You are on page 1of 2012

MỤC LỤC

CHUYỆN PHIẾM
CHUYEN PHIEM

TIỀN TẾT CÁI LƯỠI CÁI ĂN CÁI MẶC KHÓC

TÚI TIỀN TIỀN… CƯỜI CHỬI -/- CÒ MÈO


BẠC

VỢ CHỒNG ÔNG XÃ BỒ NHÍ NHẬU BÀ XÃ

ĐẸP VÀ TRẺ VÀ NÓI VÀ HẠNH NGƯỜI MẸ


XẤU GIÀ LÀM PHÚC

ĐÀO HOA NHẬU NGHỈ THƯƠNG GÕ ĐẦU


HẠI TRẺ

ĐỒN THỔI ÔNG KHỦNG LƯỜI BIẾNG CHÔM CHỈA


BỐ

SỐ CÔ... DÊ GHEN TỰ ÁI NGHỀ


GHÉT NGHIỆP

CHẠY... CÓ TIỀN ĐẠO VÀ CHỤP MŨ TÌNH TẶC


ĐỨC

LẤY VỢ CHỌN LỰA CHẢ VÀ TAM TỨ…SẮC


NEM VÒNG
MỤC LỤC

CỤ XỨ BÊN KHI CHỒNG BÀN VỀ CHỮ KÝ SINH


TA GIẬN DANH

CẦN KIỆM VÀ BỔN ĐẠO...MỚI VÌ TÔI LÀ LINH


LÃNG PHÍ MỤC

BỆNH ĐỜN ÔNG : BỆNH ĐỜN ÔNG : TUỔI THƠ BỊ


SỢ NỔ ĐÁNH CẮP

MỖI NĂM ĐẾN HÈ NỖI LO CỦA TUỔI TẬT ĐỜN BÀ :


GIÀ GHEN

KHÔN MÀ KHÔNG NGOAN TỪ HÀNG GIẢ ĐẾN NGƯỜI


GIẢ

THAM NHŨNG VÀ HỐI LỘ TÌNH YÊU THỜI MỞ CỬA

TẤP TẾNH NGƯỜI ĐI ĐỒNG ĐÔ LA NHÂN NGHĨA

ĐỒNG ĐÔ LA BẤT HẠNH GIẤC MƠ LÀM... RỒNG

CON NGƯỜI QUẢ LÀ...DỄ ĐỜN BÀ CON GÁI


SỢ

ĐỜN ÔNG CON GIAI VALENTINE VÀ NGƯỜI


TÌNH

QUÊN VÀ NHỚ CƠM VÀ PHỞ


MỤC LỤC

TẬT ĐỜN BÀ : NHỚ DÀI VÀ TẬT ĐỜN BÀ : CHÌA KHÓA


NÓI DAI

RÁN SÀNH RA MỠ NĂM NGỌ VIẾT VỀ NGỰA

NHỮNG KIỂU LÀM VỢ THẾ GIỚI KHÔNG ĐỜN BÀ

NHÂN LOẠI CHẲNG ĐỜN CÁI TÌNH LÀ CÁI CHI CHI?


ÔNG

ĐỜN BÀ VÀ ĐỜN ÔNG NĂM QUÍ MÙI NÓI


CHUYỆN...

NĂM GIÁP THÂN, BÀN VỀ THÂN PHẬN ĐỜN ÔNG


CON KHỈ

ĐỨC ÔNG ...CHỒNG THẬP GIÁ CỦA NHỮNG


ÔNG CHỒNG

GIÁNG SINH BUỒN TẾT TÂY, BÀN VỀ TÂY VÀ


TA

NĂM ẤT DẬU NÓI VỀ…GÀ CHUYỆN GÀ NĂM DẬU


MỤC LỤC

TIỀN

Năm nào cũng thế, cứ vào những tháng cuối


năm gã đều cảm thấy lo ngay ngáy, lắm lúc lo
đến toát cả mồ hôi hột vì cái túi cạn kiệt, cái hào
bao rỗng tuếch, tiền bạc đội nón ra đi hết sạch,
trong khi mình lại đang rất cần đến nó.

Này nhé : nào lễ Giáng sinh, nào tết tây, nào tết
ta, rồi trăm thứ bà giằng khác. Dù thắt lưng buộc
bung cách nào chăng nữa, thì cũng vẫn có
những khoản bắt buộc phải chi, không chi là
không xong. Thành thử đầu vào thì ít mà đầu ra
thì lại nhiều, tới độ ngân sách bị thâm thủng
nặng nề.

Càng lo về tiền, thì đêm nằm vắt chân lên trán


ngẫm nghĩ chuyện đời, gã càng nhận ra sức
mạnh vạn năng của nó.

Các cụ ta ngày xưa thường tự an ủi lấy mình khi


lâm vào cảnh túng quẫn :

- Cái khó bó cái khôn.

Ước mơ thì nhiều, nhưng do thiếu tiền, nên rốt


MỤC LỤC

cuộc chả được bao nhiêu. Thảng hoặc một đôi


lúc cái khó ló cái khôn, thì hầu hết những cái
khôn được đẻ ra trong hoàn cảnh bi đát này
cũng chỉ là một thứ khôn vặt, thiếu trọng lượng
mà thôi.
Vì thế, từ già đến trẻ, từ lớn đến bé, từ nam phụ
đến lão ấu, ai nấy cũng đều nhận ra giá trị của
tiền bạc, ngay cả anh mù cũng vẫn nhìn thấy
tiền.
Đồng thời, ai nấy đều ra sức tìm tiền kiếm bạc,
ky cóp tích lũy và gìn giữ nó kỹ càng, bởi vì
đồng tiền liền với khúc ruột, lỡ mất nó thì tiếc
ngẩn tiếc ngơ, tiếc đến độ chảy ra cả nước mắt,
đêm không ngủ, ngày không ăn..

Phàm bắt tay vào bất cứ việc gì thì “ vấn đề đầu


tiên “ nổi cộm trong đầu óc vẫn là vấn đề tiền
đâu? Một vấn đề thuộc vào hạng qui luật của
muôn đời, không thể không xét đến.

Ngày nay, người ta thương bảo :

- Tiền là tiên là phật,


Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
MỤC LỤC

Là cái lọng để che thân,


Là cán cân của công lý.

Còn người xưa thì lại xác quyết :

- Có tiền mua tiên cũng được.

Riêng gã, gã không hiểu tiên là liền ông hay liền


bà, đẹp hay xấu, nhưng chắc chắn là phải thuộc
“ cõi trên “, mà gã thì lại hay dị ứng với những
người cõi trên, nên chi ngó thẳng vào thực tế để
nó được thêm phần cụ thể hơn.

Trước hết, với tiền bạc, người ta có thể mua


được địa vị cùng với quyền ăn và quyền nói như
người xưa đã bảo :

- Mạnh vì gạo bạo vi tiền.


- Miệng nhà giàu có gang có thép.

Nếu tìm hiểu về phong tục của xã hội Việt nam


thuở trước, chúng ta thấy nhiều nơi có tục lệ
mua quan bán tước, và ngay cả trong lòng Giáo
hội cũng có vài xứ bán chánh bán trùm.

Người nhà giàu chỉ cần bỏ ra một số tiền theo


MỤC LỤC

qui định là ẵm ngay được chức lý trưởng, chức


chánh trương, chức trùm quản gì đó để vênh
vang với đời.

Rồi mỗi khi có hội hè đình đám, thì được ngồi


vào chiếu trên mà ngất ngưởng với các vị bô lão
và chức sắc, bằng không thì sẽ bị xếp vào chiếu
dưới, lẫn lộn với hạng cùng đinh, vai nặng chân
trơn mà chớ.

Với tiền bạc, người ta còn có thể mua được


lẽ phải, mua được công lý.

Hồi còn bé, mỗi lần đi ngang qua tòa án, gã thấy
các vị thẩm phán, luật sư, thùng thình trong bộ
đồ riêng của nghành nghề mình, toát ra một sư
oai nghiêm, đạo mạo.
Thế nhưng, khi lớn lên và va chạm với cuộc
sống, gã thấy rằng quí vị đạo mạo ấy cũng chỉ là
người, nên trong bụng vẫn chất chứa chút sân si
và trong máu con virus ham hố vẫn phá thối. Vì
thế, có kẻ bạo phổi dám bỏ tiền ra mua đứt tòa
án, đánh gục quí vị đại diện cho thần công lý.

Đúng là :
MỤC LỤC

- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.


- Kim ngân phá lề luật.

Nếu chẳng may đụng phải mấy ông quan tòa có


bản lãnh, không tơ tưởng tới tiền bạc, thì cứ yên
chí nhớn, hiên ngang bước chân vào tù.

Thế nhưng, trong thế giới tù ngục, có tiền vẫn


hơn, bởi vì, với tiềân người ta vẫn mua được
mọi thú tiện nghi chẳng kém gì ở ngoài. Sau
đây, gã xin trích một đoạn trong báo Công An
mô tả về nhà tù ở Bolovia thuộc Nam Mỹ :

“ Các nhà tù ở đây giống như những thành phố


ở bên trong thành phố. Tại khuôn viên, nhà tù có
đủ cả từ các tiệm tạp hóa cho tới các nhà hàng,
thậm chí có cả khoản dịch vụ của các ả mãi
dâm…

“Những tù nhân giàu thì có thể sống như ông


hoàng. Với 3.000 mỹ kim, Freddy Alvarez, kẻ
can tội buôn lậu ma túy, đã “ mua “một phòng
giam tươm tất để có thể chung sống cùng vợ
con.

“Hắn ta kể lại :
MỤC LỤC

- Tôi giống như một kẻ sống ở vùng ngoại ô mà


thôi. Tôi có nhà riêng, các con tôi hằng ngày vẫn
tới trường và vợ tôi vẫn đi ra ngoài làm việc,
chúng tôi ăn uống no đủ.
“Chưa hết, có một số tù nhân dám bỏ ra cả
15.000 mỹ kim để được ở trong những phòng
giam đạt tiêu chuẩn “ khách sạn năm sao “. Nếu
chi khoảng 60 mỹ kim, một tù nhân có thể đi bát
phố trọn ngày, còn với 90 mỹ kim, hắn ta có thể
đi dự dạ hội, chơi hộp đêm ngoài phố “ over
night” luôn.

“Các nhà tù không lo tù nhân bỏ trôn vì gia đình


họ cũng đang sống trong nhà tù như những con
tin.

Hơn nữa, với tiền bạc, chúng ta còn có thể mua


được cả bạn bè và tình nghĩa.
Các cụ ta ngày xưa đã để lại một kinh nghiệm
sống ….khí sượng một chút, đó là :
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm
hữu khách tầm. Nghĩa là nghèo kiết xác mà cắm
dùi ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ma nào
viếng thăm, trái lại hễ giàu sang, phất lên một tí
thì dù ở chốn rừng sâu núi thẳm cũng khối kẻ
chịu khó cất công tìm đến.
MỤC LỤC

Bên cạnh nhà gã có một anh hàng xóm, thuở


còn khố rách áo ôm, dù vợ anh có đẻ cặp hai
cặp ba thì thiên hạ vẫn phớt tỉnh ăng lê, dù bản
thân anh có bị tai nạn xe cán gẫy tay hay lòi
ruột, thì người ta vẫn mặc kệ nó.

Bỗng một hôm thần tài gõ cửa, anh trúng số độc


đắc, tiền bạc cứ như quà tặng từ trời rơi xuống.
Đi tới đâu các cô gái cũng toét miệng cười :
- Anh sáu ơi, anh sáu à…
Đúng là :
- Thấy người sang bắt quàng lam họ.
Ghé vô chỗ nào anh cũng được thiên hạ mời
tiệc tùng ăn nhậu, vì thế về khoản rượu chè, anh
lên “ đô “ trông thấy và mặt lúc nào cũng đỏ gay
như gà chọi.
Trước kia, chẳng ai dám cho anh vay vì sợ bị ăn
quịt. Còn mỗi khi ngân hàng tới đòi nợ, anh bèn
phải ẩn mình đi tị nạn chính trị, ẩy bà xã ú ớ ra
tiếp.
Còn bây giờ, người ta mời anh giữ chức này
chức nọ, hy vọng anh sẽ chơi trội mà chi cho tí
tiền còm mỗi khi cần đến. Có tiền và có chức,
cuộc đời anh lên hương từ đó.
MỤC LỤC

Tiền bạc có thể mua được đủ thứ : nào cơm ăn


áo mặc, nào tiện nghi hưởng thụ…đó mới chỉ là
những chuyện thường ngày ở huyện.

Ngoài ra, với tiền bạc người ta còn có thể


mua được cả chiến thắng.

Theo dõi những cuộc vận động tranh cử tổng


thống Mỹ, chúng ta thấy ứng cử viên nào “ yếu
địa “, chắc chắn sẽ bị rớt đài và đi đoong vì làm
sao mà trải thảm mua đứt báo chí, truyền thanh,
truyền hình, dư luận và tình cảm của cử tri.
Bình thường, thể thao vốn là lãnh vực lành
mạnh và công bằng, vì mọi người đều cố gắng
chơi đẹp dựa trên sức khỏe và tài năng của
mình, thế mà tiền bạc cũng đã len lỏi vào, bằng
cách mua đứt trọng tài hay cầu thủ, khiến cho
thiên hạ phải chõ mồm bàn luận chung quanh
những vụ bán độ ở chỗ này hay chỗ khác.
Trên đây là lãnh vực mua, tiếp đến là lãnh vực
mở.

Tục ngữ đã bảo :


- Tiền không chân, xa gần đi khắp.
Nó là chiếc chìa khóa vạn năng mở được tất cả.
Hay như Shakespeare đã viết :
MỤC LỤC

- Khi tiền bạc dẫn đầu thì mọi cửa đều mở rộng.
Nói theo dân ghiền bóng đá thì tiền bạc chính là
tiền vệ xuất sắc nhất chọc thủng mọi cầu môn.

Trước hết, nó sẽ mở được cửa quyền.

Hiện nay trên thế giới, hầu như nước nào cũng
có tệ nạn tham nhũng. Với tiền bạc, người ta
mua đứt các viên chức để rồi việc khó hóa thành
dễ như người xưa đã bảo :
- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.
Nhiều chính phủ bị sụp đổ, nhiều viên chức phải
nằm nhà đá đếm lịch chỉ vì tham nhũng, hám
tiền như tục ngữ cũng đã nói :

- Hạt tiêu nó bé nó cay,


Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền.

Ngoài ra, nó còn mở được cửa trái tim.


Có những người không lấy nhau vì tình nhưng
lại lấy nhau vì tiền.
Hơn nữa, vì đồng tiền họ dám bán tuốt luốt, kể
cả danh dự và nhân phẩm của mình. Có những
cô gái vì tiền mà “cũng liều nhắm mắt đưa chân“
lấy đại chú ba tàu Đài loan nào đó, để rồi cuối
MỤC LỤC

cùng đã phải ngậm đắng muốt cay.

Đã nói đi thì cũng phải nói lại. Dưới một góc


cạnh này thì là như thế, còn dưới một góc cạnh
khác thì …hỏng phải vậy đâu. Bởi vì tiền bạc là
như con dao hai lưỡi, biết dùng thì có lợi, không
biết dùng thì có hại.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo :

- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt có thể giúp


chúng ta nhiều việc nhưng đồng thời lại là
một ông chủ hà khắc bóp nghẹt những gì tốt
đẹp nhất nơi chúng ta.

Như trên chúng ta đã thấy :

- Kim ngân phá lề luật.

Trong phạm vi cá nhân, thì tiền tài hắc nhân


tâm, nó làm cho tâm địa chúng ta trở nên hắc
ám với những toan tính đen tối, chà đạp công
bằng, phá đổ tình thương, coi rẻ nhân nghĩa,
mặc sức bóc lột người khác miễn sao vơ vét về
cho đầy túi tham của mình, đúng như văn hào
Léon Tolstoi đã viết :
- Tiền bạc chỉ là một thứ nô lệ mới không người,
MỤC LỤC

thay thế cho thứ nô lệ có người trước kia.


Một khi chúng ta để cho lòng mình quá ham hố,
quá quyến luyến tiền bạc, thì lúc đó tiền bạc sẽ
chỉ huy chúng ta và làm cho chúng ta phải khốn
đốn.
Hơn nữa, nếu chúng ta xây dựng tình nghĩa trên
nền tảng căn bản của tiên bạc, thì tình nghĩa ấy
thật bấp bênh và có thể tiêu tan bất kỳ lúc nào
như Nguyễn bỉnh Khiêm đã viết :

- Còn bạc còn tiền còn đệ tử,


Hết cơm hết gạo hết ông tôi.

Trong tiếng Việt, chữ tiền thường đi đôi với chữ


bạc. Và theo sự suy diễn “ ngang hơn cua “ của
gã, thì tiền chính là thủ phạm làm cho bạc tình
bạc nghĩa.
Có tiền, người ta dễ thay lòng đổi dạ :

- Trong tay đã sẵn đồng tiên,


Thì lòng đổi trắng thay đen khó gì.

Thế nhưng không có tiền, người ta lại càng dễ đi


tới chỗ lật lọng, quay phắt 180 độ :

- Hễ không điều lợi khôn thành dại,


MỤC LỤC

Đã có đồng tiền dở cũng hay.

Có một bản tin trên báo Công an mang tựa đề là


“ hợp đồng tình yêu “, nội dung như sau :
Châu Sa là một cô gái trẻ đẹp. Năm 17 tuổi, cô
bỏ học đi làm vũ nữ. Được hai năm, cô gặp
Tuấn, một người thành đạt trong lãnh vực kinh
doanh địa ốc. Vì không muốn người mình yêu bị
kẻ khác nhòm ngó, Tuấn đề nghị Châu sa làm
vợ bé của mình.

Thấy Tuấn giàu có lại hào hoa phong nhã, phần


vì ngán ngẩm với cảnh đời vũ nữ, Châu sa đồng
ý với điều kiện Tuấn phải mua nhà, mua xe và
hàng tháng phải cho 1000 đô để cô xài và gửi về
giúp gia đình.

Để ngăn ngừa việc ông chồng hờ của mình nửa


chừng chạy theo một bóng hồng khác, Châu sa
thảo ra một bản hợp đồng ghi rõ việc cô sẽ
chung sống với Tuấn 5 năm…Nếu ai bỏ ngang
giữa chừng thì phải bồi thường cho đối phương
10.000 đô. Tuấn đã ký vào bản hợp đồng và
chấp nhận tất cả những điều kiện, dù là vô cùng
trắng trợn và thực dụng của Châu sa.
MỤC LỤC

Từ đó Tuấn và Châu sa đã chung sống với nhau


trong một tổ ấm trị giá 70 cây vàng mà Tuấn đã
tậu cho cô vợ bé xinh đẹp của mình.

Thế nhưng chẳng ai học được chữ ngờ. Bản


hợp đồng tình yêu của Tuấn và Châu sa chưa
được ba tháng thì công việc làm ăn của Tuấn
ngày càng xuống dốc. Số tiền 1.000 đô đối với
Tuấn ngày xưa chỉ là chuyện nhỏ, thì nay lại trở
thành gánh nặng.

Thấy số tiền Tuấn nộp cho mình hàng tháng cứ


hao hụt dần, Châu sa cho rằng Tuấn đã thay
lòng đổi dạ, nên quyết định dạy cho ông chồng
hờ của mình một bài học vì tội đã dám vi phạm
hợp đồng.

Cô photo bản hợp đồng rồi gửi cho gia đình


Tuấn. Kết quả là vợ Tuấn nổi giận, kiên quyết
đòi ly dị. Lúc này Tuấn như người bị dồn vào
bước đường cùng. Thất bại trong công việc, vợ
lớn đòi ly dị, vợ bé đòi tiền bạc. Tình yêu cùng
sự si mê ngày xưa đã cạn. Trong lòng Tuấn chỉ
còn lại niềm oán hận đối với cô vợ bé ngag
ngược.
MỤC LỤC

Ngày 20.7.1998, Tuấn mang acit đến nhà Châu


sa, đầu tiên chỉ tính dọa cho hả cơn giận. Thế
nhưng, sau một hồi lời qua tiếng lại, Tuấn không
kiềm được sự nóng nảy của mình, nên đã vung
tay tạt ca acit vào mặt Châu sa, khiến cô bị
thương trầm trọng. Và thế là tiền hết, tình tan.

Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại
Luân đôn có yêu cầu đọc giả đưa ra một định
nghĩa về tiền bạc và cho biết đọc giả nào đưa ra
câu định nghĩa hay nhất sẽ được thưởng.

Tòa soạn đã nhận được cả ngàn câu định nghĩa


và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất :

- Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với


nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế
giới, trừ lên trời là không được, với nó
chúng ta có thể mua được mọi sự, trừ hạnh
phúc.

Còn lúc này, gã đang nghiền ngẫm một tư tưởng


của Francis Bacon :

- Tiền bạc như phân bón, nếu không rải nó ra


thì chẳng lợi ích gì.
MỤC LỤC

Đúng thế, phân bón phải được tung vãi trên


ruộng đồng thì cây lúa mới lớn lên, đâm bông và
kết trái, nhưng nếu cứ xếp đống trong kho thì
chăúng ăn thua gì.

Còn tiền bạc tiêu dùng thì…ô hố…sao nhỉ ?


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TẾT

Bây giờ là buổi chiều cuối năm, nắng vàng rơi


rụng, làm cho những ý nghĩ xám xịt cứ lãng
đãng trong đầu óc gã, khiến cho gã phải thờ dài
thườn thượt như người xưa :

- Ôi nhân sinh là thế ấy,


Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như
chiêm bao.

Thời gian thấm thoát tựa thoi đưa, tựa ngựa


hồng qua khung cửa. Một khi đã chắp cánh bay
đi thì chẳng bao giờ trở lại. Nó giống như dòng
sông, làm sao có thể chảy ngược về nguồn. Nó
cũng lững lờ trôi, chẳng cần chờ ai mà chẳng
cần ai chờ nó :

- Xoay vần ngày tháng thoáng qua


Năm kia nào có đợi ta bao giờ.

Chính trong những ý nghĩ xám xịt ấy, mà gã lan


man, tản mạn nghĩ về cái tết.

Vậy tết là đí gì ?
MỤC LỤC

Trước câu hỏi này, gã phải vác tự điển ra tra


cứu, vì sự hiểu biết của gã về vấn đề này rất là
“lơ tơ lơ mơ”.

Theo “Việt Nam từ điển” của lê văn Đức, thì tết


là ba ngày đầu năm âm lịch. Đồng thời nó còn
chỉ khoảng cách thời gian trước và sau ba ngày
này.

Thí dụ như khi tôi nói chợ tết, thì phải hiểu chợ
được nhóm trước tết, chứ sau tết thì chỉ còn là
chợ bán những đồ ế, của thừa mà chớ…

Điều rắc rối là về ngày. Khi ta bảo hai mươi chín


tết phải hiểu là trước. Trái lại, khi ta nói những
ngày còn ở trong… mùng, như mùng bảy, mùng
tám, mùng mười, thì tất ráo cả đều là sau tết.

Ngoài ra, tết còn chỉ những ngày lễ lớn trong


năm, như tết trung thu… Hay chỉ hành động
xách đồ vật đi biếu nhân ngày tết :

- Mồng một tết cha,


Mồng hai tết chú
Mồng ba tết thày.
MỤC LỤC

Trong khi đó, theo : “Thành ngữ, điển tích, danh


nhân từ điển”, của Trịnh văn Thanh, thì thời gian
ăn tết co dãn như cao su và thường được kéo
dài ra nhiều hơn. Đó là tám ngày đầu năm.

Ngày xưa các cụ cho mỗi ngày thuộc một giống


khác nhau. Mùng một thuộc gà, mùng hai thuộc
chó, mùng ba thuộc heo, mùng bốn thuộc dê,
mùng năm thuộc trâu, mùng sáu thuộc ngựa,
mùng bảy thuộc người và mùng tám thuộc thóc.

Vì thế, vào dịp tết người ta thường nghỉ sáu


ngày, đến ngày mùng bảy thuộc người, được
kêu là khai hạ, mới bắt đầu làm việc.

Chẳng hạn như gã, sống bằng nghề cạo giấy,


thì ngày mồng bảy thể nào cũng phải bắn một
điếu thuốc lào, thả hồn theo khói, rồi tay cầm bút
nguệch ngoạc vài dòng, gọi là “khai bút” lấy hên
cho năm mới.

Riêng quí vị thất nghiệp, ưa ngáp vặt, ngồi chơi


xơi nước, thì còn nghỉ mút chỉ hơn nữa :

- Tháng giêng là tháng ăn chơi,


Tháng hai trồng đậu,
MỤC LỤC

Tháng ba trồng cà.

Gã biết một nhóm bè bạn, gồm đúng mười hai


tên, được gọi là “thập nhị sứ quân”. Họ nhậu
xoay vòng, cứ ngày mồng bảy âm lịch mỗi
tháng là đến “lai rai” tại nhà một tên, thành thử
suốt năm họ đều…ăn tết cả.

Xong chuyện thứ nhất, bước tới chuyện thứ hai.


Vậy trong cả và thiên hạ, người ta ăn tết ra làm
sao ?

Mỗi lần nghĩ về cái tết, dân khố rách áo ôm như


gã thường thở dài ngao ngán, như người xưa đã
diễn tả :

- Tết đến,
Ông vải thì mừng, con cháu thì lo.

Đúng thế, ông vải thì mừøng bởi vì được tưởng


nhớ, được cúng vái và nhất là được hưởng…
hương khói.

Trong khi đó, con cháu thì lo bởi vì phải sắm


sửa trăm thức bà giằng.
Còn hôm nay, gã có thể đổi lại câu nói trên một
MỤC LỤC

tí xíu :
- Tết đến,
Con nít thì mừng,
Người lớn thì lo’’.

Thực vậy, con nít thì mừng bởi vì sẽ được nghỉ


học, sẽ được tiền lì xì, sẽ được mặc quần áo
mới, sẽ được ăn thịt và còn nhiều cái khác ‘’sẽ
được’’ khác nữa…

Trong khi đó, người lớn thì lo, lo đến toát cả mồ


hôi hột, bởi vì trăm dâu đổ đầu tằm, bao nhiêu
chi phí đều cậy nhờ vào ‘’cái hào bao’’ đang độ
rỗng tuếch…

Trước tết thật lâu, thằng bạn gã đã hối bà xã


mua hoặc may cho quí vị con nít, mỗi nhóc tì
một bộ quần áo mới. Vì lúc bấy giờ vải còn rẻ và
tiền công chưa mắc. Hay âm thầm sắm những
bộ đồ “sida” đem về giặt ủi y như mới, rồi cất kỹ
đến tết mới phô ra cho chúng.

Ngày ba mươi tết, bà xã hắn cứ thấp thỏm muốn


đi chợ thật sớm, thế là hắn bèn phải vắt óc tìm
đủ một ngàn lẻ một lý do để cản chân bà ta lại,
khiến bà ta đi chợ muộn hơn thường lệ, bởi vì từ
MỤC LỤC

giờ ‘’ngọ’’ tức là vào khoảng giữa trưa , thịt thà,


đường mứt và hoa kiểng đều rẻ… chỉ tội nó hơi
kém tươi, hơi kém ngon một chút mà thôi.
Nhưng nào có can chi, bởi vì hắn lý luận :

- Của không ngon,


Nhà niều con cũng hết.

- Phải giả bộ đủng đỉnh cho qua ba ngày tết để


lấy vải thưa che mắt thiên hạ, khỏi nhìn thấy cái
rách mát te tua của mình.

Hắn cũng giống như một cô gái được ông thày


bói sờ mu rùa, gieo quẻ mà phán :
- Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ba mươi tết có thịt heo trong nhà’’.

Miễn là có hoa kiểng, có bánh mứt, có thịt thà cá


mú để ‘’lên mặt với đời’’ còn phẩm chất của
chúng ra sao thì thôi, kệ bà chúng. Méo mó có
hơn không. Thói đời vốn thường vậy kia mờ :

- Chí cha chí chát khua giày dép


Đen thủi đen thui cũng lượt là.

Tính toán chi li như vậy, hẳn gã sẽ phải phong


MỤC LỤC

hắn lên hàng ‘’trùm sò’’ mất thôi. Nhưng đành


chịu vậy. Cái khó bó cái khôn, biết nói sao bi
giờ.

Ngoài những mua sắm cần thiết cho cái mặc, cái
ăn, cái uống… cả năm đầu tắt một tối, thì cũng
phải phong lưu ít ra trong ba ngày tết cho bõ
ghét.

Rồi sau đó, lại cúi gầm mặt xuống, tiếp tục kéo
cày trả nợ cho cuộc đời mà vẫn cảm thấy hả
lòng hả dạ, mát ruột mát gan.

Phải, ngoài những chi phí kể trên, là xếp trong


gia đình, hắn còn phải dành cả một ngân khoản,
cả một số tiền… khơ khớ, để lì xì.

Ngày xưa hắn vui mừng vì được lì xì bao nhiêu


thì bây giờ hắn lại xót ruột, nhót gan và ỉu xìu
bấy nhiêu vì phải lì xì.

Lì xì cho con nít còn đơ đỡ một chút. Nhưng con


nít thời nay khôn hơn con nít thời xưa. Qua mặt
nó bằng đồng tiền ‘’mới mà nhỏ’’ là không xong,
thế nào nó cũng đòi cho được đồng tiền to, có
cũ một tí cũng chẳng nhằm nhò gì.
MỤC LỤC

Phiền nhất và đau nhất là phải lì xì cho những


cặp vợ chồng “đỏ” đi tết mới. Đây cũng là dip để
họ ‘’bù lỗ’’ cho đám cưới.

Theo phong tục quê gã, đồ lỡi thường là một


cặp rượu, một cặp bánh chưng, một ký đường…
hay thế nào thì tùy hỉ, không cần thiết lắm. Đồ
lỡi chỉ có tính cách nghi thức tượng trưng và
trình diễn, vì sau đó anh chị được lấy lại và đem
sang nhà khác, miễn sao bày biện cho đẹp mắt
và dễ coi.

Riêng phần khổ chủ, phải mở hào bao lì xì.


“Bèo” quá thì không được, bởi vì đây sự góp vốn
đầu đời cho anh chị mới làm ăn. Nhưng “khơ
khớ” một chút thì không cáng đáng nổi. Thử hỏi,
dịp tết mà có chừng hai mươi cặp đến tết mới,
nhận họ nhận hàng, thì quá là nguy tai, và… vỡ
nợ !

Gã là kẻ có khiếu ăn, mà chẳng có khiếu nói, bởi


vì tinh thần ăn uống được Chúa ban cho ngay từ
lúc lọt lòng mẹ. Do đó, những lời chúc hay
những câu “đáp lêã “, gã thường phải nhẩm
trước trong bụng.
MỤC LỤC

Nhớ lại hồi còn bé, sáng mồng một tết thật là
vui. Thày mẹ gã ở nhà để nhận đồ lỡi, còn anh
em gã phải hớn hở vác đồ lỡi đi tết ông chú bà
bác, những người ở… vai trên.

Trước khi đi, mẹ gã thường gài cho một lời


chúc, bắt phải học thuộc lòng như sau :
- Năm hết tết đến, thày mẹ chúng cháu cho
chúng cháu đến tết hai bác, cầu chúc hai bác
trong năm mới được… vân vân và vân vân…

Lớn lên, gã thường phải “vắt chân lên trán” để


phệu ra những lời chúc thật dí dỏm, vừa để cười
thầm một chút vừa để chọc ghẹo thiên hạ cho
vui cửa vui nhà.
Thí dụ năm Canh Mùi, cầm tinh con dê, gã bèn
mở miệng :

- Trước thềm năm mới, xin chúc chị năm con


dê… nhiều may mắn.
Hay :
-Xuân về, chúc anh năm con… dê nhiều… may
mắn.

Chúc như vậy, thì cứ liệu hồn đấy, không chừng


MỤC LỤC

sẽ được ăn đòn hội chợ đến phù cả mỏ ra. Tuy


nhiên, có những câu chúc mà ngày nay xét ra
không còn hợp thời nữa.

Thí dụ :
- Chúc cho anh chị mới, đầu năm sinh con trai,
cuối năm sinh con gái… hay đẻ “tốc hành” theo
kiểu cá cặp, sinh đôi, sinh ba...
Chúc như vậy là đi ngược lại với đường lối và
chủ trương của nhà nước, vì nhan nhản ngoài
đường phố thấy những tấm bích chương với
khẩu hiệu :

- Vợ chồng son hai con là đủ.


- Dù gái hay trai,
Hai con là đủ.

Hơn nữa, nếu nhiều quá thì vợ chồng trẻ cũng


khó mà khan nổi giữa thời buổi gạo châu củi quế
này.

Dịp tết, ai cũng mong được nhiều may mắn.


Người ta kiêng cữ đủ thứ để tránh cái xui cái
xẻo. Người ta lên chùa hái lộc để rước vận may.
Người ta đi xem bói, chấm lá số tử vi để biết
được thêm một tí tẹo về hậu vận.
MỤC LỤC

Bởi vì, như dân Thổ Nhĩ Kì đã bảo :


- Tương lai giống như người đàn bà mang thai,
chẳng hiểu bà ta sẽ đẻ ra con trai hay con gái.

Câu danh ngôn này, hôm nay xem ra đã “xưa rồi


Diễm ơi”, bởi vì nhờ siêu âm người ta biết rằng
bà xã sẽ sinh con trai hay con gái từ lúc bào thai
còn bé tẹo tèo teo.
Nhưng tương lai hậu vận thì vẫn còn mù tịt. Gã
sẽ treo giải thưởng, còn đắt giá hơn giải Nobel,
cho ai sáng chế ra chiếc máy dò tìm và xác định
được tương lai hậu vận.
Bây giờ thì gã đành phải mượn lời của Tú Mỡ
mà long trọng cầu chúc :

- Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau


Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
- Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Đứa thì mua chức đứa mua quan
Phen này thì ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng

Còn rất nhiều chuyện để nói về ngày tết, nhưng


cứ lông bông, nói dông nói dài, thì sợ bị thiên hạ
MỤC LỤC

kê ngay tủ đứng vào miệng :

- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.


Vì thế, gã xin trở lại với những ý nghĩ xám xịt lúc
ban đầu.
Nếu trong chuyện Kiều, Nguyễn Du đã bảo :

- Chữ tài liền với chữ tai một vần.


Cùng theo thể thức ấy, gã liền phệu :
- Chữ tết liền với chữ chết một vần.
Một ông thi sĩ nào đó đã viết :
- Yêu là chết trong lòng một tí.
Còn gã, gã cũng có thể phệu :
-Tết là chết trong đời một tí.

Đúng thế, trong dịp tết này rất nhiều người sẽ


chết.

Phải, họ chết vì rượu bởi vì họ uống tới tình


trạng say xỉn, ngoắc cần câu. Rất may cái chết
này chỉ là một cái chết tạm thời, bởi vì người ta
sẽ tỉnh lại sau cơn say.

Có những chàng trai và cô gái sẽ chết vì đua xe,


vì đụng xe hay vì lạng lách trên đường phố. Rất
may cái chết này chỉ dành cho một số ít, đó là
MỤC LỤC

những cô chiêu cậu ấm, ăn no dửng mỡ… mà


đứt bóng !

Nhưng quan trọng hơn vẫn là cái chết chung


cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Thực vậy, một năm mới sắp tới, cũng có nghĩa


là một năm cũ sắp qua đi trong dòng chảy cuộc
đời. Cây nến hồng cuộc sống sẽ ngắn lại một
chút, bởi vì mỗi cái tết là một bước tiến gần đến
cái chết, để rồi một lúc nào đó, cây nến hồng ấy
sẽ phụt tắt.
Tết là chết trong đời một tí.

Mới ngày nào, gã còn trẻ trung, khỏe mạnh và


yêu đời, thế mà hôm nay đã phải cõng trên vai
một tí tuổi. Tết đến, gã sẽ già hơn một chút.

Với tí tuổi mang nặng, gã cảm thấy lưng oằn


xuống, thân xác giở quẻ với những chứng bệnh
mà gã không ngờ trước. Cuối cùng, thuyền đời
sẽ cặp bến, nhưng bến đục hay bến trong ?
Điều đó lệ thuộc vào cuộc sống hiện tại của gã.

Lúc này gã đã nghĩ trước một điều ước, để trong


đêm giao thừa, lỡ có một bà tiên, hay một cô
MỤC LỤC

tiên thì càng tốt, quá bộ đến vỗ vai và bảo :

-Hãy ước một điều.


Hẳn gã sẽ trả lời liền tù tì như sau :
- Xin cho gã được làm con nít mãi mãi.

Hồi còn bé, gã chỉ mong ước được làm người


lớn, để khỏi phải đi học, khỏi phải bị mắng, khỏi
phải bị khua dậy đi lễ… mặc sức la hét om sòm
cũng như ngủ nuớng và tết đến lại còn “sẽ
được” nhiều thứ.

Gã thường hay hỏi ông ngoại :


- Làm thế nào cho tuổi mới nó vào ?
Ôâng ngoại xoa đầu gã, rồi mỉm cười và nói :
- Đêm giao thừa hãy chổng mông lên.
Thằng bé mê ngủ quên cả chổng mông, thế mà
tuổi vẫn vào ào ào và xác vẫn lớn.
Bây giờ gã mới thấy :

- Mơ làm người lớn quả là điều dại dột, bởi vì


người lớn phải nghĩ nhiều, phải lo nhiều, phải
làm nhiều và nhất là… chóng về chầu trời.

Viết tới đây, gã bỗng nghe thấy tiếng hát của


Hồng Nhung với chiếc răng khểnh vọng lên từ
MỤC LỤC

chiếc “cát xét” của quán nước bên nhà hàng


xóm được vặn hết cỡ thợ mộc điếc cả lỗ nhĩ và
rát cả con ráy :

- Em không muốn làm người lớn đâu anh,

Ứ hư….ứ hư…
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CÁI LƯỠI

Ngày xưa có một ông vua nước Ai Cập gửi cho


nhà hiền triến Bias một con vật vừa quí lại vừa
hiếm để tế lễ các thần minh. Thế nhưng ông vua
này muốn chơi khăm nhà hiền triến một vố, bèn
phán :

- Sau khi cúng kiếng xong, ngươi phải trả lại cho
ta cái gì vừa tốt nhất lại vừa xấu nhất nơi con
vật quí hiếm ấy.

Nhà hiền triết cũng không phải là tay vừa, bèn


xẻo ngay cái lưỡi mà trao cho ông vua.
Cử chỉ đó gián tiếp nói lên rằng :

- Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng,


nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất nếu
không biết sử dụng.
Đúng thế, cái lưỡi là một bộ phận quan trọng để
phát ra tiếng nói. Hồi tôi còn bé, mẹ gã thường
răn đe :

- Con mà chửi tục, thì cái lưỡi sẽ thụt vào trong


cổ, để rồi từ rày mà đi cho đến lúc rình xinh thì
sẽ chẳng còn nói năng được nữa !
MỤC LỤC

Hay :
- Con mà chửi tục, ông ba bị nghe thấy, thì ông
ấy sẽ cắt ngay cái lưỡi để xơi…tái.
Và như chúng ta đã thấy :

- Tiếng nói là một phương tiện hữu hiệu để


chuyển đạt cho người khác biết những tư tưởng,
những ý nghĩ, những ước muốn thầm kín ấp ủ
tận đáy tâm can tỳ phế, nhờ đó bắc lấy một nhịp
cầu cảm thông.
Chính vì thế, mấy ông triết gia đã phát biểu :

- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng


nói. Sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân
lý ấy ngàn đời vẫn không thây đổi.
Một kẻ câm ú a ú ớ, diễn tả bằng cử điệu thật là
vất vả và người không quen cũng khó mà hiểu
được những cử điệu ‘’búa xua’’ ấy.

Tuy nhiên, cái lưỡi cùng với lời nói lại là điều
chúng ta thường hay vấp phạm hơn cả, bởi vì
chúng ta có thể vấp phạm bất kỳ ở đâu, bất kỳ
lúc nào và bất kỳ với ai.
Do đó Kinh thánh đã bảo :
- Số người chết vì cái lưỡi thì nhiều hơn số
MỤC LỤC

người ngã gục vì gươm giáo ngoài chiến trường.

Và tục ngữ dân Ăng lê cũng xác quyết :


- Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi.
Trước hết là trong lãnh vực gia đình.

Nhiều khi sóng gió nổi lên chỉ vì một lời nói nóng
nảy và thiếu tế nhị.

Có một chị vợ cặm cụi nhổ cỏ ở thửa ruộng sau


nhà. Theo sự phân công thì hôm đó anh chồng
đóng vai tề gia nội trợ. Và thế là anh chồng bèn
trổ mấy món ruột của mình để lấy điểm ‘’mí’’ bà
xã.

Mồ hôi mồ kê chảy xuống ròng ròng. Khi đã nấu


nướng xong, yên chí nhớn và hớn hở bắn một
điếu thuốc lào, anh chồng mới sai đứa con nhỏ
ra mời mẹ.

Đứa bé chạy tới và nói :


- Bu ơi bu, bố bảo về ăn cơm.
Chẳng nói chẳng rằng, chị vợ vẫn cứ lặng lẽ nhổ
cỏ.
Đứa bé trở về, mặt xụ xuống như bánh bao
chiều.
MỤC LỤC

Một lúc sau, anh chồng lại sai đứa khác ra mời,
nhưng chị vợ vẫn cứ nín thinh cặm cụi nhổ cỏ.

Đứa bé trở về, mặt xìu xìu như trái bóng xì hơi.
Dường như không chờ đợi được nữa, vả lại sợ
thức ăn để lâu sẽ nguội và mất ngon, nên lát
sau anh chồng liền sai đứa út ra mời, ông cười
ruồi và thầm nghĩ trong bụng :
- Quá tam ba bận. Ba keo mèo phải mở mắt đứt
đuôi con nòng nọc chứ còn gì.

Thế nhưng lần thì chị vợ lại tỏ ra tức tối. Chị ta


đứng lên. Hai tay chống nạnh. Mắt long còng
cọc như một tia chớp. Miệng hét toáng chẳng
khác gì sư tử rống :

- Bố con mày có hốc thì cứ việc hốc đi.


Trước sự nổi tam bành của chị ta, đứa út run
cầm cập, ba chân bốn cẳng vội chạy về méc bố.

Đến đây thì chuyện phải đến ắt sẽ đến. Sau khi


nhổ hết đám cỏ bợ, chị vợ đủng đỉnh về nhà.
Thế nhưng vừa mới tới sân thì hàng xóm đã
phải nghe thấy những tiếng kêu la thất thanh :
MỤC LỤC

- Ối giời ơi ! Ối đất ơi ! nó đánh tôi, nó giết tôi,


làng nước ơi, cứu tôi với…

Rồi thì nồi niêu soong chảo, chổi cùn rế rách,


mâm bàn chén đĩa cùng với những thứ cao
lương mỹ vị thi nhau bay ra ngoài sân, bởi sức
người chịu đựng có hạn. Và lúc này đến lượt
anh chồng đang nổi máu yêng hùng, đùng đùng
nổi trận lô đình như Trương Phi !

Giá như chị vợ biết nhún nhường và tế nhị một


chút trong lời nói của mình thì đâu đến nỗi xảy
ra sự việc đáng tiếc kể trên. Còn thân thể ‘’liễu
yếu đào tơ’’ của chị ta đâu đến nỗi tím bầm và
lãnh đủ những thứ cú thượng cẳng chân hạ
cẳng tay của đức ông chồng, ‘’vai năm thước
rộng, thân mười thước cao’’, như vóc dáng của
anh chàng Từ Hải trong truyện Kiều !

Bởi đó, tục ngữ đã dậy :

- Chồng giận thì vợ làm lành


Miệng cười tươi hỏi rằng anh giận gì.
- Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.
MỤC LỤC

Còn nếu ông cũng ghê bà cũng gớm, thì chắc


chắn phải kết thúc bằng xô xát, bằng tan hoang
và đổ vỡ.

- Bên thẳng thì bên phải chùng


Hai bên đều thẳng thì cùng đứt dây.
- Bên giận thì bên phải lùi
Hai bên cùng giận thì… dùi nó quăng.

Cho nên, muốn gia đình được êm ấm thì phải


biết nhường nhịn và tha thứ :

- Một sự nhịn là chín sự lành.

Đồng thời phải biết phát ngôn cho êm dịu và tế


nhị, bởi vì :

- Lời nói chẳng mất tiền mua


Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Tiếp đến là trong tương quan xã hội, trong mối


liên hệ với người khác.

Hẳn rằng, đã có lần chúng ta bực bội tức tối


trước những luồng dư luận xuyên tạc, trước
những miệng lưỡi thâm độc và xảo trá của
MỤC LỤC

người đời. Bởi vì dư luận vẫn thường là luận dư,


lời đôn thổi bao giờ cũng phóng đại tô màu,
chẳng biết đâu mà lường :

- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.

Hay như ca dao đã diễn tả :

- Ở sao cho vừa lòng người


Ở rộng người cười ở hẹp người chê
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn
Béo chê béo trục béo tròn
Gầy chê xương sống, xương sườn hở ra.

Tuy nhiên, chúng ta không thể nào sống cu ky,


đơn độc, lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi
hay như một pháp đài biệt lập. Trái lại, sống là
sống là sống với người khác. Và trong cuộc
sống chung này, chúng ta không thể tránh đi cho
hết những va chạm, những bực bội, những buồn
phiền.

Nếu biết dùng những lời nói ôn tồn, chúng ta sẽ


hóa giải được những thù oán, triệu tiêu được
những giận hờn, bởi vì mật ngọt chết ruồi.
Người ta có thể giết được nhiều ruồi chỉ bằng
MỤC LỤC

một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng dấm


chua.

Một lời thiếu ý thức được sánh ví như một lon


dầu đổ vào lửa, làm bừng lên sự tức giận, thiêu
hủy hết tình ruột thịt cũng như nghĩa bà con lối
xóm.

Một lời nói vu oan có thể làm người khác mất


hết tiền bạc, mất hết danh dự, tiêu tan sự nghiệp
để rồi thân bại danh liệt và đi vào thế giới lao tù.

Sau cùng là trên bình diện cá nhân.


Như chúng ta đã biết :
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.

Dựa vào lời nói, người khác có thể biết được


phần nào tâm hồn chúng ta. Dựa vào lời nói,
thiên hạ sẽ đánh giá con người và nhận rõ bộ
mặt thực của chúng ta.

Nếu chúng ta nói những điều hữu lý, thiên hạ sẽ


cho chúng ta là người tài giỏi và khôn ngoan.
Nếu chúng ta nói những điều vô lý, thiên hạ sẽ
cho chúng ta là kẻ ngu ngốc và dại khờ. Nếu
chúng ta nói những điều xằng bậy, thiên hạ sẽ
MỤC LỤC

cho chúng ta là kẻ tầm phào và láo khoét.

Được yêu mến và kính trọng hay bị khinh bỉ và


ghét bỏ một phần lớn là do bởi cái lưỡi và lời nói
của chúng ta.

