể hữu ích khi lật cuốn sách này lại khi xem các đường vô cảm của Denise trong hộp Edgew
một lần nữa, có thể nhiều điểm sẽ rõ ràng hơn nếu cuốn sách được cầm lộn ngược.) Các gói hàng mà D
hơn tài sản của cô nằm trong các khu vực tô bóng B và C, nằm ở phía bên kia đường vô cảm của cô
iểm gốc của cô 0d (trên I1d nếu bạn lật ngược cuốn sách).

i điểm tài sản e trong panel c, cả Jane và Denise đều có thể hưởng lợi từ việc trao đổi. Jane thích cá
trong A và B hơn e, và Denise thích các gói hàng trong B và C hơn e, vì vậy cả hai đều thích các gói h
vực B hơn tài sản của họ tại e.

ả sử họ giao dịch, tái phân bổ hàng hóa từ Gói e sang f. Jane từ bỏ 10 dây củi để lấy thêm 20 thanh kẹ
se từ bỏ 20 thanh kẹo để lấy thêm 10 dây củi. Như Hình 10.4 minh họa, cả hai đều có lợi từ việc trao đổ
Đường vô cảm của Jane I2j thông qua phân bổ f nằm trên đường vô cảm I1j của cô thông qua phân bổ e,
tốt hơn ở f so với ở e. Tương tự, đường vô cảm của Denise I 2d thông qua f nằm trên (nếu bạn cầm cuốn
gược) đường vô cảm I1d của cô thông qua e, vì vậy cô ấy cũng được hưởng lợi từ việc trao đổi.
y giờ họ đã giao dịch với Gói f, Jane và Denise có muốn thực hiện thêm các giao dịch nữa không? Để
hỏi này, chúng ta có thể lặp lại phân tích của mình. Jane thích tất cả các gói hàng trên I 2j, đường vô cả
qua f. Denise thích

Hình 10.4 Đường cong hợp


đồng Kẹo của Denise
80 60 40 0d
Đường cong hợp đồng chứa tất cả 50 g
các phân bổ hiệu quả Pareto. Bất kỳ
gói hàng nào mà đường vô cảm của
Jane tiếp tuyến với đường vô cảm Id0
d Đường cong hợp
của Denise đều nằm trên đường cong đồng

hợp đồng. Tại một gói hàng như vậy, I j4


Id1 e
vì không thể thực hiện thêm giao 30 20
dịch nào, và chúng ta không thể tái Id2
c
phân bổ hàng hóa để làm một trong
Id3 f
hai người tốt hơn mà không gây hại 20 30
cho người kia. Bắt đầu từ tài sản e, B
I j3
b
Jane và Denise sẽ giao dịch sang một I j2
gói hàng trên đường cong hợp đồng I j1

trong khu vực B: các gói hàng giữa b


và c. Bảng hiển thị cách họ sẽ giao
a
Tài trợ, e Buôn bán Mới Phân bổ, f

Kẹo Gỗ Kẹo Gỗ Kẹo Gỗ

Jane 30 20 10 20 20 40

Denise 20 60 10 20 30 40

ả các gói hàng ở trên (khi cuốn sách được cầm ngược) I 2d so với f. Tuy nhiên, cả hai không thích bất
nào khác vì I2j và I2d tiếp tuyến tại f. Cả Jane và Denise đều không muốn giao dịch từ f sang một gói hà
e, nằm dưới cả hai đường vô cảm của họ. Jane rất muốn giao dịch từ f sang c, nằm trên đường vô cảm
của cô I3j, nhưng việc giao dịch như vậy sẽ khiến Denise trở nên tồi tệ hơn vì gói hàng này nằm t
ng vô cảm thấp hơn, I1d

ương tự như vậy, Denise thích b hơn f, nhưng Jane thì không. Do đó, bất kỳ động thái nào từ f cũng sẽ g
cho ít nhất một trong hai người.

do không thể thực hiện thêm bất kỳ giao dịch nào ở một gói như f là do tỷ lệ thay thế cận biên của Jan
của đường vô cảm của cô ấy), MRSj, giữa gỗ và kẹo bằng tỷ lệ thay thế cận biên của Denise, MRS d.
ane là -1/2: Cô ấy sẵn sàng đổi một dây củi lấy hai thanh kẹo. Vì đường vô cảm của Denise tiếp tuyế
g vô cảm của Jane, nên MRSd của Denise cũng phải bằng -1/2. Khi cả hai đều muốn đổi gỗ lấy kẹo vớ
họ không thể đồng ý về các giao dịch tiếp tục.

ợc lại, tại một gói hàng như e, nơi đường vô cảm của họ không tiếp tuyến, MRS j không bằng MRSd.
Denise là -1/3 và MRS j của Jane là -2. Denise sẵn sàng từ bỏ một dây củi để lấy thêm ba thanh kẹo ho
ba thanh kẹo để lấy thêm một dây củi. Nếu Denise đề nghị cho Jane ba thanh kẹo lấy một dây củi, Ja
nhận vì cô ấy sẵn sàng từ bỏ hai dây củi lấy một thanh kẹo. Ví dụ này minh họa rằng các giao dịch c
a khi các đường vô cảm giao nhau vì tỷ lệ thay thế cận biên không bằng nhau.

m lại, chúng ta có thể đưa ra bốn tuyên bố tương đương về phân bổ f:

1. Các đường vô cảm của hai bên tiếp tuyến tại f.


2. Tỷ lệ thay thế cận biên của các bên bằng nhau tại f.
3. Không có thêm giao dịch có lợi cho cả hai bên nào có thể thực hiện tại f.
4. Phân bổ tại f là hiệu quả Pareto: Một bên không thể được cải thiện hơn mà không gây hại cho người k
đường vô cảm cũng tiếp tuyến tại Bundles b, c và d, vì vậy các phân bổ này, giống như f, là hiệu quả P
g cách kết nối tất cả các gói hàng như vậy, chúng ta vẽ đường cong hợp đồng: tập hợp tất cả các gói
quả Pareto. Lý do cho cái tên này là chỉ tại những điểm này, các bên mới không muốn tham gia vào cá
hoặc hợp đồng tiếp tục—những phân bổ này là những hợp đồng cuối cùng. Việc di chuyển khỏi bất k
g nào trên đường cong hợp đồng sẽ gây hại cho ít nhất một người.

ấn đề được giải quyết


.3 Tài sản a và g trong Hình 10.4 có phải là một phần của đường cong hợp đồng không?
Trả lời:

Để chứng minh rằng các gói hàng này là Pareto hiệu quả, hãy chỉ ra rằng không thể thực hiện thêm
dịch nào có lợi cho cả hai bên tại những điểm đó.

Tại phân bổ mà Jane có tất cả mọi thứ, phân bổ g, nằm trên đường cong hợp đồng vì không thể thực
thêm giao dịch nào có lợi cho cả hai bên: Denise không có hàng hóa nào để trao đổi với Jane. Do
chúng ta không thể làm cho Denise tốt hơn mà không lấy hàng từ Jane. Tương tự, khi Denise có t
mọi thứ, a, chúng ta chỉ có thể làm cho Jane tốt hơn bằng cách lấy gỗ hoặc kẹo từ Denise và đưa
Jane.

ả năng thương lượng


với mọi phân bổ nằm ngoài đường cong hợp đồng, đường cong hợp đồng có các phân bổ có lợi cho ít
người.

họ bắt đầu tại điểm tài sản e, Jane và Denise nên giao dịch cho đến khi họ đạt đến một điểm trên đư
hợp đồng nằm giữa các gói hàng b và c trong Hình 10.4. Tất cả các phân bổ trong khu vực B đều có
nhiên, nếu họ giao dịch với bất kỳ phân bổ nào trong B không nằm trên đường cong hợp đồng, thì các
có lợi hơn là có thể vì các đường vô cảm của họ cắt nhau tại phân bổ đó. Họ sẽ kết thúc ở đâu trên đư
hợp đồng giữa b và c?

đó phụ thuộc vào ai là người giỏi mặc cả hơn. Giả sử Jane giỏi mặc cả hơn nhiều. Jane biết rằng càn
nhiều, Denise sẽ càng trở nên tồi tệ hơn và Denise sẽ không đồng ý với bất kỳ giao dịch nào khiến cô
ồi tệ hơn so với cô ấy ở e. Do đó, giao dịch tốt nhất mà Jane có thể thực hiện là giao dịch mà chỉ khiến
hư ở e, đó là các gói hàng trên I 1d. Nếu Jane có thể chọn bất kỳ điểm nào cô ấy muốn dọc theo I 1d, cô ấy
àng trên đường vô cảm cao nhất có thể của mình, đó là Gói c, nơi I 3j chỉ tiếp tuyến với I1 d. Sau giao d
se không tốt hơn so với trước, nhưng Jane lại hạnh phúc hơn rất nhiều.

ng tự như vậy, nếu Denise giỏi mặc cả hơn, thì phân bổ cuối cùng sẽ là b.

3 Trao đổi cạnh tranh


hết các hoạt động giao dịch trên thế giới diễn ra mà không có sự mặc cả trực tiếp giữa mọi ngư
đến cửa hàng để mua một chai dầu gội, bạn đọc giá được đăng trên sản phẩm và sau đó quyết đ
hay không. Bạn có thể chưa bao giờ cố gắng mặc cả với nhân viên bán hàng về giá dầu gội: Bạn là
nhận giá trong thị trường dầu gội.
chúng ta không biết nhiều về cách Jane và Denise mặc cả, tất cả những gì chúng ta có thể nói là họ sẽ gi
một mức phân bổ nào đó trên đường hợp đồng. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chính xác quá trình giao d
ử dụng, chúng ta có thể áp dụng quá trình đó để xác định phân bổ cuối cùng. Cụ thể, chúng ta có thể x
rình giao dịch cạnh tranh để xác định trạng thái cân bằng cạnh tranh trong một nền kinh tế trao đổi thuầ

ong Chương 9, chúng tôi đã sử dụng phương pháp cân bằng một phần để chỉ ra rằng một thước đo phúc
tối đa hóa trong một thị trường cạnh tranh có nhiều giao dịch tự nguyện diễn ra. Bây giờ chúng tôi s
ình cân bằng chung để chỉ ra rằng một thị trường cạnh tranh có hai đặc tính mong muốn (có giá trị tro
kiện khá yếu):

ận thuyết cơ sở thứ nhất về Kinh tế Phúc lợi: Cân bằng cạnh tranh là hiệu quả. Sự cạnh tranh dẫ
ệu quả Pareto—không ai có thể được cải thiện hơn mà không làm cho ai đó tệ hơn—trong tất cả các thị

ận thuyết cơ sở thứ hai về Kinh tế Phúc lợi: Bất kỳ phân bổ hiệu quả nào cũng có thể đạt đượ
tranh. Tất cả các phân bổ hiệu quả có thể đạt được đều có thể thu được bằng trao đổi cạnh tranh, vớ
bổ ban đầu của hàng hóa phù hợp.

ân bằng cạnh tranh


hai người giao dịch, họ không có khả năng xem mình là người chấp nhận giá. Dù thế nào, nếu thị trườn
lượng lớn những người có thị hiếu và thiên phú như Jane's và một số lượng lớn những người có thị hiế
hú như Denise, mỗi người là một người chấp nhận giá trong hai hàng hóa. Chúng ta có thể sử dụng
orth để kiểm tra xem những người chấp nhận giá như vậy sẽ giao dịch như thế nào. Bởi vì họ chỉ có thể
i hàng hóa, mỗi người chỉ cần xem xét giá tương đối của hai hàng hóa khi quyết định có nên giao dịch
Nếu giá của một sợi dây gỗ, pw, là 2 đô la và giá của một thanh kẹo, pc, là 1 đô la, thì một thanh kẹo có
ột nửa so với một sợi dây gỗ: pc / pw = 1. Một cá nhân có thể bán một dây gỗ và sử dụng số tiền đó để
nh kẹo.
phân bổ ban đầu, e, Jane có hàng hóa trị giá 80 đô la = (2 đô la mỗi dây * 30 dây củi) + (1 đô la mỗi th
0 thanh kẹo). Với những mức giá này, Jane có thể giữ tài sản hoặc giao dịch của mình để phân bổ vớ
và không có kẹo, 80 thanh kẹo và không có củi, hoặc bất kỳ sự kết hợp nào ở giữa như đường giá (d
ch) trong bảng a của Hình 10.5 cho thấy. Đường giá là tất cả sự kết hợp của hàng hóa Jane có thể n
ằng cách giao dịch, với tài sản của cô ấy. Đường giá đi qua điểm e và có độ dốc - pc / pw = - 1. Với
e sẽ chọn gói hàng nào? Cô ấy muốn tối đa hóa tiện ích của mình bằng cách chọn gói mà một trong nh
cong thờ ơ của cô ấy, I2, tiếp tuyến với ngân sách hoặc đường giá của cô ấy. Denise muốn tối đa hóa
mình bằng cách chọn một gói theo cách tương tự. Trong một thị trường cạnh tranh, giá cả điều chỉnh
số lượng cung cấp bằng với số lượng yêu cầu. Một nhà đấu giá có thể giúp xác định trạng thái cân b
bán đấu giá có thể đưa ra giá tương đối và hỏi bao nhiêu được yêu cầu và bao nhiêu được chào bán ở
Nếu cầu không bằng cung, đấu giá viên gọi ra

0.5 Cân bằng cạnh tranh

tài trợ ban đầu là e.

Nếu, dọc theo đường giá đối diện với Jane và Denise, pw = $ 2 và pc = $ 1, họ giao dịch đến điểm f,
ng cong thờ ơ của Jane, I2, tiếp tuyến với đường giá và với đường cong thờ ơ của Denise, I2.
hông có đường giá nào khác dẫn đến trạng thái cân bằng. Nếu pw = 1,33 đô la và pc = 1 đô la, Denise m
( = 32 - 20) dây củi với giá này, nhưng Jane chỉ muốn bán 8 ( = 30 - 22) dây. Tương tự, Jane muốn mu
20) thanh kẹo, nhưng Denise muốn bán 17 ( = 60 - 43). Do đó, các mức giá này không phù hợp với
bằng cạnh tranh một mức giá tương đối khác.

cầu bằng cung, giao dịch thực sự diễn ra và cuộc đấu giá dừng lại. Tại một số cảng, tàu đánh cá bán sả
nh bắt được cho người bán buôn cá tại một cuộc đấu giá hàng ngày theo cách này. Bảng a cho thấy rằn
có giá bằng một nửa gỗ thì lượng cầu của mỗi hàng hóa bằng lượng cung. Jane (và mọi người như cô ấ
án 10 dây củi và dùng số tiền đó mua thêm 20 thanh kẹo. Tương tự, Denise (và tất cả những người giốn
n bán 20 thanh kẹo và mua 10 sợi dây bằng gỗ. Như vậy, số lượng gỗ bán ra bằng số lượng mua và lượ
bằng lượng cung. Chúng ta có thể thấy trong hình rằng lượng cầu bằng với lượng cung vì gói tối ưu ch
ại người tiêu dùng đều giống nhau, Gói f.
t kỳ tỷ lệ giá nào khác, lượng cầu của mỗi hàng hóa sẽ không bằng số lượng đã cung cấp. Ví dụ: nếu g
ng đổi ở mức pc = $1 mỗi thanh nhưng giá gỗ giảm xuống pw = 1,33 USD/dây thì đường giá sẽ là dố
độ dốc -pc /pw = -1/1.33 = -3/4 trong bảng b. Với mức giá này, Jane muốn giao dịch với Gói j và Deni
ao dịch với Gói d. Bởi vì Jane muốn để mua thêm 10 thanh kẹo nhưng Denise muốn bán thêm 17 than
ượng lượng cung không bằng lượng cầu nên tỷ lệ giá này không dẫn đến trạng thái cân bằng cạnh tran
ồn lực là e.

u quả của cạnh tranh


g trạng thái cân bằng cạnh tranh, các đường bàng quan của cả hai loại người tiêu dùng tiếp xúc nhau t
ột đường giá. Kết quả là độ dốc (MRS) của đường bàng quan của mỗi người bằng với độ dốc của đườn
đó độ dốc của đường bàng quan bằng nhau:
j = - pc/pw = MRSd.
thay thế cận biên bằng nhau giữa những người tiêu dùng ở trạng thái cân bằng cạnh tranh, do đó trạn
bằng cạnh tranh phải nằm trên đường hợp đồng. Như vậy, chúng tôi đã chứng minh được
h lý thứ nhất của kinh tế học phúc lợi: Mọi trạng thái cân bằng cạnh tranh đều có hiệu quả Pareto.
giác cho kết quả này là mọi người (những người có cùng mức giá) thực hiện tất cả các giao dịch
mà họ muốn trong một thị trường cạnh tranh. Bởi vì không có giao dịch tự nguyện bổ sung nào có th
ên chúng ta không thể làm cho một người nào đó khá hơn mà không làm hại người khác. (Nếu một gia
ông tự nguyện xảy ra, ít nhất một người sẽ bị thiệt hại nặng nề hơn. Một người ăn cắp hàng hóa từ ngư
một sự trao đổi không tự nguyện—lợi ích từ sự thiệt hại của nạn nhân.)

được bất kỳ sự phân bổ hiệu quả nào bằng cách sử dụng cạnh tranh
g số nhiều cách phân bổ hiệu quả Pareto có thể, chính phủ có thể muốn chọn một cách. Liệu nó có thể đ
phân bổ đó bằng cách sử dụng cơ chế thị trường cạnh tranh? Ví dụ trước đây của chúng tôi minh họ
ng thái cân bằng cạnh tranh phụ thuộc vào nguồn lực: sự phân phối của cải ban đầu. Ví dụ, nếu khoản t
đầu nằm trong phần a của Hình 10.5—trong đó Denise có mọi thứ còn Jane không có gì—điểm cân bằn
nh sẽ là a vì không thể thực hiện giao dịch nào.
ó, để cạnh tranh dẫn đến một sự phân bổ cụ thể—chẳng hạn như f—việc giao dịch phải bắt đầu ở m
ốn thích hợp. Nếu nguồn lực của người tiêu dùng là f, một điểm Hiệu quả Pareto, thì đường bàng qua
iếp tuyến với f, do đó không có giao dịch nào xảy ra nữa. Nghĩa là f là điểm cân bằng cạnh tranh. Nhi
ực khác cũng sẽ dẫn đến trạng thái cân bằng cạnh tranh ở f. Phần a cho thấy trạng thái cân bằng cạn
u được là f nếu nguồn vốn là e. Trong hình đó, một đường giá đi qua cả e và f. Nếu nguồn tài trợ là bất k
dọc theo đường giá này – không chỉ e hay f – thì trạng thái cân bằng cạnh tranh là f, bởi vì chỉ tại f cá
àng quan mới tiếp xúc. Tóm lại, bất kỳ gói x hiệu quả Pareto nào cũng có thể đạt được dưới dạng trạn
bằng cạnh tranh nếu khoản tài trợ ban đầu là x. Sự phân bổ đó cũng có thể có được dưới dạng trạng th
g cạnh tranh nếu vốn nằm trên đường giá đi qua x, trong đó độ dốc của đường giá bằng tỷ lệ thay thế biê
đường bàng quan tiếp xúc với x. Vì vậy, chúng tôi đã chứng minh
lý thứ hai của kinh tế học phúc lợi: Bất kỳ trạng thái cân bằng hiệu quả Pareto nào cũng có thể đ
ờ cạnh tranh, với một nguồn vốn thích hợp
lý phúc lợi đầu tiên cho chúng ta biết rằng xã hội có thể đạt được hiệu quả bằng cách cho phép
anh.
lý phúc lợi thứ hai bổ sung thêm rằng xã hội có thể đạt được sự phân bổ hiệu quả cụ thể mà nó ưa
ựa trên những đánh giá về giá trị của nó về sự công bằng bằng cách phân phối lại các khoản tài trợ
h hợp lý.

xuất và Kinh doanh


ến nay cuộc thảo luận của chúng ta vẫn dựa trên nền kinh tế trao đổi thuần túy không có sản xuất.
chúng ta xem xét một nền kinh tế trong đó một lượng cố định của một đầu vào có thể được sử dụng
ất hai loại hàng hóa khác nhau.
ế so sánh
Denise có thể sản xuất kẹo hoặc chặt củi bằng chính sức lao động của mình. Tuy nhiên, họ khác
ố lượng mỗi sản phẩm họ làm ra trong một ngày làm việc.

ng sản xuất biên Jane có thể tạo ra 3 thanh kẹo hoặc 6 sợi dây củi trong một ngày. Bằng cách chia
n cho hai hoạt động, cô ấy có thể tạo ra nhiều cách kết hợp khác nhau giữa hai loại hàng hóa. Nếu α
thời gian cô ấy bỏ ra để làm kẹo trong một ngày và 1 - α là phần cắt gỗ thì cô ấy sản xuất được 3α
o và 6(1 - α) dây gỗ.
ch thay đổi α trong khoảng từ 0 đến 1, chúng ta vạch ra đường thẳng trong phần a của Hình 10.6.
này là đường giới hạn khả năng sản xuất của Jane, PPF j, cho thấy sự kết hợp tối đa giữa gỗ và kẹo
y có thể sản xuất từ một lượng đầu vào nhất định (Chương 7). Nếu Jane làm việc cả ngày bằng
dụng công nghệ tốt nhất hiện có (chẳng hạn như một rìu), cô ấy đạt được hiệu quả trong sản xuất
sự kết hợp hàng hóa trên PPFj. Nếu cô ấy ngồi một chỗ trong ngày hoặc không sử dụng công nghệ
cô ấy sẽ tạo ra sự kết hợp kém hiệu quả giữa gỗ và kẹo bên trong PPFj

huyển đổi cận biên: Độ dốc của đường giới hạn khả năng sản xuất là tỷ lệ chuyển đổi cận biên
Tỷ lệ chuyển đổi cận biên
Hình 10.6 Lợi thế so sánh và đường giới hạn khả năng sản xuất

(a) Đường giới hạn khả năng sản xuất của Jane, PPFj, cho thấy rằng
trong một ngày cô có thể sản xuất được 6 dây củi hoặc 3 chiếc kẹo
thanh hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của cả hai. Tỷ lệ cận biên của cô ấy
của phép biến đổi (MRT) là -2.
(b) Sản phẩm của Denise
đường giới hạn khả năng, PPFd, có MRT là -1/2.
(c) Của họ
Đường giới hạn khả năng sản xuất chung, PPF, có một điểm gấp khúc ở
6 dây củi (do Jane sản xuất) và 6 thanh kẹo (do Denise tạo ra) và lõm về gốc tọa
độ cho chúng tôi biết có thể sản xuất được bao nhiêu gỗ nếu giảm số lượng kẹo
bằng một thanh. Bởi vì PPF của Jane là một đường thẳng có độ dốc -2 nên MRT
của cô ấy là -2 ở mỗi phân tích bổ sung
Denise có thể sản xuất tới 3 sợi dây gỗ hoặc 6 thanh kẹo trong một ngày.
Bảng b hiển thị hàm khả năng sản xuất của cô ấy, PPFd, với anMRT = -
1/2. Do đó, với một ngày làm việc, Denise có thể sản xuất được nhiều
kẹo hơn, và Jane có thể sản xuất được nhiều gỗ hơn, được phản ánh qua
tốc độ biến đổi biên khác nhau của họ.
Tỷ lệ chuyển đổi cận biên cho biết chi phí để sản xuất một hàng hóa
là bao nhiêu so với việc bỏ qua việc sản xuất hàng hóa kia. Người có
khả năng sản xuất hàng hóa với chi phí cơ hội thấp hơn người khác sẽ
có lợi thế so sánh trong việc sản xuất hàng hóa đó. Denise có lợi thế so
sánh trong việc sản xuất kẹo (cô ấy lãng phí ít hơn vào việc sản xuất gỗ
để sản xuất một lượng kẹo nhất định) và Jane có lợi thế so sánh trong
việc sản xuất gỗ.
Bằng cách kết hợp các đầu ra của mình, họ có đường giới hạn khả
năng sản xuất chung PPF trong phần c. Nếu Denise và Jane dành toàn bộ
thời gian để sản xuất gỗ, Denise sản xuất 3 dây và Jane sản xuất 6 dây,
tổng cộng là 9, đó là nơi PPF chung chạm vào trục gỗ. Tương tự, nếu cả
hai cùng sản xuất kẹo thì cùng nhau sản xuất được 9 thanh. Nếu Denise
chuyên làm kẹo và Jane chuyên cắt gỗ thì họ sản xuất ra 6 thanh kẹo và
6 dây gỗ, một sự kết hợp xuất hiện ở điểm gấp khúc trong PPF.
Nếu họ chọn sản xuất một lượng kẹo tương đối lớn và một lượng
gỗ tương đối nhỏ thì Denise chỉ sản xuất kẹo còn Jane sản xuất một ít
kẹo và một ít gỗ. Jane chặt gỗ vì đó là lợi thế so sánh của cô ấy. Tỷ lệ
biến đổi biên ở phần dưới của PPF là Jane, -2, vì chỉ có cô ấy sản xuất cả
kẹo và gỗ.
Tương tự, nếu họ sản xuất ít kẹo, Jane chỉ sản xuất gỗ và Denise
sản xuất một ít gỗ và một ít kẹo, do đó tỷ lệ biến đổi biên ở phần cao
hơn của PPF là của Denise, -1/2. Nói tóm lại, PPF có điểm gấp khúc ở 6
dây gỗ và 6 thanh kẹo và có dạng lõm (lệch so với gốc).

Lợi ích của thương mại


Do sự khác biệt về tỷ lệ biến đổi cận biên, Jane và Denise có thể
hưởng lợi từ một giao dịch. Giả sử Jane và Denise thích ăn gỗ và kẹo với
tỷ lệ bằng nhau. Nếu không buôn bán, mỗi người sản xuất được 2 thanh
kẹo và 2 dây gỗ trong một ngày. Nếu họ đồng ý trao đổi, Denise, người
giỏi làm kẹo, sẽ dành cả ngày để sản xuất 6 thanh kẹo. Tương tự, Jane,
người có lợi thế so sánh trong việc chặt cây, sản xuất được 6 sợi gỗ. Nếu
họ chia đều sản lượng này, mỗi người có thể có 3 dây gỗ và 3 thanh kẹo -
nhiều hơn 50% so với khi họ không giao dịch.
Họ sẽ làm tốt hơn nếu họ giao dịch vì mỗi người đều sử dụng được lợi thế so
sánh của mình. Không có sự trao đổi, nếu Denise muốn có thêm một sợi gỗ, cô
ấy phải bỏ hai thanh kẹo. Việc sản xuất thêm một sợi dây gỗ chỉ khiến Jane tốn
nửa thanh kẹo trong quá trình sản xuất bị bỏ qua. Denise sẵn sàng đổi tối đa hai
thanh kẹo để lấy một sợi dây gỗ, và Jane sẵn sàng đổi số gỗ đó miễn là cô ấy lấy
được ít nhất một nửa thanh kẹo. Vì vậy, một giao dịch cùng có lợi là có thể.
Giải quyết vấn đề 10.4
Đường giới hạn khả năng sản xuất chung của Jane và Denise trong phần c
của Hình 10.6 thay đổi như thế nào nếu họ cũng có thể giao dịch với Harvey,
người có thể sản xuất 5 dây gỗ, 5 thanh kẹo hoặc bất kỳ sự kết hợp tuyến tính
nào giữa gỗ và kẹo trong một ngày ?
Trả lời
1. Mô tả giới hạn khả năng sản xuất của mỗi người. Phần a và b của Hình
10.6 cho thấy đường giới hạn khả năng sản xuất của Jane và Denise. Đường giới
hạn khả năng sản xuất của Harvey là một đường thẳng cắt trục củi tại 5 dây và
trục kẹo tại 5 thanh kẹo (không được thể hiện trong Hình 10.6).
2. Hãy vẽ đường PPF chung, bằng cách bắt đầu từ số lượng trên trục hoành
được sản xuất nếu mọi người đều chuyên về kẹo và sau đó nối các đường giới
hạn khả năng sản xuất của từng cá nhân theo thứ tự lợi thế so sánh trong việc
chặt gỗ. Nếu cả ba đều sản xuất kẹo thì họ sẽ tạo thành 14 thanh kẹo như hình.
Jane có lợi thế so sánh trong việc chặt củi so với Harvey và Denise, còn Harvey
có lợi thế so sánh so với Denise. Do đó, đường giới hạn khả năng sản xuất của
Jane là đường giới hạn đầu tiên (bắt đầu từ phía dưới bên phải), sau đó là đường
giới hạn khả năng sản xuất của Harvey và sau đó là đường giới hạn khả năng sản
xuất của Denise. PPF thu được là lõm về gốc tọa độ. (Nếu chúng ta thay đổi thứ
tự của các đường giới hạn riêng lẻ, đường gấp khúc kết quả nằm bên trong PPF.
Do đó, đường mới không thể là đường giới hạn khả năng sản xuất chung, thể
hiện mức sản xuất tối đa có thể từ các đầu vào lao động sẵn có.)
Số lượng nhà sản xuất Nếu hai cách duy nhất để sản xuất gỗ và kẹo là
phương pháp của Denise và Jane với tỷ lệ biến đổi biên khác nhau, thì đường giới
hạn khả năng sản xuất chung có một điểm gấp khúc duy nhất (phần c của Hình
10.6). Nếu một phương pháp sản xuất khác có tỷ lệ biến đổi biên khác—của
Harvey— được thêm vào, thì đường giới hạn khả năng sản xuất chung có hai điểm
gấp khúc (như trong hình trong Giải bài toán 10.4).
Nếu nhiều doanh nghiệp có thể sản xuất kẹo và củi với tỷ lệ biến đổi biên
khác nhau thì đường giới hạn khả năng sản xuất chung thậm chí còn có nhiều điểm
gấp khúc hơn. Khi số lượng doanh nghiệp trở nên rất lớn, PPF trở thành một đường
cong trơn lõm về phía gốc tọa độ, như trong Hình 10.7.
Vì PPF lõm nên tốc độ biến đổi cận biên giảm (theo giá trị tuyệt đối) khi
chúng ta di chuyển PPF lên. PPF có độ dốc phẳng hơn tại a, trong đó MRT = -1/2,
so với tại b, trong đó MRT = -1. Tại a, việc từ bỏ một thanh kẹo sẽ dẫn đến sản
lượng gỗ tăng thêm nửa dây. Ngược lại, tại b, nơi sản xuất ra tương đối nhiều kẹo
hơn, việc từ bỏ việc sản xuất một thanh kẹo sẽ giải phóng đủ tài nguyên để có thể
sản xuất thêm một sợi gỗ nữa.
Tỷ lệ chuyển đổi biên dọc theo PPF trơn tru này cho chúng ta biết chi phí biên
của việc sản xuất một hàng hóa so với chi phí biên của việc sản xuất hàng hóa kia.
Tỷ lệ chuyển đổi cận biên là số âm của tỷ lệ chi phí biên của việc sản xuất kẹo,
MCc và gỗ, MCw:
MRT=-MCc
Giả sử tại điểm a trong Hình 10.7, chi phí biên của một hãng để sản xuất thêm
một thanh kẹo là 1 USD và chi phí biên để sản xuất thêm một sợi củi là 2 USD.
Kết quả là hãng có thể sản xuất thêm một thanh kẹo hoặc nửa sợi gỗ với chi phí là
1 USD. Tỷ lệ chuyển đổi cận biên là số âm của tỷ lệ chi phí cận biên, -($1/$2) = -
1/2. Để sản xuất thêm một thanh kẹo, hãng phải từ bỏ việc sản xuất nửa dây gỗ.

Hình 10.7 Kết hợp sản phẩm tối ưu


Cơ cấu sản phẩm tối ưu, a, có thể được xác định bằng cách tối đa hóa hữu
dụng của một cá nhân bằng cách chọn cách phân bổ sao cho đường bàng quan tiếp
xúc với đường giới hạn khả năng sản xuất. Nó cũng có thể được xác định bằng
cách chọn sự phân bổ trong đó giá cạnh tranh tương đối, p c /pf, bằng độ dốc của
PPF.

Kết hợp sản phẩm hiệu quả


Xã hội lựa chọn sự kết hợp sản phẩm nào dọc theo PPF? Nếu một người
quyết định kết hợp sản phẩm, người đó sẽ chọn cách phân bổ gỗ và kẹo dọc theo
PPF để tối đa hóa tiện ích của mình. Một người có đường bàng quan trong Hình
10.7 sẽ chọn Phân bổ a, đây là điểm mà PPF chạm vào đường bàng quan I2
Vì I2 tiếp xúc với PPF tại a nên tỷ lệ thay thế biên của người đó (độ dốc của
đường bàng quan I2) bằng tốc độ biến đổi biên (độ dốc của PPF). Tỷ lệ thay thế cận
biên, MRS, cho chúng ta biết người tiêu dùng sẵn sàng từ bỏ một hàng hóa này để
có được một hàng hóa khác bao nhiêu. Tỷ lệ chuyển đổi cận biên, MRT, cho chúng
ta biết chúng ta cần phải từ bỏ bao nhiêu hàng hóa để sản xuất nhiều hàng hóa khác
hơn.
Nếu MRS không bằng MRT, người tiêu dùng sẽ hài lòng hơn với sự kết
hợp sản phẩm khác. Tại phân bổ b, đường bàng quan I 1 cắt PPF nên MRS không
bằng MRT. Tại b, người tiêu dùng sẵn sàng từ bỏ một thanh kẹo để có được một
phần ba dây gỗ (MRS = -1/3), nhưng doanh nghiệp có thể sản xuất một dây gỗ cho
mỗi thanh kẹo không được sản xuất (MRT = -1 ). Vì vậy, tại b, có quá ít gỗ được
sản xuất. Nếu các doanh nghiệp tăng sản lượng gỗ, MRS sẽ giảm và MRT sẽ tăng
cho đến khi chúng bằng nhau tại a, trong đó MRS = MRT = -1/2.
Chúng ta có thể mở rộng lý do này để xem xét sự lựa chọn kết hợp sản
phẩm của tất cả người tiêu dùng cùng một lúc. Tỷ lệ thay thế cận biên của mỗi
người tiêu dùng phải bằng tỷ lệ chuyển đổi cận biên của nền kinh tế, MRS = MRT,
nếu nền kinh tế muốn sản xuất hỗn hợp hàng hóa tối ưu cho mỗi người tiêu dùng.
Làm thế nào chúng ta có thể đảm bảo rằng điều kiện này được áp dụng cho tất cả
người tiêu dùng? Một cách là sử dụng thị trường cạnh tranh.

Cuộc thi
Mỗi người tiêu dùng chấp nhận giá chọn một gói hàng hóa sao cho tỷ lệ
thay thế cận biên của người tiêu dùng bằng với độ dốc của đường giá của người
tiêu dùng (âm của giá tương đối):
−pc
MRS= pw

Vì vậy, nếu tất cả người tiêu dùng phải đối mặt với mức giá tương đối như
nhau, trong trạng thái cân bằng cạnh tranh, tất cả người tiêu dùng sẽ mua một gói
hàng có tỷ lệ thay thế biên của họ bằng nhau (Công thức 10.1). Bởi vì tất cả người
tiêu dùng đều có tỷ lệ thay thế biên như nhau nên không thể thực hiện thêm giao
dịch nào nữa. Do đó, trạng thái cân bằng cạnh tranh đạt được hiệu quả tiêu dùng:
Chúng ta không thể phân phối lại hàng hóa giữa những người tiêu dùng để làm cho
người tiêu dùng này được lợi hơn mà không gây tổn hại cho người tiêu dùng khác.
Nghĩa là, điểm cân bằng cạnh tranh nằm trên đường hợp đồng.
Nếu kẹo và gỗ được bán bởi các hãng cạnh tranh, mỗi hãng sẽ bán một
lượng kẹo mà giá của nó bằng với chi phí cận biên,
pc = MCc, (10.4)
và số lượng gỗ mà giá và chi phí biên của gỗ bằng nhau,
pw = MCw. (10.5)
Lấy tỉ số của phương trình 10.4 và 10.5, chúng ta thấy rằng trong cạnh
tranh, pc /pw = MCc /MCw. Từ phương trình 10.2, chúng ta biết rằng tốc độ biến
đổi biên bằng -MCc /MC w, do đó
MRT= - pc/ pw . (10.6)
Chúng ta có thể minh họa tại sao các doanh nghiệp muốn sản xuất theo
phương trình 10.6. Giả sử rằng một hãng đang sản xuất ở mức b trong Hình 10.7,
trong đó MRT của nó là -1, và pc = $1 và pw = $2, vì vậy -pc /pw = -1/2. Nếu công
ty giảm sản lượng đi một thanh kẹo, họ sẽ mất 1 đô la tiền bán kẹo nhưng kiếm
được thêm 2 đô la từ việc bán thêm dây gỗ, với mức lãi ròng là 1 đô la. Vì vậy, tại
b, nơi MRT < -pc /pw, hãng nên giảm sản lượng kẹo và tăng sản lượng gỗ. Ngược
lại, nếu doanh nghiệp đang sản xuất ở mức a, trong đó MRT = -p c /pw = -1/2, thì
doanh nghiệp đó không có động cơ để thay đổi hành vi của mình: Lợi ích thu được
từ việc sản xuất thêm một ít gỗ sẽ bù đắp chính xác cho khoản lỗ do sản xuất một ít
gỗ. ít kẹo hơn Kết hợp các phương trình 10.3 và 10.6, chúng ta thấy rằng ở trạng
thái cân bằng cạnh tranh, MRS bằng giá tương đối, bằng MRT:
MRS = - pc/ pw = MRT.
Bởi vì cạnh tranh đảm bảo rằng MRS bằng với MRT, trạng thái cân bằng
cạnh tranh đạt được sự kết hợp sản phẩm hiệu quả: Tốc độ mà các doanh nghiệp có
thể chuyển đổi hàng hóa này thành hàng hóa khác bằng tốc độ mà người tiêu dùng
sẵn sàng thay thế giữa các hàng hóa, được phản ánh bằng sự sẵn lòng của họ thanh
toán cho hai hàng hóa.
Bằng cách kết hợp đường giới hạn khả năng sản xuất và hộp Edgeworth,
chúng ta có thể chỉ ra trạng thái cân bằng cạnh tranh trong cả sản xuất và tiêu dùng.
Giả sử các doanh nghiệp sản xuất 50 dây củi và 80 thanh kẹo ở mức a trong Hình
10.8. Kích thước của hộp Edgeworth—lượng gỗ và kẹo tối đa có sẵn cho người
tiêu dùng—được xác định theo điểm a trên PPF.
Giá mà người tiêu dùng trả phải bằng giá mà nhà sản xuất nhận được, do đó
đường giá mà người tiêu dùng và nhà sản xuất phải đối mặt phải có cùng độ dốc -p c
/pw. Ở trạng thái cân bằng, các đường giá tiếp xúc với đường bàng quan của mỗi
người tiêu dùng tại f và với PPF tại a.
Trong trạng thái cân bằng cạnh tranh này, cung bằng cầu ở tất cả các thị
trường. Người tiêu dùng mua hỗn hợp hàng hóa tại f. Những người tiêu dùng như
Jane, có nguồn gốc 0j , ở phía dưới bên trái, tiêu thụ 20 dây củi và 40 thanh kẹo.
Những người tiêu dùng như Denise, có nguồn gốc ở phía trên bên phải của hộp
Edgeworth, tiêu thụ 30 (= 50 - 20) dây củi và 40 (= 80 - 40) thanh kẹo.
Hai kết quả then chốt liên quan đến cạnh tranh vẫn còn tồn tại trong nền kinh
tế có sản xuất. Thứ nhất, trạng thái cân bằng cạnh tranh là hiệu quả Pareto, đạt
được hiệu quả trong tiêu dùng và cơ cấu sản lượng. Thứ hai, bất kỳ sự phân bổ
hiệu quả Pareto cụ thể nào giữa người tiêu dùng đều có thể đạt được thông qua
cạnh tranh, với điều kiện là chính phủ lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp.

