Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
Mục lục.................................................................................................1
Phần thứ nhất : MỞ ĐẦU............................................................................2
I. Đặt vấn đề............................................................................................2
II. Mục đích................................................................................................3
Phần thứ hai : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................4
I. Cơ sở lí luận của vấn đề....................................................................4
II. Thực trạng vấn đề..............................................................................7
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề........................9
IV. Tính mới của giải pháp.....................................................................21
V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm......................................................22
Phần thứ ba : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ....................................................23
I. Kết luận.................................................................................................23
II. Kiến nghị...............................................................................................24
Tài liệu tham khảo...............................................................................28
I. Đặt vấn đề
1. Lí do lí luận
Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất
hiện nay nhằm giao tiếp và tạo mối liên kết trong học tập cũng như làm
việc ở nhiều nước trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Do vậy
việc dạy và học Tiếng Anh ngày càng được coi là công cụ đắc lực cho quá
trình hội nhập này. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã và đang không
ngừng nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ thông qua việc đổi mới
toàn diện những năm tiếp theo. Mấy năm học qua, Sở GD và ĐT đã tạo điều
kiện cho các giáo viên Tiếng Anh các cấp tiểu học, Trung học cơ sở và Trung
học phổ thông đi học tập, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, đồng
thời đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học cho các trường thí điểm.
Về phía học sinh, tiếng mẹ đẻ được coi là ngôn ngữ quan trọng nhất
và là ngôn ngữ đầu tiên mà các em được tiếp xúc, vì vậy mà các em đã, đang
và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với Tiếng Anh, ngôn ngữ
thứ hai.
Làm thế nào để có thể nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh
trong nhà trường, giảm bớt gánh nặng trong việc giảng dạy hàng ngày trên
trường cho giáo viên tiếng Anh, lại có thể kích thích khả năng tự học của
học sinh cũng như hướng đến việc học cùng con của phụ huynh.
“Thời đại 4.0” đây là câu nói quen thuộc mà chúng ta vẫn nghe, nhưng áp
dụng công nghệ 4.0 vào dạy – học là điều chúng ta đang hướng đến để đưa
giáo dục phát triển theo hướng hiện đại, bắt kịp với xu hướng phát triển của
thế giới.
2. Lí do thực tiễn
Trên thực tế việc dạy và học môn Tiếng Anh tuy không còn mới mẻ
nhưng khó đối với tất cả giáo viên và học sinh. Với việc nghiên cứu đề tài
này, tôi mong muốn sẽ phần nào giúp giáo viên cũng như học sinh dần khắc
phục những khó khăn trên để tiến hành dạy – học môn Tiếng Anh có hiệu
quả tốt hơn. Hình thành cho học sinh khái niệm hoàn chỉnh về “tự học, tự
đánh giá”, từ đó giúp học sinh tự tin hơn vào khả năng của bản thân.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc kích thích hứng thú học tập
môn tiếng Anh của học sinh ngay cả trong – ngoài giờ giờ lên lớp , xin mạnh
dạn nghiên cứu đề tài “Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 4”.
Đối tượng nghiên cứu.
Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh.
Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: Học sinh khối 4 (2 lớp 4A và 4C) trường Tiểu học
Nguyễn Thị Minh Khai.
II. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về các hoạt động có thể sử dụng trong quá trình dạy và học
Tiếng Anh cho giáo viên và học sinh.
Phát huy hết ưu điểm của những hoạt động nhằm giúp học sinh tiếp
thu nội dung bài học. Đồng thời hướng dẫn học sinh tự luyện tập, rèn luyện
để có kỹ năng, thái độ đúng đắn khi học Tiếng Anh.
Giúp học sinh học môn Tiếng Anh linh động hơn và đóng vai trò chủ
động trong việc tự nâng cao trình đồ của bản thân, tự chọn phương pháp và
mục tiêu học tiếng Anh phù hợp với bản thân.
Nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh của thế hệ trẻ Việt Nam, giúp
Việt Nam không bị tụt hậu so với thế giới.
So sánh số lượng học sinh học hệ tiếng Anh 10 năm ở các cấp học giữa 2 năm học
20152016 và 20162017. (Nguồn: Ban quản lý Đề án ngoại ngữ quốc gia, 2017.)