Như thế, cái lưỡi đã đóng một vai trò quan trọng
trong việc hình thành uy tín và thế giá của mọi
người, như một câu danh ngôn đã bảo :

- Lưỡi người khôn ngoan tạo nên danh dự, còn


mồm kẻ ngu dại gây đổ vỡ tan hoang.
Bởi đó, phải biết đắn đo cân nhắc, để tránh đi
những lời lộng ngôn xúc phạm đến Đấng Tối
Cao, những lời chua cay độc địa nhằm hạ nhục
uy tín người khác, cũng như những lời côïc cằn
tục tĩu làm hoen ố những tâm hồn đơn sơ trong
trắng, đồng thời bôi nhọ chính bản thân mình, vì
ngậm máu phun người dơ miệng mình.

Như thế, nếu không biết sử dụng cái lưỡi cho


đúng đắn, thì lời nói sẽ là nguồn ngốc phát sinh
rất nhiều giống tội thay vì là một phương tiện
giúp chúng ta cảm thông và xích lại gần nhau.

Êsôpe là một tên lô lệ, nhưng lại được ông chủ


MỤC LỤC

tên là Santô rất yêu mến và kính trọng.


Ngày kia có khách đến chơi, ông chủ sai Êsôpe
ra chợ mua thức ăn, nhưng không bảo là mua
những thứ gì. Êsôpe bèn dinh về đủ các thứ lưỡi
: lưỡi lợn, lưỡi bò và lưỡi ngựa… để nấu nướng.

Lạ miệng nên xơi ngon. Ông chủ và khách khứa


đều hài lòng về tài bếp núc của Êsôpe. Rồi
khen lấy khen để.

Lần sau cũng có khách, ông chủ lại sai Êsôpe đi


chợ và cũng không dặn phải mua những gì,
Êsôpe cũng lại dinh về toàn những lưỡi là lưỡi,
chỉ khác ở cách chế biến và thêm bớt gia vị.

Thấy vậy, ông chủ rất đỗi ngạc nhiên, còn Êsôpe
thì kính cẩn làm một màn lý luận, bàn về cái lưỡi
như sau :

- Phàm ở trên đời này, mọi sự tốt hay xấu, lợi


hay hại… tất tật đều do bởi việc sử dụng cái lưỡi
một cách khôn khéo hay vụng về.

Chính nhờ vậy, mà Êsôpe được chủ yếu mến và


sau này được giải thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than.
MỤC LỤC

Ý thức được tầm mức quan trọng của cái lưỡi là


như vậy, chúng ta hãy lắp đặt một cái phanh vào
miệng, để những lúc ngứa mồm, muốn phát
ngôn bừa bãi, thì biết “sì tốp” lại đúng nơi và
đúng lúc.

Viết tới đây, gã bèn nhớ tới lời khuyên của


người xưa, đó là :

- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CÁI ĂN

Nếu tôi không lầm, thì kể từ khi những làn gió


lạnh len lén trở về, cũng là lúc người ta bắt đầu
‘’mùa ăn nhậu’’.

Thực vậy, mùa mưa đã qua đi cùng với lũ lụt và


dông bão, để chào đón những ngày nắng ấm và
trong xanh.

Thiên hạ thường bảo : chim chóc cứ đến mùa


làm tổ, thì con người cũng đến mùa cưới hỏi,
đây chính là thời gian cho những cặp tình nhân,
trẻ cũng nhữ già, hối hả đi xây tổ uyên ương.

Mà đã làm đám cưới, thì thế nào cũng phải có


tiệc tùng. Mỗi lần nhận được thiệp hồng với một
tí trà… móc câu, là phải chuẩn bị hào bao và dạ
dày để…ăn cưới.
Rải rác vào thời điểm này là những ngày lễ lớn,
như Giáng sinh, tết tây và tết ta. Để lễ được lớn
và thêm phần long trọng thì không thể thiếu
vắng phần ăn nhậu, như thiên hạ vẫn thường
bảo :

- Trước là kính thánh, sau là đánh chén.


MỤC LỤC

Đúng là người ta ăn nhậu tơi bời hoa lá, người


ta tiệc tùng tưng bừng khói lửa.
Ngày xưa, lúc còn trẻ hồ hởi ăn nhậu bao nhiêu,
thì bây giờ khi đã có tí tuổi, lại cảm thấy ngán
ngẩm khi phải vác cái thân già cho đình đám bấy
nhiêu.

Nào là thời giờ bị đảo lộn. Nào là bao tử bị hành


hạ… tham thực cực thân! Dẫu sao thì cũng vẫn
phải đi vì tình nghĩa, vì nợ miệng…chuyện đời
mờ lị.

Vậy thì người ta ăn để mà làm gì ?

Câu hỏi này quả thực xưa như trái đất và một
đứa nhỏ cũng có thể trả lời ‘’phăng xi lô’’ rằng :

- Ăn để mà sống, chứ còn để làm cái đí gì


nữa. Khéo ỡm ờ, vờ vĩnh, vẽ chuyện !

Thực vậy, người ta ăn để mà sống. Giống như


chiếc xe không xăng dầu thì không thể nổ máy
và chạy được. Cũng vậy, nếu không ăn, không
đổ ‘’xăng’’, không bồi dưỡng, chúng ta sẽ không
thể nào sống và hoạt động cho nổi.
MỤC LỤC

Kinh nghiệm bản thân cho thấy :


- Khi bụng đói, thì mắt mờ tiệt và tay chân bủn
rủn, thậm chí con ruồi đậu vào mép cũng chẳng
buồn xua.

Đặc biệt là những ngày ăn chay. Mới kiêng nhim


nhím tí xíu, mà lúc gần tới bữa, đã thấy đói cồn
đói cào. Và mẹ gã thường bảo :

- Đó là chước mốc ma quỉ.

Không kể trường hợp suy dinh dưỡng, mà nhiều


người Việt Nam chúng ta vốn thường mắc phải
do cái bệnh nghèo, hiện nay trên thế giới hàng
triệu người đang lâm vào cảnh đói kém.

Những em bé chỉ còn da bọc xương nằm la liệt


chờ đợi chút thực phẩm nhân đạo để sống qua
ngày xuất hiện dài dài trên màn ảnh truyền hình,
chẳng biết có đánh động được cõi lòng băng giá
nào không hầu góp tí tiền còm làm phúc bố thí.

Ăn để mà sống, đó là chuyện đời thường, nhưng


đời thường vốn có những cái nghịch lý của nó.
Vì thế, không thiếu gì những người sống để mà
MỤC LỤC

ăn.

Họ đi tìm những khoái cảm trong việc ăn uống.


Có những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng, kéo dài
từ ngày này qua ngày khác. Ăn no uống đủ
nhưng vẫn chưa đã. Và thế là ‘’a-lê-hấp’’ móc cổ
họng cho chó ăn chè để tiếp tục nhậu nữa. Tiệc
một chưa đủ bèn rủ nhau gầy sòng làm tiệc hai.

Bên cạnh những kẻ thiếu ăn, có những bàn tiệc


mâm cao cỗ đầy, thức ăn thừa mứa, mà mỗi
khẩu phần trị giá bằng cả một năm lao động cực
nhọc của những kẻ khố rách áo ôm. Đúng là tác
phong ném tiền qua cửa sổ.

Thánh kinh diễn tả rất đúng về hạng người thừa


tiền và rửng mỡ này, khi gọi họ là những kẻ chỉ
biết lấy cái bụng của mình làm chúa, ‘’quorum
deus venter est’’ !

Tiếp đến, người ta thường ăn những gì ?

Thưở ban đầu, khi còn là những bộ lạc du mục,


người ta ăn những gì kiếm được trên rừng như :
hoa trái, thịt thà, cá mú… và thường là ăn sống
nuốt tươi cho đến khi tìm ra lửa.
MỤC LỤC

Với lửa, người ta bắt đầu chế biến những thức


ăn tươi sống thành những món cao lương mỹ vị.
Từ đó nghệ thuật nấu nướng không ngừng phát
triển.
Nếu là một triết gia, hẳn gã đã phát biểu một
cách rất hách xì xằng như sau :

- Người là một con vật biết nấu nướng.

Lời phát ngôn này chắc chắn sẽ được treo ở


các nhà hàng, tiệm ăn và xó bếp.
Có lần gã định viết một luận án phó tiến sĩ về
vấn đề này.

Đường đường là một đấng nam nhi, mày râu


nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, gã bèn truyền cho
mấy cô em gái giao nộp cho mình tất cả những
cuốn sách nữõ công gia chánh.

Suốt mấy tuần liền chúi mũi vào đống sách ấy


để mà…‘’ngâmkíu’’. Từ bản mục lục phân tích
do mình tự biên tự diễn, gã nghiệm ra rằng thì là
mọi món ăn đều được chế biến dưới bốn dạng
khác nhau :
MỤC LỤC

- Dạng thứ nhất qua nước hay hơi nước như :


luộc, hấp…
- Dạng thứ hai qua dầu mỡ như : chiên, xào…
- Dạng thứ ba qua lửa như : nướng…
- Dạng thứ bốn là chơi tươi sống như ăn gỏi…

Nắm vững bốn dạng này, rồi tùy cơ ứng biến,


thêm mắm thêm muối, thêm hành thêm tỏi, uyển
chuyển trong cách thức trình bày, để mà thiên
biến vạn hóa, trở thành những món ăn khác
nhau, vừa bắt mắt lại vừa khoái khẩu.

Thế nhưng, bao tử con người vốn có những đòi


hỏi kỳ cục, hay nói đúng hơn người ta càng bày
ra những món ăn lạ đời thì lại càng nổi tiếng.

Chẳng hạn như máu nào chẳng là máu, nhưng


khi ngả thịt con bò, phải múc lấy bát màu từ
trong lồng ngực của nó mà…húp xùm xụp, thì
mới bổ béo.

Dân ghiền thịt rắn, trước khi xơi thịt phải uống
máu nó bằng cách treo con rắn lên chặt mẩu
đuôi, rồi kê miệng vào đó mà mút như cu Tí bú
sữa mẹ, hay để cho những giọt máu ấy nhỏ
xuống ly rượu nồng rồi chuyền tay nhau mà
MỤC LỤC

uống.

Và theo những thày lang chính hiệu con nai


vàng, thì đây mới đúng là ‘’tửu xà’’ rượu rắn thứ
thiệt đại bổ. Uống vào không bổ ngang cũng bổ
dọc, và nếu lỡ quá chén chút xíu, bảo đảm sẽ…
‘’bổ chẩng’’ liền tại chỗ.

Thiên hạ có kể cho gã nghe câu chuyện sau đây


:

Ngày xưa, Từ Hi Thái Hậu bên Tàu mở tiệc thiết


đãi các ông tây bà đầm. Bữa tiệc có một món
đặc biệt đó là món óc khỉ.

Bàn ăn được khoét một lỗ nhỏ cho mỗi người.


Dưới lỗ nhỏ ấy là một hộc bên trong nhốt một
con khỉ. Chỏm đầu con khỉ vừa vặn với lỗ nhỏ
ấy.

Tới lúc thực khách xơi món này, người ta chỉ


cần dùng một con dao thật sắc, phạt ngang một
phát, bay luôn chỏm đầu cho óc khỉ hiện lên.
Thực khách chỉ cần nêm vào đó chút muối tiêu
chanh, rồi dùng thìa mà múc như khi ăn… vịt lộn
vậy.
MỤC LỤC

Một định luật kinh tế được áp dụng trong phạm


vi nghệ thuật ăn uống đó là phàm cái gì càng
hiếm thì lại càng quí. Mà càng quí thì lại càng
mắc.

Thẩn thơ trên hè phố Sàigòn, tôi đã từng đọc


thấy những mẩu quảng cáo của các nhà hàng
đặc sản. Thôi thì từ rùa, rắn, chuột đến khỉ, nai,
tê tê… tất cả mọi thứ trên trời, dưới biển cũng
như trong rừng đều chui tuốt luốt vào cái bụng
con người.

Thảo nào mà có biết bao nhiêu loài động vật quí


hiếm đang dần dần bị tuyệt chủng. Mai mốt con
cháu mình chỉ còn thấy chúng qua hình ảnh của
những trang sách nằm trong thư viện mà thôi !

Đồ ăn thì để mà ăn, đó cũng là chuyện đời


thường. Tuy nhiên, có những thứ không thể đút
vào miệng mà ăn, thế mà người ta vẫn cứ phải
ăn hay cứ vẫn muốn ăn.
Trước hết, có những thứ không thể ăn mà vẫn
phải ăn, nổi cộm trong lãnh vực này đó là ăn
đòn.
MỤC LỤC

Gã nhớ rất rõ, hồi còn bé ít khi nào ba gã cho gã


ăn đòn. Nhưng đã cho ăn, thì phải ăn đến nơi
đến chốn, không biết bao nhiêu roi mà kể.

Việc ăn đòn cũng có mục đích cao cả của nó.


Cha mẹ cho con cái ăn đòn là để giáo dục
chúng, cho chúng biết vâng lời. Còn trong chốn
giang hồ, xã hội đen, thì cho nhau ăn đòn là để
đánh phủ đầu, dằn mặt nhau lần sau chớ có làm
như vật nữa. Con nít Tây phương bây giờ được
pháp luật bảo vệ, chẳng được… ăn đòn, nghĩ
cũng uổng.
Tiếp đến, có những thứ không thể ăn mà người
ta vẫn muốn ăn, đó là ăn tiền.

Thực vậy, nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy có


biết bao nhiêu mánh mung, có biết bao nhiêu
cách thức để ăn tiền của nhau.

Gã nghĩ rằng ăn tiền đó là cả một nghệ thuật,


cũng thiên biến vạn hóa đến qủy thần cũng
không lường nổi.
Gã xin kê đơn hoàn tán, đại khái như sau : ăn
bẩn, ăn hối lộ, ăn bòn, ăn cắp, ăn cướp, ăn
trộm, ăn chận, ăn gian, ăn quỵt, ăn bớt… Tất cả
những kiểu này đều có một mẫu số chung là
MỤC LỤC

tiền.

Hiện nay việc ăn hối lộ là một cơn bệnh trầm


trọng, không riêng gì Việt Nam, mà hầu như
quốc gia nào cũng mắc phải. Nó làm cho dân
chúng khổ cực, đất nước nghèo túng và chính
quyền sụp đổ.
Nhưng thấy tiền ai mà chẳng muốn xơi, nhất là
tiền chùa của nhân dân cũng như của nhà nước.
Một đứa con nít cũng thấy được quyền lực và
giá trị của đồng tiền :

- Có tiền mua tiên cũng được


- Tiền là tiên là phật
Là sức bật của người già
Là cái đà của danh vọng
Là cái lọng để che thân
Là cái cần của công lý

Ăn tiền là chuyện khó. Nhưng chùi mép sau khi


đã ăn tiền cũng lại là chuyện khó nữa. Vì nếu
không khéo chùi mép, chắc chắn một lúc nào đó
sẽ thân bại danh liệt, nằm bóc lịch trong nhà đá
mà than thở :
MỤC LỤC

- Của Cêsar trả cho Cêsar… Của thiên trả địa…


sự giả trá thế gian là như thế đó.
Sau cùng gã xin viết thêm chút xíu nữa cho câu
hỏi :

- Phải ăn như thế nào ?

Kinh nghiệm cho thấy : nhân cách con người


được biểu lộ rất rõ trong khi ăn.
Thực vậy, người tham thì muốn xơi luôn phần
của kẻ khác. Gã nhớ mang máng trong một
cuốn sách nào đó về phép lịch sự có kể mẩu
chuyện như sau :

Bàn ăn có bốn người. Đĩa có bốn miếng giò.


Anh chàng tham ăn gắp cá cặp một phát hai
miếng liền, rồi giả bộ vẩy vẩy để cho nó bong ra.

Thế nhưng, người ngồi cạnh bèn kê tủ đúng vào


miệng hắn ta mà nói :

- Anh có lấy chân mà đạp, thì nó cũng chẳng


bong ra đâu.
Người bất lịch sự thì chỉ biết cúi mặt xuống như
muông chim mà ăn lấy ăn để, chả còn lưu ý tới
kẻ khác. Họ có thể ợ ngáp như ở trong phòng
MỤC LỤC

riêng. Họ có thể húp canh sùm sụp như biển


gầm sóng vỗ, muốn trôi cả bàn ghế và những
người chung quanh.
Vì thế, cha ông chúng ta đã dạy :

- Học ăn học nói học gói học mở.


- Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.

Tuy nhiên, có một góc cạnh của bữa ăn chúng


ta cần lưu ý đó là bầu khí yêu thương.
Thực vậy, bữa ăn là lúc qui tụ những người có
cùng một mẫu số nào đó. Mẫu số ấy có thể là
tình nghĩa ruột thịt như bữa ăn trong gia đình,
cũng có thể là một niềm vui hay một nỗi buồn
như tiệc cưới, đám giỗ…hay công việc làm ăn.

Trước hết, những người cùng bàn chia sẻ với


nhau thức ăn, nguồn sinh lực cho thân xác.
Trong cuốn “Người Việt cao quí”, tác giả Pazzi
đã ca tụng chén nước mắm của mâm cơm Việt
Nam. Hơi mất vệ sinh một tý đấy nhưng lại là
một biểu tượng của chia sẻ và hiệp thông.

Tiếp đến, những người cùng bàn còn chia sẻ với


nhau niềm vui và nỗi buồn… vì vậy cần phải tạo
ra một bầu khí yêu thương cho bữa ăn, đừng
MỤC LỤC

biến nó trở thành phiên tòa xử án con cái hay trở


thành một dịp để đả kích, chửi xéo lẫn nhau vì :
- Trời đánh còn tránh bữa ăn.

Gia đình Việt Nam đâu cần đến những thứ cao
lương mỹ vị mới nồng nàn yêu thương, trái lại
chỉ cần :

- Canh tôm nấu với ruột bầu


Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Viết đến đây gã cảm thấy hết chất, bèn phải vác
tự điển ra để tra cứu và tham khảo thêm, gã
bỗng khám phá ra rằng : phạm trù ăn là một
phạm trù quan trọng vào bậc nhất trong ngôn
ngữ Việt Nam.

Thực vậy, để diễn tả động tác “ăn”, ngôn ngữ


Việt Nam thật là phong phú.
Trang trọng thì :
- Xơi, mời…
Bình thường thì :
- Ăn, dùng…
Vui vẻ thì :
- Nhắm, nhậu, lai rai…
Bực bội tức tối thì :
MỤC LỤC

- Đớp, hốc…
Nếu Phạm Quỳnh đã viết :
- Dân An nam ta phàm cái gì cũng cười.

Còn gã, gã cũng có thể xác quyết :


- Người Việt Nam chúng ta phàm cái gì cũng
ăn.

Vui cũng ăn như ăn cưới, ăn khao. Buồn cũng


ăn như ăn đám ma, ăn đám giỗ.
Trong “Việt Nam từ điển” của Lê Văn Đức, gã
đếm được cả thảy hơn một trăm năm chục tiếng
được nghép với chữ ăn, như : ăn chay, ăn chực,
ăn vụng… Thậm chí có những hành động chẳng
hề liên hệ tới mồm miệng hay lục phủ ngũ tạng
mà vẫn được ghép với chữ ăn như : ăn đòn, ăn
gian, ăn trộm, ăn năn…

Gã không biết Thượng đế có bé cái lầm hay


không khi trao ban cho mỗi người chúng ta một
cái miệng. Công dụng của cái miệng là nói và
ăn.

Rất nhiều lần chúng ta đã phải khổ sở vì những


lời dèm pha đầy ác ý. Lưỡi người còn sắc hơn
cả gươm giáo và độc hơn cả nọc ong. Số người
MỤC LỤC

chết vì cái lưỡi còn nhiều hơn vì chiến tranh. Lời


nói có thể làm cho chúng ta thân bại danh liệt,
tiêu tan sự nghiệp.

Còn cái khoản ăn cũng không kém phần nhiêu


khê và rắc rối. Người ta lao động quần quật
cũng để tìm kiếm của ăn đút vào miệng. Cái
miệng con người đã làm cho bao súc vật bị tuyệt
chủng, cây cối đi đến chỗ xác xơ tiêu điều… và
đến núi cũng phải lở.
Rồi những cuộc chiến tranh giữa người với
người đã xảy ra cũng chỉ vì miếng ăn. Ôi, miếng
ăn quả là miếng nhục.

Giá như con người không phải ăn nữa thì sẽ lợi


biết bao nhiêu. Lợi được thời gian. Lợi được
công sức. Lợi được tiền bạc. Nhưng mà có lẽ
lúc bấy giờ đời cũng sẽ buồn đi rất nhiều.

Vì thế, gã vẫn cứ phải chịu khó ăn để mà sống


mỗi ngày, cho dù là ăn những của đắng đót.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CÁI MẶC

Bài trước đã nói về cái ăn, nên bài này xin bàn
về cái mặc, để đáng được gọi là đủ trò, đủ kiểu,
đủ thứ ăn chơi.

Rảo qua một vòng báo chí, gã thấy người ta đã


dành nhiều giấy bút, nhiều chữ nghĩa, nhiều
hình ảnh cho vấn đề thời trang. Đúng là thời
trang đang ở vào thời điểm cực thịnh, trăm hoa
đua nở.

Nào là thời trang xuân, hạ, thu, đông, cho dù ở


miền Nam đất nước này chỉ có hai mùa là nắng
và mưa.

Nào là thời trang áo dài. Nào là thời trang dạ hội,


cho dù nhiều người từ lúc mở mắt chào đời cho
đến khi ‘’rình sinh thì’’ cũng chẳng hề biết dạ hội
là cái đí gì.

Nào là thời trang tuổi ba bi lắc, tuổi học trò, tuổi


sồn sồn của các bà mẹ và ông bố, tuổi các vị bô
lão gần đất xa trời.

Người ta khoác vào những bộ áo quần lạ mắt,


MỤC LỤC

nhiều lúc đến kinh dị và quái đản mà lôi lên sân


khấu từ anh liền ông đến chị liền bà, từ thằng cu
tí đến bà cụ già khú đế. Thôi thì tất tật nam phụ
lão ấu, già trẻ lớn bé đều có mặt.

Người ta tổ chức biểu diễn thời trang ở mọi nơi


và trong mọi lúc. Từ những thành phố lớn cho
chí đến những quận huyện xa xôi hẻo lánh, khỉ
ho cò gáy. Chỉ cần dăm bảy cô nường lượn ra
lượn vào, đi tới đi lui cũng đủ để mà câu khách.

Ở Việt Nam, nghề làm người mẫu thời trang mới


bắt đầu nảy mầm trong những năm tháng gần
đây, nên chưa có được một đội ngũ chuyên
nghiệp.

Phần đông những người tham gia biểu diễn thời


trang là những người mẫu ngẫu hứng qua cầu,
những người mẫu thậm chí có khi còn phải ăn
cơm nhà vác tù và hàng tổng. Lúc lên sân khấu
thì hào nhoáng bóng lộn, nhưng khi về nhà thì
cũng vẫn chịu khó chui vô bếp vét tí cơm nguội
dằn lòng.

Còn ở nước ngoài, có những cô người mẫu, mà


một buổi trình diễn luợn ra lượn vào, đi tới đi lui
MỤC LỤC

dăm bảy lần là đã kiếm được một khoản tiền


khổng lồ mà anh chàng nông dân chất phác khố
rách áo ôm, quần quật đổ mồ hôi sôi nước mắt
trên ruộng đồng suốt một đời cũng chả dám tơ
tưởng đến.

Vậy thời trang, mốt miếc là đí gì ?

Nếu định nghĩa một cách nghiêm chỉnh, nói có


sách mách có chứng, thì theo ‘’Việt Nam tự
điển’’ của Lê văn Đức :

- Thời trang là cách ăn mặc, trang điểm theo


thời.
Còn mốt miếc, xuất phát từ tiếng tây, có
nghĩa là :
- Kiểu cọ này kia.

Và như trên đã nói :


- Có những kiểu cọ thật kinh dị và quái đản,
người ta khoác vào để lên sân khấu biểu diễn,
chứ đố chị nào đủ can đảm mặc vô trong đời
thường của mình.
Suy gẫm về hiện tượng thời trang, gã thấy nó
chỉ là một cái vòng lẩn quẩn, đi từ thái cực này
đến thái cực kia. Gã xin đưa ra một vài thí dụ.
MỤC LỤC

Trước hết là thái cực từ cao đến thấp rồi từ thấp


đến cao, mà tiêu biểu là chiếc áo dài Việt Nam.

Thời gã còn để chỏm, thì các bậc đàn chị mặc


áo dài có cái cổ cao cả tấc, cái vạt thì dài chấm
đất, còn cái eo thì phải thắt như eo con ong.

Cùng với thời gian, cái cổ cứù ngắn dần để rồi


không còn nữa, thậm chí đã được khoát sâu đến
tận ngực, đi tiền phong cho chiếc áo dài hở cổ
này hình như là bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của ông
cố vấn Ngô đình Nhu.

Còn tà áo thì cứ vén lên, vén lên mãi, thậm chí


trên cả đầu gối và người ta gọi đó là mốt áo dài
mini.

Thế nhưng bây giờ, trải qua một cuộc bể dâu với
mấy chục năm biến hóa theo kiểu thanh hải biến
vi tang điền rồi tang điền biến vi thanh hải, có
nghĩa là biển xanh biến thành ruộng dâu rồi
ruộng dâu biến thành biển xanh, chiếc áo dài
dường như lại muốn trở về điểm khởi hành của
nó.
MỤC LỤC

Tiếp đến là thái cực dài và ngắn mà tiêu biểu là


cái váy.

Đừng tưởng rằng cái váy là y phục đặc thù của


Phương Tây dành cho liền bà, và đôi khi cũng
dành cho cả liền ông nữa. Cụ thể là các chàng
trai Tô cách lan vẫn khoái mặc váy cho thêm
phần mát mẻ.

Có thể nói về cái khoản này, người Việt Nam


chúng ta đã đi trước một bước. Bởi vì các cụ bà
ngày xưa cũng đã từng mặc váy, thế nên mới có
câu đố :

- Cái thúng mà thủng hai đầu,


Bên ta thì có, bên Tàu thì không.

Thế nhưng cái váy đã bị đào thải nơi những cụ


bà từ lâu, để rồi bây nó lại được tái xuất giang
hồ nơi những cô gái trẻ với một phong cánh
mới, phong cách của Âu Mỹ !
Ngày xưa ở bên Tây, các cô gái nhà lành, đoan
trang và đứng đắn, chiếc váy phải dài quét đất,
thậm chí người ta còn đặt vào phía trong cả một
cái khung cho nó được phồng to.
MỤC LỤC

Rồi chiếc váy cứ được cắt ngắn dần, tới bắp


chân, tới đầu gối, rồi trên cả đầu gối cho đến
chỗ không thể cắt được nữa, và người ta gọi đó
là cái “mini jupe”.

Khi mini không còn hợp thời, người ta lại bắt đầu
thả xuống, thả xuống cho tới quét đất và người
ta gọi đó là cái váy maxi.

Từ maxi tới mini, rồi từ mini tới maxi, chỉ là vấn


đề thời gian và sáng kiến của các tạo mốt để hốt
tiền liền bà con gái !

Sau cùng là thái cực dày và mỏng.

Ngày xưa các cụ ta thường bảo :


- Ăn chắc mặc bền.

Mà muốn bền thì phải dày. Thế nhưng dưới ảnh


hưởng của thời trang, vải cứ mỏng dần mỏng
dần, thậm chí còn siêu mỏng và trong suốt,
khiến cho người mặc và kẻ nhìn người mặc đều
chia sẻ chung cùng một cảm giác là có cũng
như không !

Rồi từ siêu mỏng người ta tìm về với những thứ


MỤC LỤC

dày. Chẳng hạn áo lông thú. Đây là một kiểu cọ


đắt tiền và đang bị lên án. Bởi vì để có một cái
áo lông chồn, người ta phải giết chết bao nhiêu
con chồn thì mới đủ.

Nữ tài tử Brigitte Bardot, trong tuổi xế chiều, với


lòng yêu thương và bảo vệ súc vật đã từng lên
tiếng chỉ trích. Và cách đây mấy năm, người ta
đã xuống đường ở bên Nhật để phản đối những
kẻ mặc áo lông thú.

Chả hiểu ông Thánh Gioan tiền hô, nếu sống


vào thời buổi hôm nay, thì sẽ nghĩ thế nào, bởi
vì Phúc Âm đã nghi lại :

- Trong hoang địa, ông mặc áo lông lạc đà, thắt


lưng bằng giây da thú, ăn châu chấu với mật
ong rừng !
Tiếp tục suy gẫm, gã thấy hiện tượng thời trang
xuất hiện rất sớm trên mặt đất này.
Sách Sáng Thế Ký kể lại rằng :

- Sau khi phạm tội, tức khắc Adong và Evà nhận


thấy mình trần truồng, nên lấy lá vả kết lại mà
che thân.
MỤC LỤC

Phải chăng đó là cái mốt đầu tiên của con


người.

Tiếp đến, sau khi tuyên phạt Adong Evà, Thiên


Chúa đã làm cho mỗi người một chiếc áo bằng
da.

Phải chăng đó là cái mốt thứ hai do chính Thiên


Chúa đã thiết kế.

Cùng với khí hậu khắc nghiệt, con người đã phải


chế tạo ra những thứ quần áo khác để giữ lại sự
ấm áp cho cơ thể.

Thế là chúng ta thấy rõ được mục đích của áo


quần ngay từ thuở ban đầu. Đó là che để khỏi
hở và mặc để khỏi lạnh… Đúng như các cụ ta
ngày xưa đã bảo :

- Ăn no mặc ấm.
Tuy nhiên, cuộc sống vẫn cứ liên tục phát triển.
Từ kiếp du mục nay đây mai đó, con người bắt
đầu định cạnh định cư, xây dựng và phát triển
nông nghiệp, rồi công nghiệp và kỹ nghệ.

Vật chất và tiền bạc càng được thu nhập nhiều,


MỤC LỤC

thì cuộc sống được càng nâng cao. Và từ một


cuộc sống được nâng cao, người ta không còn
cần phải ăn no mặc ấm nữa, mà bèn nghĩ ngay
đến chuyện ăn ngon mặc đẹp.

Và thế là như nấm mọc ào ào sau cơn mưa, thời


trang đua nhau ra lò, các thứ mẫu mã cứ thay
nhau xuất hiện, liên tu bất tận đến cả quỉ thần
cũng không lường nổi.
Đồng thời, các mục đích thuở ban đầu cũng dần
bị chìm vào quên lãng.

Thực vậy, ngày xưa vì hở nên mới phải che, còn


bây giờ nghệ thuật của thời trang dường như là
che để mà hở.

Thực vậy, đã có những bộ quần áo cực kỳ khiêu


khích. Khiêu khích ví quá mỏng và quá xẻ. Khiêu
khích vì quá ngắn và quá nghèo, để rồi che đấy
màø vẫn hở đấy và hở một cách cố ý.

Ngày xưa vì lạnh nên mới phải mặc, còn bây giờ
dù trời có lạnh, người ta vẫn chịu khó mặc
phong phanh.

Gã còn nhớ hồi ở trên Đà Lạt, thời gian lạnh


MỤC LỤC

nhất là vào khoảng từ lễ Giáng Sinh cho đến Tết


Nguyên đán, trời rét căm căm, thế mà quí
“nường” vẫn cứ anh dũng chơi váy ngắn, đóng
mini jupe mà thênh thang, dung dăng dung dẻ,
dắt nhau qua lại bên bờ hồ bởi vì lúc bấy giờ
mốt mini đang ở vào thời hoàng kim của nó.

Trong những năm gần đây, tại Việt Nam các bà


các cô rất ưa mốt quần đùi, hay đúng hơn là
quần “xẩng lẩng”, một thứ quần-dài quá-ngắn,
hay một thứ quần-đùi-quá-dài, bởi vì nó lửng lơ
ở khoảng đầu gối.

Từ già đến trẻ, từ bé tới lớn, từ thành thị đến


nông thôn, quí cô quí bà, kể cả những bà ở lứa
tuổi “chiều tà bóng ngả về tây”, gần đất xa trời,
hay gần trời xa đất nếu nói theo kiểu đức tin của
con nhà có đạo, cũng đều thích vận thứ quần
này, chỉ tội nghiệp cho những cặp giò vừa to lại
vừa đen.

Dù thế nào chăng nữa thì người vẫn là một con


vật biết may mặc. Chẳng hiểu phát biểu như thế
có phảng phất hơi hướm một thứ triếy lý rẻ tiền
và lẩm cẩm quá hay không ?
MỤC LỤC

Để kết luận tôi xin đưa ra hai quan điểm khác


biệt nhau về áo quần.
Bên đông phương thì nói :

- Y phục xứng kỳ đức.


Có nghĩa là cách ăn mặc phải xứng hợp với đức
hạnh. Người thế nào thì phải ăn mặc thế ấy.
Đồng thời, qua cách ăn mặc, thiên hạ sẽ nhận ra
và đánh giá được con người chúng ta.

Còn bên Tây phương thì bảo :


- L’ habit ne fait pas le moine.

Có nghĩa là chiếc áo không làm nên thầy tu. Áo


quần chỉ là chuyện nhỏ, không làm nên nhân
cách của một con người.

Vì thế, quần áo cũng như xiêm y bên Tây


phương có phần thông thoáng, tươi mát và
“nghèo nàn” hơn.

Xuất phát từ hai quan niệm trên, mà thời trang


mỗi nơi đều có những khác biệt, những đặc tính
riêng.

Tuy nhiên, với nền văn minh tin học hiện nay,
MỤC LỤC

cái gì bên tây vừa mới có thì lập tức bên ta cũng
có, bằng cách cóp pi mà chẳng phải trả một
đồng xu cắc bạc nào cho quyền lợi của tác giả.

Và rồi thời trang được pha trộn, nửa đông nửa


tây, nửa nạc nửa mỡ, hay nói một cách khác,
thì “đầu anamít, đít phăng xe”.

Thực vậy, gã đã từng nhìn thấy có những chiếc


áo, nửa trên là áo dài Việt nam, còn nửa dưới lại
là chiếc váy của dân tây phương, hay ngược lại,
nửa trên là áo dạ hội của dân tây phương, còn
nửa dưới lại xẻ tà theo áo dài Việt Nam.

Có một anh chàng lính Mỹ được gửi đi oánh


nhau tại Việt Nam. Anh ta rất thích chiếc áo dài,
nhất là khi chiếc áo dài này được những cô gái
Việt Nam mặc vào thì thật là tuyệt vời : vừa dịu
dàng lại vừa kín đáo.

Vì thế, anh ta bèn tới một cửa tiệm nổi tiếng tại
Saigon, đặt may một chiếc áo dài theo đúng kích
thước và vóc dáng của chị vợ, rồi gửi về quê
nhà làm quà tặng, nhân ngày sinh nhật của chị
vợ.
MỤC LỤC

Chị vợ hớn hở mặc thử, nhưng lại chẳng dám


thò mặt ra ngoài đường để chiềng làng, khoe
khoang với bà con lối xóm.
Ban tối, chị ngồi tâm sự và viết cho anh :

- Chiếc áo anh tặêng, em mặc vào đẹp ơi là đẹp,


nhưng sao mà nó…khêu gợi quá, ”sexy” quá,
còn hơn cả xường xám Hồng kông xẻ ngược lên
tới tận… Chẳng hiều những cô gái bên đó có
dám mặc để đi bát phố không đấy. Nếu có thì
quả là thiên hạ tha hồ mà rửa mắt.

Anh chàng lính Mỹ không hiểu chị vợ muốn nói


gì. Sau cả tiếng đồng hồ suy nghĩ, anh ta mới vỗ
đùi đánh đét một cái rồi nhủ thầm :

- Chết cha tôi rồi. Đúng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi
đàng.
Té ra anh chàng lính Mỹ này gửi áo dài về cho
chị vợ mà quên béng đi mất chiếc….quần dài.
Thế mới rách việc.

Còn bạn, nhất là phe kẹp tóc, bạn nghĩ gì về


trời trang cũng như mốt miếc ?
MỤC LỤC

Và nhất là bạn sẽ may sắm cho mình như thế


nào ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CẦN KIỆM VÀ LÃNG PHÍ

Muốn phát triển, phải cần kiệm, đó là qui luật


của muôn đời. Nhìn ra thế giới, gã nhận thấy
thiên hạ đã sống qui luật này một cách rất y là
nghiêm ngặt và chặt chẽ.

Thực vậy, ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học,


người ta đã dạy cho con nít biết :
- Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu,
còn muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một
đồng.

Thảo nào mà nước Mỹ luôn đứng đầu sổ trong


lãnh vực phát triển kinh tế.
Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người
ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương
châm :

- Mua gì ăn nấy.

Đồng thời :

- Ăn đâu hết nấy.

Chứ không để thừa mứa, cho heo và cho chó


MỤC LỤC

vét cù, hay xơi tới xơi lui mà vẫn cứ còn tồn…
kho.

Người ta chẳng bao giờ chiều theo ý thích của


con nít, đòi gì được nấy, vì đó chỉ là một cách
thương hại, nghĩa là thương trẻ, nhưng lại làm
hại trẻ nhiều hơn.

Thảo nào mà dân Phù tang, con cháu Thiên


hoàng, đã trở thành một cường quốc giàu mạnh
nhất tại Á châu, làm cho nhiều nước phương
Tây cứ đứng nhìn mà phát…thèm.
Ở bên Israel cũng rứa. Vào các nhà hàng, khách
sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để
dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những
khẩu hiệu đại khái :

- Hãy tiết kiệm điện. Hãy tiết kiệm nước…

Còn tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói


lề mề, người ta trừ phắt vào lương cho những ai
đến làm việc chậm trễ.

Thảo nào mà dân Do thái, mới lục đục kéo nhau


về lập quốc từ năm 1945, sau thế giới đại chiến
lần thứ hai, thế mà ngày nay đất nước này đã
MỤC LỤC

trở nên giàu có và phát triển, thậm chí thu nhập


bình quân đầu người lên tới 17.000 mỹ kim một
năm, khiến những người Việt nam, khố rách áo
ôm như gã, sông trên quê hương yêu dấu và
thân thương này, có nằm mơ cũng chẳng thấy
được như vậy.

Đã nói chuyện bên Tây, thì cũng phải nói chuyện


bên Tàu, một anh hàng xóm khổng lồ nằm sát
cạnh chúng ta.

Hoàn cảnh kinh tế không khá hơn chúng ta bao


nhiêu. Thế nhưng, trong những năm tháng gần
đây, đã vươn mình để trở thành giàu mạnh.
Hàng hóa Trung quốc tràn ngập thị trường, dù
không bền lắm, nhưng được cái giá rẻ bèo, hợp
với túi tiền của bàn dân thiên hạ.

Tại đây, người ta đang ra sức tiết kiệm, chống


lãng phí và tham nhũng.

Tác giả Nguyễn văn Hùng, trong một chuyến đi


công tác, đã “mục kích sở thị” thái độ và những
việc làm tiết kiệm của người Tàu, đã kể lại như
sau :
MỤC LỤC

“Trong thời gian làm việc tại thành phố Nam


ninh, thủ phủ của tỉnh Quảng tây, chúng tôi
được ông Trương Sinh, tổng giám đốc một công
ty lớn của tỉnh này, hai lần mời cơm tại nhà
hàng. Tôi đặc biệt để ý đến những cử chỉ khá là
lạ của vị chủ nhà.

“Đó là sau mỗi bữa tiệc, ông tổng giám đốc này
đều trút toàn bộ thức ăn thừa vào các bao ny
lông để mang về trước những con mắt ngỡ
ngàng của quí khách. Nhận thấy những ánh nắt
khang khác ấy, ông Sinh vui vẻ giải thích :

- Cũng như Việt nam,Trung quốc còn nghèo,


nên đặc biệt coi trọng yêu cầu tiết kiệm, ngay từ
việc nhỏ nhất. Ở Trung quốc, tiết kiệm thực sự
là quốc sách.

“Đất nước Trung quốc rộng lớn nên xây dựng và


phát triển được là nhờ biết tiết kiệm, và tôi để ý
thấy trong cái nhà hàng sang trọng này, chẳng
riêng gì ông Sinh, mà còn có rất nhiều thực
khách cũng làm như thế…”

Thấy người mà nhớ tới ta. Nhìn người mà gẫm


đến thân. Té ra quí vị Tây Tàu Nhật trên đây
MỤC LỤC

cũng chả làm được điều gì mới mẻ và khác lạ


với những điều cha ông chúng ta đã từng dạy
bảo.

Thực vậy, từ ngàn xưa cần kiệm vốn là một nét


đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, bởi vì
các cụ ta đã phán :

- Tiểu phú do cần, đại phú do mưu. Có nghĩa là


giàu nhỏ thì phải cần kiệm, còn giàu lớn thì phải
mưu trí.
Đồng thời, các cụ ta còn căn dặn con cháu :
- Được mùa chớ phụ ngô khoai,
Đến khi thất bát, lấy ai bạn cùng.
Ngoài ra, các cụ luôn chú trọng và hô hào mọi
người :

- Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn. Có nghĩa


là hãy tích lũy lúa thóc phòng khi đói kém, hãy
tích lũy áo quần phòng khi lạnh giá.

Viết đến câu này, gã bỗng nhớ tới câu chuyện


ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên về nàng ve và chị
kiến, đã được Nguyễn văn Vĩnh dịch thành thơ,
mà gã chỉ còn nhớ lõm bõ, đại khái như thế
này :
MỤC LỤC

- Ve sầu kê ve ve.
Ca hát suốt mùa hè,
Đến khi gió bấc thổi,
Nguồn cơn thật bối rối.

Đang khi đó, chị kiến cần cù tích lũy lương thực
trong kho, nên chẳng sợ gì mưa to và gió lớn.

Thế nhưng, ngày nay lớp hậu sinh chúng ta,


thay vì khả úy, thì nhiều lúc lại khả ố, nghĩa là
đáng lẽ lớp đàn em đến sau phải tốt hơn thì lại
xấu hơn lớp đàn anh đi trước.
Sở dĩ như vậy vì nhiều người trong chúng ta
đang sống theo khẩu hiệu :

- Bóc ngắn cắn dài.


Chúng ta làm ra được một đồng nhưng lại tiêu
xài những hai đồng, nên công nợ cứ chồng chất
và liên tục phát triển, khiến chúng ta không tài
nào ngóc đầu lên nổi.
Chúng ta thích chơi trội theo kiểu :
- Vung tay quá trán.

Hay :
- Con nhà lính, tính nhà quan.
MỤC LỤC

Chúng ta đã xài thì phải xài cho sộp, xài cho xịn,
xài cho sang. Mà sộp xịn sang chính là con
đường ngắn nhất để rơi tõm vào cảnh lãng phí.

Và lãng phí cũng chính là con đường ngắn nhất


làm nghèo gia đình và đất nước.
Dĩ nhiên ở đây, gã không hể cổ võ cho tính hà
tiện keo kiệt, theo kiểu :
-Vắt cù chày ra nước.
Hay :
- Đãi cứt sáo lấy hạt đa.

Bởi vì từ lâu lắm rồi, gã vẫn nhớ lời khuyên chí


lý của một bậc đáng kính :
- Con ơi, đối với những chuyện cần thiết và hữu
ích thì tiền vạn, tiền triệu con cũng đừng tiếc xót.
Còn đối với với những chuyện lãng phí, thì một
đồng một cắc cũng không, con nhé.

Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm đình
Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí
điển hình.

Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được


thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau : thất
nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được
MỤC LỤC

đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài
không được trọng dụng, chảy máu chất xám…

Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của
dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí
hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm
liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.

Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập


quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất,
nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon
nhất.

Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta


thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”,
“tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.

Chắc chắn lúc đó ít ai nghĩ đến một điều sơ


đẳng sau đây :
- Mỗi lon bia bình quân trị giá 5 ký thóc. Ấy thế
mà người nông dân “một nắng hai sương “ ở
đồng bằng sông Hồng, giỏi lắm một ngày cũng
chỉ làm ra được số thóc tương đương trị giá của
một lon bia!

Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao


MỤC LỤC

nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân
cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố
xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.

Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những


chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện
thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà
nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài
mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa
ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất
xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới,
năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách
giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán
ký.

Tác giả viết :


“Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom
giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã
cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy
mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học.
“Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới
này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con
tôi, nhưng chúng lại bảo :
- Không phải loại sách của trường con.
(Dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa
MỤC LỤC

thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới


cách đó một hai năm mà thôi!!!

“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi
vẫn xài sách lớp 7 của ảnh để lại. Và khi tôi lên
lớp 12, tôi vẫn xài sách ảnh đã xài mà không có
trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui
mừng khỏe re…Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và
đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập
niên 60, 70.

“Tôi đã qua cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn


sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần
nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học
cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký
sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành
cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho
học sinh, phụ huynh đất nước ?

“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một


môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ
sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi
quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên
mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng
phí không ?
MỤC LỤC

“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than


thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh
đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về
vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp
cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách
giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi
ngùi”.

Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có


chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân,
gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí
khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng
mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình
mà thôi, đó là lãng phí thời gian.

Người Tây thì bảo :


- Le temps, c’ est l’ argent. Thời giờ là bạc.

Còn người Tàu thì nói :


- Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc
thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức
được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó
một cách lãng xẹt.

Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng
MỤC LỤC

chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán


cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng
có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân
ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh
niên ngồi thiền ở trong những quán ấy.

Đáng lẽ ra :
- Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.
Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả,
ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị
đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim
thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người
cõi trên chi đó.

Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài


hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí.
Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố
quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là
chuyện thường ngày ở huyện.

Gã có một người bạn. Tên người bạn ấy là Văn.


Vì có tí tuổi, nên gã thường gọi người bạn ấy là
‘’cụ Văn’’.

Cụ Văn của gã là người rất năng nổ, rất bận rộn.


Công việc hàng trăm thứ bà giằng đè xuống trên
MỤC LỤC

đôi vai ọp ẹp của cụ ấy, đến nỗi có lần cụ ấy đã


phải tâm sự ‘’mí’’ gã :
- Giá như Đức Chúa Trời cho phép mình đi xin
thời giờ của những kẻ nhàn rỗi, cất vào tủ lạnh
để rồi lúc nào cần thì lôi ra xài chơi. Nhưng Đức
Chúa Trời cũng công bằng vô cùng, mỗi ngày
chỉ có 24 tiếng đồng hồ, muốn kéo dài thêm
cũng chẳng được.
Trước nỗi búc xúc của cụ ấy, gã chỉ biết cười
ruồi mà an ủi :

- Ôi dào, đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày


là cái chắc và việc nhà Đức Chúa Trời thì có bao
giờ mà thiếu. Nhưng Đức Chúa Trời lại rất lòng
lành. Ngài đâu có đòi chúng ta phải làm ông ba
bị, sáu tay mười hai con mắt để ôm mọi thứ vào
mình. Thôi mờ, thư giãn đi một tí cho đời còn
thấy màu hồng.