330 CHƯƠNG 10 Cân bằng chung và phúc lợi kinh tế


Hình 10.8 Cân bằng cạnh tranh
Ở trạng thái cân bằng cạnh tranh, giá tương đối của các công ty và khuôn mặt
của người tiêu dùng giống nhau (các đường giá song song), vì vậy MRS = -pc /pw =
MRT.
giữa người tiêu dùng có thể đạt được thông qua cạnh tranh, với điều kiện là
chính phủ lựa chọn một nguồn tài trợ phù hợp.
10.5 Hiệu quả và Công bằng
Các thành viên khác nhau trong xã hội sống tốt như thế nào phụ thuộc vào
cách xã hội giải quyết vấn đề hiệu quả (quy mô của chiếc bánh) và sự công
bằng (cách chia chiếc bánh). Kết quả thực tế phụ thuộc vào sự lựa chọn của cá
nhân và hành động của chính phủ Bằng cách thay đổi hiệu quả sản xuất và
phân phối hàng hóa và nguồn tài nguyên, chính phủ giúp xác định số lượng
được sản xuất và hàng hóa được phân bổ như thế nào. Bằng cách phân phối lại
tài sản hoặc bằng cách từ chối làm như vậy, các chính phủ, ít nhất là ngầm
hiểu, đang đưa ra những đánh giá có giá trị về việc thành viên nào của xã hội
sẽ nhận được tương đối nhiều hơn những điều tốt đẹp của xã hội.
Hầu như mọi chương trình, thuế hoặc hành động của chính phủ đều nhằm
tái phân phối của cải. Tiền thu được từ một cuộc xổ số ở Anh, chủ yếu được
chơi bởi những người có thu nhập thấp, ủng hộ “người giàu” người tham dự
Nhà hát Opera Hoàng gia ở Covent Garden. Hỗ trợ giá nông sản chương trình
(Chương 9) phân phối lại của cải cho nông dân từ những người nộp thuế
khác. Thu nhập thuế (Chương 5) và các chương trình phiếu thực phẩm
(Chương 4) phân phối lại thu nhập từ người giàu đến người nghèo

10.5 Hiệu quả và Công bằng


ứng dụng
sự giàu có và thu nhập của 1%
Ở hầu hết các nước, những người giàu nhất kiểm soát phần lớn tài sản,
nhưng mức độ bất bình đẳng rất khác nhau trên toàn thế giới. 1% người lớn
giàu nhất— hầu hết họ sống ở Châu Âu và Hoa Kỳ—sở hữu 40% tài sản toàn
cầu, 2% giàu nhất sở hữu 51%, 5% giàu nhất sở hữu 71% và 10% giàu nhất
chiếm 85% (Davies và cộng sự, 2007). Ngược lại, nửa dưới của số người lớn
trên thế giới sở hữu chỉ 1% tài sản toàn cầu.
Kể từ khi Hoa Kỳ được thành lập, những thay đổi trong nền kinh tế đã làm
thay đổi phần tài sản quốc gia do 1% người Mỹ giàu nhất nắm giữ (xem
hình). A hàng loạt thay đổi xã hội – đôi khi xảy ra trong hoặc sau chiến tranh
và thường được hệ thống hóa thành luật mới – đã ảnh hưởng lớn đến sự phân
phối của cải. Ví dụ, việc giải phóng nô lệ vào năm 1863 đã mang lại khối tài
sản khổng lồ—sức lao động của người trước đây nô lệ—từ những chủ đất
giàu có ở miền Nam đến những nô lệ nghèo được tự do.
Phần tài sản - tổng tài sản sở hữu - được nắm giữ bởi 1% người giàu nhất
nói chung tăng cho đến cuộc Đại suy thoái, giảm dần vào giữa những năm
1970 và đã tăng lên đáng kể kể từ đó. Vì vậy, sự tập trung của cải lớn nhất xảy
ra ở 1929 trong thời kỳ Đại suy thoái và ngày nay, sau cuộc Đại suy thoái.
Một chìa khóa Nguyên nhân của sự tập trung tài sản gia tăng gần đây là do
mức thuế thu nhập cao nhất giảm từ 70% xuống dưới 30% vào thời kỳ đầu của
chính quyền Reagan, chuyển gánh nặng thuế nhiều hơn sang tầng lớp trung
lưu
Năm 2007, tài sản của Mỹ được chia đều cho 1% người giàu nhất người
(33,8%), 9% tiếp theo (37,7%) và 90% dưới cùng (31,5%). Cùng khổ một nửa
chỉ sở hữu 2,5% tài sản. Tuy nhiên, chỉ ba năm sau, vào năm 2010, phân phối
thậm chí còn bị lệch đáng kể hơn: 1% giàu nhất có 34,5% mức độ giàu có, 9%
tiếp theo có 40%, 90% dưới cùng sở hữu 25,5% và phần dưới cùng một nửa
chỉ có 1,1%. Thật vậy, cứ bốn hộ gia đình thì có một hộ có tài sản ròng bằng 0
hoặc âm. 1% hộ gia đình giàu nhất nước Mỹ có tài sản ròng cao gấp 225 lần
hơn giá trị tài sản ròng trung bình hoặc điển hình của một hộ gia đình năm
2009 - tỷ lệ lớn nhất trong lý thuyết của ông. Theo Edward Wolff, 1% người
giàu nhất có tài sản từ 9 triệu USD trở lên.
Nếu thu nhập được phân bổ đều thì tỷ lệ phần thu nhập mà người dân nắm
giữ 10% “giàu nhất” so với 10% “nghèo nhất” sẽ bằng 1. Thay vào đó, theo
Thống kê của Liên hợp quốc năm 2008, 10% người có thu nhập cao nhất có
thu nhập gấp 168 lần thu nhập của 10% người có thu nhập thấp nhất ở Bolivia,
gấp 72 lần ở Haiti, 25 lần ở Mexico, 16 lần ở Hoa Kỳ Hoa Kỳ, 14 lần ở
Vương quốc Anh, 9 lần ở Canada và 5 lần ở Nhật Bản.
Trong 30 năm qua, tỷ trọng thu nhập - thu nhập hiện tại - của 1% người giàu
nhất tăng gấp đôi ở Hoa Kỳ và nhiều nước nói tiếng Anh khác, nhưng lại tăng
lên ít hơn ở Pháp, Đức và Nhật Bản (Alvaredo và cộng sự, 2013). Sự phân phối
thu nhập của Hoa Kỳ có độ lệch rất lớn, nhưng ít hơn sự phân phối của cải.
Năm 2011, 1% người giàu nhất Những người có thu nhập ở Hoa Kỳ (kiếm
được hơn 367.000 USD mỗi năm) kiếm được 19,8% tổng thu nhập, trong khi
9% tiếp theo có 28,4%, do đó 10% người có thu nhập cao nhất (trên 111.000
USD mỗi năm) đã chiếm được 48,2% tổng thu nhập (Saez, 2013).8 Năm 2012,
một giám đốc điều hành (CEO) điển hình của S&P 500 kiếm được gấp 354 lần
mức trung bình của một công nhân Mỹ. Nghĩa là, CEO kiếm được vào ngày
đầu năm gần bằng số tiền mà một công nhân bình thường kiếm được trong cả
năm.

CHƯƠNG 10 Cân bằng chung và phúc lợi kinh tế


Tỷ trọng tài sản của 1% người giàu nhất

Hiệu quả
Nhiều nhà kinh tế và các nhà lãnh đạo chính trị đưa ra đánh giá giá trị rằng
các chính phủ nên sử dụng nguyên tắc Pareto và ưu tiên phân bổ theo đó ai đó
được thực hiện tốt hơn nếu không có ai khác bị tổn hại. Nghĩa là, chính phủ nên
cho phép tự nguyện mại, khuyến khích cạnh tranh và mặt khác cố gắng ngăn
chặn các vấn đề làm giảm hiệu quả.

Chúng ta có thể sử dụng nguyên tắc Pareto để xếp hạng phân bổ hoặc chính
sách của chính phủ thay đổi phân bổ. Tiêu chí Pareto xếp hạng phân bổ x trên
phân bổ y nếu một số mọi người sẽ được lợi hơn ở x và không ai khác bị tổn
hại. Nếu điều kiện đó được đáp ứng, chúng ta nói x là Pareto tốt hơn y.

Nguyên tắc Pareto không phải lúc nào cũng có thể được sử dụng để so sánh
việc phân bổ. Nếu xã hội đang đối mặt với nhiều khả năng phân bổ đạt hiệu quả
Pareto, nó phải đưa ra đánh giá về giá trị dựa trên sự so sánh giữa các cá nhân để
lựa chọn giữa chúng. Vấn đề so sánh giữa các cá nhân thường nảy sinh khi
chúng ta đánh giá các chính sách khác nhau của chính phủ. Nếu cả hai

10.5 Hiệu quả và Công bằng


phân bổ x và phân bổ y đều hiệu quả Pareto, chúng ta không thể sử dụng tiêu
chí này để xếp hạng họ. Ví dụ: nếu Denise có tất cả hàng hóa trong x và Jane có
tất cả hàng hóa trong y, chúng ta không thể xếp hạng các phân bổ này bằng quy
tắc Pareto. Giả sử rằng khi một quốc gia chấm dứt lệnh cấm nhập khẩu và
cho phép thương mại tự do, người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi gấp nhiều
lần so với những gì người sản xuất trong nước bị thiệt. Tuy nhiên, sự thay đổi
chính sách này không đáp ứng được tiêu chí hiệu quả Pareto mà ai đó đang trở nên
khá hơn mà không có ai phải chịu đau khổ. Tuy nhiên, chính phủ có thể áp dụng
một chính sách phức tạp hơn đáp ứng tiêu chí Pareto. Vì người tiêu dùng được
hưởng lợi từ nhiều hơn những gì người sản xuất phải gánh chịu, chính phủ có thể
thu đủ lợi nhuận từ việc miễn phí thương mại từ người tiêu dùng để bồi thường
cho người sản xuất để không ai bị tổn hại và một số hoặc tất cả mọi người đều
được hưởng lợi.
Tuy nhiên, chính phủ hiếm khi sử dụng các chính sách theo đó người thắng trợ
cấp cho người thua. Nếu như sự trợ cấp như vậy không xảy ra, những đánh giá có
giá trị bổ sung liên quan đến các cá nhân phải so sánh trước khi quyết định có áp
dụng chính sách hay không.

Chúng ta đang sử dụng thước đo phúc lợi, W = thặng dư tiêu dùng + thặng dư
nhà sản xuất, cân nhắc lợi ích và tổn thất đối với người tiêu dùng và nhà sản xuất
như nhau. Trên cơ sở tiêu chí so sánh giữa các cá nhân cụ thể đó, nếu lợi ích cho
người tiêu dùng lớn hơn thiệt hại cho người sản xuất thì cần phải thay đổi chính
sách.

Vì vậy, việc kêu gọi thay đổi chính sách dẫn tới phân bổ Pareto-vượt trội là
một biện pháp yếu hơn. hơn là kêu gọi tất cả các thay đổi chính sách làm tăng biện
pháp phúc lợi W. Bất kỳ thay đổi chính sách dẫn đến phân bổ Pareto-vượt trội
phải tăng W; Tuy nhiên, một số thay đổi chính sách làm tăng W không vượt trội
Pareto: Một số người thắng và một số thua

Công bằng
Nếu chúng ta không muốn sử dụng nguyên tắc Pareto hoặc nếu tiêu chí đó
không cho phép chúng ta để xếp hạng các phân bổ có liên quan, chúng tôi phải
đưa ra các đánh giá giá trị bổ sung để xếp hạng những sự phân bổ này. Một cách
để tóm tắt những đánh giá về giá trị này là sử dụng mô hình phúc lợi xã hội chức
năng kết hợp các tiện ích khác nhau của người tiêu dùng để cung cấp xếp hạng
chung của việc phân bổ. Nói một cách lỏng lẻo, hàm phúc lợi xã hội là hàm hữu
dụng đối với xã hội.

Chúng tôi minh họa việc sử dụng hàm phúc lợi xã hội bằng nền kinh tế trao đổi
thuần túy trong đó Jane và Denise buôn bán gỗ và kẹo. Đường cong hợp đồng
trong Hình 10.4 bao gồm nhiều phân bổ hiệu quả Pareto có thể. Mức hữu dụng
của Jane và Denise thay đổi dọc theo đường cong hợp đồng. Hình 10.9 thể hiện
đường giới hạn khả năng hữu ích (UPF): tập hợp các mức tiện ích tương ứng với
phân bổ hiệu quả Pareto dọc theo đường cong hợp đồng Điểm a trong bảng a
tương ứng với điểm cuối của đường cong hợp đồng tại đó Denise có tất cả hàng
hóa và c tương ứng với sự phân bổ mà Jane có tất cả hàng hóa.
Các đường cong có nhãn W1, W2 và W3 trong phần a là các đường đẳng lợi
dựa trên chức năng phúc lợi xã hội. Những đường cong này tương tự như những
đường bàng quan của cá nhân.

Họ tóm tắt tất cả các khoản phân bổ với mức phúc lợi giống nhau. Xã hội
tối đa hóa phúc lợi của nó tại điểm b.

Ai quyết định hàm phúc lợi? Ở hầu hết các nước, các nhà lãnh đạo chính
phủ đưa ra quyết định về việc phân bổ nào là mong muốn nhất. Những quan chức
này có thể tin rằng việc chuyển tiền từ người giàu sang người nghèo sẽ làm tăng
phúc lợi, hoặc ngược lại ngược lại. Khi các quan chức chính phủ lựa chọn một sự
phân bổ cụ thể, họ ngầm hoặc đánh giá rõ ràng người tiêu dùng nào tương đối
xứng đáng và do đó sẽ nhận được nhiều hàng hóa hơn những hàng hóa khác.

Bỏ phiếu Trong một nền dân chủ, các chính sách quan trọng của chính phủ
nhằm xác định việc phân bổ hàng hóa được thực hiện bằng bỏ phiếu. Việc ra
quyết định dân chủ như vậy thường khó khăn bởi vì mọi người về cơ bản không
đồng ý về cách giải quyết vấn đề và cách nào nhóm người nên được ưa chuộng.

Trong Chương 4, chúng ta giả định rằng người tiêu dùng có thể đặt mua tất
cả các gói hàng hóa trong về sở thích của họ (sự đầy đủ) và thứ hạng của họ đối
với hàng hóa chỉ mang tính chất bắc cầu.9 Giả sử bây giờ người tiêu dùng có sở
thích trong việc phân bổ hàng hóa trên người tiêu dùng. Một khả năng, như chúng
tôi đã giả định trước đó, là các cá nhân chỉ quan tâm đến họ nhận được bao nhiêu
hàng hóa - họ không quan tâm đến việc người khác có bao nhiêu. Khác có thể là
do lòng đố kỵ, lòng bác ái, lòng thương hại, tình yêu hoặc những cảm xúc khác
giữa các cá nhân, các cá nhân quan tâm đến việc mọi người có bao nhiêu.10

Giả sử a là sự phân bổ cụ thể của hàng hóa mô tả số lượng của mỗi hàng hóa
một cá nhân có. Mỗi người có thể xếp hạng phân bổ này tương ứng với Phân bổ b.
Vì Ví dụ, các cá nhân biết liệu họ có thích sự phân bổ theo đó mọi người có số
lượng hàng hóa bằng nhau được phân bổ theo cách khác mà những người làm việc
khó khăn—hoặc những người có màu da hoặc tôn giáo cụ thể—có nhiều hàng hóa
hơn hơn những người khác.

Thông qua việc bình chọn, các cá nhân thể hiện thứ hạng của mình. Một hệ
thống bỏ phiếu khả thi yêu cầu rằng trước khi bỏ phiếu, mọi người đều đồng ý bị
ràng buộc bởi kết quả theo nghĩa là nếu đa số mọi người thích Phân bổ a hơn Phân
bổ b thì a là được xã hội ưa chuộng hơn b.

Sử dụng biểu quyết đa số để xác định phân bổ nào được xã hội ưa thích Nghe
có vẻ hợp lý phải không? Một hệ thống như vậy có thể hoạt động tốt. Ví dụ, nếu
tất cả các cá nhân có cùng sở thích bắc cầu, trật tự xã hội có cùng xếp hạng bắc
cầu của mỗi cá nhân.

Thật không may, đôi khi việc bỏ phiếu không hoạt động tốt và kết quả là ảnh
hưởng xã hội thứ tự phân bổ không mang tính bắc cầu. Để minh họa khả năng
này, giả sử rằng ba người có sở thích chuyển tiếp riêng lẻ trong Bảng 10.2. Cá
nhân 1 thích Phân bổ a hơn Phân bổ b hơn Phân bổ c. Hai cá nhân còn lại có thứ
tự ưu tiên khác nhau. Hai trong số ba người này thích a hơn b; hai trong số ba
người thích b hơn c; và hai trong số ba người thích c hơn a. Vì vậy, việc bỏ phiếu
dẫn đến với những sở thích xã hội không mang tính chất chuyển tiếp, mặc dù sở
thích của mỗi cá nhân mang tính bắc cầu. Kết quả là, việc bỏ phiếu không tạo ra
một kết quả được xã hội mong đợi một cách rõ ràng. Phần lớn mọi người thích
một số cách phân bổ khác hơn bất kỳ phân bổ. So với Phân bổ a, đa số thích c.
Tương tự, phần lớn= thích b hơn c và đa số thích a hơn b.

9 Giả định về tính bắc cầu (hoặc tính hợp lý) là sự ưa thích của người tiêu dùng đối với
các gói nhất quán theo nghĩa là nếu người tiêu dùng ít thích Gói a hơn Gói b và ít thích Gói b so
với Gói c, người tiêu dùng ít thích Gói a hơn Gói c.
10Đối với một nhà kinh tế học, tình yêu không gì khác hơn là những chức năng tiện ích
phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, nó là một điều bí ẩn mỗi thế hệ các nhà kinh tế kế tiếp nhau được
tạo ra như thế nào.

Bảng 10.2 Sở thích về việc phân bổ ba người


Cá nhân 1 cá nhân 2 cá nhân 3
Lựa chọn 1 a b c
Lựa chọn 2 b c a
Lựa chọn 3 c a b

Nếu mọi người có kiểu phân bổ xếp hạng này thì việc phân bổ được chọn sẽ
phụ thuộc vào quan trọng nhất là về thứ tự tiến hành bỏ phiếu. Giả sử ba người
này đầu tiên hãy bỏ phiếu xem họ thích a hay b và sau đó so sánh người chiến
thắng với c. Vì một đa số thích a hơn b trong lần bỏ phiếu đầu tiên, họ sẽ so sánh
a với c trong lần bỏ phiếu thứ hai, và c sẽ được chọn. Thay vào đó, nếu trước
tiên họ so sánh c với a và người chiến thắng với b, thì b sẽ được chọn. Vì vậy,
kết quả phụ thuộc vào kỹ năng chính trị của các phe phái khác nhau trong việc
xác định thứ tự bỏ phiếu.

Các vấn đề tương tự cũng nảy sinh với các loại chương trình bỏ phiếu khác.
Mũi tên Kenneth (1951), người đã nhận được giải Nobel Kinh tế một phần nhờ
công trình nghiên cứu về quyết định xã hội đã chứng tỏ một kết quả đáng kinh
ngạc và đáng thất vọng về việc bỏ phiếu dân chủ. Cái này kết quả thường được
gọi là Định lý bất khả thi của Arrow. Mũi tên gợi ý rằng một hệ thống ra quyết
định mong muốn về mặt xã hội, hoặc chức năng phúc lợi xã hội, phải đáp ứng
các tiêu chí sau:

■ Sở thích xã hội phải đầy đủ (Chương 4) và mang tính bắc cầu, giống
như cá nhân sở thích.

■ Nếu mọi người thích Phân bổ a hơn Phân bổ b thì a sẽ được xã hội ưu
tiên hơn để b.
■ Việc xếp hạng a và b của xã hội chỉ nên phụ thuộc vào thứ tự của các cá
nhân hai sự phân bổ này, không phải về cách chúng xếp hạng các lựa chọn thay
thế khác.

■ Chế độ độc tài không được phép; sở thích xã hội không được phản ánh
sở thích của chỉ một cá nhân duy nhất.

Mặc dù mỗi tiêu chí này có vẻ hợp lý—thật ra là vô thưởng vô phạt—


Arrow đã chứng minh rằng không thể tìm ra một quy tắc ra quyết định xã hội
nào luôn thỏa mãn tất cả các tiêu chí này. Kết quả của ông chỉ ra rằng việc ra
quyết định dân chủ có thể thất bại—không phải là nền dân chủ phải thất bại. Suy
cho cùng, nếu mọi người đồng ý về một thứ hạng thì những thỏa mãn bốn tiêu
chí.

Nếu xã hội sẵn sàng từ bỏ một trong những tiêu chí này, việc ra quyết
định dân chủ sẽ quy tắc có thể đảm bảo rằng ba tiêu chí còn lại được đáp ứng. Ví
dụ, nếu chúng ta từ bỏ tiêu chí thứ ba, thường được gọi là tính độc lập của các
lựa chọn thay thế không liên quan, một số chương trình bỏ phiếu phức tạp nhất
định trong đó các cá nhân xếp hạng sở thích của họ có thể đáp ứng các tiêu chí
khác.

Ứng dụng
cách bạn bỏ phiếu quan trọng

15 thành viên hội đồng thành phố phải quyết định có nên xây đường mới
(R), sửa chữa hay không trường trung học (H), hoặc lắp đặt đèn đường mới (L).
Mỗi ủy viên hội đồng liệt kê các lựa chọn trong thứ tự ưu tiên. Sáu ủng hộ L đến
đến R; năm người thích R hơn H hơn L; và bốn muốn H trên R trên L.

Một trong những người ủng hộ đèn đường đề xuất một cuộc bỏ phiếu đa số
trong đó mọi người sẽ bỏ một phiếu bầu duy nhất cho dự án yêu thích của mình.
Việc bỏ phiếu đa số sẽ dẫn đến sáu phiếu cho L, năm phiếu cho R và bốn phiếu
cho H, để đèn sẽ thắng.
“Không nhanh lắm,” một thành viên hội đồng ủng hộ đường sá trả lời. Cho
rằng H là lựa chọn đầu tiên ít được yêu thích nhất, anh ấy gợi ý một cuộc tranh
đua giữa L và R. Vì bốn thành viên có lựa chọn đầu tiên là H thích R hơn L, nên
Road sẽ thắng với chín phiếu đến sáu.

10.5 Hiệu quả và Công bằng

Một người ủng hộ các trường học cảm thấy kinh hoàng trước những cách tiếp
cận bỏ phiếu mang tính ích kỷ này. Cô ấy kêu gọi so sánh theo cặp. Đa số 10
người sẽ chọn H thay vì R, và 9 thích H hơn L. Do đó, mặc dù trường trung học có
số lượng ít nhất về số phiếu bầu ở vị trí đầu tiên, nó có sức hấp dẫn rộng rãi nhất
trong việc so sánh theo cặp.

Cuối cùng, giả sử hội đồng sử dụng phương pháp bỏ phiếu do Jean-Charles
de Borda vào năm 1770 (để bầu các thành viên vào Viện Hàn lâm Khoa học ở
Paris), trong một chủng tộc n người, lựa chọn đầu tiên của một người nhận được
n phiếu bầu, lựa chọn thứ hai nhận được n - 1, và vân vân. Ở đây, H nhận được
34 phiếu bầu, R nhận được 29 phiếu, và L theo sau với 27 phiếu, và do đó mức
cao nhất là dự án trường học được hỗ trợ. Vì vậy, kết quả của một cuộc bầu cử
hoặc cuộc bỏ phiếu khác có thể phụ thuộc vào về các thủ tục bỏ phiếu được sử
dụng.

Các phương pháp như của Borda được gọi là bỏ phiếu quyết định ngay lập
tức. Phương thức bỏ phiếu này được được sử dụng ở nhiều cơ sở giáo dục như
Đại học Bang Arizona, Trường Cao đẳng của William và Mary, Harvard, Đại
học Nam Illinois tại Carbondale, Đại học California Los Angeles, Đại học
Michigan, Đại học Missouri, và Cao đẳng Wheaton. Cuộc bỏ phiếu trực tiếp
được sử dụng để bầu các thành viên của Hạ viện Úc Hạ viện, Tổng thống Ấn Độ
và Tổng thống Ireland. Bỏ phiếu ngay lập tức được sử dụng ở nhiều thành phố
và quận của Hoa Kỳ như Cambridge, Massachusetts; Davis, California;
Oakland, California; Minneapolis, Minnesota; Quận Pierce, Washington; và San
Francisco, California. Nó cũng được dùng để bầu thị trưởng ở London và
Wellington, New Zealand.

Trong vài năm gần đây, Tổng thống Obama, Thượng nghị sĩ John McCain,
người ủng hộ người tiêu dùng Ralph Nader và những người khác đã kêu gọi một
số hình thức bỏ phiếu xếp hạng. Trong năm 2011, trước sự thúc đẩy của Thủ
tướng Anh Gordon Brown, một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc ngay lập tức
dòng chảy đã được tổ chức (nhưng bị mất). Tuy nhiên, một cuộc bỏ phiếu quyết
định ngay lập tức đã được sử dụng để bầu ra lãnh đạo Đảng Tự do Canada năm
2013.

Chức năng phúc lợi xã hội Bạn sẽ xếp hạng các khoản phân bổ khác nhau
như thế nào nếu bạn được yêu cầu bỏ phiếu? Các nhà triết học, kinh tế học, nhà
bình luận báo chí, chính trị gia, đài phát thanh người dẫn chương trình trò
chuyện và những nhà tư tưởng sâu sắc khác đã đề xuất nhiều quy tắc khác nhau
mà xã hội có thể sử dụng để quyết định phân bổ nào tốt hơn phân bổ khác. Về cơ
bản, tất cả những điều này hệ thống trả lời câu hỏi ưu tiên nào của cá nhân sẽ
được cung cấp nhiều hơn sức nặng trong việc ra quyết định của xã hội. Xác định
trọng lượng cần cung cấp cho sở thích của các thành viên khác nhau trong xã hội
thường là bước quan trọng trong việc xác định chức năng phúc lợi xã hội.

Có lẽ quy tắc đơn giản và bình đẳng nhất là mọi thành viên trong xã hội được
cung cấp chính xác cùng một gói hàng hóa. Nếu không được phép giao dịch
thêm nữa, quy tắc này mang lại sự bình đẳng hoàn toàn trong việc phân bổ hàng
hóa.

Jeremy Bentham (1748–1832) và những người theo ông (bao gồm John
Stuart Mill), các nhà triết học vị lợi, cho rằng xã hội nên tối đa hóa tổng lợi ích
ích của mọi thành viên trong xã hội. Chức năng phúc lợi xã hội của chúng là
tổng lợi ích của mọi thành viên trong xã hội. Quyền lợi của mọi người trong xã
hội đều được bình đẳng trọng số. 11 Nếu Ui là hữu dụng của Cá nhân i và n là số
người thì hàm phúc lợi thực dụng là

W = U1 + U2 + g + Un.

11Rất khó để so sánh tiện ích giữa các cá nhân vì quy mô tiện ích giữa các cá nhân là
tùy ý (Chương 4 và 9). Một nguyên tắc tránh sự so sánh hữu dụng này là tối đa hóa phúc lợi
đo lường cân bằng thặng dư tiêu dùng và thặng dư nhà sản xuất, được tính bằng USD

Chức năng phúc lợi xã hội này có thể không dẫn đến sự phân phối hàng hóa
một cách bình đẳng. Quả thực, theo hệ thống này, sự phân bổ được đánh giá là
ưu việt, còn các yếu tố khác cũng như nhau nếu mọi người những người cảm
thấy thích thú nhất khi tiêu dùng một số hàng hóa nhất định sẽ nhận được nhiều
hàng hóa đó hơn Các mặt hàng.

Bảng b của Hình 10.9 cho thấy một số đường đẳng lợi tương ứng với chính
sách vị lợi. chức năng phúc lợi. Những đường này có độ dốc -1 vì lợi ích của cả
hai bên được cân bằng nhau. Trong hình, phúc lợi được tối đa hóa tại e.

Sự khái quát hóa của cách tiếp cận vị lợi gán các trọng số khác nhau cho các

tiện ích của cá nhân. Nếu trọng số được gán cho Cá nhân i là αi , hàm phúc lợi
thực dụng tổng quát này là

W = α1U1 + α2U2 + g + αnUn.

Xã hội có thể coi trọng người lớn, những người chăm chỉ hoặc những
người gặp tiêu chí khác. Dưới hệ thống phân biệt chủng tộc trước đây của Nam
Phi, các tiện ích của người dân người có làn da trắng có cân nặng cao hơn những
người có màu da khác.

John Rawls (1971), một triết gia tại Harvard, tin rằng xã hội nên tối đa hóa
phúc lợi của những thành viên tồi tệ nhất trong xã hội, những người có hoàn
cảnh khó khăn nhất. mức hữu dụng thấp nhất. Trong chức năng phúc lợi xã hội,
tất cả trọng trách phải được đặt vào hữu dụng của người có mức hữu dụng thấp
nhất. Hàm phúc lợi Rawlsian là

W = min{U1, U2, ..... , Un}

Sự cai trị của Rawls dẫn đến sự phân phối hàng hóa tương đối bình đẳng.

Một nguyên tắc cuối cùng thường được nhiều thành viên Quốc hội và bởi
các chủ đất giàu có ở các nước kém phát triển, là để duy trì hiện trạng. Những
người ủng hộ quy tắc này tin rằng sự phân bổ hiện tại là sự phân bổ tốt nhất có
thể. Họ lập luận chống lại bất kỳ sự phân bổ lại nguồn lực nào từ cá nhân này
sang cá nhân khác. Theo quy định này, việc phân bổ cuối cùng có thể sẽ rất
không đồng đều. Tại sao khác giàu có muốn nó?

Tất cả các quy tắc hoặc chức năng phúc lợi xã hội này phản ánh những đánh
giá về giá trị trong đó thực hiện so sánh giữa các cá nhân. Bởi vì mỗi cái đều
phản ánh những đánh giá về giá trị nên chúng ta không thể so sánh chúng trên cơ
sở khoa học.

Hiệu quả so với công bằng


Với một chức năng phúc lợi xã hội cụ thể, xã hội có thể thích sự phân bổ
kém hiệu quả hơn là hiệu quả. Chúng tôi có thể hiển thị kết quả này bằng cách
so sánh hai phân bổ. TRONG Phân bổ a, bạn có tất cả mọi thứ và mọi người
khác không có gì. Sự phân bổ này Hiệu quả Pareto: Chúng tôi không thể làm cho
người khác khá hơn mà không làm hại bạn. Đang phân bổ b, mọi người đều có
số lượng hàng hóa như nhau. Phân bổ b không hiệu quả Pareto: I sẽ sẵn sàng đổi
tất cả bí xanh của tôi để lấy bất cứ thứ gì khác. Bất chấp sự kém hiệu quả của
Phân bổ b, hầu hết mọi người có thể thích b hơn a.

Mặc dù xã hội có thể thích Phân bổ b kém hiệu quả hơn Phân bổ hiệu quả a,
theo hầu hết các hàm phúc lợi xã hội, xã hội sẽ thích sự phân bổ hiệu quả hơn b.
Giả sử rằng Phân bổ c là điểm cân bằng cạnh tranh sẽ là thu được nếu mọi người
được phép buôn bán bắt đầu từ Khoản tài trợ b, trong đó mọi người đều có phần
bằng nhau trong tất cả hàng hóa. Theo các hàm phúc lợi xã hội vị lợi, Phân bổ b
có thể được xã hội ưu tiên hơn Phân bổ a, nhưng Phân bổ c chắc chắn mang tính
xã hội. ưa thích hơn b. Xét cho cùng, nếu mọi người đều khá giả hoặc khá giả
hơn trong Phân bổ c so với trong Phân bổ c. b, c phải tốt hơn b bất kể mức độ
thỏa dụng của cá nhân như thế nào. Dựa theo tuy nhiên, trong quy tắc quân bình,
b được ưu tiên hơn c vì chỉ có sự bình đẳng nghiêm ngặt mới quan trọng. Do đó,
theo hầu hết—chứ không phải tất cả—các hàm phúc lợi xã hội nổi tiếng, xã hội
có sự phân bổ hiệu quả được xã hội ưa thích hơn sự phân bổ không hiệu quả.

11. Sự độc quyền


Một công ty tạo ra một loại thuốc mới có thể nhận được bằng sáng chế cho
phép công ty đó có quyền độc quyền hoặc nhà sản xuất duy nhất loại thuốc đó
trong tối đa 20 năm. Kết quả là, công ty có thể tính giá cao hơn nhiều so với chi
phí sản xuất cận biên. Ví dụ, một trong những loại thuốc bán chạy nhất thế giới,
thuốc điều trị bệnh tim Plavix, được bán với giá khoảng 7 USD mỗi viên mặc dù
chi phí sản xuất chỉ khoảng 3 ¢ mỗi viên. Giá thuốc dùng để điều trị các bệnh
hiếm gặp thường rất cao. Soliris, một loại thuốc dùng để điều trị chứng rối loạn
máu hiếm gặp, có giá hơn 400.000 USD mỗi năm.

Gần đây, các công ty đã tăng giá đáng kể cho các loại thuốc đặc trị để đáp
ứng những thay đổi về mức độ sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng và các công
ty bảo hiểm của họ. Một lần, H.P. Acthar Gel, một loại thuốc chống viêm, được
sử dụng để điều trị các bệnh tương đối phổ biến như bệnh gút và được bán với
giá 50 USD một lọ. Hiện nay nó là một loại thuốc chống động kinh quan trọng,
được sử dụng để điều trị cho trẻ em mắc một dạng động kinh nghiêm trọng và
hiếm gặp. Năm 2007, giá của nó tăng từ 1.600 USD lên 23.000 USD mỗi lọ. Giá
đạt 28.000 USD vào năm 2013. Steve Cartt, giám đốc điều hành của nhà sản
xuất thuốc Quest-cor, cho biết việc tăng giá này dựa trên việc xem xét giá của
các loại thuốc đặc trị khác và ước tính mức giá mà các công ty bảo hiểm và
người sử dụng lao động sẽ trả. Sẵn sàng chịu đựng. Hai đợt điều trị bằng Acthar
cho bé gái 3 tuổi bị bệnh nặng, Reegan Schwartz, đã tiêu tốn của chương trình
bảo hiểm y tế của cha bé khoảng 226.000 USD. Acthar kiếm được 126 triệu
USD doanh thu trong quý đầu tiên của năm 2013. Năm 2013, 107 bằng sáng chế
thuốc của Hoa Kỳ đã hết hạn, bao gồm các sản phẩm chính như Cymbalta và
OxyContin. Khi bằng sáng chế của một loại thuốc có lợi nhuận cao hết hạn,
nhiều công ty tham gia vào thị trường và bán phiên bản gốc (tương đương) của
thuốc chính hiệu.1 Thuốc gốc chiếm gần 70% tổng số đơn thuốc ở Mỹ và một
nửa số đơn thuốc ở Canada.

(1)Theo Đạo luật Hatch-Waxman năm 1984, chính phủ Hoa Kỳ cho phép
một công ty bán một sản phẩm chung loại sau khi bằng sáng chế của thuốc chính
hiệu hết hạn nếu công ty sản xuất thuốc gốc đó có thể chứng minh rằng sản
phẩm của họ cung cấp cùng một lượng hoạt chất hoặc thuốc cho cơ thể tương tự
như sản phẩm có thương hiệu. Đôi khi cùng một công ty sản xuất cả thuốc chính
hiệu và thuốc gốc giống hệt nhau, vì vậy cả hai loại thuốc này đều có thành phần
giống hệt nhau. Thuốc generic do các hãng khác sản xuất thường khác về hình
thức và tên gọi với sản phẩm gốc và có thể có các thành phần không hoạt động
khác nhau nhưng có cùng hoạt chất.

Quốc hội Hoa Kỳ, khi ban đầu thông qua luật cho phép thuốc generic nhanh
chóng thâm nhập thị trường sau khi bằng sáng chế hết hạn, đã kỳ vọng rằng việc
hết hạn bằng sáng chế sẽ dẫn đến giá thuốc giảm mạnh. Nếu người tiêu dùng
xem sản phẩm chung và sản phẩm có thương hiệu là những sản phẩm thay thế
hoàn hảo thì cả hai hàng hóa sẽ được bán với cùng một mức giá và sự gia nhập
của nhiều hãng sẽ đẩy giá xuống mức cạnh tranh. Ngay cả khi người tiêu dùng
coi hàng hóa là sản phẩm thay thế không hoàn hảo, người ta vẫn có thể mong đợi
giá thuốc chính hiệu sẽ giảm. Tuy nhiên, giá của nhiều loại thuốc chính hiệu đã
tăng lên sau khi bằng sáng chế của chúng hết hạn và thuốc generic được đưa vào
thị trường. Thuốc gốc tương đối rẻ, nhưng thuốc chính hiệu thường tiếp tục
chiếm thị phần đáng kể và được bán với giá cao. Regan (2008), người đã nghiên
cứu tác động của việc đưa thuốc gốc vào cạnh tranh giá sau khi có bằng sáng chế
đối với 18 loại thuốc kê đơn, đã nhận thấy giá thuốc có nhãn hiệu tăng trung
bình 2%. Các nghiên cứu dựa trên dữ liệu cũ hơn đã cho thấy mức tăng trung
bình lên tới 7%. Tại sao một số thuốc biệt dược lại tăng giá sau khi các loại
thuốc chung chung nhập khẩu?

Độc quyền là nhà cung cấp duy nhất một loại hàng hóa không có sản phẩm
thay thế gần gũi. Độc quyền đã phổ biến từ thời cổ đại. Vào thế kỷ thứ năm
trước Công nguyên, triết gia Hy Lạp Thales đã giành được quyền kiểm soát hầu
hết các máy ép ô liu trong một năm thu hoạch năng suất đặc biệt. Tương tự, các
Pharaoh Ai Cập cổ đại kiểm soát việc bán thực phẩm. Ở Anh, cho đến khi Quốc
hội hạn chế việc thực hành này vào năm 1624, các vị vua đã trao quyền độc
quyền được gọi là hiến chương hoàng gia hoặc bằng sáng chế cho những người
được triều đình yêu thích. Ngày nay, gần như mọi quốc gia đều cấp bằng sáng
chế—quyền bán độc quyền có hiệu lực trong một khoảng thời gian giới hạn—
cho người phát minh ra sản phẩm, quy trình, chất hoặc thiết kế mới. Cho đến
năm 1999, chính phủ Hoa Kỳ đã trao cho một công ty quyền đăng ký duy nhất
các tên miền Internet. Khi được giới thiệu lần đầu tiên, iPod của Apple gần như
độc quyền trên thị trường ổ cứng, máy nghe nhạc và iPad của Apple gần như độc
quyền trên thị trường máy tính bảng. Một công ty độc quyền có thể ấn định giá
của mình - nó không phải là người chấp nhận giá như một công ty cạnh tranh.
Sản lượng của nhà độc quyền là sản lượng thị trường, và đường cầu mà nhà độc
quyền phải đối mặt là đường cầu thị trường. Vì đường cầu thị trường dốc xuống
nên doanh nghiệp độc quyền (không giống như doanh nghiệp cạnh tranh) không
mất toàn bộ doanh thu nếu tăng giá. Kết quả là nhà độc quyền đặt giá cao hơn
chi phí cận biên để tối đa hóa lợi nhuận. Người tiêu dùng mua ít hơn ở mức giá
độc quyền cao này so với mức giá cạnh tranh, bằng chi phí biên

1. Tối đa hóa lợi nhuận độc quyền. Giống như tất cả các doanh nghiệp, doanh
nghiệp độc quyền tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách ấn định giá hoặc sản
lượng sao cho doanh thu biên bằng chi phí biên.