Trước đó, Đề án ngoại ngữ 2020 chịu nhiều "búa rìu" của dư
luận. Trọng tâm của chương trình là giai đoạn 20162020 với nhiệm vụ triển
khai chương trình ngoại ngữ 10 năm trên cả nước, từ lớp 3 đến lớp 12; tăng
cường tiếng Anh trong tất cả trường nghề, cao đẳng và đại học. Đến năm
2016, đề án tiêu tốn hơn 9.000 tỷ đồng, nhưng số lượng học sinh được thụ
hưởng chương trình chỉ chiếm 20% so với mục tiêu. Số giáo viên ngoại ngữ
đạt chuẩn là hơn 30%, thậm chí nhiều địa phương có chưa tới 100 thầy cô.
Bộ trưởng Giáo dục Phùng Xuân Nhạ trong hội nghị triển khai đề án
(9/2016) nhận định, chất lượng chương trình còn thấp, đặc biệt là tiếng Anh,
thể hiện rõ trong kỳ thi THPT quốc gia. Tại kỳ thi THPT quốc gia năm 2016
có trên 90% học sinh bị điểm dưới trung bình môn tiếng Anh, tập trung
khoảng 24. Tỷ lệ thí sinh đạt điểm 2,25 chiếm cao nhất. Chỉ 8,8% thí sinh
đạt từ 5 điểm trở lên.
Ở kỳ thi THPT quốc gia 2018, phổ điểm môn tiếng Anh tuy đã nhích
lên, đỉnh của đồ thị ở mốc 3,6 điểm, khoảng điểm nhiều thí sinh đạt được
vẫn ở mức 2,25. Điểm trung bình tiếng Anh là 3,91 (cùng với Lịch sử) thấp
nhất trong 9 môn thi THPT quốc gia. Tuy điểm số ở môn Tiếng Anh đã được
nâng cao, nhưng đây vẫn chưa phải là con số đáng mừng, và đây vẫn là thách
thức của toàn ngành giáo dục cũng như xã hội. Bởi muốn phát triển kinh tế ,
xã hội, an ninh quốc phòng một cach toàn diện chúng ta cần phải hội nhập
với Thế giới, và tiếng Anh nói riêng ngoại ngữ nói chung chính là chìa khóa
giúp chúng ta đạt được điều đó.
Phổ điểm môn tiếng Anh thi THPT quốc gia 2018.( Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào
tạo).
Muốn đạt được mục tiêu nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh của
học sinh – sinh viên, chúng ta cần chú trọng ngay từ lúc đặt nền móng – môi
tường tiếng Anh ở cấp tiểu học. Môi trường học ngoại ngữ của học sinh
cũng đang dần được nâng cao với sự quan tâm về cả vật chất lẫn tinh thần
của nhà trường, của Phòng và Sở giáo dục đào tạo như xây dựng các phòng
học tiếng Anh, mua sắm trang thiết bị và dụng cụ dạy học chuyên biệt, có tổ
chuyên môn phục vụ cho việc học hỏi và giao lưu chuyên môn cho các thầy
cô ngoại ngữ, có các sân chơi tiếng Anh cho học sinh..vv..
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà việc dạy – học môn tiếng Anh ở
tiểu học chưa đạt được kết quả như mong muốn, trình độ học sinh vẫn chưa
đồng đều. Để lí giải cho vấn đề trên, có thể nói đến lí do lớn nhất là m ôi
trường học ngoại ngữ còn hạn chế nên các em có ít dịp tiếp xúc nói chuyện
với người nước ngoài hoặc người nói Tiếng Anh ở nhà. Vì thế việc phát
triển kỹ năng cơ bản là nghe nói thành thạo ở các em còn nhiều khó khăn.
Hơn nữa, hiện nay tình trạng dạy và học tiếng Anh vẫn còn chưa đảm
bảo vì tùy thuộc nhiều vào việc chủ động và tích cực học tập của các em học
sinh. Làm thế nào để khắc phục tình trạng này? Làm thế nào để thu hút học
sinh chú tâm vào việc học ngoại ngữ là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục,
các thầy cô tâm huyết với nghề, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình,
cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục.
Làm thế nào để có thể đáp ứng nội dung tiết dạy trên lớp theo đúng
yêu cầu chương trình của Bộ giáo dục lại vừa giúp học sinh khá giỏi nâng cao
được khả năng của bản thân, giúp học sinh yếu không bị tụt lại quá xa với
các bạn khác? Đây thực sự là trăn trở không chỉ riêng của đội ngũ giáo viên
tiếng Anh tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai mà còn là câu hỏi nhức
nhối của các giáo viên dạy Ngoại ngữ khác.