Chả biết lời phát biểu của gã có bị kết án là lãng


phí thời gian hay không và nhất là có xúc phạm
đến nhiệt tình hăng say của cụ ấy hay không thì
để gã hỏi lại cụ ấy cái đã. Vậy xin hạ hồi phân
giải.

Riêng bản thân thì một ngày gã đã tiêu xài biết


MỤC LỤC

bao nhiêu phút giây cho việc ăn uống, ngủ nghỉ,


giải trí… Còn thời giờ làm việc một cách nghiêm
văn chỉnh thì chỉ được tẻo tẹo mà thôi. Không
hiểu mai này khi tính sổ cuộc đời với Đức Chúa
Trời thì sẽ phải nói sao đây ?

Ai có kế gì hay thì làm ơn làm phước ‘’méc’’


giùm cho gã biết với nhé. Bảo đảm sẽ hậu tạ.

Còn bây giờ, gã sẽ đưa ra bản thống kê rất khoa


học của một kẻ thích đùa tại Đại học Tổng hợp
Milan để tất cả cùng cười… mí nhau.

Bản thống kê về các thành phần dân số nước Ý,


trong đó có một kết luận rất độc đáo về số người
thực sự lao động ở nước này. Dưới đây là
nguyên văn bản thống kê :

Tổng số dân trên toàn nước Ý là 52.000.000


người.
Trừ đi số người trên 65 tuổi là 11.750.000
người, còn lại số người có thể lao động là
40.250.000 người.
Trừ đi số người dưới 18 tuổi là 14.120.000
người, còn lại số người có thể lao động là
26.130.000 người.
MỤC LỤC

Trừ đi số phụ nữ không đi làm là 17.315.000


người, còn lại số người có thể lao động là
8.815.000 người.
Trừ đi số sinh viên phải nuôi học là 275.000
người, còn lại số người có thể lao động là
8.540.000 người.
Trừ đi số người làm ở các cơ quan không sản
xuất là 3.830.000 người, còn lại số người có thể
sản xuất là : 4.710.000 người.
Trừ đi số người thất nghiệp, cùng với số người
hoạt động đảng phái chính trị là1.380.000 người,
còn lại số người có thể lao động là 3.330.000
người.
Trừ đi số quân nhân tại ngũ là 780.000 người,
còn lại số người có thể lao động là 2.550.000
người.
Trừ đi số người đau ốm, tâm thần, lưu manh,
chào hàng, vô công rồi nghề là 1.310.000 người,
còn lại số người có thể lao động là 1.240.000
người.
Trừ đi số người mù chữ, nghệ sĩ, tòa án… là
880.000 người, còn lại số người có thể lao động
là 360.000 người.
Trừ đi số tu sĩ, triết gia, thày bói là 240.000
người.
Trừ đi số nghệ sĩ, tù nhân là 119.000 người.
MỤC LỤC

Vậy số người thực sự lao động còn lại tại nước


Ý là 1 người.

Khẩu phục tâm phục, gã xin chào thua và tôn tác


giả bản thống kê này lên hàng sư phụ.

Còn bạn, bạn nghĩ sao ? Liệu có lãng phí lắm


không ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

Theo “Việt Nam tự điển” của Lê văn Đức thì cò


được định nghĩa là một loại chim cẳng cao, mỏ
dài, mình thon, đuôi nhọn, ăn cá, bình thường
lông màu trắng, nhưng cũng có loại lông màu
xám như cò hương, hay lông màu đỏ như cò
lửa…

Khi tìm hiểu về ca dao, gã thấy hình ảnh con cò


là một hình ảnh quen thuộc và thân thương nhất
của người bình dân.

Thực vậy, vãi mồ hôi trên đồng ruộng, người


nông dân có con trâu làm bạn để giúp đỡ họ.
Thế nhưng trâu thì nặng nề, chậm chạp và suốt
đời vất vả.

Vì vậy, để đầu óc được thư giãn, thảnh thơi và


bay bổng, người nông dân đã mượn hình ảnh
con cò, một hình ảnh vừa thơ mộng lại vừa đẹp
đẽ để nói lên những ước mơ và những hiện
thực của đời mình.

Như người nông dân, con cò cũng đã phải vất


vả kiếm sống :
MỤC LỤC

- Lặn lội thân cò khi quãng vắng,


Eo xèo mặt nước buổi đò đông,
Như người nông dân, con cò đã chết đi trong cô
đơn nghèo túng :
- Cái cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngay làm ma.
- Cái cò chết tối hôm qua,
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền,
Một đồng mua trống mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong
Một đồng mua mớ rau rong
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

Như người nông dân, con cò cũng đã phải chịu


nhiều cảnh oan ức vì thấp cổ bé miệng :
- Cái cò cái vạc cái nông,
Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò,
Không không tôi đứng trên bờ,
Mẹ con cái vạc đổ thừa cho tôi,
Chẳng tin ông đến tận nơi,
Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia.

Như người nông dân, con cò cũng đã chia sẻ số


phận cay đắng của đất nước :
- Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống gềnh bấy nay.
MỤC LỤC

Và đôi lúc cũng đã bị đàn áp dã man :


- Con cò mà đậu cành tre,
Thằng Tây bắn súng cò què một chân,
Đến mai ra chợ Đồng xuân,
Chú khách mới hỏi sao chân cò què,
Cò rằng cò đứng bờ tre,
Thằng Tây bắn súng cò què một chân.

Như người nông dân, con cò cũng có những


giây phút mộng mơ và nhung nhớ :
- Một đàn cò trắng bay quanh,
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta,
Mình nhớ ta như cà với muối,
Ta nhớ mình như cuội với trăng.

Như người nông dân, con cò dù có phải chết


vẫn cố gắng giữ lấy sự trong trắng của mình :
- Con cò mày đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm luôn cổ xuống ao,
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng,
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Dĩ nhiên con cò không phải chỉ là hình ảnh


tượng trưng cho người nông dân, mà hơn thế
MỤC LỤC

nữa, nó còn được sử dụng trong nhiều trường


hợp khác nhau.
Nào là hình ảnh của một em bé mồ côi :
- Cái cò là cái cò vàng,
Mẹ đi đắp đàng con ở với ai,
Con ở với bà, bà không có vú,
Con ở với chú, chú là đàn ông.
Nào là hình ảnh của một cô gái được muông
chiều :
- Cái cò là cái cò con
Mẹ nó yêu nó, nó càng làm thơ.
- Cái cò là cái cò kỳ,
Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô,
Đêm nằm thì gáy o o,
Chửa ra đến chợ đã lo ăn quà.
- Cái cò bay bổng bay lơ,
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng.
- Cái cò lặn lội bờ ao,
Phất phơ hai giải yếm đào gió bay.

Và nhất là hình ảnh người vợ Việt Nam tần tảo,


chắt chiu nuôi chồng, nuôi con :
- Cài cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng hãy trở lại cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao bằng.
MỤC LỤC

Hình ảnh con cò trong ca dao, trong văn chương


bình dân thật là phong phú, gã có thể kê đơn
hoàn tán nhiều nhiều nữa.

Còn trong đời thường, con cò cũng không kém


phần đa dạng. Này nhé, cò là nhảy một chân.
Cò là thanh tre mỏng dùng để điểm công gánh,
công vác bằng cách bẻ từng đoạn ngắn, vì thế
mới gọi là bẻ cò. Cò là một bộ phận của cây
súng, khi bấm nó mổ vào viên đạn và làm cho
đạn nổ, vì thế mới nói là bóp cò. Cò là tem để
dán vào thư. Có cò thì bưu điện mới chuyển,
bằng không thì cũng vẫn chuyển nhưng người
nhận sẽ bị phạt.

Riêng trong phạm vi con người, cò cũng rất ư là


nhiêu khê. Trước hết, hồi còn bé, gã không hiểu
tại sao ở làng gã, thiên hạ thường gọi những
đứa con trai thuộc vào hàng suy dinh dưỡng
là…thằng cò. Chắc hẳn chỉ vì thân hình của
chúng còm cõi, mảnh mai như một bộ xương
cách trí, khẳng khiu như cánh cò trên ruộng
đồng.

Rồi cò còn là một tiếng chửi nhẹ nhàng của bọn


MỤC LỤC

con nít. Vì thế, khi bực bội, tức tối, chúng liền
không ngần ngại cho nhau ăn…cò.

Dưới thời Pháp thuộc, gã thấy xuất hiện một vài


loại cò đặc biệt.

Thực vậy, cò là sửa bài trong nhà in. Bài viết


được xếp chữ và in thử. Khi bản in đầu tiên mới
ra lò, thì lập tức được chuyển đến thày cò, để
anh ta đọc và ghi chú những chỗ sai hay chưa
vừa ý, cần phải đổi thay. Chữ cò này xuất phát
từ chữ “corriger” nghĩa là sửa, chữa. Còn
“correcteur” nghĩa là thày cò, người sửa bài,
người chữa bài.
Tiếp đến, cò còn chỉ viên cảnh sát trưởng nói
riêng, hay mấy thày cảnh sát nói chung. Chữ cò
nay xuất phát từ chữ “commissaire” nghĩa là ông
cò. Còn “phú lít” xuất phát từ chữ “police” cũng
có nghĩa là cảnh sát.

Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam đang có một


nghề mới phất lên như diều gặp gió mà gã xin
đề cập đến, đó là nghề…cò.

Theo báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, chữ cò này xuất


phát từ chữ “commission” nghĩa là tiền hoa
MỤC LỤC

hồng, tiền côm hay tiền cò.

Còn theo ngu ý của gã, cò nay có lẽ xuất phát từ


“cò mồi”, là loại cò được nuôi làm mồi để dụ khị
lũ cò hoang sa vào bẫy. Vì thế bọn cò mồi là bọn
giả bộ theo phe mình đề làm hại cho phe mình
và làm lợi cho phe chúng.

Nghề làm cò bây giờ đôi lúc thật tệ lậu và trắng


trợn, đã tạo nên không ít những cảnh dở mếu,
dở khóc và dở cười…

Nói một cách văn hoa thì đó là nghề làm môi


giới, làm trung gian, làm tiếp thị. Còn nói một
cách nôm na và bình dân thì đó là hạng mối lái,
dụ khị thiên hạ mua hàng hay cậy nhờ một công
việc nào đó. Họ chỉ cần dẻo mép, mánh khóe và
đôi khi cả áp lực nữa để kiếm lời cho mình. Họ
là những người trung gian, chuyên bán nước bọt
để chấm mút tí tiền còm.
Nếu ai đã từng sống ở Châu đốc, hẳn phải biết
từ sau tết nguyên đán, thiên hạ đã chuẩn bị cho
ngày lễ hội Bà Chúa xứ tại núi Sam, vốn được
gọi là Vía Bà.

Trong những ngày lễ hội này, hiện nay ở đây hội


MỤC LỤC

tụ đủ mặt mọi hạng cò mà báo “Công an” đã


phải gọi là “làng cò Núi Sam” . Thôi thì thượng
vàng hạ cám, hầm bà lằng xắng cấu. Đủ loại cò.
Đủ thứ cò.

Này nhé, khi khách vừa chân ướt chân ráo đến
nơi thì đã có ngay một lực lượng cò dành dật
khách tới nhà trọ này, tới khách sạn nọ.

Bước vào lễ hội, khách là thiện nam tín nữ,


muốn biểu lộ tấm lòng thành của mình đối với
Bà, thì liền có ngay một đội ngũ cò đông đảo để
phục vụ cho nhu cầu lễ bái và cúng kếng.

Nào là “cò heo quay” với khoảng ba chục tên


chuyên nghiệp, rất giỏi việc khua môi múa mỏ,
gian lận trong giá cả và trong cân đo, sẵn sàng
nhét đầy tiết heo, tiết bò trong bụng heo quay để
cân cho nặêng, vì thế mà hạng cò này ăn nên
làm ra một cách mau chóng.

Nào là “cò nhang đèn”, thay vì thắp một nén


nhang để tỏ lòng tôn kính, người ta đã lạm phát
nhang, để rồi nhang đã trở thành một dụng cụ
để…hun Bà. Suốt ngay khói tỏa nghi ngút thì
làm sao mà chịu nổi.
MỤC LỤC

Nào là “cò phóng sinh” mối lái để khách mua


chim rồi thả ra để cầu mong lộc Bà. Chim trong
lồng nhảy lên nhảy xuống, nên mặc sức đếm
gian theo kiểu năm mười mười lăm…Chim được
xổ lồng bay ra thì ít mà chim được đếm thì lại
nhiều.

Và khi khách buồn tình, muốn giải sầu thì lập tức
có ngay bọn “cò tệ nạn”, hay nói huỵch toẹt ra,
đó là cò…gái, cò mãi dâm. Quả là hết ý.

Báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” đã phải lên tiếng báo


động :
- Chưa bao giờ nghề cò lại phát triển bát nháo
như hiện nay.
Theo tác giả Nguyễn thị Oanh, thì ngày xưa có
“ông mai bà mối” nhưng họ chỉ ăn “đầu heo” thôi
vì mục đích giới thiệu này mang tính cách nhân
đạo. Chẳng hạn mách cho bệnh nhân được gặp
thày gặêp thuốc…Đẹp biết mấy những môi giới
vì hạnh phúc con người.

Còn bây giờ thì khác, hoạt động cò không xuất


phát từ nhu cầu của người “bị phục vụ” mà từ
động cơ ranh ma lợi dụng và khai thác họ.
MỤC LỤC

Chẳng hạn tiệm bán thịt nằm sát mặt đường,


khách có thể dừng xe để mua hay người bán
hàng có thể bước ra vài bước để giao hàng. Vậy
mà có tới hàng chục thanh niên vạm vỡ, la hét,
níu kéo làm người mua ngao ngán bực mình.
Con người bán, đã mất khách, lại phải nộp tiền
mãi lộ cho chúng mà chẳng dám ho he.

Đai loại gã có thể phân chia thành hai loại cò.

Trước hết là cò dịch vụ, làm trung gian mua bán


vật dụng như cò xe, cò nhà, cò đất, hay chạy
chọt giấy tờ với những thủ tục hành chánh rắc
rối, nhiêu khê tựa mê hồn trận như cò xuất
ngoại, cò hộ khẩu, cò sang nhượng…

Thế nhưng khi mắc míu, dính líu với hạng cò


này, chúng ta cần tỉnh táo và đề cao cảnh giác,
bởi vì rất nhiều mánh chỉ là mánh dổm, rất nhiều
cò chỉ là cò giả, nhận tiền rồi tung cánh bay cao,
khiến chúng ta tiền mất tật mang, công việc thì
cứ dậm chân tại chỗ, hết tháng này qua tháng
khác, chẳng đi đến đâu cả.

Tuy nhiên, đáng kinh tởm hơn cả phải là loại cò


MỤC LỤC

thứ hai này, đó là cò người, gã chỉ xin liệt kê một


vài loại chính điển hình mà thôi.

Chẳng hạn như cò tệ nạn, cò mãi dâm, cò…gái.


Một buổi tối bạn lang thang trên phố vắng hay tại
công viên, rất có thể bạn sẽ bị hỏi thẳng thừng
một cách sỗ sàng :

- Có mốn giải sầu không sư phụ ?


- Có cần em út không đại ca ?

Chẳng hạn như cò lấy chồng nước ngoài, nhất


là lấy mấy chú ba tàu xếnh xáng gốc Đài loan.
Hạng cò này len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm,
luồn lách tận vùng thôn quê hẻo lánh, gạ gẫm,
dụ dỗ, rót vào tai những cô gái và những bậc
phụ huynh những lời ngon ngọt, đường mật về
tiền bạc và hạnh phúc, để rồi mấy cô gái nhẹ dạ
ấy đã ca bài “cũng liều nhắm mắt đưa chân”,
cuối cùng phần đông đã phải ngậm đắng nuốt
cay một số phận nghiệt ngã, một kết thúc bẽ
bàng nơi đát khách quê người.

Chẳng hạn như cò con nuôi. Một cô gái chửa


hoang đang lo lắng sợ hãi thì vớ ngay được tên
cò loại này. Hắn không những trấn an mà còn
MỤC LỤC

đặt tiền cọc cho cái bầu nữa.


Vậy là thay vì ăn năn hối cải, cô gái sẽ chai lì và
dám làm thêm một cái bầu nữa để kiếm tiền.
Như thế, cô gái không chỉ vi phạm luật pháp,
chà đạp nhân phẩm phụ nhữ và trẻ em, mà còn
tích cực góp phần làm băng hoại các giá trị đạo
đức.

Chẳng hạn như cò phá thai. Một cô gái lỡ mang


bầu, ngơ ngác và rụt rè tới cổng bệnh viện, lập
tức được mấy tay cò nạo thai xớp đi mau chóng
và nhiều cô đã bỏ mạng vì đến những chỗ phá
thai lậu, không bảo đảm về mặt vệ sinh và y
khoa.

Chắc chắn là còn nhiều loại cò khác nữa, nhưng


bằng đó mà thôi cũng đã đủ ngán ngẩm và nhức
nhối cho một xã hội đang nhích lên về mặt kinh
tế, nhưng lại đang tuột dốc về mặt đạo đức.

Biết làm sao vực lên bây giờ ?


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

MÈO

Thiên hạ thường bảo :

- Nhà báo nói láo ăn tiền.


Thế nhưng, ăn được tiền bằng nghề nói láo
không phải là chuyện dễ. Có anh nhà báo khi bài
của mình vừa mới được trình làng liền bị bà xã
chất vấn :

- Tôi nói cho anh hay : văn là người. Anh đã vắt


óc, moi ruột gan phèo phổi để viết nên bài ấy và
bài ấy đã phản ảnh đúng tim đen của anh và của
bọn đàn ông. Vậy cái con nhỏ trong bài ấy là
đứa nào ? Liệu cái thần hồn, anh mà léng phéng
với ai là…chít mí em đấy.

Không thiếu gì những anh nhà báo đã được ăn


đòn hội chợ hay được xơi kẹo đồng vì đã trót dại
chõ mõm vào các xếp lớn, hay lạng quạng đụng
vô phạm vi chính chị chính em.

Và rốt cuộc chẳng anh nhà báo nào làm giàu


hay phất lên nhờ cái nghề ngỗng này, bởi vì ở
Việt Nam nhà giáo và nhà báo thì chỉ có nước…
húp cháo mà thôi.
MỤC LỤC

Lắm lúc tiền nhuận bút đã tiêu béng đi từ hồi


nào, mà bài thì lại chưa viết, thế là đúng hẹn,
bèn phải ngồi vào bàn hì hục viết lách gọi là kéo
cày trả nợ, một cách văn hoa hơn là “tằm nhả
tơ”, nhưng thực chất chỉ là viết nhăng viết cuội.

Như gã lúc này, công việc cuối năm thật bề bộn


khiến đầu óc trống rỗng, mà hạn nộp bài cho số
tết đã tới gần, chẳng biết sẽ phải tán hươu tán
vượn về sự gì. Thôi đành phải theo truyền thống
vốn đã có từ lâu đời, năm mão thì phải nói láo
về…mèo đứt đuôi chứ còn gì.

Mão, miêu hay mèo đó là một loại thú nhỏ thuộc


giống ăn thịt, lông mềm, râu trắng, cứng và cử
đôäng được, vấu bén, mình nhẹ, leo giỏi và có
tài bắt chuột. Có lẽ chính nhờ tài bắt chuột mà
mèo được nhiều người, nhất là người nông dân
ưu ái muôi ở trong nhà.

Đối với lũ chuột thì mèo chính là đại vương sư


tử. Người tàu thì bảo :
- Sát nhất miêu, cứu vạn thử. Nghĩa là giết
được một con mèo thì cứu được vạn con chuột.
Còn người tây thì nói :
MỤC LỤC

- Absent le chat, les souris dansent. Nghĩa là


vắng mèo, chuột nhảy choi choi.

Hay :
- Mèo đi ra thì chuột vươn vai theo kiểu vắng
chủ nhà gà vộc niêu tôm.
Đã có lần gã quan sát khi chuột thấy mèo thì
hình như tứ chi bị tê liệt, co rúm và bất nhóc
nhách. Mặc dù mèo có làm ngơ, ngoảnh mặt đi,
thì chuột cũng không thể chạy thoát khỏi móng
vuốt của mèo.

Hồi còn bé, gã được học về một câu chuyện ngụ


ngôn mang tựa đề là “Hội đồng chuột”. Câu
chuyện ấy đại khái như thế này :

Họ hàng nhà chuột, sau một cuộc kiểm tra hộ


khẩu, thấy dân số bị sút giảm trầm trọng, khả dĩ
đi tới chỗ tuyệt chủng. Thế là họ hàng nhà chuột
bèn vội vã tổ chức đại hội bất thường, sớm hơn
định kỳ để tìm phương thế cứu vãn tình hình.

Trong cuộc đại hội này, vì sự sống còn của dòng


tộc, tất cả từ chuột già đến chuột trẻ, từ chuột
đực đến chuột cái, đều tích cực và hăng hái góp
ý kiến. Những ý kiến này được ghi nhận, bàn
MỤC LỤC

bạc và thảo luận.

Cuối cùng, ý kiến được coi là tuyệt vời nhất và


được toàn thể hội nghị vỗ tay tán đồng, đó là tìm
cách cột một chiếc chuông nhỏ vào cổ con mèo.
Hễ mèo đi tới đâu, chiếc chuông sẽ phát ra
những tiếng leng keng báo động để họ hàng nhà
chuột có đủ thời gian di tản chiến thuật, rút vào
những nơi bảo đảm và an toàn nhất. Mọi chuột
đều nhất trí và đồng ý với kế sách này.

Thế nhưng khi hỏi xem có ai sẵn sàng đăng ký


thực hiện, thì chẳng một chuột nào dám ghi tên.
Và thế là từ chuột già đến chuột trẻ, từ chuột
đực đến chuột cái, tất cả đều yên lặng rút lui có
trật tự. Thậm chí cho tới ngày hôm nay, mèo vẫn
còn là một tai họa to lớn cho dòng họ nhà chuột.

Câu chuyện này làm cho gã băn khoăn, bởi vì


trong đời thường, rất nhiều kẻ và ngay chính
bản thân gã cũng giống như loài chuột bởi vì
mình nói thì nhiều mà làm chẳng được bao
nhiêu. Nói thì đao to búa lớn, còn làm thì chỉ như
cây tăm. Thậm chí trăm voi chưa chắc đã được
một bát nước xáo.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tại Việt


Nam dòng họ nhà chuột khấp khởi mừng thầm,
bởi vì dân bợm nhậu Việt Nam và Trung Quốc
rất khoái món thịt mèo, được gọi theo thực đơn
nhà hàng là món “tiểu hổ”.

Những tay lái buôn lùng sục khắp hang cùng


ngõ hẻm để tìm mua mèo. Mèo mua về được
bán cho các nhà hàng, khách sạn và nhất là
được xuất khẩu sang Trung quốc. Thế là dòng
họ nhà chuột phát triển theo cấp số nhân.

Vì không còn mèo giám sát và canh chừng, nên


dòng họ nhà chuột tha hồ, mặc sức đục khoét
mọi kho lẫm. Và chuột bỗng trở thành một quốc
nạn làm cho chính phủ phải lo lắng và ra tay can
thiệp bằng cách trừng trị đích đáng những tay
lái…mèo.

Không hiểu thiên hạ chế biến món thịt mèo ra


sao. Chứ người dân quê, chỉ cần một mớ rau
má đem nấu hay xào với thịt mèo quả là tuyệt
vời. Nhất là ruột mèo vừa trắng lại vừa dòn quả
là hết xảy.

Từ cái tài bắt chuột, mà mèo bỗng được nhảy


MỤC LỤC

tót vào lãnh vực chính chị chính em.


Bởi vì nếu gã không lầm, thì một vị chính khách
cỡ bự, thuộc hàng đầu của Trung quốc, đó là
ông Đăng tiểu Bình, đã lấy mèo làm biểu tượng
cho đường lối và chính sách của mình khi tuyên
bố :

- Mèo trắng, mèo đen không hệ gì, miễn là bắt


chuột.
Phải chăng lời phán dạy này đã khai đường dẫn
lối cho chính sách mở cửa, tự do kinh doanh,
ngoại quốc đầu tư… miễn sao làm cho dân
được giàu và nước được mạnh ?

Được ưu ái nuôi ở trong nhà, nên mèo rất gần


gũi và thân thương với người bình dân, đồng
thời cũng đã đi vào nếp sống và kinh nghiệm đời
thường.
Thực vậy, mèo vốn là dấu chỉ của sự xui xẻo và
xúi quẩy :

- Mèo đến nhà thì khó,


Chó đến nhà thì sang.

Bởi đó mấy anh lơ thường không cho hành


khách mang mèo lên xe đò, kẻo gặp sự chẳng
MỤC LỤC

lành trong suốt cuộc hành trình của mình.

Rồi mỗi khi khen và tự khen về những thành


công và ưu điểm của mình, thì liền bị những kẻ
thối mồm kê ngay tủ đứng vào miệng, khi họ chu
mỏ nói với chúng ta :

- Rõ thật, mèo khen mèo dài đuôi.


Câu kê tủ đứng này còn nặng hơn cả câu :
- Mẹ hát con khen hay.

Hoặc câu :
- Lươn ngắn lại chê trạch dài,
Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.

Với tuổi đời chồng chất, chúng ta thu tích được


một mớ kinh nghiệm, thế nhưng nếu chúng ta lỡ
biến chúng thành những kinh nghiệm…sống
sượng bởi những ý đồ đen tối, thì chúng ta lập
tức trở nên giống mèo, bởi vì :

- Mèo già hóa cáo,


Cáo già hóa chằng tinh.

Liệu chúng ta đã trở nên “cáo già” hay “chằng


tinh” chưa ?
MỤC LỤC

Thỉnh thoảng một đôi khi trong cuộc sống,


chúng ta được vận may thăm viếng hay thần tài
gõ cửa vào giữa lúc nghiệt ngã nhất. Thiên hạ
không ngại liệt chúng ta vào hàng mèo, bởi vì
lúc bấy giờ mắt chúng ta sáng rực như “mèo
thấy mỡ” và thiên hạ sẽ không ngần ngại gọi
chúng ta là “mèo mù vớ cá rán” hay “ngủ gật gặp
chiếu manh”.
Và sau cùng, mèo hiền, mèo ngoan thường
được yêu thương, chẳng ai nỡ đánh tập nó, như
tục ngữ đã bảo :

- Mèo lành ai nỡ xách tai,


Gái hư chồng để khoe tài nỗi chi.

Trong đời thường, hình như mối liên hệ giữa


mèo và những người bạn sống quanh nó không
được tốt đẹp cho lắm.

Trước hết là mối liên hệ với chuột. Như chúng ta


đã thấy, hình như sự thù ghét chuột đã in sâu
vào bản tính của mèo. Vì thế, hễ gặp chuột là
mèo liền xơi tái, chẳng chút xót thương.

Còn họ hàng nhà chuột, vốn ý thức thân phận


MỤC LỤC

nhược tiểu và yếu kém của mình, nên theo sự


diễn tả của người bình dân, luôn tỏ ra biết điều
và lễ độ :

- Bốn con chuột đưa xác con mèo.


Tò te tò tò te te tò
Bốn con chuột đưa xác con mèo,
Tò te tò tò tí tí te.

Tiếp đến là mối liên hệ với chó. Mèo ghét chuột


thế nào, thì có lẽ chó cũng ghét mèo như thế,
nhất là mèo con. Nhà gã nhiều chuột, định nuôi
vài con mèo cho bớt sự phá phách. Thế nhưng
hễ xin được mèo con nào, nếu không canh giữ
cẩn thận, thì liền bị chó cắn chết.

Đang đêm mà nghe thấy mèo tru lên hai ba


tiếng, thì thế nào sáng hôm sau cũng thấy mèo
con phơi xác trên trận địa. Vì thế người Pháp đã
bảo :

- Vivre comme le chien et le chat. Nghĩa là yêu


nhau cũng thể như chó với mèo.

Tương tự như mối liên hệ mẹ chồng nàng dâu


vậy :
MỤC LỤC

- Thật thà như thể lái trâu,


Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng.

Tuy nhiên một đôi lúc chúng ta cũng thấy mèo


và chó sống chung hòa bình với nhau. Có
những tay săn ảnh tình cờ chộp được những
bức hình mèo ngủ yên trong vòng tay yêu
thương của chó.

Xét về những đặc tính của mèo, gã ghi nhận


mấy điều sau đây.

Trước hết mèo có nhân đức “sạch sẽ”, bởi vì


mỗi khi phóng uế, mèo đều vùi dấu thật kỹ, chứ
không phóng uế một cách bừa bãi, thiếu văn
hóa như nhiều người.
Thực vậy, Saigòn, thành phố Hồ chí Minh, vốn
được gọi là hòn ngọc Viễn đông từ lâu, thế mà
đi trên đường, đôi khi thiên hạ vẫn dẫm phải
những “bãi mìn”, cụ thể là những đống…phân.
Hình như chỗ nào có bảng chữ : cấm đổ rác,
cấm tiêu, cấm tiểu, cấp đái… thì chỗ đó lại được
chiếu cố đặc biệt. Người ta càng đổ rác nhiều và
càng…cho ra hăng. Mỗi lần phải đi qua đó, thì
liền được thưởng thức một thứ xú khí nồng nặc
đến nôn mửa.
MỤC LỤC

Vì sạch sẽ mà vùi dấu, thế nhưng chính vì sự


vùi dấu này mà mèo lại trở thành biểu tượng cho
sự thiếu ngay thẳng, bởi vì thiên hạ thường
bảo :

- Lấm la lấm lét như mèo dấu cứt.

Có lẽ vì phải thức đêm bắt chuột, mà suốt ngày


mèo nằm ngủ li bì. Với sự nằm ngủ li bì như thế,
mèo bị mang tiếng là lười biếng, lười đến độ
chảy thây chảy xác, đồng thời tượng trưng cho
những kẻ chểnh mảng, bôi bác, qua loa, đại
khái, bởi vì họ làm như mèo mửa hay mèo rửa
mặt..

Thực vậy, mèo tuy có nhân đức “sạch sẽ” nhưng


lại rất sợ nước. Vì thế, để rửa mặt, mèo thường
liếm vào bàn chân rồi đưa lên và quẹt quẹt vào
mặt, giống như gã hồi còn nhỏ.

Phải, hồi còn nhỏ, mỗi khi trời trở lạnh, gã rất
thích nằm ngủ nướng, cuộn mình trong chăn
sướng rên mé đìu hiu. Mẹ đánh thức như gọi đò
sang sông, thế mà gã chỉ ú ớ :
MỤC LỤC

- Từ từ cái đã.

Khi mở được cặp mi nặng trĩu, thì đã sáng bạch,


thiếu điều ông mặt trời chiếu xỏ vào lỗ mũi. Và
thế là phải ù té gấp gáp làm một số những công
việc cần thiết, như : đi đái, lấy nước, súc miệng,
đánh răng, rửa mặt…

Thấy vậy, bao giờ mẹ gã cũng mỉm cười và


bảo :
-Con làm cứ như mèo rửa mặt vậy.

Một đặc tính khác của mèo là thích được vuốt


ve, mơn trớn và chiều chuộng.

Gã nuôi một con mèo, ban sáng ngủ dậy, vừa


ngồi vào ghế, thể nào nó cũng đến và cạ vào
chân gã. Cạ một vài lần mà không thấy gã nhúc
nhích hay động tĩnh gì, thì thế nào nó cũng cắn
nhẹ vào chân gã, khiến gã đau điếng.

Vì thế, nhiều hôm vừa mới bắn xong điếu thuốc


lào, mà theo giới ghiền thuốc lào thì điếu quan
trọng nhất trong ngày, chính là điếu đầu tiên ban
sáng, chắc chắn thế nào cũng…phê, đang thở
phì phò hay đang thả hồn theo khói thuốc, cũng
MỤC LỤC

phải cố gắng đá nhẹ cho nó một phát thì nó mới


chịu để cho gã được yên.

Ngoài ra mèo còn mắc phải một thói xấu khác là


thích ăn vụng.

Gã nhớ hồi còn bé, mỗi lần bố gã dọn tiệc hay


chị gã dọn cơm, thế nào gã cũng được phân
công canh chừng, để đuổi ruồi và trông mèo. Có
những hôm bóng dáng mèo chẳng thấy đâu, mà
thủ phạm ăn vụng lại là chính gã.

Thực vậy, nhìn trước nhìn sau không thấy một ai


và thế là gã liền rón rén, nhón vội một miếng, rồi
đút vào miệng mà nhai ngấu nhai nghiến. Miếng
thịt được ăn vụng sao mà nó ngon đáo để, đến
giờ nghĩ lại vẫn còn thinh thích, mặc dù có…xí
hổ tí chút cho tuổi thơ đơn sơ và ngây thơ.

Có lẽ vì thích ăn vụng và thích được vuốt ve mà


mèo được dùng để chỉ…bồ nhí.
Tiếng Việt Nam thật là phong phú. Có tình nhân,
có người yêu hay có bồ thì hoàn toàn khác với
có bồ nhí hay có…mèo. Bởi vì có tình nhân, có
người yêu hay có bồ, thường phải là công khai
và hợp pháp. Trong khi đó có bồ nhí hay có mèo
MỤC LỤC

bao giờ cũng bất hợp pháp và thầm lén vụng


trộm.

Gã thành thật “khẩu phục tâm phục” những đấng


đờn ông, vợ con đề huề, thế mà còn can đảm
đèo bồng thêm tí bồ nhí. Vừa hao tiền tốn bạc,
vừa mất thời giờ và chỉ tội đau lưng. Còn địa vị
và sự nghiệp thì dễ dàng đi đoong, đồng thời
một sớm một chiều thân bại danh liệt chóng như
trở bàn tay.

Chiều được một cô bồ nhí quả là một nghệ


thuật. Bởi vì cũng giống như mèo, cô bồ nhí nào
mà chẳêng thích được vuốt ve, mơn trớn và
cưng chiều. Cô bồ nhí nào mà chẳng hay hờn,
hay dỗi, hay nhõng nhẽo và hay đỏng
đảnh…..Biết vậy thế mà khối anh đờn ông vẫn
cứ nhào vô như con thiêu thân lao đầu vào lửa.

Thiên hạ thích dùng hình ảnh mèo để so sánh


với đờn bà con gái, bởi vì giữa mèo và đờn bà
con gái có nhiều điể giống nhau.

Điểm thứ nhất giống nhau đó là cái khoản ăn.

Mèo ăn ít mà đờn bà con gái cũng ăn ít, vì vậy


MỤC LỤC

người đời mới bảo :

- Nam thực như hổ, nữ thực như miu. Nghĩa là


đờn ông con giai thì ăn nhiều như hổ, còn đờn
bà con gái thì ăn ít như mèo.
Ấy là thiên hạ tự giới hạn vào việc ăn chính thức
trong bữa cơm, chứ còn ăn lai rai trong ngày
hay ăn hàng với đủ thứ quà vặt thì khác. Đem
cộng và cân tất cả mọi thứ quà vặt này vào thì
chưa chắc mèo nào thắng mèo nào, vì đờn bà
và nhất là con gái vốn là chúa ăn vạêt cơ mà :

- Đi chợ mất tám tiền quà,


Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Điểm thứ hai giống nhau, đó là chuyện không và


có.

Con mèo ngoáy đuôi bên trái thì sẽ nhảy qua


bên phải, cũng vậy con gái bảo có thì chắc chắn
là không, bảo không thì chắc chắn lại là có, như
một bài hát của Ngọc Lễ :

- Con gái nói có là không, con gái nói không là


có.
Con gái nói một là hai, con gái nói hai là một.
MỤC LỤC

Con gái nói ghét là thương, con gái nói thương


là ghét,
Đừng nghe những gì con gái nói. Đừng nghe
những gì con gái nói…

Gã sẽ mổ xẻ chi tiết về chuyện này trong một bài


khác.

Điểm thứ ba giống nhau. Đó là về thái độ hiền


và dữ.

Thực vậy, mèo thật hiền lành khi nó nằm dài ngủ
yên, khi nó cạ nhẹ vào chân mình…thế nhưng
mèo cũng thật dữ dằn khi nó nhe răng gầm gừ
và giơ móng nhọn chiến đấu với chó, hay vồ
chuột nhanh như chớp.

Đờn bà con gái cũng vậy, bình thường thì nhỏ


nhẹ dễ thương và dễ mến, nhất là khi cô nường
nhõng nhẽo hay…mần duyên. Thế nhưng một
khi đã nổi cơn tam bành vì bị chạm tự ái hay bị
phỗng tay trên mất mối lợi, thì phải biết.

Đang là một cô em bắc kỳ nho nhỏ bỗng hóa


kiếp thành một bà chằng lửa, chửi đến nơi đến
chốn, chửi có bài có bổn, chửi có cung có điệu,
MỤC LỤC

tay chân thì múa may quay cuồng thiếu điều lăn
xả vào người ta như muốn ăn tươi nuốt sống
vậy.

Về vấn đề này thì gã xin “ no table” nghĩa là xin


miễn bàn, kẻo lại bi ăn cà chua, trứng thối và bị
chụp cho cái mũ thiên vị là luôn bốc thơm đờn
ông con giai, mà lại hay bốc thối và bôi bác đờn
bà con gái.

Tuy nhiên, có một điều hoàn toàn khác biệt giữa


mèo và đờn bà con gái, đó là mèo thì luôn có
râu, bất kể là mèo đực hay mèo cái. Còn đờn bà
con gái thì lại chẳng có râu. Họa lắm mới có. Và
nếu có, thì quả là hết chỗ nói.

Đêm bắt đầu về khuya, tiếng con nít xa dần,


chìm vào xóm vắng :

- Con mèo mà trèo cây cau,


Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đàng xa,
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐẸP VÀ XẤU

Có những đêm không ngủ, nằm vắt chân lên


trán mà suy gẫm chuyện đời, gã nhận thấy :

- Cục diện thế giới đôi khi chỉ là trò chơi của trẻ
nít, cũng kéo bè kéo cánh mà… uỵch nhau. Còn
thói đời nhiều lúc chỉ là một cái vòng lẩn quẩn, đi
từ thái cực này đến thái cực khác.

Thực vậy, hồi mới giải phóng, nhà nước đã cấp


tiệt đua ngựa và xổ số vì cho đó là một thứ cờ
bạc trá hình, cấm tiệt khiêu vũ hay nhảy đầm vì
cho đó là đồi trụy, cấm tiệt thi hoa hậu vì cho đó
là lạm dụng thân xác phụ nữ…

Thế nhưng, cùng với thời gian và nhất là cùng


với chính sách cởi mở, những cái bị “cấm tiệt”
trên kia lại được phục hồi, và bành trướng một
cách mạnh mẽ như nấm mọc sau cơn mưa,
đồng thới được khoác vào một danh nghĩa mới
để “chiềng làng”.

Xổ số là để kiến thiết là để xây dựng quốc gia,


nên tỉnh nào cũng tranh thủ để mở, rồi xuất hiện
thêm loại vé số “cào” như một thứ mì ăn liền, chỉ
MỤC LỤC

cần cào ra là liền biết có trúng hay không. Ấy là


chưa kể đến nạn số đề, số đuôi ăn theo và tràn
nan khắp nơi khắp chốn.

Khiêu vũ được gọi là múa đôi, dù có cọ quẹt thì


cũng là một hình thức nghệ thuật.

Sau cùng, thi hoa hậu được mệnh danh là một


hoạt động văn hóa, nhằm nâng cao cái “gu”
thẩm mỹ của quảng đại quần chúng. Vì thế, từ
hoa hậu của báo Tiền Phong, gã ghi nhận rất
nhiều thứ hoa hậu khác nữa, chẳng hạn như
hoa hậu các tỉnh, hoa hậu áo tắm, hoa hậu áo
dài, rồi nữ sinh duyên dáng, bà mẹ thanh lịch…

Vậy thế nào là hoa hậu và người ta đi tìm sự gì


qua những cuộc thi hoa hậu ?

Trong một cuộc trình diễn văn nghệ tại viện Đại
học Công giáo ở Đàlạt hồi trước năm 1975, có
màn chọn hoa hậu.

Một số nữ sinh viên bước lên sân khấu. Người


dẫn chương trình bèn hỏi ý kiến cha viện trưởng
:
MỤC LỤC

- Theo ý kiến riêng thì cha bàu ai làm hoa hậu ?


Bị chộp bất ngờ, cha viện trưởng đỏ mặt tía tai,
thế nhưng sau cơn bối rối trong giây lát, cha
viện trưởng đã ung dung tuyên bố :
- Tôi chọn cô này.
- Tại sao ?
- Theo tôi nghĩ thì hoa là bông, hậu là sau. Cô
này đúng là hoa hậu, vì có một bông hồng được
thêu vào vạt sau áo dài của mình.

Cả hội trưởng đều nhiệt liệt vỗ tay không phải để


tán thương câu định nghĩa “chày cối” của cha
viện trưởng, nhưng để khen ngợi sự nhanh trí
của cha trong một tình huống tế nhị và rất… khó
nói.

Theo sách vở, hoa hậu là người con gái được


về nhất trong cuộc thi sắc đẹp, chẳng hạn : hoa
hậu thế giới, hoa hậu Châu Á, hoa hậu Việt
Nam…

Trong những cuộc thi này, người ta đi tìm một


cái đẹp khách quan. Vì thế, người ta phải công
bố số đo vòng một , vòng hai, vòng ba, chiều
cao và trọng lượng. Còn thí sinh thì ít ra cũng
phải một lần lên sân khấu trong bộ áo tắm để
MỤC LỤC

cho thiên hạ… chiêm ngưỡng.

Người ta còn treo những giải thưởng khuyết


khích cho những “miss” nào có nụ cười duyên,
có mái tóc đẹp, có cặp giò thon và có tấm ảnh
bắt mắt.

Để sửa sang và chỉnh đốn cho cái hình dong


bên ngoài này, người ta đã tốn không biết bao
nhiêu công sức và tiền bạc. Đây quả là một
nghệ thuật xứng đáng với đồng tiền bát gạo.

Trước hết, giới thày thuốc đã nhảy vào vòng


chiến. Với lưỡi dao giải phẫu, các vị đã cắt chỗ
này xẻ chỗ kia và bơm chỗ nọ theo nhu cầu
thẩm mỹ và theo sự đòi hỏi của khách hàng.

Thế nhưng, chuyện đời nhiều lúc oái ăm, những


người muốn làm đẹp chẳng may gặp phải
những ông lang băm, những vị thày thuốc dổm,
thì chẳng những tiền mất tật mang, mà hơn thế
nữa cái sắc đẹp ít ỏi của mình lại sớm tàn phai,
ấy là chưa kể tới những bệnh tật và đau đớn
như hậu quả tất nhiên của sự trục trặc này.

Chẳng hạn như bị rò rỉ chất silicom, được dùng


MỤC LỤC

để độn cho bộ ngực thêm phần gồ ghề và nhức


nhối hay vì tác dụng của kem mà làm cho khuôn
mặt bị nám đen…

Người ta thường bảo :


- Nhân sao vật vậy.
Thế nhưng, trong lãnh vực làm đẹp thì lại không
phải vậy.

Nơi loài vật, con đực thường hay làm đẹp và làm
dỏm để lấy le và lấy điểm với con cái. Vì thế
trong tiếng Pháp, danh từ ‘’Coquetterie’’ có
nghĩa là sự làm dáng, bắt nguồn từ chữ ‘’coq’’
có nghĩa là anh gà trống!

Nơi loài người thì khác, đờn bà con gái vốn


được coi là phái đẹp, và nghệ thuật làm đẹp vốn
là nghề của quí nường. Thậm chí có kẻ đã tuyên
bố một cách hung hăng con bọ xít như sau :
- Là đờn bà con gái, mà nếu không biết làm đỏm
mí lại ăn quà vặt thì hỏng còn là đờn bà con gái
nữa.

Xét về những nơi những chốn được làm đẹp, gã


nhận thấy rằng :
- Hễ hở ra chỗ nào thì quí nường liền vội trang
MỤC LỤC

điểm chỗ ấy liền tù tì.


Từ cái răng cái tóc là góc con người, đến cái
môi cái miệng để mà mần duyên thậm chí đến
cả cái móng chân móng tay đều được quí
nường trau chuốt một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng.

Chỉ có các nhà chế tạo mỹ phẩm là hốt bạc.


Nguyên dầu gội đầu mà thôi thi cũng đã có biết
bao nhiêu thứ, đến quỉ thần cũng không nhớ nổi.
Nếu có dịp, gã sẽ phệu ra một bài về nghệ thuật
làm đẹp của quí nường.

Chỉ tội nghiệp cho cánh đờn ông con giai như gã
có khi phải ngồi chờ cả giờ cho cô em gái bé
bỏng trang điểm, hay anh chàng gà tồ bị người
yêu nhõng nhẽo cho trễ hẹn vài tiếng đồng hồ
chỉ vì những việc lỉnh kỉnh ấy, thì cũng chỉ là…
chuyện thường ngày ở huyện.

Chớ có dại mồm dại miệng mà thở dài thở vắn,


mặt xệ xuống như bánh bao chiều, hay đùng
đùng tức tối như ‘’tặc dăng’’ nổi giận. Hãy tự an
ủi lấy mình :
- Đây là một dịp thuận tiện để ta tập đức kiên
nhẫn, luyện nội công cho mạnh. Ai bền đỗ tới
cùng thì sẽ được cứu thoát.
MỤC LỤC

Thế nhưng, cái đẹp khách quan, cái đẹp có cân


đo đong điếm này thì lại rất hiếm và kéo dài
chẳng được bao lâu, vì có tuổi trẻ nào mà lại
không già, có sắc đẹp nào mà không bị tàn phai.

Hay như dân Đức vốn thường bảo :


- Phàm trên cõi đời này có ba thứ phù du hơn
hết : đó là tiếng dội, mống trời và nữ sắc.

Vì thế, khi nói đến cái đẹp, chúng ta thường hiểu


là cái đẹp chủ quan, cái đẹp ‘’hợp nhãn’’ với
mình.
Đúng vậy, Voltaire đã tự hỏi :
- Thế nào là đẹp ?
Và ông đã mày mò đưa ra một câu trả lời bất hủ
và hóm hỉnh. Ông nói :
- Đẹp chính là con cóc cái dưới mắt con cóc
đực.
Thực vậy, một khi tình yêu đã thâám vào hai bên
đã ‘’chịu đèn’’ mí nhau, thì cái nhìn chủ quan sẽ
tô hồng mọi sự :

- Yêu nhau trăm sự chẳng nề,


Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
MỤC LỤC

Thậm chí ngay cả đến những chỗ khuyết điểm,


người ta vưỡn cứ thấy tuyệt vời :

- Yêu nhau củ ấu cũng tròn,


Trái bồ hòn cũng ngọt.