2. Sức mạnh thị trường. Giá của nhà độc quyền cao hơn chi phí cận biên bao
nhiêu tùy thuộc vào hình dạng của đường cầu mà nó phải đối mặt.

3. Thất bại thị trường do giá cả độc quyền. Bằng cách đặt giá cao hơn chi phí
cận biên, sự độc quyền sẽ tạo ra một khoản lỗ vô ích.

4. Nguyên nhân của sự độc quyền. Hai nguyên nhân quan trọng của sự độc
quyền là các yếu tố chi phí và hành động của chính phủ nhằm hạn chế sự gia
nhập thị trường, chẳng hạn như bằng sáng chế.

5. Hành động của Chính phủ làm giảm sức mạnh thị trường. Tổn thất phúc
lợi của doanh nghiệp độc quyền có thể được giảm bớt hoặc loại bỏ nếu chính
phủ điều chỉnh giá mà doanh nghiệp độc quyền phải trả hoặc cho phép các
doanh nghiệp khác tham gia thị trường.

6. Mạng lưới, Động lực và Kinh tế hành vi. Nếu doanh số hiện tại ảnh hưởng
đến đường cầu tương lai của nhà độc quyền, thì nhà độc quyền tối đa hóa lợi
nhuận dài hạn có thể chọn không tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn.

11.1 Tối đa hóa lợi nhuận độc quyền:


Tất cả các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp cạnh tranh và doanh nghiệp
độc quyền, đều tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách đặt doanh thu cận biên
bằng chi phí cận biên (Chương 8). Chúng ta đã biết cách rút ra đường chi phí cận
biên của hãng độc quyền từ đường chi phí của nó (Chương 7). Bây giờ chúng ta
rút ra đường doanh thu cận biên của nhà độc quyền và sau đó sử dụng đường
doanh thu cận biên và đường chi phí cận biên để kiểm tra hành vi tối đa hóa lợi
nhuận của nhà độc quyền.
Doanh thu cận biên

Đường doanh thu cận biên của một công ty phụ thuộc vào đường cầu của nó.
Chúng ta sẽ chỉ ra rằng đường doanh thu cận biên của nhà độc quyền nằm bên
dưới đường cầu của nó ở bất kỳ số lượng dương nào vì đường cầu của nó dốc
xuống.

Doanh thu cận biên và giá. Đường cầu của một hãng thể hiện mức giá p mà hãng
nhận được khi bán một lượng q nhất định. Giá là doanh thu trung bình mà hãng
nhận được, do đó doanh thu của hãng là R = pq. Doanh thu cận biên của một
công ty, MR, là sự thay đổi trong doanh thu của công ty khi bán thêm một đơn
vị. Một doanh nghiệp kiếm được thêm ΔR doanh thu khi bán thêm Δq đơn vị sản
phẩm thì có doanh thu cận biên (Chương 8) là MR = ΔR/Δq. Nếu hãng bán thêm
đúng một đơn vị, Δq = 1, thì doanh thu cận biên của nó là MR = ΔR. Mặc dù
đường doanh thu cận biên nằm ngang đối với một doanh nghiệp cạnh tranh
nhưng nó lại dốc xuống đối với doanh nghiệp độc quyền. Doanh nghiệp cạnh
tranh trong phần a của Hình 11.1 đối diện với đường cầu nằm ngang ở mức giá
thị trường, p1. Vì đường cầu nằm ngang nên doanh nghiệp cạnh tranh có thể bán
một đơn vị sản phẩm khác mà không giảm giá. Kết quả là doanh thu cận biên họ
nhận được từ việc bán đơn vị sản phẩm cuối cùng chính là giá thị trường. Ban
đầu, hãng cạnh tranh bán q đơn vị sản phẩm ở mức giá thị trường là p1, do đó
doanh thu của nó, R1, là diện tích A, là một hình chữ nhật có kích thước p1 X q.
Nếu hãng bán thêm một đơn vị, doanh thu của hãng là R2 = A + B, trong đó diện
tích B là p1 X 1 = p1. Doanh thu cận biên của hãng cạnh tranh bằng giá thị
trường:

ΔR = R2 - R1 = (A + B) - A = B = p1.

Hãng độc quyền phải đối mặt với đường cầu thị trường dốc xuống, như
trong phần b của Hình 11.1. (Chúng ta gọi số đơn vị sản phẩm mà một hãng bán
là q và sản lượng của tất cả các hãng trên một thị trường, hay sản lượng thị
trường, là Q. Bởi vì hãng độc quyền là hãng duy nhất trên thị trường, q và Q
không khác nhau, vì vậy chúng tôi sử dụng Q để mô tả cả sản lượng của hãng và
thị trường.) Nhà độc quyền, ban đầu bán Q đơn vị ở mức p1, chỉ có thể bán thêm
một đơn vị nếu giá giảm xuống p2.
Doanh thu ban đầu của nhà độc quyền, p1 * Q, là R1 = A + C. Khi bán
thêm đơn vị, doanh thu của nó, p2 * (Q + 1), là R2 = A + B. Do đó, doanh thu
cận biên của nó là

ΔR = R2 - R1 = (A + B) - (A + C) = B - C.

Nhà độc quyền bán đơn vị sản lượng tăng thêm ở mức giá mới p2 nên
doanh thu tăng thêm là B = p2 X 1 = p2. Nhà độc quyền mất chênh lệch giữa giá
mới và giá ban đầu, Δp = (p2 - p1), trên số đơn vị Q mà nó bán ban đầu: C = Δp
X Q. Do đó, doanh thu cận biên của nhà độc quyền, B - C = p2 - C , nhỏ hơn
mức giá mà nó tính bằng diện tích C.

Hình 11.1 Doanh thu trung bình và cận biên

Đường cầu thể hiện doanh thu hoặc giá trung bình trên mỗi đơn vị sản
phẩm được bán. (a) Doanh thu cận biên của hãng cạnh tranh, diện tích B, bằng
giá thị trường, p1. (b) Doanh thu cận biên của nhà độc quyền nhỏ hơn giá p2
theo khu vực C (doanh thu bị mất do giá đơn vị Q bán ban đầu thấp hơn).
Hãng cạnh tranh trong phần a không bị mất diện tích C khi bán thêm một đơn
vị vì đường cầu của nó nằm ngang. Chính độ dốc đi xuống của đường cầu của
nhà độc quyền khiến doanh thu cận biên của nó thấp hơn giá của nó.

Đường doanh thu cận biên .Do đó, đường doanh thu cận biên của nhà độc
quyền nằm bên dưới đường cầu ở mọi mức sản lượng dương. Nói chung, mối
quan hệ giữa đường doanh thu cận biên và đường cầu phụ thuộc vào hình dạng
của đường cầu. Đối với tất cả các đường cầu tuyến tính, mối quan hệ giữa đường
doanh thu cận biên và đường cầu là như nhau. Đường doanh thu cận biên là một
đường thẳng bắt đầu tại cùng một điểm trên trục tung (giá) với đường cầu nhưng
có độ dốc gấp đôi đường cầu, do đó đường doanh thu cận biên chạm trục hoành
(số lượng) ở một nửa lượng là đường cầu (xem Phụ lục 11A). Trong Hình 11.2,
đường cầu có độ dốc -1 và chạm trục hoành tại 24 đơn vị, trong khi đường doanh
thu cận biên có độ dốc -2 và chạm trục hoành tại 12 đơn vị.

Suy ra đường doanh thu cận biên .Để suy ra đường doanh thu cận biên của
nhà độc quyền, chúng ta viết một phương trình tóm tắt mối quan hệ giữa giá và
doanh thu cận biên mà phần b của Hình 11.1 minh họa. (Bởi vì chúng ta muốn
phương trình này đúng ở mọi mức giá nên chúng ta loại bỏ các chỉ số dưới khỏi
giá.) Để độc quyền tăng

Hình 11.2 Độ co giãn của cầu và tổng doanh thu, trung bình và cận biên

Đường cầu (hay đường doanh thu trung bình), p = 24 - Q, nằm phía trên
đường doanh thu cận biên, MR = 24 - 2Q. Khi doanh thu cận biên bằng 0, Q =
12 thì độ co giãn của cầu là ε = -1.
sản lượng thêm ΔQ, nhà độc quyền sẽ giảm giá mỗi đơn vị xuống Δp/ΔQ, chính
là độ dốc của đường cầu. Bằng cách giảm giá, nhà độc quyền sẽ mất (Δp/ΔQ) X
Q trên số đơn vị ban đầu được bán ở mức giá cao hơn (khu vực C), nhưng họ
kiếm được thêm p trên sản lượng tăng thêm hiện bán (khu vực B). Do đó, doanh
thu cận biên của nhà độc quyền là

Bởi vì độ dốc của đường cầu nghịch đảo của nhà độc quyền, Δp/ΔQ, là âm,
nên số hạng cuối cùng trong Công thức 11.1, (Δp/ΔQ)Q, là tiêu cực. Phương trình
11.1 xác nhận rằng giá lớn hơn doanh thu cận biên, bằng p cộng với số hạng âm.

Giải quyết vấn đề 11.1


Rút ra đường doanh thu cận biên khi nhà độc quyền đối mặt với hàm cầu
nghịch đảo tuyến tính, p = 24 - Q, (11.2) trên Hình 11.2. Độ dốc của đường doanh
thu cận biên so với độ dốc của đường cầu nghịch đảo như thế nào.

(2)Doanh thu là R(Q) = p(Q)Q, trong đó p(Q), hàm cầu nghịch đảo, cho thấy
giá thay đổi như thế nào khi số lượng tăng dọc theo đường cầu. Đạo hàm, ta thấy
doanh thu cận biên là MR = dR(Q)/dQ = p(Q) + [dp(Q)/dQ]Q

Câu trả lời 1. Sử dụng đường cầu để tính xem mức giá mà người tiêu dùng
sẵn sàng trả sẽ giảm bao nhiêu nếu số lượng tăng một đơn vị. Theo hàm cầu
nghịch đảo, phương trình 11.2, mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả giảm 1
nếu số lượng tăng một đơn vị, do đó độ dốc của đường cầu nghịch đảo là Δp/ΔQ =
-1 (Chương 2).3

Câu trả lời 2. Sử dụng các phương trình 11.1 và 11.2 và độ dốc của đường
cầu nghịch đảo để rút ra hàm doanh thu cận biên. Chúng ta thu được hàm doanh
thu cận biên cho sự độc quyền này bằng cách thay thế độ dốc của hàm cầu nghịch
đảo vào Công thức 11.1, Δp/ΔQ = -1, và thay p bằng 24 - Q (sử dụng Công thức
11.2)

Đường cong MR trong Hình 11.2 là đồ thị của Phương trình 11.3.

Câu trả lời 3. Sử dụng phương trình 11.3 để xác định độ dốc của đường
doanh thu cận biên. Sử dụng cùng kiểu tính toán như ở Bước 1, chúng ta có thể
sử dụng Công thức 11.3 để chỉ ra rằng độ dốc của đường doanh thu cận biên này
là ΔMR/ΔQ = -2, do đó đường doanh thu cận biên có độ dốc gấp đôi so với
đường cầu.

Doanh thu cận biên và độ co giãn của cầu theo giá. Doanh thu cận biên tại
bất kỳ số lượng nào cũng phụ thuộc vào độ cao và hình dạng của đường cầu
(giá). Hình dạng của đường cầu tại một lượng cụ thể được mô tả bởi độ co giãn
của cầu theo giá (Chương 3), ε = (ΔQ/Q)/(Δp/p) 6 0, là tỷ lệ phần trăm mà lượng
cầu giảm khi giá tăng 1%. Tại một số lượng nhất định, doanh thu cận biên bằng
giá nhân với một số hạng liên quan đến độ co giãn của cầu:
(4) MR = p¢1 + 1 ε ≤. (11.4) Theo phương trình 11.4, doanh thu cận biên gần
với giá hơn khi cầu trở nên co giãn hơn. Khi đường cầu chạm trục giá (Q = 0),
đường cầu hoàn toàn co giãn nên doanh thu cận biên bằng giá: MR = p. (5)
Trong trường hợp độ co giãn của cầu là đơn vị, ε = -1, doanh thu cận biên bằng
0: MR = p[1 + 1/(-1)] = 0. Doanh thu cận biên âm khi đường cầu không co giãn,
-1 6 ε … 0.

(3) Nói chung, nếu đường cầu nghịch đảo tuyến tính là p = a - bQ và lượng tăng
từ Q đến Q + ΔQ thì giá mới là p* = a - b(Q + ΔQ) = a - bQ - bΔQ = p - bΔQ,
nên Δp = p* - p = -bΔQ. Bằng cách chia cả hai vế của biểu thức này cho ΔQ,
chúng ta thấy rằng độ dốc của đường cầu là Δp/ΔQ = -b. Ở đây, b = 1, do đó
Δp/ΔQ = -1. Tương tự, chúng ta có thể sử dụng phép tính để xác định độ dốc của
đường cầu tuyến tính tổng quát là dp/dQ = -b.

(4)Bằng cách nhân số hạng cuối cùng trong Công thức 11.1 với p/p (= 1) và sử
dụng đại số, chúng ta có thể viết lại biểu thức dưới dạng

Số hạng cuối cùng trong biểu thức này là 1/ε, vì ε = (ΔQ/Δp)(p/Q).

(5)Khi ε tiến đến - ∞ (cầu hoàn toàn co giãn), số hạng 1/ε tiến đến 0, do đó MR
= p(1 + 1/ε) tiến đến p

Với hàm cầu trong phương trình 11.2, ΔQ/Δp = -1, nên độ co giãn của cầu là ε
= (ΔQ/Δp)(p/Q) = -p/Q. Bảng 11.1 cho thấy mối quan hệ giữa số lượng, giá cả,
doanh thu cận biên và độ co giãn của cầu trong ví dụ tuyến tính này. Khi Q tiến
tới 24, ε tiến tới 0 và doanh thu cận biên là âm. Khi Q tiến tới 0, cầu ngày càng
co giãn và doanh thu cận biên tiến đến mức giá

Nên chọn giá hay số lượng


Bất kỳ công ty nào cũng tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách hoạt động ở
nơi doanh thu cận biên bằng chi phí biên. Không giống như một công ty cạnh
tranh, công ty độc quyền có thể điều chỉnh giá của mình, do đó, nó có quyền lựa
chọn đặt giá hoặc số lượng để tối đa hóa lợi nhuận của mình. (Một hãng cạnh
tranh ấn định số lượng của mình để tối đa hóa lợi nhuận vì nó không thể ảnh
hưởng đến giá thị trường.) Sự độc quyền bị hạn chế bởi đường cầu thị trường. Do
đường cầu dốc xuống nên nhà độc quyền phải đối mặt với sự đánh đổi giữa giá
cao hơn và số lượng thấp hơn hoặc giá thấp hơn và số lượng cao hơn. Nhà độc
quyền chọn điểm trên đường cầu để tối đa hóa lợi nhuận của mình. Thật không
may cho sự độc quyền, nó không thể ấn định cả số lượng lẫn giá cả. Nếu có thể
làm như vậy, nhà độc quyền sẽ chọn mức giá cực cao và mức sản lượng cực cao -
trên đường cầu - và sẽ trở nên cực kỳ giàu có. Nếu hãng độc quyền đặt giá, đường
cầu sẽ xác định lượng sản phẩm mà hãng này bán ra. Nếu nhà độc quyền chọn
mức sản lượng thì đường cầu sẽ xác định giá. Bởi vì nhà độc quyền muốn hoạt
động ở mức giá và sản lượng mà tại đó lợi nhuận của nó được tối đa hóa nên nó
chọn cùng một giải pháp tối đa hóa lợi nhuận cho dù nó ấn định giá hay sản
lượng. Trong phần còn lại của chương này, chúng ta giả định rằng sự độc quyền
quyết định số lượng.

Bảng 11.1

Số lượng, Giá, Doanh thu cận biên và Độ co giãn của Đường cầu nghịch đảo
tuyến tính p = 24 – Q
Phương pháp đồ họa

Tất cả các công ty, bao gồm cả công ty độc quyền, đều sử dụng phân tích hai
bước để xác định mức sản lượng giúp tối đa hóa lợi nhuận của họ (Chương 8). Đầu
tiên, doanh nghiệp xác định sản lượng Q*, tại đó doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận cao
nhất có thể - sản lượng tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên. Thứ hai,
hãng quyết định sản xuất Q* hay đóng cửa. Sản lượng tối đa hóa lợi nhuận Để
minh họa cách một hãng độc quyền chọn sản lượng để tối đa hóa lợi nhuận, chúng
ta tiếp tục sử dụng đường cầu tuyến tính và doanh thu cận biên tương tự nhưng
thêm đường chi phí cận biên tuyến tính trong phần a của Hình 11.3. Bảng b hiển
thị đường cong lợi nhuận tương ứng. Đường lợi nhuận đạt cực đại khi có 6 đơn vị
sản lượng, trong đó lợi nhuận cận biên—độ dốc của đường lợi nhuận—bằng 0. Bởi
vì lợi nhuận cận biên là doanh thu cận biên trừ đi chi phí cận biên (Chương 8), lợi
nhuận cận biên bằng 0 khi doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên. Trong phần a,
doanh thu cận biên bằng chi phí biên tại 6 đơn vị. Giá trên đường cầu tại số lượng
đó là 18. Do đó, nhà độc quyền tối đa hóa lợi nhuận của mình tại điểm e, tại đó họ
bán 6 đơn vị mỗi ngày với mức giá 18 đơn vị. Tại sao hãng độc quyền tối đa hóa
lợi nhuận bằng cách sản xuất ở nơi doanh thu cận biên bằng chi phí biên? Với số
lượng nhỏ hơn, doanh thu cận biên của nhà độc quyền lớn hơn

Hình 11.3 Tối đa hóa lợi nhuận

(a) Tại Q = 6, khi doanh thu cận biên, MR, bằng chi phí biên, MC, lợi nhuận đạt
tối đa. Hình chữ nhật cho thấy lợi nhuận là $60, trong đó chiều cao của hình chữ
nhật là lợi nhuận trung bình trên mỗi đơn vị, p - AC = $18 - $8 = $10, và chiều dài
là số lượng đơn vị, 6. (b) Lợi nhuận tối đa hóa tại Q = 6 (trong đó doanh thu cận
biên bằng chi phí biên)
hơn chi phí cận biên, do đó lợi nhuận cận biên của nó dương - đường lợi nhuận
dốc lên. Bằng cách tăng sản lượng, nhà độc quyền tăng lợi nhuận. Tương tự,
với số lượng lớn hơn 6 đơn vị, chi phí cận biên của nhà độc quyền lớn hơn
doanh thu cận biên của nó, do đó lợi nhuận cận biên của nó là âm và nhà độc
quyền có thể tăng lợi nhuận bằng cách giảm sản lượng. Như Hình 11.2 minh
họa, đường doanh thu cận biên dương khi độ co giãn của cầu co giãn, bằng 0
tại số lượng mà đường cầu có độ co giãn đơn vị và âm ở số lượng lớn hơn khi
đường cầu không co giãn. Bởi vì đường chi phí cận biên không bao giờ âm nên
đường doanh thu cận biên chỉ có thể cắt đường chi phí cận biên khi đường
doanh thu cận biên dương, trong phạm vi mà đường cầu co giãn. Nghĩa là, lợi
nhuận của nhà độc quyền được tối đa hóa ở phần co giãn của đường cầu.
(Trong ví dụ của chúng tôi, lợi nhuận được tối đa hóa tại Q = 6, trong đó độ co
giãn của cầu là -3.) Một hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận không bao giờ
hoạt động ở phần không co giãn của đường cầu của nó.
Quyết định dừng lại. Một hãng độc quyền ngừng hoạt động để tránh thua lỗ
trong ngắn hạn nếu giá của nó thấp hơn chi phí biến đổi trung bình ở mức tối
đa hóa lợi nhuận (hoặc giảm thiểu lỗ) (Chương 8). Về lâu dài, sự độc quyền sẽ
chấm dứt nếu giá thấp hơn chi phí trung bình. Trong ví dụ ngắn hạn ở Hình
11.3, chi phí biến đổi trung bình, AVC = 6, nhỏ hơn giá, p = 18, tại mức sản
lượng tối đa hóa lợi nhuận, Q = 6, do đó hãng chọn sản xuất. Giá cũng cao
hơn chi phí trung bình tại Q = 6, do đó nhà độc quyền tạo ra lợi nhuận
dương.6 Ở mức tối đa hóa lợi nhuận là 6 đơn vị, giá là p(6) = 18 và chi phí
trung bình là AC(6) = 8 Kết quả, lợi nhuận π = 60 là hình chữ nhật vàng có
chiều cao bằng lợi nhuận trung bình trên một đơn vị, p(6) - AC(6) = 18 - 8 =
10, và chiều rộng là 6 đơn vị

Phương pháp toán học

Chúng ta cũng có thể giải quyết số lượng tối đa hóa lợi nhuận bằng toán
học. Chúng ta đã biết hàm cầu và hàm doanh thu cận biên của sự độc quyền
này. Chúng ta cần xác định đường chi phí cận biên của nó. Chi phí của nhà
độc quyền là một hàm của sản lượng của nó, C(Q). Trong Hình 11.3, chúng ta
giả định rằng nhà độc quyền phải đối mặt với hàm chi phí ngắn hạn

C(Q) = Q2 + 12, (11.5)

trong đó Q2 là chi phí biến đổi của nhà độc quyền như một hàm của sản
lượng và 12 là chi phí cố định (Chương 7) ). Với hàm chi phí này, phương
trình 11.5, hàm chi phí biên của nhà độc quyền là 7

MC = 2Q. (11.6)

Đường chi phí cận biên này là một đường thẳng đi qua gốc tọa độ có độ
dốc bằng 2 trong phần a. Chi phí biến đổi trung bình là AVC = Q2 /Q = Q nên
là đường thẳng đi qua gốc tọa độ có độ dốc bằng 1. Chi phí trung bình là AC =
C/Q = (Q2 + 12)/Q = Q + 12/ Q, có hình chữ U. Chúng ta xác định sản lượng
tối đa hóa lợi nhuận bằng cách so sánh hàm doanh thu cận biên (Công thức
11.3) và chi phí cận biên (Công thức 11.6)

MR = 24 - 2Q = 2Q = MC
(6)Vì lợi nhuận là π = p(Q)Q - C(Q), nên lợi nhuận trung bình là π/Q = p(Q) -
C(Q)/Q = p(Q) - AC. Do đó, lợi nhuận trung bình (và do đó là lợi nhuận) chỉ
dương nếu giá cao hơn chi phí trung bình.

(7)Bằng cách vi phân phương trình 11.5 đối với sản lượng, chúng ta thấy rằng
chi phí cận biên là MC = dC(Q)/dQ = 2Q.

Giải Q, ta thấy Q = 6. Thay Q = 6 vào hàm cầu nghịch đảo (Phương trình
11.2), ta biết được rằng mức giá tối đa hóa lợi nhuận là

p = 24 - Q = 24 - 6 = 18.

Tại số lượng đó, chi phí biến đổi trung bình là AVC = 6, nhỏ hơn giá nên
hãng không đóng cửa. Chi phí trung bình là AC = 6 + 12/6 = 8, nhỏ hơn giá
nên hãng kiếm được lợi nhuận

Phương pháp của Apple

iPad của Apple .Bắt đầu bán iPad vào ngày 3 tháng 4 năm 2010. iPad không
phải là máy tính bảng đầu tiên. (Thật vậy, đây không phải là chiếc máy tính
bảng đầu tiên của Apple. Apple đã bán một chiếc máy tính bảng khác,
Newton, từ năm 1993–1998.) Nhưng nó là chiếc máy tính bảng thanh lịch
nhất và là chiếc đầu tiên mà đông đảo người tiêu dùng muốn sở hữu. IPad là
sản phẩm tiên phong về màn hình cảm ứng đa chạm, nhạy cảm với ngón tay
(chứ không phải bút cảm ứng kích hoạt bằng áp lực) và bàn phím ảo trên màn
hình. Quan trọng nhất, iPad cung cấp giao diện trực quan và được tích hợp rất
tốt với iTunes, sách điện tử và các chương trình ứng dụng khác nhau của
Apple. Mọi người yêu thích iPad nguyên bản. Ngay cả với mức giá 499 USD
cho model cơ bản, Apple vẫn độc quyền ảo trong năm đầu tiên. Theo công ty
nghiên cứu IDC, thị phần máy tính bảng năm 2010 của Apple là 87%. Hơn
nữa, các máy tính bảng khác ra mắt trong năm 2010 không được hầu hết
người tiêu dùng xem là sản phẩm thay thế gần gũi. Apple báo cáo rằng họ đã
bán được 25 triệu chiếc iPad trên toàn thế giới trong cả năm đầu tiên, 2010–
2011. Theo một ước tính, chi phí cận biên cơ bản của iPad là MC = 220 USD.
Thật không may cho Apple, sự độc quyền của nó chỉ tồn tại trong thời gian
ngắn. Trong vòng một năm kể từ khi iPad được giới thiệu, hơn một trăm chiếc
máy tính bảng tương lai có iPad đã được tung ra thị trường. Để duy trì sự
thống trị thị trường của mình, Apple đã thay thế iPad ban đầu bằng iPad 2
giàu tính năng vào năm 2011. Hãng đã bổ sung iPad 3 và iPad 4 cải tiến với
màn hình Retina vào năm 2012. Năm 2013, trước khi phát hành iPad 5, Apple
đang bán một chiếc iPad 4 với cùng mức giá 499 USD. Tuy nhiên, vì chi phí
biên của nó, 316 USD, cao hơn đối với mẫu cao cấp hơn nên lợi nhuận trên
mỗi đơn vị giảm khoảng 100 USD.

Giải quyết vấn đề 11.2

Khi iPad được giới thiệu, chi phí cận biên không đổi của Apple để sản xuất
chiếc iPad này là khoảng 220 USD. Chúng tôi ước tính rằng chi phí trung bình
của nó là khoảng AC = 220 + 2.000/Q và hàm cầu nghịch đảo của Apple đối
với iPad là p = 770 - 11Q, trong đó Q được đo bằng hàng triệu chiếc iPad
được mua.8 Hàm doanh thu cận biên của Apple là bao nhiêu? Giá và số lượng
tối đa hóa lợi nhuận của nó là bao nhiêu? Lợi nhuận của nó là bao nhiêu? Trả
lời 1. Tìm hàm doanh thu cận biên của Apple bằng cách sử dụng thông tin về
hàm cầu của nó. Cho rằng hàm cầu nghịch đảo của Apple là tuyến tính, p =
770 - 11Q, hàm doanh thu cận biên của nó có cùng điểm chặn và độ dốc gấp
đôi: MR = 770 - 22Q. (9)

(8)Xem Nguồn của Ứng dụng “Apple’s iPad” để biết chi tiết về những ước
tính này.

(9)Chúng ta có thể sử dụng phép tính để rút ra đường doanh thu cận biên.
Chúng ta nhân hàm cầu nghịch đảo với Q để được hàm doanh thu của Apple,
p = 770Q - 11Q(2). Hàm doanh thu cận biên là đạo hàm của doanh thu theo số
lượng: MR = dR/dQ = 770 - 22Q

2. Tìm ra số lượng và giá cả để tối đa hóa lợi nhuận của Apple bằng cách so
sánh hàm doanh thu cận biên và hàm chi phí cận biên và cách giải. Apple tối
đa hóa lợi nhuận của mình khi MR = MC:

770 - 22Q = 220.

Giải phương trình này để có sản lượng tối đa hóa lợi nhuận, chúng ta thấy
rằng Q = 25 triệu iPad, như hình minh họa. Bằng cách thay số lượng này vào
phương trình cầu nghịch đảo, chúng ta xác định được rằng mức giá tối đa hóa
lợi nhuận là p = 500 USD một đơn vị.

3. Tính lợi nhuận của Apple bằng cách sử dụng mức giá, số lượng tối đa hóa lợi
nhuận và chi phí trung bình. Lợi nhuận của công ty là π = (p - AC) Q = [500 -
(220 + 2.000/25)]25 = 5.000 triệu USD (5 tỷ USD). Hình vẽ cho thấy hình chữ
nhật lợi nhuận có chiều cao (p - AC) = 200 và chiều dài Q = 25.

Tác động của sự dịch chuyển đường cầu

Những thay đổi trong đường cầu hoặc đường chi phí cận biên ảnh hưởng đến mức
tối ưu độc quyền và có thể có nhiều tác động khác nhau trong thị trường độc
quyền so với thị trường cạnh tranh. Trong thị trường cạnh tranh, tác động của
sự thay đổi nhu cầu đối với sản lượng của một doanh nghiệp cạnh tranh chỉ phụ
thuộc vào hình dạng của đường chi phí cận biên (Chương 8). Ngược lại, tác
động của sự thay đổi nhu cầu đối với sản lượng của nhà độc quyền phụ thuộc
vào hình dạng của cả đường chi phí cận biên và đường cầu. Như chúng ta đã
thấy trong Chương 8, đường chi phí cận biên của một hãng cạnh tranh cho
chúng ta biết mọi điều chúng ta cần biết về lượng mà hãng sẽ cung cấp tại bất
kỳ mức giá thị trường nào. Đường cung của doanh nghiệp cạnh tranh là đường
chi phí cận biên dốc lên (trên chi phí biến đổi trung bình tối thiểu). Hành vi
cung của một doanh nghiệp cạnh tranh không phụ thuộc vào hình dạng của
đường cầu thị trường vì nó luôn đối diện với một đường cầu nằm ngang ở mức
giá thị trường. Do đó, nếu bạn biết đường chi phí cận biên của một công ty cạnh
tranh, bạn có thể dự đoán công ty đó sẽ sản xuất bao nhiêu ở bất kỳ mức giá thị
trường nào. Ngược lại, quyết định sản lượng của nhà độc quyền phụ thuộc vào
hình dạng của đường chi phí cận biên và đường cầu của nó. Không giống như
một hãng cạnh tranh, hãng độc quyền không có đường cung. Biết đường chi phí
cận biên của nhà độc quyền là không đủ để chúng ta dự đoán nhà độc quyền sẽ
bán được bao nhiêu ở bất kỳ mức giá nào. Hình 11.4 minh họa rằng mối quan
hệ giữa giá và số lượng là duy nhất trong thị trường cạnh tranh nhưng không
phải trong thị trường độc quyền. Nếu thị trường có tính cạnh tranh.

các văn bản kinh tế vi mô (mặc dù bạn sẽ không thích chúng lắm). Đường cầu
mà Pearson phải đối mặt co giãn hơn nhiều so với khi không có sản phẩm thay
thế. Nếu bạn cho rằng cuốn sách giáo khoa này đắt tiền, hãy tưởng tượng cái
giá phải trả nếu không có cuốn sách thay thế nào được xuất bản!
Ứng dụng Cáp treo và Tối đa hóa lợi nhuận
Kể từ khi hệ thống cáp treo của San Francisco bắt đầu hoạt động vào năm
1873, nó đã trở thành một trong những điểm thu hút khách du lịch chính của
thành phố. Năm 2005, Đường sắt Thành phố đang thiếu tiền mặt đã tăng giá vé
một chiều lên 2/3 từ 3 USD lên 5 USD. Không có gì đáng ngạc nhiên khi số
lượng người đi xe giảm đáng kể và nhiều người trong thành phố kêu gọi giảm
giá cước.
Tỷ lệ tăng đã khiến nhiều người
dân địa phương chuyển sang sử
dụng xe buýt hoặc các hình thức
vận tải khác, nhưng hầu hết khách
du lịch đều có đường cầu tương
đối kém co giãn đối với việc đi cáp
treo. Frank Bernstein ở Arizona,
người đã đến

thăm San Francisco cùng vợ, hai con và mẹ vợ, nói rằng họ sẽ không đến thăm San
Francisco nếu không đi cáp treo: “Đó là những gì bạn làm khi đến đây”.
Nhưng chi phí cho chuyến đi khứ hồi 50 USD để gia đình anh đi cáp treo từ ngã rẽ
Phố Powell đến Bến Ngư Phủ và quay lại “là một số tiền rất lớn đối với gia đình
chúng tôi. Chúng ta sẽ làm điều đó một lần, nhưng chúng ta sẽ không làm điều đó
lần nữa.”
Nếu thành phố vận hành hệ thống cáp treo như độc quyền tối đa hóa lợi nhuận
thì quyết định tăng giá vé sẽ rõ ràng. Việc tăng lãi suất 67% dẫn đến doanh thu
tăng 23% lên 9.045.792 USD trong năm tài chính 2005–2006. Cho rằng doanh thu
tăng khi giá tăng, thành phố phải đã hoạt động ở phần không co giãn của đường
cầu (ε > -1), trong đó MR = p(1 + 1/ε) < 0 trước khi tăng giá vé.11 Với ít hành
khách hơn, chi phí không đổi (họ sẽ có giảm nếu thành phố quyết định chạy ít hơn
40 chiếc ô tô truyền thống), do đó lợi nhuận của thành phố tăng lên do doanh thu
tăng. Có lẽ mức giá tối đa hóa lợi nhuận thậm chí còn cao hơn ở phần co giãn của
đường cong nhu cầu.
Tuy nhiên, thành phố có thể không quan tâm đến việc tối đa hóa lợi nhuận từ
cáp treo. Vào thời điểm đó, Thị trưởng lúc bấy giờ là Gavin Newsom nói rằng có ít
người đi xe hơn “là nỗi sợ hãi lớn nhất của tôi khi chúng tôi tăng giá vé. Tôi nghĩ
chúng ta đang đứng trước nguy cơ mất đi những du khách đến San Francisco và
muốn tận hưởng chuyến đi cáp treo.” Thị trưởng cho biết ông tin rằng việc giữ giá
đi cáp treo tương đối thấp sẽ giúp thu hút khách du lịch đến thành phố, từ đó mang
lại lợi ích cho nhiều doanh nghiệp địa phương. Newsom nhận xét: “Cáp treo rất
quan trọng đối với huyết mạch của thành phố và chúng đại diện cho nhiều thứ hơn
là doanh thu mà chúng mang lại”. Thị trưởng quyết định tiếp tục chạy cáp treo với
mức giá dưới mức tối đa hóa lợi nhuận. Giá vé duy trì ở mức 5 USD trong sáu năm,
sau đó tăng lên 6 USD vào năm 2011 và duy trì ở mức 6 USD cho đến ít nhất là
năm 2013.
Chỉ số Lerner
Một cách khác để cho thấy độ co giãn của cầu ảnh hưởng như thế nào đến
giá của một công ty độc quyền so với chi phí cận biên của nó là xem xét Chỉ
số Lerner (hoặc chênh lệch giá) của công ty: tỷ lệ chênh lệch giữa giá và chi
phí cận biên so với giá: (p - MC )/P. Thước đo này bằng 0 đối với một doanh
nghiệp cạnh tranh vì một doanh nghiệp cạnh tranh không thể tăng giá cao hơn
chi phí cận biên. Chênh lệch giữa giá và chi phí cận biên càng lớn thì chỉ số
Lerner càng lớn và khả năng đặt giá cao hơn chi phí cận biên của nhà độc
quyền càng lớn.
Nếu công ty đang tối đa hóa lợi nhuận, chúng ta có thể biểu thị Chỉ số
Lerner theo độ co giãn của cầu bằng cách sắp xếp lại phương trình 11.8:

Vì MC ≥ 0 và p ≥ MC, 0 ≤ p - MC ≤ p, nên Chỉ số Lerner dao động từ 0 đến


1 đối với một doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận. Phương trình 11.9 xác nhận
rằng một doanh nghiệp cạnh tranh có Chỉ số Lerner bằng 0 vì đường cầu của
nó là hoàn toàn co giãn. Như Bảng 11.2 minh họa, Chỉ số Lerner của một hãng
độc quyền tăng khi cầu trở nên kém co giãn hơn ở mức độc quyền tối ưu. Nếu
ε = 5, mức tăng giá của nhà độc quyền (Chỉ số Lerner) là 1/5 = 0,2; nếu ε = -2,
mức đánh dấu là 1/2 = 0,5; và nếu ε = -1,01 thì mức tăng là 0,99. Các công ty
độc quyền phải đối mặt với đường cầu chỉ co giãn nhẹ, đặt giá là bội số của chi
phí cận biên và có Chỉ số Lerner gần bằng 1.
Giải quyết vấn đề 11.3
Ban đầu, Apple bán iPad của mình với giá 500 USD và chi phí cận biên
của nó là khoảng 220 USD (xem Giải quyết vấn đề 11.2). Chỉ số Lerner của
nó là gì? Nếu nó hoạt động ở mức tối đa hóa lợi nhuận trong ngắn hạn thì độ
co giãn của cầu đối với iPad là bao nhiêu?
Trả lời
1. Tính chỉ số Lerner bằng cách thay giá của iPad và chi phí cận biên vào
định nghĩa. Chỉ số Lerner của Apple dành cho iPad là (p - MC)/p = (500 -
220)/500 = 0,56.
2. Xác định độ co giãn bằng cách thay chỉ số Lerner của iPad vào phương
trình
11.9. Theo phương trình 11.9, một hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận hoạt
động trong đó (p - MC)/p = -1/ε. Do đó, nếu Apple iPad được bán ở mức giá
tối đa hóa lợi nhuận, 0,56 = -1/ε, thì ε = -1/0,56 ≈ -1,79.
Nguồn sức mạnh thị trường

Khi nào hãng độc quyền sẽ đối mặt với đường cầu tương đối co giãn và do
đó có ít sức mạnh thị trường? Cuối cùng, độ co giãn của đường cầu thị trường
phụ thuộc vào thị hiếu và lựa chọn của người tiêu dùng. Người tiêu dùng càng
muốn có một hàng hóa - họ càng sẵn sàng trả "hầu như bất cứ thứ gì" cho nó -
thì đường cầu càng kém co giãn.
Tương tự như vậy, đường cầu mà một doanh nghiệp (không nhất thiết phải
là doanh nghiệp độc quyền) phải đối mặt trở nên co giãn hơn khi (1) sản phẩm
thay thế tốt hơn cho sản phẩm của doanh nghiệp được đưa ra, (2) nhiều doanh
nghiệp tham gia thị trường bán cùng một sản phẩm, hoặc (3) các công ty cung
cấp dịch vụ tương tự có vị trí gần công ty này hơn. Đường cầu của Xerox, Bưu
điện Hoa Kỳ và McDonald's đã trở nên co giãn hơn trong những thập kỷ gần
đây vì ba lý do này.
Khi Xerox bắt đầu bán máy photocopy giấy thường, không có công ty nào
bán được sản phẩm thay thế tương tự. Máy của các công ty khác sản xuất các
bản sao trên loại giấy nhớp nháp đặc biệt và nhanh chóng ố vàng. Khi các công
ty khác phát triển máy photocopy giấy thường, đường cầu mà Xerox gặp phải
trở nên co giãn hơn.
Trước đây, Bưu điện Hoa Kỳ (USPS) độc quyền cung cấp dịch vụ chuyển
phát qua đêm. Hiện FedEx, United Parcel Service và nhiều công ty khác đang
cạnh tranh với USPS trong việc cung cấp dịch vụ giao hàng qua đêm. Do sự
cạnh tranh ngày càng gia tăng này, thị phần thư tín cá nhân và kinh doanh của
USPS đã giảm từ 77% năm 1988 xuống 59% năm 1996. Tổng khối lượng thư
của USPS giảm 40% từ năm 2006 đến năm 2010. Thị phần vận chuyển đường
bộ của USPS giảm xuống 16% vào năm 2012 (FedEx chiếm khoảng một phần
ba và UPS chiếm khoảng một nửa thị trường). So với khi USPS còn độc quyền,
đường cầu của USPS đối với dịch vụ chuyển phát thư và gói hàng hạng nhất đã
dịch chuyển xuống dưới và trở nên co giãn hơn.
Khi lái xe trên đường cao tốc, bạn có thể nhận thấy các nhà hàng
McDonald’s nằm cách xa nhau hàng dặm. Mục đích của khoảng cách này là để
giảm khả năng hai cửa hàng McDonald’s cạnh tranh để giành cùng một khách
hàng. Mặc dù McDonald’s có thể ngăn cản các nhà hàng của mình cạnh tranh
với nhau nhưng điều đó không thể ngăn cản Wendy’s hay Burger King định vị
gần các nhà hàng của mình. Khi các nhà hàng thức ăn nhanh khác mở gần
McDonald’s, nhà hàng đó phải đối mặt với nhu cầu co giãn hơn. Điều gì xảy ra
khi hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận đối mặt với cầu co giãn hơn? Nó phải
giảm giá.
11.3 Thất bại thị trường do để định giá độc quyền
Không giống như cạnh tranh hoàn hảo, đạt
được hiệu quả kinh tế bằng cách tối đa hóa
phúc lợi, W (= thặng dư tiêu dùng + thặng dư
nhà sản xuất = CS + PS), độc quyền tối đa
hóa lợi nhuận là không hiệu quả về mặt kinh
tế vì nó lãng phí thặng dư tiềm năng, dẫn đến
tổn thất vô ích, DWL. Sự kém hiệu quả của
việc định giá độc quyền là một ví dụ về thất
bại của thị trường: sản xuất hoặc tiêu dùng
không hiệu quả, thường do giá vượt quá chi
phí biên
(Chương 9). Thất bại thị trường do độc quyền xảy ra do giá của nó lớn hơn chi phí
biên. Sự kém hiệu quả kinh tế này tạo ra một lý do hợp lý cho các chính phủ để can
thiệp.
Chúng tôi minh họa sự mất mát này bằng ví dụ tiếp theo của chúng tôi. Nếu nhà độc
quyềnhoạtđộng giống như một thị trường cạnh tranh và hoạt động ở nơi đường cầu
nghịch đảo của nó, Công thức 11.2, cắt đường chi phí (cung) cận biên. Công thức 11.6,
p = 24 - Q = 2Q = MC,

Tăng lên 8 để MC2 MC'+8=2Q+8. Sau khi áp dụng thuế, công ty độc quyền hoạt động
khi MR = 24 2Q 2Q+8= MC². Trong trường hợp tối ưu độc quyền sau thuế, e, số
lượng là Q₂ = 4 và giá là p₂ = 20. Do đó, sản lượng giảm
AQ= 6-4 = 2 đơn vị và giá tăng Ap = 20-18 = 2.