Vì vậy, với đề tài này tôi đưa ra những suy nghĩ của mình với mong
muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ học tập lẫn nhau để cùng tiến
bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm này.
II. Thực trạng vấn đề
1. Thuận lợi
Môn Tiếng Anh là môn mới được áp dụng đối với học sinh tiểu học
trong những năm gần đây. Vì vậy một số học sinh cảm thấy có hứng thú,
hoặc yêu thích với môn học này.
Được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà
trường; sự quan tâm của cha mẹ học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp. Đội ngũ
tiếng Anh của trường đều yêu nghề, tận tâm với học sinh, đạt chuẩn theo yêu
cầu của Bộ giáo dục đối với bộ môn.
Trường có cơ sở vật chất và xây dựng phòng học, đóng bàn ghế theo
chuẩn.
Có nhiều cha mẹ học sinh quan tâm đến việc học hành của con em.
Lớp Số lượng Kiểm tra bài có Kiểm tra bài có Kiểm tra bài có
học sinh ( 2 điểm từ 8,0 > điểm từ 5,0 > điểm dưới trung
lớp) 10 7,0 bình
2
66 100 18 27.3 34 51.5 14 31.2
lớ p
Chúng ta có thể thấy chất lượng học sinh thực sự chưa cao, có sự phân
hóa giữa các lớp trong khối tương đối rõ rệt, điều này cũng chứng tỏ các em
chưa thực sự yêu thích môn Tiếng Anh và cũng chưa có biện pháp hiệu quả
trong việc dạy và học bộ môn này đặc biệt là ở lớp 4C. Đây chính là điều tôi
trăn trở để làm sao giúp học sinh yêu hơn môn học và hình thành khả năng tự
học ở học sinh.
Vì vậy tôi đã thử nghiệm đề tài này vào lớp 4C trường tiểu học Nguyễn
Thị Minh Khai và so sánh sự thay đổi sau khi áp dụng đề tài giữa hai lớp 4A
(không áp dụng đề tài) và 4C (có áp dụng đề tài) với nhau để khảo sát tính
đúng đắn của đề tài. Sau khi áp dụng đề tài, tôi nhận thấy lớp 4C đã có sự
thay đổi khả quan về khả năng sử dụng tiếng Anh, có sự yêu thích với bộ
môn và kéo gần khoảng cách hơn so với lớp 4A trong cả bốn kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết.
Điều kiện để thực hiện sáng kiến ở đây là năng lực sử dụng và học tập
bộ môn Tiếng Anh của hai lớp không đồng đều, lớp 4A có phần nhỉnh hơn so
với lớp 4C về cả năng lực sử dụng và ý thức học môn tiếng Anh.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Theo tôi, có hai nguyên nhân lớn nhất dẫn đến việc học sinh chưa có sự
yêu thích và quan tâm đúng mực tới việc học ngoại ngữ.
Nguyên nhân thứ nhất, học sinh đã không hiểu lý do vì sao phải học
tiếng Anh. Mục tiêu học tập của học sinh khi học môn tiếng Anh rất đơn
giản là bởi vì đó chỉ là một môn học như bao môn còn lại và cần phải học
theo đúng yêu cầu và nguyện vọng của cha mẹ, điều này sẽ dẫn tới cách học
đối phó, lệch lạc của học sinh. Vì thế muốn học sinh có động lực môn tiếng
Anh cần phải nếu rõ lí do các em cần học bộ môn này. Với mỗi đối tượng
học sinh sẽ có những nguyên nhân học tập khác nhau, có em muốn làm sau
này đi du học, có em muốn trở thành nhà khoa học, có em chỉ là bố mẹ yêu
cầu phải học.... tất cả nhưng nguyên nhân nhận được từ học sinh đều cần
được giải đáp và tư vấn ngay tại lớp trong buổi học đầu tiên làm quen với
môn tiếng Anh. Thông qua đó, học sinh có thể thấy được lợi ích thiết thực từ
việc học ngoại ngữ nói chung và môn tiếng Anh nói riêng, từ đó có cái nhìn
khác về việc học. “Có mục tiêu mới có cố gắng” chính là nhằm nói đến điều
này.