Ngay cả đến những chỗ xấu, người ta vưỡn cứ


thấy đẹp tuốt luốt :

- Mũi nàng những tám gánh lông


Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
- Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng thương chồng bảo gáy cho vui nhà.
- Đi chợ mất tám tiền quà
Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Vì thế, có những cô nường xét về ngoại hình,


với cái nhìn khách quan, thì sẽ bị xếp vào hàng
thị Nở trong Chí phèo của Nam Cao, hay Chung
vô Diện trong kiếm hiệp của Kim Dung, nghĩa là
dưới điểm trung bình xa lắc xa lơ, thế mà vẫn
đắt giá, vớ được những ông chồng ngon lành cả
về thể xác xác lẫn tinh thần, cả về tiền bạc lẫn
địa vị, khiến cho thiên hạ phát thèm, nằm mơ
cũng chẳng được, chỉ vì những cô nường này có
được những nét duyên… thầm.
MỤC LỤC

Còn khi tình yêu đã chắp cánh bay đi, thì cô


nường xinh đẹp thưở ban đầu liền trở thành ‘’cái
con mụ nọ”, “cái con mẹ kia”, để rồi anh chồng đi
lang thang tìm kiếm của lạ, theo kiểu :
- Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.
Hoặc :
- Vợ là địch,
Bồ bịch mới thật là ta.
Khi chiến sự xảy ra,
Ta buộc về với địch,
Nằm trong lòng địch,
Ta vẫn nhớ đến ta.

Khi không còn say men tình yêu nữa, thì cái
ngày xưa người ta bảo là “cho vui nhà”, thì bây
giờ lại trở thành nguyên nhân gây nên đổ vỡ.
Người ta lôi nhau ra ba tòa quan lớn để ly dị chỉ
vì ông chồng hay bà vợ có tật…”kéo gỗ” mỗi khi
nằm ngủ.

Hay như tục ngữ đã diễn tả :


- Còn duyên anh cưới ba heo,
Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.

Xem như vậy, cái đẹp khách quan cũng như chủ
MỤC LỤC

quan đều khó lòng đứng vững với thời gian. Vì


thế, đờn ông con giai và nhất là đờn bà con gái
cần phải tìm kiếm cho mình một cái đẹp vượt
thời gian, một cái đẹp tự bên trong, xuất phát bởi
những nhân đức, chứ không phải là cái đẹp hời
hợt bên ngoài, dù có mặên mòi đến đâu chăng
nữa cũng không thể đi xa hơn…làn da!

Chính những nhân đức mới tạo nên cho chúng


ta một cái đẹp vượt thời gian, một nét duyên
thầm làm cho người khác phải cảm phục và say
đắm.

Các cụ ta ngày xưa đã sớm nhận ra nét duyên


ngầm vượt thời gian này, nên đã bảo :
- Cái nết đánh cái đẹp.
Hay như một câu tục ngữ khác đã nói :
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,

Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.


Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu
chuyện như thế này.

Dương Chu sang nước Tống, đến trọ ở một nhà


kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp. Một người
đẹp và một người xấu. Dương Chu thấy trong
MỤC LỤC

nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà khinh


chê người thiếp đẹp.

Lấy làm lạ, Dương Chu bèn dò hỏi một đứa nhỏ
trong nhà trọ. Nó trả lời :
- Người thiếp đẹp tự tôn là đẹp nên mất đẹp, tôi
chẳng biết cái đẹp của nàng nữa. Còn người
thiếp xấu tự biết là xấu, nên quên xấu, tôi chẳng
biết cái xấu của nàng nữa.
Bấy giờ Dương Chu gọi đám học trò lại và bảo :

- Các con hãy nhớ lấy câu ấy. Kẻ giỏi mà bỏ


được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đến đâu
cũng được mọi người tôn trọng và yêu mến.

Kể lại câu chuyện này, tác giả sách “Cổ học tinh
hoa” đã góp thêm lời bàn của mình như sau :

- Đờn bà đẹp mà tự cao tự đắc, người ngoài chỉ


thấy cái bộ khoe khoang đáng ghét, chứ không
còn thấy vẻ đẹp đáng yêu nữa. Trái lại, đờn bà
xấu, tự thẹn mình là xấu, thì người ngoài chỉ
thấy cái nét dịu dàng đáng thương, chứ không
còn thấy cái xấu xí đáng ghét của nàng nữa.
Người đẹp mà bị khinh, còn kẻ xấu mà được quí
là như thế đó.
MỤC LỤC

Cũng từ câu chuyện trên, gã nhớ lại một câu tục


ngữ :
- Người xấu duyên lặn vào trong,
Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.

Phàm cái gì đã bong ra ngoài thì khó mà bền.


Còn cái gì đã thấm vào trong thì càng lâu lại
càng thắm.

Viết tới đây, thì hình ảnh mẹ Têrêxa thành


Calcutta bỗng tỏa sáng trước mặt gã. Mẹ Têrêxa
đứng bên vương phi Diana, quả là hai thái cực
trái ngược nhau.

Vương phi Diana là một cô gái cao ráo, đẹp đẽ.


Gã chỉ nói đến cái “hình dong bên ngoài”, chứ
chả dám đá động tới những khía cạnh khác,
chẳng hạn như : địa vị xã hội, tình cảm cá
nhân…

Trong khi đó, mẹ Têrêxa chỉ là một bà lão không


hơn không kém. Thân hình thì thấp bé, họa
chăng có cao hơn ông Giakêu được một tí xíu.
Còn mặt mũi thì nhăn nheo, mang nặng dấu ấn
của thời gian. Áo quần thì thùng tha thùng
MỤC LỤC

thình…

Thế mà lúc còn sống, mẹ đã được biết bao


nhiêu người quí mến và khi nằm xuống, mẹ đã
được biết bao nhiêu người thương tiếc. Sở dĩ
như vậy cũng chỉ vì cái đức của mẹ.

Phải, cái đức của mẹ chính là nét duyên thầm


thu hút mọi người và làm cho cả và thế giới phải
khẩu phục tâm phục mẹ hôm qua, hôm nay và
mãi mãi.

Hình như có một câu danh ngôn, đại khái


khuyên chúng ta như thế này :
- Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người
đều vui mừng hớn hở, còn con lại cất tiếng khóc.
Con hãy sống thế nào, để khi con nhắm mắt
buông tay, mọi người sẽ khóc thương, còn con
sẽ vui mừng hớn hở.

Nét duyên thầm vượt thời gian này ai cũng có


thể thực hiện được mà chẳng tốn đồng xu cắc
bạc để chạy ra cửa tiệm, lôi về đủ thứ mỹ phẩm
lỉnh kỉnh. Đúng thế, ai cũng có thể và phải làm
được miễn là biết kiên nhẫn và cố gắng.
MỤC LỤC

Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện về một


người vợ xấu.
Nguyễn Thị là vợ của Hứa doãn, nhan sắc thuộc
loại ma chê quỉ hờn.
Khi cưới về, thấy nàng xấu quá, Hứa doãn muốn
bỏ đi bèn nói :
- Đờn bà có tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh.
Nàng được mấy ?
Nguyễn Thị liền thưa :
- Thiếp chỉ kém có dung mà thôi.
Rồi nàng hỏi lại :
- Kẻ sĩ có bách hạnh, chàng được mấy ?
Hứa doãn đáp :
- Ta có đủ cả.
Nguyễn Thị nói :
- Trong bách hạnh thì đức là đầu. Chàng là kẻ
hiếu sắc chứ không hiếu đức, sao lại bảo là có
đủ cả bách hạnh được ?

Nghe vậy, Hứa Doãn lấy làm xấu hổ và từ đó


luôn yêu thương kính trọng vợ mình.
Thái độ của Hứa Doãn có lẽ chưa đủ để đánh
thức những kẻ háo sắc hôm nay. Bởi vì rất
nhiều người vẫn cắm đầu cắm cổ chạy theo cái
đẹp bên ngoài mà quên cái đẹp bên trong.
MỤC LỤC

Và mỗi lần đọc trên báo thấy những mẫu quảng


cáo tìm người :
- Cần tuyển nữ nhân viên có ngoại hình đẹp.

Gã lại ngậm ngùi cho thói đời và xót xa cho


những cô “em-gái-trời-bắt-xấu”.

Thế rồi, gã bèn thở dài thườn thượt và mặt lại


cứ dài thoòng ra như…mặt ngựa.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TRẺ VÀ GIÀ

Trong mục sổ tay của tuần báo Tuổi Trẻ Chủ


Nhật, gã lượm được một mẩu tin như sau :
- Kể từ nay, chính phủ sẽ không bổ nhiệm người
làm thứ trưởng và những chức vụ tương đương
quá 55 tuổi. Khi đọc thông báo trên do thủ tướng
vừa ký ngày 18 tháng 4, một công chức cấp vụ
ở Hà Nội nói với người viết : dễ có đến 20% số
cán bộ mang cấp hàm thứ trưởng sẽ ra đi vì tuổi
không còn đúng với tiêu chuẩn…

Mẩu tin này cũng khiến cho gã phải sờ vào gáy


mình và nhận ra rằng :
- Sống lâu lên lão làng, cứ cái điệu này thì mình
cũng sắp được …ra ngũ, về nhà đuổi gà và
trồng hoa. Chẳng biết nên vui hay nên buồn.

Gã nhớ lại hồi đầu mình còn để chỏm, hình như


có đọc trong sách Quốc âm Giáo khoa thư bài
học về một câu đố :
- Con gì sáng nó đi bốn chân, trưa nó đi hai
chân và chiều nó đi ba chân ?
Xin thưa :
- Đó chính là con người.
MỤC LỤC

Thuở còn nhỏ, chúng ta bò lê bò la bằng cả hai


tay lẫn hai chân, vị chi là bốn. Lớn lên, chúng ta
đứng thẳng và mạnh mẽ bước tới. Còn khi về
già, chúng ta phải chống thêm một chiếc gậy
nữa là ba.

Các cụ ta ngày xưa đã ngán ngẩm mà bảo :


- Âm thầm ngày tháng trôi qua,
Năm kia nào có đợi ta bao giờ.

Đúng thế, chẳng ai có thể cản được những


bước chân âm thầm của thời gian. Cứ nhìn vào
xấp nhỏ, lớn lên như thổi, gã bèn nghiệm ra
gánh nặng tuổi đời đang đè xuống đôi vai còm
cõi của gã và dấu ấn thời gian đã in đậm trên
khuôn mặt gã.

Cách đây không lâu, một cô bé Việt kiều hớn hở


đến thăm gã. Phối kiểm lại bộ nhớ, gã thấy
được rằng : khi khăn gói quả mướp theo thày
bu xuống tàu đi vượt biên, cô bé này còn đang ở
lứa tuổi “babilắc”, suốt ngày chơi ô quan và nhày
cò cò ở sân nhà gã, thậm chí còn anh dũng mặc
quần đùi đi móc cua ngoài đồng về cho chị nấu
riêu, thế mà giờ đây đang độ đào tơ trổ mã, đẹp
như một cô tiên, giống hệt một bài thơ cổ đã
MỤC LỤC

diễn tả :

- Hồng hồng tuyết tuyết,


Mới ngày nào chửa biết cái chi chi,
Mười mấy năm thấp thoát có xá gì,
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu.

Ngay như chính bản thân gã cũng vậy. Bốn


mươi năm được coi là đỉnh cao cuộc đời, rồi sau
đó bắt đầu đi xuống ở triền núi bên kia. Tới cái
mốc này, mắt gã bỗng mơ huyền, phải vội vã ra
tiệm cắt ngay một chiếc kính lão, để khỏi trông
gà hóa quốc.

Rồi từ đó, lục phủ ngũ tạng bắt đầu rệu rạo.
Nhất là khi đã bước vào tuổi “ngũ tuần”, thì sức
kéo bị giảm sút một bậc, làm việc lâu một xíu là
cảm thấy mệt mỏi, uể oải liền tù tì ngay à.

Nhớ hồi còn trẻ, ngồi đánh máy chữ lọc cọc suốt
tám chín tiếng đồng hồ mà chẳng hề hấn, sứt
mẻ chi cả, thậm chí có những lúc gấp rút, làm
ngày không đủ phải tranh thủ làm cả ban đêm
mà vẫn cứ phom phom và hăng tiết vịt.

Chứ bây giờ, khi đã có tí tuổi, gõ máy dù là máy


MỤC LỤC

vi tính, chỉ một lúc là liền nhức nhối từ đầu ngón


tay cho đến tận…lái tim. Rồi ăn chẳng biết ngon,
ngủ thì cứ mơ mơ màng màng.

Sức kéo giảm sút đã đành, mà tuổi năm mươi


còn là khởi điểm cho đủ mọi thứ bệnh hoạn. Nào
cao huyết áp, nào nhồi máu cơ tim, nào tai biến
mạch máu não, nào loét bao tử, nào đái…
đường. Bản án tử hình dường như đã được treo
lơ lửng trên đầu quí cụ thượng thọ ngũ tuần.

Nghĩ vậy, nên cứ bình tĩnh mà run. Vì thế, hôm


rồi gã bèn phải gồng mình đi khám lại toàn bộ đồ
lòng, từ tim gan cho chí đến đến phèo phổi. Qua
siêu âm, người ta cho biết gã hiện có hai viên
sạn nhỏ nằm ở trong thận.

Ông bác sĩ thuộc vào hàng chịu chơi bèn phán :


- Vì chúng còn bé tẹo tèo teo, nên chưa cần phải
mổ hay bắn biếc chi cả, chỉ cần uống thuốc,
uống nước, vận động và nhất là…cười nhiều.

Vì thế, trong mấy tháng nay, gã đành phải ép


mình ép xác mà dùng thuốc, dùng nước và tập
thể dục thẩm mĩ để giữ…eo. Bởi vì lúc này cái
eo của gã xem chừng liên tục phát triển theo
MỤC LỤC

kích thước của cái eo con…bò.

Rồi lúc nào cũng phải vén môi lên mà cười. Vui
cũng cuời mà buồn cũng cười, thiếu điều bị liệt
vào hạng người…cõi trên. Thế mà chẳng biết
đến bao giờ mới tống khứ được hai cái của nợ
ấy ra.

Từ những điều gã vừa cà kê dê ngỗng, thì khác


biệt thứ nhất giữa già và trẻ là khác biệt về ngoại
hình, về sức khỏe.

Trẻ thì mạnh, già thì yếu. Đó là lẽ đương nhiên,


qui luật của muôn đời kia mờ. Trừ ra một vài
trường hợp ngoại lệ mà chúng ta vốn gọi là
những cụ… già gân, như Nguyễn công Trứ đã
viết :
- Càng già càng dẻo càng dai.

Bình thường, tuổi già là một nhà thương, tiếp


nhận đủ mọi thứ bệnh. Hơn nữa, nếu nửa đầu
cuộc đời, chúng ta xài theo kiểu “xả láng sáng
về sớm”, như lời hô hào :

- Chơi xuân kẻo hết xuân đi,


Cái già sồng sộc nói thì tới ngay.
MỤC LỤC

Chắc hẳn nửa sau cuộc đời, chúng ta sẽ phải trả


giá bằng những bệnh tật và đớn đau của mình.
Sự giảm sút về sức khỏe phần xác, thường kéo
theo sự giảm sút về tâm lý và sự xơ cứng về
tinh thần. Kinh nghiệm của những bậc tiền bối
cho hay :
- Năm mươi tuổi thì ta chán đời, còn sáu mươi
tuổi thì đời chán ta.
Tuổi già vốn dĩ là một gánh nặng cho bản thân
cũng như cho người khác. Tuổi già giống như
phiên chợ chiều, vắng tanh vắng ngắt. Hay như
con sư tử già chỉ là trò cười cho đám chó con.

Từ đó, người già đánh mất sụ hăng say nhiệt


tình, để rồi buông xuôi, mặc cho ‘’con tạo xoay
vẫn đến đâu’’ hay phó mặc cho lũ cháu đàn
con :
- Già thì mọi sự mọi hèn
Giang sơn phó mặc đàn em sau này.

Khác biệt thứ hai giữa già và trẻ là khác biệt về


kinh nghiệm, về vốn sống được tích lũy từ lòng
cuộc đời.
Trong phạm vi này, người trẻ chưa có được bao
nhiêu, đang khi đó với bề dày của năm tháng,
MỤC LỤC

người già đã gom góp được rất nhiều. Vì thế,


người trẻ thường hay bồng bột, xốc nổi và…
phổi bò, như tục ngữ cũng đã bảo :
- Khôn đâu tới trẻ, khẻo đâu tới già.
Và đôi lúc người ta đã gọi :
- Tuổi trẻ là tuổi ăn chưa no, lo chưa tới.

Với những kinh ngiệm được tích lũy suốt dọc


dòng thời gian, tuổi già thường khôn ngoan và
thâm trầm, giống như cây càng già thì gỗ càng
tốt, giống như gừng và quế, càng già thì lại càng
cay, hay như tục ngữ cũng đã nói :
- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.

Do số vốn sống phong phú ấy, nên đã nảy sinh


ra một khác biệt thứ ba giữa già và trẻ, đó là
người già thường thích quay nhìn dĩ vãng và
sống bằng những hoài niệm, còn người trẻ
thường thích hướng tới tương lai và sống bằng
những ước mơ. Người già thì quay lại phía sau,
còn người trẻ thì bước tới phía trước.

Thực vậy, mấy ông bạn già lâu ngày gặp mặt
nhau, khề khà bên chén rượu nồng hay bên tách
trà đậm, chắc chắn các cụ sẽ gợi nhớ và sống
lại cái thuở huy hoàng vang bóng của mình :
MỤC LỤC

- Ngày ấy mình thế này… chúng ta thế nọ… chứ


không như bây giờ, chẳng ra cái thể thống nào
cả.

Trong khi đó, bọn trẻ ngồi đấu láo với nhau thì
thao thao bất tuyệt về những dự tính đang được
ươm mơ. Nào là làm cái này, nào là làm cái
kia…

Chính do sự khác biệt này, nhiều lúc đã xảy ra


những bất đồng, những lục đục, những chống
đối trong gia đình giữa già và trẻ, giữa cha mẹ
với con cái.

Hồi xưa, có lần thằng bạn gã đang năn nỉ ỉ ôi,


xin mẹ tí tiền còm để mua sách hay làm cái chi
đó, thì ông bố bước vào. Chợt nghe thấy tiền,
ông bố bèn mở miệng phang ngay cho cậu ấm
một bài ‘’luân lý cơ bản’’ :
- Ngày xưa tao phải tiết kiệm từng trang giấy,
từng giọt mực… ngày xưa tao thế này… ngày
xưa tao thế kia… ngày xưa tao thế nọ…

Điệp khúc ‘’ngày xưa ấy’’ không biết đã được


ông bố ca đi ca lại biết bao nhiêu lần. Cứ nhìn
cái bản mặt nhăn nhó của thằng bạn như là sắp
MỤC LỤC

bị ‘’Tào tháo’’ rượt, gã thấy nó hậm hực mà nói


chẳng nên lời, vì sợ bị mắng, nên đành phải
nhủ thầm trong bụng rằng :
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi, bố ơi.

Cũng từ điểm khác biệt đằng trước và đằng sau,


tương lai và dĩ vãng, nên người trẻ thường dám
liều, dám chấp nhận cái mới để rồi khắc phục và
làm chủ lấy nó, như chúng ta thường bảo :
- Đâu cần thanh niên có,
Đâu khó có thanh niên.

Phải chăng đây chính là yếu tố quan trọng làm


thành ‘’chất trẻ’’ nơi một người…
Trong khi đó, tuổi già thường ngại di chuyển,
ngại thay đổi, an phận với những cái đã có. Ấy
là gã chưa nói đến những cụ thích ngủ quên trên
chiến thắng và vinh quang một thời của mình.

Vì vậy, thiên hạ vốn thường bảo :


- Một người bị coi là già kể từ lúc người ấy hết
dám… liều.
Nếu cứ ngồi kể tội và điểm mặt những khác biệt
giữa già và trẻ, thì có lẽ nói mãi, nói hoài cũng
chẳng bao giờ hết, chi bằng bây giờ hay thửû đi
tìm một dung hòa, một mô hình lý tưởng để
MỤC LỤC

cùng chung sống hòa bình ‘’mí nhau’’.

Theo gã, mỗi tuổi đều có nét duyên ngầm của


riêng mình. Buổi bình minh có vẻ đẹp của bình
minh và lúc hoàng hôn có vẻ đẹp của hoàng
hôn. Chồi non, có sức quyến rũ của chồi non và
trái chín có sức quyến rũ của trái chín.

Về người già và người trẻ, chúng ta có thể diễn


tả như Nguyễn Du :
- Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Tuy nhiên cuộc sống vốn thường có những
ngịch lý, những ngược đời và những chuyện
chéo cẳng ngỗng của nó, như G. B. Shaw đã
viết :
- Có lắm người không khi nào trẻ và vài kẻ
không bao giờ già.

Thực vậy, có lắm người không bao giờ trẻ.


Nói cách khác, họ đã đánh mất tuổi trẻ khi mái
đầu còn xanh. Họ là những kẻ tuổi đời chưa
được bao nhiêu, thân xác còn phơi phới, thế
nhưng tâm hồn họ đã già cỗi và tàn úa. Họ thiếu
mất chất trẻ và chất lửa trong con người.

Có nghĩa là họ không dám liều, không dám chấp


MỤC LỤC

nhận cái mới và đối đầu với những đổi thay. Họ


bằng lòng với số phận của mình và lúc nào cũng
chỉ xin cho được hai chữ…bình an.

Họ không còn sự hăng say nhiệt thành, trái lại


chỉ sống lửng lơ như con cá vàng, mặc dù bề
ngoài họ rất oai phong bệ vệ và sức khỏe tràn
trề. Chính vì thế thiên hạ vốn thường gọi họ là
những … ông cụ non.

Tiếp đến là có vài kẻ không bao giờ già.


Dĩ nhiên ở đây gã không bàn tới một vài người
vì ảnh hưởng của một loại bệnh đặc thù nào đó,
khiến cho họ, dù đã ba mươi mí, những thân xác
họ mới chỉ là một đứa trẻ lên sáu, lên bảy như
báo chí đã đăng tải cách đây không lâu.

Gã cũng không bàn tới một vài cụ vì ham vui và


thích của lạ mà thiên hạ vốn thường gọi là
chơi…..trống bỏi. Những cụ đầu đã bạc, răng đã
long mà vẫn còn đèo bồng vợ nọ con kia, chỉ vì
sợ cảnh cô đơn :
- Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông.

Gã chỉ xin nói đến các cụ tuy đã già mà thực sự


vẫn còn trẻ. Vậy các cụ ấy là ai ?
MỤC LỤC

Các cụ ấy được diễn tả là những người “nhân


lão tâm bất lão”. Ngoại hình các cụ tuy già,
nghĩa là tóc các cụ đã bạc, răng các cụ đã long,
da các cụ đã nhăn nheo và tay chân các cụ đã
lỏng lẻo.

Thế nhưng, tâm hồn các cụ vẫn còn trẻ chứ


chưa già, nghĩa là các cụ vẵn hăng hái nhiệt
thành, dám chấp nhận cái mới và dám đương
đầu với những thay đổi….
Chất trẻ vẫn lưu thông trong máu huyết, trong
thân thể già nua của các cụ và lửa vẫn bừng
cháy trong con tim đau ốm của các cụ. Tuy
nhiên, số người nhân lão tâm bất lão như thế
này, hẳn không nhiều lắm.

Có một thời ở Sàigòn thiên hạ đã gọi nhạc sĩ


Phạm Duy là một híppi già. Sở dĩ như vậy, vì
tuổi đời đã đè nặng trên vai ông. Ngay từ hồi gã
còn là một thằng bé mặc quần thủng đũng, thì
những bài hát của ông đã được phổ biến sâu
rộng.

Thế nhưng, tâm hồn và tư tưởng của ông vẫn


còn trẻ. Ông không phải chỉ viết về tuổi trẻ, mà
MỤC LỤC

hơn thế nữa, từng lời ca, từng khuông nhạc của
ông đều thoát ra chất trẻ, làm cho người trẻ say
mê và thiên hạ đã không ngần ngại tặng cho ông
cái biệt danh là híppi già.

Ngày nay, khắp mọi nơi người ta đều hô hào


phải trẻ hóa lãnh vực này, trẻ hóa lãnh vực kia
và nhất là phải trẻ hóa cấp lãnh đạo.

Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật viết :


“Chuyện sẽ không xa lạ một khi nước Nga có
thủ tướng 36 tuổi hay là Việt Nam thời gian
không xa có những nhà lãnh đạo, những chính
khách lứa tuổi 30-40, nếu như công nghệ trẻ
hóa, không chỉ là hạn mức tuổi tác mà thực sự
là cả một quá trình chuẩn bị nhân tài, ươm
trồng, vun bón”.

Mẹ chồng nàng dâu, như hai cô ca sĩ có thương


nhau bao giờ. Cũng vậy, luôn có một vực thẳm
ngăn cách giữa già và trẻ, giữa trẻ và già.

Trẻ chê già là cổ hủ, lỗi thời và…. khó tính. Gìa
chê trẻ là thiếu kinh nghiệm, xốc nổi, ngu đần
theo kiểu : trứng mà đòi khôn hơn rận.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, theo gã nghĩ :


- Trẻ phải kính trọng già và học hỏi nơi gìa vốn
sống và kinh nghiệm. Còn già thì hãy tìm hiểu,
cảm thông và nâng đỡ cho trẻ.

Có lẽ gã bèn phải mượn lời khuyên sau đây và


Alfred de Vigny như một kết luận :
- Bạn ơi, một đời sống vĩ đại là gì ? Nếu không
phải là một ý tưởng của tuổi trẻ được tuổi già
thực hiện.

Kết luận như thế, chẳng hiểu gã đã lên mặt dạy


đời hay chưa ? Và nhất là gã có đáng được
phong làm…hàm cụ non hay chưa ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NÓI VÀ LÀM

Chuyện xưa tích cũ kể lại rằng :


Ngày kia, vợ thày Tăng Tử đi chợ, thấy con khóc
đòi theo, bà liền phỉnh gạt :
- Con ở nhà, rồi khi về, mẹ sẽ làm thịt heo cho
con ăn.
Lúc vợ về, thày Tăng Tử bèn bắt heo làm thịt.
Vợ bảo là mình chỉ nói đùa mà thôi, nhưng thày
lắc đầu :
- Đừng khinh rẻ trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ
làm chi thì con cái thường hay bắt chước mà
làm như vậy. Nay mình nói dối con, là mình dạy
con nói dối rồi đó.
Và thế là thày đi làm thịt heo cho con ăn.

Từ câu chuyện trên gã nhận ra hai mẫu người.


Thày Tăng Tử là mẫu người nói và làm, còn bà
vợ là mẫu người nói và lờ.

Trong cuộc sống, giữa nói và làm có biết bao


nhiêu tình tiết nhiêu khê rắc rối. Thậm chí nhiều
lúc có cả một vực thẳm ngàn trùng xa cách.
Chính vì thế, gã xin mạn phép được bàn đến
mối quan hệ giữa nói và làm.
MỤC LỤC

Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã ban cho con người


một cái lưỡi. Nhờ cái lưỡi, con người có thể nói
được. Và nhờ tiếng nói, con người biểu lộ cho
nhau những tình cảm, những ước muốn, những
suy nghĩ hầu xích gần lại ‘’mí’’ nhau hơn. Bởi
đó, người ta thường bảo :
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng
nói.

Thế nhưng, phàm bất cứ việc gì trên cõi đời này


cũng đều có hai mặt. Mặt phải và mặt trái. Mặt
phải của cái lưỡi, đó là một nhịp cầu cảm thông
được bắc bằng ngôn ngữ và tiếng nói.

Còn mặt trái, đó là những uẩn khúc, những hận


thù, những đổ vỡ mà cái lưỡi đã gây nên, đúng
như người xưa đã bảo :
- Lưỡi người còn độc hơn cả họng ong.
Sở dĩ như vậy là vì cái lưỡi không có xương. Mà
đã không có xương thì lại lắm đường lắt léo. Nói
dọc nói ngang, nói quàng nói bậy, nói thế nào
cũng được, như tục ngữ đã diễn tả :
-Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười ở hẹp người chê
MỤC LỤC

Cao chê ngỏng thấp chê lùn


Béo chê béo trục béo tròn
Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra.

Trong mối liên hệ giữa nói và làm, thì hạng


người tệ hại nhất đó là những kẻ nói một đàng,
làm quàng một nẻo. Những kẻ nói thì hay,
nhưng làm thì ngược lại những điều mình nói.
Họ nói vậy mà không phải vậy đâu, cho nên phải
đề cao cảnh giác, bởi vì :
- Ngoài thì hơn hớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Họ đúng là những kẻ ‘’khẩu phật tâm xà’’,
‘’miệng nam mô bụng bồ dao găm’’ như ca dao
đã bảo :
-Nam mô, một bồ dao găm
Một trăm dao mắc
Một vác dao bầu
Một xâu thịt chó.

Chính Đức Kitô cũng bàn về hạng người này


một cách rất chính xác :
- Họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia
tài của các bà góa… Họ giống như mồ mả, bên
ngoài thì quét vôi đẹp đẽ, nhưng bên trong thì
đầy giòi bọ và đủ mọi thứ xú khí.
MỤC LỤC

Người ta thường cho rằng :


- Nói và làm ngược lại điều mình nói là một
chứng bệnh trầm kha của nhiều người, đặc biệt
của các thương gia và chính khách.
Với các thương gia trong lãnh vực buôn bán mà
cứ thật thà như đếm thì làm sao khấm khớ.
Muốn khấm khớ thì phải cân non, thước thiếu,
hàng dổm vẫn cứ nói là hàng xịn.

Còn với các chính khách trong việc hoạch định


chính sách và đường lối của mình mà cứ thẳng
như ruột ngựa thì làm sao thành công. Muốn
thắng lợi thì phải tung hỏa mù, càng mập mờ
càng tốt.

Khi vui thì ta cắt nghĩa rộng cho đối phương


thoải mái tí chút, còn khi buồn thì ta cắt nghĩa
hẹp để có thể chịt cổ những kẻ ngo ngoe chống
cưỡng. Chả hiểu nhận xét trên đúng hay sai.

Tiếp đến, một hạng người khác bớt nham hiểu


hơn, đó là những kẻ nói và lờ. Họ nói nhưng
không làm, giống như bà vợ của thày Tăng Tủ,
bảo đi chợ về sẽ làm thịt heo, nhưng rồi bà liền
đánh trống lảng, cho đó chỉ là chuyện đùa.
MỤC LỤC

Quái chiêu được hạng người này xử dụng đó là


‘’lờ tít’’. Những điều tâm niệm được họ áp dụng
trong cuộc sống, đó là :
- Yên lặng là vàng.
- Cố đấm ăn xôi.
- Nhất lí nhì lì tam ì tứ ẩu.

Sau khi tuyên bố vung vít, họ bèn lặn thật sâu,


im hơi lặng tiếng thật dài. Mặc cho thiên hạ phản
đối, mặc cho thiên hạ yêu cầu. Nói lắm mỏi
miệng. Rồi cũng chìm xuồng và đi vào quên lãng
để họ thủ lợi. Dù có bị mang tiếng là đánh trống
bỏ dùi, thả diều cắt dây, đem con bỏ chợ…thì lợi
nhuận cũng đã chui vô đầy túi.

Gã thấy trong những cuộc vận động, ứng cử


viên nào cũng hứa sẽ làm điều này, sẽ làm điều
kia cho dân chúng khấp khới mừng thầm mà
dồn phiếu

Đến khi đã ẵm được cái ghế này, ghế nọ, đã yên


vị tại Quốc hội, hay tại chỗ nọ chỗ kia, thì những
lời hứa chắc như đinh đóng cột khi trước liền
bốc hơi và trở thành những lời hứa hão. Mọi sự
vẫn y nguyên như cũ.
MỤC LỤC

Gã vốn thường phong cho những kẻ nói và lờ,


nghe và lặn là những vị ‘’giám đốc’’, nghĩa là họ
dám xúi, dám đốc cho thiên hạ làm, còn họ thì
chỉ tay năm ngón, ngồi nhà mát ăn bát vàng, dẻo
miệng đỡ tay chân.

Họ chất những bó nặng lên vai người khác, còn


bản thân thì chả đụng một tí móng tay để lay
thử. Bao nhiêu việc nhọc nhằn thiên hạ lãnh đủ,
còn họ chỉ việc phe phẩy vuốt mấy cọng râu cá
chốt của mình. Nói thì nói vậy chứ đôi lúc gã
cũng thấy mình đã muốn và đã làm như thế.

Hạng người thứ ba gã muốn bàn đến đó là


những kẻ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao
nhiêu. Dầu sao, đối với hạng người này, gã còn
thấy được một đốm sáng ở cuối con đường
hầm.

Trước sự kiện ‘’làm chẳng được bao nhiêu này’’


họ có sẵn trong bụng một ngàn lẻ một lý do để
biện minh. Nào là tại, nào là bởi, nào là vì… ôi
thôi, cái khó bó cái khôn.
Họ quên mất lời người xưa đã dạy :
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình,
MỤC LỤC

biết người trăm trận đều thắng.


Nhiều lúc họ cố tình không muốn biết mình, nên
cứ tuyên bố vung vít, cứ nói cho sướng cái lỗ
miệng, rồi thì đến đâu hay tới đó. Mọi sự sẽ hạ
hồi phân giải. Mà phân giải không được thì sẽ
đánh bài ‘’lờ tít’’.
Họ luôn đâm ngực người khác mà rằng :
- Lỗi tại anh, lỗi tại chị, lỗi tại hoàn cảnh…
Họ chẳng bao giờ dám đấm ngực mà rằng :
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.

Bây giờ, gã xin đề cập tới những hạng người


mà lời nói thường đi đôi vói việc làm. Giữa hai
phạm trù này có một tỷ lệ thuận nào đó, và đặc
biệt, lãnh vực ‘’làm’’thì không ngừng phát triển.

Trước hết là những kẻ nói ít mà làm thì cũng ít.


Họ tiêu biểu cho những kẻ an phận, hưởng
nhàn, luôn bằng lòng với gì mình có. Không
muốn đấu tranh, không muốn dây dưa vào
những chuyện rắc rối của cuộc đời, xin cho
được hai chữ bình yên.

Trái với hạng người này là những kẻ nói nhiều


mà làm thì cũng nhiều. Nói hăng mà làm thì
cũng hăng. Họ tượng trưng cho hạng yêu đời,
MỤC LỤC

và năng động, dám nói, dám làm và dám lãnh


nhâän trách nhiệm của mình trước những thành
công và thất bại. Đi tới đâu, họ cũng gieo vãi
niềm vui mừng và hy vọng cho những người
chung quanh.
Sau cùng là những người nói ít mà làm nhiều,
nói thỉ chẳng bao nhiêu mà làm thì lại rất nhiều,
thậm chí có những người không nói chi cả mà
vẫn âm thầm làm việc. Họ là những người vừa
khiêm tốn, vừa nhiệt thành lại vừa thiện chí.

Tiêu biểu cho hạng người này là thánh Giuse.


Mặc dù nắm giữ một vai trò quan trọng trong
chương trình cứu độ, thế mà qua Tin mừng, gã
không thấy vị thánh này để lại cho hậu thế một
lời nói nào, mà chỉ toàn là những việc làm. Vâng
phục tối mặt, ngay cả trong những hoàn cảnh bi
đát và tăm tối nhất. Gã xin kê đơn hoàn tán, kể
lại một số việc làm điển hình.

Vừa mới đính hôn với Maria chưa được bao lâu,
thì Giuse thấy người yêu bé bỏng của mình
bỗng dưng mang bầu.

Giả như chúng ta, thì chúng ta phải làm cho ra


nhẽ, phải bôi tro trát trấu khiến cho cô ấy bị bẽ
MỤC LỤC

mặt. Còn Giuse, khi nhận ra Maria mang thai bởi


quyền phép Chúa Thánh Thần, liền mau mắn
đón cô ấy về nhà làm bạn mình.

Tiếp đến, khi Maria đang bụng mang dạ chửa,


và sắp tới ngày sinh nở, thế mà chiếu chỉ của
hoàng đế lại truyền cho mọi người phải trở về
quê hương bổn quán của mình để kê khai nhân
hộ khẩu.

Giá như chúng ta, thì chúng ta đã nại lý do này


lý do kia để đánh bài xù. Còn Giuse thì đã âm
thầm đưa Maria về Bêlem để chu toàn bổn phận
của một người công dân.
Rồi đang đêm, được thiên thần báo mộng :
- Hãy đưa con trẻ và mẹ Ngài trốn sang Ai cập vì
Hêrôđê đang truy tìm để giết hại.

Giá như chúng ta, thì chúng ta sẽ mường tượng


ra những vất vả của cuộc hành trình trốn chạy,
những khó khăn của cuộc sống vất vưởng nơi
đất khách quê người để rồi ca bài “xù”. Còn
Giuse thì khác, đã mau mắn vâng theo lệnh
truyền, giữa đêm hôm khuya khoắt, vội vã đưa
Hài nhi Giêsu và Mẹ Maria lên đường trốn sang
Ai cập.
MỤC LỤC

Cũng như sau này, qua lời báo của thiên thần,
Giuse đã đem gia đình về định cư tại làng
Nagiarét, hầu Kinh thánh được ứng nghiệm.

Cuối cùng, suốt những năm tháng dài, Giuse đã


âm thầm đổ những giọt mồ hôi, lao động cật lực
với đôi bàn tay chai cứng tại xưởng mộc
Nagiarét, cố đem lại cho gia đình chén cơm
manh áo, bảo đảm một cuộc sống vật chất ấm
no hạnh phúc cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Giuse không nói nhưng đã làm thật nhiều. Rõ


ràng khác xa với chúng ta.

Thời buổi hiện nay là thời buổi lạm phát lời nói
nhưng lại khan hiếm và thiếu vắng việc làm.

Trong một ngày, trên báo chí, truyền thanh và


truyền hình, chúng ta được nghe biết bao nhiêu
lời tuyên bố nảy lửa, biết bao nhiêu giọng điệu
tuyên truyền, biết bao nhiêu mẫu quảng cáo hấp
dẫn… nhưng thử hỏi kết quả được ngần nào ?

Có những lúc gã cảm thấy như người ta nói để


mà nói, chứ chả có một tí quyết tâm để biến lời
MỤC LỤC

nói thánh việc làm. Người ta tô hồng bằng


những bản báo cáo đầy triển vọng đang lúc thực
tế còn rất bâáp bênh và đen tối.

Ngay cả những lúc thiên tai bão lụt ập xuống,


mùa màng thất bát. Mà mức thu hoạch vẫn gấp
đôi cùng kỳ năm ngoái. Thế có oai không chứ.

Có một khẩu hiệu khiến gã không ngừng suy


gẫm, đó là câu:
- Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Nhưng rốt cuộc nhân dân làm đến mửa mật, mà
tiền do mồ hôi nước mắt lại chui tọt vào cái túi
không đáy của những ông quan tham nhũng.
Riêng trong phần đạo, chúng ta cũng đang mắc
phải tệ trạng này :
- Lạm phát lời nói nhưng lại khan hiếm việc làm.

Từ lúc có trí khôn cho đến bây giờ, chúng ta đã


được nghe biết bao nhiêu bài giảng, chúng ta đã
học được biết bao nhiêu bài giáo lý, chúng ta đã
đọc biết bao lời kinh, còn những hành động bác
ái yêu thương, giúp đỡ những người chung
quanh thì liệu có được một ‘’dúm’’ hay không ?

Và ngay cả bản thân, có lẽ chúng ta cũng đã nói


MỤC LỤC

rất nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu!

Tuy nhiên, việc làm lúc nào cũng có lợi điểm, giá
trị và ưu thế riêng biệt của nó.
Thực vậy, nhờ việc làm chúng ta chứng tỏ cho
người khác tình yêu nồng nàn của chúng ta.
Làm sao có thể nhận ra một tình yêu không việc
làm, bởi vì tình yêu không việc làm chỉ là một
tình yêu đã chết, một tình yêu trong mơ tưởng
chứ không hề tồn tại trong cuộc sống.

Trái lại, với những việc làm dù nhỏ bé, dù tầm


thường nhất cũng đủ cho thấy mức độ đậm đà
của tình yêu chúng ta.

Lắm khi chỉ là một nụ cười, một ánh mắt, một lời
nói, một cử chỉ trìu mến đã làm ấm lên cả cõi
lòng người mình thương mến.

Hơn nữa, nhờ việc làm chúng ta có thể lôi cuốn


và hấp dẫn được người khác như tục ngữ đã
bảo :
- Lời nói như gió lung lay
Việc làm như tay lôi kéo.

Hay như một câu danh ngôn đã bảo :


MỤC LỤC

- Việc làm mới là một bài giảng hùng hồn nhất


có sức lôi cuốn và hấp dẫn. Lời nó chỉ là một tên
lùn, còn việc làm mới thực sự là một anh chàng
khổng lồ.

Con người hôm nay có lẽ đã chán ngấy những


lời công bố, những khẩu hiệu tuyên truyền,
những hình ảnh quảng cáo theo kiểu thùng rỗng
kêu to, nhưng lại rất cần đến những chứng tá
bằng việc làm, những chứng tá bằng cuộc sống.

Thiên hạ cúi đầu ngưỡng mộ một cha Phêrô ở


Paris, suốt đời giúp đỡ cho những kẻ lang thang
không nơi ăn chốn ở. Thiên hạ không ngớt ca
tụng một mẹ Têrêxa ở Calcutta, luôn hy sinh
chăm sóc cho những kẻ nghèo hèn, ốm đau và
hấp hối.

Chính những hành động bác ái, chính những


việc làm yêu thương nhằm xoa dịu những nỗi
đau là điều nhân loại hôm nay đang cần đến.

Còn những ý đồ, những toan tính chính trị núp


sau lưng những lời nói nặng phần trình diễn,
chẳng sớm thì muộn, chẳng hôm nay thì ngày
mai cũng sẽ bị lịch sử lật tẩy.
MỤC LỤC

Viết tới đây, gã tự cảm thấy mình nói cũng khí


nhiều, chỉ xin ghi lại một ý tưởng nữa, cho cái
kết luận được thêm phần… có hậu :

- Thượng đế đã ban cho chúng ta chỉ có một cái


miệng, nhưng lại có những hai bàn tay. Nếu như
ai cũng ý thức điều đó, để rồi giảm nói mà tăng
làm, thì chắc hẳn cục diện thế giới sẽ đổi thay,
khuôn mặt nhân loại sẽ tươi sáng, môi trường xã
hội sẽ ổn định và an bình hơn bao giờ hết.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

KHÔN MÀ KHÔNG NGOAN

Mục “Sổ tay Văn hóa” trên báo “Tuổi trẻ Chủ
nhật” số ra ngày 06.12.1998, có một bài viết
ngăn ngắn của Nguyễn ngọc Bích, với tựa đề :
“Món hàng từ siêu thị Cora”.

Gã xin phép tác giả được trích dẫn nguyên con,


kẻo bị mang tiếng là “thuổng văn” thiên hạ. Rồi
bị lôi ra ba tòa quan lớn với tội danh được thành
lập là xâm phạm tác quyền thì thật nguy to.

Cora ở Đồng Nai là một siêu thị lớn nhất và hiện


đại nhất nước, do doanh nhân Pháp đầu tư. Ở
đó người ta không phải đối phó với chuyện buôn
bán ế ẩm, nhưng với việc hàng hóa bị mất cắp.
Sự kiện mất cắp hàng hóa tại đây đặt ra cho
chúng ta vấn đề đạo đức và phát triển.

Đối với mỗi cá nhân, đạo đức dễ làm cho người


ta cảm thấy thiệt thòi và có những khi muốn vứt
bỏ nó. Tuy nhiên đối với xã hội, đạo đức của mỗi
cá nhân lại cần thiết cho sự phát triển.

Sự việc mất cắp ở siêu thị Cora cho chúng ta


thấy ít ra năm điều :
MỤC LỤC

. Không chỉ là chuyện ăn cắp vặt mà là ăn cắp


có tổ chức.
. Một cụ già 60 tuổi ăn cắp bị bắt còn chửi người
bảo vệ rằng : “lấy đồ của Tây chứ đâu có ăn cắp
của Nhà nước“.
. Điều mà chủ nhân siêu thị lo ngại không phải là
ở chỗ mất cắp mà là không có người nào muốn
bắt cắp, và là sẽ phải đóng cửa vào ngày chủ
nhật vì số tiền bỏ ra cho chi phí bảo vệ sẽ cao
hơn số tiền kiếm được.

. Đối phó, siêu thị đã phải thêm người bảo vệ,


thêm quầy tính tiền.
. Giới chức có trách nhiệm tại trung ương và địa
phương khi được hỏi đã cho biết đại ý là cần
làm nhanh, nếu có báo cáo và được chỉ đạo sẽ
họp với các ngành để làm rốt ráo.

Đó là một hiện tượng xã hội. Và chúng ta rút ra


được gì khi nhìn vụ Cora trong bối cảnh của đạo
đức ?

. Nếu siêu thị đóng cửa một ngày, hay đóng cửa
luôn thì có nghĩa là khi thiếu đạo đức bên trong,
chúng ta sẽ không được hưởng những tiện nghi
bên ngoài.
MỤC LỤC

Như thế, để cho xã hội phát triển về kinh tế thì


không chỉ trong giao tiếp giữa con người, chúng
ta mới phải xứng đáng với nhau; mà ngay cả
với vật chất, nó cũng đòi hỏi như thế. Người sử
dụng nó phải xứng đáng với nó về mặt đạo đức.
Thấy Cora nó to, hàng nhiều, nhưng chớ táy
máy.

. Nếu hưởng được, thì giá trả sẽ đắt hơn so với


những nước khác. Tiền thuê thêm bảo vệ hay
phải mở nhiều quầy thu tiền thì cũng sẽ được
tính vào giá hàng.

Ấy là tại sao giá thành ở chúng ta cao, và sức


cạnh tranh của chúng ta thấp. Ấy là tại sao vào
siêu thị, phải gửi túi, bỏ cặp…Chúng ta có thể
được nhìn, được kể nhiều về văn minh thế giới,
nhưng chẳng bao giờ những thứ đó đến tay ta.

. Trong tâm lý của chủ nhân và của những nhân


viên siêu thị, trước kia họ vui vẻ đón chờ thì nay
sẽ là cảnh giác đề phòng. Khách hàng vào đó sẽ
ít tìm thấy ở họ những nụ cười của vui tươi.

Một môi trường của sự lương thiện không thể


MỤC LỤC

tồn tại khi nó không được một nền tảng đạo đức
hỗ trợ.
. Chính quyền sẽ không còn nhiều thì giờ để
nghĩ và làm những việc tốt cho dân, mà sẽ bị
bận rộn vì giải quyết cái xấu của kẻ cắp.
. Tình trạng có thể kéo dài mãi nếu như “ không
người nào muốn bắt cắp”, hay còn nghĩ “ ăn
cắp của Tây”! Sao mà hội nhập kinh tế ?
Cha mẹ thương con, mua tủ sắm giường. Vậy là
khi chúng ta làm cho người khác thì xã hội có
thêm của cải.

Cora cho thấy khi lấy của người khác thì cái hiện
có trong xã hội cũng sẽ mất đi. Cora là một minh
chứng về vai trò của đạo đức đối với phát triển.
Ý nghĩa về nó là thước đo cho thấy khả năng hội
nhập kinh tế của chúng ta. Siêu thị cho chúng ta
một món hàng, một bài học cụ thể cho một đề tài
trừu tượng.