2. Tính toán sự thay đổi trong các thước đo phúc lợi khác nhau. Biểu đồ cho thấy
cách các biện pháp phúc lợi thay đổi. Diện tích G là doanh thu thuế được thu bởi
chính phủ, 1Q 32, vì chiều cao của nó là khoảng cách giữa hai đường chi phí cận biên,
t = 8, và chiều rộng của nó là sản lượng mà nhà độc quyền sản xuất sau khi áp dụng
thuế, Q2= 4. Thuế làm giảm thặng dư của người tiêu dùng và nhà sản xuất và làm tăng
giảm cân. Chúng ta biết rằng thặng dư của nhà sản xuất giảm vì (a) nhà độc quyền có
thể tạo ra mức sản lượng giảm này khi không có thuế nhưng không phải vì đó không
phải là sản lượng tối đa hóa lợi nhuận nên lợi nhuận trước thuế của nó giảm, và (b) sự
độc quyền bây giờ phải nộp thuế. Tổn thất vô ích trước thuế do độc quyền là – F. Tổn
thất vô ích sau thuế là – C – E – F nên tổn thất vô ích do thuế tăng thêm là – CE. Bảng
bên dưới biểu đồ cho thấy thặng dư tiêu dùng thay đổi theo – B – C và thặng dư của
nhà sản xuất thay đổi theo B – E – G.
3. Tính tỷ lệ chịu thuế. Bởi vì thuế đi từ 0 đến 8 nên sự thay đổi của thuế là At 8.
Tác động của thuế (Chương 3) đối với người tiêu dùng là Ap/At = 2/8=4. (Nhà độc
quyền hấp thụ 6 khoản thuế và chỉ chuyển 2) *15
Bình luận: Thuế làm tăng tổn thất vô ích trong thị trường độc quyền.

11.4 :Nguyên nhân của sự độc quyền


Tại sao một số thị trường bị độc quyền? Hai lý do quan trọng nhất liên quan
đến chi phí và hành động của chính phủ.*16
Độc quyền dựa trên chi phí
Một số cấu trúc chi phí có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra sự độc quyền.
Một khả năng là một công ty có thể có chi phí thấp hơn đáng kể so với các đối thủ
tiềm năng. Khả năng thứ hai là các doanh nghiệp trong một ngành có hàm chi phí
sao cho một doanh nghiệp có thể sản xuất bất kỳ sản lượng nào cho trước với chi
phí thấp hơn so với mức chi phí mà hai hoặc nhiều doanh nghiệp có thể sản xuất.
Lợi thế về chi phí
Nếu một công ty có chi phí thấp bán được lợi nhuận ở mức giá thấp đến mức các
công ty khác đối thủ cạnh tranh tiềm năng với chi phí cao hơn sẽ mất tiền, không
có công ty nào khác tham gia chợ. Vì vậy, hãng có chi phí thấp là độc quyền

__________________
*15
Ngược lại với một thị trường cạnh tranh, khi đánh thuế độc quyền, tỷ lệ đánh thuế đối
với người tiêu dùng có thể vượt quá 100%, như Phụ lục 11B minh họa. "Tác động
phúc lợi của thuế theo giá trị so với thuế cụ thể" trong MyEconLab, Chương 11,
chứng minh rằng chính phủ tăng doanh thu từ thuế bằng thuế theo giá trị quảng cáo
áp dụng cho nhà độc quyền so với thuế cụ thể khi thuế suất được ấn định sao cho
thuế sau thuế sản lượng là như nhau với cả hai loại thuế.
*16
trong các chương sau, chúng ta sẽ thảo luận về ba cách khác để tạo ra độc quyền.
Một phương pháp là sáp nhập nhiều công ty thành một công ty duy nhất (Chương
13). Việc sáp nhập này tạo ra sự độc quyền nếu các công ty mới không tham gia
được thị trường. Phương pháp thứ hai là để các doanh nghiệp điều phối các hoạt
động của mình và định giá theo cách độc quyền (Chương 13). Các công ty hoạt động
tập thể theo cách này được gọi là cartel. Phương pháp thứ ba là doanh nghiệp độc
quyền sử dụng các chiến lược ngăn cản các doanh nghiệp khác tham gia thị trường
(Chương 14).

11.4 Nguyên nhân của sự độc quyền 363

Một công ty có thể có lợi thế về chi phí so với các đối thủ tiềm năng vì
nhiều lý do. Nó có thể có công nghệ vượt trội hoặc cách tổ chức sản xuất tốt hơn
*17 .Ví dụ, phương pháp tổ chức sản xuất bằng dây chuyền lắp ráp và tiêu chuẩn
hóa của Henry Ford cho phép ông sản xuất ô tô với chi phí thấp hơn đáng kể so
với các công ty đối thủ cho đến khi họ sao chép kỹ thuật tổ chức của ông.
Một ví dụ khác là công ty kiểm soát một cơ sở thiết yếu: một nguồn lực
khan hiếm mà đối thủ cần sử dụng để tồn tại. Công ty sở hữu mỏ đá duy nhất
trong khu vực là công ty duy nhất có thể bán sỏi một cách có lãi cho các công ty
xây dựng địa phương.
Độc quyền tự nhiên
Một thị trường có độc quyền tự nhiên nếu một hãng có thể sản xuất ra
tổng sản lượng của thị trường với chi phí thấp hơn mức mà nhiều hãng có thể
sản xuất. Một doanh nghiệp có thể là độc quyền tự nhiên ngay cả khi nó không
có lợi thế về chi phí so với đối thủ vì chi phí trung bình sẽ thấp hơn nếu chỉ có
một doanh nghiệp hoạt động. Cho rằng C(q) là chi phí để bất kỳ hãng nào sản
xuất 4, điều kiện để có độc quyền tự nhiên là tình trạng độc quyền tự nhiên trong
đó một hãng có thể sản xuất tổng sản lượng của thị trường với chi phí thấp hơn
mức mà nhiều hãng có thể sản xuất
C(Q) 6 C(q1) + C(q2) + g + C(qn),, (11.10)
trong đó Q = q1 + q2 +.... + qn là tổng sản lượng của n ≥ 2 doanh nghiệp
bất kỳ.
Nếu một công ty có lợi thế kinh tế nhờ quy mô (Chương 7) ở tất cả các
mức sản lượng, đường chi phí trung bình của nó sẽ giảm khi sản lượng tăng đối
với bất kỳ mức sản lượng quan sát được nào. Nếu tất cả các doanh nghiệp tiềm
năng đều có đường chi phí trung bình giảm dần giống nhau thì thị trường này là
độc quyền tự nhiên, như chúng tôi minh họa bây giờ.

*18 Một công ty cung cấp nước cho các hộ gia đình phải chịu chi phí cố
định F cao để xây dựng một nhà máy và nối các hộ gia đình với nhà máy. Chi
phí cận biên của công ty, m, để cung cấp nước là không đổi, do đó đường chi
phí cận biên của nó nằm ngang và chi phí trung bình của nó, AC = + FIQ. giảm
khi sản lượng tăng. (Một ví dụ là chiếc iPad trong Bài toán đã giải 11.2.)
Hình 11.6 cho thấy các đường chi phí cận biên và chi phí trung bình trong
đó m = 10 và F= 60. Nếu sản lượng thị trường là 12 đơn vị mỗi ngày, một hãng
sản xuất sản lượng đó với chi phí trung bình là 15 hoặc tổng chi phí là 180 (=
15 x 12). Nếu hai công ty mỗi công ty sản xuất 6 đơn vị, thì chi phí trung bình
là 20 và chi phí để sản xuất ra sản lượng thị trường là 240 (20 x 12), lớn hơn chi
phí của một công ty duy nhất.
Nếu hai hãng chia tổng sản lượng thành theo bất kỳ cách nào khác, chi phí
sản xuất của họ vẫn sẽ vượt quá chi phí của một công ty duy nhất (như Bài toán
đã giải quyết sau đây cho thấy). Lý do là chi phí cận biên trên mỗi đơn vị là như
nhau cho dù có bao nhiêu doanh nghiệp sản xuất, nhưng mỗi doanh nghiệp bổ
sung thêm một chi phí cố định, làm tăng chi phí sản xuất một số lượng nhất
định. Nếu chỉ có một công ty cung cấp nước thì sẽ tránh được chi phí xây dựng
nhà máy thứ hai và bộ đường ống thứ hai.
Trong một ngành có cấu trúc chi phí độc quyền tự nhiên, chỉ có một hãng
sản xuất là cách có chi phí thấp nhất để sản xuất bất kỳ mức sản lượng nào *19

__________________
*17
Khi một công ty phát triển một phương pháp sản xuất tốt hơn mang lại lợi thế về chi phí, điều
quan trọng là công ty phải giữ bí mật thông tin hoặc có được bằng sáng chế để chính phủ bảo
vệ công ty khỏi bị bắt chước sự đổi mới của mình. Vì vậy, cả bí mật và bằng sáng chế đều tạo
điều kiện cho sự độc quyền dựa trên chi phí.
*18
Một hãng có thể là độc quyền tự nhiên ngay cả khi đường chi phí của nó không giảm ở mọi
mức sản lượng. Nếu đường chi phí trung bình hình chữ U đạt đến mức tối thiểu ở mức 100
đơn vị sản lượng, thì chỉ một doanh nghiệp có thể sản xuất mức sản lượng lớn hơn 100 đơn
vị một chút (chẳng hạn như 101 hoặc 102) sẽ ít tốn kém hơn mặc dù chi phí trung bình đang
tăng ở mức này. đầu ra đó. Vì vậy, hàm chi phí với tính kinh tế theo quy mô ở mọi nơi là đủ
nhưng không phải là điều kiện cần cho độc quyền tự nhiên.
*19
Tuy nhiên, phúc lợi xã hội có thể lớn hơn khi có nhiều hơn một doanh nghiệp trong ngành
sản xuất với chi phí cao hơn, do cạnh tranh đẩy giá xuống từ mức độ độc quyền. Một giải
pháp cho phép xã hội tối đa hóa phúc lợi là chỉ có một doanh nghiệp sản xuất, nhưng chính
phủ quy định doanh nghiệp đó phải tính mức giá bằng chi phí biên (như chúng ta sẽ thảo luận
ở phần sau của chương này).
Hình 11.6 Độc quyền tự nhiên
Sự độc quyền tự nhiên này có chi
phí trung bình giảm dần

Là những công ty độc quyền tự nhiên, các chính phủ thường trao quyền độc
quyền cho các tiện ích công cộng để cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ thiết
yếu như nước, khí đốt, điện hoặc chuyển phát thư. Đã giải quyết vấn đề

11.5 Giải quyết vấn đề


Một công ty cung cấp Q đơn vị nước cho các hộ gia đình có tổng chi phí
là C(Q)=mQ + F. Nếu bất kỳ công ty nào tham gia cũng có cùng mức chi phí
thì thị trường này có độc quyền tự nhiên không?
Trả lời
Xác định xem chi phí có tăng hay không nếu hai hãng sản xuất một số
lượng nhất định. Gọi q là sản lượng của Hãng 1 và 42 là sản lượng của Hãng
2. Chi phí tổng hợp của hai hãng sản xuất Q = q1 + q2 này là
C(q1) + C(q2) = (mq1 + F) + (mq2 + F) = m(q1 + q2) + 2F = mQ + 2F
Nếu một hãng duy nhất sản xuất Q, thì chi phí của nó là
C(Q) = mQ+ F
Do đó, chi phí sản xuất bất kỳ Q nào cho trước sẽ lớn hơn ở hai hãng so với
một hãng (điều kiện trong phương trình 11.10), do đó thị trường này có sự
độc quyền tự nhiên.

Chính phủ tạo ra sự độc quyền

Bằng cách ngăn chặn các công ty khác tham gia thị trường, chính phủ tạo
ra sự độc quyền. Chúng tôi bắt đầu bằng việc thảo luận về các rào cản gia
nhập chung mà chính phủ dựng lên và sau đó tập trung vào các bằng sáng chế.

Rào cản gia nhập


Đôi khi chính phủ sở hữu và quản lý các công ty độc quyền, cấm các công
ty khác tham gia. Ở Hoa Kỳ, cũng như ở hầu hết các nước, dịch vụ bưu
chính là độc quyền của chính phủ. Một số quốc gia, chẳng hạn như Trung
Quốc, duy trì độc quyền về thuốc lá. Nhiều chính quyền địa phương sở hữu
và vận hành các công ty độc quyền về tiện ích công cộng cung cấp dịch vụ
thu gom rác, điện, nước, gas, điện thoại và các tiện ích khác.
Các chính phủ trên khắp thế giới đã tư nhân hóa nhiều công ty độc quyền
thuộc sở hữu nhà nước trong nhiều thập kỷ qua. Bằng cách bán độc quyền
của mình cho các công ty tư nhân, chính phủ có thể nắm bắt được giá trị thu
nhập độc quyền trong tương lai ngày hôm nay. Tuy nhiên, vì lý do chính trị
hoặc lý do khác, chính phủ thường bán với giá thấp hơn và không thu được
toàn bộ lợi nhuận trong tương lai.
Ở các thị trường khác, chính phủ trao hoặc đấu giá quyền độc quyền - giấy
phép hoạt động cho một công ty tư nhân. Ví dụ, nhiều thành phố cho phép
một công ty tư nhân duy nhất cung cấp dịch vụ truyền hình cáp. Nhiều sân
bay thuộc sở hữu của chính phủ đấu giá quyền cho một công ty duy nhất
cung cấp một dịch vụ cụ thể, chẳng hạn như bán hành lý. Bằng cách bán đấu
giá độc quyền cho một công ty tư nhân, chính phủ có thể nắm bắt được giá
trị tương lai của thu nhập độc quyền *20
Bằng sáng chế
Nếu một công ty không thể ngăn chặn việc bắt chước bằng cách giữ bí mật
phát hiện của mình, công ty đó có thể nhận được sự bảo hộ của chính phủ để
ngăn chặn các công ty khác sao chép phát hiện của mình và gia nhập thị
trường. Hầu như tất cả các quốc gia đều cung cấp sự bảo hộ như vậy thông
qua bằng sáng chế: quyền độc quyền được cấp cho nhà phát minh để bán sản
phẩm, quy trình, chất hoặc thiết kế mới và hữu ích trong một khoảng thời
gian cố định. Thời hạn của bằng sáng chế khác nhau giữa các quốc gia, mặc
dù hiện nay ở Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia khác là 20 năm.
bằng sáng chế một quyền độc quyền được cấp cho nhà phát minh để bán một sản phẩm, quy
trình, chất hoặc thiết kế mới và hữu ích trong một khoảng thời gian cố định
Quyền này cho phép chủ sở hữu bằng sáng chế trở thành người bán hoặc
người sử dụng độc quyền phát minh mới *21 Bằng sáng chế thường dẫn đến
độc quyền, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Ví dụ, mặc dù bằng sáng chế
có thể cấp cho một công ty độc quyền sử dụng một quy trình cụ thể để sản
xuất một sản phẩm nhưng các công ty khác có thể sản xuất cùng một sản
phẩm bằng các quy trình khác nhau.

Một công ty độc quyền về bằng sáng chế sẽ đặt giá cao dẫn đến tổn thất vô
ích, Vậy thì tại sao các chính phủ lại cấp độc quyền bằng sáng chế? Lý do
chính là để khuyến khích sự đổi mới không có hoạt động sáng tạo sẽ xảy ra
nếu các nhà phát minh thành công không nhận được độc quyền bằng sáng
chế. Chi phí phát triển một loại thuốc mới hay chip máy tính mới thường lên
tới hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ USD. Nếu bất cứ ai có thể sao chép một
loại thuốc hoặc con chip mới và cạnh tranh với nhà phát minh thì sẽ có rất ít
cá nhân hoặc công ty thực hiện nghiên cứu tốn kém. Do đó, chính phủ rõ ràng
đang đánh đổi lợi ích lâu dài của các phát minh bổ sung với những tác hại
ngắn hạn của việc định giá độc quyền. trong thời gian bảo hộ sáng chế.

Một giải pháp thay thế cho việc sử dụng bằng sáng chế để thúc đẩy nghiên
cứu là chính phủ cung cấp tài trợ nghiên cứu hoặc trao giải thưởng cho những
phát minh quan trọng. Tuy nhiên, làm như vậy rất tốn kém, vì vậy hầu hết các
chính phủ chủ yếu dựa vào bằng sáng chế.

*20 Ngoài ra, chính phủ có thể bán đấu giá quyền cho công ty đưa ra mức giá
thấp nhất để tối đa hóa phúc lợi. Oakland, California đã từng thử làm điều đó
với dịch vụ truyền hình cáp.
*21 Chủ sở hữu bằng sáng chế có thể bán hoặc cấp phép cho các công ty khác
quyền sử dụng quy trình được cấp bằng sáng chế hoặc sản xuất sản phẩm
được cấp bằng sáng chế.

366 Bác sĩ nhãn khoa


Tiến sĩ Alan Scott đã biến chất độc botulinum độc chết người thành một loại thuốc
thần kỳ để điều trị hai tình trạng về mắt: lác, tình trạng mắt không thẳng hàng và co
thắt mi, nhắm mắt không kiểm soát được. Lác mắt ảnh hưởng đến khoảng 4% trẻ em
và chứng co thắt mi mắt khiến khoảng 25.000 người
Mỹ bị mù chức năng trước khi phát hiện ra Scott.
Loại thuốc đã được cấp bằng sáng chế của ông,
Botox, được bán bởi Allergan, Inc.
Tiến sĩ Scott đã rất thích thú khi thấy một số người
được hưởng lợi ngoài ý muốn Ứng dụng Độc quyền
bằng sáng chế Botox nghiên cứu của ông tại Giải
thưởng Học viện hàng năm. Ngay cả trước khi nó
được giải thích- được phép sử dụng trong thẩm mỹ,
nhiều bác sĩ đã tiêm Botox vào cơ mặt của diễn
viên, người mẫu và những người khác để làm phẳng
nếp nhăn của họ. (Thuốc làm tê liệt các cơ, vì vậy
những người được tiêm thuốc cũng mất khả năng
cau mày hoặc mỉm cười - và, một số người nói, mất
khả năng hành động.) Việc điều trị chỉ là tạm thời,
kéo dài đến 120 ngày, vì vậy cần phải tiêm nhiều
lần.

Allergan gần như độc quyền trong việc điều trị nếp nhăn, mặc dù phẫu thuật thẩm mỹ
và collagen, Restylane, axit hyaluronic và các loại thuốc tiêm chất làm đầy khác
mang lại sự cạnh tranh hạn chế. Theo Hiệp hội bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Hoa Kỳ, từ
năm 2002 đến năm 2004, số ca căng da mặt giảm 3% xuống còn khoảng 114.000 ca,
trong khi số ca tiêm Botox tăng vọt 166% lên gần 3 triệu. Allergan có doanh số bán
Botox là 800 triệu USD vào năm 2004 và khoảng 1,8 tỷ USD vào năm 2012. Thật
vậy, giá trị của Botox có thể tăng lên. Năm 2013, FDA đã phê duyệt việc sử dụng nó
để điều trị chứng đau nửa đầu.

Tiến sĩ Scott có thể sản xuất một lọ Botox trong phòng thí nghiệm của mình với
giá khoảng 25 USD. Allergan bán thuốc cho bác sĩ với giá khoảng 400 USD. Giả sử
rằng công ty đang đặt giá để tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn, chúng ta có thể sắp xếp
lại phương trình 11.9 để xác định độ co giãn của cầu đối với Botox:

Do đó, nhu cầu mà Allergan phải đối mặt chỉ co giãn nhẹ: Giá tăng 1% khiến số
lượng giảm hơn 1% một chút.
Nếu chúng ta giả định rằng đường cầu là tuyến tính và độ co giãn của cầu là-1,067
tại mức tối ưu độc quyền, e, (1 triệu lọ bán được với giá 400 USD mỗi lọ, tạo ra
doanh thu 400 triệu USD vào năm 2002), khi đó hàm cầu nghịch đảo của Allergan là
*22
p=775-375Q.
Đường cầu này (xem biểu đồ) có độ dốc -375 và chạm vào trục giá ở mức 775 USD
và trục số lượng ở mức khoảng 2,07 triệu lọ mỗi năm. Đường cong doanh thu cận
biên tương ứng MR =775-750Q,
chạm vào trục giá ở mức 775 USD và có độ dốc gấp đôi -750 của đường cầu. Giao
điểm của đường doanh thu cận biên và đường chi phí cận biên,
MR =775 7500 - 25-MC,

_____________
*22
Biểu đồ thể hiện đường cầu tuyến tính nghịch đảo: p = a - bQ. Độ co giãn của cầu đối với đường cầu
tuyến tính như vậy là e=-(1/b)(p/Q). Sử dụng Phương trình 11.9 và dữ liệu cho ứng dụng, độ co
giãn của cầu ở mức tối ưu là -400/375=-(1/b)(400/1), trong đó Q được đo bằng hàng triệu lọ. Do đó,
b = 375. Giải p= 400 a- (375 x 1), ta thấy a = 775. Giải p = 400= a- 375 x 1, ta thấy a = 775

11.5 Hành động của Chính phủ làm giảm sức mạnh thị trường

Một số chính phủ hành động để giảm bớt hoặc loại bỏ sức mạnh thị trường của
các công ty độc quyền. Nhiều chính phủ trực tiếp quản lý các công ty độc quyền,
đặc biệt là các công ty do chính phủ tạo ra, như các tiện ích công cộng. Hầu hết các
nước phương Tây đều thiết kế luật để ngăn chặn một công ty khỏi việc đẩy các công
ty khác ra khỏi thị trường để độc quyền hóa thị trường đó. Chính phủ có thể phá vỡ
sự độc quyền bằng cách chia nó thành các công ty độc lập, nhỏ hơn (như chính phủ
đã làm với Alcoa, công ty độc quyền về nhôm trước đây).

Điều tiết các độc quyền


Chính phủ hạn chế sức mạnh thị trường của các tập đoàn độc quyền theo
nhiều cách khác nhau. Ví dụ, hầu hết các tiện ích đều phải chịu sự điều chỉnh trực
tiếp. Ngày nay, phương pháp phổ biến nhất để điều chỉnh giá cả độc quyền là áp
đặt mức giá trần, được gọi là mức giá tối đa. Quy định giá trần được sử dụng cho
các tập đoàn độc quyền viễn thông ở 33 tiểu bang Hoa Kỳ và ở nhiều quốc gia, bao
gồm Úc, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Mexico, Thụy Điển và Vương quốc Anh
(Sappington và Weisman, 2010).

Điều chỉnh giá tối ưu Chính phủ có thể loại bỏ tổn thất vô ích của độc quyền
bằng cách áp đặt mức giá trần bằng với mức giá sẽ thịnh hành trong thị trường
cạnh tranh. Ta sử dụng ví dụ tuyến tính trước đó để minh họa loại quy định này
trong Hình 11.7.
Nếu chính phủ không điều tiết độc quyền tối đa hóa lợi nhuận, thì mức tối ưu
của độc quyền là e m, tại đó 6 đơn vị được bán với giá độc quyền là 18. Giả sử chính
phủ đặt giá trần là 16 đô la, mức giá mà tại đó đường chi phí cận biên cắt đường
cầu thị trường. Vì công ty độc quyền không thể tính phí hơn 16 đô la cho mỗi đơn
vị, nên đường cầu điều tiết của độc quyền là đường thẳng ở mức 16 (tối đa là 8 đơn
vị) và tương tự với đường cầu thị trường ở mức giá thấp hơn. Đường doanh thu cận
biên MR r, tương ứng với đường cầu được điều tiết, là đường thẳng ở mức đường
cong cầu được điều tiết là đường thẳng (tối đa là 8 đơn vị) và bằng đường doanh
thu cận biên MR, tương ứng với đường cầu thị trường ở số lượng lớn hơn.

Độc quyền được điều tiết đặt sản lượng của nó ở mức 8 đơn vị, nơi MR r bằng
chi phí cận biên của nó, MC, và tính phí mức giá tối đa được cho phép, 16. Công ty
được điều tiết vẫn thu được lợi nhuận, vì chi phí trung bình của nó thấp hơn 16 đô
la tại 8 đơn vị. Mức tối ưu được điều tiết tối ưu của độc quyền, e o, giống như cân
bằng cạnh tranh, nơi chi phí cận biên (cung) bằng đường cầu thị trường. Do đó,
việc đặt giá trần ở mức đường cong MC và đường cầu thị trường cắt nhau sẽ loại
bỏ tổn thất vô ích của độc quyền.
Làm thế nào để ta biết được rằng quy định này là tối ưu? Câu trả lời là kết quả
được điều tiết này giống như sẽ xảy ra nếu thị trường này là cạnh tranh, nơi phúc
lợi được tối đa hóa (Chương 9). Như bảng kèm theo Hình 11.7 cho thấy tổn thất vô
ích của độc quyền, C + E, đã được loại bỏ bởi quy định tối ưu này.
Hình 11.7 Điều chỉnh giá tối ưu

Nếu chính phủ ấn định mức giá trần ở mức 16, nơi đường chi phí cận biên
của độc quyền cắt đường cầu, thì đường cầu mới mà độc quyền phải đối mặt có
một điểm gấp khúc ở mức 8 đơn vị và đường doanh thu cận biên tương ứng,
MRr , "nhảy" ở số lượng đó. Độc quyền được điều tiết đặt sản lượng của mình
ở mức MR r=MC bán cùng số lượng 8 đơn vị với cùng mức giá là 16 như một
er, $ đơn vị trên ngày
ngành công nghiệp cạnh tranh. Điều tiết loại bỏ tổn thất vô ích của độc quyền,
C + E. Thặng dư tiêu dùng, A + B + C, và thặng dư sản xuất, D + E, dưới cùng
mức cạnh tranh.

24
Cầu thị trường
A
em Cầu điều tiết
18
B

16
D

MR’

MR

0 6 8 12 24

Q1 đơn vị trên ngày

Monopoly with Monopoly with a Low Change


Optimal Regulation Regulated Price

Consumer Surplus, CS A+B A+C C – B = ∆CS

Producer Surplus, PS C + D +E E -C – D = ∆PS

Welfare, W = CS + PS A+B+C+D+E A+C+E -B – D = ∆W = DWL


Các vấn đề trong việc điều tiết Chính phủ thường thất bại trong việc điều
tiết các doanh nghiệp độc quyền một cách tối ưu vì ít nhất ba lý do. Thứ nhất,
do thông tin hạn chế về đường cầu và đường chi phí cận biên, chính phủ có
thể đặt giá trần cao hơn hoặc thấp hơn mức cạnh tranh.
Thứ hai, quy định có thể không hiệu quả khi các cơ quan quản lý bị
kiểm soát: bị ảnh hưởng bởi các công ty mà họ quản lý. Thông thường, ảnh
hưởng này tinh vi hơn so với việc hối lộ trắng trợn. Nhiều cơ quan quản lý
Mỹ đã từng làm việc trong ngành trước khi họ trở thành quản lý và do đó họ
thấu hiểu những công ty này. Đối với nhiều cơ quan quản lý khác, điều ngược
lại là đúng: Sau cùng, họ mong muốn có được những công việc tốt trong
ngành, vì vậy họ không muốn làm mất lòng những nhà tuyển dụng tiềm năng.
Và một số cơ quan quản lý, dựa vào các chuyên gia trong ngành để lấy thông
tin, có thể bị đánh lừa hoặc ít nhất bị ảnh hưởng nặng nề bởi ngành công
nghiệp. Ví dụ, Ủy ban Tiện ích Công cộng California đã thúc giục các công
ty điện thoại và cáp tự đàm phán với nhau về cách họ muốn mở các thị
trường điện thoại địa phương để cạnh tranh. Tranh luận rằng những ảnh
hưởng này là cố hữu, một số nhà kinh tế cho rằng giá cả và các loại quy định
khác khó có thể dẫn đến hiệu quả.

Thứ ba, vì các cơ quan quản lý thường không thể trợ cấp độc quyền, họ có
thể không thể đặt giá thấp như họ muốn vì công ty có thể đóng cửa. Trong
độc quyền tự nhiên, khi đường chi phí trung bình hoàn toàn cao hơn đường
chi phí cận biên, nếu cơ quan quản lý đặt giá bằng với chi phí cận biên để loại
bỏ tổn thất vô ích, công ty sẽ không đủ khả năng hoạt động. Nếu các cơ quan
quản lý không thể trợ cấp công ty, họ phải tăng giá lên mức mà công ty ít
nhất hòa vốn.

Quy định giá không tối ưu Nếu chính phủ đặt giá trần ở mức không tối ưu
sẽ dẫn đến tổn thất vô ích. Giả sử rằng chính phủ đặt ra mức giá được điều
tiết thấp hơn mức tối ưu là 16 trong Hình 11.7. Nếu đặt giá thấp hơn chi phí
trung bình tối thiểu của công ty, công ty sẽ đóng cửa, vì vậy tổn thất vô ích
bằng tổng của thặng dư tiêu dùng cộng với thặng dư sản xuất theo quy định
tối ưu, A + B + C + D + E.
Nếu chính phủ đặt giá trần thấp hơn mức giá tối ưu được điều tiết nhưng đủ
cao để công ty không đóng cửa, những người tiêu dùng may mắn mua được
hàng hóa sẽ được hưởng lợi vì họ có thể mua nó với giá thấp hơn so với mức
giá tối ưu. Như ta đã chứng minh trong Solved Problem sau đây, xã hội phải
chịu tổn thất trọng lượng chết vì sản lượng được bán ra ít hơn so với sự điều
tiết tối ưu.

Giải quyết vấn đề 11.6 Giả sử rằng chính phủ đặt ra mức giá, p2, thấp
hơn mức tối ưu xã hội, p1, nhưng cao hơn chi phí trung bình tối thiểu của
độc quyền. Giá cả, lượng bán, lượng cầu và phúc lợi dưới sự điều tiết này so
sánh như thế nào với sự điều tiết tối ưu?

Trả lời

1. Mô tả kết quả được điều tiết tối ưu. Với điều tiết tối ưu, e 1, giá được đặt ở
mức p1, tại đường cầu thị trường cắt đường chi phí cận biện của độc quyền
trên biểu đồ kèm theo. Độc quyền tối ưu được điều tiết bán được Q1đơn vị.

P, $ trên đơn vị

Cầu thị trường

Cầu điều tiết

Q1 đơn vị trên ngày


Cầu vượt
2. Mô tả kết quả khi chính phủ điều tiết giá ở p2. Tại cầu thị trường trên p2,
đường cầu điều tiết của độc quyền nằm tại p2 (đến Qd ). Đường doanh thu cận
biên tương ứng MR r bị gãy khúc. Nó nằm ngang khi đường cầu điều tiết nằm
ngang. Đường cong MR r giống với đường doanh thu cận biên tương ứng với
đường cầu thị trường, MR, ở đó đường cầu điều tiết dốc xuống. Nhà độc
quyền tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách bán Q2 đơn vị ở mức giá p2.
Điều tiết độc quyền tối ưu mới là e 2 nơi mà MR r cắt MC. Công ty không đóng
cửa khi được điều tiết miễn là chi phí biến đổi trung bình tạiQ2 nhỏ hơn p2.

3. So sánh các kết quả. Số lượng mà độc quyền bán 3. So sánh kết quả. Số
lượng mà nhà độc quyền bán giảm từ Q1xuống Q2 khi chính phủ hạ giá trần từ
p1xuống p2. Với mức giá thấp đó người tiêu dùng muốn mua Qd dẫn đến dư
cầu Qd −¿Q ¿. So với điều tiết tối ưu, phúc lợi sẽ thấp hơn ít nhất là B + D.
2

Bình luận: Tổn thất phúc lợi sẽ lớn hơn nếu người tiêu dùng không may mắn
lãng phí thời gian cố gắng mua hàng hóa bất thành hoặc nếu hàng hóa không
được phân bổ tối ưu giữa những người tiêu dùng. Một người tiêu dùng chỉ
đánh giá hàng hóa ở mức p2có thể may mắn mua được nó, trong khi người
tiêu dùng đánh giá hàng hóa ở mức p1trở lên có thể không mua được nó
(Chương 9).

Ứng dụng
Điều tiết khí gas tự nhiên
Bởi vì các công ty độc quyền về khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ thường có
quy mô kinh tế đáng kể và các cơ quan quản lý thường không thể trợ cấp cho
họ, giá điều tiết được đặt trên chi phí cận biên tạo ra tổn thất vô ích. Con số
này dựa trên ước tính của Davis và Muehlegger (2010). Nếu không được
kiểm soát, sự độc quyền này sẽ bán được 12,1 nghìn tỷ khối feet khí tự nhiên
mỗi năm, điều này được xác định bởi giao điểm của doanh thu cận biên và
đường chi phí cận biên. Giá tương ứng được tính trên đường cầu tại điểm a.
Lợi nhuận là hình chữ nhật π, có chiều dài bằng số lượng là 12,1 nghìn tỷ feet
khối và chiều cao bằng chênh lệch giữa giá ở mức a và chi phí trung bình
tương ứng.

Để loại bỏ tổn thất vô ích, chính phủ nên ấn định mức giá trần bằng với
chi phí cận biên là 5,78 USD trên một nghìn feet khối khí đốt tự nhiên để độc
quyền hành xử như người chấp nhận giá. Đường giá trần hoặc đường chi phí
cận biên chạm đường cầu tại c với số lượng là 24,2 nghìn tỷ feet khối mỗi
năm—gấp đôi số lượng không được điều tiết. Với số lượng đó, tiện ích được
điều tiết sẽ thua lỗ. Chi phí trung bình cho số lượng đó là $7,78, thấp hơn 10¢
so với chi phí trung bình của 7,88 USD với số lượng 23 nghìn tỷ feet khối.
Giá điều tiết là 5,78 USD, thấp hơn chi phí trung bình ở số lượng đó là 7,78
USD, do đó sẽ mất 2 USD cho mỗi nghìn khối feet bán được, tương đương
tổng cộng 48,4 tỷ USD. Vì vậy, họ sẽ sẵn sàng bán số lượng này với giá mức
giá này chỉ khi chính phủ trợ giá.

Thông thường, việc một cơ quan quản lý của chính phủ trợ cấp cho độc
quyền là không khả thi về mặt chính trị. Trung bình, các cơ quan quản lý khí
đốt tự nhiên đặt giá ở mức 7,88 USD trên một nghìn feet khối, nơi đường cầu
giao với đường chi phí trung bình và điểm hòa vốn độc quyền, điểm b. Độc
quyền bán 23 nghìn tỷ khối feet mỗi năm. Giá tương ứng là 7,88 USD cao
hơn 36% so với chi phí cận biên là 5,78 USD. Hậu quả là xã hội phải gánh
chịu tổn thất vô ích là 1,26 tỷ USD hàng năm, tức là tam giác màu xám trong
hình. Tổn thất vô ích này nhỏ hơn nhiều so với tổn thất vô ích nếu sự độc
quyền không được điều tiết.
p, $ trên mỗi nghìn feer gas tự nhiên

Cầu

Q1 nghìn tỉ khối khí gas trên năm

Cạnh tranh gia tăng


Khuyến khích cạnh tranh là một giải pháp thay thế để điều tiết như một
phương tiện để giảm thiểu tác hại của độc quyền. Khi chính phủ tạo ra độc
quyền bằng cách ngăn chặn sự gia nhập, điều này có thể nhanh chóng làm
giảm sức mạnh thị trường của nhà độc quyền bằng cách cho phép các công ty
khác gia nhập. Khi các doanh nghiệp mới tham gia thị trường, doanh nghiệp
độc quyền trước đây phải giảm giá để cạnh tranh nên phúc lợi tăng lên. Nhiều
chính phủ đang tích cực khuyến khích việc gia nhập thị trường điện thoại,
điện và các thị trường tiện ích khác từng bị độc quyền.