Ví dụ: Sau khi giới thiệu bản thân, thay vì giới thiệu để học sinh làm
quen với bộ sách, giáo viên hãy đặt câu hỏi “Tại sao chúng ta phải học tiếng
Anh?” và để học sinh trả lời.
Hãy ghi nhận tất cả các câu trả lớp của các em, sau đó giải thích cho
các em một số lợi ích của việc học tiếng Anh như “ Tiếng Anh là ngôn ngữ
được sử dụng rộng rãi nhất, biết tiếng Anh giúp các em giao tiếp với mọi
người trên thế giới dễ dàng hơn, có nhiều cơ hội phát triển cho bản thân và
đất nước hơn”.
Hãy cho các em nói về mong ước tương lai và mở cho các em thấy, với
khả năng tiếng Anh tốt thì tương lai mà các em mong ước sẽ gần hơn, cũng
như có nhiều cơ hội để phát triển tương lai ấy.
Tiếng Anh giúp con người đến gần hơn với nhau và xóa mờ khoảng cách địa lí
Nguyên nhân thứ hai, nội dung giảng dạy tiếng Anh trong sách giáo
khoa vô cùng nhàm chán, phương pháp dạy học thụ động. Học tiếng Anh
nhưng quanh đi quẩn lại chỉ là mấy cấu trúc câu quen thuộc “Hi, Hello, How
are you?/I am fine, thank you. And you?”, “What is this?/ This is…”. Chắc vì
nội dung lặp đi lặp lại qua các lớp, các cấp học như vậy nên giáo viên xưa
cũng mệt mỏi và nản luôn, không hề có sự tích cực sáng tạo, đổi mới, nâng
cao năng lực để đưa ra những bài giảng chất lượng và hấp dẫn cho các lứa
học trò. Đây là nguyên nhân dẫn đến học sinh cũng chán nản và coi tiếng Anh
là môn học tẻ nhạt và không cần thiết.
Vì vậy, muốn giải quyết nguyên nhân thứ hai thì chúng ta cần đưa ra
giải pháp đúng đắn và đòi hỏi có sự đầu tư hơn. Theo tôi, để giải quyết vấn
đề này, giáo viên chính là những người cần thay đổi đầu tiên, thay đổi về tư
duy, thay đổi về phương pháp truyền thụ kiến thức, thay đổi cách đặt vấn đề,
tìm hiểu khả năng và tâm tư của học sinh... để từ đó xây dựng nên các biện
pháp phù hợp giúp, lôi cuốn, hấp dẫn học sinh từ đó xây dựng ở học sinh
niềm yêu thích với bộ môn tiếng Anh và sự ham học hỏi tìm tòi cái mới,
hướng dần học sinh tới việc tự học, tự rèn để hoàn thiện khả năng tiếng Anh
của mình.
Dưới đây là một số biện pháp tôi đã áp dụng trong đề tài này .
Biện pháp 1 : Sử dụng trò chơi trong dạy học
Cách cuốn hút học sinh vào bài học nhất chính là giúp học sinh thấy các
em đang được chơi chứ không phải học – “học mà chơi chơi mà học”. Đây là
cách để học sinh không bị nhàm chán và thụ động trong mỗi giờ học. Đây
cũng là cách để giáo viên khéo léo kiểm tra, củng cố và sửa lỗi cho học sinh
một cách thân thiện và vui vẻ nhất.
Let’s go to the zoo: tôi thấy đây là trò chơi có thể áp dụng cho bước Pre hoặc
Post các kĩ năng, nói và viết đều có hiệu quả (đặc biệt là kĩ năng viết).
Chuẩn bị:
Một số tấm flash card có liên quan đến chủ đề.
Một xúc xắc lớn.
Chia lớp thành hai đội lớn.
Cách chơi:
Bước 1: Trước khi chơi trò chơi, ôn lại các số từ 1 đến 6, tên của một số loài
động vật và một số tính từ để mô tả con vật.
Bước 2: Đặt hình ảnh của các con vật trên bảng và cho mỗi con vật một số
từ 1 đến 6.