Tác giả đã nhìn sự kiện Cora trong phạm vi kinh


tế và đã đi tới một kết luận :
- Đạo đức rất cần thiết và là nền tảng cho phát
triển.

Còn gã, mỗi khi nhớ hay đọc lại sự kiện trên, gã
MỤC LỤC

liền cảm nhận một nỗi buồn tê tái, vừa xót lại
vừa thương.

Phải, gã cảm thấy xót xa như chính mình bị bôi


tro trát trấu, hay như chính mình bị một ai đó tát
vào mặt. Tự ái dân tộc nơi gã nổi lên đùng đùng,
nhưng đành phải “ngậm đắng nuốt cay” thế nào.
Gã băn khoăn tự hỏi :

- Không hiểu mấy ông tây bà đầm ấy sẽ nghĩ gì


về người Việt Nam. Rồi khi về nước, chắc hẳn
họ sẽ xì xầm bàn tán với bà con lối xóm rằng :
người Việt Nam thế này, người Việt Nam thế
nọ…Và cuối cùng họ sẽ đi tới một thái độ cụ thể,
đó là hãy đề cao cảnh giác, tránh cho xa cái bản
mặt người Việt Nam.

Có kẻ đã kể cho gã nghe rằng : ở một vài vùng


bên Mỹ, tại những nơi công cộng hay trên xe
buýt, người da trắng mang nặng đầu óc kỳ thị,
đã bạo phổi viết những hàng chữ bậy bạ như
sau :

- Coi chừng người Việt Nam ăn cắp.

Gã không tin rằng câu chuyện này là có thực,


MỤC LỤC

bởi vì người Mỹ vốn đã vỗ ngực khoe khoang


mình là dân tộc văn minh, hiện đại và tự do nhất
hành tinh này. Thế nhưng khi nghe qua, Gã đã
tức suýt nữa thì bể phổi và hộc máu ra mà chết.

Buồn ơi là buồn và đau ơi là đau. Nhưng nghĩ đi


thì cũng phải nghĩ lại. Và khi nghĩ lại, Gã cảm
thấy thương cho những người Việt anh dũng ấy,
đã có can đảm đi ăn cắp và đã có can đảm phát
ngôn thật hách xì xằng :

- Lấy đồ của Tây, chứ đâu có ăn cắp của nhà


nước.

Bình thường, những người Việt anh dũng này


đang lâm vào một hoàn cảnh kinh tế không mấy
sáng sủa, nếu không muốn nói là còn đen hơn
cả mõm chó, bởi vì như cha ông chúng ta thưở
trước đã dạy :
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Đói ăn vụng, túng làm liều.
- Bụng đói thì đầu gối phải bò.

Thế nhưng, bò đâu không bò, lại bò ngay vào


cái siêu thị của mấy ông chủ Tây mà chôm chỉa,
nên mới rách việc.
MỤC LỤC

Gã còn nhớ hồi trước giải phóng, gã có một bà


bác cắm dùi tại giáo xứ Bắc hà, quận Củ chi.
Giáo xứ này nằm sát một căn cứ của quân đội
Mỹ.

Và thế là đang từ một giáo xứ nghèo rớt mùng


tơi, dân chúng lục đục bỏ đi nơi khác để tìm
đường sống, bỗng dưng hồi sinh cái một. Đờn
ông cũng như đờn bà, già cũng như trẻ, người
người đều đi làm sở Mỹ, nhà nhà đều đi làm sở
Mỹ. Bọn nhóc con thì lang thang bán kẹo cao su
và thuốc lá. Ấy là chưa kể đến đội quân “gà
móng đỏ” kéo về, khiến những quán “bar” mọc
lên như nấm sau cơn mưa.

Bà bác tôi, lúc bấy giờ dù đã có tí tuổi, nhưng


cũng vẫn hăng hái hưởng ứng phong trào đi
làm…sở Mỹ. Kể từ đó, trong nhà rủng rỉnh
những cam và táo. Mỗi buổi chiều, khi tan sở về,
thế nào bà cũng moi trong cạp quần ra được
một hay hai trái.

Bà kể lể sự thật như sau :


- Bọn Mỹ chúng nó rất thương các bà già, chúng
gọi các bà già là “má mì san” và thường cho các
MỤC LỤC

bà già trái cây. Thế nhưng các bà già không ăn,


để dành đem về cho con cho cháu. Lỡ hôm nào
chúng không cho, thì nhanh tay lẹ con mắt, chớp
vội vài trái mà dắt đại vào cạp quần chứ sao.
- Bộ khi ra cổng, MP tức là quân cảnh chúng
không khám không xét ư ?
- Đối với các “má mì san”, chúng đều cho ra mà
chẳng khám xét chi cả.
Chuyện rằng có một cô gái được làm ở khâu
nhà bếp, thấy đứa con ở nhà mỗi ngày một ròm
và còm cõi vì suy dinh dưỡng, nên chiều hôm ấy
cô quyết tâm khi về sẽ lấy một ký thịt bò đông
lạnh, rồi quấn kỹ quanh bụng.
Thế nhưng, khi ra đến cổng, do sức nóng của
cơ thể, miếng thịt bò đông lạnh bắt đầu chảy
nước và nhỏ xuống đất những giọt đo đỏ. Bọn
quân cảnh Mỹ thấy vậy tưởng cô gái đã tới…
tháng hay mắc phải chứng bệnh đờn bà con gái
gì đó, nên vội kêu xe cứu thương, chở gấp tới
bệnh xá.

Tại đây, người ta mới khám phá ra và cười ồ lên


:
- À, té ra là thế.
Cái khó ló cái khôn. Hôm nay, cái khó thì vẫn
còn đó, nhưng liệu sẽ ló ra được bao nhiêu cái
MỤC LỤC

khôn siêu đẳng thuộc loại này ? Vậy đâu là


nguyên nhân phát sinh ra tệ trạng trên?

Các cụ đồ nho, học trò Đức Khổng Tử, thì cho


rằng :
- Nhân chi sơ tính bản thiện.
Bổn tính con người khi sinh ra vốn dĩ tốt lành.
Nhưng rồi do hoàn cảnh xã hội, cái tính bản
thiện ấy mỗi ngày một tuột dốc và xấu dần, xấu
dần thêm mãi.

Còn các nhà thần thọc thì phán rằng :


- Xuất phát từ lòng bàn tay Thiên Chúa, con
người tốt lành như các thiên thần, thế nhưng do
ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người bắt đầu
xuống cấp. Trí khôn trở nên mờ tối. Ý muốn bị
dục vọng khống chế. Và lòng tham thì như một
vực thẳm không đáy.

Chính vì lòng tham không đáy này, người ta luôn


hướng chiều tới “việc vơ vét về”. Và người ta đã
nghĩ ra trăm phương ngàn kế để thực hiện ý đồ
đen tối ấy.

Riêng với người Việt Nam, theo gã nghĩ, còn có


một nguyên nhân lịch sử khác nữa.
MỤC LỤC

Số là như chúng ta đã biết cha ông chúng ta đã


từng sống một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, rồi một
trăm năm nô lệ giặc Tây và hai mươi năm nội
chiến từng ngày. Trong kiếp nô lệ đằng đẵng
này, muốn được sống phây phây và phè phỡn,
người ta cần phải khéo luồn và khéo lách…Tất
cả nghệ thuật luồn và lách này được kết tinh
thành những cái khôn, như :

- Khôn quỉ hay khôn xảo, nghĩa là hiểu biết và


thu lợi nhiều cho mình một cách quỉ quyệt và
xảo trá.
- Khôn ranh, khôn lỏi hay khôn vặt, nghĩa là hơn
người trong những việc vặt vãnh, nhỏ mọn
chẳng đáng.

Những cái khôn này, tự bản chất : rằng khôn thì


thật là khôn nhưng lại chẳng ngoan tí nào, bởi vì
chẳng biết phân biệt phải trái. Cứ thấy tiền của,
lợi lộc và chức tước là húc đầu vào như con
thiêu thân lao mình vào lửa hay như con bò
rừng nhào tới tấm vải màu đỏ trong đấu trường
Tây ban nha.

Những cái khôn này đều có hai điểm chung.


MỤC LỤC

Điểm chung thứ nhất đó là luôn đặt cái lợi của


mình lên trên hết và sẵn sàng dùng mọi phương
tiện để đạt cho được mục đích, dù đó chỉ là
những phương tiện xấu xa và hèn hạ.

Điểm chung thứ hai đó là những cái khôn này


luôn mang tính cách lươn lẹo, gian dối và thiếu
thành thật. Nhiều khi miệng thì nam mô, nhưng
trong bụng lại chất đầy một bồ dao găm. Hay
như tục ngữ cũng đã diễn tả :
- Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.

Với một bề dày lịch sử nổi cộm như thế, những


cái khôn ranh và khôn vặt này đã bén rễ sâu
trong tâm hồn và luôn lưu thông trong máu huyết
của người Việt Nam, dù đã cố gắng rất nhiều
nhưng vẫn chưa thể đánh bật được nó ra ngoài.

Chính vì thế mà cho đến hôm nay, nó vẫn còn


để lại những hệ lụy, những hậu quả giây chuyền
thật thê lương và thảm thiết.

Thực vậy, vì thiếu thành thật, nên người Việt


Nam chúng ta rất khó cộng tác với nhau. Người
ngoại quốc đã nhận xét về các sinh viên Việt
MỤC LỤC

Nam như sau :


- Sinh viên Việt Nam rất giỏi, chỉ số thông minh
của họ rất cao. Nếu một chọi một, nghĩa là một
sinh viên Việt Nam địch với một sinh viên ngoại
quốc, họ dễ dàng nắm phần thắng. Thế nhưng
một nhóm sinh viên Việt Nam đấu trí với một
nhóm sinh viên ngoại quốc, thì họ sẽ thua xa.
Sở dĩ như vậy là vì họ không biết hay không thể
cộng tác với nhau.

Đây cũng là kinh nghiệm gã đã từng trải qua.


Thưở còn mài đũng quần trên ghế nhà trường,
cứ mỗi lần thảo luận theo nhóm là thấy khỏe re
con bò kéo xe, bởi vì chỉ cần bàu lên một tên
trưởng nhóm, rồi sau đó ngồi tán gẫu, cà kê dê
ngỗng cho đến hết giờ, phó mặc tên trưởng
nhóm tha hồ ba hoa chích chòe, vẽ rồng vẽ rắn,
thêm râu thêm ria khi lêân trình bày hay báo cáo
cùng bàn dân thiên hạ.

Cũng chính vì sự thiếu cộng tác này mà cho đến


ngày hôm nay dân tộc mình không để lại được
cho đời một công trình nghệ thuật tầm cỡ nào.

Chẳng hạn về kiến trúc, các lăng tẩm ở Huế còn


quá nhỏ nhoi so với khu đền Ăng ko của người
MỤC LỤC

anh em Campuchia. Về văn học, hiện giờ chúng


ta chưa có được một bộ bách khoa tự điển đầy
đủ…Mạnh ai, người ấy viết. Mạnh ai người ấy
làm. Mà sức làm, sức viết của mỗi cá nhân thì
thật hạn hẹp. Một cái đầu làm sao bằng hai cái
đầu.
Một bộ tự điển “Larousse” của Pháp mà thôi
cũng đã có biết bao nhiêu người cộng tác, rồi từ
năm này qua năm khác, họ vẫn luôn duy trì sự
cộng tác chặt chẽ ấy, để có những bổ túc cập
nhật hóa, khỏi bị lỗi thời. Thấy mà thèm.

Rồi vì lòng tham, thấy cái lợi liền bị tối tăm mặt
mũi như kẻ phải gió, nên mới nảy sinh ra những
hành động làm nghèo cho đất nước.

Thực vậy, có người đã quan niệm : của nhà


nước là của chùa, cứ mặc sức mà vơ vét, tuy
nhiên phải khôn ranh một tí để khỏi bị tóm cổ.
Nếu lỡ bị tóm cổ, thì hãy liệu mà chạy thuốc, lo
lót càng sớm càng tốt, vì :
- Đồng tiền đi trước, đồng tiền khôn.
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.

Có một độ, nhà nước thu thuế bằng hiện vật.


Chẳng hạn anh nông dân thì phải đóng thuế
MỤC LỤC

bằng lúa. Và thế là anh ta không ngần ngại trộn


cát hay dội nước vào lúa cho nặng ký, khiến cho
cả núi lúa thuế bị hư hỏng hay không thể xài
được. Đây rõ ràng là tham cái lợi trước mắt mà
quên cái hại sau lưng.

Cũng vì tham cái lợi mà biết bao xí nghiệp, công


ti đã lỗ chổng vó, đã thua sặc gạch hay đã biến
thành một thứ “công ti năng tan” chỉ vì ngài giám
đốc hay cô thư ký biển thủ.

Biết bao đường giây hụi bị bể vì người cầm trịch


ôm tiền bỏ trốn đi mất. Ấy là gã chưa nói đến
những thứ “giả” được sản xuất để trục lợi.

Chẳng hạn làm hàng giả để kiếm lời. Hôn nhân


giả để được xuất cảnh. Ly hôn giả để được cấp
đất, cấp nhà. Bằng cấp giả để lòe thiên hạ hay
để được ngồi vào chiếc ghế này, chiếc ghế kia.
Mang thai giả để tống tiền. Đạo đức giả để lấy
điểm hay để được thương…chỉ còn thiếu mỗi cái
hàm răng giả để cho khỏi móm mà thôi. Hy vọng
khi có dịp, gã sẽ mổ xẻ về những thứ giả này.

Càng viết, gã lại càng thương và càng xót, càng


tủi và càng hận. Rốt cuộc, yếu tố quan trọng
MỤC LỤC

nhất vẫn là yếu tố con người. Chẳng thế mà cha


ông chúng ta ngày xưa đã bảo :
- Phải tu thân, rồi sau đó mới tề gia, trị quốc và
bình thiên hạ.

Ngày nay, muốn phát triển và nâng cấp nền kinh


tế, thì tiên vàn, phải phát triển và nâng cấp chính
con người trước mình đã.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

THƯƠNG HẠI

Ngày xửa ngày xưa, có một ông tây chính hiệu


“Phú lãng sa”, trong người đặc sệt dòng máu
“Gô loa”, nhãn hiệu con gà trống. Thế nhưng
ông tây này lại yêu đến chết mê chết mệt một
“cô em Bắc kỳ nho nhỏ”.

Và khi đã yêu ai như điếu đổ, người ta sẵn sàng


yêu cả đường đi cùng với mọi tông chi họ hàng.
Vì thế, ông tây này cũng xơi thịt chó như điên,
cũng húp canh cua rau đay chùn chụt, cũng
dùng cà ghém quệt đẫy mắm tôm và bắn thuốc
lào kêu ro ro như bắp nổ. Đặc biệt, ông tây này
đã hết lời ca ngợi tiếng Việt của dân ta.

Hình như trong một bài báo, ông tây này đã bạo
phổi cả gan gọi tiếng Việt của dân ta là “mère
des langues”, nghĩa là mẹ của các ngôn ngữ.

Và rồi ông tây này đã đưa ra lập luận của mình,


gã chỉ còn nhớ mang máng, xin ghi lại nơi đây
để trình làng, đồng thời có thêm mắm thêm muối
tí chút cho rộng đường dư luận.

Ngôn ngữ cổ xưa nhất phải là ngôn ngữ độc âm,


MỤC LỤC

tượng hình và tình cảm, giống như một đứa bé


khi mới học nói, nó chỉ nói được từng tiếng một
và diễn đạt những cái cụ thể, gần gũi với nó
nhất.

Dưới góc độ này thì tiếng Việt của dân ta thừa


sức qua cầu. Thực vậy, như chúng ta đã thấy
tiếng Việt của dân ta tự bản chất vốn đã là một
ngôn ngữ độc âm, từng tiếng một và hơn thế
nữa những ngôn từ thông dụng, cụ thể và gần
gũi nhất đều xuất phát từ….tiếng Việt.

Chẳng hạn như người Việt chúng ta gọi “Ba”, thì


người Pháp gọi là papa hay père, còn dân Ăng
lê thì gọi là father. Người Việt chúng ta gọi “Má,
Mẹ” thì người Pháp gọi là maman, mère, còn
dân Ăng lê thì gọi là mather, người Tàu thì gọi là
mẫu…

Riêng cái khoản tượng hình và tình cảm thì


tiếng Việt của dân ta hẳn phải ăn đứt thiên hạ.

Chẳng hạn chỉ một màu trắng mà thôi, trong


tiếng Việt, đã có biết bao nhiêu mức độ đậm
nhạt khác nhau như : trắng bạc, trắng bệch,
trắng bong, trắng bốp, trắng dã, trắng đục, trắng
MỤC LỤC

hếu, trắng mét, trắng mịn, trắng mởn, trắng ngà,


trắng ngần, trắng nõn, trắng phau, trắng phếu,
trắng tinh, trắng tuốt…

Trong phạm vi tình cảm cũng vậy, chỉ nguyên


cái chuyện giận mà thôi cũng đã thấy nhiêu khê
và rắc rối : giận bậy, giận cùn, giận dai, giận dữ,
giận giỗi, giận hờn, giận lẫy, giận phừng phừng,
giận run cả người, giận tím cả gan, giận bể cả
phổi, giận sôi cả tim….

Có lần gã định dịch một câu hát của Trịnh Công


Sơn qua tiếng Pháp :
- Nắng có hờn hằn lên môi em…
Rốt cuộc, gã đành chào thua. Có thể vì khả
năng tiếng “phăng xe” của gã còn yếu kém,
nhưng cũng có thể vì cái nắng, cái hờn trong
tiếng Việt Nam có những “gam”, những mức độ
đậm đặc tuyệt vời khó mà diễn tả.

Gã không chuyên về ngôn ngữ học, nên chẳng


hiểu lý luận trên đây của ông tây này được ban
giám khảo chấm cho được mấy điểm.

Riêng phần gã, gã hoàn toàn “ khẩu phục, tâm


phục” cách ghép chữ của ông cha ta ngày trước.
MỤC LỤC

Gã chỉ xin đưa ra một vài thí dụ điển hình mà


thôi.

Chẳng hạn : “học hành”, đã học thì phải hành,


nghĩa là phải làm, phải thực hiện thì mới ăn tiền.
“Đạo đức” nghĩa là đạo giúp chúng ta trở nên
người nhân đức, vì thế đã có đạo thì phải sống
tốt lành nếu không thì chỉ bằêng thừa mà thôi.
“Nhường nhịn” đã nhường nhau thì cũng phải
nhịn nhau, dù người ta có chửi cha chửi mẹ, đào
mồ tổ tiên ông bà hay cho ăn những thức cao
lương mỹ vị thì cũng phải cắn răng chịu vậy, bởi
vì đã nhường thì phải nhịn và nhịn như vậy thì
lắm lúc cũng…nhục lắm. Thế mới gọi là nhịn
nhục chứ.

Trong mục “tán hiêu tán vượn” hôm nay, gã chỉ


xin bàn đến hai chữ “thương hại” mà thôi. Đây
quả là hai chữ tuyệt vời và hết ý.

Thực vậy, tình thương là một cái gì tốt đẹp như


khi cha mẹ thương yêu con cái mình. Tình
thương là một lý tưởng cao cả cần phải được cổ
võ. Chẳng hạn trước những đồng bào gặp phải
thiên tai như bão lụt, chúng ta nên biểu lộ tình
thương một cách cụ thể theo kiểu : thương
MỤC LỤC

người như thể thương thân, lá lành đùm lá rách,


còn lá rách thì cũng cố mà đùm lấy lá…te tua.

Thế nhưng trong đời thường lại có biết bao


nhiêu kiểu thương vô cùng tai hại, mà hậu quả
nhiều khi khó lường nổi.

Trước hết trong phạm vi gia đình.


Có những bậc cha mẹ vì thương con, sợ con
phải cực, phải nhọc, phải đau nên sẵn sàng
“bao cấp”, làm hết mọi việc cho nó, biến nó trở
thành một thứ “cô chiêu, cậu ấm”, chỉ biết đòi
hỏi, bắt người khác phục vụ, chẳng biết khuôn
mình vào một kỷ luật tối thiểu nào cả, luôn ỉ lại
và không bao giờ biết tự chủ lấy một ly ông cụ.

Bên cạnh nhà gã có một cặp vợ chồng già sinh


được một mụn con trai. Hai ông bà hết sức
muông chiều cậu ấm như người ta diễn tả :
- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.

Thấy bọn nhóc tập xe đạp, cậu ấm cũng đòi tập,


những hai ông bà kiên quyết nhất trí không cho
vì sợ cậu ấm té ngã, trầy da tróc vẩy, toạc đầu
xẻ chân…Vì vậy cho tới già, cậu ấm vẫn không
biết đi xe đạp và mang một nỗi mặc cảm với
MỤC LỤC

chúng bạn.

Có những bậc cha mẹ vì thương con nên hết


sức cưng chiều. Nó đòi gì là lập tức cho ngay,
thậm chí còn thỏa mãn ngoài nhu cầu của nó.
Từ chỗ có tiền, nó đâm đua đòi bè bạn học thói
xì ke ma túy. Từ chỗ xì ke ma túy bước sang
trộm cắp, khoảng cách rất gần, chả cần đến một
cú nhảy vọt.

Gã xin lượm lặt những mẩu tin trong báo Công


an để chứng tỏ sự thật bi đát trên.
“…Thành là con út trong gia đình nên rất được
ông bố cưng chiều. Cậu quí tử này đã đàn đúm
cùng lũ bạn xấu tập tành hút xách. Thương con
cách mù quáng, thay vì đưa con đi cai nghiện,
ông bố lại còn đưa thêm tiền để nó thỏa mãn
cơn nghiện. Ngày 6.11.1997, do không chịu nổi
cơn ghiền, Thành đã về nhà dí dao vào cổ ông
bố, bắt ông phải đưa tiền cho hắn…

“…Vì cha mẹ cho rằng học nhiều cũng chẳng đi


đến đâu, nên đã mười mấy tuổi, Toàn vẫn còn là
một “thằng bé lêu lổng”, ngỗ nghịch. Nhà gần
chợ, suốt ngày Toàn lê la quán xá, học đòi ăn
chơi và không biết từ bao giờ nó đã nghiện…ma
MỤC LỤC

túy. Nghe tin dữ ấy, cha mẹ Toàn chỉ còn biết


mắng vuốt đuôi một trận te tát, sau đó đâu lại
vào đấy. Cuộc mưu sinh cuốn họ vào những lo
toan “cơm áo gạo tiền”. Việc Toàn nghiện hút
được gia đình mặc nhiên thừa nhận như thể đó
là chuyện phải đến với một thằng bé 15 tuổi.
Thời gian đầu chưa kiếm được tiền, Toàn tự
trích lại một phần thuốc bán được 5.000đ để
dành cho cữ ngày hôm sau. Hết tiền thì mua
chịu, ký nợ. Cứ như thế, từng ngày từng giờ
Toàn lún sâu vào nghiện ngập, lún sâu vào việc
buôn bán ma túy…

Có những bậc cha mẹ vì thương con, nên khi


con sai lỗi, đã không sửa dạy mà con dấu diếm
và bênh vực những sai lỗi ấy. Chẳng hạn như
trong trường hợp của Toàn trên kia. Tại tòa án,
khi được hỏi thì bà mẹ của Toàn đã thản nhiên
trả lời :
- Tôi biết nó hút héroin, nhưng vì nó còn bé, đưa
đi cai nghiện thì tội nghiệp…Tôi cũng biết nó bán
héroin, mấy lần nó còn nhờ tôi bán giúp. Thỉnh
thoảng nó cho tôi ba, bốn chục ngàn. Tôi nghĩ
con cái có tiền cho thì xài, không cần hỏi lại.

Rất nhiều chuyện cỏn con không đâu của đám


MỤC LỤC

con nít, nhưng chỉ vì bênh con nên đã hóa thành


chuyện lớn làm mất đi bàu khí êm ấm và cảm
thông trong khu xóm : bênh con, lon xon mắng
láng giềng là vậy.
Tiếp đến trong phạm vi xã hội.

Cũng có nhiều kiểu thương mà rất hại. Gã chỉ


xin đưa ra một trường hợp cụ thể đó là nạn ăn
xin.

Tác giả Nguyễn thị Oanh trên báo Tuổi trẻ Chủ
nhật đã phân tích như sau :
“Không nói đến người già cả, tàn tật, cô thế mà
ta có nhiều cách nâng đỡ, chứ không chỉ máy
móc cho tiền, người còn sức lao động sẽ ỷ lại,
chai lỳ. Đó là cái hại thứ nhất.
“Việc kiếm tiền dễ dàng khiến cho nhiều người
lấy xin ăn thành một nghề. Như vậy cái hại thứ
hai của cử chỉ ban phát là tạo một lớp người ăn
bám.

“Hơn thế nữa, ta còn góp phần tạo ra tội phạm


là những kẻ giả dạng thày tu, thương binh và
nghiêm trọng hơn nhiều, ta góp tay vào nạn lạm
dụng trẻ em để làm công cụ xin ăn. Có em bị
gây thương tật, bị cho uống thuốc ngủ và nội
MỤC LỤC

chuyện phơi nắng suốt ngày…. cũng đã đủ nhức


nhối.

Để gợi lòng thương, dân ăn xin dám làm những


chuyện thật tai hại khác. Ngoài việc lạm dụng trẻ
em, còn một số mánh đã được báo Công an mô
tả.

“…Phổ biến nhất là chuyện tạo ra thương tật


giả, lấy sự bi đát ghê rợn để diễn cảm hầu kích
thích lòng nhân ái, từ tâm. Những “dân chơi bất
cần thân thể” này chẳng sợ hoại thư, chẳng cữ
bất cứ vi trùng gì, cứ “triển lãm sản phẩm” là
những vết lở loét rất kinh tởm, mủ máu, ruồi
nhặng bu đầy, có thế mới ép phê, mới tạo sự xót
xa để rồi khổ chủ càng lòi nhiều tiền ra.

Trong phút nói thật, có kẻ đã tiết lộ bí quyết như


sau : Ban đầu chỉ là một vết cào xước bằng đá
xanh tự làm lấy, tự tạo ra. Rồi một nắm tóc được
ngâm lâu trong nước tiểu, rịt vào, băng thật kín
lại, vết loét sẽ lan rộng sau một tuần bị bí hơi và
không được rửa ráy, bôi thuốc, mà còn phải ăn
hằng ngày xôi đậu phộng, bánh tét…để vết
thương lồ lộ cho ruồi muỗi bu vào đẻ đái, kết
quả một tháng thôi đã quá đủ để bá tánh đi chợ
MỤC LỤC

nhăn mặt, sẵn 200, 500 tiền thối đáng gì cho họ


làm phước, tội nghiệp.

Để cho mắt sưng lên, chảy cả mủ lẫn ghèn,


trông như đui đến nơi, chúng chỉ cần nhỏ vài
giọt mủ xương rồng.

Để tạo cảm giác mạnh với một dúm ruột máu me


đỏ hỏn lủng lẳng trước bụng, chúng dùng đoạn
ruột heo rửa sạch bôi thuốc đỏ, đặt ở bụng, rồi
dùng bao nylon ém lại, lấy giây buộc quanh
bụng. Qua lớp nylon cáu bẩn thật là khó phân
biệt, hơn nữa đã có mấy ai được biết ruột thật ra
sao ?

Để vừa bò vừa lết, chúng nằm sấp trên chiếc xe


đẩy tự tạo, một chân gập ngược ra sau, buộc
cho chặt, sau đó phủ lên trên bằng lớp quần áo
cũ rách…
Qua những mánh được xử dụng trong nghề ăn
xin như vậy, có lẽ nên tự hỏi xem mỗi khi bố thí,
mình sẽ làm cho họ vươn lên hay ngược lại, sẽ
làm cho họ ỉ lại, đảy họ vào chỗ phụ thuộc, ăn
bám và đánh mất lòng tự trọng. Thương như
vậy quả là thương mà hại.
MỤC LỤC

Sau cùng trong phạm vi quốc tế.


Cũng không thiếu những kiểu thương mà hại.
Một nước giàu viện trợ cho một nước nghèo,
trước mặt bàn dân thiên hạ, thì đó là một hành
động biểu lộ tình thương. Thế nhưng hành
độâng biểu lộ tình thương này không phải là
không có những tác hại của nó.

Nếu viện trợ về súng ống, đạn dược, thì họ đảy


chúng ta vào vòng chiến tranh, làm cho quê
hương bị rách nát hầu nuôi sống ngành công
nghệ chế tạo vũ khí của họ.
Nếu viện trợ về tiền bạc, thì họ làm cho chúng ta
bị lệ thuộc một cách êm ái. Khi muốn gây áp lực,
chỉ cần cúp viện trợ, lập tức chúng ta bị xính
vính và xin qui thuận vô điều kiện như một chư
hầu ngoan ngoãn và dễ bảo.

Ngoài ra những đồng tiền bất hạnh này còn tạo


ra một thứ phồn vinh giả tạo, ru ngủ chúng ta
trong việc phát triển kinh tế, để rồi không cần
thắt lưng buộc bụng, ăn xài theo kiểu bóc ngắn
cắn dài, con nhà lính tính nhà quan, nên đã lệ
thuộc thì lại càng lệ thuộc hơn nữa, bằng không
chẳng sớm thì muộn cũng sẽ sụp đổ về chính trị
cũng như về kinh tế.
MỤC LỤC

Hôm nay dám xía vô lãnh vực chính chị chính


em thì quả là bạo phổi, vì lãnh vực này gã chẳng
hề có tí hiểu biết nào sốt, đúng là múa rìu qua
mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm…Ví bằng
có điều gì sai sót, thì gã xin…rút.

Trở về với lãnh vực đời thường nhỏ bé, gã xin


kể lại một kinh nghiệm bản thân.
Hồi sống trên Đàlạt, gã có một bà dì. Gia đình
bà dì này cũng lâm vào cảnh túng thiếu. Ông
chú đi làm không đủ chi bởi vì họ có những tám
đứa con.

Nhiều lúc bà dì đã cầu viện gã giúp đỡ. Hoàn


cảnh của gã lúc bấygiờ cũng chẳng khấm khớ gì
cho lắm, bởi còn đang trong kiếp học trò, dài
lưng tốn vải ăn no lại nằm. Chắt chiu vét hào
bao thì cũng chỉ được mấy chục ngàn. Mà mấy
chục ngàn thì có là bao, đánh vèo một cai là đã
hết. Đúng là của vào nhà khó như gió vào nhà
trống.

Nằm vắt chân lên trán để tìm kế giúp đỡ sao cho


có hiệu quả. Cuối cùng sau nhiều ngày tháng tiết
kiệm, nghĩ tới nghĩ lui, gã bèn mua tặng cho bà
MỤC LỤC

dì một chiếc máy may cũ hiệu Sinco.

Thế rồi, cũng từ chiếc máy may này, đời sống


kinh tế dần dần được cải thiện. Mấy đứa nhỏ đi
học về, bèn chia phiên nhau may gia công giúp
mẹ. Thời gian sau, bà dì gã tậu thêm được một
chiếc máy nữa, vì cũng lắm…con gái. Kinh tế
không những được bảo đảm mà còn có mòi
phất lên là đàng khác.

Viết đến đây, gã bèn nhớ tới một câu thành ngữ
của người Tàu :
- Thụ chi dĩ ngư, cần cung nhất phạn chi nhu,
giáo nhân dĩ ngư, tắc chung thân thụ dụng vô
cùng. Nghĩa là trao cho người ta con cá thì chỉ
giúp được một bữa ăn, dạy cho người ta biết
câu cá thì người ta suốt đời được hưởng dụng
vô cùng.
Chẳng hiểu câu thành ngữ này có thể trở thành
một đường lối cho chúng ta trong việc giúp đỡ
người khác và một chính sách trong việc viện trợ
cho các nước nghèo hay không ?
Còn gã, khi trích dân câu thành ngữ này của
người Tàu, liệu có đáng mặt ….cụ đồ hay
“nho chùm” không đấy chứ ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TỪ HÀNG GIẢ ĐẾN NGƯỜI GIẢ

Mấy hôm nay rảnh rỗi, gã đọc lại chồng báo


xuân Mậu dần 1998 và gã tóm được một mẩu
tin làm đề tài tán hươu tán vượn, không biết nên
buồn hay vui. Và nếu có cười thì nụ cười cũng
méo mó, rất có thể sẽ rơi cả nước mắt.

Mẩu tin ấy ở trong báo Công an, mang tựa đề là


“chồng thật- chồng giả “, đại khái như thế này :
Với mong muốn được vi vút ở ngoại quốc, nên
khi được người quen gợi ý, cô BT, ngụ tại
phường 12 quận 6, đồng ý liền tù tì.

Để hợp thức hóa việc xuất ngoại, BT ưng thuận


làm thủ tục kết hôn giả với một với công dân
Pháp, tên là Simon, 35 tuổi, hơn BT vừa đúng
một con giáp.

Theo hợp đồng, hai người là vợ chồng nhưng


không sống chung. Khi đã định cư ở nước
ngoài, thì ly dị và BT phải trả công cho ông
chồng hờ 3.000 mỹ kim.

Ngày 06-5-1997, BT và Simon được Ủy ban


nhân dân thành phố cấp giấy chứng nhận kết
MỤC LỤC

hôn. Từ đây, cô gái những tưởng mọi chuyện đã


xuôi chèo mát mái, bắt đầu thêu dệt mộng…việt
kiều.

Nào ngờ chàng rể vi phạm hợp đồng, đòi làm


chồng thật, chứ nhật định không chịu đóng vai
làm chồng hờ nữa. Đường cùng, BT phải đâm
đơn cho ba tòa quan lớn xin ly hôn. Vì thà “ vỡ
mộng “còn hơn là …tàn một kiếp hoa.

Từ sự việc trên đây, đêm nằm vắt chân lên trán,


gã nghiệm rằng :
- Sự giả là một cơn bệnh trầm trọng của xã hội
hiện nay, là một hiện tượng được liên tục phát
triển qua một lãnh vực, từ hàng hóa đến con
người.

Vậy giả là gì ?

Dĩ nhiên, giả có nhiều nghĩa, nhưng trong phạm


vi bài này, gã chỉ xin được tự hạn chế :
- Giả là nhái cho giống để gạt người ta.
Thí dụ như giả điếc, giả câm, giả bộ…Riêng dân
có tinh thần ăn uống cao, ghiền món “cờ tây’’ mà
nếu không sẵn, thì bèn phệu ra món ‘’giả cầy’’
để xài cho đỡ nhớ. Vật liệu được làm bằng thịt
MỤC LỤC

heo, tẩm liệm với riềng mẻ và mắm tôm, xào lên


thơm phưng phức, làm điếc cả mũi hàng xóm,
xơi vào cũng êm trời gió bụi, chẳng khác chi thịt
cầy thứ thiệc.

Bây giờ xin trở lại với phạm trù hàng giả.

Hàng giả hơi khác với hàng dổm một tí, bởi vì
hàng dổm là hàng có phẩm chất kém. Còn hàng
giả, ngoài phẩm chất tồi, còn mắc thêm cái tội
‘’cóp pi’’ mẫu mã y chang thứ hàng thật, rồi tung
ra thị trường, nhằm dối gạt người mua, gây thiệt
hại đôi ba bề.
Hàng giả lúc này thật ê hề, tràn lan từ cái tăm
đến hộp xà phòng, từ chiếc đồng hồ đeo tay đến
những máy móc đắt tiền.

Chẳng thế mà có thời người ta để mỉa mai :


- Hồng kông ư ?
- Hỏng dám đâu, có mà bên hông Chợ lớn ấy.
Nghệ thuật làm hàng giả ngày càng tinh vi, khiến
cho người tiêu dùng khó mà nhận ra, chỉ khi
mua về đem xài thì mới vỡ nhẽ ra đó là hàng
giả.

Dịp tết, gã bóp bụng mua một chai rượu tây cho
MỤC LỤC

đời lên hương. Từ vỏ chai đến nhãn hiệu trình


tòa đều là thứ xịn, nhưng khi khui ra để uống, thì
hỡi ơi, chỉ toàn là một thứ nước màu vàng, sặc
mùi cồn mà thôi.

Bởi đó, trong những năm gần đây, người ta chịu


khó tổ chức nhiều cuộc triểm lãm hàng giả, để
người mua kẻ sắm nhận diện. Hay trong những
mục quảng cáo trên truyền hình, người ta luôn
dặn dò :
- Xin nhìn kỹ mẫu mã để khỏi mua nhầm hàng
giả.
Tới đây, gã xin kể lại hai mẩu chuyện nho nhỏ.
Mẩu chuyện thứ nhất về tiền giả ở bên Đức.

Hôm ấy, hai đội bóng tranh giải vô địch. Sân vận
động chặt cứng như nêm. Người hèn có, kẻ
sang có và những bậc tai mắt lại càng nhiều.

Khi tan cuộc, mọi người hối hả ra về, thì thấy


giữa đường đi, rải rắc nhiều tờ giấy bạc 500
đồng, của một hay nhiều khán giả vô ý nào đó
đánh rơi.
Ai cũng lấm la lấm lét. Thế rồi kẻ trước người
sau, tất cả đều lần lượt cúi xuống…sửa giày. Có
kẻ sửa tới năm bảy lần. Kẻ sang cũng như
MỤC LỤC

người hèn, thượng lưu cũng như bình dân.


Không ai trao đổi với ai một tiếng, nhưng ai cũng
thấy vui như mở trong bụng :
- Đi xem đá bóng hôm nay đúng là được thần tài
phò trợ.
Về đến nhà, xoa tay cho sạch, thò vào túi, rút
xấp bạc ra, sung sướng và hí hủng.
Thế nhưng dưới ánh đèn sáng, nhìn kỹ lại, thì ôi
thôi, khóc vì hổ ngươi. Vừa tức lại vừa nhục.
Tức cho ai mà cũng nhục cho ai. Các ngài đã bị
sập bẫy trong một cuộc chơi trắc nghiệm của
một tổ chức nào đó. Bời vì giấy bạc toàn là thứ
giả mà thôi.
Xem thế, thì phàm đã là người, ai cũng có một
chút máu tham trong mình.

Mẩu chuyện thứ hai về vàng giả ở Việt Nam.

Trưa Sài Gòn, trời nắng như đổ lửa. Đường phố


ngái ngủ. Xe cộ thưa thớt. Một cô nàng ăn mặc
thật đúng mốt. Cổ thì giây chuyền. Tay thì vòng
vàng óng ánh. Còn thân hình yểu điệu thì đang
cưỡi trên một chiếc xe gắn máy, dường như cô
nàng vừa mới đi dự tiệc và đang trên đường về
nhà.
MỤC LỤC

Bỗng một chiếc xe gắn máy khác trờ tới và ép


sát cô nàng. Người ngồi sau lanh tay lẹ con mắt
chộp vội sợi giây chuyền nơi chiếc cổ nõn
nường, khiến cho chiếc xe lảo đảo và cô nàng
xuýt bị đo đường.

Thế nhưng, chỉ một lúc sau hai tên kẻ cướp


vòng xe lại, ném sợi giây chuyền vào mặt cô
nàng và chửi :
- Tiên sư em nhé, đẹp như tiên mà xài toàn đồ
giả, thối không chịu nổi.
Tuy nhiên, chúng ta cần phải lưu ý điều này :
- Hàng giả đang lũng đoạt thị trường, nhưng
không nguy hiểm cho bằng người giả.
Thực vậy, nhìn vào con người, chúng ta thấy từ
vóc dáng và hành động bên ngoài đến tình cảm
và ý nghĩ bên trong, người ta đều có thể giả
được tuốt luốt.
Nếu các cụ ta ngày xưa thường bảo :
- Cái răng cái tóc là góc con người.
Thì ngày nay, với kỹ thuật giải phẫu thẩm mỹ và
trang điểm tuyệt vời, người ta có thể cải lão
hoàn đồng, từ một bà già trầu móm mém gần
đất xa trời trở nên một cô thiếu nữ liễu yếu đào
tơ trong thoáng chốc bằng cách trang bị cho bà
cụ những thứ đồ giả : nào là mái tóc giả, nào là
MỤC LỤC

hàng mi giả, nào là hàm răng giả, nào là bộ


ngực giả, nào là cặp mông giả…

Người ta cũng có thể tạo nên những nụn ruồi


giả, những má lún đồng tiền giả, những chiếc
cằm xẻ giả. Thậm chí có những anh chàng đực
rựa “chăm phần chăm” được cải trang thành
những cô gái y như thật với những ý đồ đen tối
và hắc ám, khiến cho những đấng mày râu háo
sắc và ngây thơ cụ cũng phải bé cái lầm.

Thế nhưng cái “hình dong bên ngoài” không


quan trọng cho bằng những cái làm nên phẩm
chất bên trong của con người. Và những thứ
này lại cũng toàn là đồ giả.

Chẳng hạn để khoe khoang với bè bạn, để dễ


dàng trong công ăn việc làm, cũng như để luồn
lách vào chức vụ nọ chức vụ kia, người ta có thể
bỏ tiền ra mua một cái bằng…phó tiến sĩ giả, để
hù dọa bà con lối xóm.

Người ta cũng có thể mượn danh làm công an


giả, cán bộ giả, thậm chí cả linh mục giả để dối
gạt thiên hạ, ẵm về cho mình những món tiền
lớn và những lợi nhuận kếch xù.
MỤC LỤC

Thế nhưng bẽ bàng và cay đắng hơn cả, đó là


người ta đã mượn tạm danh nghĩa, lợi dụng
những chức vụ giả ấy để ăn cướp cơm chim,
phỗng tay trên chén cơm manh áo của các em
nhỏ trong viện mồ côi, của các cụ già trong nhà
dưỡng lão…bằng cách lừa đảo các tổ chức từ
thiện cũng như các nhà hảo tâm.

Mánh mung của bọn này thì thiên biển vạn hóa,
đến quỉ thần cũng không lường nổi mà chúng ta
thấy nhan nhản trên báo chí.

Từ phẩm chất giả, quạ mượn lông công, cáo


mượn oai hùm, chúng ta bàn tới những hành
động giả. Và một trong những hành động giả mà
gã xin đề cập đến, đó là hôn nhân giả.

Thực chất của cuộc hôn nhân giả chính là tình


yêu giả. Người ta giả bộ yêu nhau để toan tính
những công việc khác chẳng hạn như để xuất
ngoại, để làm ông nọ bà kia.
Họ nhìn vào người ấy không phải để thấy người
ấy dễ thương và dễ mến, nhưng để thấy túi tiền
người ấy đang có, cái ghế người ấy đang ngồi,
tòa nhà người ấy đang ở, chiếc xe người ấy
MỤC LỤC

đang đi…Tóm lại, họ không yêu gì người ấy, mà


yêu cái tài sản, cái chức vụ của người ấy mà
thôi.

Nổi cộm trong hàng loạt hành động giả này, đó


là cái thói giả hình, hay nói một cách cụ thể hơn,
cái thói giả nhân giả nghĩa, hay đạo đức giả.

Họ là những kẻ khẩu phận tâm xà, miệng nam


mô bụng bồ dao găm, đúng như tục ngữ đã
diễn tả :
- Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Hay :
- Nam mô.
Một bồ dao găm,
Một trăm dao mác,
Một vác dao bầu,
Một xâu thịt chó.
Họ là những kẻ nghĩ thế này, nói thế kia, nói một
đàng làm quàng một nẻo. Tư tưởng không đi đôi
với lời nói, còn lời nói thì không đi đôi với việc
làm. Tư tưởng, lời nói và việc làm của họ không
còn trong suốt như pha lê. Không còn hợp nhất
với nhau.
MỤC LỤC

Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu.


Thậm chí họ còn làm ngược lại với điều họ nói.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã diễn tả một


cách rất chính xác về hạng người này :
- Họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt hết tài sản
của các bà góa. Họ rửa sạch bên ngoài chén
đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm
cắp và vô độ. Họ giống như mồ mả tô vôi, bên
ngoài thì có vẻ đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy
xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.

Để kết luận, tôi xin ghi lại nơi đây ý kiến của chị
Nguyễn thị Oanh, tác gỉa bài ‘’tính trung thực’’,
đăng trên báo tuổi trẻ Chủ Nhật, như sau :
“Tôi thấy cán bộ công đoàn ngồi lại đánh giá
công nhân trên những phát triển của họ ở các
buổi học tập chính trị. Còn công nhân thì thổ lộ :
Người ta không cần biết chúng tôi sản xuất như
thế nào ? Đối xử với anh em ra sao ? Gìn giữ tài
sản chung đến mức nào ? Mà chỉ coi trọng lời
nói. Tôi thì rất ngượng ngùng phải nói những
điều không xuất phát từ đáy lòng. Đó là vào giữa
thập kỷ 80.

‘’Còn ngày nay, trở lại sự trung thực thì ta thấy


MỤC LỤC

trong cuộc sống : mắt mũi môi giả, hàng giả,


bằng lái giả, bằng cấp giả, hôn nhân giả ! Người
ta giả vờ với nhau một cách tỉnh bơ. Đáng sợ
hãi cho tương lai là chuyện gian dối ở chỗ mà lẽ
ra sự trung thực là nguyên tắc hàng đầu. Đó là ở
phòng thi : thày làm ngơ để trò quay cóp.

‘’Con người lấy gì làm cơ sở để quan hệ với


nhau khi cái trục chính của chiếc cầu đã gẫy ?
Cái túi nước silicon rò rỉ, đã biến những con
người muốn làm đẹp thành xấu xí đến tai hại.
Thực phẩm giả, bằng lái giả gây chết người.
Còn bằng cấp giả ?

Xin trích thêm đoạn dưới đây từ báo phụ nữ


ngày 27-9-1997.
‘’NM sinh viên khoa ngữ văn, một cô gái tài hoa,
có lối sống khá bạt mạng, mệt mỏi tâm sự :
- Ở gia đình, bố mẹ luôn dạy tôi cách sống tốt,
chân thật, nhưng tôi biết rõ ràng đó chỉ là lời nói.
Thực tế còn cả một khoảng cách.
“Cái khoảng cách ấy đã được NM nhận rõ khi
người ta phát hiện hai cái học vị phó tiến sĩ của
bố và mẹ NM đều là của giả. NM bộc lộ :
- Tôi không quan lắm đến danh dự gia đình,
nhưng bố mẹ, những thần tượng của tôi, đã
MỤC LỤC

hoàn toàn sụp đổ.


“Để trốn chạy thực tế, NM thường đóng kín cửa
phòng, đắm mình trong âm thanh của Spice
Girls, hoặc phóng xe hết tốc lực ngoài đường.

‘’ Thế đấy, cái giả tưởng chừng như vô thưởng


vô phạt đang giết chết một thế hệ về mặt tinh
thần. Và ngày nay không cần thiết phải chứng
minh tính chính trị của đạo đức nữa. Cái khó là
tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa và những
cơ chế vận hành nào đã đưa tới tình trạng báo
động này.