Tương tự, chính phủ có thể chấm dứt lệnh cấm nhập khẩu để độc quyền
trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các công ty nước ngoài. Với
nhiều công ty nước ngoài có cùng chi phí như công ty nội địa, nhà độc quyền
trước đây chỉ trở thành một trong nhiều công ty cạnh tranh. Khi thị trường trở
nên cạnh tranh, người tiêu dùng trả mức giá cạnh tranh và tổn thất vô ích do
độc quyền được loại bỏ.

Các chính phủ trên khắp thế giới đang gia tăng cạnh tranh ở các thị
trường độc quyền trước đây. Ví dụ, chính phủ Mỹ và các nước châu Âu đang
buộc các công ty độc quyền điện thoại và năng lượng trước đây phải cạnh
tranh.

Tương tự, dưới áp lực của Tổ chức Thương mại Thế giới, nhiều quốc gia
đang giảm bớt hoặc loại bỏ các rào cản bảo vệ độc quyền trong nước. Sự gia
nhập của các công ty cạnh tranh nước ngoài vào một thị trường có thể tạo ra
một cấu trúc thị trường mới cạnh tranh hơn.

Ứng dụng
Cuộc cạnh tranh chung đối với ipod của Apple

Mặc dù không phải là máy nghe nhạc ổ cứng đầu tiên nhưng iPod của
Apple đã trở thành nhà sản xuất độc quyền ảo khi nó được giới thiệu vào năm
2001. Được trang bị một ổ cứng nhỏ, nó chỉ bằng khoảng một phần tư kích cỡ
của đối thủ cạnh tranh, là máy phát duy nhất sử dụng giao diện FireWire tốc độ
cao để truyền tập tin, chứa hàng nghìn bài hát, cung cấp một giao diện trực
quan và rất hấp dẫn. iPod chiếm 96% thị trường đầu đĩa cứng vào năm 2004 và
trên 90% vào năm 2005.

Tuy nhiên, cuối cùng, các công ty khác đã sản xuất ra những sản phẩm
mà ít nhất một số người tiêu dùng sẵn sàng mua thay vì iPod. Hầu hết người
tiêu dùng coi các sả phẩm của đối thủ là những sản phẩm chung chung, “sản
phẩm ăn theo”. Không có đối thủ cạnh tranh chiếm được thị phần lớn — Đối
thủ theo sát nhất của iPod, Zune của Microsoft, chỉ chiếm 2% thị trường trong
năm 2009, và rời thị trường vào năm 2011. Thị phần của iPod vẫn trên 70%
vào năm 2012. Apple, công ty thống trị ngành, phải đối mặt với một rìa cạnh
tranh bao gồm các công ty nhỏ, các hãng chấp nhận giá.
Apple đã có thể sản xuất iPod với chi phí thấp hơn so với các đối thủ
cạnh tranh. Do quy mô lớn, Apple đã thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược
với các công ty khác để mua nguồn cung cấp linh kiện lớn để đảm bảo mức giá
từ nhà cung cấp thấp hơn so với mức giá của đối thủ cạnh tranh. Theo Piper
Jaffray năm 2005, giá thành của chiếc iPod 30GB của Apple là 10 USD mỗi
gigabyte so với ZEN Vision:M của Creative có giá là 11 USD mỗi gigabyte,
trong khi đó giá của Samsung và iRiver là từ 15 đến 25 USD mỗi
gigabyte.Theo iSuppli (nay là IHS) vào năm 2010, chi phí cận biên của iPod
nano thế hệ thứ sáu của Apple là khoảng 45 USD, trong khi giá của nó là
khoảng 150 USD. Không có công ty nào khác có thể sánh kịp với chi phí của
Apple.

Giải quyết vấn đề 11.7 Sự hiện diện của các sản phẩm cạnh tranh ăn
theo của đối thủ được sản xuất bởi các công ty có chi phí biên cao hơn ảnh
hưởng như thế nào đến giá iPod của Apple trong những năm gần đây? Giả sử
Apple có chi phí cận biên không đổi MC. Lượng lớn các đối thủ cạnh tranh
giống hệt nhau, có chi phí cao hơn—rìa cạnh tranh—hành động như những
người chấp nhận giá (cạnh tranh) để nguồn cung chung của họ đường cong
nằm ngang tại p2=MC + x .

Trả lời

1. Hãy chỉ ra cách Apple định giá iPod như thế nào khi độc quyền bằng
cách cân bằng doanh thu cận biên và chi phí cận biên. Hình vẽ thể hiện đường
cầu (thị trường) ban đầu của Apple cho iPod dưới dạng một đường màu xanh
nhạt. Đường doanh thu cận biên tương ứng là đường màu tím nhạt. Kết quả tối
đa hóa lợi nhuận là e 1khi Apple đặt ra với lượng Q1, tại đó đường MR của gặp
đường MC và mức giá tương ứng là p1.

2. Hãy chỉ ra đường cung cạnh tranh làm thay đổi đường cầu Apple như
thế nào. Các đường cung cạnh tranh hoạt động giống như mức giá trần của
chính phủ. Bây giờ, Apple không thể tính giá cao hơn p2=MC + x . Do đó, đường
cầu dư màu xanh đậm phẳng tại MC + x và giống như đường cầu dốc xuống ban
đầu tại giá thấp hơn. (Nghĩa là, đường cầu dư đối với iPod cũng tương tự như
đường cầu dư của độc quyền được quy định trong Hình 11.7.)
3. Xác định kết quả tối ưu mới của Apple bằng cách cân bằng doanh thu
cận biên mới với chi phí cận biên. Apple hành động như nhà độc quyền đối với
đường cầu dư của mình (thay vì đường cầu ban đầu). Tương ứng với đường
cầu dư của Apple trong hình là một đường gấp khúc màu tím đậm.

11.6 Mạng lưới, Động lực học, và Nền kinh tế hành vi


Chúng ta đã xem xét hoạt động độc quyền trong giai đoạn hiện tại,
không tính tới tương lai. Đối với nhiều thị trường, loại phân tích như này là
phù hợp. Tuy nhiên, ở một số thị trường, các quyết định ngày nay ảnh hưởng
đến nhu cầu hoặc chi phí trong tương lai, tạo ra nhu cầu để phân tích động,
trong đó các công ty xem xét rõ ràng mối quan hệ giữa các thời kỳ.

Trong những thị trường như vậy, nhà độc quyền bán có thể tối đa hóa lợi
nhuận dài hạn của mình bằng cách hôm nay đưa ra một quyết định không tối
đa hóa lợi nhuận ngắn hạn của mình. Ví dụ, một công ty thường giới thiệu một
sản phẩm mới - chẳng hạn như một loại kẹo mới - ban đầu bằng cách bán giá
thấp hoặc tặng hàng dùng thử miễn phí để quảng cáo truyền miệng hoặc để
khách hàng tìm hiểu về chất lượng của nó với hy vọng nhận được sự kinh
doanh trong tương lai cho họ. Bây giờ chúng ta hãy xem xét một lý do quan
trọng tại sao nhu cầu của người tiêu dùng trong tương lai có thể phụ thuộc vào
hành động của nhà độc quyền bán ở hiện tại.

Tác động mạng lưới ngoại ứng


Số lượng khách hàng mà một công ty có ngày hôm nay có thể ảnh hưởng
đến đường cầu mà nó phải đối mặt trong tương lai. Một hàng hóa có tác động
mạng lưới ngoại ứng nếu nhu cầu của một người phụ thuộc vào việc tiêu dùng
hàng hóa đó của người khác. Nếu một hàng hóa có tác động mạng lưới ngoại
ứng tốt, giá trị của nó đối với người tiêu dùng sẽ tăng lên khi số lượng đơn vị
bán ra tăng lên.
Khi một công ty giới thiệu một hàng hóa mới có tác động bên ngoài
mạng lưới, nó đối mặt với vấn đề con gà và quả trứng: Không thể thuyết phục
Max mua hàng hóa đó trừ khi Sofia mua nó, nhưng cũng không thể thuyết
phục Sofia mua nó trừ khi Max mua. Công ty muốn khách hàng của mình phối
hợp hoặc có quyết định mua hàng cùng một lúc.
Điện thoại cung cấp một ví dụ cổ điển về tác động mạng lưới ngoại ứng
tốt. Khi điện thoại được giới thiệu, những khách hàng tiềm năng không có lý
do gì để sử dụng dịch vụ điện thoại trừ khi gia đình và bạn bè của họ làm vậy.
Tại sao phải mua điện thoại nếu không có ai để gọi? Để mạng lưới điện thoại
của Bell thành công, nó phải đạt được số lượng người dùng lớn để những
người khác muốn tham gia. Nếu không đạt được số lượng thiết yếu này, nhu
cầu sẽ không đủ đáp ứng và mạng lưới sẽ ngừng hoạt động. Tương tự như vậy,
thị trường máy fax tăng trưởng rất chậm cho đến khi đạt được số lượng đủ lớn
tới mức nhiều công ty sở hữu chúng.
Tác động quy mô trực tiếp Nhiều ngành thể hiện những tác động mạng lưới
ngoại ứng tốt tại đó khách hàng nhận được lợi ích trực tiếp từ mạng lưới lớn
hơn. Mạng máy rút tiền tự động (ATM) như mạng lưới Plus, nó càng lớn thì
khả năng bạn tìm thấy máy ATM khi bạn muốn , do đó, bạn càng có nhiều khả
năng muốn sử dụng mạng lưới đó. Càng nhiều người sử dụng một chương trình
máy tính cụ thể nào đó thì nó càng hấp dẫn đối với những người muốn trao đổi
tập tin với những người dùng khác.
Tác động gián tiếp Ở một số thị trường, các tác động mạng lưới ngoại ứng tốt
là gián tiếp và xuất phát từ các hàng hóa bổ sung được cung cấp khi sản phẩm
có lượng người dùng lớn Càng có nhiều ứng dụng (app) cho điện thoại thông
minh thì càng có nhiều người muốn mua điện thoại thông minh. Tuy nhiên,
những ứng dụng bổ sung này sẽ chỉ được tạo ra khi có một lượng lớn khách
hàng mua điện thoại thông minh. Tương tự, càng có nhiều người lái ô tô chạy
bằng động cơ diesel thì khả năng các cây xăng sẽ bán nhiên liệu diesel càng
nhiều; và càng có nhiều trạm xăng thì càng có nhiều khả năng ai đó sẽ muốn
lái xe chạy bằng động cơ diesel. Tương tự như vậy, khi một lượng lớn khách
hàng có quyền truy cập Internet băng thông rộng, ngày càng có nhiều dịch vụ
cung cấp nhạc, phim có thể tải xuống và các trang Web có độ phân giải cao.
Khi những ứng dụng phổ biến đó xuất hiện, sẽ có nhiều người đăng ký dịch vụ
băng thông rộng hơn.
Tác động mạng lưới ngoại ứng và Nền kinh tế hành vi
rằng người tiêu dùng đôi khi muốn một sản phẩm vì “mọi người khác đều có
nó”. Một lời giải thích dựa trên mốt nhất thời hoặc dựa trên mức độ phổ biến
khác về ngoại tác tích cực của mạng được gọi là hiệu ứng đám đông: Một
người đặt giá trị lớn hơn cho một hàng hóa khi ngày càng nhiều người khác sở
hữu nó. Sự thành công của iPad ngày nay có thể một phần là do sự ra đời sớm
của nó. phổ biến. Ủng Ugg dường như là một ví dụ khác về hiệu ứng đám
đông.
Ngược lại, tác động tiêu cực của mạng lưới được gọi là hiệu ứng hợm
hĩnh: Một người đặt giá trị lớn hơn cho một hàng hóa khi ngày càng ít người
sở hữu nó. Một số người thích bức tranh gốc của một họa sĩ vô danh hơn là tấm
in thạch bản của một ngôi sao bởi vì không ai khác có thể sở hữu bức tranh đó.
(Như Yogi Berra đã nói, “Không ai đến đó nữa; ở đó quá đông đúc.”)
Tác động mạng ngoại ứng là Sự giải thích cho Độc quyền bán
Bởi vì nhu cầu một lượng lớn khách hàng trong một thị trường có tác
động mạng ngoại ứng tốt, chúng ta thường thấy chỉ có một công ty lớn
sống sót. Chiến dịch quảng cáo của Visa cho người tiêu dùng biết rằng thẻ
Visa được chấp nhận “ở mọi nơi bạn muốn”, kể cả những nơi “không sử
dụng American Express”. Người ta có thể xem chiến dịch quảng cáo của
mình như một nỗ lực để thuyết phục người tiêu dùng rằng thẻ của họ có
khối lượng quan trọng và do đó mọi người nên chuyển sang sử dụng nó.
Hệ điều hành Windows thống lĩnh phần lớn thị trường – không phải vì nó
vượt trội về mặt kỹ thuật so với hệ điều hành của Apple hay Linux – mà vì nó
có một lượng người dùng khổng lồ. Do đó, nhà phát triển có thể kiếm được
nhiều tiền hơn khi sản xuất phần mềm hoạt động với Windows so với các hệ
điều hành khác và số lượng chương trình phần mềm lớn hơn khiến Windows
ngày càng hấp dẫn người dùng. Tương tự, Engström và Forsell (2013) nhận
thấy rằng số lượt tải xuống ứng dụng Android được hiển thị trên Google Play
tăng 10 phần trăm sẽ làm tăng số lượt tải xuống khoảng 20%.
Nhưng đã có được sự độc quyền, một công ty không nhất thiết phải duy
trì nó. Lịch sử chứa đầy những ví dụ về việc sản phẩm này đánh bại sản phẩm
khác: “Nhà vua đã chết; Đức vua vạn tuế." Google đã thay thế Yahoo! là công
cụ tìm kiếm chiếm ưu thế. Explorer đã thay thế Netscape trở thành trình duyệt
lớn và sau đó được thay thế bởi Chrome (2012–2013). Levi Strauss không còn
là người dẫn đầu thời trang trong set đồ jeans.
Ứng dụng
Khối lượng quan trọng và eBay
Trong những năm gần đây, nhiều người cho rằng sự độc quyền tự nhiên
xuất hiện sau một thời gian ngắn cạnh tranh trên Internet. Một hoạt động kinh
doanh trên Web điển hình đòi hỏi chi phí cố định trả trước lớn - chủ yếu dành
cho việc phát triển và quảng bá - nhưng có chi phí cận biên tương đối thấp. Do
đó, các công ty khởi nghiệp về Internet thường có đường cong chi phí trung
bình cho mỗi người dùng dốc xuống. Liệu doanh nghiệp thực tế hay doanh
nghiệp có tiềm năng với chi phí trung bình giảm sẽ chiếm ưu thế và trở thành
doanh nghiệp độc quyền tự nhiên?
Trong những năm đầu, trang đấu giá trực tuyến của eBay, thành lập vào
năm 1995, phải đối mặt với sự cạnh tranh từ nhiều trang Internet khác bao gồm
cả Yahoo! hùng mạnh lúc bấy giờ, trang web này đã tạo ra một trang đấu giá
vào năm 1998. Vào thời điểm đó, nhiều nhà bình luận đã dự đoán chính xác
rằng bất kỳ trang đấu giá nào lần đầu tiên đạt được số lượng người dùng quan
trọng sẽ thúc đẩy các trang web khác không còn hoạt động nữa. Quả thực, hầu
hết các địa điểm thay thế này đã chết hoặc bị lụi tàn sự tối nghĩa. Ví dụ:
Yahoo! Các cuộc đấu giá đã đóng cửa khu vực Hoa Kỳ và Canada của địa
điểm này vào năm 2007 và khu vực Singapore vào năm 2008 (mặc dù Hồng
Kông, Đài Loan, và các trang web của Nhật Bản tiếp tục hoạt động trong năm
2013).
Rõ ràng sự tiện lợi của việc có một trang web nơi hầu như tất cả người mua
và người bán tập hợp lại—giúp giảm chi phí tìm kiếm của người mua—và tạo
ra giá trị danh tiếng bằng cách có một hệ thống phản hồi (Brown và Morgan,
2006), hơn bồi thường cho người bán vì sự thiếu cạnh tranh về phí của người
bán. Brown và Morgan (2009) nhận thấy rằng, trước khi Yahoo! Trang web
đấu giá giống nhau loại mặt hàng đã thu hút trung bình thêm hai người đấu giá
trên eBay và, do đó, Thông thường, giá trên eBay luôn cao hơn từ 20% đến
70% so với Yahoo!
Mô hình độc quyền bán hai thời kỳ
Sự độc quyền có thể giải quyết được vấn đề con gà và quả trứng khi có
được một mức khối lượng quan cho sản phẩm của mình bằng cách ban đầu bán
sản phẩm ở mức giá giới thiệu thấp. Qua việc làm như vậy, công ty tối đa hóa
lợi nhuận dài hạn nhưng không tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn.
Giả sử một nhà độc quyền bán sản phẩm của mình—chẳng hạn như quần
jean có mùi bia gốc—chỉ với giá hai giai đoạn (sau đó, nhu cầu về 0 khi một
cơn sốt mới xuất hiện trên thị trường). Nếu như nhà độc quyền bán ít hơn
lượng sản phẩm đầu ra Q trong thời kỳ đầu tiên. Đường cầu thời kỳ thứ hai
nằm sát trục giá. Tuy nhiên, nếu hàng hóa là một thành công trong giai đoạn
đầu tiên – ít nhất Q đơn vị được bán – đường cầu của giai đoạn thứ hai chuyển
dịch đáng kể sang bên phải.
Nếu hãng độc quyền tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn trong thời kỳ đầu tiên,
nó sẽ tính giá p* và bán đơn vị Q*, ít hơn Q. Để bán đơn vị Q, công ty sẽ phải
giảm giá giá kỳ đầu tiên xuống p < p*, điều này sẽ làm giảm lợi nhuận kỳ đầu
tiên từ π* xuống π.
Trong thời kỳ thứ hai, nhà độc quyền tối đa hóa lợi nhuận của mình trong
thời kỳ thứ hai tạo đường cong nhu cầu. Nếu nhà độc quyền chỉ bán đơn vị Q*
trong thời kỳ đầu tiên thì họ sẽ kiếm được lợi nhuận tương đối thấp trong thời
kỳ thứ hai là πl. Tuy nhiên, nếu bán Q đơn vị trong kỳ đầu tiên, nó tạo ra lợi
nhuận trong kỳ thứ hai tương đối cao, πh.
Nhà độc quyền có nên bán giá giới thiệu thấp trong thời gian đầu không?
Mục tiêu của nó là tối đa hóa lợi nhuận dài hạn: tổng lợi nhuận trong hai thời
kỳ. Nếu hãng có khối lượng tới hạn trong giai đoạn thứ hai, lợi nhuận tăng
thêm của nó là πh - πl. Để có được khối lượng quan trọng này bằng cách tính
giá giới thiệu thấp trong giai đoạn đầu tiên, nó sẽ làm giảm lợi nhuận kỳ đầu
tiên của nó là π* - π. Do đó, công ty chọn tính phí giai đoạn giới thiệu thấp
trong giai đoạn đầu tiên nếu khoản lỗ trong giai đoạn đầu tiên của họ nhỏ hơn
lợi nhuận tăng thêm trong giai đoạn thứ hai. Chính sách này chắc chắn sẽ mang
lại lợi nhuận cho một số công ty: Tìm kiếm trên Google năm 2013 cho “giá
giới thiệu” khoảng 13,2 triệu trang Web.
Giải pháp cho thách thức
Thuốc có thương hiệu và Thuốc gốc
Khi thuốc gốc được đưa vào thị trường sau khi bằng sáng chế của một
loại thuốc có nhãn hiệu hết hạn, đường cầu của công ty có nhãn hiệu sẽ dịch
chuyển sang trái. Tại sao nhiều công ty thuốc biệt dược lại tăng giá sau khi các
đối thủ cạnh tranh cùng loại tham gia vào thị trường? Nguyên nhân là do
đường cầu không những dịch chuyển sang trái mà còn quay nên kém co giãn
hơn ở mức giá ban đầu.
Mức giá mà công ty có thương hiệu đặt ra phụ thuộc vào độ co giãn của
cầu. Khi công ty có độc quyền về bằng sáng chế, nó phải đối mặt với đường
cầu tuyến tính D1 trong hình. Tối ưu độc quyền của nó, e 1, được xác định bằng
giao điểm của đường doanh thu cận biên MR 1 và đường chi phí cận biên. (Bởi
vì nó dốc gấp đôi đường cầu, MR 1 cắt đường MC tại Q1, trong khi đường cầu
D1 cắt đường MC tại 2Q1.) Nhà độc quyền bán các đơn vị Q1 với giá p1.
D2 D1

Q2 Q1 2Q2 2Q1 Q, Đơn vị/ngày


Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Sau khi thuốc gốc xâm nhập thị trường, đường cầu tuyến tính đối diện
với người nắm giữ bằng sáng chế ban đầu sẽ dịch chuyển sang trái sang D 2
và trở nên dốc hơn và kém co giãn hơn ở mức giá ban đầu. Bây giờ hãng tối
đa hóa lợi nhuận tại e2, trong đó số lượng Q2 nhỏ hơn Q1 vì D2 nằm bên trái
D1. Tuy nhiên, mức giá mới, p2, cao hơn giá ban đầu, p1, bởi vì đường cầu D2
tại mức sản lượng tối ưu mới Q 2 kém co giãn hơn so với đường cầu D 1 tại
Q1.
Tại sao đường cầu có thể xoay và trở nên kém co giãn hơn ở mức giá
ban đầu? Một lời giải thích là công ty có thương hiệu có hai loại người tiêu
dùng với độ co giãn của cầu khác nhau, những người này có thái độ sẵn sàng
chuyển sang dùng thuốc gốc khác nhau. Một nhóm người tiêu dùng tương
đối nhạy cảm về giá và chuyển sang sử dụng các loại thuốc gốc có giá thấp
hơn. Tuy nhiên, thuốc biệt dược vẫn là nhà cung cấp độc quyền cho những
khách hàng trung thành với biệt dược còn lại, những người có nhu cầu kém
co giãn hơn so với những người tiêu dùng nhạy cảm về giá. Những khách
hàng trung thành này thích thuốc chính hiệu vì họ cảm thấy thoải mái hơn
với sản phẩm quen thuộc, lo lắng rằng sản phẩm mới có thể không đạt tiêu
chuẩn hoặc sợ rằng sự khác biệt trong thành phần không có hoạt tính có thể
ảnh hưởng đến họ.
Khách hàng lớn tuổi ít có khả năng chuyển đổi thương hiệu hơn những
người trẻ tuổi. Một cuộc khảo sát của Hiệp hội Người về hưu Hoa Kỳ cho
thấy những người từ 65 tuổi trở lên có xu hướng yêu cầu bác sĩ hoặc dược sĩ
của họ ít hơn 15% so với những người từ 45 đến 64 tuổi. Tương tự, những
bệnh nhân có chương trình bảo hiểm hào phóng có thể có nhiều khả năng chi
trả cho những loại thuốc đắt tiền (nếu công ty bảo hiểm cho phép) so với
những khách hàng có chính sách bảo hiểm hạn chế hơn.

12 Định giá và Quảng cáo

Mọi thứ đều xứng đáng với những gì người mua trả cho nó. —Publilius Syrus
(thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên)
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Thách thức
Giảm giá bán Bởi vì nhiều doanh nghiệp sử dụng việc giảm giá tạm thời để điều chỉnh
giá bán xuống thấp hơn mức giá thông thường – một số khách hàng chỉ
phải chi trả ít hơn những người khác trong suốt một thời gian dài. Các
cửa hàng tạp hóa thường giảm giá
các sản phẩm thường xuyên. Trong
những siêu thị lớn ở nước Hoa Kỳ,
có thương hiệu nước ngọt luôn giảm
giá 94%. Trong khi đó thì Coca hay
Pepsi được giảm giá nửa tuần trong
một năm.

Tương cà Heinz kiểm soát tới


60% các nhãn hiệu tương cà ở siêu
thị Hoa Kỳ, 70% trong các siêu thị của người Canada, và 78% trong các
siêu thị ở Vương quốc Anh. Vào năm 2012, Heinz bán được hơn 650
triệu chai tương cà ở hơn 140 quốc gia và có doanh thu hàng năm đạt
hơn 1,5 triệu Đô. Khi Heinz được giảm giá, những khách hàng chuyển
mạch – người thường mua các loại tương cà từ các thương hiệu ít đắt
tiền sẽ lựa chọn Heinz thay vì mua những loại tương cà giá rẻ khác. Vậy
làm thế nào để Heinz có thể thiết kế ra một mô hình giảm giá bán giúp
tối đa hóa lợi nhuận của Heinz bằng cách thu thêm lợi nhuận từ các
khách hàng chuyển mạch mà không làm mất đi số tiền đáng kể và có thể
bán được cho các khách hàng trung thành của họ với mức giá chiết
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

khấu? Heinz đã phải đánh đổi những điều kiện gì để có những chính
sách giảm giá định kì?

Định giá thống Giảm giá không phải là phương tiện duy nhất mà các doanh nghiệp sử
nhất dụng để tính cho khách hàng những mức giá khác nhau. Tại sao giá vé
máy bay thường rẻ hơn nếu bạn đặt trước? Tại sao các nhà tâm linh học
Định giá như nhau sống ở Trại tâm linh Wonewoc đọc trải bài với giá 45 Đô cho nửa tiếng,
cho mỗi đơn vị nhưng chỉ tính phí cho người cao tuổi là 40 Đô vào thứ Tư? Tại sao một
được bán ra của số hàng hóa, bao gồm máy tinh và phần mềm được gộp lại và bán cùng
một loại hàng hóa nhau? Để trả lời những câu hỏi trên, chúng ta cần nghiên cứu cách mà
cụ thể các doanh nghiệp độc quyền và các doanh nghiệp không có tính cạnh
tranh khác định giá như thế nào.

Ở Chương 11, chúng ta đã nghiên cứu cách mà một doanh nghiệp


nh giá không thống độc quyền quyết định một mức giá duy nhất khi sử dụng phương pháp
ất định giá thống nhất: tính cùng một đơn giá cho mỗi đơn vị hàng hóa
được bán ra. Tuy nhiên, các nhà độc quyền có thể tăng thêm lợi nhuận
nh giá cho người tiêu nếu họ có thể áp dụng định giá không thống nhất, trong đó doanh
ng ở các mức giá nghiệp định giá cho người tiêu dùng ở các mức giá khác nhau cho cùng
ác nhau cho cùng một loại hàng hóa hoặc thay đổi giá bán cho khách hàng đơn lẻ dựa theo
ột loại hàng hóa hoặc số lượng hàng hóa họ đã mua. Trong chương này, chúng ta sẽ phân tích
ay đổi giá bán cho việc định giá không thống nhất cho các doanh nghiệp không độc quyền,
ách hàng đơn lẻ dựa nhưng các nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho bất kì doanh nghiệp
eo số lượng hàng hóa nào với sức mạnh thị trường.
đã mua.
Như chúng ta đã thấy ở Chương 11, một doanh nghiệp độc quyền áp
dụng định giá thống nhất chỉ bán cho những khách hàng nhận thức được giá trị của sản
phẩm để mua nó với mức giá độc quyền, và những khách hàng đó đều nhận được một số
thặng dư tiêu dùng. Doanh nghiệp độc quyền không bán sản phẩm cho những khách hàng
định giá hàng hóa thấp hơn mức giá chung, ngay cả khi họ sẵn sàng trả nhiều hơn cho chi
phí sản xuất cận biên. Những doanh số bị thiếu hụt này gây ra tổn thất vô ích, đó là giá trị bị
bỏ qua của doanh số bán hàng tiềm năng này khi vượt quá chi phí sản xuất hàng hóa đó.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Một doanh nghiệp với sức mạnh thị trường có thể kiếm được lợi nhuận cao hơn bằng
cách áp dụng phương pháp định giá không thống nhất thay vì sứ dụng phương pháp định
giá thống nhất bởi hai lí do. Đầu tiên, doanh nghiệp nắm bắt một số hoặc tất cả thặng dư
tiêu dùng cho từng mức giá duy nhất. Thứ hai, doanh nghiệp chuyển đổi ít nhất một số tổn
thất vô ích của mức giá duy nhất thành lợi nhuận bằng cách thay đổi giá thấp hơn định giá
ban đầu cho một số khách hàng không mua ở mức giá duy nhất. Doanh nghiệp độc quyền
sử dụng cách định giá không thống nhất có thể hạ giá cho những
Phân biệt giá
người tiêu dùng này mà không làm mất đi giá trị của sản phẩm đối với
việc một doanh những khách hàng sẵn sàng chi trả cao hơn.
nghiệp tính cho
người tiêu dùng Chúng ta phân tích rất nhiều kiểu định giá không thống nhất,
những mức giá khác bao gồm cả phân biệt giá, định giá hai phần và bán hàng liên kết. Hình
nhau cho cùng một thức định giá không thống nhất phổ biến nhất là phân biệt giá: tính
loại hàng hóa cho người tiêu dùng những mức giá khác nhau cho cùng một loại
hàng hóa dựa theo đặc điểm cá nhân của người tiêu dùng, tư cách
thành viên trong một nhóm nhỏ có thể xác định được của người tiêu
dùng, hoặc số lượng hàng mà người tiêu dùng mua. Ví dụ, đối với một
đăng ký kết hợp báo in và báo trực tuyến cả năm, tờ Wall Street
Journal tính phí $99,95 cho sinh viên - những người nhạy cảm về giá,
và $155 cho những người đăng ký khác, những người ít nhạy cảm về giá hơn.

Một số doanh nghiệp có sức mạnh thị trường sử dụng các hình thức định giá không
thống nhất khác để tăng lợi nhuận. Một doanh nghiệp có thể sử dụng phương pháp định giá
hai phần, trong đó doanh nghiệp sẽ tính phí cho khách hàng một khoản phí cho quyền mua
hàng hóa và một khoản phí bổ sung cho mỗi đơn vị hàng được mua. Ví dụ, thành viên của
các câu lạc bộ sức khỏe hoặc chơi gôn thường phải trả phí hàng năm để trở thành thành
viên của câu lạc bộ và sau đó trả thêm một khoản mỗi lần họ sử dụng cơ sở vật chất. Tương
tự, cáp các doanh nghiệp truyền hình thường tính phí hàng tháng cho dịch vụ cơ bản và một
khoản phí bổ sung phí cho các bộ phim mới nhất.

Một kiểu định giá không thống nhất khác được gọi là định giá theo gói, trong đó một số
sản phẩm được bán cùng nhau như một gói. Ví dụ, nhiều nhà hàng cung cấp món ăn đầy đủ
bữa tối với mức giá cố định thấp hơn tổng giá được tính nếu các món đó (món khai vị, món
chính và món tráng miệng) được gọi riêng (à la carte).
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Nhà độc quyền cũng có thể tăng lợi nhuận bằng cách quảng cáo. Nhà độc quyền có thể
quảng cáo làm dịch chuyển đường cầu nhằm tăng lợi nhuận, có tính đến chi phí quảng cáo.

Ở chương này, chúng ta xem xét bảy chủ đề chính

1. Điều kiện để Phân biệt giá. Một hãng có thể tăng lợi nhuận bằng cách sử dụng phân biệt
giá nếu họ có sức mạnh thị trường, nếu khách hàng sẵn sàng chi trả mức giá khác nhau, nếu
doanh nghiệp có thể xác định khách hàng nào nhạy cảm về giá hơn những khách hàng khác
và liệu điều đó có thể ngăn chặn những khách hàng trả giá thấp sẽ bán lại cho những người
trả giá cao.

2. Phân biệt giá hoàn hảo. Nếu hãng độc quyền có thể tính phí tối đa cho mỗi khách hàng
sẵn sàng trả cho mỗi đơn vị sản phẩm, nhà độc quyền sẽ nắm bắt toàn bộ thặng dư tiêu
dùng tiềm năng, và mức sản lượng hiệu quả (cạnh tranh) được bán.

3. Phân biệt giá theo nhóm. Một doanh nghiệp thiếu khả năng tính phí cho mỗi cá nhân
một mức giá khác nhau có thể áp dụng những mức giá riêng biệt cho rất nhiều nhóm khách
hàng khác nhau về mức độ sẵn sàng chi trả cho hàng hóa.

4. Phân biệt giá phi tuyến tính. Một hãng có thể ấn định các mức giá khác nhau cho
những giao dịch mua lớn hơn so với những sản phẩm nhỏ, phân biệt đối xử giữa những
người tiêu dùng bằng cách khiến họ tự lựa chọn mức giá thực tế họ trả dựa trên số lượng họ
mua.

5. Định giá hai phần. Bằng cách tính phí cho người tiêu dùng để có quyền mua hàng hóa
và sau đó cho phép họ mua bao nhiêu tùy ý với mức phí bổ sung trên mỗi đơn vị, doanh
nghiệp sẽ kiếm được lợi nhuận cao hơn so với việc định giá thống nhất.

6. Bán hàng liên kết. Bằng cách bán kết hợp nhiều sản phẩm khác nhau trong một bao bì
hoặc một gói, một doanh nghiệp kiếm được lợi nhuận cao hơn so với việc bán hàng hóa
hoặc dịch vụ riêng lẻ.

7. Quảng cáo. Nhà độc quyền quảng cáo để làm dịch chuyển đường cầu và tăng lợi nhuận.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

12.1 Điều kiện để Phân biệt giá


Hoàng tử đi xuyên rừng nhiều giờ và đến một quán trọ, nơi anh ta được nhận ra
ngay lập tức. Anh gọi một bữa ăn nhẹ gồm trứng rán. Khi anh ta dùng bữa xong,
hoàng tử hỏi người chủ quán trọ, “Tôi nợ anh bao nhiêu tiền cho món trứng
này?” Người chủ quán trả lời: “Hai mươi lăm rúp”. “Sao giá lại cắt cổ như
vậy?" hoàng tử hỏi. “Khu vực này có thiếu trứng không?” Chủ quán trọ nói:
“Chúng tôi không thiếu trứng, nhưng chúng tôi thiếu hoàng tử”.

Chúng ta bắt đầu bằng việc nghiên cứu hình thức định giá không thống nhất
phổ biến nhất, phân biệt giá, trong đó một doanh nghiệp tính cho nhiều người
tiêu dùng những mức giá khác nhau cho một mặt hàng.

Tại sao phân biệt giá phải trả tiền


Đối với hầu hết mọi hàng hóa hoặc dịch vụ, có một số người tiêu dùng sẵn
sàng trả nhiều tiền hơn những người khác. Một doanh nghiệp đặt ra một mức giá
duy nhất phải đối mặt với sự đánh đổi giữa việc định giá cho những người tiêu
dùng thực sự muốn những điều tốt đẹp đến mức họ sẵn sàng chi trả và định giá
đủ thấp để doanh nghiệp không bị mất doanh thu vào tay những khách hàng ít
nhiệt tình hơn. Kết quả là, doanh nghiệp thường ấn định mức giá trung gian. Một
doanh nghiệp sẽ phân biệt giá để thay đổi định giá giữa các khách hàng tránh và
được sự đánh đổi này.

Tương tự như bất kỳ phương pháp định giá không thống nhất khác, phân
biệt giá cũng làm tăng lợi nhuận trên mức giá thống nhất thông qua hai kênh.
Thứ nhất, doanh nghiệp phân biệt giá tăng giá cao hơn cho những khách hàng
sẵn sàng trả nhiều hơn mức giá thống nhất để thu được một phần hoặc toàn bộ
thặng dư tiêu dùng của họ—sự khác biệt giữa hàng hóa có giá trị như thế nào đối
với người tiêu dùng và số tiền người tiêu dùng phải trả—dưới sự thống nhất giá.
Thứ hai, một doanh nghiệp phân biệt giá bán cho một số người không sẵn lòng
để trả nhiều như giá thống nhất.

Chúng tôi sử dụng một vài ví dụ điển hình để minh họa hai lợi ích của việc
phân biệt giá đối với các doanh nghiệp – thu được nhiều thặng dư tiêu dùng hơn
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

và bán được cho nhiều người hơn. Những ví dụ này cực đoan theo nghĩa doanh
nghiệp ấn định một mức giá thống nhất ở mức mà người tiêu dùng nhiệt tình
nhất sẵn sàng chi trả hoặc ở mức giá mà người tiêu dùng ít nhiệt tình nhất sẵn
sàng mua thay vì ở mức trung bình.

Giả sử rạp chiếu phim duy nhất trong thị trấn có hai loại khách hàng quen
thuộc: sinh viên và người già. Các sinh viên sẽ xem phim chiếu vào tối thứ bảy
nếu giá vé là $10 trở xuống, và người cao tuổi sẽ góp mặt nếu giá là $5 trở
xuống. Để đơn giản hóa, chúng ta giả định rằng rạp chiếu phim không phát sinh
chi phí để chiếu phim, vì vậy lợi nhuận cũng giống như doanh thu. Rạp chiếu
phim đủ rộng để chứa tất cả khách hàng tiềm năng, vì vậy chi phí cận biên của
việc tiếp nhận thêm một khách hàng là bằng không. Bảng 12.1 cho thấy cách giá
cả ảnh hưởng đến lợi nhuận của rạp.

Bảng 12.1 Lợi nhuận của rạp dựa trên phương pháp định giá được sử dụng

(a) Không có thêm khách hàng từ Phân biệt giá


Lợi nhuận từ 10 Lợi nhuận từ 20 Tổng lợi nhuận
Định giá sinh viên đại học người cao tuổi
Đồng giá, $5 $50 $100 $150
Đồng giá, $10 $100 $0 $100
Phân biệt giá * $100 $100 $200
(b) Có thêm khách hàng từ Phân biệt giá
Lợi nhuận từ 10 Lợi nhuận từ 5 Tổng lợi nhuận
Định giá sinh viên đại học người cao tuổi
Đồng giá, $5 $50 $25 $75
Đồng giá, $10 $100 $0 $100
Phân biệt giá * $100 $25 $125
* Giá của rạp chiếu phim có sự phân biệt bằng cách tính phí cho sinh viên đại học là $10 và người cao
tuổi là $5.
Lưu ý: Sinh viên đại học xem phim nếu họ phải trả không quá $10. Người cao tuổi sẵn sàng chi trả nhiều
nhất là $5. Chi phí cận biên của rạp đối với một khách hàng tăng thêm là bằng không.

Bảng a có 10 sinh viên đại học và 20 người cao tuổi. Nếu rạp tính giá vé cho
mỗi người $5 thì lợi nhuận của rạp là $150 = $5 * (10 sinh viên đại học + 20
người cao tuổi). Nếu rạp tính giá vé $10, người cao tuổi không đi xem phim nên
rạp chỉ thu được $100. Vì vậy, nếu rạp tính giá cho mọi người như nhau thì sẽ tối
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

đa hóa lợi nhuận của rạp bằng cách đặt giá ở mức $5. Tính phí dưới $5 là không
cần thiết vì số lượng người đi xem phim tương tự như khi giá vé là $5. Đặt giá
trong khoảng từ $5 đến $10 sẽ thu ít lợi nhuận hơn so với tính phí $10 vì không
có thêm người cao tuổi nào đi và sinh viên thì sẵn sàng trả $10. Tính giá vé nhiều
hơn $10 sẽ dẫn đến không có khách hàng.