Bước 3:Yêu cầu một học sinh ném xúc xắc. Khi con xúc xắc đáp xuống một
con số, học sinh phải nói con vật nào tương ứng với con số đó. Giáo viết tên
của con vật trên bảng dưới hình ảnh:
Ví dụ:
It’s a zebra
Bước 4: Một học sinh ở đội khác ném xúc xắc. Nếu con số này nằm trên cùng
một con số, đội này phải nói điều gì đó về con vật (ví dụ, “It’s big”). Giáo
viên có thể viết lên bảng. Nếu số khác nhau, học sinh gọi tên con vật mang
số đó nhau.
Ví dụ:
It’s a monkey
Bước 5: Trò chơi tiếp tục cho đến khi tất cả các động vật được đặt tên và đã
được mô tả. Số câu được thêm dần cho mỗi con vật tùy thuộc vào khả năng
của học sinh.
Đội thắng sẽ là đội đặt được câu mới không trùng lặp với những câu đã nêu.
Bước 6: Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên có thể yêu cầu một số học sinh
đọc lại các câu đã có trên bảng, và yêu cầu học sinh dùng các câu phù hợp cho
phần viết tiếp theo.
• Có thể mở rộng đề tài nói cho học sinh như: đi mua sắm, thời tiết, địa
danh, .....
Great wheel : tôi thấy đây là trò chơi có thể áp dụng cho bước Warm up hoặc
Post cho phần dạy từ vựng, Pre luyện mẫu câu đều có hiệu quả.
Chuẩn bị:
Một vòng quay nam châm gắn bảng
Bút lông để ghi các từ vựng muốn ôn tập.
Cách chơi:
Bước 1: Đây là trò chơi có thể chơi cả lớp hoặc phân thành các nhóm lớn nhỏ
(tùy mục đích kiểm tra của từng phần mà thay đổi số lượng họ sinh tham
gia). Ở đây giáo viên sẽ chia lớp thành hai đội lớn để thi đua. Thời gian: 35
phút
Bước 2: Đầu tiên giáo viên sẽ chọn một học sinh lên xoay vòng quay.
Bước 3: Khi kim chỉ đúng từ nào học sinh phải đọc được to từ đó trước lớp
( nếu muốn kiểm tra mẫu câu thì học sinh sẽ phải nói một câu chứa từ vừa
quay vào).
Bước 4:Nếu học sinh đọc đúng từ đó (hoặc nói đúng câu) thì đội sẽ được một
điểm và một bạn của đội khác sẽ lên làm tương tự.
Bước 5: Nếu đội bạn không thể gọi tên hay đặt câu với từ được quay tới thì
sẽ không được điểm và mất lượt.
Bước 6: Đội thắng sẽ là đội có số từ hoặc câu đúng nhiều nhất.
Một hoạt động trong Unit 13: Would you like some milk?(SGK Tiếng anh 4)
C
CAT
/k/
/kæt/
A
/æ/ T
/t/
* Chuẩn bị: Một tập hợp các thẻ của các chữ cái của bảng chữ cái cho mỗi
cá nhân, cặp hoặc nhóm.
Giáo viên cũng sẽ cần một tập hợp các thẻ lớn, thích hợp để đặt lên bảng.
Bộ chữ Alphabet
* Cách thực hiện:
Bước 1. Đưa một bộ thẻ chữ cái cho mỗi học sinh, cặp hoặc nhóm học sinh
và yêu cầu các em trải rộng các chữ cái trên đầu bàn, để lại một khoảng
trống ở phía dưới.
Bước 2. Yêu cầu học sinh cho biết thứ tự các chữ cái trong bảng chữ cái và
bắt đầu xếp thẻ theo thứ tự đúng trên bảng, hoặc viết các chữ cái theo thứ tự.
Đồng thời, yêu cầu học sinh sắp xếp lại các thẻ trên bàn chúng theo đúng thứ
tự.
Học sinh dùng các chữ cái cho sẵn tạo thành các từ có nghĩa
Biện pháp 3: Sử dụng Internet và các kênh tiếng anh phù hợp
Sau khi khơi gợi được hứng thú học tập với môn tiếng Anh, giáo viên
dần hướng các học sinh của mình tới khái niệm cao hơn “tự học” và các
kiến thức sâu rộng hơn so với những điều các em có thể học trên lớp.
Mục đích: Giúp học sinh nâng cao các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết một các
toàn diện và hoàn thiện khẩu âm chuẩn hơn bằng cách sử dụng các trang web
học trực tuyến.