‘’Ta đánh giá cao những báo cáo tô hồng, những


trường có tỉ lệ ‘’lên lớp’’, ‘’thi đậu’’ cao, những
người nói đúng bài bổn nên cấp dưới tập phản
xạ nói dối, phản xạ này ăn sâu trong tâm tư họ
đến nỗi có người không còn biết nhận ra và
phân biệt thật và giả, đúng và sai.

‘’Phải tập lại từ đầu, không phải bằng hô hào mà


bằng hành động. Khó có thể kêu gọi tuổi trẻ
bằng những khẩu hiệu chung chung, nhưng họ
sẽ hưởng ứng ngay với cách làm mới.’’

‘’Khen thưởng những ai lật tẩy sự dối trá. Phạt


MỤC LỤC

nặng sự dối trá trong sản xuất. Chỉnh đốn triệt


để ngành giáo dục vì bao giờ còn gian lận trong
ngành này thì không thể gọi nó là giáo dục. Văn
học nghệ thuật phải đem sự dối trá ra làm trò
cười cho đến nơi đến chốn.

Và rồi cuối cùng :

- Sự thật sẽ giải thoát chúng ta.


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NHẬU

Một nhà học giả kia đã bàn về cái cười của


người dân Việt, đại khái như sau :
- Dân An nam ta cái gì cũng cười. Vui cũng cười
mà buồn cũng cười. Động một tí là vén môi
cười…tồ tồ.
Mà đúng thế. Một vị linh mục, gốc Canada, ngày
nọ loan báo cho đám học trò của mình :
- Cha Bolumburu, vị giáo sư khả kính của chúng
ta mới qua đời.
Bỗng một tiếng cười ồ của đám học trò vang lên,
làm cho vị linh mục tức giận đến nỗi đỏ mặt tía
tai, suýt nữa thì hộc cả máu mồm. Bởi đó, ngài
liền mắng te tua :
- Tôi không hiểu được tại sao khi loan báo một
tin buồn như thế mà các anh lại cười được.
Cuối cùng, mấy tên đầu sỏ, đại diện cho đám
học trò, bèn phải gặp gỡ để giải thích :
- Chúng con cười không phải vì mất đi một vị
giáo sư, nhưng cười vì tên của ngài nghe thật lạ
tai. Bolumburu mà.
Tuy hiểu là như thế, nhưng xem chừng vị linh
mục ngoại quốc này vẫn còn tức như bị…”tê
giác húc” ấy.
MỤC LỤC

Cũng một thể thức ấy, gã có thể phán về sự


nhậu của người Việt mình như sau :
- Dân An nam ta cái gì cũng nhậu. Vui cũng
nhậu mà buồn cũng nhậu. Động một tí là…nhậu
liền tù tì.

Gã đã lượm trên báo “Tuổi trẻ chủ nhật” một


mẩu ngăn ngắn với tựa đề : “Quá trời là nhậu”.
Tác giả đã viết :
“Khó mà kể hết có bao nhiêu cách để nhậu, bao
nhiêu chuyện để nhậu. Này nhé :
- Nhờ người bạn mua giúp chiếc xe honda…
cũng nhậu. Hôm qua mới lĩnh lương…cũng
nhậu. Tuần rồi mới nhận hàng “bển” gửi về…
cũng nhậu.
Rồi này :
- Vừa tậu được xe mới hả…nhậu “tân xe” đi.
Mới trúng số hả…”khao đi”. Kỳ này lên chức
hả…làm một chầu “rửa lon” đi…Rõ ràng nhậu
không hề có “luật” chi hết, nhưng đã trở thành
“lệ” rồi.

“Khánh thành, cũng nhậu. Tổng kết, cũng nhậu.


Cuối năm, cũng nhậu. Đám cưới, đám giỗ, đám
hỏi, đám ma, đám đầy tháng, đám thôi nôi, đám
MỤC LỤC

sinh nhật, đám khai trương tiệm may, đám


mừng tốt nghiệp…đều nhậu tất. Coi bộ thật khó
để sửa cái đã thành nếp này.

Gã có một tên bạn thuộc hạng nghèo kiết xác,


nghèo rớt mùng tơi. Hôm trước anh ta đi chợ,
đụng phải một tên thương phế binh. Tóc tai bờm
xờm, râu ria rậm rạp.

Tên thương phế binh này vừa mời vừa bắt anh
ta mua vé số kiến thiết. Bất đắc dĩ anh ta phải
mua một tấm cho yên chuyện. Rủi thay tấm vé
số bất đắc dĩ giúp người ta lại trúng ngay lô
hạng bét, lãnh được hai chục ngàn đồng.

Bè bạn hay tin anh ta trúng số, lục tục kéo đến
mừng, rồi cắm dùi tại nhà anh ta, thành thử anh
ta bèn phải miễn cưỡng tổ chức một chầu nhậu
xương xương ngoài ý muốn tốn gấp đôi, gấp ba
số tiền thưởng. Quả là một tấm vé số… bất
hạnh.

Cũng trên báo “Tuổi trẻ chủ nhật”, tác giả Danh
gia đã mô tả cái bàu khí “nhậu” thật ồn ào náo
nhiệt của thành phố Saigon như sau :
“Mỗi buổi chiều cắp cặp đi làm về đều chạy qua
MỤC LỤC

khu “chợ nhậu hải sản” đường Thi sách. Tiếng


bao khăn lạnh nổ đôm đốp, tiếng bia từng thùng
được vác ra chất đống cứ như thể ngồi bên cái
“đề bô” bia mới gọi là sang, tiếng réo nhau ơi ới
trên điện thoại cầm tay rủ nhau đến đông vui xen
vào giữa những tiếng hò “dzô, dzô”, tiếng tâng
bốc, tiếng “tứ hải giai huynh đệ kết nghĩa”, tiếng
khích bác, tiếng chửi thề, tiếng gây gỗ…quyện
lẫn với mùi tôm, mùi cá, mùi lươn, mùi nghêu,
mùi sò…Tất cả tạo thành một cảnh hỗn mang
mà bất cứ một cái chợ cá nào cũng phải hổ thẹn
vì thua kém.

“Quẹo ra đường Tôn Đức Thắng, rẽ qua Thị


Nghè, Hàng Xanh về nhà cũng bấy nhiêu cảnh
tương tự dọc hai bên đường. Không biết có bao
nhiêu “chợ nhậu” như thế trong thành phố này ?
Chỉ biết đi đâu cũng thấy, khiến phải băn khoăn
đặt câu hỏi :
- Phải chăng đây là “hoạt động văn hóa” chủ yếu
của thành phố này vào giờ tan tầm ?
“Cứ thế ngày này sang ngày khác, các độ lớn,
độ nhỏ, độ XO, độ VSOP, độ bia, độ đế, độ rượu
thuốc từ lâu đã thay thế bữa cơm tối vợ chồng,
con cái đoàn tụ trong nhiều gia đình. Mù mịt đến
khuya chồng mới bò về đến nhà, vợ có hỏi, may
MỤC LỤC

mắn lắm mới được chồng nạt :


- Làm ăn mà. Thời buổi kinh tế thị trường không
nhậu làm sao làm ăn, làm sao ký hợp đồng
được chớ ?
“Còn rủi phận hơn thì ăn đấm, ăn đá.

Chúng ta thường nói :


- Con người không sống để mà ăn, trái lại con
người ăn để mà sống.
Nhờ ăn, mà cơ thể được bồi dưỡng, có đủ sức
để lao động sản xuất. Nhờ uống chút ít mà
chúng ta có thể tạo được một bàu khí vui vẻ, cởi
mở và thân mật. Chính vì thế, khi ngồi vào bàn
tiệc, chúng ta thường được nghe những câu nói
để tạo “khí thế”, chẳng hạn như :
- Nam vô tửu như kỳ vô phong. Có nghĩa là con
trai mà không uống rượu thì như cờ không có
gió, rũ rợi, ủ dột, buồn tẻ.

Những kẻ đạo đức hơn một tí thì khôi hài sánh


ví :
- Cỗ không có rượu, như kiệu không có cụ.
Nghĩa là đi rước kiệu mà thiếu vắng cha chủ sự,
thì quả là nhạt nhẽo vô duyên tệ.
Trong Thánh vịnh cũng đã từng có câu :
- Chúa ban rượu ngon làm vui thỏa lòng người.
MỤC LỤC

Và trong cuộc sống, Chúa Giêsu cũng đã nhiều


lần tham dự những đám tiệc. Ngài đã khởi đầu
cuộc sống công khai bằng tiệc cưới tại Cana và
kết thúc bằng bữa tiệc Vượt qua với các môn
đệ.

Tuy nhiên, nhân đức bao giờ cũng phải ở vào


cái thế trung dung, “virtus in medio stat”, bởi vì
phàm cái gì thái quá thì cũng bất cập. Ăn nhiều
quá sinh ra bội thực , rồi từ chỗ bội thực sinh ra
bệnh nọ tật kia. Còn uống nhiều quá thì “hóa rồ
hóa rại” như tục ngữ đã bảo :
-Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm. Có nghĩa là
rượu vào thì như cọp dữ giữa rừng.
- Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị. Có
nghĩa là rượu vào thì như chó điên cắn càn giữa
chợ.

Làm mất nhân phẩm của mình đã đành, mà còn


gây nên đổ vỡ cho gia đình, đồng thời va chạm
với những người chung quanh, làm sứt mẻ tình
nghĩa bà con lối xóm.
Trước hết là đối với bản thân.
Dân bợm nhậu thường nói :
- Chưa hề có một mộ bia nào trên đó khắc ghi
MỤC LỤC

hàng chữ : đây là nơi an nghỉ của kẻ đã chết vì


rượu.

Thế nhưng trong cuộc sống thường ngày, không


thiếu chi những chuyện vui buồn xảy đến cho
những kẻ say xỉn. Uống say rồi lăn kềnh ra
ngủ,thì còn đơ đỡ và không cần nói tới. Nhưng
uống say mà phát rồ phát rại,thì cần phải đặt lại
vấn đề.
Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi
rượu vào thì lại thi nhau nhai ly, nhai cốc, nhai
chén, nhai bát.

Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi


rượu vào người mềm nhũn như con chi chi,
đứng lên không nổi, phải có người kè người
vực.

Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi


rượu vào thì chân nam đá chân chiêu, đường
rộng rãi thênh thang không muốn đi, chỉ muốn đi
vào bụi rậm cho gai đâm sứt cằm, xẻ mũi. Lái xe
thì xiên bên nọ xọ bên kia khiến cho mấy thày
cảnh sát phải thổi còi biên phạt.

Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi


MỤC LỤC

rượu vào đã chửi bới, rồi thượng cẳng chân hạ


cẳng tay “mí” nhau, thậm chí còn vác cả gậy
gộc, dao búa phang nhau túa máu đầu, gây
thành án mạng như báo chí không ngớt đăng
tải.

Không rồ không rại mà tại sao thiên hạ lại diễn


tả về họ, những kẻ say xỉn, như sau :
. Một xị thì mở mang trí hóa.
. Hai xị thì giải bớt cơn sầu.
. Ba xị thì mũi chảy đầy râu.
. Bốn xị thì ngồi đâu khóc đó.
. Năm xị thì cho chó ăn chè.
. Sáu xị thì làm xe lội nước.
. Bảy xị thì vợ rước không về.
. Tám xị thì ra nhị tì mà ở.
Đồng thời, thiên hạ cũng thường hát vui về họ,
những kẻ say xỉn, như sau :
- Hiu hiu gió thổi đầu non,
Những người uống rượu là con ngọc hoàng.
Ngọc hoàng ngự tại ngai vàng,
Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi.
Tưởng rằng con uống con chơi.
Ai dè con uống, con rơi xuống….xình.

Tiếp đến là những bất ổn cho gia đình.


MỤC LỤC

Thường xuyên rủ nhau đi nhà hàng hay thường


xuyên tổ chức ăn nhậu tại nhà đã là một sự tốn
kém cho ngân quĩ vốn dĩ eo hẹp của gia đình
trong cái thời buổi khó khăn, gạo châu củi quế
này, bởi vì những sự cần cho được uống rượu
nên xem ra cũng rất gắt.

Ấy là chưa kể đến những cực nhọc cho vợ con,


nhất là khi phải thu dọn những bãi cho chó ăn
chè. Thực vậy, người ta đã hỏi một tên bợm
nhậu, thuộc hạng thâm niên quân vụ, nhiều năm
trong nghề, như sau :
- Hỏi phải làm mấy sự cho được uống rượu
nên ?
Đúc kết kinh nghiệm của bản thân sau nhiều
năm lăn lóc trên các chiến trường với những
chiến hữu lưu linh của mình, hắn ta đã trả lời :
- Thưa phải làm ba sự này, một là tốt cái nhắm,
hai là lắm anh em, ba là muốn nhắm thì nhắm.

Đông, vui, hao, đó là qui luật của muôn đời. Thế


mà “nghệ thuật ăn nhậu” lại đòi hỏi vừa phải tốt
cái nhắm, lại phải lắm anh em, thì chỉ có nước
đập bể nồi cơm gia đình khiến vợ con phải treo
niêu, ăn chay trường dài dài mà thôi.
MỤC LỤC

Còn nếu đi uống rượu ở nơi khác, khi trở về


nhà, mà giữ được tác phong cốt cách thì còn đơ
đỡ, nhưng như trên gã đã nói : nhiều kẻ đã bị
rượu bốc lên, làm cho hóa rồ hóa rại.

Đúng thế, không rồ không rại mà tại sao có


những kẻ khi rượu vào lại tung hê nồi niêu
xoong chảo cùng với bát đũa ra ngoài sân, để
rồi khi tỉnh cơn say. Lại phải hì hục lao động
kiếm tiền mua sắm.

Không rồ không rại mà tại sao có những kẻ khi


rượu vào, bỗng trở thành “vũ phu chi cục mịch”,
chửi vợ đánh con, khiến cho gia đình bị đổ vỡ
tan hoang. Hay ít nữa, khi tỉnh cơn say thì cũng
phải bỏ tiền mua thuốc men và bỏ công sức
chăm sóc cho vợ con đã bị chính mình hành
hung một cách dã man trong lúc xỉn.

Thấy thiên hạ lao mình vào tệ nạn cờ bạc, một


đức ông chồng, uống rượu thuộc hạng dân
ghiền, đã hãnh diện tâm sự với bà xã :
- Em phải cám ơn anh nhiều lắm đấy, bởi vì anh
không bài bạc như mấy tên hàng xóm.
Thế nhưng, bà xã đã phản pháo một cách rất
chính xác :
MỤC LỤC

- Ông không bài với bạc, nhưng tối ngày những


rượu cùng chè, những say cùng xỉn, khiến tôi
phát chán cả lên.
Nhưng phiền hơn cả là trong những lúc say xỉn
như vậy, chúng ta lại thường gây nên những sự
rắc rối, phiền toái cho bà con lối xóm. Thực vậy,
thiên hạ thường bảo :
- Tửu nhập, ngôn xuất. Rượu vào thì lời ra.
Cái thứ “ngôn xuất” này, cái thứ “lời ra”này, cũng
thường thay đổi thiên hình vạn trạng, đến quỉ
thần cũng không lường nổi.

Có kẻ khi say thì cười, nhưng cũng có kẻ khi say


thì lại khóc.
Có kẻ khi say thì hát nhưng cũng có kẻ khi say
thì lại sổ tiếng Ăng lê.

Có kẻ khi say thì vui miệng, vợ mình không


khen, lại cứ nhè vợ người ta mà khen, nên mới
rách việc, dẫn đến chuyện đánh đấm nhau phun
cả máu đầu.

Có kẻ mượn hơi men để có đủ can đảm mà đi…


xưng tội, nhưng cũng có kẻ mượn hơi men để
chửi xéo người này người nọ, đôi khi chửi cả
cha mẹ và những người họ hàng thân thích,
MỤC LỤC

khiến cho tình nghĩa ruột thịt cũng như lối xóm
nhiều lúc như muốn đứt đoạn.

Có những kẻ bình thường rất hiền lành, thế


nhưng do ma men dẫn đường, rượu ngấm vào,
máu yêng hùng nổi lên, cũng sẵn sàng vác gậy,
vác đá đi hỏi thăm sức khỏe người khác, giống
như một kẻ côn đồ thứ thiệc, để rồi khi hết cơn
yêng hùng, lúc phải ký vào biên bản,thì như quả
bóng xì hơi, năn nỉ ỉ ôi hết người này đến người
khác, như tục ngữ đã diễn tả :
- Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang,
Đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.

Có thể nói được rằng : ngành nghề ăn nhậu ở


Việt Nam hiện nay luôn được liên tục phát triển.
Chỉ cần rảo qua một vòng phố xá, chúng ta liền
thấy, tiệm cà phê và quán nhậu mọc lên như
nấm sau cơn mưa. Đường nào cũng có, góc phố
nào cũng có…Đúng là trăm hoa đua nở.

Những tháng ngày sau giải phóng thì cho rằng :


đờn ông thanh niên bấy giờ vì thiếu những
phương tiện giải trí nên đâm ra nhậu nhoẹt say
sưa. Còn lúc này, những phương tiện giải trí
không thiếu, nhưng thiên hạ vẫn hăng hái nhậu
MỤC LỤC

liên tu bất tận.

Có thể vì trong túi có sẵn tí tiền còm, nhất là tiền


hối lộ, tiền buôn lậu, tiền áp phe, áp chảo…
không nhậu cũng uổng. Có thể vì nền kinh tế thị
trường, có nhậu thì mới bắt được mánh làm ăn,
mới làm được những giao lưu và trao đổi…Thôi
thì có đủ một ngàn lẻ một lý do để biện minh cho
cái “dịch vụ ăn nhậu này”.

Tuy nhiên, cũng trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác
giả Danh Gia đã đưa ra một vài nhận định nho
nhỏ về đờn ông phương tây như sau :
“Đừng đổ thừa cho kinh tế thị trường khi chưa
từng thấy “mặt mũi” đích thực của nó. Không tin
cứ đi hỏi các giám đốc ngân hàng nước ngoài
sẽ nghe họ nghĩ gì về cách duyệt hồ sơ cho vay
“quen thuộc” của các ngân hàng trong nước
khác với cách của họ như thế nào. Bởi thế mới
đẻ ra bao vụ “Tamexco” lớn nhỏ, mới có tỉ lệ
thua lỗ “bộn”, nợ nần dính chùm như thế.

“Đàn ông các nước công nghiệp, tức các nước


kinh tế thị trường nhất, đến giờ tan sở mệt nhoài
vì công việc chỉ biết cắm đầu cắm cổ chạy thục
mạng, ba chân bốn cẳng leo lên tàu điện, đổi
MỤC LỤC

dăm ba tuyến đường mới về được đến nhà phụ


vợ con dọn cơm, rửa chén rồi đi ngủ sớm, đến
cuối tuần cần tranh thủ sửa sang nhà cửa, chở
vợ đi chợ. Xu hào đủng đỉnh lắm thì tối thứ sáu
đưa vợ, đưa con đi ăn tiệm hoặc đưa vợ con đi
nghỉ mát cuối tuần, chứ không ai rỗi hơi nát
rượu tối này sang tối khác với bạn bè.

“Không tin, nếu có dịp đi tây, chiều tối cứ xuống


các trạm xe điện ngầm ở Paris chen chúc với
bốn triệu người, ta sẽ thấy rõ thế nào là nếp
sống kinh tế thị trường đích thực. Chớ tưởng
dân đi chơi tối giữa Paris, Luân đôn…là người
dân bản xứ. Trừ một thiểu số nhung lụa hoặc
của “thế giới về đêm”, người lao động lĩnh lương
trong tháng, cho dù có là giám đốc, chẳng mấy
khi léo hánh đến quán xá vào những tối trong
tuần.
Khi người ta phải đóng thuế thu nhập giá chót
cũng 30%, khi người ta ở nhà thuê hay mua trả
góp mỗi tháng cũng phải đóng từ 1/3 đến 1/5
lương cho tiền nhà, khi người ta sắm cái xe hơi,
cái máy giặt, cái máy sấy khô quần áo…sao cho
cuộc sống gia đình tiện nghi hơn, để rồi cuối
tháng bị ngân hàng tự động trừ nợ, người ta mới
không dám vứt thì giờ và tiền bạc cho các độ
MỤC LỤC

nhậu triền miên vì sợ ngày mai dậy không nổi,


mất năng xuất, mất óc sáng tạo dễ có ngày thất
nghiệp.

“Khi người ta phải ngày ngày mất ít nhất hai giờ


để di chuyển, khi người ta phải làm việc ngày
tám tiếng ra tám tiếng mới được chủ trả lương,
thì người ta mới biết quí thì giờ và sức lực của
mình.

“Ngay cả đàn ông xứ Thái sát cạnh đây, tức một


nước chưa công nghiệp bao nhiêu, thưở còn
thịnh vượng có phần trễ nải hơn ở hàng quán,
song giỏi lắm cũng chỉ uống một chai bia Singa
nội địa chứ hiếm ai uống đến chai thứ nhì.
Thói quen rượu chè say sưa là một tật xấu khó
chừa, bởi nếu không nhậu thì….nhạt miệng, nên
phải đi tìm chỗ gài độ để khỏi ngồi ngáp vặt.

Vì thế Tản Đà đã bảo :

- Say sưa nghĩ cũng hư đời,


Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
Hay như Nguyễn Khuyến đã thú nhận :
- Những lúc say sưa cũng muốn chừa,
Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.
MỤC LỤC

Hay ưa đến nỗi không chừa được.


Chừa được mà ông cũng chẳng chừa.

Thành thử người say xỉn nghiện ngập cứ kéo lê


cuộc đời mình trong một tình trạng be bét. Cần
phải có một ý chí vững mạnh mới có thể dứt
khoát được với tật xấu này.
Một dân bợm nhậu nọ quyết tâm giã từ rượu
chè. Cứ mỗi lần ngồi vào bàn tiệc là anh ta nhỏ
một giọt nếân vào chiếc ly uống rượu…Cứ thế,
cứ thế…ngày qua ngày…cho tới khi chiếc ly đầy
nến và anh ta cũng bỏ được tật say xỉn của
mình.

Gã xin tạm ngưng việc kể tội đờn ông ở đây.


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

THAM NHŨNG VÀ HỐI LỘ

Trong những năm tháng gần đây, việc gian lận,


xơi tiền của dân của nước mỗi ngày một phát
triển, cả về số lượng lẫn về phẩm chất. Mặc dù
không nhớ rõ lắm, nhưng gã cũng xin “kê đơn
hoàn tán” những vụ điển hình.

Ngày xưa, Nguyễn văn Mười Hai, chủ tiệm nước


hoa Thanh Hương, đã dùng thủ đoạn vay vay
mượn mượn để ẵm của những người dân tội
nghiệp hơn 104 tỷ đống.

Theo vết xe đổ, Phạm công Tước cũng đã dùng


mánh mung trên để nuốt trửng 130 tỷ đồng của
ngân hàng Nhà nước.

Người đẹp Trần xuân Hoa, với độc chiêu ấy


cộng thêm tí nhan sắc trời ban cho, đã xơi tái
250 tỷ đồng của ngân hàng.

Noi gương các vị tiền bối, Phạm huy Phước


cũng đã vay vay mượn mượn và rồi đã ăn trọn
hơn 300 tỷ đồng.

Có một thời, phong trào giật hụi, bể nợ như một


MỤC LỤC

trận cuồng phong thổi vào đất nước, ở mọi nơi


và trong mọi lúc, người ta dở khóc dở cười, dở
mếu dở máo vì đồng tiền chắt chiu bằng mồ hôi
nước mắt của mình bỗng dưng bị bốc hơi, còn
thủ phạm thì cao chạy xa bay, hay ngồi tù ít
ngày để tồn tâm dưỡng tánh vì không còn khả
năng chi trả.

Và gần đây hơn, hai vụ nổi cộm đã làm cho


người dân phải xót xa, đó là vụ Tân trường sanh
và Tăng minh Phụng.

Với vụ Tân trường sanh thì số hàng nhập lậu lên


tới hơn 900 tỷ đồng. Riêng số tiền chè nước lo
lót khoảng 9 tỉ rưỡi. Còn vụ Tăng minh Phụng,
thì Nhà nước mất toi 4.000 tỷ đồng, bằng số tiền
của toàn dân thắt lưng buộc bụng mua công trái
trong hai tháng đầu tiên được phát động của
năm 1999.

Từ những sự kiện trên, gã bỗng nhớ tới câu


chuyện cổ tích “ăn khế trả vàng”.

Ngày xửa ngày xưa, tại một làng nọ có một nhà


kia, ông bố chết đi để lại hai người con trai với
một gia tài kếch xù. Ông anh, ỉ mình là trưởng
MỤC LỤC

nam quyền huynh thế phụ, đã nuốt vội nuốt vàng


toàn bộ sản nghiệp to lớn ấy, chỉ để lại cho chú
em một túp lều tranh xiêu vẹo và một cây khế.

Hằng ngày, chú em hái khế đem ra chợ bán lấy


tí tiền còm đong gạo và mua sắm những thứ cần
thiết cho sinh hoạt gia đình bởi vì đó là nguồn
thu nhập duy nhất.

Cũng như mọi ngày, sáng sớm hôm đó chú em


ra hái khế, thì một con quạ to ơi là to đã xơi hết
những trái chín. Thấy vậy, chú em bèn than thở
cả tiếng :
- Quạ ơi quạ, quạ biết tôi nghèo túng mà còn nỡ
lòng nào xơi hết những trái khế chín của tôi.
Quạ trả lời :
- Anh đừng lo, ta sẽ đền ơn đáp nghĩa cho anh.
Anh hãy về may một cái túi rồi sáng mai chờ ta
tại đây.
Nghe quạ nói, chú em về nhà may một cái túi,
rồi sáng hôm sau ra gốc cây khế chờ quạ. Chờ
chưa được bao lâu thì quạ đến và công chú em
tới một hải đảo xa xôi, nhưng lại đầy vàng.

Khi chú em lượm chặt túi, quạ liền công chú về.
Với túi vàng này, chú em làm lại nhà cửa và trở
MỤC LỤC

nên một người giàu có trong làng.

Sững sờ trước sự phất lên mau chóng của chú


em, ông anh bèn gạ gẫm hỏi cho biết bí quyết
mánh mung. Chú em đơn sơ thật thà kể lại đầu
đuôi sự việc là như thế cho ông ta.

Sáng hôm sau, ông ta ra hái khế, thấy quạ đã


xơi hết trái chín, liền than thở đúng bài bổn và
được quạ căn dặn về nhà may túi.

Khấp khởi mừng thầm vì phen này ắt hẳn vớ to.


Ông ta quát tháo bà vợ may cho mình một chiếc
bao thật lớn, loại bao hai dạ “được mùa” của các
bác nông dân vùng đồng bằng sông Cửu long.

Sáng hôm sau, ông ta cũng ra chờ ở gốc khế và


được qua công ra đảo vàng. Ông ta lèn cho đầy
một bao, rồi lại còn nhét vào trong túi quần, túi
áo và ngậm cả ở trong miệng.

Quạ công ông ta về, nhưng vì không kham nổi


trọng lượng của bao vàng, nên cuối cùng đã
phải thả ông ta xuống biển khiến ông ta bị chết
trôi chết nổi giữa sóng nước.
MỤC LỤC

Từ câu chuyện trên gã nghiệm ra một sự thật :


- Phàm đã là người thì dường như không nhiều
thì ít, ai cũng có tí máu tham trong mình. Đã cầm
cuốc thì ai cũng cuốc vào chứ nào ai có cuốc ra
bao giờ. Hễ có dịp, thì dường như ai cũng chịu
khó vơ vét cho đầy túi tham. Chỉ phiền một nỗi là
đối với lắm kẻ thì túi tham ấy lại thủng đáy, cho
nên vơ vét vào mà chẳng bao giờ đầy.

Sự việc xảy ra ở bên Đức :


Khi trận đấu bóng kết thúc, mọi người ra khỏi
sân vận động, không hiểu tiền ở đâu mà rơi vãi
lắm thế trên hè phố. Thế là tất cả, từ những
người đạo mạo và mô phạm cho đến những tay
cà chớn, ai nấy đều mắt trước mắt sau, lấm lét
cúi giả bộ như sửa giây giày, nhưng thực chất là
xuống lượm và lượm cho bằng hết những đồng
tiền rơi vãi.

Tuy nhiên, khi về tới nhà, dưới ánh đèn sáng


choang thì mới bật ngửa, té ra đó chỉ là những
đồng tiền giả của một kẻ chơi khăm, muốn trắc
nghiệm xem có quí vị nào không tham.

Nếu gian tham là một chứng bệnh, thì nơi những


người có quyền có chức, chứng bệnh này
MỤC LỤC

thường được bộc phát qua hai dạng đặc biệt, đó


là tham nhũng và hối lộ.
Đúng thế, phải có quyền có chức, phải là các
quan thì mới có điều kiện và cơ may để đớp tiền
chùa của nhà nước cũng như xơi tiền mồ hôi
nước mắt của dân, như cha ông chúng ta ngày
xưa đã từng lên tiếng báo động :
- Con ơi, nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là…quan.

Người ta thường dùng lẫn lộn tham nhũng và hối


lộ, nhưng theo thiển ý của gã, mặc dầu có chung
một mẫu số là xơi tiền của dân của nước, nhưng
mỗi bên đều có những lãnh vực riêng biệt.

Vậy thế nào là tham nhũng và thế nào là hối lộ ?

Trước hết, chúng ta sẽ cùng nhau bàn về tham


nhũng.

Impact, một tạp chí chuyên ngành về tài chính


có uy tín đã đưa ra một định nghĩa khá mỹ miều
như sau :
- Tham nhũng là sự coi thường tính minh bạch
và liêm khiết trong các vấn đề có liên quan đến
lợi ích công cộng.
MỤC LỤC

Định nghĩa này xem ra có vẻ hoa hòe hoa sói,


nhiêu khê và rắc rối.
Còn theo “Việt nam tự điển” của Lê văn Đức thì :
- Tham nhũng xuất phát bởi bốn chữ “tham lam
nhũng lạm”. Bốn chữ này có nghĩa là ăn bớt của
chung.
Còn nếu nói huỵch toẹt như gã, thì :
- Tham nhũng chính là ăn cắp của công.

Nghệ thuật ăn bớt, ăn xén, ăn cắp…của các


quan thì thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng
không lường nổi.

Chẳng hạn như Nhà nước trao cho quan xây


dựng một công trình. Quan liền ký hợp đồng với
một công ty nào đó, thỏa thuận nâng giá thành
lên để rồi chia nhau phần sai biệt. Làm như vậy,
cả hai đều có lời, nhưng lại là một thứ cấu kết
liên doanh với ma quỉ.

Rồi khi mua sắm vật tư, quan có thể làm hóa
đơn khống, nghĩa là không mua mà vẫn có hóa
đơn, hay mua một nhưng ghi thành hai, hay mua
rẻ nhưng ghi thành mắc…Vì thế, quan càng làm,
càng có tiếng với dân, lại càng có nhiều miếng
để mà đớp.
MỤC LỤC

Quan đánh hơi thấy chỗ nào có mùi tiền là liền


vươn vòi bạch tuộc tới đó, hay chịu khó nhúng
cả bàn tay lông lá vào ngay. Thậm chí có những
quan vui vẻ xơi ở cả những chỗ không đáng xơi.

Chẳng hạn đồng tiền của những cơ quan viện


trợ giúp cho những người phong cùi hay mồ côi,
chạy vòng vo tam quốc, thế nào cũng rò rỉ vào
túi các quan một mớ, quan lớn xơi nhiều, quan
bé xơi ít, để rồi khi tới tay trại phong cùi hay viện
cô nhi thì chẳng còn bao nhiêu. Chỉ là như mấy
giọt nước tong teo được nhỏ xuống mà thôi.

Gã còn nhớ, năm 1978 vùng gã ở bị lụt lớn.


Nhà nước kêu gọi toàn dân nhường cơm sẻ áo,
lá lành đùm lá rách. Thậm chí ngay cả những
thày cô giáo vùng gã, vốn mang danh là những
người “húp cháo”, lại đang gặp thiên tai cũng
phải hưởng ứng lời kêu gọi cứu trợ. Mà không
hưởng ứng cũng không được vì thiên hạ trừ tật
vào tiền lương của mình. Thôi thì lá rách ít đùm
lá rách nhiều, lá rách vừa vừa đùm lá rách te
tua, cứu trợ bất dắc dĩ cũng chẳng sao, đổi khóc
thành cười mà miệng thì cứ méo xệch.
MỤC LỤC

Theo số liệu trên báo chí thì khoản tiền cứu trợ
này thật đáng khích lệ, nhưng cuối cùng trong cả
ấp của gã thì chỉ có mấy gia đình thuộc hạng
“khố rách áo ôm”, nghèo rớt mùng tơi là được
chiếu cố, đi lãnh mấy ký gạo hẩm và một lít
nước mắm thối của cái được gọi là cứu trợ đồng
bào bị thiên tai. Quả là đầu voi đuôi chuột.

Những vị quan có máu tham nhũng được sánh


ví như là những con chuột nhắt đục khoét bồ
lúa, hay như một loại mối mọt ăn rỗng cây cột và
làm cho cây cột bị gẫy đổ lúc nào không hay.
Quĩ của Nhà nước mỗi ngày một tóp lại và trở
nên rỗng tuếch, còn quĩ của các quan mỗi ngày
một phình ra, nào nhà lầu, nào xe hơi và trăm
thứ lỉnh kỉnh khác nữa.

Hồi gã còn bé ở ngoài Bắc không có nhiều kẹo


như bây giờ. Cả nhà có mỗi một khạp mật được
bố cất kỹ để dùng mỗi khi cần đến chất ngọt.
Thế là những lúc bố đi vắng, gã bèn chui vô ăn
vụng bằng cách chấm ngón tay vào khạp mật,
ngoáy một vòng rồi đưa lên miệng mút lấy mút
để, mút hết cả ghét khiến ngón tay cứ…trắng
tươi.
MỤC LỤC

Với các quan cũng vậy, hành động tham nhũng


chính là hành động chấm mút. Các quan chấm
ngón tay vào công quĩ rồi vô tư, mặc sức mà…
mút cho thoải mái.

Bây giờ gã xin bàn tới phạm trù thứ hai, đó là ăn


hối lộ.

Ngày xưa có những bọn cướp thường chặn và


bắt dân chúng phải đóng một khoản tiền được
gọi là “mãi lộ”, để “mua đường đi”, thì mới được
qua lại trên đoạn đường ấy. Chẳng hiểu có phải
vì vậy mà phát sinh ra hai chữ hối lộ, tức là đút
lót tiền cho các quan để nhờ cậy một công việc,
để được che chở hay được một ơn huệ nào đó.

Nói cách khác, hối lộ là việc người dân dùng tiền


bạc hay quà cáp… có khi vui lòng, có khi bị ép
buộc mà dâng cho các quan một cách kín đáo
trong một dịch vụ nào đó.
Thuở ban đầu, khi nhân chi sơ tính bản thiện, thì
hành vi biếu xén rất có thể chỉ là một hành vi
đền ơn đáp nghĩa.

Chẳng hạn gia đình bị mất trộm, tôi đến công an


trình báo và công an không những đã tìm ra thủ
MỤC LỤC

phạm mà còn bắt thủ phạm phải hoàn trả những


món đồ đã chôm được của gia đình tôi. Khi nhận
lại những của đã mất, tôi thầm nghĩ mình cũng
phải biết điều, ít nữa là đối với những anh em
công an. Mặc dầu họ không đòi, nhưng mình
vẫn phải làm, như có một sự thúc ép từ bên
trong :
- Đã nhận ơn thì phải biết ơn và đền ơn.

Thế nhưng chuyện đời không đơn sơ và phẳng


phiu như thế. Kinh nghiệm cho thấy : đồng tiền
đi trước, đồng tiền khôn. Đằng nào cũng đút thì
nên đút trước, bởi lẽ sẽ làm cho quan vui vẻ
hơn. Và một khi quan đã vui vẻ thì công việc của
mình hẳn sẽ đầu xuôi đuôi lọt, đỡ phải những
mắc míu khó khăn, như một nhà thơ đã phát
biểu :
- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.

Trong báo”Tuổi trẻ chủ nhật” có ghi lại một mẩu


chuyện hài hước của Zadorop. Mẩu chuyện ấy
đại khái như thế này.

Vừa qua, người ta đưa tôi vào bệnh viện để mổ


ruột thừa gấp. Thế nhưng bác sĩ nói :
- Hôm nay chúng tôi phải giải phẫu cho mấy
MỤC LỤC

người nước ngoài.


- Xin bác sĩ cứ tính gấp đôi.
Bác sĩ vui vẻ nói :
-Đây lại là chuyện khác, đáng lẽ anh nên nói
ngay từ lúc đầu.
Thế là bác sĩ mổ cho tôi ngay lập tức, không kịp
tiêm thuốc tê vì cô y tá gây tê xin nghỉ bù sáng
nay.
Khi ruột thừa đã cắt xong thì đúng mười hai giờ.
Bác sĩ buông dụng cụ, lột bao tay và nói :
- Hết giờ làm việc.
- Thế ông không khâu lại cho tôi sao ?
- Tự nó sẽ lành thôi.
Tôi lại thử một lần nữa :
- Chỗ quen biết, ông cứ tính cả tiền xăng dầu,
lẫn tiền cà phê luôn nhé.
- Thế thì được, theo nguyên tắc chúng tôi không
khâu cho ai ngoài giờ cả. Nhưng chỗ quen biết
với nhau, tôi linh động cho anh đấy.

Cuối cùng, bác sĩ đã khâu bụng lại cho tôi.


Nhưng chẳng có ai đưa tôi về phòng. Tôi cố gọi
mấy cô y tá, nhưng ai cũng đi qua vội vã. Mãi
nửa đêm tôi mới nhờ được một người tàn tật
cho bám vào xe lăn.
MỤC LỤC

Chính vì thế, dân cảm thấy đó là như một bổn


phận vì muốn được việc thì cần phải biết điều,
cần phải hối lộ. Còn các quan, được đút mãi,
được xơi hoài thành tật theo kiểu “quen mui thấy
mùi ăn mãi”, và nghiễm nhiên coi đó là một thái
độ phải có, một bổn phận phải làm của dân.

Đây quả là cái vòng luẩn quẩn của một mê hồn


trận, của một thế cài răng lược, tựa lưng vào
nhau mà sống : Có đớp thì mới đút và có đút thì
mới đớp.
Thậm chí trong vụ Tân trường sanh, bị cáo
Phùng long Thất, một cán bộ Hải quan cao cấp
đã phải thốt lên ai oán :
- Thân mình không thể không nhận “bồi dưỡng”,
vì ngày nào cũng bị khách hàng o bế cung
phụng.

Và như thế, tệ trạng hối lộ đã trở thành chuyện


đời thường, như một tục lệ đương nhiên. Mà đã
là lệ thì khó mà xóa bỏ, bởi vì phép vua còn thua
cả lệ làng.

Tệ trạng hối lộ vẫn đang liên tục phát triển, trăm


hoa đua nở với những danh xưng thật mỹ miều,
nào là tiền bồi dưỡng, tiền chè nước, nào là
MỤC LỤC

phong bì, quà cáp…Tệ trạng này có mặt trong


mọi lãnh vực, gã xin ghi lại nơi đây một số ý kiến
của bạn đọc về vấn đề này đã được đăng tải
trên báo Công giáo và Dân tộc.

“Khi xin giấy tờ về nhà đất, về kinh doanh hay


mua bán xe…tất cả đếu phải “trà nước” nếu
muốn nhanh việc. Cho dù đây không phải là luật,
nhưng đã là lệ. Nếu phải chạy đi chạy lại nhiều
lần cho một công việc nào đó, gia đình sẽ bảo
tôi là khờ, là không bén “nhạy”.

“Bây giờ muốn làm gì thì khó mà đi tay không.


Việc tặng quà đã trở thành cái nếp, gần như là
một cố tật của xã hội. Người ta cho rằng những
món quà chỉ mang ý nghĩa “tình cảm”. Thật ra
chẳng tình cảm chút nào cả, chỉ có người tặng
quà và người nhận quà mới biết rõ nó mang ý
nghĩa gì. Theo tôi, hối lộ có nhiều mức độ khác
nhau, nhưng mức độ khởi đầu của nó là quà
biếu.

“Tôi xin làm bản sao khai sinh cho con để nộp
đơn đi học. Nhân viên hộ tịch bảo phải một tuần
sau. Tôi đành đưa một phong bì bồi dưỡng. Thế
là mọi chuyện ổn thỏa nhanh chóng.
MỤC LỤC

“Mấy lần trước về tới Tân sơn nhất, nhiều Việt


kiều nhét 5 USD vào giấy thông hành. Lần này
về thăm gia đình, lại chẳng tốn đồng nào. Tôi
nghĩ đã có sự thay đổi trong đội ngũ hải quan.
Nhưng gia đình tôi lại nói chắc là họ quên.

“Ba tôi mất ở bệnh viện bị đưa xuống nhà xác.


Gia đình phải chi tiền bồi dưỡng cho nhân viên
quản lý, xác ba tôi mới được nhanh chóng về
nhà. Mẹ tôi cũng nằm viện, do rút kinh nghiệm,
nên khi mẹ hấp hối, gia đình xin đưa mẹ về
trước. Nhưng cũng phải bồi dưỡng cho các bác
sĩ, y tá…

“Có người đã gọi ngày nhà giáo là “ngày cho đồ


thày cô”. Tôi buồn quá. Một ngày kỷ niệm bị biến
thành ngày nặng về vật chất, bôi nhọ luôn
những món quà đầy ắp tình cảm.

Lời phát biểu trên chưa đau cho bằng lời phát
biểu của một vị phụ huynh mà gã đã được nghe
thấy :
- Chúng tôi đã đóng tiền cho các thày các cô
nhậu rồi còn đòi hỏi gì nữa!!!
Từ những cảm nghĩ trên, có người đã cho rằng :
MỤC LỤC

tiền hối lộ chính là một “chất mỡ” bôi trơn bánh


xe vận hành thương mại và đầu tư ở các nước
đang phát triển.
Họ nêu ra trường hợp một địa phương miền
nam Trung quốc, nhà đầu tư phải lo lót tiền cho
chính quyền xã để mở một con đường giao
thông huyết mạch đi ngang qua xã này mà
không có trong qui hoạch. Mấy năm sau, con
đường ấy phát huy tác dụng, nhà đầu tư lẫn địa
phương đó đều giàu lên.

Tuy nhiên, một vài trường hợp như trên không


đủ để thuyết phục bất cứ ai thấm thía với tệ nạn
tham nhũng hối lộ bởi vì nó chính là yếu tố quan
trọng hơn cả làm suy thoái kinh tế và mất ổn
định xã hội.

Luật sư Nguyễn văn Phương cũng viết :


“Một nguyên nhân nổi bật và gây nhức nhối là
vấn đề “tiền bồi dưỡng”. Với “tiền bồi dưỡng”,
người ta đã có thể mua được cả một ngành mà
nhiệm vụ là gác cổng không để hàng lậu lọt vào
phá hoại kinh tế quốc gia. Nhưng đâu chỉ có
ngành Hải quan nhận tiền bồi dưỡng, mà vấn đề
tiền bồi dưỡng có mặt ở khắp nơi, trong mọi
hoạt động, trong mọi ngành nghề. Thiếu nó thì
MỤC LỤC

công việc không chạy, hoặc chạy không trơn tru,


nên thật khéo khi người ta gọi nó là “tiền bôi
trơn”. Vấn đề này xảy ra thường xuyên quá đến
nỗi người ta coi nó là chuyện đương nhiên và
không hề có mặc cảm tội lỗi khi thực hiện nó.

Theo con số thống kê quốc tế, trong thời gian từ


1988-1992, kim ngạch xuất khẩu bình quân
hằng năm của mười tập đoàn xuất khẩu vũ khí
đạn dược lớn trên thế giới là 30 tỷ mỹ kim, trong
đó có khoảng 4 tỷ mỹ kim được dùng vào việc
hối lộ trực tiếp hoặc gián tiếp các chính khách và
các quan chức cao cấp.

Nếu gã không lầm thì hình như chính phủ của


thủ tướng Tanaka bên nước Nhật cũng đã bị
gục ngã vì số tiền hối lộ của một công ti chế tạo
máy bay tại nước Mỹ!

Tuy nhiên đút được và được đút cũng như đớp


được và được được đớp quả là một nghệ thuật.
Ở đây gã chỉ bàn thêm chút xíu về hai thứ nghệ
thuật này.

Hồi trước ngày Giải phóng, tất cả các xe đò


muốn qua trạm kiểm soát một cách mau chóng
MỤC LỤC

thì anh lơ phải mau mắn nhảy xuống xe đút một


tờ báo cho viên cảnh sát. Dĩ nhiên là trong tờ
báo ấy có kẹp thêm “Đức thánh Trần”, tức là tiền
năm trăm thời đó.
Bây giờ, các Việt kiều muốn thủ tục nhập cảnh
được êm xuôi, thì khi tới sân bay, cứ việc kẹp
sẵn vài đồng đô la trong hộ chiếu là qua cửa ải
cái vù. Đó cũng là một cách đút.

Nếu đút cửa trước xem chừng có vẻ…căng, thì


hãy chịu khó luồn cửa hậu, cửa sau, nghĩa là
hãy chịu khó liên hệ với quan bà, vì một lời của
quan bà đối với quan ông thì bằng ngàn lời của
người dưng nước lã.

Thấy tiền và nhất là thấy vàng, chắc chắn quan


bà sẽ rất lấy làm xúc động mà bàu cử cho.

Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì lấy vàng để


nhử đờn bà và lấy đờn bà để nhử đờn ông, vốn
là một qui luật của ngàn đời.

Riêng các quan, muốn đớp một cách khéo léo ít


kẻ biết được, thì mỗi khi có tí chuyện vui hay tí
chuyện buồn như : đám giỗ cho các cụ thân
sinh, đám cưới cho con, đám thôi nôi cho cháu,
MỤC LỤC

hay đám kỷ niệm quan ông lấy quan bà…thì cứ


việc mở tiệc cho linh đình.

Đối với dân đen, thì đông vui hao, chứ đối với
các quan, đông vui…thì chỉ có lời. Các thân chủ
khi nhận được thiệp báo tin thì hãy lo chuẩn bị
một phong bì thật chất lượng, hay quà cáp thật
hậu hĩnh.

Có một vở kịch mang tựa đề là “phong bì” được


báo Công An thành phố tóm lược như sau :
Có ông bác sĩ “lương y như từ mẫu” nên rất
nghèo, quanh năm cứ được bà vợ cho ăn cơm
với rau muống. Hết luộc tới xào, hết xào tới
nộm, khiến ông thấy rau muống là phát ngán.

Cuối cùng hai vợ chồng mới tìm ra nguyên nhân


khi soi rọi lại các đồng nghiệp của mình cứ giàu
lên, đó là do ông bác sĩ chân chính này không
chịu nhận phong bì. Hai vợ chồng ông bác sĩ
sau khi “ngộ” ra cái nguyên nhân nghèo của
mình, nên quyết định…nhận phong bì.