Với mức giá $5, người cao tuổi không có thặng dư tiêu dùng: Họ trả đúng số
tiền mà họ cảm thấy xứng đáng khi xem bộ phim. Sinh viên đại học có thể xem
bộ phim này với giá $10 nhưng họ chỉ phải trả $5, vì vậy mỗi người có thặng dư
tiêu dùng là $5, và tổng thặng dư tiêu dùng của họ là $5.

Nếu rạp có thể áp dụng phân biệt giá bằng cách thu vé người cao tuổi $5 và vé
sinh viên $10, lợi nhuận của rạp tăng lên $200. Lợi nhuận đó tăng lên vì rạp thu
được nhiều từ người cao tuổi như trước nhưng có thêm $50 lợi nhuận từ các sinh
viên đại học. Bằng cách phân biệt giá, rạp bán được số ghế như nhau nhưng kiếm
được nhiều tiền hơn từ các sinh viên đại học, nắm bắt được tất cả thặng dư tiêu
dùng mà họ có theo giá thống nhất. Cả hai nhóm khách hàng đều không có bất kỳ
thặng dư tiêu dùng nào nếu rạp chiếu phim phân biệt giá.

Bảng b có 10 sinh viên đại học và 5 người cao tuổi. Nếu rạp chiếu phim đặt
một mức giá duy nhất thì sẽ là $10. Chỉ có sinh viên đại học xem phim nên lợi
nhuận của rạp là $100. (Nếu giá vé là $5, cả hai nhóm đối tượng sinh viên và
người đại học sẽ xem phim nhưng lợi nhuận chỉ còn $75). Nếu rạp có thể áp dụng
phân biệt giá và vé người cao tuổi là $5, vé sinh viên là $10 thì lợi nhuận tăng lên
thành $125. Ở đây lợi nhuận có được từ chiến lược phân biệt giá xuất phát từ việc
bán thêm vé cho người cao tuổi (không phải từ việc kiếm nhiều tiền hơn với cùng
số lượng vé như trong bảng a). Rạp chiếu phim vẫn nhận được doanh thu từ đối
tượng sinh viên như trước đây và kiếm được thêm từ người cao tuổi, và cả hai
nhóm khách hàng trên đều không được hưởng thặng dư tiêu dùng. Leslie (1997)
nhận thấy rằng rạp Broadway ở New York tăng thêm 5% lợi nhuận nhờ việc áp
dụng phân biệt giá thay vì sử dụng mức giá thống nhất.

Những ví dụ này minh họa hai cách thức mà qua đó sự phân biệt giá có thể
tăng lợi nhuận: tính phí nhiều hơn cho một số khách hàng hiện tại hoặc bán thêm
sản phẩm. Khả năng tăng lợi nhuận của rạp chiếu phim bằng cách phân biệt giá
xuất phát từ khả năng phân khúc thị trường thành hai nhóm, sinh viên và người
cao tuổi, với mức độ sẵn sàng chi trả khác nhau.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Ứng dụng thực tế


Giá vé của Disneyland

Disneyland, ở miền Nam California, là một công


ty hoạt động hiệu quả và hiếm khi bỏ sót một
mánh khóe nào để tăng lợi nhuận. Vào năm
2012, Disneyland tính phí người lớn ngoài tiểu
bang là $199 cho một vé vào công viên 3 ngày,
trong đó cho phép một người vào Disneyland và
Công viên Phiêu lưu California của Disney,
nhưng chỉ tính phí cho cư dân Nam California là
$154.

Chính sách tính giá chiết khấu cho người dân


địa phương này có ý nghĩa nếu du khách sẵn sàng trả nhiều hơn người dân địa
phương và nếu Disneyland có thể ngăn người dân địa phương bán vé giảm giá cho
những người ngoại bang. Hãy tưởng tượng một người miền Trung Tây chưa từng
đến Disneyland và muốn đến địa điểm này. Việc đi lại chiếm phần lớn chi phí của
chuyến đi, do đó, thêm một vài đô la để vào công viên chỉ tạo ra sự khác biệt nhỏ
trong tổng chi phí của chuyến tham quan và do đó không ảnh hưởng nhiều đến quyết
định nên ghé thăm hay không của người đó. Ngược lại, đối với một người dân địa
phương đã đến Disneyland nhiều lần và giá vào cửa chiếm phần lớn hơn trong tổng
chi phí thì phí vào cửa cao hơn một chút có thể cản trở việc tham quan của họ.

Việc tính cùng một mức giá cho cả hai nhóm khách hàng không phải là điều có
lợi nhất cho Disney. Nếu Disney tính giá cao hơn cho tất cả mọi người thì nhiều
người dân địa phương sẽ không đến thăm công viên. Nếu Disney áp dụng mức giá
thấp hơn cho tất cả mọi người, họ sẽ tính phí cho những người không phải cư dân ít
hơn nhiều so với mức họ sẵn sàng trả. Do đó, sự phân biệt giá làm tăng lợi nhuận
của Disney.

Doanh nghiệp nào có thể áp dụng Phân biệt giá


Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể áp dụng phân biệt giá. Với những doanh
nghiệp thành công trong việc phân biệt giá, cần đáp ứng ba điều kiện sau.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Đầu tiên, doanh nghiệp cần phải có sức mạnh thị trường. Nếu không có sức
mạnh thị trường, doanh nghiệp không thể định giá cao hơn mức giá cạnh tranh cho
bất kỳ người tiêu dùng nào. Một doanh nghiệp độc quyền, một doanh nghiệp độc
quyền nhóm, hay một doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền đều có thể áp dụng phân
biệt giá. Dù vậy, một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không thể phân biệt giá vì
họ phải bán sản phẩm của mình theo giá thị trường.

Thứ hai, để một doanh nghiệp có thể phân biệt giá một cách có lợi nhuận, các
nhóm người tiêu dùng hoặc người tiêu dùng cá nhân phải có đường cầu khác nhau
và doanh nghiệp phải có khả năng xác định đường cầu của họ khác nhau như thế
nào. Rạp chiếu phim biết rằng sinh viên đại học và người cao tuổi có sự khác nhau
về mức độ sẵn sàng chi trả tiền vé, và Disneyland biết rằng khách du lịch và người
dân địa phương khác nhau ở mức sẵn lòng trả tiền vé vào cửa. Trong cả hai trường
hợp, doanh nghiệp có thể xác định thành viên của hai nhóm đối tượng này bằng
cách sử dụng giấy phép lái xe hoặc các hình thức nhận dạng khác. Tương tự, nếu
doanh nghiệp biết rằng đường cầu của mỗi cá nhân dốc xuống, họ có thể đặt cho
mỗi khách hàng mức giá cao hơn với đơn vị hàng hóa đầu tiên so với các đơn vị
tiếp theo.

Thứ ba, doanh nghiệp phải có khả năng ngăn ngừa hoặc hạn chế việc bán lại.
Doanh nghiệp phân biệt giá phải có khả năng ngăn ngừa người tiêu dùng mua hàng
hóa ở giá thấp và bán lại hàng hóa đó cho những khách hàng có thể mua ở mức giá
cao. Việc phân biệt giá sẽ không hiệu quả nếu việc bán lại dễ dàng vì doanh nghiệp
chỉ có thể bán hàng ở mức giá thấp. Disneyland và rạp chiếu phim có thể tính các
mức giá riêng biệt cho các nhóm khách hàng khác nhau vì những khách hàng này
thường vào ngay sau khi mua vé và do đó họ không có thời gian để bán lại chúng.
Đối với các sự kiện bán vé trước, có thể sử dụng các phương pháp khác để ngăn
chặn việc bán lại, chẳng hạn như đặt màu khác nhau cho vé trẻ em và vé người lớn.

Hai điều kiện đầu tiên – sức mạnh thị trường và khả năng xác định các nhóm
khách hàng có mức độ nhạy cảm về giá khác nhau – hiện hữu ở nhiều thị trường.
Thông thường, trở ngại lớn nhất đối với việc phân biệt giá là doanh nghiệp không
có khả năng ngăn ngừa việc bán lại.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Ngăn ngừa việc bán lại


Trong một số ngành, ngăn chặn việc bán lại dễ dàng hơn so với những ngành
khác. Trong những ngành mà việc bán lại lần đầu dễ dàng, các doanh nghiệp có thể
tác động để khiến việc bán lại trở nên khó khăn hơn.

Việc bán lại là khó khăn hoặc không thể thực hiện được đối với hầu hết các
dịch vụ và khi chi phí giao dịch cao. Nếu thợ sửa ống nước tính phí cho bạn ít hơn
so với hàng xóm của bạn khi dọn đường ống, bạn không thể thỏa thuận với hàng
xóm để bán lại dịch vụ này. Chi phí giao dịch mà người tiêu dùng phải chịu để bán
lại hàng hóa càng cao thì khả năng bán lại sẽ xảy ra càng ít. Giả sử bạn có thể mua
một lọ dưa chua với giá thấp hơn giá thông thường là $1. Trên thực tế, bạn có thể
tìm và bán chiếc bình này cho người khác, hay chi phí giao dịch sẽ rất cao? Một sản
phẩm càng có giá trị hoặc càng được tiêu thụ rộng rãi thì càng có nhiều khả năng
chi phí giao dịch đủ thấp để việc bán lại xảy ra.

Một số doanh nghiệp tác động để tăng chi phí giao dịch hoặc gây khó khăn cho
việc bán lại. Nếu trường đại học của bạn yêu cầu người có vé sinh viên phải xuất
trình thẻ sinh viên có ảnh trước khi được xác nhận vào một sự kiện thể thao, bạn sẽ
gặp khó khăn khi bán lại vé giá thấp cho những người không phải sinh viên nhưng
có thể chi trả nhiều hơn. Khi sinh viên ở một số trường đại học mua máy tính với
giá thấp hơn bình thường, họ phải ký một loại hợp đồng cấm họ bán lại máy tính
đó.

Tương tự, một doanh nghiệp có thể ngăn chặn việc bán lại bằng cách liên kết
theo chiều dọc: tham gia vào nhiều giai đoạn liên tiếp của chuỗi sản xuất và phân
phối hàng hóa hay dịch vụ. Alcoa, công ty độc quyền về nhôm trước đây, muốn bán
phôi nhôm cho các nhà sản xuất dây nhôm với giá thấp hơn giá đặt ra cho các nhà
sản xuất phụ tùng máy bay bằng nhôm. Tuy nhiên, nếu Alcoa làm như vậy, các nhà
sản xuất dây nhôm có thể dễ dàng bán lại phôi nhôm của họ. Bằng cách thành lập
doanh nghiệp sản xuất dây điện của riêng mình, Alcoa đã ngăn chặn việc bán lại và
có thể tính giá cao cho các công ty sản xuất phụ tùng máy bay (Perry, 1980).

Các chính phủ thường hỗ trợ việc phân biệt giá bằng cách ngăn chặn việc bán
lại. Chính phủ tiểu bang và liên bang yêu cầu các nhà sản xuất sữa, theo hình phạt
của pháp luật, phải phân biệt giá bằng cách bán sữa dùng để sử dụng tươi với giá
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

cao hơn sữa dùng cho mục đích chế biến (phô mai, kem) và cấm bán lại. Thuế quan
của chính phủ (thuế nhập khẩu) hạn chế việc bán lại bằng cách làm cho việc mua
hàng hóa ở một quốc gia có giá thấp và bán lại ở một quốc gia có giá cao trở nên đắt
đỏ. Trong một số trường hợp, luật pháp nghiêm cấm việc bán lại một cách rõ ràng.
Theo luật thương mại của Hoa Kỳ, một số loại nước hoa có thương hiệu nhất định
không được phép bán ở Hoa Kỳ ngoại trừ nhà sản xuất chúng.

Ứng dụng thực tế


Ngăn chặn việc bán lại túi thiết kế

Trong mùa lễ hội, các cửa hàng thường giới hạn số lượng mặt hàng hot nhất—
chẳng hạn như đồ chơi bán chạy nhất năm nay—một khách hàng có thể mua.
Nhưng điều này có thể khiến bạn ngạc nhiên khi trang web của các nhà bán lẻ hàng
xa xỉ như Saks Fifth Avenue, Neiman Marcus và Bergdorf Goodman giới hạn số
lượng túi xách hàng hiệu mà một người có thể mua: “Do nhu cầu phổ biến, một
khách hàng có thể đặt hàng không quá ba đơn vị mặt hàng này trong vòng 30 ngày.”

Tại sao các nhà sản xuất và cửa hàng không muốn bán được càng nhiều sản
phẩm càng tốt? Có bao nhiêu khách hàng có thể mua hơn ba chiếc túi xách Prada
Visone Hobo với giá $4.950 mỗi chiếc? Lời giải thích đơn giản là hạn chế này
không liên quan gì đến “nhu cầu phổ biến”. Thay vào đó, nó được thiết kế để ngăn
chặn việc bán lại nhằm tạo điều kiện cho các nhà sản xuất phân biệt giá trên phạm
vi quốc tế. Các nhà sản xuất túi xách gây áp lực cho các nhà bán lẻ Hoa Kỳ để hạn
chế giảm giá nhằm ngăn chặn bất kỳ ai mua túi với số lượng lớn và bán lại chúng ở
châu Âu hoặc châu Á, nơi các mặt hàng tương tự trong cửa hàng Prada và Gucci
thường có giá cao hơn từ 20% đến hơn 40%.

Ví dụ, vào năm 2013, chiếc ví Prada được bán với giá $1,350 ở Mỹ nhưng lại
được bán với giá $1,420 trên trang web Thụy Sĩ của Prada. Khi mua hàng từ trang
web trực tuyến của Prada tại Hoa Kỳ, người mua phải đồng ý rằng việc mua hàng
chỉ dành cho mục đích sử dụng cá nhân trong gia đình, việc mua bán thương mại
hoặc bán lại bên ngoài Hoa Kỳ là không được phép, cùng với đó là công ty có
quyền từ chối đơn đặt hàng và giới hạn số lượng đặt hàng.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Không phải tất cả sự khác biệt về giá đều là Phân biệt giá
Không phải người bán nào tính giá khác nhau cho người tiêu dùng đều là phân
biệt giá. Các khách sạn tính phí nhiều hơn cho các cặp đôi mới cưới đối với phòng
dành cho cô dâu. Đó có phải là sự phân biệt giá? Một số quản lý khách sạn nói
không. Họ cho rằng những cặp đôi đi hưởng tuần trăng mật, không giống như
những khách hàng khác, luôn lấy trộm vật lưu niệm, vì vậy chênh lệch giá phản ánh
chênh lệch chi phí thực tế.

Giá năm 2013 cho 51 số phát hành hàng tuần của tạp chí Economist trong một
năm là $356 nếu bạn mua ở sạp báo, $160 nếu đặt mua báo in tiêu chuẩn và $96 nếu
đặt mua dài hạn cho sinh viên đại học. Sự khác biệt giữa chi phí mua tại quầy và chi
phí đăng ký tiêu chuẩn phản ánh, ít nhất là một phần, chi phí bán tạp chí tại sạp báo
cao hơn so với việc gửi chúng trực tiếp cho khách hàng, vì vậy sự chênh lệch giá
này không phản ánh sự phân biệt giá thuần túy. Ngược lại, chênh lệch giá giữa giá
đăng ký tiêu chuẩn và giá dành cho sinh viên đại học phản ánh sự phân biệt giá
thuần túy vì hai gói đăng ký này giống hệt nhau về mọi mặt ngoại trừ giá cả.

Các loại phân biệt giá

Phân biệt giá hoàn hảo (phân Từ lâu, các nhà kinh tế tập trung vào ba loại phân biệt giá:
biệt giá cấp một)
phân biệt giá hoàn hảo, phân biệt giá theo nhóm và phân biệt
một doanh nghiệp bán mỗi đơn giá phi tuyến tính. Với phân biệt giá hoàn hảo (còn gọi là
vị hàng hóa với số lượng tối đa phân biệt giá cấp một), một doanh nghiệp bán mỗi đơn vị
mà bất kỳ khách hàng nào sẵn hàng hóa với mức giá tối đa mà bất kỳ khách hàng nào sẵn
sàng trả cho hàng hóa đó, do
sàng chi trả. Dưới sự phân biệt giá hoàn hảo, giá cả khác
đó giá cả khác nhau giữa các
khách hàng và một khách hàng
nhau giữa những người tiêu dùng, và một người tiêu dùng
nhất định có thể trả nhiều tiền nhất định có thể chi trả cao hơn cho một số đơn vị so với
hơn cho một số đơn vị này so những đơn vị khác.
với những đơn vị khác
Với phân biệt giá theo nhóm (còn gọi là phân biệt giá
cấp ba), doanh nghiệp tính cho mỗi nhóm khách hàng một
Phân biệt giá theo nhóm mức giá khác nhau, nhưng không chia các mức giá khác
(phân biệt giá cấp ba)

một doanh nghiệp tính cho mỗi


Chương 12: Định giá và Quảng cáo

nhau trong nhóm. Mức giá mà một doanh nghiệp tính cho người tiêu dùng phụ thuộc vào tư
cách thành viên của người tiêu dùng đó trong một nhóm cụ thể. Do đó, không phải tất cả
khách hàng đều trả những mức giá khác nhau – doanh nghiệp chỉ đặt ra những mức giá
khác nhau cho một số nhóm khách hàng. Vì phân biệt giá theo nhóm là loại phân biệt giá
phổ biến nhất nên cụm từ phân biệt giá thường được dùng
để chỉ phân biệt giá theo nhóm.
Phân biệt giá phi tuyến tính Một doanh nghiệp thực hiện phân biệt giá phi tuyến
(phân biệt giá cấp hai)
tính (còn gọi là phân biệt giá cấp hai) khi doanh nghiệp
một doanh nghiệp thay đổi giá thay đổi giá cho những đơn hàng số lượng lớn so với những
cho những đơn hàng số lượng đơn hàng số lượng nhỏ, do đó giá phải trả thay đổi tùy theo
lớn so với những đơn hàng số số lượng mua. Với sự phân biệt giá phi tuyến tính thuần túy,
lượng nhỏ nhưng những khách
tất cả khách hàng mua một số lượng nhất định đều trả mức
hàng mua một số lượng nhất
định đều trả cùng một mức giá giá như nhau; tuy nhiên, các công ty có thể kết hợp phân
biệt giá phi tuyến tính với phân biệt giá theo nhóm, thiết lập
các biểu giá phi tuyến tính khác nhau cho các nhóm người
tiêu dùng khác nhau.

12.2 Phân biệt giá Hoàn hảo


Nếu một doanh nghiệp có sức mạnh thị trường biết chính
xác mỗi khách hàng sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi đơn
vị hàng hóa của mình và có thể ngăn chặn việc bán lại, thì
Giá đặt trước
doanh nghiệp sẽ tính giá đặt trước cho mỗi người: số tiền
số tiền tối đa mà một tối đa mà một người sẵn sàng trả cho một đơn vị sản
người sẵn sàng trả cho một lượng. Một doanh nghiệp hiểu biết toàn diện như vậy sẽ
đơn vị sản lượng phân biệt giá hoàn hảo. Bằng cách bán từng đơn vị sản
phẩm của mình cho khách hàng đánh giá giá trị của nó
cao nhất với mức giá tối đa mà người đó sẵn sàng chi trả,
nhà độc quyền phân biệt giá hoàn hảo sẽ thu được tất cả
thặng dư tiêu dùng có thể có. Ví dụ: các nhà quản lý kênh
đào Suez đặt phí cầu đường dựa trên cơ sở cá nhân, có
tính đến nhiều yếu tố như thời tiết và tuyến đường thay
thế của mỗi tàu.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Phân biệt giá hoàn hảo rất hiếm vì doanh nghiệp không có thông tin hoàn hảo về
khách hàng của mình. Tuy nhiên, sẽ rất hữu ích khi kiểm tra sự phân biệt giá hoàn
hảo vì đây là hình thức phân biệt giá hiệu quả nhất và cung cấp một chuẩn mực để
chúng ta có thể so sánh các loại hình định giá không đồng nhất khác.

Bây giờ chúng tôi chỉ ra cách một doanh nghiệp có đầy đủ thông tin về giá đặt
trước của người tiêu dùng có thể sử dụng thông tin đó để phân biệt giá một cách hoàn
hảo. Tiếp theo, chúng tôi so sánh kết quả thị trường (giá cả, số lượng, thặng dư) của
doanh nghiệp độc quyền phân biệt giá hoàn hảo với kết quả của các doanh nghiệp độc
quyền cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền giá thống nhất. Cuối cùng, chúng ta thảo
luận về cách các doanh nghiệp có được thông tin họ cần để phân biệt giá một cách
hoàn hảo.

Làm thế nào để một Doanh nghiệp Phân biệt giá Hoàn hảo
Một doanh nghiệp có sức mạnh thị trường có thể ngăn chặn việc bán lại và có
đầy đủ thông tin về giá đặt trước của từng khách hàng - số tiền tối đa mà khách
hàng sẵn sàng chi trả - có thể phân biệt giá bằng cách bán từng đơn vị ở mức giá
đặt trước của nó. Chúng tôi sử dụng đường cầu phản ánh tình trạng độc quyền
trong Hình 12.1 để minh họa cách một doanh nghiệp phân biệt giá hoàn hảo tối đa
hóa lợi nhuận của họ (xem Phụ lục 12A về phương pháp xử lý toán học).

Giá tối đa cho bất kỳ đơn vị sản lượng nào cũng bằng với chiều cao của đường
cầu tại mức sản lượng đó. Hình vẽ cho thấy một doanh nghiệp phân biệt giá hoàn
hảo sẽ bán đơn vị sản phẩm đầu tiên của mình với giá $6. Sau khi bán được đơn vị
đầu tiên, doanh nghiệp có thể thu được nhiều nhất là $5 cho đơn vị thứ hai. Doanh
nghiệp phải giảm giá $1 cho mỗi đơn vị sản phẩm liên tiếp được bán.

Doanh thu cận biên của một doanh nghiệp độc quyền phân biệt giá hoàn hảo
bằng với giá của sản phẩm. Như hình vẽ cho thấy, doanh thu cận biên của doanh
nghiệp là MR 1=$ 6 cho đơn vị thứ nhất, MR 2=$ 5 cho đơn vị thứ hai và MR 3=$ 4
cho đơn vị thứ ba. Kết quả là, đường doanh thu cận biên của doanh nghiệp chính
là đường cầu của họ.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Doanh nghiệp này có chi phí cận biên không đổi là $3/đơn vị. Doanh thu lớn
nhất khi doanh nghiệp sản xuất đơn vị đầu tiên vì doanh nghiệp bán đơn vị đó với
giá $6, do đó doanh thu cận biên của nó vượt quá chi phí cận biên $3. Tương tự,
doanh nghiệp bán đơn vị thứ hai với giá $5 và đơn vị thứ ba với giá $4. Doanh
nghiệp hòa vốn khi bán chiếc thứ tư với giá $3. Doanh nghiệp không sẵn sàng bán
nhiều hơn bốn đơn vị vì chi phí cận biên sẽ vượt quá doanh thu cận biên của tất cả
các đơn vị liên tiếp. Do đó, giống như bất kỳ doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận
nào, một doanh nghiệp phân biệt giá hoàn hảo sẽ sản xuất tại điểm e, nơi đường
cong doanh thu cận biên cắt đường chi phí cận biên.

Doanh nghiệp phân biệt giá hoàn hảo này kiếm được doanh thu MR 1 + MR 2 +
MR 3 + MR 4 = $6 + $5 + $4 + $3 = $18, là diện tích nằm dưới đường doanh thu cận
biên của hình cho đến số lượng đơn vị mà họ bán được là bốn. Nếu doanh nghiệp
không có chi phí cố định thì chi phí sản xuất bốn đơn vị là $12 = $3 × 4, do đó lợi
nhuận của doanh nghiệp là $6.

Ứng dụng thực tế


Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Google sử dụng tính năng đặt giá thầu cho quảng cáo để phân biệt giá

Hình 12.1 Phân biệt giá


Hoàn hảo p,
$/đ
Nhà độc quyền có thể tính ơn
giá $6 cho đơn vị đầu tiên, vị 6
$5 cho đơn vị thứ hai và $4
cho đơn vị thứ ba, như
đường cầu thể hiện. Doanh 5 Cầu, doanh thu cận
thu cận biên của sản phẩm là biên
MR 1=$ 6 cho đơn vị thứ
4
nhất, MR 2=$ 5 cho đơn vị e
thứ hai và MR 3=$ 4 cho đơn
3 MR 1=$ 6MR 2=$ 5MR 3=$ 4MR 4=$ 3 MC
vị thứ ba. Do đó, đường cầu
cũng là đường doanh thu cận
biên. Bởi vì chi phí cận biên 2
và chi phí trung bình của
doanh nghiệp là $3/đơn vị,
1
nên doanh nghiệp không sẵn
sàng bán ở mức giá dưới $3,
nên họ bán 4 đơn vị, ở điểm 123456
0 Q, đơn vị/ngày
e, và hòa vốn ở đơn vị cuối
cùng.

Khi bạn tìm kiếm bằng Google, quảng cáo trả phí sẽ xuất hiện bên cạnh kết quả
của bạn. Các quảng cáo xuất hiện khác nhau tùy theo cụm từ tìm kiếm của bạn.
Bằng cách làm cho việc tìm kiếm các chủ đề bất thường trở nên dễ dàng và nhanh
chóng, Google giúp các công ty tiếp cận những khách hàng tiềm năng khó tìm bằng
quảng cáo được nhắm mục tiêu. Ví dụ: một luật sư chuyên về các vụ kiện về nấm
mốc độc hại có thể đặt một quảng cáo mà chỉ những người tìm kiếm “luật sư về
nấm mốc độc hại” mới nhìn thấy. Quảng cáo tập trung như vậy có lợi nhuận trên
mỗi lượt xem cao hơn so với quảng cáo in và quảng cáo phát sóng truyền thống –
loại quảng cáo tiếp cận các đối tượng không được nhắm mục tiêu lớn hơn nhiều
(“lãng phí nhãn cầu”) và tránh được vấn đề về việc tìm địa chỉ để gửi thư trực tiếp.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Google sử dụng các cuộc đấu giá để định giá những quảng cáo này. Các nhà
quảng cáo sẵn sàng đặt giá thầu cao hơn để được liệt kê đầu tiên trên các trang kết
quả của Google. Goldfarb và Tucker (2011) phát hiện ra rằng số tiền luật sư sẽ trả
cho các quảng cáo dựa trên ngữ cảnh phụ thuộc vào độ khó của việc so khớp. Các
luật sư sẽ trả nhiều tiền hơn để quảng cáo khi có ít khách hàng tiềm năng tự nhận
diện hơn—ít người tìm kiếm một cụm từ cụ thể hơn.

Một số tiểu bang có quy định chống xe cứu thương đuổi theo, cấm luật sư về
thương tích cá nhân liên hệ trực tiếp với khách hàng tiềm năng bằng thư, điện thoại
hoặc email trong vài tháng sau khi xảy ra tai nạn. Ở những tiểu bang đó, giá thầu số
tiền bổ sung cho các quảng cáo được liên kết với từ khóa thương tích cá nhân thay
vì cho các từ khóa khác như “luật sư thuế” cao hơn $1,01 (11%) so với ở các tiểu
bang không được kiểm soát. Ở đây chúng ta đang nói đến những khoản tiền lớn:
Các luật sư tranh tụng kiếm được 40 tỷ đô trong năm 2004, cao hơn 50% so với
Microsoft hay Intel và gấp đôi so với Coca-Cola.

Bằng cách tận dụng mong muốn tiếp cận các phân khúc dân số nhỏ, khó tìm của
nhà quảng cáo và thay đổi mức giá tùy theo mức độ sẵn lòng trả của nhà quảng cáo,
Google về cơ bản là phân biệt giá một cách hoàn hảo.

Phân biệt giá Hoàn hảo có hiệu quả nhưng gây hại cho một số người
tiêu dùng
Phân biệt giá hoàn hảo có hiệu quả: Nó tối đa hóa tổng thặng dư của người tiêu
dùng và thặng dư của nhà sản xuất. Do đó, cả cạnh tranh hoàn hảo và phân biệt giá
hoàn hảo đều tối đa hóa tổng thặng dư. Tuy nhiên, với sự phân biệt giá hoàn hảo,
toàn bộ phần thặng dư sẽ thuộc về doanh nghiệp, trong khi phần thặng dư sẽ phải
chia sẻ trong điều kiện cạnh tranh.

Nếu thị trường trong Hình 12.2 có tính cạnh tranh, giao điểm của đường cầu và
đường chi phí biên MC xác định điểm cân bằng cạnh tranh tại e c, trong đó giá là
pc và sản lượng là Qc . Thặng dư tiêu dùng là A + B + C, thặng dư nhà sản xuất là
D + E và xã hội không có tổn thất vô ích. Thị trường hiệu quả vì giá pc bằng chi
phí biên MC c .
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Với độc quyền một giá (tính phí cho tất cả khách hàng như nhau vì không thể
phân biệt giữa họ), giao điểm của đường MC và đường doanh thu cận biên của
nhà độc quyền một giá, MR s, sẽ xác định sản lượng Qs . Sự độc quyền hoạt động
tại e s, nơi nó tính phí ps . Tổn thất vô ích do độc quyền là C + E. Sự mất hiệu quả
này là do nhà độc quyền tính một mức giá, ps , cao hơn chi phí cận biên, MC s , do
đó lượng bán được ít hơn so với trên thị trường cạnh tranh.

Sản lượng, Qd , mà doanh nghiệp phân biệt giá hoàn hảo sản xuất được xác định
bởi giao điểm của đường chi phí cận biên MC và đường cầu hay đường doanh thu
cận biên MR d. Thặng dư sản xuất của một doanh nghiệp phân biệt giá hoàn hảo có
được từ việc bán các đơn vị Qd là diện tích bên dưới đường cầu và phía trên
đường chi phí cận biên, A + B + C + D + E. Lợi nhuận của doanh nghiệp này là
thặng dư sản xuất trừ đi chi phí cố định, nếu có. Người tiêu dùng không nhận
được thặng dư tiêu dùng vì mỗi người tiêu dùng đều trả mức giá đặt trước của
mình. Giải pháp tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp phân biệt giá hoàn hảo
không có tổn thất vô ích vì đơn vị cuối cùng được bán ở mức giá pc , bằng với chi
phí cận biên MC c , như trong thị trường cạnh tranh. Vì vậy, kết quả của phân biệt
giá hoàn hảo và trạng thái cân bằng cạnh tranh đều hiệu quả.

Giải pháp phân biệt giá hoàn hảo khác với trạng thái cân bằng cạnh tranh ở hai
điểm quan trọng. Thứ nhất, ở trạng thái cân bằng cạnh tranh, mọi người đều phải
trả mức giá bằng chi phí cận biên cân bằng, pc = MC c ; tuy nhiên, ở trạng thái cân
bằng phân biệt giá hoàn hảo, chỉ có đơn vị cuối cùng được bán ở mức giá đó. Các
sản phẩm khác được bán theo giá đặt trước của khách hàng, cao hơn pc . Thứ hai,
người tiêu dùng nhận được một số lợi ích ròng (thặng dư tiêu dùng, A + B + C)
trong thị trường cạnh tranh, trong khi độc quyền phân biệt giá hoàn hảo sẽ thu
được tất cả thặng dư hoặc lợi ích tiềm năng từ thương mại. Do đó, phân biệt giá
hoàn hảo không làm giảm hiệu quả - cả sản lượng và tổng thặng dư đều giống
như trong cạnh tranh - nhưng nó phân phối lại thu nhập cho người tiêu dùng.
Người tiêu dùng được lợi hơn nhiều khi có sự cạnh tranh.

12.2 Phân Biệt Giá Hoàn Hảo

HÌNH 12.2 Cân Bằng Cạnh Tranh, Đơn Giá, Và Phân Biệt Giá Hoàn Hả
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Trong cân bằng thị trường cạnh tranh, e c, mỗi đơn vị ở mức giá đặt trước của khách
giá là pc, lượng là Qc, thặng dư tiêu dùng hàng trên đường cầu, cũng là đường doanh
là A + B + C, thặng dư sản xuất là D + E, thu cận biên của nó, MRd . Bán Qd ( = Qc ),
và xã hội không có tổn thất vô ích. Trong trong đó đường cầu cắt đường chi phí cận
cân bằng độc quyền một giá, es, giá là ps, biên, do đó đơn vị cuối cùng được bán với
lượng là Qs, thặng dư tiêu dùng giảm chi phí cận biên. Khách hàng không có
xuống A, thặng dư sản xuất là B + D, và thặng dư tiêu dùng nhưng xã hội không bị
tổn thất vô ích là C + E. Trong cân bằng tổn thất nặng nề.
phân biệt giá hoàn hảo, sự độc quyền bán
p ( $)
MC

A
ps es

B C
pc=MCc ec
E

MCs D

Cầu, Cầu, MRd

MRs
Qs Qc=Qd Q ( ngày)

Độc quyền
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

Phân biệt
Cạnh tranh Một giá giá hoàn hảo
Thặng dư tiêu dùng, CS A+B+C A 0
Thặng dư sản xuất, PS D+E B+D A+B+C+D+E
Phúc lợi, W = CS + PS A+B+C+D+E A+B+D A+B+C+D+E
Tổn thất vô ích, DWL 0 C+E 0

Độc quyền một giá hay độc quyền phân biệt giá hoàn hảo sẽ tốt hơn cho
người tiêu dùng? Cân bằng phân biệt giá hoàn hảo hiệu quả hơn cân bằng độc
quyền một giá vì sản lượng được sản xuất nhiều hơn. Tuy nhiên, độc quyền một
giá lấy đi ít thặng dư tiêu dùng của người tiêu dùng hơn so với độc quyền phân
biệt giá hoàn hảo. Những người tiêu dùng đặt giá trị rất cao cho hàng hóa sẽ
được lợi hơn trong

độc quyền một giá, nơi họ có thặng dư tiêu dùng, hơn là phân biệt giá hoàn
hảo, nơi họ không có thặng dư tiêu dùng. Người tiêu dùng với giá đặt trước
thấp hơn là những người mua từ độc quyền phân biệt giá hoàn hảo nhưng
không mua từ độc quyền một giá sẽ không có thặng dư tiêu dùng trong cả hai
trường hợp. Tất cả lợi ích xã hội từ sản lượng tăng thêm sẽ thuộc về hãng phân
biệt giá hoàn hảo. Thặng dư của người tiêu dùng là lớn nhất khi có cạnh tranh,
thấp hơn khi có sự độc quyền một giá và bị loại bởi phân biệt giá hoàn hảo.
ỨNG DỤNG Để thấy sự khác biệt giữa phân biệt giá hoàn hảo với cạnh tranh và độc
Xem Lại Botox quyền một giá, chúng ta xem lại Ứng dụng trên Botox của Allergan ở
Chương 11. Biểu đồ cho thấy đường cầu tuyến tính ước tính của chúng ta
đối với Botox và chi phí cận biên không đổi (và chi phí biến đổi trung
bình) là 25 $ mỗi lọ . Nếu thị trường cạnh tranh (sao cho giá bằng chi phí
cận biên tại ec), thặng dư tiêu dùng sẽ là tam giác A + B + C = 750 triệu $
mỗi năm, và thặng dư sản xuất và tổn thất vô ích sẽ bằng không. Trong
cân bằng độc quyền một giá, es, lọ Botox được bán với giá 400 $ và một
triệu lọ được bán. Thặng dư tiêu dùng tương ứng là tam giác A = 187,5
triệu $ mỗi năm, thặng dư nhà sản xuất là hình chữ nhật B = 375 triệu $,
và tổn thất vô ích là tam giác C = 187,5 triệu $.
Nếu Allergan có thể phân biệt giá một cách hoàn hảo, thặng dư sản xuất
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

sẽ tăng gấp đôi lên tới A + B + C = 750 triệu $ mỗi năm và người tiêu
dùng sẽ không có thặng dư tiêu dùng. Người tiêu dùng cận biên sẽ phải trả
chi phí cận biên là 25 $, giống như trong thị trường cạnh tranh.

p,( $/lọ
775)

A=
187.5
triệu $

400 es

Cầu

B = 375 triệu $

C = 187,5 triệu $
MR ec = AVC
25 MC

0 1 2 2.07
Q, (triệu lọ / năm)
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

12.2 Phân Biệt Giá Hoàn Hảo


Độc quyền
Cạnh tranh Một giá Phân biệt
giá hoàn hảo
Thặng dư tiêu dùng, CS A+B+C A 0
Thặng dư sản xuất, PS D+E B+D A+B+C+D+E
Phúc lợi, W = CS + PS A+B+C+D+E A+B+D A+B+C+D+E
Tổn thất vô ích, DWL 0 C+E 0

Việc Allergan không có khả năng phân biệt giá hoàn hảo đã khiến công ty và xã
hội phải trả giá đắt. Lợi nhuận của nhà độc quyền một giá, B= 375 triệu USD
mỗi năm, thấp hơn lợi nhuận mà nó có thể kiếm được nếu nó có thể sử dụng sự
phân biệt giá hoàn hảo, A+B+C=750 triệu USD mỗi năm.Tương tự, phúc lợi xã
hội dưới sự độc quyền một giá sẽ thấp hơn so với sự phân biệt giá hoàn hảo bằng
tổn thất vô ích, C, là 187,5 triệu $ mỗi năm.
Giải Phúc lợi thay đổi như thế nào nếu rạp chiếu phim được mô tả trong
Quyết bảng 12.1 chuyển từ tính một mức giá duy nhất sang phân biệt giá
Vấn Đề hoàn hảo ?
12.1
Trả lời
1. Tính phúc lợi cho phần a (a) nếu rạp đặt một mức giá duy nhất và (b) nếu là phân
biệt giá hoàn hảo, và sau đó (c) so sánh chúng. (a) Nếu rạp đặt giá đơn lẻ tối đa
hoá lợi nhuận là 5 $, thì rạp sẽ bán được 30 vé và kiếm được lợi nhuận là 150 $.
20 khách hàng cao tuổi đang trả giá đặt trước nên họ không có thặng dư iêu
dùng. 10 sinh viên đji học có giá đặt trước là 10 $, do đó thặng dư tiêu dùng của
học là 50 $. Do đó, phúc lợi là 200 $: tổng lợi nhuận là 150 $ và thặng dư tiêu
dùng là 50 $. (b) Nếu rạp phân biệt giá hoàn hảo, họ sẽ tính giá cho người cao
tuổi là 5 $ và sinh viên đại học là 10 $. Bởi vi rạp chiếu phim đang tính giá đặt
trước cho tất cả khách hàng nên họ không có thặng dư tiêu dùng. Lợi nhuận công
ty tăng lên 200 $. (c) Do đó, phúc lợi là như nhau ở cả hai hẹ thống định giá khi
sản lượng không đổi.
2. Tính phúc lợi cho phần b (a) nếu rạp đặt một mức giá duy nhất và (b) nếu là phân
biệt giá hoàn hảo, và sau đó (c) so sánh chúng. (a) Nếu rạp đặt giá đơn lẻ tối đa
hóa lợi nhuận là 10 $ thì chỉ có sinh viên đại học tham dự và họ không có thặng
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

dư tiêu dùng. Lợi nhuận của rạp là 100 $, vậy tổng phúc lợi là 100 $. (b) Với sự
phân biệt giá hoàn hảo , người tiêu dùng không nhận được thặng dư tiêu dùng,
nhưng lợi nhuận tăng lên 125 $, do đó phúc lợi tăng lên 125 $. (c) Do đó, phúc lợi
sẽ lớn hơn với phân biệt giá hoàn hảo khi sản lượng tăng. (Kết quả là phúc lợi
tăng khi và chỉ khi sản
lượng nói chung đúng. )

Chi Phí Giao Dịch và Phân Biệt Giá Hoàn Hảo


Mặc dù một số công ty gần đạt được sự phân biệt giá hoàn hảo, nhưng vẫn có
nhiều công ty đặt ra một mức giá duy nhất hoặc sử dụng một phương pháp định
giá phi tuyến tính khác. Chi phí giao dịch là lý do chính khiến các công ty này
không phân biệt giá một cách hoàn hảo: Việc thu thập thông tin về mức độ nhạy
cảm về giá của từng khách hàng là quá khó khăn hoặc tốn kém. Tuy nhiên,
những tiến bộ gần đây trong công nghệ máy tính đã làm giảm những chi phí này,
khiến các khách sạn, công ty cho thuê ô tô và xe tải, các hãng tàu du lịch và hãng
hàng không phân biệt giá thường xuyên hơn.
Các trường đại học tư yêu cầu và nhận thông tin tài chính từ sinh viên, điều
này cho phép các trường phân biệt giá gần như hoàn hảo. Các trường cấp một
phần học bổng như một biện pháp giảm học phí cho những học sinh cận nghèo.
Nhiều công ty khác tin rằng, khi tính đến chi phí giao dịch, họ sẽ có lợi nếu sử
dụng sự phân biệt giá theo nhóm hoặc phân biệt giá phi tuyến tính hơn là cố gắng
phân biệt giá một cách hoàn hảo. Bây giờ chúng ta chuyển sang các phương pháp
thay thế này.