Lợi ích của Elearning (học tr ực tuy ến) đem trong thời đại công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay là rất lớn, bất cứ ai cũng có thể
học mọi kiến thức cần thiết chỉ cần có thiết bị kết nối internet ổn định như
điện thoại di động, tablet, máy tính,…….Khả năng vô hạn của công nghệ
thông tin đã giúp phương thức Elearing truyền tải kiến th ức d ễ dàng và
ngày càng phát triển rực rỡ.
Lợi ích của Elearning cho ng ườ i h ọc:
Học sinh có thể chủ động chọn lựa thời gian, địa điểm và tự chuẩn bị
cho mình các dụng cụ cần thiết cho khóa học của mình để có thể tự tạo cho
mình một môi trường học tập hiệu quả nhất.
Học sinh có thể chủ động học khóa học theo nhu cầu và theo trình độ.
Đáp ứng nhu cầu học của học sinh dễ dàng hơn.
Học các khóa học với nhiều kiến thức mới mà ở trường học học sinh
chưa được tiếp cận.
Học sinh có thể tự lựa chọn trình độ khóa học dựa trên khả năng của
mình.
Tiết kiệm được một khoản chi phí đi lại cũng như mua và in ấn tài liệu
vì mọi thứ đã có sẵn trên khóa học, tất cả những gì học sinh cần là một chiếc
máy vi tính hoặc điện thoại di động có khả năng kết nối internet và đường
truyền mạng ổn định.
Lợi ích của Elearning cho giáo viên:
Chia sẻ kiến thức được cho những học sinh ở nơi xa hoặc không có
điều kiện để đi học trực tiếp.
Tạo điều kiện cho học sinh tự phát triển trình độ của bản thân.
Ngoài ra, sự kết hợp của hướng dẫn trên lớp truyền thống và môi
trường kỹ thuật số tạo nên một trải nghiệm học tập thích hợp với mỗi cá
nhân, hiệu quả hơn, kết quả thu được tốt hơn.
* Mô tả: Trong hoạt động này, học sinh em sẽ đóng vai trò chủ động trong
việc lĩnh hội kiến thức, cũng như có ý thức cao hơn trong việc tự học của
bản thân thông qua việc tự học ở các trang web dạy tiếng Anh trực tuyến;
giáo viên và phụ huynh chỉ đóng vai trò định hướng và theo dõi các bước phát
triển của học sinh để có các biện pháp chấn chỉnh, động viên phù hợp.
* Chuẩn bị: trang web sachmem.vn.
* Cách thực hiện:
1. Lập một nick trên trang web sachmem.vn cho học sinh ( có thể lập một
nick chung cho các học sinh hoặc khuyến khích mỗi học sinh tự lập một nick
riêng cho bản thân).
Giao diện để lấy đề kiểm tra trong tài nguyên trên sachmem.vn
Thời gian qua, tôi đã không ngừng khảo sát và thay đổi các phương thức
khác nhau trong giảng dạy cũng như thúc đẩy học sinh đến gần hơn với khái
niệm “tự học, tự đánh giá” và kết quả cụ thể như sau:
Sau khi áp dụng đề tài: Kết quả thi học kì I năm học 2018 – 2019
Lớp Số lượng Kiểm tra bài có Kiểm tra bài có Kiểm tra bài có
học sinh ( 2 điểm từ 8,0 > điểm từ 5,0 > điểm dưới trung
lớp) 10 7,0 bình
2
66 100 28 42.4 31 46.7 7 10.9
lớ p
Sau khi thực hiện giải pháp tôi thấy sự chênh lệch giữa 2 lớp đã thay
đổi rõ rệt, so với đầu năm học thì nhận thấy chất lượng học tập của các em ở
lớp 4C có tiến bộ hơn nhiều, sự cách biệt về kết quả học tập môn tiếng Anh
của hai lớp không còn quá rõ ràng, các em cũng tự tin hơn vào bản thân và có
cái nhìn tích cực hơn đối với môn học.
Một số học sinh đã phát huy được năng khiếu của mình, có sự sáng
tạo, cũng như phát huy được tính tự học cao. Tiết học trở nên thoải mái, nhẹ
nhàng. Học sinh tự tin hơn khi nói, đọc, viết trong tiết học.
Học sinh đã tự tin hơn trong khi nghe, nói và phản xạ, đặc biệt là kĩ
năng nghe đang dần được hoàn thiện.