Bất ngờ có một đứa bé gái đến gõ cửa nhờ cứu


mẹ đang nằm trong bệnh viện chờ mổ và đưa
cho ông bác sĩ cái phong bì. Quyết tâm thì có,
MỤC LỤC

nhưng lương tâm thì chống lại, nên ông bác sĩ


rất khổ sở, giằng xé trước cái phong bì. Nhận
hay không nhận ? Bà vợ càng thúc giục, ông
bác sĩ càng đau khổ.

Hỏi thăm hoàn cảnh của “khổ chủ” mới vỡ lẽ ra


rằng trước đây đứa bé gái cũng có một người
cha đau nặng phải vào nhà thương để mổ,
nhưng vì nghèo quá không có phong bì nên
người cha ấy đã chết. Bây giờ cô bé không
muốn mất thêm người mẹ, nên cương quyết
phải đưa phong bì cho ông bác sĩ.

Cuối cùng, cái gút của vấn đề đã được mở cũng


từ cái phong bì khi có sự giằng co của bà vợ
ông bác sĩ khiến tiền trong bì bị rơi : thì ra chỉ là
mấy đồng bạc lẻ.
Để kết luận gã xin kể lại một mẩu chuyện nho
nhỏ trong sách “Cổ học tinh hoa”.
Có một ông quan vừa mới nhận chức tại một
huyện xa xôi. Ban đêm, một người bạn đến
thăm và đút cho ông ta một số tiền lớn. Ông
quan thanh liêm nhất định không nhận, nhưng
người bạn liền nói :
- Trời thì tối, chẳng có ai biết được đâu mà sợ.
Ông quan trả lời :
MỤC LỤC

- Trời biết, đất biết, anh biết và tôi biết, sao lại
nói chẳng có ai biết được đâu ?
Thế nhưng, các vị quan thời nay cứ phớt tỉnh
ăng lê, ung dung xơi một cách tận tình, miễn sao
đừng để cho sao quả tạ chiếu tướng. Chỉ khi
nào lỡ chùi mép không kịp, bị sờ vào gáy và bị
lôi ra tòa xét xử thì mới giật mình và vội vã kêu
lên rằng :
- Mình bị oan…mình bị lừa…hay mình dốt và
thiếu khả năng nhưng bị đặt ngồi vào ghế cao
một cách bất đắc dĩ…

Giữa lúc ba tòa quan lớn xét xử những vụ tham


nhũng hối lộ nổi cộm như Tân trường sanh,
Minh phụng… thì báo chí cho biết :
- Các nhân viên hải quan đang thi hành nhiệm
vụ vẫn tiếp tục nhận tiền bồi dưỡng và những
người làm thủ tục hải quan vẫn tiếp tục đưa tiền
bồi dưỡng như thường lệ.
Nếu vậy, cứ diệt tham nhũng, nhưng diệt rồi thì
biết lấy ai mà lo việc dân việc nước.

Và thế là tòa xử, tòa cứ xử. Ta đớp, ta cứ


đớp.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TÌNH YÊU THỜI MỞ CỬA

Khi học về lịch sử Việt Nam, gã còn nhớ một


trong những nguyên nhân khiến người Pháp
đem quân chiếm đóng và dày xéo quê hương
này, đó là chính sách “bế môn tỏa cảng” của vua
chúa triều Nguyễn.

Thời bấy giờ, người Pháp đang cần thị trường


để tiêu thụ hàng hóa, mở rộng bờ cõi, phát huy
quyền lực và ảnh hưởng của mình. Thế nhưng,
luật “cấm vận” và nghỉ chơi của triều đình Huế
đã làm cho người Pháp đánh rơi bổn tính ga
lăng của dân Gô loa, để rồi nổi máu yêng hùng
“Tạc dăng”, biểu lộ ý đồ xâm lăng đen tối của
mình.

Và dân tộc Việt Nam khốn khổ đã bị tròng vào


cổ cái ách một-trăm-năm-nô-lệ-giặc-Tây.

Thế nhưng, các cụ ta ngày xưa hình như rất


khoái món bế môn tỏa cảng và cấm vận này,
nên đã bê nguyên con mà ấp dụng trong lãnh
vực tình yêu.

Thực vậy, hồi đó khi con trai và con gái mới lớn
MỤC LỤC

lên thì bị cấm tiệt, không được giao du quen biết


nhau, theo khẩu hiệu từ ngàn xưa đã để lại :
- Nam nữ thọ thọ bất thân.

Khi đến tuổi đi lập gia đình, thì phải tuyệt đối
vâng lời quí vị phụ huynh :
- Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó.

Và tiêu chuẩn quí vị phụ huynh thường đặt ra để


cho con cái mình được ngồi vào, đó là môn
đăng hộ đối : phải cân bằng về tuổi tác, về địa vị,
về kinh tế…Vì vậy, nhiều lúc đã xảy ra những
chuyện thật chéo cẳng ngỗng :
- Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào.
Bây giờ chồng thấp vợ cao,
Như đôi đũa lệch so sao cho vừa.
Lắm khi hai ông bố ngồi chén thù chén tạc, rồi
kết tình xui gia mí nhau, ngay cả lúc hai trẻ chưa
mở mắt chào đời, vì thế mới xảy ra cái cảnh :
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
Đi đến chỗ lội đánhrơi mất chồng.
Cho tôi mượn chiếc gàu sòng,
Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên.
MỤC LỤC

- Lấy anh từ thuở mười ba,


Đến năm mười tám, thiếp đà năm con,
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Luật bế môn tỏa cảng này còn được biểu lộ một
cách rõ rệt nhất qua chủ trương :
- Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
Hay :
- Ta về ta tắm ao ta,
Dầu trong dầu đục, ai nhà vẫn hơn.
Hồi đó, hẳn chưa có lý lịch trích ngang để nắm
vững đối tượng, nhưng nhờ chủ trương này, các
cụ vẫn biết rõ kẻ mình định chọn.
Hơn nữa, sau khi gả bán, các cụ còn mua đứt
đường về và tình nghĩa cho con cái :
- Có con mà gả chồng xa,
Trước là mất nghĩa sau là mất con.
Hay là kiếm chác tí đỉnh lợi lộc để bù lỗ :
- Có con mà gả chồng gần,
Có bát canh cần nó cũng đem cho.

Đến thời Pháp thuộc, hay Mỹ thuộc chăng nữa,


lập trường này vẫn còn được tuân giữ nghiêm
chỉnh. Những cuộc hôn nhân “dị chủng” hay “đa
quốc gia” năm thì mười họa mới xảy ra và
những kẻ trong cuộc đều bị thiên hạ coi khinh
MỤC LỤC

bằng nửa con mắt với tên gọi là “me tây” hay
“me mẽo”, cho dù đôi lúc những cuộc hôn nhân
này cũng đã thành công.

Thực vậy, có những anh chàng mẽo phong nhã


cũng xơi tiết canh lòng lợn như điên, cũng nhậu
thịt chó riềng mẻ và nhâm nhi ly rượu đế đến
say khướt có bợ mà mồm thì vẫn cứ ngân nga :
-Sống trên đời ăn miếng dồi chó,
Xuống âm phủ biết có hay không ?

Cũng ăn cà ghém và khi ăn còn quết mắm tôm


thật đậm, đến như gã, dân ghiền mắm tôm hạng
nặng cũng đành phải chào thua.

Có những chàng hoàng tử mắt xanh mũi lõ tỏ ra


hào hoa “mí” người tình bé bỏng an nam mít,
đến độ nhớ nhung phát ốm tương tư :
- Dê cờ ri tình thơ uyn lét,
Để cho nàng con nét mông cơ.
Nghĩa là :
- Viết lên một bức thư tình
Để nàng biết rõ lòng mình đắm say.
Có một ông chồng tây chính hiếu con nai vàng,
ngày kia dẫn bà vợ an nam mít đi sắm đồ. Thấy
vợ kêu :
MỤC LỤC

-Tré sô (tres chaud), nghĩa là quá nóng


Ông chồng dư máu ga lăng liền vội vàng mua
lấy mua để kẻo bà vợ mi nhon bị cái nắng nhiệt
đới hành hạ. Thế những khi về đến nhà, ông
chồng tây liền bị bà vợ việt xài xể cho một trận
tơi bời hoa lá :
- Ối giời ơi, ngu chi ngu lạ, người ta bảo “ tré sô”
thì phải hiểu là “trố se” (trop cher) nghĩa là quá
đắt. Nói lóng đấy… bò ạ.
Và ông chồng tây chỉ còn nước trố mắt ngạc
nhiên, tay giơ lên trời và miệng thì không ngừng
kêu :
- Ố là là, ố là là.
Nếu lỡ bị nàng cho leo cây hay đá dăng cu lơ thì
cũng đắng cay chua xót :
- Từ ngày lủy kít tê dơ
Bon nơ cũng lắm, ma lơ cũng nhiều.
Nghĩa là :
Từ ngày mình bỏ rời nhau,
Mừng vui cũng lắm, khổ đau cũng nhiều.

Sau ngày giải phóng, đất nước mình được hoàn


toàn độc lập tự do, nhưng tinh thần cấm vận,
nghỉ chơi vẫn được thi hành một cách triệt để,
nhất là đối với dân tư bản.
Cũng dễ hiểu thôi, bởi vì ta phải đề cao cảnh
MỤC LỤC

giác, kẻo địch lợi dụng những sơ hở để chống


phá cách mạng. Bởi đó, việc đầu tiên cần phải
làm ngay là xin mời quí vị ngoại quốc về quê
ngồi chơi xơi nước để ta ổn định việc nhà, vì có
tề gia thì mới trị quốc và bình thiên hạ.

Tiếp đến là phải dè chừng những kẻ có liên hệ


với nước ngoài. Gã còn nhớ hồi bấy giờ gã đang
cắm dùi tại một vùng vừa sâu lại vừa xa, thư từ
liên hệ với bạn bè thật là khó khăn.

Thư về đến xã thì bị mất tích, phiêu diêu miền


cực lạc, hay được những bàn tay tò mò tọc
mạch ưu ái mở ra xem trước. Buồn tình, gã mới
nhờ địa chỉ của một người thân trên tỉnh, thế mà
cũng được công an sờ gáy :
- Anh có một hòm thư bí mật trên tỉnh. Anh liên
hệ với ngoại quốc. Anh là người được Xịa cài lại
hả ?

Hồi bấy giờ vượt biên bị coi là phản quốc, phản


dân tộc và những gia đình có thân nhân ra nước
ngoài lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị công an
chiếu cố hỏi thăm, vì dù sao mình cũng mang
lấy mặc cảm tội lỗi.
MỤC LỤC

Trong thời gian này, đốt đuốc đi giữa ban ngày


cũng chả tìm thấy một cuộc tình đa quốc gia.

Nhưng rồi con tạo xoay vần. Nhà nước đã chơi


một cú ngoạn mục, đá “vô lê” quay phắt 180 độ
với chủ trương mở cửa, đổi mới. Việt kiều trở về
được coi là yêu nước, được cưng như cưng
trứng, hứng như hứng hoa.

Họ rót đô la cho thân nhân xây nhà xây cửa, góp


vốn mần ăn. Người nước ngoài ào ào tới Việt
Nam như tới miền đất hứa. Nào công ty này.
Nào xí nghiệp nọ. Đất cát ven đô rơi vào một
cơn xốt cấp tính. Bác nông dân ngày nào còn
nghèo rớt mùng tơi, nay chỉ cần bán đi vài công
ruộng là khẻo re, đủ phương tiện làm le “mí”
thiên hạ.

Trong bối cảnh đó, tình yêu thời mở cửa mang


lấy tính cách toàn cầu hóa. Nhưng cuộc tình đa
quốc gia hay xuyên lục địa, những cuộc hôn
nhân dị chủng nở rộ như lúa hè thu nảy mầm
sau trận mưa dầm dề.

Thế nhưng, ăn theo vào đó, biết bao nhiêu


chuyện hỉ nộ ái ố đã phát sinh. Gã xin ghi nhanh
MỤC LỤC

qua mấy tờ báo thường đọc như Tuổi trẻ Chủ


nhật, Công an thành phố… rồi “cọp dê” để
chiềng làng, báo cáo với bàn dân thiên hạ, hầu
mua vui lấy “một vài chống canh”. Thảng hoặc
có dư chút thời giờ chả biết làm gì, thì thử vắt
tay lên trán, ngẫm nghĩ sự đời mà cười cho hai
chữ nhân tình éo le.

Trước hết là cảnh tỉnh ‘’hờ’’ theo sự tính toán


cho cả hai cùng có lợi, nhưng rốt cuộc bị bể
mánh, chẳng ‘’nước mẹ’’ gì cả.

Số là vì nuôi mộng ước không bình thường


được ra ngoại quốc và trở về làm việt kiều, một
cô nường ở Sài gòn đã ưng thuận kết hôn giả
với một cống dân Pháp chính gốc con gà trống
‘’Gô-loa’’ vừa chẵn băm lăm tuổi.

Theo sự thỏa thuận, hai người là vợ chồng trên


giấy tờ pháp lý, nhưng không được sống chung
‘’mí’’ nhau. Khi đã định cư ở nước ngoài rồi, thì
lập tức ly dị liền tù tì. Nếu mọi sự êm xuôi tốt
đẹp, anh chồng hờ được hưởng ba ngàn đô,
còn chị vợ hờ thì được phe phẩy ở nước ngoài.

Cuộc tình hờ này được trình tòa và được chính


MỤC LỤC

quyền thành phố ký nhận. Cứ tưởng mọi sự đã


thuận chèo mát mái, ai dè vào phút chót anh
chàng ‘’phú lãng sa’’ này lại nhảy rào, xé hợp
đồng, đòi làm chồng thiệc, chứ không chịu đóng
vai chồng hờ, khiến cho cô nường tóa hỏa tam
tinh, chạy vội đến ba tòa quan lớn để xin can
thiệp một phen, vì thà chịu vỡ mộng còn hơn là
tàn một kiếp …hoa.

Dù sao chuyện tình hờ kể trên, thực chất chỉ là


một loại tình dổm, dựa trên sự tình toán cân đo
đong điếm.

Bây giờ, gã xin đi vào những cuộc tình nặng đô


hơn và cũng day dứt hơn.

Dân Việt Nam ta vốn bản chất dễ hòa đồng và


đón nhận cái mới. Chả thế mà ngày xưa Phật
giáo, Nho giáo và Lão giáo đã sống chung hòa
bình với nhau một cách rất đề huề trong xã hội.

Dưới thời Pháp thuộc, chúng ta đã xơi ngay


phần tình túy của nền văn minh phương tây và
đã mượn đỡ mẫu tự La tinh mà chế biến thành
chữ quốc ngữ.
MỤC LỤC

Vì thế, chuyện những cô gái thích lấy chồng


ngoại âu cũng chỉ là một chuyện hết sức bình
thường. Ấy là gã chưa nói tới xu hướng toàn
cầu hóa đang xâm lấn vào mọi lãnh vực, kể cả
lãnh vực tình yêu.

Bởi vì như chúng ta thường bảo :


- Biên giới của yêu thương là thương yêu không
biên giới.
Một khi đã ‘’chịu đèn’’ và ‘’phê’’ mí nhau rồi ,
người ta sẵn sàng vượt qua mọi ngăn cách về
màu da, về ngôn ngữ, về thổ địa… để được
sống cùng nhau. Ngày xưa cũng như hôm nay,
vẫn có những cặp vợ chồng hai quốc tịch rất
hạnh phúc và chuyện tình của họ đẹp như một
huyền thoại.

Có một cô hàng bán nước giải khát ở bến Bạch


Đằng. Cuộc đời đang phẳng lặng, thì bỗng một
anh chàng si tình xuất hiện. Ngày nào anh
chàng mắt xanh da trắng này cũng đến nhấm
nháp một con mực khô, uống hai long bia và
‘’bám trụ’’ tại quán suốt hai tiếng đồng hồ để
được ngắm nghía cô hàng nước xinh đẹp một
cách đăm đăm.
MỤC LỤC

Và thế là tình yêu bắt đầu từ đôi mắt, liên tục


phát triển theo số tiền bo hậu hĩnh và số quà cáp
mỗi ngày một tăng. Rồi sự gì phải đến đã đến.
Anh chàng gà trống Gõ loa đã tỏ tình thẳng đét
‘’mí’’ chị gà mái an nam mít:
- Tôi yêu em, tôi muốn cưới em làm vợ. Em trả
lời tôi đi.
Riêng cô nàng đã bật mí cho biết :
- Yếu tố hớp hồn và hấp dẫn của con gái Việt
Nam là nét thùy mị, dịu dàng, kín đáo và đặc biệt
là sự bẽn lẽn, e thẹn. Rồi tà áo dài chiếc nón
lá… đều là những cái thật dễ thương và đáng
yêu.

Tuy nhiên, hiện tượng lấy chồng ngoại không


thể không xảy ra những bất trắc, những bi kịch
hụt hẫng bởi những mưu tính vụï lợi nhỏ nhen
của cả đôi bên, đặc biệt lo ngại là những cô gái
lấy chồng Đài Loan.
Bất chấp những trớ trêu từ các cuộc hôn nhân,
mai mối chẳng khác chi mua bán nô lệ, đổi chác
hàng hóa. Đó là chưa ai để ý đến số phận của
những cô gái phải theo chồng về xứ lạ đang hối
hả nộp đơn xin ly dị, tìm đường về nước, còn
nóng vội hơn cả hôm xuất ngoại theo chồng.
Những trục trặc đắng cay xảy ra đều do bởi
MỤC LỤC

những cái không biết sau đây.


Cái không biết thứ nhất là về bản thân của đối
tượng.
Các cụ ta ngày xưa đã dạy :
- Lấy vợ xem tông,
Lấy chồng xem giống.
Nhiều khi phải thẩm tra ngược dòng thời gian tới
ba bốn đời xem có chi bất ổn. Đằng này người
ta sờ mó và chọn mình, chứ mình đâu được
quyền chọn người ta.

Phận gái lấy chồng ngoại giống như giọt mưa


sa. May thì rơi vào chỗ nước trong. Chẳng may
thì rơi vào vũng bùn hay đống phân trâu thì cũng
đành phải chịu vậy.

Có chàng sang Việt Nam với mác kỹ sư, nhưng


thực chất chỉ là tay thợ hồ hay bốc vác, không
hơn dân cu li cu leo là mấy. Có chàng vì tai nạn
bị phỏng nặng, toàn thân đầy sẹo to sẹo nhỏ
nhưng được che phủ bằng những bộ quần áo
đắt giá, nhưng khi về đến nhà thì… hỡi ôi.

Cô nàng kia vớ được anh chồng tướng tá cao


ráo, đi đứng lúc nào cũng từ tốn chập chạp. Đến
tân hôn, từ phòng tắm bước ra, cô nàng suýt hét
MỤC LỤC

lên bởi vì trước mặt cô là một anh chàng chỉ có


‘’một khúc mà thôi’’.hai chân giả quá khéo được
lấy ra, kể ngay đầu giường. Thế là kể từ đó, anh
chàng ‘’thiếu chân đứng’’ này luôn hành hạ cô
nàng, bắt cô nàng phải cõng đi ăn, phải bế đi
tắm… chỉ khi ra đường mới chịu gắn chân giả.

Cái không biết thứ hai là về mục đích.


Các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.
Thế nhưng, khi lấy chồng ngoại, người con gái
lại mù tịt về chồng cũng như về nhà chồng, thì
làm sao mà gánh vác ? Hơn nữa, phần lớn
những cuộc hôn nhân này lại diễn ra theo nhịp
điệu của mua bán. Người con gái không biết
mình được mua để làm gì ?

Có những kẻ cưới vợ là để vợ làm những việc


đồng áng nặng nhọc như những người làm thuê.
Có những kẻ cưới vợ là để vợ chu toàn những
công việc bếp núc trong nhà như một người đầy
tớ. Có những kẻ cưới vợ là để thỏa mãn những
đòi hỏi thân xác.

Báo Công an kể lại :


Một cô gái trẻ Việt nam lấy một ông chồng già
MỤC LỤC

Đài loan bằng tuổi ông ngoại. Ai ngờ khi về


nước, lão viên ngoại đốn mạt này bắt cô phải
phục vụ “chuyện ấy” cho em trai, rồi con trai, rồi
cháu trai của lão cho đáng đồng tiền bát gạo lão
đã bỏ ra để mua cô về.
Bất hạnh hơn nữa phải kể đến những cô gái lâm
vào thế đường cùng nơi đất khách, bị lọt vào
những tổ chức mại dâm quốc tế. Những tổ chức
này tại Việt nam có thể được mang những vỏ
bọc bên ngoài đẹp đẽ, như môi giới hôn nhân,
lao động ở nước ngoài… những thí sinh được
tuyển chọn, khi đi hăm hở bao nhiêu, thì khi về
cũng vội vã bấy nhiêu.
- Khi đi thì dệt mộng vàng,
Đến khi về nước thì ngậm bồ hòn đắng cay.

Cái không biết thứ ba là về ngôn ngữ.


Ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Thượng
đế trao ban để chúng ta chuyền đạt những tư
tưởng, những ý nghĩ cho người khác hầu xích lại
gần nhau và bắc được một nhịp cầu cảm thông.

Thế nhưng, vì bất đồng ngôn ngữ, không hiểu


nhau, không cảm thông cùng nhau, thì cũng khó
mà hạnh phúc với nhau.
MỤC LỤC

Để chứng thực điều trên, gã xin kể lại một câu


chuyện cho tất cả cùng… cười.
Thấy thiên hạ có con gái lấy chồng Đài loan,
chẳng khác nào đào trúng mở vàng. Nhà cửa
vinh vang. Xe cộ đổi đời liên tục. Ông hai Nhơn
nôn nóng. Ngó đi ngó lại chỉ còn mỗi cô gái út
tên là Mén. Kể ra Út Mén cũng hiền lành lại đẹp
gái, vì thế ông kiên quyết phải cho con gái mình
lấy chồng ngoại, chứ không cho lấy chồng nội.

Chẳng bao lâu mơ ước của ông đã thành sự


thật. Một chàng rể Đài loan to con tốt tướng, tóc
húi cao và tuổi sấp xỉ bằng ông xuất hiện. Lối
xóm xì xào bàn tán. Ông bỏ ngoài tai, ông rất hài
lòng và hãnh diện vì Út Mén đã có chồng ngoại.
Hôm bà mối dẫn anh chàng Đài loan về ra mắt
ông Hai Nhơn và coi mặt Út Mén, thiên hạ cứ
tưởng rằng bạn ông ghé thăm.

Đến khi gia đình làm tiệc chiêu đãi, muốn biết
khẩu vị của anh chàng rể tương lai thì được bà
mối giải thích :
- Hễ anh chàng Đài loan kêu “ột ột” là thích ăn
thịt heo, kêu “hùm bò” là thích ăn thịt bò, kêu
“cạp cạp” là thích ăn thịt vịt, kêu “ò ó o” là thích
ăn thịt gà. Khi ăn no thì ôm bụng xua tay. Và thế
MỤC LỤC

là cả nhà đều vui vẻ.

Một tháng sau, anh chàng rể Đài loan đột xuất


về thăm bố vợ và cô vợ sắp cưới. Có lẽ vì đột
xuất nên chỉ đi với bác tài xế mà không có bà
mối kèm theo.

Bác tài xế thì tiếng anh mới chỉ lõm lõm, thích
nói bằng tay hơn bằng mồm, còn tiếng tàu thì
hoàn toàn mù tịt. Vì thế khi vô nhà, mọi người
đều chào nhau, nhìn nhau, cười nhau và chẳng
nói với nhau được sự gì.

Sau khi nhận quà cáp, ông Hai Nhơn bảo vợ và


con gái làm tiệc đãi anh chàng rể quí. Những do
không biết món gì hợp khẩu với anh chàng rể,
ông bèn nhớ đến mấy ngôn ngữ bà mối đã méc
lần trước. Ông bèn đưa tay khều anh chàng rể
một cái và nói :
- Cạp cạp cạp.
Anh chàng rể gật đầu. Ông khều cái thứ hai và
nói :
- Ò ó o.
Anh chàng rể cũng gật đầu. Ông tiếp tục khều
cái thứ ba và nói :
- Ột ột ột
MỤC LỤC

Anh chàng rể cười cười, rồi gật đầu. Thế là ông


Hai Nhơn cùng Út Mén làm thịt một cặp vịt, một
con gà và một con lợn bốn chục ký.

Trong khi ăn, anh chàng rể quẳng một mẩu


xương gà xuống đất. Hai con chó chạy lại
giành :
- Gừ gừ… Gâu gâu.
Có lẽ vì lạ tai vui mắt, chàng rể bèn buông đũa,
bỏ bát, tay chỉ hai con chó, miệng mỉm cười và :
- Gừ gừ… Gâu gâu.
Ông Hai Nhơn tưởng anh chàng rể đòi ăn thịt
chó, nên lập tức truyền cho con gái đun nước
sôi và đích thân ông ra tay hạ thủ hai chú chó vô
tội.
Nấu thịt cầy xong và dọn lên. Anh chàng rể và
bác tài xế ngơ ngác. Vợ chồng ông Hai Nhơn
cũng ngơ ngác. Cô Út Mén lại càng ngơ ngác
hơn.

Vì ham chồng ngoại, rể ngoại, không ít người đã


liều nhắm mắt đưa chân, phớt tỉnh ăng lê những
chuyện không biết kể trên, để rồi đã phải lãnh đủ
những hậu quả dở cười dở khóc.
Mà chắc chắn, khóc phải nhiều hơn cười rồi.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TẤP TẾNH NGƯỜI ĐI

Sáng hôm ấy, sau khi đã uống một ly cà phê đen


và “bắn” một phát thuốc…lào, gã đang ngồi vểnh
cằm lên trần nhà mà vặt mấy sợi râu mọc vô tổ
chức và để cho hồn mình “mơ theo trăng mà vơ
vẩn cùng mây”, bỗng có tiếng chuông điện thoại.
Bốc máy lên, mới vỡ nhẽ :
- À thì ra đó là cụ chủ nhiệm.
Chưa kịp mở mồm mở miệng, thì đã nghe cụ ấy
làm một màn “đắc nhân tâm” :
- Chuyện phiến của chú mày khá là được chiếu
cố đấy nhé.
Nghe vậy, gã bèn kê tủ đứng :
- Xin cụ hãy nhớ cho rằng kẻ nào bốc thơm mà
bốc phải ấy là bạn ta, còn kẻ nào bốc thối mà
bốc phải ấy là thày ta. Cụ muốn điều gì thì xin
cứ nói mẹ nó ra, bởi vì tôi tớ cụ đang lắng tai
nghe, cần gì phải vòng vo tam quốc.
Hình như có tiếng hắng giọng kèm theo một nụ
cười ruồi. Cụ bảo :
- Sinh ta ra là cha mẹ ta, còn hiểu được lòng ta
chính là chú mày đấy. Sao chú mày lại đi guốc
trong bụng ta vậy. Thôi, chú mày hãy chịu khó
viết nhăng viết cuội, tán hươu tán vượn cho ta tí
tẳng về đề tài việt…kều được không ?
MỤC LỤC

Chẳng kịp suy nghĩ, gã đã buột miệng nói :


- Chuyện nhỏ, dễ ợt mà.
Thế là cụ bèn cúp máy cái rụp, chẳng kịp để cho
gã lấy thêm mấy cái ý kiến ý cò chỉ đạo. Thôi
đành chịu vậy, biết sao được.
Thiên hạ thường bảo :
- Lao động thì vinh quang,
Lang thang thì chết đói,
Hay nói thì ở tù,
Lù khù thì sống lâu.
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Có nghĩa
là một lời nói tuột ra khỏi miệng, thì bốn ngựa
đuổi theo cũng chẳng kịp.
- Chẳng cái dại nào bằng cái dại miệng.

Vì thế, bây giờ gã mới ân hận, bởi vì gã chưa


bao giờ để tâm để trí vào lãnh vực này, hay bới
lông tìm vết mà khám phá ra những cái sở
trường và sở đoản, những cái hay và dở, những
cái tốt lành và lôm côm của…phe ta, khi trở về
thăm lại quê hương.
Giá mà gã cứ chối phắt ngay từ đầu, thì có phải
là khỏe re, như con bò kéo xe hay không.
Nhưng hối bất cập, “bi giờ” thì đã quá muộn,
đành phải vò đầu bứt tai làm tròn điều đã lỡ hứa
với cụ chủ nhiệm vậy.
MỤC LỤC

Đối với dân Việt nam ta, phàm cái gì cũng có thể
trở nên một phong trào, một hiện tượng.

Nếu trí nhớ của gã không tồi thì trước ngày giải
phóng, ở miền Nam đã có những phong trào,
những hiện tượng. Chẳng hạn như phong trào
nuôi chim cút, hiện tượng đọc chuyện kiếm hiệp
của Kim Dung, hay đọc chuyện tình cảm ẩm ướt
của Quỳnh Dao.

Còn trong những ngày gần đây, thì trên cả nước


có hiện tượng sì ke ma túy, hiện tượng học trò
đánh đấm thày cô, phong trào dật hụi, phong
trào thi cử gian lận…Và nếu không lầm, thì thời
gian từ năm 1978 đến năm 1981 chính là cao
điểm của phong trào…vượt biên.

Hồi ấy, gã đã từng nơm nớp lo sợ :


- Có một buổi sáng sám xịt nào đó, khi thức giấc
tỉnh dậy sau giấc ngủ mệt mỏi đầy ác mộng, thì
ngó tới ngó lui, chẳng còn ai ở chung quanh
mình, bởi vì tất cả đều đã khăn gói quả mướp…
ra đi.

Thêm vào đó, ngày nào cũng có những tin tức


MỤC LỤC

về những “kẻ ngồi thuyền vượt biển” được rêu


rao trên các đài phát thanh BBC, VOA…Thậm
chí có kẻ đã trả lời phỏng vấn như sau :
- Nếu cái cột đèn biết đi thì nó cũng…đi.
Thành thử, những người bám trụ, còn ở lại cũng
cảm thấy chao đảo và nếu lập trường không
vững, thì cũng rất dễ sa vào “cơn cám dỗ cuối
cùng” này, theo kiểu :
- Tấp tểnh người đi tớ cũng đi,
Cũng thuyền, cũng bến cũng…ra khơi.
Ra đi lúc bấy giờ quả thật là một hành động liều
lĩnh và mạo hiểm, một được hai thua, được thì
vẻ vang, còn thua thì nắm chắc cái chết trong
tay, hay ít nữa thì cũng tù tội. Thế mà thiên hạ
vẫn cứ ào ào ra đi, bất chấp mọi khó khăn.

Nơi gã ở lúc bấy giờ đang trong cao điểm ấy,


không ngày nào mà không có một vài người,
hay một vài gia đình…biến. Thậm chí có những
người đã từng bị bắt đôi ba lần, thế mà khi được
thả ra, liền lập tức âm mưu, tính toán cho một
chuyến đi khác.
Làm sao kể cho hết những khó khăn và gian khổ
của những người ra đi. Ở đây, gã chỉ xin “kê
đơn hoàn tán” một vài khó khăn gian khổ chính
yếu mà thôi.
MỤC LỤC

Cái khó khăn thứ nhất là phải làm thế nào


thoát khỏi sự dòm ngó và lùng bắt của công
an.

Gã có một thằng bạn, nhà liền vách với trạm


công an, thế mà hắn đã đưa được cả gia đình
xuống tàu một cách êm ru bà rù. Quả là tâm
phục, khẩu phục. Sau này gã mới khám phá ra
mưu chước của hắn.

Số là hắn có một thửa ruộng cách xa nhà. Và


thế là ngày nào hắn cùng vợ con đi lao động,
chăm sóc thửa ruộng ấy. Cho đến một ngày, khi
mọi sự đã sẵn sàng…và thế là hắn đã biến cùng
với những người thân yêu của hắn.

Nhiều người muốn được bảo đảm an toàn đã


mua đứt bến bãi, bằng cách đút tiền cho công
an, nhưng nếu chẳng may vớ phải mánh dổm,
thì tiền mất tật mang, trọn ổ bị hốt về trại giam,
hay bỏ của chạy lấy người, mạnh ai người ấy
trốn, mỗi người một ngả, may thì thoát.

Cái khó khăn thứ hai là phương tiện di


chuyển.
MỤC LỤC

Đối với những người sống ở ven biển, có sẵn


tàu thuyền thì không mấy khó khăn. Còn đối với
những người sống sâu trong đất liền, có khi
chưa một lần đặt chân tới vùng biển, thì cách
thức đơn giản nhất là đi theo mánh. Phó mặc
toàn bộ công việc cho những kẻ tổ chức. Tới
thời điểm đã định, chỉ việc đến điểm hẹn để
được…ém quân, rồi sau đó được chở bằng
thuyền nhỏ, gọi là “tắc xi” để được bốc lên
thuyền lớn. Thế nhưng rất nhiều người đã méo
mặt vì vớ phải mánh dổm, đụng phải những kẻ
lừa gạt chuyên nghiệp.

Bọn này cũng cho đi xem ghe thuyền đàng


hoàng, cũng ấn định điểm hẹn và còn bảo đảm
cả bến bãi đã được mua đứt…Những rồi khi tay
xách nách mang tới điểm hẹn, thì chẳng thấy ma
nào hết.

Ở lại thì sợ bị công an thộp cổ, nên chỉ còn cách


“dĩ đào vi thượng sách”, chạy trốn là kế sách
hay hơn cả, bằng mọi cách phải cao chạy xa
bay khỏi điểm hẹn chết tiệt ấy.
Giá cả lúc bấy giờ cũng thật là chóng mặt. Mỗi
đầu người là mười đồng, tức là mười cây vàng,
MỤC LỤC

chứ nào có phải là ít. Vì thế, có những gia đình


chỉ sau một đêm mà mất toi sản nghiệp được
chắt chiu gầy dựng suốt bao nhiêu năm trời,
đúng là “kiếm củi ba năm thiêu một giờ”, hay :
- Ra đi trong hy vọng khấp khởi,
Trở về trong rầu rĩ hoang mang.

Thấy kiểu này vừa hao tốn, vừa bấp bênh, nên
về sau nhiều người đã tự tổ chức lấy, đứng ra
sắm ghe thuyền, hải bàn, bản đồ… mua lương
thực, săng dầu…rồi thuê tài công, thợ máy…
nghĩa là lo từ A đến Z cho chuyến đi định mệnh
ấy.

Tuy nhiên, đứng ra tổ chức không phải là không


có những trục trặc và rủi ro. Chẳng hạn người
tài công hay thợ máy vào phút chót thì giở quẻ,
đòi cho vợ con hay tình nhân của mình đi theo.

Chẳng hạn để bù lỗ phần nào những chi phí,


thường phải nhờ kẻ dắt mối bắt khách ăn chia,
thế những khi thuyền sắp rời bến, kẻ dắt mối lại
đòi phải nhồi nhét thêm cho một vài khuôn mặt
ăn có khác nữa làm cho con thuyền bị…quá tải.

Người xưa đã từng diễn tả :


MỤC LỤC

- Thùng thùng trống đánh ngũ liên,


Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Ở đây thì những người ra đi phải trốn chui, trốn
nhủi, làm gì có cảnh đưa tiễn rầm rộ, nhưng
nước mắt đổ ra khi rời bỏ nơi quê cha đất tổ và
những người thân yêu chắc chắn không phải là
ít.
Thế nhưng bước chân được xuống thuyền đã là
điều mừng, để rồi từ đó phó mặc cho số phận
dun dủi :
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần tới đâu.

Thực vậy, ghe thuyền nhiều khi chỉ là một chiếc


“cà dom” ọp ẹp, dài hơn chục mét mà phải chất
chứa đến mấy chục mạng người. Thêm vào đó,
máy móc lại quá “đát”, có lúc chỉ là một chiếc
máy xăng BS9…tất cả chẳng khác chi một chiếc
vỏ trứng tròng trành trên sóng nước, nhưng mà :
- Một liều ba bảy cũng liều.

Còn tài công lắm khi cũng chỉ là những kẻ “ấm ớ


hội tề”, mang tý nhãn hiệu trình tòa hay cái mác
của hải quân mà chẳng biết đã có lần nào chui
xuống tàu hay đi ra biển chưa là nghiễm nhiên
có quyền gật đầu, ừ đại để được đi…chùa, khỏi
MỤC LỤC

tốn tiền hao bạc, mà lại còn được cõng thêm


một vài người khác gọi là chút đỉnh thù lao đền
bù. Vì thế đôi khi đã xảy ra những chuyện cười
làm vãi cả nước mắt.

Có một nhóm bè bạn liên kết với nhau để tổ


chức bằng cách tự mua sắm thuyền và thuê
mướn tài công. Lúc xuất phát từ Nha trang, họ
đã xin lễ cầu bằng an. Lúc xuống thuyền, mặc
dầu không hát thành lời, nhưng hầu như ai nấy
đều thầm thĩ kêu xin :
- Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc
vượt biển….

Con thuyền thuận buồm xuôi gió, luớt sóng


được mấy ngày thì thấy một hải đảo hiện ra. Mọi
người đều tin rằng miền đất hứa đang mở rộng
vòng tay chào đón.
Và thế là họ lớn tiếng dâng lời cám ơn Thiên
Chúa :
- Đến muôn đời con cảm tạ ơn Chúa…

Tuy nhiên, khi bước chân lên bờ, họ bỗng rụng


rời khiếp hãi khi nhìn thấy cờ đỏ sao vàng phấp
phới tung bay. Thì ra nơi họ tưởng là miền đất
hứa chính là đảo Phú quốc.
MỤC LỤC

Rồi chuyện gì phải đến ắt sẽ đến. Tất cả mọi


người, nam phụ cũng như lão ấu, liền ông cũng
như liền bà, không trừ một ai, đều được thưởng
thức món cơm hẩm nhà tù một thời gian.
Và như trên gã đã viết :
- Đây là chuyến đi định mệnh, một được hai
thua.
Về cái chuyện được thua ấy, thiên hạ đã diễn tả
như sau :
- Được làm vua, thua chui vô hàm cá mập.
Hay :
- Được làm vua, thua làm mồi cho cướp.
Có một ông chồng đã dặn dò người vợ yêu dấu
trước khi bước chân xuống thuyền như thế này :
- Nếu sau một thời gian mà không nhận được tin
tức gì của anh cả thì : “giỗ tết từ đấy nhớ đến
ngày”. Coi như anh đã đi đứt, đang phiêu diêu
miền cực lạc, hay đang tắm mát dưới suối vàng.

Còn biết bao nhiêu gian truân và hiểm nguy trên


mặt đại dương. Còn biết bao nhiêu tủi nhục và
cay đắng khi sa vào tay bọn hải tặc. Còn biết
bao nhiêu hãi hùng và nước mắt khi thuyền
chìm giữa biển khơi. Còn biết bao nhiêu ê chề
khi ở trại tị nạn. Và không biết bao nhiêu người
MỤC LỤC

đã chết mất xác…


Có lần gã đã hỏi một người bạn ở Mỹ về như thế
này :
- Liệu bây giờ mi có dám làm một chuyến vượt
biển như hồi đó hay không ?
Hắn đã lắc đầu quầy quậy mà trả lời :
- Có các vàng thì em cũng…chả dám đâu.

Nhiều người tin rằng vượt biên cũng có cái số


của nó. Có kẻ đi mãi đi hoài, vào tù ra khám, tiêu
tan sản nghiệp, mà vẫn không xong. Có kẻ đi
một cú là liền tới bến. Có kẻ vượt biên bất đắc
dĩ, không muốn đi nhưng bị ép phải đi thế mà
cũng êm ru bà rù.
Những người ra đi lúc bấy giờ, theo gã nghĩ,
gồm có ba thành phần.

Thành phần thứ nhất là những người muốn đi


tìm một cuộc sống tự do vì họ nghĩ rằng :
- Nếu ở lại, họ sẽ bị trù dập, bị tù tội vì đã tham
gia vào guồng máy cai trị của chế độ cũ, hay sẽ
không được thực sự sống niềm tin của mình.

Thành phần thứ hai là những người muốn đi


tìm một cuộc sống giàu sang, thỏa mái vì họ
nghĩ rằng :
MỤC LỤC

- Nếu ở lại, kinh tế gia đình họ sẽ gặp khó khăn


và tương lai con cái họ không được sáng sủa.

Thành phần thứ ba là những người chẳng có ý


định nào suốt, thấy người ta bồng bế nhau đi thì
mình cũng đi.

Họ có thể là những người ra đi “bất đắc dĩ”.


Chẳng hạn như cha mẹ bắt con cái phải đi để có
được một ngày mai tươi sáng hơn. Chẳng hạn
một anh chàng nào đó dạo chơi phất phơ gần
chỗ thiên hạ”bốc hàng”, và thế là để bảo đảm an
toàn, thiên hạ bèn dùng áp lực bắt anh ta xuống
thuyền và cho dông luôn.

Ngoài ra còn có một hạng người được gọi là


dân “can me”.

Họ là những kẻ không có một đồng xu dính túi


để đóng góp, nên đành phải đi chùa của thiên hạ
bằng cách nhờ tình cảm của tài công, thợ máy,
kẻ dắt mối giới thiệu cho đi ké mà chẳng phải
mất một cắc bạc… hay do hoàn cảnh dun dủi,
gặp được thời cơ thuận lợi, họ cứ nhảy đại
xuống thuyền theo kế sách : nhất lý, nhì lì, tam ì,
tứ ẩu…rồi thì đến một lúc nào đó con thuyền
MỤC LỤC

cũng sẽ cặp bến mà chớ.

Ra đi lúc bấy giờ không phải chỉ là “chết trong


lòng một tí”, mà hơn thế nữa, còn được coi như
là chia lìa vĩnh viễn, đôi ngả ngăn cách ngàn
đời, như cõi âm và cõi dương, người sống và kẻ
chết, vì “bước chân đi cấm kỳ trở lại”.

Gã còn nhớ hồi năm 1954, những người di cư


vào miền Nam, lúc đầu còn được liên hệ với
những thân nhân tại miền Bắc bằng cách viết
vào một tấm giấy bìa màu vàng, tựa như tấm
“cạc pót tan”, rồi nhờ “Ủy hội quốc tế kiểm soát
đình chiến” chuyển giao.
Viết thì cứ viết, nhưng liệu tấm thư bỏ ngỏ ấy có
đến được tay người thân hay không, thì hãy bắc
thang lên hỏi ông trời vì chỉ có một mình ông
mới biết mà thôi.

Giòng sông Bến Hải nào có rộng rãi chi, thế mà


người từ bên ấy muốn qua bên này cũng chẳng
được và ngược lại, người từ bên này muốn qua
bên ấy cũng đành bất nhóc nhách, huống lọ là
hai bờ Thái Bình Dương cách xa ngàn trùng, thì
làm sao mà có thể trở về thăm lại quê hương.
MỤC LỤC

Người ra đi thì hiểm nguy khiếp hãi, còn kẻ ở lại


thì cũng không kém phần long đong khốn khó…
Nhưng thôi, chả dám viết nữa, kẻo có người lại
thở dài mà than :
- Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.
Thế nhưng sự đời vốn thường thiên biến vạn
hóa, thay đổi không ngừng, như người xưa đã
bảo :
- Thương hải biến vi tang điền. Nghĩa là biển cả
biến thành ruộng dâu.
Hay như một bài hát quen thuộc :
- Than ôi trái đất vẫn tròn,
Chúng mình hai đứa vẫn còn gặp nhau.

Đúng thế, một luồng gió mới đã thổi vào Việt


nam với chính sách đổi mới. Nhà nước mở cửa,
kêu gọi nước ngoài đầu tư, nới rộng kinh doanh,
phát triển du lịch, một loại kỹ nghệ không có khói
nhưng đem lại nhiều lợi nhuận…

Gã không thông thạo lắm về chuyện này, nhưng


có lẽ vấn đề cấp bách là phải vực cái nền kinh tế
vốn dĩ đã èo uột và lạc lậu lên vì lợi tức đầu
người hàng năm lúc bấy giờ của mình thuộc vào
hạng thấp nhất thế giới.
MỤC LỤC

Thôi thì như Đặng Tiểu Bình đã nói, nếu như gã


không lầm, rằng :
- Mèo trắng, mèo đen không sao cả, miễn là bắt
chuột.
Song song với đó, nhà nước cũng kêu gọi
những người Việt nam đang sinh sống ở nước
ngoài góp phần xây dựng đất nước, sẵn sàng
mời họ trở về thăm lại quê hương xứ sở. Và thế
là các Việt kiều bắt đầu lục tục kéo nhau về.

Lúc đầu các Việt kiều còn e dè vì sợ rằng đây


chỉ là một cái bẫy do Nhà nước giăng ra. Một khi
đã về thì bẫy liền sập, nhất là đối với những
người đã từng cộng tác với chế độ cũ. Vì có tội
thì phải đền tội. Hoặc còn ngại ngùng vì sợ tư
thù cá nhân, không được luật pháp bảo vệ, sẽ bị
đối xử theo luật rừng, hay theo kiểu giang hồ,
mắt đền mắt, răng thế răng…

Nhưng rồi những cái “sợ rằng” ấy không phải là


sự thật. Khi đặt chân xuống mảnh đất quê
hương, họ được ân cần tiếp đón như những
người thân yêu đi vắng xa nay đã trở về, như
những người con đã lạc mất nay lại tìm thấy.

Sở dĩ như vậy vì có lẽ chính sách, đường lối và


MỤC LỤC

lập trường của Nhà nước đã thay đổi, nếu không


muốn nói là chiếc bản lề đã quay hẳn một góc
180o.

Trước kia, nếu những người vượt biên bị coi là


phản quốc, thì nay được coi là yêu nước, được
cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa…

Và sở dĩ có bước ngoặt này vì có lẽ Nhà nước


đã ý thức được rằng Việt kiều cũng là những
người con của Mẹ Việt nam, cũng là những
thành phần trong lòng dân tộc, khả dĩ có thể
đóng góp khả năng và chất xám, vật chất và tiền
của để xây dựng và phát triển đất nước. Cụ thể
là những đồng đô la do các Việt kiều gửi hay
đem về giúp đỡ thân nhân.

Tuy nhiên, đồng đô la thì cũng có mặt phải và


mặt trái. Việt kiều thì cũng có người tốt và kẻ
xấu.

Có những đồng đô la hữu ích đem lại vui mừng


và hy vọng, nhưng cũng có những đồng đô la
bất hạnh gây đổ vỡ tan hoang. Có những Việt
kiều trở về đã sưởi ấm tình yêu thương trong gia
đình hay khu xóm, nhưng cũng có những Việt
MỤC LỤC

kiều trở về chỉ để hưởng thụ, lường gạt hay


toan tính những việc làm ăn mờ ám.

Muốn biết được những sự việc tốt lành và


lôm côm này, xin mời bạn đọc đón xem
những bài sau ắt sẽ rõ.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐỒNG ĐÔ LA NHÂN NGHĨA

Mấy bữa nay ở Việt Nam bàu trời thật là ảm


đạm. Hết “áp thấp nhiệt đới” thì liền quay sang
bão, thành thử mưa gió cứ sập xùi triền miên.
Mà hễ cứ mưa to và gió lớn, thì y như rằng thế
nào cũng cúp điện. Đây chính là một căn bệnh
mãn tính của ông điện lực phe ta.