12.3 Phân Biệt Giá Theo Nhóm


Hầu hết các công ty không có cách nào thực tế để ước tính giá đặt trước cho
mỗi khách hàng của họ. Tuy nhiên, nhiều công ty trong số này biết nhóm khách
hàng nào có thể có mức giá đặt trước trung bình cao hơn những nhóm khác. Một
công ty thực hiện phân biệt giá theo nhóm bằng cách chia khách hàng tiềm năng
thành hai hoặc nhiều nhóm và đặt ra các mức giá khác nhau cho mỗi nhóm. Các
nhóm người tiêu dùng có thể khác nhau theo độ tuổi (chẳng hạn như người lớn và
trẻ em), theo địa điểm (chẳng hạn như theo quốc gia) hoặc theo những cách khác.
Tất cả các đơn vị hàng hóa bán cho khách hàng trong một nhóm đều được bán ở
một mức giá duy nhất. Giống như phân biệt giá riêng lẻ, để thực hiện phân biệt
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

giá theo nhóm, một công ty phải có sức mạnh thị trường, có thể xác định các
nhóm có mức giá đặt trước khác nhau và ngăn chặn việc bán lại.
Ví dụ, các rạp chiếu phim với sức mạnh thị trường tính giá cho người cao
tuổi thấp hơn mức giá họ tính cho người trẻ tuổi vì người cao tuổi không sẵn
sàng trả nhiều tiền như những người khác để xem phim. Bằng cách tiếp nhận
khán giả ngay khi họ chứng minh được tuổi và mua vé, rạp sẽ ngăn chặn việc bán
lại vé.
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

12.3 Phân biệt giá theo nhóm

Ứng Dụng Bản quyền mang lại cho Warner Brothers độc quyền hợp pháp để sản xuất
Warner và bán đĩa DVD Harry Potter và Bảo bối Tử thần, Phần 2. Warner bán
Brothers ấn phim ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và các quốc gia khác. Bởi vì định dạng
định giá cho đĩa DVD của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh khác nhau, Warner có thể tính giá
DVD Harry khác nhau ở hai quốc gia mà không phải lo lắng về việc bán lại. Đĩa DVD
Potter được phát hành trong mùa nghỉ lễ 2011-2012 và đã bán được Q A = 5,8
triệu bản cho người tiêu dùng Mỹ với giá p A = 29 $ và QB= 2,0 triệu bản
cho người tiêu dùng Anh ở mức giá pB = 39 $ (£25). Do đó, Warner đã
tham gia vào việc phân biệt giá theo nhóm bằng cách tính các mức giá
khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau.

Phân Biệt Giá Theo Nhóm với Hai Nhóm


Làm thế nào để phân biệt giá độc quyền giữa hai nhóm người tiêu
dùng?12 Cụ thể, Warner nên đặt giá pA và pB hoặc tương đương với
QA và QB-or như thế nào để tối đa hóa lợi nhuận kết hợp ở hai
quốc gia ?
Giải quyết vấn đề phân biệt giá nhóm tối ưu Để trả lời câu hỏi
này, chúng tôi sử dụng sự hiểu biết của mình về hành vi của nhà
độc quyền một giá. Bởi vì chi phí biên và chi phí trung bình của
Warner, m, không đổi và giống nhau ở cả hai quốc gia, Warner đã
tối đa hóa tổng lợi nhuận bằng cách tối đa hóa lợi nhuận từ mỗi
quốc gia riêng biệt. Tổng lợi nhuận của Warner, π, là tổng lợi
nhuận của hãng ở Mỹ và ở Anh, πA và πB:
π = πA + πB = (pAQA - mQA) + (pBQB - mQB),
trong đó pAOA là doanh thu ở Hoa Kỳ, mOA là chi phí ở Hoa Kỳ,
pBQB là doanh thu ở Vương quốc Anh và mQB là chi phí của
Vương quốc Anh.
Hình 12.3 cho thấy ước tính của chúng tôi về đường cầu tuyến
tính ở hai nước. Chúng tôi ước tính rằng Warner có chi phí cận
biên không đổi là m = 1 $ở cả hai quốc gia.
Trong phần a, Warner đã tối đa hóa lợi nhuận ở Mỹ bằng cách
bán QA= 5,8 triệu DVD, trong đó doanh thu cận biên bằng chi phí

12
Xem phụ lục 12B để biết phân tích tính toán
Chương 12: Định giá và Quảng cáo

biên MRA = m = 1 (Chương 11) và tính phí pA = 29 $. Tương tự


trong phần b, Warner tối đa hóa lợi nhuận ở Anh bằng cách bán
QB = 2,0 triệu DVDS trong đó MRB = m = 1 $ và được tính phí PB
= 39 $.
Quy tắc ấn định giá này phải tối đa hóa lợi nhuận nếu doanh
nghiệp không muốn thay đổi giá của mình đối với một trong hai
nhóm. Liệu nhà độc quyền có muốn hạ giá và bán nhiều sản phẩm
hơn ở Hoa Kỳ không? Nếu đúng như vậy, doanh thu cận biên của
nó sẽ thấp hơn chi phí cận biên, vì vậy sự thay đổi này sẽ làm
giảm lợi nhuận của nó. Tương tự, nếu nhà độc quyền bán ít sản
phẩm hơn ở Hoa Kỳ thì doanh thu cận biên của nó sẽ cao hơn chi
phí cận biên, điều này sẽ làm giảm lợi nhuận của nó. Những lập
luận tương tự có thể được đưa ra về giá cả của nó ở Anh.

HÌNH 12.3 Giá Nhóm của DVD Harry Potter

Warner Brothers, nhà sản xuất độc quyền của đĩa


DVD Harry Potter và Bảo bối Tử thần, Phần 2,
ính phí ở Vương quốc Anh cao hơn, p B =39 $
£25), so với ở Hoa Kỳ, p A = 29 $ , vì cầu ở Hoa
Kỳ co giãn hơn. Warner Brothers ấn định số
ượng một cách độc lập ở mỗi quốc gia, tại đó
doanh thu cận biên liên quan của nó bằng với chi
phí cận biên chung, không đổi, m=1 $. Kết quả là
nó tối đa hóa lợi nhuận bằng cách đánh đồng hai
doanh thu cận biên: MRA = 1 = MRB.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

(a) Hoa Kỳ p(b)


B ( $Vương
/DVD ) Quốc Anh
pA ( $/DVD )
77

DB

CSB
57 D A

39
CSA

29 πB

πA
DWLA
MRA MRB DWLB
1 m 1 m
2,0 4,1
5,8 11,8
QB ( triệu DVD/năm)
QA ( triệu DVD/năm)

Do đó, nhà độc quyền phân biệt giá sẽ tối đa hóa lợi nhuận của mình
bằng cách hoạt động ở nơi doanh thu biên của mỗi quốc gia bằng chi phí
biên chung của quốc gia đó. Bởi vì sự độc quyền làm cho doanh thu cận
biên của mỗi nhóm tương đương với chi phí cận biên chung của nhóm
đó, MC = m, nên doanh thu cận biên của hai nước bằng nhau:
MRA = m = MRB (12.1)
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

12.3 Phân biệt giá theo nhóm


Giải Quyết Vấn Đề Chúng tôi ước tính rằng Warner phải đối mặt với hàm cầu
12.2 nghịch đảo đối với đĩa DVD Harry Potter và Bảo bối Tử thần,
Phần 2 với pA = 57 - 4,8QA tại Hoa Kỳ và pB =77- 19QB ở
vương quốc Anh. Cho rằng chi phí biên là 1 ở cả hai quốc gia,
hãy tìm giá và số lượng tối ưu của Warner ở mỗi quốc gia.
Trả lời
1. Xác định hàm doanh thu cận biên. Đường doanh thu cận biên
tương ứng với đường cầu nghịch đảo tuyến tính có độ dốc gấp đôi
và cùng mức chặn giá (Chương 11, Giải quyết vấn đề 11.1). Do
đó, hàm doanh thu cận biên là MR^ = 57 - 9,6Q A ở Hoa Kỳ và
MRB = 77 – 38QB ở Vương quốc Anh.2. Giải quyết mức giá và số
lượng độc quyền tối ưu của Warner ở mỗi quốc gia riêng biệt. Số
lượng độc quyền tối ưu của Warner được xác định bằng cách làm
cho doanh thu cận biên và chi phí cận biên bằng nhau. Điều kiện
tối ưu độc quyền của Hoa Kỳ là 57 - 9,6Q A = 1 nên QA = 56/9,6 ≈
5,833. Sử dụng hàm cầu nghịch đảo, chúng ta biết rằng mức giá
tương ứng là p ≈ 29. Ở Vương quốc Anh, điều kiện để có mức giá
tối ưu là 77 - 38QB = 1, nên QB = 76/38 = 2, và pB = 39.

Giá và Độ co giãn Chúng ta có thể sử dụng phương trình 12.1, MR A


= m = MRB để xác định xem giá của hai nhóm thay đổi như thế nào
theo độ co giãn của cầu theo giá ở mức sản lượng tối đa hóa lợi
nhuận. Doanh thu cận biên của mỗi nhóm là hàm số của mức giá
tương ứng và độ co giãn của cầu theo giá (như Chương 11 đã trình
bày trong Phương trình 11.4). Doanh thu cận biên của Hoa Kỳ là
MRA = pA(1 + 1/εA), trong đó ɛA là độ co giãn của cầu theo giá đối
với người tiêu dùng Hoa Kỳ và doanh thu cận biên của Vương quốc
Anh là MRB = pB(1 + 1/εB), trong đó εB là độ co giãn của cầu theo
giá đối với người tiêu dùng Anh.
Viết lại phương trình 12.1 sử dụng các biểu thức này cho doanh thu
cận biên, chúng ta thấy rằng
1 1
MRA = pA( 1 + ε ) = m = pB( 1 + ε ) = MRB. (12.2)
A B
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

Cho rằng m = 1 $, pA = 29 $ và pB = 39 $ trong Phương trình 12.2,


Warner hẳn đã tin rằng εA = pA/[m - pA] = 29/[-28] ≈ -1.0357 và εB =
pB/[m - pB] = 39/[-38] ≈ -1.0263.13 Bằng cách sắp xếp lại phương trình
12.2, chúng ta biết được rằng tỷ lệ giá cả ở hai quốc gia chỉ phụ thuộc
vào độ co giãn của cầu ở những quốc gia đó:
1
1+
pB εA
= (12.3)
pA 1
1+
εB

Thay thế giá cả và độ co giãn vào phương trình 12.3, chúng ta xác định
được rằng
1
1+
pB 39 $ 1+ 1/(−1.0357) εA
= ≈ 1.345 ≈ =¿ .
p A 29 $ 1+ 1/(−1.0263) 1
1+
εB
Do đó, Warner Brothers rõ ràng tin rằng đường cầu của Anh ít co giãn
hơn ở mức giá tối đa hóa lợi nhuận so với đường cầu của Hoa Kỳ, vì εB
≈ -1.0263 gần bằng 0 hơn εA ≈ -1.0357. Do đó, Warner tính phí người
tiêu dùng Anh cao hơn 34% so với khách hàng Mỹ.
Đến giữa năm 2012, do nhu cầu về đĩa DVD giảm, Amazon đã giảm
giá đĩa DVD này tại các cơ sở của mình trên khắp thế giới, nhưng vẫn
duy trì mức chênh lệch giá. Giá của Amazon tại Hoa kỳ giảm xuống
còn 7 $, trong khi giá ở Anh giảm xuống còn 9,50 $, điều này vẫn phản
ánh về mức tăng giá tương tự của Anh: 36%.

ỨNG Khi Supap Kirtsaeng, một sinh viên toán Thái Lan, từng là sinh viên
DỤNG Đại học Cornell và sau đó là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Nam
Bán California, anh đã tìm ra cách trang trải chi phí học tậpcủa mình. Anh
Lại nhờ bạn bè và người thân gửi cho anh những cuốn sách giáo khoa mà
Sách họ mua ở Thái Lan, rồi anh bán lại cho sinh viên đại học Mỹ trên
Giáo eBay và các nơi khác, thu về hàng trăm
Khoa nghìn đô la.

13
Chúng ta thu được biểu thức ε i = pi/(m - pi ), i = A hoặc B, bằng cách sắp xếp lại pi (1 + 1/εi ) = m
(Phương trình 11.4).
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

Tại sao việc bán lại những cuốn sách này lại mang lại lợi nhuận?
Sách giáo khoa Hoa Kỳ được bán với giá thấp hơn nhiều ở thị
trường nước ngoài. Nhiều cuốn sách trong số này chỉ khác với
phiên bản ở Mỹ ở chỗ có bìa mềm có nhãn "ấn bản quốc tế".John
Wiley & Sons, là một nhà xuất bản, đã kiện ông Kirtsaeng vì vi
phạm bản quyền. Công ty cho rằng việc nhập khẩu và bán sách của
mình, ông Kirtsaeng đã vi phạm bản quyền của công ty. Nó khẳng
định rằng học thuyết bán hàng đầu tiên - cho phép mọi người mua
thứ gì đó để sử dụng hoặc bán lại nó theo cách họ muốn - không áp
dụng cho hàng hóa được sản xuất đặc biệt để bán ở nước ngoài.
Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ khu vực thứ 2 ở New York đã đồng ý với
Wiley và giữ nguyên phán quyết phạt 600.000 $ đối với ông
Kirtsaeng. Tuy nhiên, vào năm 2013, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã
đảo ngược phán quyết đó bằng một cuộc bỏ phiếu 6/3, kết luận rằng
quy tắc bán hàng đầu tiên nói chung được áp dụng.
Quyết định này áp dụng cho hồ sơ, phim ảnh, tác phẩm nghệ thuật,
phần mềm và các hàng hóa khác cũng như sách được bảo vệ theo
luật bản quyền.14
Vì vậy, trừ khi Quốc hội thay đổi luật bản quyền, các nhà xuất
bản sẽ gặp khó khăn hơn trong việc duy trì sự khác biệt về giá giữa
các quốc gia. Hậu quả có thể xảy ra của phán quyết này là sinh viên
nghèo nước ngoài sẽ không còn đủ tiền mua sách giáo khoa vì giá
sách nước ngoài sẽ tăng. Giá ở Mỹ và ở nước ngoài sẽ chỉ khác
nhau ở chi phí giao dịch khi bán lại sách. Nếu những chi phí giao
dịch đó không đáng kể thì một mức giá duy nhất sẽ được tính trên
toàn thế giới.
Ngoài ra, nhà xuất bản có thể ngăn chặn việc bán lại. Một khả
năng là họ sẽ phân biệt rõ ràng các sách giáo khoa của Mỹ và sách
giáo khoa nước ngoài để ngăn chặn việc bán lại; tuy nhiên, làm như

14
Tuy nhiên, Tòa án Tối cao đã ra phán quyết vào năm 2010 rằng Omega có thể
ngăn Costco bán đồng hồ của mình được sản xuất bên ngoài Hoa Kỳ, trích dẫn một
nhãn hiệu nhỏ trên mỗi chiếc đồng hồ, để chúng thuộc thẩm quyền của luật nhãn
hiệu, mang lại cho chủ sở hữu nhiều sự bảo vệ hơn luật bản quyền.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

vậy rất tốn kém và mất thời gian. Một khi SGK điện tử trở nên phổ
biến, học sinh sẽ thuê sách trong học kỳ và không thể bán lại.

Giải Quyết Vấn Một nhà xuất bản sách độc quyền có chi phí biên không đổi (và chi
Đề 12.3 phí trung bình) là MC = 1 chỉ bán một cuốn tiểu thuyết ở hai quốc
1
gia và đối mặt với đường cầu nghịch đảo tuyến tính p1 = 6 - 2 Q1 ở
Quốc gia 1 và p2 = 9 - Q2 ở Quốc gia 2. Giá độc quyền tối đa hóa
lợi nhuận ở mỗi quốc gia sẽ là bao nhiêu khi có và không có lệnh
cấm vận chuyển giữa các quốc gia?
Trả lời
Nếu việc bán lại qua biên giới bị cấm để có thể phân biệt giá:
1. Xác định mức giá tối đa hóa lợi nhuận mà nhà độc quyền đặt ra ở
mỗi quốc gia bằng cách đặt doanh thu cận biên tương ứng bằng chi
phí biên. Nếu nhà độc quyền có thể phân biệt giá thì nó sẽ ấn định
giá độc quyền (Phần 11.1) một cách độc lập ở mỗi quốc gia. Bằng
cách sắp xếp lại hàm cầu cho Quốc gia 1, chúng tôi thấy rằng hàm
1
cầu nghịch đảo là p1 = 6 - 2 Q1 đối với số lượng nhỏ hơn 6 và bằng 0
nếu ngược lại, như bảng a trong hình minh họa. Đường doanh thu
cận biên có độ dốc lớn gấp đôi so với đường cầu nghịch đảo tuyến
tính (Chương 11): MR1 =6 – Q1. Nhà độc quyền tối đa hóa lợi nhuận
khi doanh thu biên bằng chi phí biên,
MR1 = 6 - Q1 = 1 = MC
p ( $/cuốn ¿ ¿
p2 ( $/cuốn ¿ ¿
(a) (b) Quốc gia 2
p Quốc
1( gia 1 (c) Độc quyền một giá
$/cuốn ¿ ¿ 9 9

6 6
5
3.5 4

MR1 D1 MR2 D2 MR D
1 MC 1 MC 1 MC

5 12 4 9 3 9 21
Q1 (cuốn/ngày) Q2 (cuốn/ngày) Q (cuốn/ngày)
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

Giải, chúng ta thấy rằng sản lượng tối đa hóa lợi nhuận của nó là Q 1= 5.
Thay biểu thức này vào đường cầu nghịch đảo của nhà độc quyền, chúng
ta biết rằng giá tối đa hóa lợi nhuận của nó là p 1 = 3.5, như minh họa ở
phần a. Ở Quốc gia 2, đường cầu nghịch đảo là p 2 = 9 - Q2 do đó nhà độc
quyền chọn Q2 sao cho MR2 = 9 – 2Q2 = 1 = MC. Do đó, nó tối đa hóa lợi
nhuận ở Quốc gia 2 nơi Q2 = 4 và p2 = 5, như bảng b hiển thị.
Nếu nhập khẩu được phép để không thể phân biệt giá:
2. Rút ra đường tổng cầu. Nếu hãng độc quyền không thể phân biệt giá thì
nó sẽ tính cùng một mức giá, p, ở cả hai nước. Nhà độc quyền phải đối
mặt với đường tổng cầu trong bảng c, là tổng theo chiều ngang của các
đường cầu của mỗi quốc gia trong bảng a và b (Chương 2). Nếu giá
nằm trong khoảng từ 6 đến 9 thì lượng cầu chỉ dương ở Quốc gia 2, do
đó đường tổng cầu (hình c) giống với đường cầu của Quốc gia 2 (hình
b). Nếu giá nhỏ hơn 6 khi cả hai quốc gia đều có cầu một lượng dương,
thì đường tổng cầu (hình c) là tổng theo chiều ngang của đường cầu của
hai quốc gia riêng lẻ (hình a và b).15 Như bảng c cho thấy, tổng cầu
đường cong có điểm gấp khúc tại p = 6, vì lượng cầu ở Quốc gia 1 chỉ
dương khi ở dưới mức giá này.
3. Xác định đường doanh thu cận biên tương ứng với đường tổng cầu. Vì
đường tổng cầu có độ gấp khúc ở mức p = 6 nên đường doanh thu cận
biên tương ứng có hai phần. Ở mức giá trên 6, đường doanh thu cận
biên giống với đường doanh thu cận biên của Quốc gia 2 trong phần b.

Ở mức giá dưới 6, trong đó đường tổng cầu là tổng theo chiều
ngang của đường cầu của hai quốc gia, đường doanh thu cận biên
có độ dốc gấp đôi so với đường tổng cầu nghịch đảo tuyến tính.
1
Hàm tổng cầu nghịch đảo là p = 7 - 3 Q, và hàm doanh thu cận
2
biên là MR = 7 - 3 Q.16 Bảng c cho thấy các bước nhảy của đường
doanh thu cận biên là không liên tục - tại mức mà đường tổng cầu
có một điểm gấp khúc.
15
Sắp xếp lại các hàm cầu nghịch đảo, ta thấy hàm cầu Quốc gia 1 là Q1 = 12 – p1 và hàm cầu Quốc gia 2
là Q2 = 9 - p2. Kết quả là với mức giá dưới 6, tổng hàm cầu là Q = ( 12 - 2p ) + ( 9 – p ) = 21 - 3p, trong
đó Q = Q1 + Q2 là tổng số lượng mà nhà độc quyền bán ở cả hai quốc gia.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

4. Giải quyết vấn đề độc quyền một giá. Nhà độc quyền tối đa hóa lợi
nhuận khi doanh thu biên bằng chi phí biên. Từ việc kiểm tra bảng c,
chúng ta biết rằng giao điểm xảy ra ở phần mà cả hai nước đang mua
2
hàng: MR = 7 - 3 Q = 1 = MC. Do đó, sản lượng tối đa hóa lợi nhuận là
Q = 9. Thay số lượng đó vào hàm tổng cầu nghịch đảo, chúng ta thấy
rằng nhà độc quyền tính p = 4. Do đó, giá của nhà độc quyền không
phân biệt đối xử, 4, nằm giữa hai mức giá mà nó sẽ tính phí nếu nó có
thể phân biệt giá: 3,50 < 4 < 5.

Xác định nhóm


Các công ty sử dụng hai cách tiếp cận chính để phân chia khách hàng
thành các nhóm. Một phương pháp là chia người mua thành các nhóm
dựa trên những đặc điểm có thể quan sát được của người tiêu dùng mà
công ty tin rằng có liên quan đến mức giá đặt trước cao hoặc thấp bất
thường hoặc độ co giãn của cầu. Ví dụ, giá rạp chiếu phim phân biệt đối
xử theo độ tuổi của khách hàng, tính giá cho người lớn cao hơn cho trẻ
em.
Tương tự, một số công ty tính giá cho khách hàng ở một quốc gia này
cao hơn giá ở một quốc gia khác. Năm 2012, bản nâng cấp Windows 8
Pro được bán với giá 95 $ tại Hoa Kỳ, £97 (125 $) ở Vương quốc Anh, C
$160 (156 $) ở Canada, €54 (70 $) ở Pháp và ¥ 7.290 (77 $) ở Nhật Bản.
Hầu hết những khác biệt này lớn hơn nhiều so với mức có thể giải thích
bằng chi phí vận chuyển và phản ánh sự phân biệt giá theo nhóm.
Một cách tiếp cận khác là xác định và phân chia người tiêu dùng dựa
trên hành động của họ: Công ty cho phép người tiêu dùng tự lựa chọn
nhóm mà họ thuộc về. Ví dụ, khách hàng có thể được xác định bằng việc
họ sẵn lòng dành thời gian để mua hàng hóa với giá thấp hơn hoặc đặt
mua hàng hóa và dịch vụ trước khi giao hàng.

16
Từ chú thích trước, chúng ta biết rằng hàm tổng cầu đối với mức giá thấp hơn 6 là Q = 21 - 3p. Sắp xếp
1
lại biểu thức này, chúng ta thấy rằng hàm cầu nghịch đảo là p = 7 - Q . Bởi vì hàm doanh thu cận biên có
3
2
độ dốc gấp đôi nên nó là MR = 7 - Q.
3
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

Các công ty sử dụng sự khác biệt về giá trị mà khách hàng đặt vào
thời gian của họ để phân biệt đối xử bằng cách sử dụng hàng đợi (bắt
mọi người phải xếp hàng chờ) và các phương pháp bán hàng tốn nhiều
thời gian khác. Những người quản lý cửa hàng tin rằng những người
được trả lương cao không sẵn sàng "lãng phí thời gian mua sắm" có thể
thực hiện chương trình bán hàng theo đó người tiêu dùng đến cửa hàng
và tự mình lấy hàng sẽ nhận được mức giá thấp trong khi người tiêu
dùng đặt hàng qua điện thoại hoặc qua thư sẽ trả một giá cao hơn. Kiểu
phân biệt giá này làm tăng lợi nhuận nếu những người coi trọng thời
gian của họ cũng có nhu cầu ít co giãn hơn đối với hàng hóa.
Những người chấp nhận sớm một sản phẩm mới thường rất nhiệt tình
và sẽ trả giá cao. Các công ty có thể tận dụng lợi thế của những người
chấp nhận sớm bằng cách tính giá ban đầu cao cho một sản phẩm mới và
sau đó hạ giá sau khi bán được sản phẩm ban đầu.

ỨNG DỤNG Các công ty sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau để khiến người
Giảm Giá tiêu dùng cho biết liệu họ có độ co giãn của cầu tương đối cao hay
Mua Hàng thấp. Đối với mỗi phương pháp này, người tiêu dùng phải chịu
một số chi phí, chẳng hạn như thời gian của họ, để được giảm giá.
Nếu không, tất cả người tiêu dùng sẽ được giảm giá. Bằng cách
dành thêm thời gian để được giảm giá, người tiêu dùng nhạy cảm
về giá có thể tạo ra sự khác biệt cho mình.
Phiếu giảm giá. Nhiều công ty sử dụng phiếu giảm giá để phân
biệt giá theo nhóm. Thông qua thiết bị này, các công ty chia khách
hàng thành hai nhóm, tính phí cho những người cắt phiếu giảm giá
ít hơn những người không cắt phiếu. Việc tặng phiếu giảm giá sẽ
có ý nghĩa nếu những người không kẹp phiếu giảm giá nhìn chung
ít nhạy cảm về giá hơn những người có. Những người sẵn sàng
dành thời gian cắt phiếu giảm giá mua ngũ cốc và các hàng hóa
khác với giá thấp hơn những người coi trọng thời gian của mình
hơn. Một nghiên cứu năm 2009 của Hiệp hội Tiếp thị Xúc tiến Hội
đồng phiếu giảm giá nhận thấy rằng người tiêu dùng dành 20 phút
mỗi tuần để cắt và tổ chức phiếu giảm giá có thể tiết kiệm tới
1.000 $ cho một lần hóa đơn hàng tạp hóa trung bình hàng năm từ
5.000 $trở lên. Hơn 3/4 người tiêu dùng Hoa Kỳ thỉnh thoảng sử
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

dụng phiếu giảm giá. Vào năm 2012, các phiếu giảm giá có mệnh
giá 310 tỷ $ đã được các nhà tiếp thị hàng tiêu dùng đóng gói phân
phối cho người tiêu dùng Hoa Kỳ. Trong số này,3,0 tỷ phiếu giảm
giá đã được đổi lấy 2,9 tỷ $.

12.3 Phân biệt giá theo


nhóm

Sự ra
đời
phiếu
giảm giá
kỹ thuật
số (ví
dụ:

EverSave.com và zavers.com) đã giúp các công


ty dễ dàng nhắm mục tiêu vào các nhóm thích
hợp hơn, nhưng đã giảm chi phí sử dụng phiếu
giảm giá của người tiêu dùng, điều đó có nghĩa là
có nhiều người sử dụng chúng hơn. Theo
eMarketer, 47% người trưởng thành ở Hoa Kỳ đã
sử dụng phiếu giảm giá trực tuyến vào năm 2012.
Phiếu giảm giá kỹ thuật số có nhiều khả năng
được sử dụng hơn (15%-20%) so với phiếu giảm
giá giấy (dưới 1%).
Vé máy bay. Bằng cách lựa chọn giữa hai loại
vé khác nhau, khách hàng của hãng hàng không
Bạn phải chứng minh rằng bạn sẽ cho biết họ là người đi công tác hay đi
thật sự muốn được giảm giá! nghỉ.Các hãng hàng không cho khách hàng lựa
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

chọn giữa vé giá cao không ràng buộc và vé giá


rẻ phải mua trước từ lâu.
Các hãng hàng không biết rằng nhiều hành khách đi công tác không được cảnh báo
trước trước khi họ đặt chuyến bay và có đường cầu tương đối kém co giãn. Ngược lại,
những người đi nghỉ thường có thể lên kế hoạch trước và có độ co giãn tương đối cao
của nhu cầu đi lại bằng đường hàng không. Quy định của các hãng hàng không đảm
bảo rằng những du khách có nhu cầu tương đối co giãn sẽ nhận được giá vé thấp trong
khi hầu hết du khách đi công tác có nhu cầu tương đối kém co giãn sẽ mua vé giá cao
(thường cao hơn bốn lần so với giá đặt trước).
Đấu giá ngược. Priceline.com và những người bán trực tuyến khác sử dụng đấu giá
theo giá riêng của bạn hoặc đấu giá "ngược lại" để xác định những khách hàng nhạy
cảm về giá. Khách hàng tham gia đấu giá ở mức giá tương đối thấp cho hàng hóa hoặc
dịch vụ, chẳng hạn như vé máy bay. Thương nhân quyết định có chấp nhận giá thầu đó
hay không. Để ngăn chặn những khách hàng ít nhạy cảm hơn về giá sử dụng các
phương pháp này, các hãng hàng không buộc những người đặt giá thầu Preiceline
thành công phải linh hoạt: bay vào giờ thấp điểm, thực hiện một hoặc nhiều nối chuyến
và chấp nhận bất kì loại máy bay nào. Tương tự, khi đấu giá hàng tạp hóa, khách hàng
phải liệt kê "một hoặc hai nhãn hiệu mà bạn thích". Như Jay Walker, người sáng lập
Priceline giải thích “Tất nhiên, các nhà sản xuất sẽ không muốn giảm giá cho bạn,
nhưng nếu bạn chứng minh được rằng bạn sẵn sàng chuyển đổi thương hiệu, họ sẽ sẵn
sàng trả tiền để giữ bạn."
Giảm giá. Tại sao nhiều công ty đưa ra mức giảm giá, chẳng hạn như 5 $
thay vì giảm giá sản phẩm của họ xuống 5 đô la? Lý do là người tiêu dùng phải thực
hiện thêm một bước tốn thời gian để nhận được giảm giá. Vì vậy, chỉ những người
tiêu dùng rất nhạy cảm về giá và đánh giá thấp thời gian của họ mới thực sự đăng ký
giảm giá. Theo khảo sát của Consumer Reports, 47% khách hàng luôn hoặc thường
xuyên nộp đơn xin giảm giá, 23% thỉnh thoảng nộp đơn, 25% không bao giờ nộp đơn
và 5% trả lời rằng câu hỏi này không áp dụng cho họ.

Tác động phúc lợi của sự phân biệt giá theo nhóm
Sự phân biệt giá theo nhóm dẫn đến sản xuất và tiêu dùng không hiệu quả. Kết
quả là, phúc lợi dưới sự phân biệt giá theo nhóm sẽ thấp hơn so với sự cạnh tranh
hoặc sự phân biệt giá hoàn hảo. Tuy nhiên, phúc lợi có thể thấp hơn hoặc cao hơn khi
phân biệt giá theo nhóm so với độc quyền một giá.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

Phân biệt giá theo nhóm so với cạnh tranh Thặng dư của người tiêu dùng lớn
hơn và sản lượng được sản xuất ra trong cạnh tranh phân biệt giá hoàn hảo nhiều hơn
so với phân biệt giá theo nhóm. Trong Hình 12.3, thặng dư tiêu dùng với sự phân biệt
giá theo nhóm là CSA dành cho người tiêu dùng Mỹ, được hiển thị trong bảng a và
CSB dành cho người tiêu dùng Anh, được hiển thị trong bảng b. Trong cạnh tranh,
thặng dư tiêu dùng là phần diện tích bên dưới đường cầu và phía trên đường chi phí
cận biên: CSA + π A + DWLA trong bảng a và CSB + π B + DWLB trong bảng b.
Do đó, sự phân biệt giá theo nhóm chuyển một số thặng dư tiêu dùng cạnh tranh,
π A và π B, sang cho nhà độc quyền dưới dạng lợi nhuận bổ sung và gây ra tổn thất vô
ích, DWLA và DWLB, là thặng dư tiêu dùng giảm đi và đơn giản là bị mất đi hoặc
lãng phí. Tổn thất vô ích là do sự độc quyền phân biệt giá theo nhóm tính giá cao
hơn chi phí cận biên, dẫn đến sản lượng giảm từ mức cạnh tranh tối ưu.

Phân biệt giá theo nhóm và độc quyền một giá Chỉ từ lý thuyết, chúng ta không
thể biết liệu phúc lợi có cao hơn nếu nhà độc quyền sử dụng phân biệt giá theo nhóm
hay đặt ra một mức giá duy nhất. Cả hai loại độc quyền đều đặt giá cao hơn chi phí
cận biên , do đó có quá ít sản phẩm được sản xuất so với đối thủ cạnh tranh. Sản
lượng có thể tăng khi hãng bắt đầu phân biệt đối xử nếu các nhóm không mua khi
hãng đưa ra một mức giá duy nhất bắt đầu mua. Trong ví dụ về rạp chiếu phim ở
phần b của bảng 12.1, phúc lợi khi có sự phân biệt cao hơn với độc quyền một giá vì
nhiều vé được bán hơn khi độc quyền phân biệt (xem Giải quyết vấn đề 12.1).
Nhà độc quyền phân biệt giá theo nhóm càng tiến gần đến phân biệt giá hoàn hảo
(ví dụ, bằng cách chia khách hàng của mình thành nhiều nhóm thay vì chỉ hai), nó
càng tạo ra nhiều sản lượng hơn, làm giảm tính kém hiệu quả trong sản xuất. Tuy
nhiên, tổng thặng dư giảm nếu hãng chuyển sang phân biệt giá theo nhóm và tổng
sản lượng.17
Phân biệt giá nhóm và sự cạnh tranh Thặng dư tiêu dùng lớn hơn và sản
lượng được sản xuất với sự cạnh tranh hoàn hảo hơn so với phân biệt giá
nhóm. Trong Hình 12.3, thặng dư tiêu dùng có phân biệt giá nhóm là CSA đối
với người tiêu dùng Mỹ, thể hiện trong bảng a và CSB đối với người tiêu dùng
Anh, thể hiện trong bảng b. Trong cạnh tranh, thặng dư tiêu dùng là khu vực
bên dưới đường cầu và trên đường cong chi phí cận biên: CSA + πA + DWLA
trong bảng a và CSB + πB + DWLB trong bảng b.
17
Một nguyên nhân nữa của sự kém hiệu quả là thời gian người tiêu dùng cố gắng bán lại sản
phẩm cho những khách hàng sẵn sàng chi trả cao hoặc tìm kiếm mức giá thấp. Những hoạt
động này sẽ không xảy ra nếu mọi người đều biết công ty đặt ra một mức giá thống nhất.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

Do đó, phân biệt giá nhóm chuyển một phần thặng dư tiêu dùng cạnh tranh,
πA và πB, sang độc quyền dưới dạng lợi nhuận bổ sung và gây ra tổn thất chết
vô ích, DWLA và DWLB, làm thặng dư tiêu dùng giảm đi, bị mất đi hoặc lãng
phí. Sự mất mát khủng lồ là do chi phí độc quyền phân biệt theo nhóm cao
hơn chi phí cận biên, dẫn đến giảm sản lượng đến mức cạnh tranh tối ưu.

Phân biệt giá theo nhóm và độc quyền một giá Chỉ từ lý thuyết, chúng ta
không thể biết liệu lợi nhuận có cao hơn không nếu nhà độc quyền sử dụng sự
phân biệt giá theo nhóm hoặc nếu họ đặt ra một mức giá duy nhất. Cả hai loại
độc quyền đều đặt giá cao hơn chi phí cận biên, do đó có quá ít sản phẩm
được sản xuất so với đối thủ cạnh tranh. Sản lượng có thể tăng khi hãng bắt
đầu phân biệt đối xử nếu các nhóm không mua khi hãng đưa ra một mức giá
mua duy nhất. Trong ví dụ về rạp chiếu phim trong phần b của Bảng 12.1, lợi
nhuận khi có sự phân biệt đối xử cao hơn so với độc quyền một giá vì nhiều
vé được bán hơn khi có sự phân biệt đối xử độc quyền (xem Giải quyết vấn đề
12.1) .12

12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính


Nhiều công ty không thể xác định được khách hàng nào có giá đặt
trước cao nhất. Tuy nhiên, những công ty như vậy có thể biết rằng hầu
hết khách hàng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho những đơn vị sản phẩm
đầu tiên so với những đơn vị sản phẩm tiếp theo. Nghĩa là, đường cầu
của một khách hàng điển hình là dốc xuống. Một công ty như vậy có thể
phân biệt giá bằng cách để mức giá mà mỗi khách hàng trả thay đổi theo
số lượng đơn vị sản phẩm khách hàng mua. Nghĩa là, công ty sử dụng
phương pháp định giá phi tuyến tính, còn được gọi là phân biệt giá cấp
hai hoặc phân biệt số lượng. Ở đây, giá thay đổi theo số lượng mua
nhưng mỗi khách hàng đều phải đối mặt với cùng một biểu giá phi tuyến
tính.13 Để sử dụng định giá phi tuyến tính, một công ty phải có sức mạnh
thị trường và có khả năng ngăn cản những khách hàng mua ở mức giá
thấp bán lại cho những người lẽ ra phải trả mức giá cao hơn. giá cao. Một
chai nước ép rau V8 64-ounce được bán với giá 4,39 USD hoặc 6,8 ¢
một ounce, trong khi chai 12-ounce được bán với giá 2,79 USD hoặc 23
¢ một ounce. Sự khác biệt về giá mỗi ounce này phản ánh sự phân biệt
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 405

giá phi tuyến tính trừ khi chênh lệch giá là do chi phí khác nhau.