Một số em học sinh khá giỏi đã có tiến bộ vượt bậc trong khả năng
phát âm, ngữ điệu và phản xạ với vỏ âm thanh.
Tìm tòi nghiên cứu tài liệu tham khảo và các trang web có nội dung ổn
định để phù hợp dạy lồng ghép trong các tiết dạy.
Chuẩn bị bài dạy chu đáo trước khi đến lớp.
Phân bố thời gian tiết dạy sao cho phù hợp và cân đối.
Hướng dẫn học sinh cách tự học ở nhà.
Phụ huynh chính là một yếu tố chủ chốt, một cánh tay nối dài của giáo
viên trong việc dạy học cũng như kèm cặp học sinh trong thời đại 4.0 .
II. Kiến nghị.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài này tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhằm
góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh và để cho đề tài được áp
dụng có hiệu quả cao vào trong thực tế giảng dạy cho học sinh tôi xin kiến
nghị:
Đối với nhà trường, thư viện các trường cần bổ sung các sách nói về
phương pháp dạy học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học và sách nói về các trò
chơi hay các hoạt động có thể vận dụng vào bài dạy. Đồng thời cần bổ sung
thêm các loại đồ dùng để giảng dạy bộ môn Tiếng Anh như băng, đĩa, loa và
các loại tranh, ảnh.
Tạo điều kiện quan tâm hỗ trợ trang thiết bị, xây phòng học chuyên
dụng cho môn Tiếng Anh.
Đối với giáo viên, nhiệm vụ cụ thể của giáo viên trong việc thực hiện
đề tài này là phải hiểu rõ lí thuyết Tổ chức cho học sinh học tập theo phương
pháp mới trong tình hình đổi mới hiện nay.
Tiến hành khảo sát tình hình học tập, chất lượng học tập của học sinh
để xây dựng cơ sở thực hiện sao cho hợp lí để nâng cao chất lượng học tập của
học sinh.
Không ngừng học hỏi và trau dồi kinh nghiệm giảng dạy, đồng thời thiết
kế sáng tạo nhiều hoạt động hơn nữa nhằm mang lại hiệu quả cao hơn và phát
triển rộng rãi hơn.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và triển khai áp dụng đề tài cần
phải điều chỉnh sao cho phù hợp để đưa ra các hoạt động phù hợp cho từng
đối tượng lớp học sinh, từng đối tượng trường học. Hơn nữa để kết quả giáo
dục có chất lượng giáo viên cần kết hợp chặt chẽ với các phương pháp dạy
học khác, cũng như đối với các giáo viên khác.
Về phía học sinh, để việc học đạt hiệu quả, các em cần phải chuẩn bị
bài trước khi đến lớp và phải ôn luyện thêm ở nhà.
Phụ huynh học sinh cần dành nhiều thời gian hơn và tìm hiểu sử dụng
phương pháp giáo dục khoa học để nhắc nhở, giúp đỡ con em mình tiếp cận
với bộ môn một cách hiệu quả, cùng với nhà trường và xã hội đào tạo nên
một thế hệ học sinh đáp ứng nhu cầu của thời đại và tiềm năng của đất
nước.
Trên đây là những kinh nghiệm tổ chức hoạt động học tập theo phương
pháp mới cho học sinh trong giờ học Tiếng Anh mà tôi áp dụng thấy có hiệu
quả. Tuy nhiên kết quả đạt được vẫn chưa thật mỹ mãn, phần lớn các giờ tổ
chức hoạt động chỉ mới phát huy được tính tích cực, tự giác học tập ở các em
khá và giỏi còn các em yếu và kém vẫn còn nhiều hạn chế như còn thiếu tự
tin, chưa chủ động tham gia các hoạt động… Trong quá trình nghiên cứu và
viết đề tài này tôi không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận
được sự đóng góp nhiệt tình và kịp thời của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo
để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..................................................................................................................................
..................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Sách hoạt động của người học Hội đồng Anh (Biên tập bởi Fiona
1
sinh Copland and Sue Garton with
Monika Davis)
3 Tài liệu bồi dưỡng giáo viên Nhà xuất bản Giáo dục
4 Sách giáo khoa Tiếng Anh lớp 4. Nhà xuất bản Giáo dục
Sách bài tập Tiếng Anh lớp 4.