(12) Một nguyên nhân nữa của sự kém hiệu quả là thời gian người tiêu dùng cố gắng
bán lại sản phẩm cho khách hàng sẵn sàng chi trả cao hoặc tìm kiếm mức giá thấp.
Những hoạt động này sẽ không xảy ra nếu mọi người đều biết công ty đặt ra một
mức giá thống nhất.

(13) Thuật ngữ phi tuyến tính được sử dụng vì chi tiêu của người tiêu dùng là
hàm phi tuyến tính của số lượng mua. Chi tiêu của người tiêu dùng, E, là một
hàm tuyến tính của số lượng q, chỉ khi giá p không đổi: E = pq. Nếu giá thay đổi
theo số lượng thì chi tiêu không tuyến tính về số lượng
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 420

Việc giảm giá theo số lượng này dẫn đến việc những khách hàng mua số
lượng lớn sẽ trả ít hơn mỗi ounce so với những người mua số lượng nhỏ.14
Một chiến lược định giá phi tuyến tính khác là định giá theo khối. Nhiều
tiện ích sử dụng biểu giá theo khối, theo đó họ tính một mức giá cho mỗi
đơn vị cho một vài đơn vị đầu tiên (một khối) được mua và một mức giá
khác cho mỗi đơn vị cho các khối tiếp theo. Cả giá theo khối giảm dần và
giá theo khối tăng đều thường được sử dụng bởi các công ty khí đốt, điện,
nước và các công ty tiện ích khác. Công ty độc quyền dịch vụ tiện ích định
giá theo khối trong Hình 12.4 phải đối mặt với một đường cầu tuyến tính
cho mỗi khách hàng (giống hệt nhau). Đường cầu chạm vào trục tung ở
mức 90 USD và

Hình 12.4 Định giá khối

Nếu sự độc quyền này tham gia vào việc định giá khối với chiết D = 200 USD. (b) Nếu độc quyền đặt ra một mức giá duy nhất
khấu số lượng, nó sẽ tạo ra lợi nhuận lớn hơn (thặng dư của nhà (sao cho doanh thu cận biên của nó bằng chi phí cận biên của
sản xuất) so với khi nó đặt một mức giá duy nhất và phúc lợi lớn nó), lợi nhuận của sự độc quyền là F = 900 đô la, phúc lợi là E + F
= 1.350 đô la và tổn thất to lớn là G = 450 đô la.
hơn.

Với định giá khối, lợi nhuận của nó là B = 1.200 đô la, phúc lợi là A
+ B + C = 1.600 đô la và mức giảm số lượng là
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 421

Định giá khối


Thặ ng dư tiêu dù ng, CS A C  $ 400 E  $ 450
Thặ ng dư hoặ c lợ i nhuậ n củ a nhà sả n B  $ 1,200 F  $ 900
xuấ t, PS 
Phú c lợ i, W CS PS A B C  $ E F  $
1,600 1,350
Giả m câ n, DWL D  $200 G  $450

14 Không phải tất cả các khoản chiết khấu theo số lượng đều là một hình
thức phân biệt giá. Một số phản ánh việc giảm chi phí của một công ty với
doanh số bán hàng số lượng lớn. Ví dụ, chi phí cho mỗi ounce bán nước ngọt
trong một cốc lớn ít hơn so với bán nó trong một cốc nhỏ hơn; Chi phí của
cốc thay đổi ít theo kích thước, và chi phí rót và phục vụ là như nhau. Một
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 422

nhà hàng cung cấp giảm giá số lượng đồ uống có thể chuyển tiết kiệm chi
phí thực tế cho người mua lớn hơn thay vì phân biệt giá cả.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 423

trục ngang ở mức 90 đơn vị. Độc quyền có chi phí cận biên và trung bình
không đổi là m = 30 đô la. Bảng điều khiển a cho thấy sự độc quyền này tối
đa hóa lợi nhuận của mình như thế nào nếu nó có thể phân biệt số lượng
bằng cách đặt hai mức giá (và cả hai giá đều nằm trên đường cầu).
Công ty sử dụng giá khối giảm để tối đa hóa lợi nhuận của mình. Công
ty độc quyền tính giá 70 đô la cho bất kỳ số lượng nào từ 1 đến 20 — khối
đầu tiên — và 50 đô la cho bất kỳ đơn vị nào ngoài 20 khối đầu tiên — khối
thứ hai. Các điểm xác định các khối, Các đơn vị $ 70 và 20 và $ 50 và 40,
nằm trên đường cầu. (Xem Phụ lục 12C để phân tích toán học.) Với
đường cầu của mỗi người tiêu dùng, người tiêu dùng quyết định mua 40
đơn vị và trả 1.400 đô la (= 70 đô la * 20) cho khối đầu tiên và 1.000 đô
la (= 50 đô la * 20) cho khối sec-ond. Người tiêu dùng đạt được thặng
dư tiêu dùng bằng A trên khối đầu tiên và C trên khối thứ hai, với tổng
số A + C. Lợi nhuận của độc quyền phân biệt số lượng hoặc thặng dư
của nhà sản xuất là khu vực B. Xã hội bị mất D vì giá, 50 đô la, cao hơn
chi phí cận biên, 30 đô la, trên đơn vị cuối cùng, 40, được mua.
Trong bảng b, công ty chỉ có thể đặt một mức giá duy nhất. Nó sản
xuất khi tiết lộ cận biên của nó bằng với chi phí cận biên của nó và bán
30 đơn vị với giá 60 đô la mỗi đơn vị. Bằng cách sử dụng phân biệt giá
phi tuyến thay vì đặt một mức giá duy nhất, tiện ích bán được nhiều đơn
vị hơn, 40 thay vì 30 và tạo ra lợi nhuận lớn hơn, B = 1.200 đô la thay vì
F = 900 đô la. Với chiết khấu số lượng, thặng dư tiêu dùng thấp hơn, A
+ C = 400 đô la thay vì E = 450 đô la; tổng thặng dư (thặng dư tiêu
dùng cộng với thặng dư của nhà sản xuất) cao hơn, A + B + C = 1.600
đô la thay vì E + F = 1.350 đô la; và giảm cân thấp hơn, D = 200 đô la
thay vì G = 450 USD. Do đó, trong ví dụ này, công ty và xã hội sẽ tốt
hơn với sự phân biệt giá phi tuyến, nhưng người tiêu dùng như một
nhóm phải chịu đựng. Càng nhiều giá khối mà một công ty có thể thiết
lập, công ty càng tiến gần đến sự phân biệt giá hoàn hảo, nơi mà nó nắm
bắt tất cả thặng dư tiêu dùng tiềm năng và lợi nhuận hoặc thặng dư của
nhà sản xuất bằng tổng thặng dư. Hơn nữa, vì đơn vị cuối cùng được bán
với giá bằng chi phí cận biên, tổng thặng dư được tối đa hóa và xã hội
không bị mất lợi ích.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 424

12.5 Định giá hai phần


Bây giờ chúng ta chuyển sang một hình thức định giá
không thống nhất khác, định giá hai phần. Nó tương tự
như phân biệt giá phi tuyến ở chỗ giá trung bình trên mỗi
đơn vị được trả bởi người tiêu dùng thay đổi theo số
lượng đơn vị được mua bởi người tiêu dùng đó.
Định giá hai phần Với giá hai phần, công ty tính phí truy cập một lần cho
Một hệ thống định mỗi người tiêu dùng để có quyền mua bao nhiêu đơn vị
giá trong đó công hàng hóa tùy thích với giá trên mỗi đơn vị.15 Do đó, tổng
ty tính phí truy cập chi tiêu của người tiêu dùng cho số tiền q bao gồm hai
một lần cho mỗi phần: phí truy cập, A và giá trên mỗi đơn vị, p. Do đó, chi
người tiêu dùng để
có quyền mua bao
tiêu là E = A + pq. Do phí truy cập, số tiền trung bình trên
nhiêu đơn vị hàng mỗi đơn vị mà người tiêu dùng phải trả sẽ lớn hơn nếu họ
hóa mà người tiêu mua một số lượng nhỏ đơn vị so với khi họ mua một số
dùng muốn với giá lượng lớn hơn.
trên mỗi đơn vị
Giá hai phần thường được sử dụng.16 Nhiều câu lạc bộ thể
dục tính phí truy cập hàng năm và giá mỗi buổi. Nhiều cửa
hàng kho yêu cầu khách hàng phải mua tư cách thành viên
hàng năm trước khi được phép mua hàng với giá tương đối
thấp. Một số công ty cho thuê xe hơi tính phí thuê hoặc phí
truy cập trong ngày và một mức giá bổ sung cho mỗi dặm lái
xe. Để mua vé mùa giải cho các trận bóng đá Dallas Cowboys
ở khu vực chỗ ngồi thấp hơn (với mức giá từ $ 590 đến $
1,250), trước tiên người hâm mộ phải trả từ $ 16,000 đến $
150,000 cho giấy phép chỗ ngồi per-sonal (PSL), cho phép
người hâm mộ có quyền mua vé mùa trong 30 năm tới.

15Giá được sử dụng trong định giá hai phần thường được gọi là thuế quan hai
phần.

16Ví dụ, các cửa hàng thông hơi đang mọc lên trong các trung tâm mua
sắm ở Trung Quốc. Một khách hàng trả tiền để vào, và sau đó trả tiền cho
mỗi điện thoại di động cũ, tivi hoặc sản phẩm khác mà khách hàng đập vỡ.
12.4 Phân biệt giá phi tuyến tính 425

(english.people.com.cn/90001/90782/90872/6915069.html, xem ngày 17


tháng Tư năm 2013.)
12.5 Định giá hai 407
phần

Để thu lợi nhuận từ việc định giá hai phần, một công ty phải có sức
mạnh thị trường, biết nhu cầu khác nhau giữa các khách hàng như
thế nào hoặc với số lượng mà một khách hàng mua và ngăn chặn
thành công việc bán lại. Chúng tôi bắt đầu bằng cách kiểm tra vấn
đề định giá hai phần của một công ty trong trường hợp cực đoan
trong đó tất cả khách hàng có cùng một đường cầu. Sau đó, chúng
tôi xem xét điều gì sẽ xảy ra khi đường cầu của khách hàng cá nhân
khác nhau.

Định giá hai phần với các khách hàng giống hệt nhau
Nếu tất cả khách hàng của mình giống hệt nhau, một công ty độc
quyền biết đường cầu của khách hàng có thể đặt giá hai phần sở hữu
hai đặc tính quan trọng giống như sự phân biệt giá hoàn hảo. Đầu
tiên, số lượng hiệu quả được bán vì giá của đơn vị cuối cùng bằng
chi phí cận biên. Thứ hai, tất cả thặng dư tiêu dùng tiềm năng được
chuyển từ người tiêu dùng sang công ty.
Để minh họa những điểm này, chúng tôi xem xét độc quyền có
chi phí cận biên không đổi là MC = 10 và không có chi phí cố định,
do đó chi phí trung bình của nó cũng không đổi ở mức 10. Tất cả các
khách hàng của độc quyền đều có cùng đường cầu, Q = 80 - p. Bảng
điều khiển a của Hình 12.5 cho thấy đường cầu, D1, của một khách
hàng như vậy, Valerie.
Tuy nhiên, nếu công ty cũng tính phí truy cập là 2.450, họ sẽ chiếm
được 2.450 này dưới dạng thặng dư sản xuất hoặc lợi nhuận trên mỗi
khách hàng và khiến Valerie không có thặng dư tiêu dùng. Tổng lợi
nhuận của công ty gấp 2.450 lần số lượng khách hàng giống hệt nhau.
Công ty tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách đặt giá bằng với
chi phí cận biên và tính phí truy cập nắm bắt toàn bộ thặng dư tiêu dùng
tiềm năng. Nếu công ty tính giá cao hơn chi phí cận biên là 10, nó sẽ
bán được ít đơn vị hơn và kiếm được lợi nhuận nhỏ hơn.
12.5 Định giá hai 408
phần

Hình 12.5 Giá hai phần với người tiêu dùng giống hệt nhau
(a)Bởi vì tất cả các khách hàng có cùng một đường cầu cá
nhân như Valerie, D1, độc quyền nắm bắt toàn bộ thặng dư chi phí cận biên, nó sẽ kiếm được ít hơn. Nó tạo ra lợi
nhuận B1 = 600 từ 10 đơn vị mà nó kiếm được trên 60
tiêu dùng tiềm năng bằng cách sử dụng giá hai phần. Công ty
đơn vị mà Valerie mua với giá cao hơn này. Tuy nhiên,
độc quyền tính giá phí trên mỗi đơn vị, p, bằng chi phí cận phí truy cập lớn nhất mà công ty có thể kiếm được bây
biên là 10 và phí truy cập một lần, A = 2.450, là tam giác giờ là A1 = 1.800, vì vậy tổng lợi nhuận của nó là 2.400, ít
màu xanh lam dưới đường cầu và trên giá mỗi đơn vị p = 10. hơn 2.450 mà nó kiếm được nếu nó đặt giá bằng với chi
(b) Là độc quyền đặt giá ở mức 20, cao hơn giá của nó phí cận biên. Sự khác biệt là giảm trọng lượng chết C1 =
50, đó là do ít đơn vị được bán với giá cao hơn.

(a) Giá bằng chi phí cận biên (b) Giá cao hơn chi phí cận biên
p, $ trên 1

p, $ trên 1
đơn vị

80 80

đơn vị
D1 D1

A = 2.450 USD C1 = 50 USD


A1 = 1.800
USD

MC
B1 = $600 MC
10 10

Trong bảng b của Hình 12.5, công ty tính phí p = 20. Với mức giá cao
hơn đó, Valerie chỉ mua 60 chiếc, ít hơn 70 chiếc mà cô mua với giá 10
chiếc ở bảng a. Lợi nhuận của công ty từ việc bán 60 đơn vị này là B1 =
(20 - 10) * 60 = 600.
Để Valerie đồng ý mua bất kỳ đơn vị nào, độc quyền phải giảm phí truy
cập xuống 1.800 (= 1 *2 60 * 60), thặng dư tiêu dùng tiềm năng mới,
khu vực A1. Tổng lợi nhuận của công ty từ Valerie là A1 + B1 = 1.800 +
600 = 2.400. Số tiền này ít hơn lợi nhuận 2.450 (= A trong bảng a) mà
công ty kiếm được nếu đặt giá bằng chi phí cận biên, 10 và tính phí truy
cập cao hơn. Khu A trong bảng A bằng A1 + B1 + C1
Trong bảng B. Bằng cách tính giá cao hơn chi phí cận biên, công ty mất C1,
đây là khoản lỗ chết do bán ít đơn vị hơn.
12.5 Định giá hai 409
phần

Tương tự, nếu công ty tính giá thấp hơn chi phí cận biên, nó cũng sẽ
kiếm được ít lợi nhuận hơn. Nó sẽ bán quá nhiều đơn vị và thua lỗ trên
mỗi đơn vị mà nó không thể lấy lại hoàn toàn bằng phí truy cập cao hơn.
Định giá hai phần với người tiêu dùng không giống hệt nhau
Định giá hai phần phức tạp hơn nếu người tiêu dùng có các đường cầu khác
nhau.17 Giả sử rằng độc quyền có hai khách hàng, Valerie, Người tiêu dùng 1
và Neal, Người tiêu dùng 2. Đường cầu của Valerie, Q1 = 80 - p, là D1 trong
bảng a của Hình 12.6 (giống như bảng b của Hình 12.5) và đường cầu của
Neal, Q2 = 100 - p, là D2 trong bảng b. Chi phí cận biên, MC và chi phí
trung bình của độc quyền không đổi ở mức 10 trên mỗi đơn vị.
12.5 Định giá hai 410
phần
12.5 Định giá hai 411
phần
12.5 Định giá hai 412
phần

Nếu công ty biết đường cầu của từng khách hàng, có thể ngăn chặn việc bán lại và có
thể tính cho khách hàng các mức giá và phí truy cập khác nhau, nó có thể nắm bắt toàn
bộ thặng dư tiêu dùng tiềm năng. Độc quyền đặt giá cho cả hai khách hàng ở mức p =
MC = 10 và đặt phí truy cập bằng thặng dư tiêu dùng tiềm năng của mỗi khách hàng.
Với p = 10, Valerie mua 70 đơn vị (bảng a) và Neal mua 90 đơn vị (bảng b). Nếu
không tính phí truy cập, thặng dư tiêu dùng của Valerie sẽ bằng tam giác bên dưới
đường cầu của cô ấy và trên đường giá 10, A1 + B1 + C1, là 2.450 (= 1 * 70 * 70).
Tương tự, thặng dư tiêu dùng của Neal sẽ là 4.050 (= 1 * 90 *2 2
90), đó là
tam giác A2 + B2 + C2. Do đó, độc quyền tính phí truy cập 2.450 cho Valerie và 4.050
cho Neal, để khách hàng không nhận được thặng dư tiêu dùng. Tổng lợi nhuận của công
ty là 2.450 + 4.050 = 6.500. Độc quyền tối đa hóa tổng lợi nhuận của mình bằng cách
nắm bắt thặng dư tiêu dùng tiềm năng tối đa từ cả hai khách hàng.
Bây giờ giả sử rằng công ty không thể tính phí khách hàng của mình khác nhau hoặc
phí truy cập. Công ty tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng cách đặt giá 20, vượt
quá chi phí cận biên và thu phí truy cập bằng thặng dư tiêu dùng tiềm năng của
Valerie, A1 = 1.800. Mặc dù phí truy cập này nắm bắt tất cả thặng dư tiêu dùng tiềm
năng của Valerie, nhưng nó ít hơn thặng dư tiêu dùng tiềm năng của Neal, 3.200 = A2.
Nếu công ty tính phí truy cập 3.200, nó sẽ chỉ bán cho Neal và kiếm được ít tiền hơn.
Với p = 20, Valerie mua 60 đơn vị và Neal mua 80 đơn vị. Bởi vì chi phí trung
bình của công ty là 10, công ty kiếm được 20 - 10 = 10 cho mỗi đơn vị, vì vậy
nó kiếm được B1 = 600 (= 10 * 60) từ Valerie và B2 = 800 (= 10 * 80) từ Neal với
tổng số = 1.400. Thêm vào những gì nó kiếm được từ phí truy cập, 3.600, tổng lợi
nhuận của độc quyền là 5.000 (= [2 * 1.800] + 600 + 800). Valerie không
nhận được thặng dư tiêu dùng, nhưng Neal được hưởng thặng dư tiêu dùng là 1.400
(= 3.200 - 1.800).
Lợi nhuận 5.000 này thu được từ việc định giá hai phần thuần túy ít hơn 6.500
có thể có được nếu nó có thể đặt phí truy cập khác nhau cho mỗi khách hàng. Mặt
khác, lợi nhuận của nó từ việc định giá hai phần thuần túy vượt quá lợi nhuận 3.200
mà công ty có thể kiếm được từ việc định giá độc quyền thống nhất.18
Tại sao công ty tính giá cao hơn chi phí cận biên khi sử dụng giá hai phần trong trường
hợp này? Bằng cách tăng giá, công ty giảm số tiền có thể kiếm được từ phí truy cập
nhưng tăng số tiền có thể kiếm được từ giá mỗi đơn vị. Số tiền công ty kiếm được từ
12.5 Định giá hai 413
phần

Valerie vì giá cao hơn ít hơn số tiền bị mất từ phí truy cập giảm của cô. Tuy nhiên, tình
hình với Neal đã đảo ngược. Lợi nhuận mà công ty nhận được từ việc tính phí Neal,
mức giá cao hơn vượt quá khoản lỗ từ phí truy cập nhỏ hơn của Neal. Hơn nữa, lợi
nhuận ròng mà công ty thu được từ Neal vượt quá khoản lỗ ròng mà nó phải chịu đối
với Valerie, do đó tổng lợi nhuận của nó tăng lên. 19 Do đó, giá cao hơn chi phí cận
biên làm tăng lợi nhuận trong trường hợp này.

Độc quyền một giá 18A phải đối mặt với hàm cầu tổng hợp của
tổng của hai hàm cầu riêng lẻ: Q = q1 + q2 = (80 - p) + (100 - p)
hoặc Q = 180 - 2p, đối với p nhỏ hơn 80, trong đó cả hai người tiêu
dùng đều yêu cầu số lượng dương. Hàm cầu nghịch đảo của nó là
p(Q) = 90 - 1 Q.
Hàm doanh thu của nó là R(Q) = p(Q) 2* 2
Q = 90Q - 1 Q2
, vì vậy chức năng doanh
thu cận biên của nó
là MR = dR(Q)/dQ = 90 - Q. Để tối đa hóa lợi nhuận của mình
do nó đặt ra một mức giá thống nhất, độc quyền đánh đồng MR
và MC của nó, sao cho 90 - Q = 10, hoặc Q = 80. Với số lượng
đó, giá là p = 90 - (80/2) = 50. Lợi nhuận của công ty là π = (p
- AC) Q = (50 - 10) * 80 = 3.200.
19Nếu độc quyền giảm giá từ 20 xuống chi phí cận biên là 10, nó sẽ
mất B1 từ Valerie, nhưng nó có thể tăng phí truy cập từ A1 lên A1
+ B1 + C1, do đó tổng lợi nhuận từ Valerie tăng C1 = 50. Phí truy
cập mà nó thu được từ Neal cũng tăng B1 + C1 = 650, nhưng lợi
nhuận từ việc bán đơn vị giảm B2 = 800, do đó tổng lợi nhuận của
nó giảm 150. Khoản lỗ từ Neal, -150, nhiều hơn bù đắp cho mức
tăng từ Valerie, 50 tuổi. Do đó, độc quyền kiếm thêm 100 bằng
cách tính giá 20 thay vì 10.
12.5 Định giá hai 414
phần

Ứng dụng Trước năm 2009, cửa hàng âm nhạc iTunes của Apple, gã
iTunes cho khổng lồ tải nhạc, đã sử dụng giá thống nhất, nơi họ bán
một bài hát các bài hát ở mức 99 ¢ mỗi bài. Tuy nhiên, một số đối thủ
cạnh tranh của nó, chẳng hạn như Amazon MP3, đã
không sử dụng giá thống nhất. Một số hãng thu âm nói
với Apple rằng họ sẽ không gia hạn hợp đồng nếu Apple
tiếp tục sử dụng giá thống nhất. Dường như để đối phó
với áp lực này và sự thành công của một số đối thủ cạnh
tranh, Apple đã chuyển sang bán mỗi bài hát vào năm
2009 với một trong ba mức giá.
Chính sách một giá cho tất cả các bài hát của Apple có
khiến họ mất lợi nhuận tiềm năng đáng kể không? Thặng dư
và giảm cân của người tiêu dùng thay đổi như thế nào với
các phương pháp định giá như một mức giá duy nhất, giá cụ
thể theo bài hát, phân biệt giá và định giá hai phần? Để trả
lời những câu hỏi như vậy, Shiller và Waldfogel (2011) đã
khảo sát gần 1.000 sinh viên và xác định mức độ sẵn sàng trả
tiền của mỗi người trong số 50 bài hát nổi tiếng. Sau đó, họ
sử dụng thông tin này để tính toán giá tối ưu theo các
chương trình định giá khác nhau.
Đầu tiên, theo giá thống nhất, cùng một mức giá được tính
cho mỗi bài hát. Thứ hai, theo định giá thay đổi, mỗi bài hát
được bán với giá tối đa hóa lợi nhuận riêng của nó. Thứ ba,
Apple có thể sử dụng giá hai phần, tính phí hàng tháng hoặc
hàng năm để truy cập và sau đó là giá cố định cho mỗi lần tải
xuống.
Nếu chúng ta biết đường cầu và chi phí cận biên, chúng ta
có thể xác định thặng dư sản xuất (PS) hoặc lợi nhuận, thặng
dư tiêu dùng (CS) và tổn thất chết (DWL) từ mỗi chế độ định
giá. Bằng cách chia mỗi biện pháp thặng dư này cho tổng
thặng dư có sẵn — khu vực dưới đường cầu và trên đường
cong chi phí cận biên — chúng ta có thể xác định cổ phiếu
của PS, CS và DWL. Bảng sau đây cho thấy ước tính của
Shiller và Waldfogel về tỷ lệ phần trăm của CS, PS, và DWL
theo mỗi phương pháp định giá:
Giá PS CS DWL
12.5 Định giá hai 415
phần
Đồng phục 28 42 29
Biến số 29 45 26
Định giá hai phần 37 43 20

Nếu những sinh viên này có thị hiếu tương tự như thị trường chung,
thì Apple đã tăng lợi nhuận bằng cách chuyển từ định giá thống nhất
sang định giá biến đổi (xem cột PS trong bảng). Tuy nhiên, những
kết quả này cho thấy rằng nó có thể làm tốt hơn nữa bằng cách sử
dụng giá hai phần. Giảm trọng lượng chết giảm theo cả hai lựa chọn
thay thế cho giá thống nhất. Người tiêu dùng làm tốt nhất với giá cả
thay đổi, nhưng giá hai phần cũng tốt hơn cho người tiêu dùng so
với giá thống nhất.

Bán hàng
liên kết 1. Bán hàng liên kết
Một loại định giá phi tuyến khác là bán liên kết, trong đó khách hàng có thể mua một
Một loại định giá phi sản phẩm chỉ khi họ đồng ý mua một sản phẩm khác. Hai hình thức bán hàng liên kết là bán
tuyến trong đó khách hàng liên kết bắt buộc và đóng gói.
hàng chỉ có thể mua một
sản phẩm nếu họ đồng ý
mua một sản phẩm khác
Yêu cầu Tie-In Sale
Yêu cầu bán hàng liên Với yêu cầu bán hàng liên kết, khách hàng mua một sản phẩm từ một công
kết trong đó khách hàng
mua một sản phẩm từ ty được yêu cầu thực hiện tất cả các giao dịch mua sản phẩm khác từ công ty
một công ty được yêu đó. Một số công ty bán máy bền như máy photocopy với điều kiện khách
cầu thực hiện tất cả các hàng mua dịch vụ và vật tư máy photocopy từ họ trong tương lai. Yêu cầu
giao dịch mua sản phẩm
khác từ công ty đó này cho phép công ty xác định người dùng nặng hơn và tính phí họ nhiều hơn
cho mỗi đơn vị. Ví dụ: nếu máy in
12.6 Liên kết bán hàng 411

Nhà sản xuất có thể yêu cầu người tiêu dùng chỉ mua hộp mực của họ từ
nhà sản xuất, sau đó công ty đó có thể nắm bắt hầu hết thặng dư của người
tiêu dùng. Người dùng nhiueef của máy in, những người có lẽ có nhu cầu ít
co giãn hơn đối với nó, trả tiền cho công ty nhiều hơn người dùng ít vì chi
phí cao của hộp mực.

Ứng dụng Thật không may cho các nhà sản xuất máy in, Đạo luật Cải
thiện Bảo hành Magnuson-Moss năm 1975 cấm nhà sản
Mối quan hệ xuất sử dụng các điều khoản ràng buộc như một điều kiện
ràng buộc bảo hành. Để tránh Đạo luật này, các công ty in ấn như
Brother, Canon, Epson và Hewlett-Packard (HP) viết bảo
hành của họ để khuyến khích mạnh mẽ người tiêu dùng chỉ
sử dụng hộp mực của họ và không đổ đầy chúng. Bảo hành
cho máy in phun HP nói rằng nó không áp dụng nếu lỗi
hoặc hư hỏng máy in là do hộp mực không phải của HP
hoặc được nạp lại.
Cảnh báo này có đủ để khiến hầu hết người tiêu dùng chỉ
mua hộp mực từ HP không? Rõ ràng là như vậy. HP bán
máy in Deskjet 1000 với giá chỉ 34,99 USD. Đó là, HP
hầu như đang cho đi một cỗ máy ấn tượng sẽ in tới 4800 *
1200 chấm tối ưu hóa trên mỗi inch màu. Tuy nhiên, HP
tính phí 20,99 đô la cho hộp mực màu (được đánh giá cho
165 trang) và 14,99 đô la cho hộp mực đen (được đánh giá
cho 180 trang). Nếu hầu hết khách hàng mua hộp mực rẻ
tiền hoặc nạp tiền từ các công ty khác, HP sẽ không bán
máy in của mình với giá thấp nhất. Do đó, HP đã đạt được
những lợi ích của việc bán hàng theo yêu cầu thông qua
bảo hành được diễn đạt cẩn thận.
12.6 Liên kết bán hàng 407

Gói (bán kèm theo gói)

Bán nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ với một mức giá duy nhất
12.6 Liên kết bán hàng 408

Bundling
Một công ty tham gia vào việc đóng gói (hoặc bán theo gói) bằng cách
bán nhiều hàng hóa hoặc dịch vụ với một mức giá duy nhất. Thật vậy, hầu hết
hàng hóa là bó của nhiều bộ phận riêng biệt. Ô tô đến lắp ráp. Giày trái và
phải được bán cùng nhau như một đôi và bao gồm dây buộc.
Thông thường hàng hóa được đóng gói cho hiệu quả vì kết hợp hàng
hóa trong một gói làm giảm chi phí giao dịch phát sinh của người tiêu
dùng hoặc chi phí sản xuất liên quan đến sản phẩm. Ví dụ, chúng tôi mua
áo sơ mi có nút đã được đính kèm. Thay vì mua áo sơ mi không có cúc, và
sau đó mua cúc, người tiêu dùng thích mua áo sơ mi có nút, loại bỏ nhu
cầu mua hai lần riêng biệt và sau đó may trên các nút.
Tuy nhiên, các công ty đôi khi đóng gói ngay cả khi họ không đạt được lợi
thế sản xuất và chi phí giao dịch nhỏ. Gói cho phép các công ty tăng lợi nhuận
của họ bằng cách tính các mức giá khác nhau cho những người tiêu dùng khác
nhau dựa trên mức độ sẵn sàng trả tiền của người tiêu dùng. Ví dụ: một công
ty máy tính có thể bán một gói bao gồm máy tính và máy in với một mức giá
duy nhất ngay cả khi họ không tiết kiệm được chi phí từ việc bán các sản
phẩm này cùng nhau.
Một công ty bán hai hoặc nhiều hàng hóa có thể bán hàng hóa cùng nhau
trong một gói để tăng lợi nhuận. Trong gói thuần túy, hàng hóa không được
bán riêng mà chỉ được bán cùng nhau. Ví dụ: một nhà hàng có thể cung cấp
súp và bánh sandwich đặc biệt nhưng không cho phép khách hàng mua súp
hoặc bánh sandwich riêng. Trong gói hỗn hợp, công ty cung cấp cho người
tiêu dùng sự lựa chọn mua hàng hóa riêng biệt hoặc theo gói. Một nhà hàng có
thể cung cấp súp và bánh sandwich đặc biệt cũng như bán từng món riêng
biệt. Gói cho phép các công ty không thể trực tiếp phân biệt giá tính phí khách
hàng các mức giá khác nhau. Việc một trong hai loại gói có lợi nhuận hay
không phụ thuộc vào thị hiếu khách hàng và khả năng ngăn chặn bán lại.
Gói thuần túy là rất phổ biến. Một ví dụ về một gói thuần túy là
Microsoft Works. Các thành phần chính của gói phần mềm này là một
chương trình xử lý văn bản và một chương trình bảng tính. Các chương
trình này có ít tính năng hơn các chương trình Word và Excel hàng đầu của
Microsoft và không được bán riêng lẻ mà chỉ dưới dạng gói.
12.6 Liên kết bán hàng 409

dViệc Microsoft trả tiền để bán theo gói hay bán riêng các chương trình tùy
thuộc vào mức giá đặt trước cho các thành phần khác nhau giữa các khách hàng.
Chúng tôi sử dụng ví dụ về một công ty bán các chương trình xử lý văn bản và bảng
tính để minh họa hai trường hợp, một trường hợp trong đó việc bán theo gói thuần
túy tạo ra lợi nhuận cao hơn việc bán từng bộ phận riêng lẻ và một trường hợp trong
đó việc bán theo gói thuần túy không mang lại lợi nhuận. Công ty có hai khách hàng
là Alisha và Bob. Hai cột đầu tiên của Bảng 12.2 thể hiện mức giá đặt trước cho mỗi
người tiêu dùng đối với hai sản phẩm. Giá đặt trước của Alisha cho chương trình xử
lý văn bản là 120 USD, cao hơn giá của Bob là 90 USD. Tuy nhiên, giá đặt trước của
Alisha cho chương trình bảng tính là 50 USD, thấp hơn giá của Bob là 70 USD. Giá
đặt trước có mối tương quan nghịch: Khách hàng có giá đặt trước cao hơn cho một
sản phẩm sẽ có giá đặt trước thấp hơn cho sản phẩm kia. Cột thứ ba của bảng hiển
thị giá đặt trước của mỗi người tiêu dùng cho gói, là tổng giá đặt trước cho hai sản
phẩm cơ bản. Nếu công ty bán hai sản phẩm riêng biệt, họ sẽ tối đa hóa lợi nhuận
bằng cách tính phí 90 USD cho máy xử lý văn bản và bán cho cả hai người tiêu
dùng, do đó lợi nhuận của họ là 180 USD, thay vì tính phí 120 USD và chỉ bán cho
Alisha. Nếu tính phí từ 90 đến 120 đô la, nó vẫn chỉ bán cho Alisha và kiếm được ít
hơn nếu tính phí 120 đô la. Tương tự, công ty tối đa hóa lợi nhuận của mình bằng
cách bán chương trình bảng tính với giá 50 USD cho cả hai người tiêu dùng, kiếm
được 100 USD, thay vì tính phí 70 USD và chỉ bán cho Bob. Tổng lợi nhuận của
công ty từ việc bán các chương trình riêng lẻ là $280 (= $180 +$100). Nếu công ty
bán hai sản phẩm theo gói thì sẽ tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tính giá 160 USD,
bán cho cả hai khách hàng và kiếm được 320 USD. Đây là kết quả tốt hơn so với
việc tính phí 170 USD và chỉ bán cho Alisha. Gói thuần túy mang lại nhiều lợi
nhuận hơn cho công ty vì nó kiếm được 320 USD từ việc bán gói và chỉ 280 USD từ
việc bán các chương trình riêng lẻ. Bán hàng theo gói thuần túy có lợi hơn vì công ty
nắm bắt được nhiều khách hàng tiềm năng hơn ngoài mức giá đặt trước của họ. Với
các mức giá riêng biệt, Alisha có thặng dư tiêu dùng là $30 (= $120-$90) từ chương
trình xử lý văn bản và không có thặng dư từ chương trình bảng tính. Bob không nhận
được thặng dư tiêu dùng từ chương trình xử lý văn bản và 20 USD từ chương trình
12.6 Liên kết bán hàng 410

bảng tính. Như vậy, tổng lượng người tiêu dùng thặng dư là 50$. Với gói thuần túy,
Alisha nhận được 10 đô la thặng dư tiêu dùng và Bob không nhận được gì, vì vậy
tổng số chỉ là 10 đô la. Do đó, cách tiếp cận gói thuần túy thu được 40 USD thặng
dư tiêu dùng tiềm năng cao hơn so với việc định giá riêng lẻ. Việc đóng gói thuần
túy có làm tăng lợi nhuận của công ty hay không phụ thuộc vào việc đặt trước giá cả.
Bảng 12.3 cho thấy mức giá đặt trước cho hai người tiêu dùng khác nhau, Carol và
Dmitri. Carol đặt giá đặt trước cho cả hai sản phẩm cao hơn Dmitri.

Các mức giá đặt trước này có mối tương quan thuận chiều: Giá đặt trước cao hơn
cho một sản phẩm có liên quan đến giá đặt trước cao hơn cho sản phẩm kia. Nếu các
chương trình được bán riêng lẻ, công ty sẽ tính giá 90 USD cho bộ xử lý văn bản,
bán cho cả người tiêu dùng và thu về 180 USD. Tuy nhiên, nó kiếm được nhiều tiền
hơn khi tính phí 90 đô la cho chương trình bảng tính và chỉ bán cho Carol, so với
việc tính phí 40 đô la cho bảng tính, bán cho cả hai người tiêu dùng và kiếm được 80
đô la. Tổng lợi nhuận của hãng nếu định giá riêng lẻ là $270 (= $180 + $90). Nếu
công ty sử dụng gói đơn thuần, nó sẽ tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tính phí 130
USD cho gói, bán cho cả hai khách hàng và kiếm được 260 USD. Bởi vì công ty
kiếm được nhiều tiền hơn khi bán các chương trình riêng lẻ, 270 đô la, so với khi
bán các chương trình theo gói, 260 đô la, nên việc bán theo gói thuần túy không
mang lại lợi nhuận trong ví dụ này. Ngay cả khi Dmitri đặt giá trị cao hơn trên bảng
tính, miễn là giá đặt trước có mối tương quan dương, thì việc bán theo gói thuần túy
không thể làm tăng lợi nhuận.

Một công ty bán các chương trình xử lý văn bản và bảng tính có bốn khách hàng
tiềm năng với mức giá đặt trước như sau:
12.6 Liên kết bán hàng 411

Chi phí sản xuất của hãng bằng 0, do đó việc tối đa hóa lợi nhuận tương đương
với việc tối đa hóa doanh thu. Để tối đa hóa lợi nhuận, công ty nên tính giá riêng cho
từng sản phẩm, bán theo gói thuần túy hay sử dụng gói hỗn hợp?
Trả lời
1. Tính giá dịch vụ riêng biệt tối đa hóa lợi nhuận và lợi nhuận thu được. Nếu
công ty định giá từng chương trình riêng biệt, công ty sẽ tối đa hóa lợi nhuận bằng
cách tính giá 90 USD cho mỗi sản phẩm và bán từng sản phẩm cho ba trong số bốn
khách hàng tiềm năng. Nó bán chương trình xử lý văn bản cho Aaron, Brigitte và
Charles. Nó bán chương trình bảng tính cho Brigitte, Charles và Dorothy. Như vậy,
nó làm cho 20 $270 (= 3 x $90) từ mỗi chương trình hoặc tổng cộng $540, vượt quá
số tiền họ có thể kiếm được bằng cách đặt bất kỳ mức giá nào khác cho mỗi chương
trình.
2. Tính giá gói thuần túy tối đa hóa lợi nhuận và lợi nhuận thu được. Công ty có
thể tính phí 150 USD cho gói sản phẩm, bán cho cả bốn người tiêu dùng và kiếm
được lợi nhuận 600 USD, nhiều hơn 60 USD so với số tiền 540 USD mà họ kiếm
được từ việc bán các chương trình riêng lẻ.
3. Xác định cách công ty tối đa hóa lợi nhuận bằng cách sử dụng gói hỗn hợp.
Với gói hỗn hợp, công ty tính phí 200 USD cho gói và 120 USD cho mỗi sản phẩm
riêng biệt. Công ty kiếm được 400 USD từ Brigitte và Charles, những người mua gói
hàng này. Aaron chỉ mua chương trình xử lý văn bản với giá 120 USD và Dorothy
chỉ mua bảng tính thêm 120 đô la nữa, để công ty kiếm được 240 đô la từ cá nhân
của mình chương trình bán hàng. Do đó, lợi nhuận của nó là $640 (= $400+ $240) từ
gói hỗn hợp, vượt quá 600 USD từ gói thuần túy và 540 USD từ bán lẻ
12.6 Liên kết bán hàng 412

You might also like