Giá như ở nước ngoài, có lẽ thiên hạ đã lôi ông


ta ra ba tòa quan lớn mà đòi bồi thường thiệt
hại, còn ở đây, thà rằng vạch đầu gối lên mà
than vắn thở dài còn hơn. Có vác đơn đi kiện thì
cũng chỉ như “con kiến mà kiện củ khoai” mà
thôi.

Ngày xưa khi còn xử dụng chiếc máy chữ cà


rịch cà tàng, thì bất kể thời tiết nắng mưa, ngày
và đêm, lúc nào cũng có thể ngồi vào bàn mà gõ
lóc cóc.

Còn bây giờ, ti toe bắt chước thiên hạ, đèo bồng
chiếc vi tính, thành thử hễ cúp điện là thất ngiệp,
ngồi chơi xơi nước, hay ngáp vặt chờ cơm.

Vì thế, để điền vào những khoảng trống cho hợp


MỤC LỤC

nghĩa, gã bèn lôi hết các thứ sách vở, báo chí cũ
ra đọc, để cho chúng khỏi mốc meo…đọc cho
đến lúc mờ cả mắt mới thôi. Và đoạn sách hôm
nay gã ghiền gẫm nói về lịch sử dân Do thái, đại
khái như thế này :
Vào năm 66, nhóm “Zélotes” đã phát động một
cuộc nổi dậy, chống lại sự thống trị tàn bạo của
các viên chức La mã. Vì thế, vào năm 70, tướng
Titus đã đem quân chiếm đóng Giêrusalem,
thiêu hủy đền thờ, hàng ngàn người Do thái đã
bị giết, còn phần đông đã bị bắt đi làm nô lệ. Đất
nước Do thái tan hoang từ đó.

Trong nhiều thế kỷ, người Do thái lưu vong đã bị


dân Âu châu nhìn bằng một cặp mắt khinh bỉ về
phương diện dân sự vì họ chỉ là những kẻ ngoại
lai, coi thường về phương diện tinh thần vì họ
chẳng có một nền văn hóa nào cả, cũng như về
phương diện tôn giáo vì họ là quân “Giu dêu” đã
giết Chúa.

Trong khi đó, giải đất Palestine lần lượt bị những


người Ả rập và Thổ nhỉ kỳ thống trị.
Mãi cho đến năm 1879, cuộc cách mạng Pháp
mới công nhận quyền tự do của người Do thái.
Rồi sau đó, nhiều chính phủ khác cũng đã chấp
MỤC LỤC

nhận lập trường ấy. Và người Do thái đã liên tục


phát triển một cách rất đặc biệt. Họ trở nên
những ông chủ của ngành tài chánh và báo chí
thế giới.

Sau khi cuộc đại chiến lần thứ hai kết thúc, Liên
hiệp quốc, vào năm 1947, đã phân chia giải đất
Palestine thành hai miền riêng biệt , rồi ngày 15
tháng 8 năm 1948, nhà nước Israel được chính
thức thiết lập và những người Do thái từ khắp
nơi trên thế giới lục tục kéo nhau về để xây
dựng lại quê hương đất nước.

So sánh sự kiện năm 70 của dân Do thái với sự


kiện năm 1975 của người Việt Nam, gã nhận
thấy mình hơn hẳn họ ở nhiều điểm.

Trước hết, nhờ biến cố này mà hôm nay người


Việt Nam mình đã có mặt trên toàn cõi địa cầu,
không riêng gì bên châu Âu hay châu Mỹ như
dân Do thái, mà còn ở khắp mọi nơi, từ nam chí
bắc, từ đông chí tây.

Nếu ngày xưa cha ông chúng ta đã bảo : đi một


ngày đàng, học một sàng khôn, thì không hiểu
đồng bào ta ở nước ngoài đã thâu lượn được
MỤC LỤC

biết bao nhiêu “xe tải chất đầy sự khôn ngoan”


của cả và thiên hạ.

Hơn thế nữa, khả năng “tiêu hóa” của người Việt
Nam mình lại thuộc vào hằng siêu đẳng, bằng
chứng là ngày xưa Phật giáo, Khổng giáo và
Lão giáo đã được cha ông chúng ta “cập nhật
hóa” thành cái vốn riêng của nền văn hóa dân
tộc.

Hay như Kitô giáo với nền văn minh phương tây
đặt chân tới miền đất khỉ ho cò gáy này, thì cha
ông chúng ta đã mượn tạm bản mẫu tự La tinh
mà chế biến thành chữ quốc ngữ ngày hôm nay.

Và như thế, đồng bào chúng ta ở nước ngoài


đã, đang và sẽ còn gạn lọc được những tinh
hoa, những cốt lõi của muôn dân, muôn nước
trên thế giới. Gã mong rằng họ sẽ là những con
tằm sẽ nhả ra được những sợi tơ vàng óng ánh.

Tiếp đến, trừ một vài nơi có nạn kỳ thị chủng


tộc, dân địa phương sợ “nạn da vàng” như sợ
một chứng bệnh dịch nguy hiển. Hay vì ghen tức
với những thành công của phe ta mà đem lòng
thù oán, còn phần đông người Việt nam mình
MỤC LỤC

đều được vị nể, chứ không bị khinh bỉ như dân


Do thái ở Âu châu. Bằng chứng là trong lịch sử,
mỗi khi có những biến loạn, người Âu châu cứ
nhè dân Do thái mà…xơi tái.

Và sau cùng, người Việt Nam mình dù sinh sống


ở nước ngoài, thì vẫn còn một quê hương, một
đất nước để hướng về, chứ không tan bày xẻ
nghé như dân Do thái sau khi Giêrusalem bị hủy
diệt.

Cũng vì ý thức đồng bào ở nước ngoài là một


phần tử trong đại gia đình dân tộc, nên nhà
nước ta mới thay đổi hẳn lập trường, từ thái độ
coi họ là những kẻ phản quốc đến thái độ coi họ
là những người yêu nước. Từ thái độ nghi kỵ thù
oán đến thái độ mở rộng vòng tay chờ đón.

Phải chăng chuyển biến và đổi thay đã là một


quy luật muôn đời. Vì nếu không chuyển biến,
không đổi thay, lúc nào cũng dậm chân tại chỗ,
thì chắc chắn con người sẽ rơi vào chỗ…tụt hậu,
lẽo đẽo theo sau người ta mà vẫn chẳng kịp.

Qua những tin tức về sinh hoạt của các cộng


đồng người Việt, gã rất mừng vì những thành
MỤC LỤC

công mà người mình đã gặt hái được nơi đất lạ


quê người.

Thứ nhất là những thành công trên con


đường học vấn.

Gã rất mừng vì có những bà già trầu, nếu như ở


Việt Nam, thì chỉ biết cái xó bếp nhà mình, cả
đời chẳng hiểu có được một lần ra thành phố
hay không, thế mà giờ đây cũng ti toe dăm ba
câu tiếng Mỹ, tiếng Ăng lê, nào là con cá này
nặng mấy “pao”, nào là chiếc đò này dài mấy
“phít”, rồi cũng “hai” giơ tay bắt khi gặp nhau và
“bai” vẫy tay chào khi rời nhau, khiến cho gã vô
cùng cảm phục.

Gã rất mừng vì có những thằng bạn, nếu như ở


Việt Nam, thì cũng chỉ là dân “cu trâu” suốt ngày
chỉ biết đến thửa ruộng và ca bản “con trâu đi
trước cái cày theo sau”, có bửa đầu ra cũng
chẳng thấy được một nửa tiếng OK hay Yes.
Nếu ông trời có đãi ngộ và số phận có mỉm cười,
chui lên được thành phố, thì cũng chỉ là dân cu li
cu leo. Thế mà bây giờ chúng nghiễm nhiên trở
thành kỹ sư điện tử, chuyên viên máy móc. Thận
chí có anh, khi công ti của mình giảm biên chế,
MỤC LỤC

rút bớt nhân viên, thì anh không những chẳng bị


loại trừ để ăn lương thất nghiệp, mà còn được
tăng lương, tăng cổ phần vì công ti sợ anh đi
làm chỗ khác.

Chỉ phiền một nỗi là khi trở về Việt Nam, anh đã


quên béng mất cái thói quen xơi…thịt chó mắm
tôm, rồi lại còn sợ muỗi, sợ ruồi, sợ nước dơ…
có đi đâu thì cũng phải kè kè mấy chai nước
khoáng bên mình, có tắm gội thì mấy đứa em
phải chịu khó đi xin vài gánh nước mưa từ nhà
hàng xóm về cho anh dùng và nếu đứa nhỏ của
anh có đòi uống sữa thì phải dùng sữa thứ thiệc,
“made in USA” chính hiệu con nai vàng, mới bảo
đảm chất lượng cho cái bao tử của đứa nhỏ.

Dường như anh cũng đã quên béng mất cái gốc


gác của mình, không còn nhớ mình cũng đã
xuất thân từ vùng đồng chua nước…phèn này.
Thấy thế, gã cũng cảm thấy một thoáng tủi hờn.
Nhưng thôi hãy biết bằng lòng với số phận của
mình.

Gã rất mừng vì có những sinh viên học sinh Việt


Nam ở nước ngoài đạt thành tích cao trong
những cuộc thi quốc tế, thậm chí có những sinh
MỤC LỤC

viên học sinh được chính tổng thống nước Mỹ


khen tặng. Phải chăng đây cũng là một niềm
vinh hạnh cho đất nước.
Biết đâu trong một thời gian gần đây, những
sinh viên học sinh này sẽ trở về để phục vụ cho
quê hương. Biết đâu mấy chục năm nữa, những
sinh viên học sinh này sẽ trở thành dân biểu,
nghị sĩ và cũng biết đâu chừng là tổng thống của
một đất nước hùng mạnh, như Kennedy, tổng
thống Hoa kỳ, vốn là dân Mỹ gốc Ái nhĩ lan, như
Fugimoto, tổng thống Ba tây, vốn là dân Brasil
gốc Nhật…

Phải, biết đâu cũng sẽ có một tổng thống Hoa


kỳ, là dân Mỹ gốc Việt. Nghĩ tới đây, gã cảm
thấy vô cùng hồ hởi và niềm kiêu hãnh của dân
tộc nổi lên đùng đùng.

Tuy nhiên cho đến bây giờ gã vẫn còn nhớ lời
phát biểu của một ông giáo sư ngoại quốc về
những sinh viên Việt Nam ở Saigon trước ngày
giải phóng. Lời phát biểu ấy như thế này :
- Sinh viên Việt Nam rất thông minh. Nếu một
sinh viên Việt Nam chọi với một sinh viên ngoại
quốc, dù là nước Nhật, nước Mỹ, nước Đức hay
nước Pháp…thì sinh viên Việt Nam cũng chẳng
MỤC LỤC

hề phải kiêng nể. Những nếu một nhóm sinh


viên Việt Nam chọi với một nhóm sinh viên ngoại
quốc thì họ sẽ thua xa. Sở dĩ như vậy vì họ
không biết cộng tác, không biết làm việc chung
với nhau.

Phải chăng sự chia rẽ là một căn bệnh trầm


trọng trong những cộng đồng Việt Nam ở nước
ngoài.
Những chuyên viên Việt Nam ở nước ngoài.
Quả thực đây là một kho tàng “chất sám” vô giá,
nếu như nhà nước ta biết lợi dụng, thì sẽ đem lại
cho quê hương một tương lai tươi sáng.

Gã thử làm một phép tính : Gửi một thanh niên


du học, từ lúc bước chân ra đi cho đến lúc thành
tài, nhà nước và gia đình phải tốn biết bao nhiêu
công sức và tiền của, thế mà cái “kho tàng chất
xám” này như một quà tặng từ trên trời rơi
xuống, có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Bỏ
qua, không tạo điều kiện cho họ trở về phục vụ
thì quả là một lãng phí to lớn.

Thứ hai là những thành công trong công việc


làm ăn.
MỤC LỤC

Gã rất mừng vì đa số người Việt Nam đã ăn nên


làm ra ở nước ngoài. Khởi đầu từ một con số
không khi đặt chân tới miền đất lạ, thế mà giờ
đây họ đã có được một cơ ngơi bề thế. Nào là
con cái được học hành đến nơi đến chốn, nào
là nhà riêng, nào là xe riêng…sở dĩ như vậy vì
họ là những người cần cù siêng năng lại lắm
sáng kiến.

Nhiều người sẵn sàng “kéo cày” ngoài giờ lao


động để được hưởng tiền lương cao. Cộng thêm
vào đó là tính tiết kiệm trong chi tiêu…nên họ
phất lên trông thấy và mỗi ngày một thêm khấm
khớ khiến cho thiên hạ phát thèm rỏ dãi.

Gã cũng rất mừng vì những người ngoài nước


đã không quên mà còn nghĩ tới những người
trong nước bằng cách gửi quà hay tiền về để
giúp đỡ, như cha ông chúng ta ngày trước đã
dạy :
- Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Thực vậy, cho đến bây giờ người ta vẫn không


thể làm được một thống kê đầy đủ cho biết mỗi
năm đã có bao nhiêu triệu đồng đô la được các
MỤC LỤC

Việt kiều gửi hay đem về giúp đỡ cho thân nhân


tại quê nhà, bởi vì có rất nhiều cách thức gửi :
gửi qua ngân hàng như Vietcombank, ngân
hàng ngoại thương…gửi qua những cơ quan
chính thức được nhà nước cho phép, như
Vina…gửi qua những Việt kiều về nước, gửi
chui qua những tổ chức tư nhân…Những cách
thức sau này thì làm sao nhà nước có thể nắm
vững được mà lên bản thống kê.

Thế nhưng, dù gửi bằng cách nào chăng nữa,


thì những đồng đô la ấy vẫn có thể được gọi là
những đồng đô la nhân nghĩa, vì chúng đã được
rót vào đất nước Việt Nam, giúp đỡ những gia
đình Việt Nam và được chính những người Việt
Nam tiêu dùng để cải thiện và nâng cao đời
sống.

Đây cũng lại là một thứ quà tặng từ trên trời rơi
xuống, chẳng phải lao động mệt mỏi, chẳng phải
vật vả đầu tư mà cũng có được một số vốn bằng
ngoại tệ kha khá để làm giàu và làm đẹp cho xứ
sở.

Thời gian đầu, thiên hạ thường gửi về những


thùng hàng. Mỗi khi đi lãnh hàng hay mỗi khi
MỤC LỤC

nhận được hàng thì cả ấp đều biết, kéo đến chia


vui và hỏi thăm. Tuy nhiên việc nhận hàng và
lãnh hàng đôi khi cũng có những vui buồn của
nó. Gã xin phô ra những chuyện riêng tư của
bản thân mình.

Có lần thằng bạn gã vửi về cho gã một gói hàng


nho nhỏ, trong đó gồm một chai rượu tây, một
gói Pall Mall, một mớ trà Lipton và hai cục xà
bông. Trong bức thư báo trước hắn viết :
- Gửi về cho mi một chai rượu tây để mi nhâm
nhi cho quên chuyện buồn. Gửi về cho mi một
bao thuốc lá để mi ngồi hút rồi thả hồn theo khói
mà mơ đến ta. Gửi về cho mi mấy gói trà để mi
uống mà sớm làm ông cụ non. Gửi về cho mi hai
cục xà bông để mi tắm gội cho sạch bụi trần…

Thì ra hắn đã nhái một bài hát thịnh hành ở


nước ngoài lúc bấy giờ, mà thỉnh thoảng đài
VOA vẫn phát đi, thế nhưng bây giờ gã không
còn nhớ lời lẽ như thế nào, hình như có câu :
-Gửi về cho em dăm ba thước vải để em đem
may làm chiếc áo cưới…

Thế nhưng, khi đến lãnh, thì nhân viên bưu điện
đã phán với gã :
MỤC LỤC

- Chai rượu tây và bao Pall Mall bị tịch thu vì bị


liệt vào hàng…quốc cấm.
Thế là mặt mũi gã ỉu xìu như chiếc bánh bao
chiều.
Lần khác, gã phải lặn lội lên tới tận thành phố,
lãnh được một thùng hàng khá lớn. Trên đường
về, gã những khấp khởi mừng thầm :
- Phen này ắt hẳn vớ ăn to.

Đến khi khui thùng hàng ra thì mới vỡ nhẽ :


Trong đó được chia làm hai mươi mốt phần đều
nhau. Hai mươi phần được người gửi nhờ gã
chuyển cho xấp bạn của nó. Còn gã thì cũng chỉ
được một phần như mọi người. Nếu cộng tiền
chi phí với tiền đóng thuế rồi đem chia đồng đều,
bắt mỗi người phải chịu một ít thì cũng kỳ, còn
để một mình gánh lấy tất cả thì cũng…đau.

Thế nhưng gã thầm nghĩ :


- Đau một tí cũng chẳng sao, biết đâu lần này
mình thả con săn sắt, lần sau mình bắt con cá
rô.

Và thế là đành phải vén môi cười trừ cho vui vẻ


cả làng. Mặc dù lúc bấy giờ nụ cười có phần
méo mó và héo hắt.
MỤC LỤC

Lần khác nữa, một thằng bạn mở tiệm thuốc tây


ở bên Mỹ gửi cho gã một thùng. Trong thư hắn
còn căn dặn :
- Ngoại trừ một số thuốc cảm cúm thông
thường, còn toàn thuốc mới nhất và mắc nhất
đấy, mi liệu mà nhớ cho kỹ.

Sau khi nhận được, gã cũng chỉ giữ lại mấy loại
thuốc cảm cúm thông thường, còn những thuốc
mới nhất và mắc nhất kia đành phải đem đi bán
vì không biết nó trị bệnh gì và liều lượng xử
dụng ra làm sao. Chẳng lẽ bây giờ mình lại cầu
cho mình mắc phải những chứng bệnh ấy để rồi
được xử dụng theo sự chỉ dẫn của bác sĩ…
Thậm chí có những thứ thuốc bác sĩ cũng vẫy
tay chào thua vì chưa biết mặt mũi chúng như
thế nào.

Cũng vì chúng mới quá nên chẳng tiệm nào dám


mua. Thôi thì đành phải bán tống bán tháo,
được tí nào hay tí ấy. Và thế là tiền bán thùng
thuốc chẳng được bao nhiêu, lỗ chỏng gọng, lỗ
chỏng vó so với giá tiền mà thằng bạn đã ghi
trong thư. Đau ơi là đau.
Gửi hàng về vừa cồng kềnh, lại vừa phức tạp,
MỤC LỤC

nên dần dần thiên hạ bắt đầu chuyển hệ, gửi


tiền về vừa gọn nhẹ, vừa kín đáo lại vừa có thể
xử dụng được ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Thực vậy, nhiều lần mấy thằng bạn đã viết thư


cho gã và bảo :
- Mi cần gì thì cho biết, ta sẽ gửi về cho.
Và gã đã phải mỉm cười, rủa thầm trong bụng
chứ không dám viết thành chữ hay nói thành lời
thành tiếng mà rằng :
- Ngu chi ngu lạ, đô la ai mà chẳng cần. Mi cứ
thử gửi cho ta mấy chục bạc lẻ xem ta có nỡ
lòng nào mà từ chối hay không ?
Lại nữa, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở
khắp nơi trên thế giới, đi tới đâu chúng ta cũng
đều nghe thấy vang vọng một điệp khúc :
- Em chỉ thích bản nhạc có hai nốt đô và la mà
thôi.
Bàn về chuyện nhận đô la của những người
thân gửi về, gã đã ky cóp tích lũy được những
mẩu chuyện vui vui.

Thỉnh thoảng vào những buổi trưa hè oi ả, đang


mơ mơ màng với giấc ngủ nặng nề, mồ hôi mồ
kê vãi ra nhễ nhại, thì bỗng một kẻ lạ hoắc bước
chân vào nhà. Kẻ lạ ấy có thề là đờn ông mà
MỤC LỤC

cũng có thể là đờn bà, có thể là thanh niên mà


cũng có thể là thiếu nữ. Kẻ lạ ấy mắt trước mắt
sau, vội vã hỏi một vài câu vắn gọn :
- Ông có ai quen ở bên Mỹ hay không ? Tên gì ?
Bang nào ? Vui lòng cho mượn chứng minh
nhân dân.
Rồi kẻ lạ đưa một mẩu giấy chỉ to bằng hai đầu
ngón tay và nói :
- Phiền ông hãy ghi là mình đã nhận đủ số tiền
bằng này. Rồi ký tên. Nếu có nhắn gửi gì cho
người bên đó thì cứ việc ghi thêm vào.

Sau đó, kẻ lạ mặt trao tiền, rồi vội vã ra đi như


khi đã đến, không dám uống cả một ly nước,
hay một ly cà phê…vì sợ bị bỏ thuốc mê và bị
trấn lột.
Có lần gã gặp một nhỏ em, đang tập tễnh bước
vào nghề này, nghề chuyển đô la cho thiên hạ.
Gã bèn nói :
- Xin chào cô em, sứ giả đem tin vui đến cho mọi
người.
Nghe lời chào này, nhỏ em liền….”chu mỏ
chuột” lên mà phát ngôn :
- Ghét anh ghê, chỉ chọc quê người ta hoài. Chỉ
có mình anh mới phong cho em làm sứ giả
mang tin vui. Nghe qua thì oách lắm, nhưng
MỤC LỤC

nghề này cũng thật lắm cái long đong. Thức lâu
mới biết đêm dài, có ở trong chăn mới biết chăn
có rận.
Trước cặp mắt tròn xoe vì ngạc nhiên của gã,
nhỏ em thương tình liền cắt nghĩa :
- Này nhé, anh thử nghĩ coi, thân gái dặm
trường như em, trong mình ôm một bó tiền, đi
đến những nơi xa lắc xa lơ, gặp những người lạ
hoắc lạ huơ. Có những địa chỉ nằm ở tận trong
hóc bà tó, đường xe không có, đường đò cũng
không. Đi bộ băng đồng mấy cây số, vừa đi vừa
hỏi thăm, tới nơi trao vội trao vàng, đánh mau rút
lẹ, ở lâu chỉ sợ nguy hiểm. Nếu chẳng may bị kẻ
gian giở trò thì không khéo mất cả chì lẫn chài,
cả vốn lẫn lãi. Tiền mất đã đành mà không
chừng mạng sống của mình cũng đi đoong luôn.
Rất may là chưa gặp phải tình huống nào như
thế. Trừ chi phí đi lại, ăn uống rồi cũng chả được
bao nhiêu, chỉ mấy mụ chủ ở thành phố là…xơi
được miếng to, mới ra nghề có mấy năm mà đã
phất lên hẳn ra, mua nhà mua đất.

Thuở bấy giờ, ở những nơi khỉ ho cò gáy như


nơi gã cắm dùi, thì làm gì được ông bưu điện
ghé mắt nhìn tới. Để liên hệ, gã đành phải mượn
địa chỉ của một người ở trên tỉnh. Ngày kia gã
MỤC LỤC

được người ấy nhắn lên để lĩnh tiền. Người ấy


bảo :
- Số tiền này từ bên Úc gửi về, mà mình chẳng
có ai thân ở bên đó cả, nên chắc là của chú mày
đấy. Thôi, cứ cầm về xài đỡ.

Nhận xấp tiền mà cứ băn khoăn thắc thỏm :


- Sao mấy đứa bên Úc gửi mà chẳng báo. Thôi,
kệ bà nó, tới đâu hay tới đó. Tiền đến tay ta, ta
cứ việc…thoải mái.

Và thế là mùa xuân năm ấy, gã đã có được một


cái tết tưng bừng khói lửa. Tiền lì xì cho bọn
nhóc cũng được tăng lên gấp đôi, gấp ba…
Nhưng rồi ngày vui qua mau, sau tết, người ấy
bèn triệu gã lên mà phán :
- Xin lỗi chú mày nhé, số tiền hôm trước chẳng
phải của chú mày đâu mà là của thiên hạ. Bây
giờ mình mới nhận được thư báo. Vậy cảm
phiền chú mày hãy mau mau hoàn trả lại số tiền
ấy để rồi mình còn trao cho họ nhé.

Ké nhờ địa chỉ của người khác cũng lắm cái


nhiêu khê và phức tạp. Vì thế, khi bàu không khí
đã thoáng đãng, không còn ngột ngạt nữa, gã
bèn đăng ký một hộp thư ngoài huyện. Có hộp
MỤC LỤC

thư riêng, gã liền được thiên hạ chiếu cố nhờ vả.


Và khi cho mượn địa chỉ đôi lúc cũng xảy ra
những chuyện…phiền.
Có lần vào ngày hai mươi chín tết, gã nhận
được điện tín với nội dụng :
- Mời ông lên địa chỉ số….để lãnh tiền.
Nhận được bức điện này, gã vội vã khăn gói quả
mướp đi ngày đi đêm để lên thành phố vì đã cận
tết lắm rồi. Thế nhưng lúc nhận tiền thì mới vỡ lẽ
tiền không phải là của mình, nhưng là của người
này người nọ mà thiên hạ nhờ mình chuyển hộ.
Và như thế, khi đi thì vui mừng hồ hởi vẽ ra
trong đầu óc một cái tết huy hoàng, còn khi về
thì tiu nghỉu, ai hỏi cũng chẳng buồn thưa. Tới
nhà thì mệt phờ râu cá chốt. Tắm rửa qua quít
rồi giao hàng. Chủ nhân có lẽ vì bận rộn với
những công việc dọn dẹp nhà cửa vào chiều ba
mươi tết, nên rất vui vẻ cám ơn mà quên béng
mất những sự rất…đời thường còn lại.

Và thế là gã cũng phải tự an ủi :


- Việc đâu còn đó, cứ để cho thiên hạ vui vẻ cái
đã. Sau tết mình sẽ tính toán lại cũng chưa
muộn cơ mà.
Có khi phải đi vài ba lần mới lĩnh được tiền,
nhưng rốt cuộc tiền lại không phải là của mình,
MỤC LỤC

chỉ nhờ mình chuyển mà thôi. Kể cũng hơi đau.


Nhưng thôi rán làm việc lành để đức lại cho con
cho cháu.

Tuy nhiên, phải thẳng thắn mà công nhận rằng :


nhờ những đồng đô la được rót về, nhiều gia
đình đã thoát khỏi cảnh nghèo túng khố rách áo
ôm.

Thực vậy, nhờ những đồng đô la nhân nghĩa


này, nhà cửa được xây dựng lại cho mới. Nhờ
những đồng đô la nhân nghĩa này, cha mẹ già
được chăm sóc hẳn hoi, những người thân yêu
được ăn mặc tươm tất và xấp nhỏ được học
hành đến nơi đến chốn. Nhờ những đồng đô la
nhân nghĩa này, cuộc sống được cải thiện.

Có mấy cán bộ gặp một linh mục và hỏi :


- Tại sao xứ của linh mục không được phát triển
như những xứ khác vì con số nhà xây lại còn ít.
Và linh mục này đã thẳng thừng trả lời :
- Hiện nay tại Việt Nam, xứ nào có nhiều việt
kiều, thì xứ ấy giàu và liên tục phát triển. Hồi
năm 1978, tôi đã nghe các ông, không ngừng
khuyên nhủ giáo dân hãy ở lại để xây dựng quê
hương đất nước. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy mình
MỤC LỤC

đã dại. Giá như hồi đó, tôi cứ nhắm mắt làm ngơ
cho họ vượt biên, thì bây giờ xứ tôi đâu có còn
những mái nhà tranh vách đất xiêu vẹo.

Gã xin khẩu phục tâm phục vị linh mục đã bạo


mồm bạo miệng dám nói thẳng và nói thực.

Gã cũng xin khẩu phục tâm phục khi đọc thấy


trên những tờ báo công giáo ở nước ngoài như
Mục vụ, Dân Chúa, Đức Mẹ hằng cứu giúp… có
khoản kêu gọi yểm trợ cho những giáo xứ
nghèo, hay những tổ chức từ thiện tại quê nhà.

Và gã càng xin khẩu phục tâm phục hơn nữa khi


thấy có những việt kiều lúc về nước, mặc dầu
thời gian ít ỏi, cũng đã cất công lặn lội đến
những trại cùi để trao tận tay số tiền của mình
hay của một số người chắt chiu dành dụm mà
giúp đỡ. Xin đa tạ và bái phục.

Đồng đô la hiện thời rất có giá, nên khi cầm đô


la về nước, những việt kiều không phải chỉ giúp
đỡ cho thân nhân của mình, mà hơn thế nữa,
chính bản thân họ cũng được nhiều lợi ích.

Thực vậy, giá cả sinh hoạt ở Việt Nam tương đối


MỤC LỤC

rẻ, nên tha hồ tiêu xài rủng rỉnh. Có những việt


kiều đã về nước để sửa lại sắc đẹp, để may sắm
áo quần…Có những việt kiều đã về nước để
cưới vợ, để hưu dưỡng và không chừng để chết
trên vùng đất thân yêu. Vì tất cả đều rẻ hơn so
với bên đó.

Đồng tiền thì có mặt phải mặt trái. Hôm nay


gã đã bàn đến những đồng đô la nhân nghĩa.
Còn những đồng đô la bất hạnh thì sao ? Gã
xin hẹn gặp lại ở lần sau sẽ phân giải.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐỒNG ĐÔ LA BẤT HẠNH

Hình như ai trong chúng ta, từ đờn ông đến đờn


bà, từ cụ già đến đứa con nít, ai ai cũng đều
hiểu được giá trị của đồng tiền, chả thế mà hiện
nay, ở Việt Nam người ta thường hay rêu rao :

- Tiền là tiên là phật,


Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.

Và khi ra ngõ, dằn ở trong túi tí tiền còm, cũng


cảm thấy bảo đảm như có được một lá bùa hộ
mệnh. Đồng tiền, đúng là tiên là phật, có sức
màu biến đổi cả bên trong lẫn bên ngoài, cả hình
dong lẫn cõi lòng, như người xưa đã từng phát
ngôn :

- Xu hào rủng rỉnh thì…. thằng mán cũng ngồi


xe.
- Cô nọ đen thủi đen thui, nhưng tiền nhiều thì
cũng vưỡn …lượt là như ai.

Và trong thời buổi hiện nay, đồng tiền, nhất là


MỤC LỤC

đồng tiền đô la của Mỹ lại càng được thiên hạ


chiếu cố tận tình. Cũng vì đồng đô la có giá mà
nhiều Việt kiều, mỗi khi trở về thăm quê hương,
thỏa sức tiêu dùng và mua sắm, kể cả ăn chơi
xả láng…mà vẫn dư khả năng giúp đỡ những
người thân và gia đình, cũng như góp phần vực
cái nền kinh tế còn èo uột của đất nước lên.

Tuy nhiên, cái gì thì cũng có mặt phải và mặt


trái. Có những đồng đô la nhân nghĩa, như gã
đã bàn đến trong số trước, thì cũng có những
đồng đô la bất hạnh, là điều gã xin “phô bày”
trong số này.

Thế nhưng, trước khi đi vào những đồng đô la


bất hạnh ấy, gã xin kể lai một vài kỷ niệm buồn
về những thùng đồ, vốn dĩ là “tiền thân” của
những đồng đô la hôm nay.

Thuở ấy, khi chưa có những đường giây chuyển


tiền chính thức của nhà nước, cũng như những
đường giây chuyển tiền chui của tư nhân hay do
những người trở về…cầm tay, thì “tuyệt chiêu”
được những người ở ngoài nước vốn thường
dùng để giúp đỡ những người thân yêu trong
nước, đó là gửi những thùng hàng hay những
MỤC LỤC

thùng đồ. Và mỗi khi đi lãnh hàng, hay nhận đồ


thì cả làng đều biết, chẳng dấu diếm ai được chi.

Một gia đình nghèo rớt mùng tơi, thế mà bỗng


vào một buổi sáng đẹp trời, mọi người trong xóm
đều nghe thấy tiếng nhạc xập xình phát ra từ
chiếc cassette mới cáo cạnh, thì đó là dấu chỉ
chắc chắn nhất nói lên rằng nhà ấy mới nhận
được một thùng đồ của thân nhân.

Cũng vì hàng họ, đồ đạc chẳng dấu diếm được


ai mà sinh ra lắm chuyện lủng củng.
Nhà nọ có một bà chị sống bên Úc, còn bà mẹ
già và mấy anh em thì ở Việt Nam. Ngày qua
tháng lại, máy móc và những tiện nghi của ông
anh cả cứ phình to…phình to thêm mãi, trong
khi đó, nhà của mấy chú em thì vẫn rách nát
như cũ.

Được hỏi tại sao lại có sự kiện ấy, thì ông anh
cả tỉnh bơ trả lời :
- Cô ấy gửi về…biếu mẹ đấy, chứ nào có phải là
của tôi.

Câu trả lời của ông anh cả làm gã nhớ tới câu
chuyện ngụ ngôn về cụ sư tử. Câu chuyện này,
MỤC LỤC

gã không còn nhớ rõ, đại khái như sau.

Hôm ấy, mấy chú cáo vớ được một con mồi,


đang lúc tranh giành nhau, thì chẳng may bị cụ
sư tử nhìn thấy. Và thế là “a-lê-hấp” cụ liền nhào
vô ăn có.

Cụ phán như đinh đóng cột :


- Con mồi này được chia làm ba phần. Vì ta to
lớn hơn các chú mày, nên được phần thứ nhất.
Vì ta đứng ra giàm xếp cho các chú mày, nên
được phần thứ hai. Vì ta vất vả phân chia, nên
được thêm phần thứ ba.

Và như vậy, cũ sư tử xơi tái con mồi làm cho


mấy chú cáo tiếc ngẩn tiếc ngơ.
Trở lại sự việc trên : ông anh cả ẵm mọi hàng họ
cô em gửi về với lý do mình phải nuôi nấng và
phụng dưỡng mẹ già, khiến cho mấy chú em tức
anh ách như bị bò đá, mà chẳng dám mở miệng
nói ra.

Thế nhưng, tức nước vỡ bờ, thỉnh thoảng anh


em có dịp ngồi lại với nhau như ăn tết, ăn giỗ…
lợi dụng hơi men, thế nào cũng có chú em lên
tiếng hạch tội ông anh cả của mình, có lần suýt
MỤC LỤC

đi tới chỗ…”uỵch nhau”. Chỉ vì những thùng đồ


mà…huynh đệ tương tàn, hay chí ít cũng chiến
tranh lạnh “mí” nhau.

Bình thường thì trong gia đình, người vợ vốn


nắm vai trò thủ quĩ. Lợi dụng chức vụ giữ “hào
bao” này, người vợ thường gửi về cho bên mình
nhiều hơn là gửi về cho bên….ảnh. Và thế là
chiến tranh bùng nổ.

Nhà kia cha mẹ đều qua đời chỉ còn lại hai chị
em. Bà chị nuôi cậu em ăn học cho đến khi cậu
em thành đạt và cưới vợ. Sau mấy lần vượt
biên, gia đình cậu em được định cư ở Mỹ và làm
ăn phất lên trông thấy.

Kẹt một nỗi tại Việt Nam, hai gia đình kết tình xui
gia lại ở đối diện, chỉ cách nhau có một khoảng
mặt đường. Bên đằng trai thấy bên đằng gái liên
tục đi lãnh hàng, không tháng nào mà không có.
Rồi nhà cửa được trang bị đủ thứ máy móc, nào
ti vi, nào tủ lạnh, nào cassette đời mới, nào
honda hai ba chiếc.

Còn bên đằng trai, bà chị cứ vò võ một mình, âm


thầm xơi cà ghém mắm tôm…họa hoằn lắm mới
MỤC LỤC

được một thùng quà, mà chỉ rặt vải vóc, kem


đánh răng, xà phòng tắm, thuốc cảm cúm và
dầu nóng xoa rốn cho đỡ đau bụng…

Có ai hỏi vì sao mà “bèo thế”, bà chị liền ngán


ngẩm trả lời :
- Chắc thằng em tôi nó đã…chết rồi.

Cho tới khi đất nước mở cửa, hai vợ chồng dắt


díu nhau về thăm quê nhà. Bên đằng gái lo đón
bà vợ, còn bên đằng trai lo đón ông chồng.

Cuối cùng, qua những thương lượng kiểu con


thoi như Kissinger ngày xưa, người ta đã đi tới
một bữa tiệc chung ở đằng trai để thiết đãi và ra
mắt quan viên họ hàng làng xóm.

Mọi sự diễn ra một cách tương đối tốt đẹp tựa


như “mùa đông Paris”.

Khi tiệc tan và khách khứa đã ra về, thì vào ban


tối bà chị chồng và cô em dâu mới mở cửa bảo
nhau một cách tận tình. Bao nhiêu ấm ức chất
chứa trong lòng đều được bà chị chồng phun ra
cho bằng hết.
MỤC LỤC

Bàu không khí lúc bấy giờ thật nóng và thật oi


như “mùa hè Phi châu” nghiệt ngã.

Hai bên “chăm sóc” cho nhau một cách quá kỹ


lưỡng, khiến cô em dâu, đêm hôm khuya khoắt,
hùng hổ khăn gói quả mướp băng qua mặt lộ
mà về nhà mẹ, nhưng vẫn không quên ngoái cổ
lại đằng sau mà rằng :
- Từ giờ cho đến chết, tôi sẽ không bao giờ thèm
bước chân vào căn nhà này nữa.

Chỉ tội nghiệp cho anh chồng : bên chị và bên


vợ, biết chọn bên nào. Thôi đành phải để đến
sáng hôm sau khi mặt trời mọc và cơn tam bành
của hai người đờn bà nguôi ngoai đi phần nào
thì sẽ…hạ hồi phân giải.

Ôi những thùng hàng bất hạnh làm gẫy đổ cả


nghĩa xui gia và giật sập cả tình anh em ruột thịt.
Giả như không có chúng, hẳn người ta đã sống
khỏe re trong cảnh thái bình, chan hòa yêu
thương và ấm áp tình người.

Sau chuyện thùng đồ, thì tới chuyện tiền đô.


Có lần gã hỏi một thằng bạn từ Mỹ về chơi :
- Không hiểu ở bên Mỹ cái tên ấy làm nghề
MỤC LỤC

ngỗng chi mà khi về Việt Nam, hắn tiêu tiền đô


như đốt pháo ngày tết hồi xưa vậy.

Nghe hỏi thế, thằng bạn bèn bật mí :


- Có làm cái quái gì đâu, thất nghiệp dài dài,
thường xuyên ăn lương trợ cấp của nhà nước.
Tuy nhiên, trước khi về, hắn đã phải chạy đôn
chạy đáo, vay tiền của ngân hàng, vay tiền của
người nọ người kia để ăn xài theo kiểu đế
vương mà làm oai và lấy le với thiên hạ. Cứ cái
kiểu ấy thì khi trở lại đất Mỹ sẽ làm thân trâu
ngựa, kéo cày trả nợ cho tới mãn đời cũng chưa
chắc đã hết.

Hình như dân Việt Nam ta có máu sính cái “mác


ngoại”.
Họ ngoại thì dễ chịu hơn họ nội. Hàng ngoại thì
xịn hơn hàng nội và tiền ngoại thì quí hơn tiền
nội. Vì thế việt kiều thì có “thớ” đối với nhưng
người trong nước.

Chính vì thế, có kẻ đã lợi dụng cái “mác việt


kiều” để làm những chuyện lừa gạt thất đức.

Trước hết là lợi dụng cái mác việt kiều để gạt


tình.
MỤC LỤC

Gã xin ghi lại nơi đây những chuyện có thật, đã


từng được báo chí đăng tải.
Đầu năm 1999, với danh nghĩa là nhân viên của
một công ty Mỹ muốn mở đại lý ở Saigon, LVM
về Việt Nam đề thăm dò thị trường, đồng thời
tìm người để lấy làm vợ. Đúng là một công đôi
ba chuyện.

M. làm quen với cô TTL ngụ tại Bình Thạnh và


hai người bắt đầu tìm hiểu nhau để đi tới hôn
nhân. Lấy lý do tiết kiệm tiền để lo làm ăn, M.
ngỏ ý muốn về ở chung với L. cho đỡ tốn tiền
khách sạn. Thấy M. thật thà lại chí thú làm ăn, L.
không khỏi cảm động, chăm sóc cho người
chồng tương lai thật chu đáo và tin tưởng trao
thân gửi phận cho M.

Kẹt một nỗi trong nhà L. còn có cô em gái tên là


H. Và thế là mổi khi L. đi làm, M. hay chở H.
dong chơi và giữa họ có mối quan hệ khắng khít
và thân mật trên mức bình thường. M. cũng
không dám từ chối bèn…xơi luôn cô em gái này.

Khi bị phát giác, hai chị em đã họp “đại hội”và đã


đi đến chỗ đồng ý và nhất trí đòi buộc M. phải
MỤC LỤC

chọn một trong hai người làm vợ. M. cũng ậm ờ


cho qua chuyện và bắt đầu tính bài…chuồn
bằng cách viện cớ lu bu công việc nên không
thể ghé nhà sống chung với hai chị em được
nữa.

Qua tìm hiều thì ngoài hai chị em kể trên, M. còn


lạm dụng mác việt kiều để gạt tình nhiều cô gái
khác và với cô gái nào M. cũng hứa sẽ cưới làm
vợ. Sau khi đã gạt được tình, M. liền tìm cách…
cao chạy xa bay.

Cũng thế, ông bố kia ở quận Tân bình có ba cô


con gái, đang độ mơn mởn đào tơ. Cách đó
không xa, lại có một chàng việt kiều. Với tình
nghĩa lối xóm qua lại, chàng việt kiều đã chấm
ngay cô út xinh xỉnh là xinh.

Hai người bèn tốc hành ăn ở với nhau như vợ


chồng, chàng việt kiều hứa sẽ cưới cô út làm vợ,
còn cô út cũng muốn vì thế mà cột chân chàng
việt kiều, Xem ra hành động như vậy thì cả đôi
bên đều có lợi.

Nhưng cô út quên béng mất lời cảnh cáo của


người xưa :
MỤC LỤC

- Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.


Mà đúng thế, sau đó không lâu, chàng việt kiều
bỗng dưng… mất tích. Thì ra chàng việt kiều đã
tếch vể Mỹ lúc nào không hay, để lại mối hận
tình cho cô út xinh xỉnh là xinh và bốn cô gái
khác cũng tương tự như thế.

Bởi vậy, hỡi các cô nường thương mến, nếu lúc


này các cô nường đang ươm mơ đi Mỹ bằng
cách lấy chồng việt kiều thì hãy đề cao cảnh
giác, mở to đôi mắt viên bi ra mà nhìn.

Ngày xưa mấy chàng việt kiều họ…sở thường


dùng mánh vung tiền như nước, làm lóe mắt
những kẻ cả tin lại nhẹ dạ, nhưng xem ra cái
mánh này vừa hao địa lại vừa xưa rồi…diễm ơi,
nên mấy chàng việt kiều họ sở này bèn chuyển
qua mánh “giả nai”.

Họ giả bộ chí thú làm ăn, tiêu xài tiết kiệm với vẻ
bên ngoài thật thà đứng đắn, khiến cho nhiều cô
nường bị sập bẫy. Bên ngoài họ là “con nai vàng
ngơ ngác”, nhưng bên trong họ đích thực là một
loại…”dê xồm” đấy, các cô nường yêu dấu ạ.
Không những chỉ những chàng việt kiều mới gạt
tình, mà ngay cả những nàng việt kiều cũng
MỤC LỤC

thực hiện bài bổn kể trên để…kiếm chồng.

Báo Công an Thành phố kể lại rằng :


Anh tài xế hai mươi bốn tuổi vừa đẹp trai lại vừa
khỏe mạnh được công ty du lịch phân công chở
một bà việt kiều lên tham quan Đalạt.

Bà việt kiều già đã năm mươi mí tuổi rồi mà vẫn


ăn mặc diêm dúa, nước hoa nước hoét thơm
phưng phức.
Trên suốt đoạn đường dài ba trăm cây số này,
bà việt kiều già cho biết mình đang là giám đốc
điều hành một công ty lớn bên Mỹ, phải đi đây đi
đó, rất cần một tài xế thân tín, rồi lại khen anh tài
xế lái xe bay bướm như nghệ sĩ và cuối cùng bà
việt kiều già tỏ ý muốn bảo lãnh anh tài xế sang
Mỹ.

Anh tài xế mừng rỡ như mở cờ trong bụng vì


được quái nhân phò trợ, nên cung phụng bà việt
kiều già này còn hơn cung phụng mẹ ruột của
mình.

Tới Đalạt, tại khách sạn bà việt kiều già đòi anh
tài xế phải xoa bóp, phải “massage” cho mình,
rồi nũng nịu gọi anh tài xế là “cưng ơi” và xưng
MỤC LỤC

“em” ngọt xớt, khiến cho anh tài xế cứ rối tinh


trong bụng, vừa lo lại vừa mừng, vừa mừng lại
vừa lo.

Trên đường về bà việt kiều già bảo anh tài xế


tạm ứng cho mình 1500 đô để lo thủ tục xuất
cảnh, sang tới bên đó thì sẽ bù lại gấp mười.
Với mộng ước được xuất cảnh sang Hoa kỳ,
anh tài xế bèn bàn bạc với người yêu của mình
đang làm nghề thợ may. Tưởng người yêu phản
đối, ai dè cô ấy đồng ý liền tù tì, lại còn khích lệ
và dự phóng cho tương lai :
- Anh đi trước rồi bảo lãnh cho em qua sau.

Và thế là hai người vét hào bao, gom góp đủ số


tiền nộp cho bà việt kiều già.
Câu chuyện còn dài, nhưng rốt cuộc chỉ vì giấc
mơ đi Mỹ mà anh tài xế và cô nhân tình bé bỏng
mất toi số tiền trên, bởi vì bà việt kiều già chỉ là
một chuyên gia lừa gạt cả tình lẫn tiền.

Thực chất bà vừa khát tình lại vừa khát tiền và


cũng chẳng có một công ty nào bên Mỹ cho bà
làm giám đốc cả.

Với cái mác việt kiều, người ta không những chỉ


MỤC LỤC

lừa tình mà còn gạt cả tiền nữa.


Cách đây không lâu, báo chí đã um xùm đăng
tải trường hợp của Juan Ming vì nó liên hệ tới
một cô diễn viên điện ảnh nổi tiếng của thành
phố tên là Diễm Hương.

Ngày 29.4.1975 hắn và hai người em ruột được


bà chị bảo lãnh vào tòa đại sứ để di tản sang
Mỹ.

Tại Mỹ, hắn học về thể dục thể thao. Sau khi bị
cảnh sát Mỹ lùng bắt khẩn cấp về tội giết người,
hắn trốn sang Đài loan và dạy tennis, rồi từ đó
về Việt Nam nuôi ngựa hòng trốn tránh sự truy
nã của FBI.

Trong một buổi tiệc mừng sinh nhật, hắn đã mời


cả diễn viên Diễm Hương và thuổng luôn hai
viên kim cương của bà Cẩm Huỳnh, người má
nuôi của hắn rồi trốn sang Campuchia. Nhưng
lưới trời lồng lộng. Cuối cùng, hắn cũng đã bị
tóm cổ và bị dẫn độ về Việt Nam.

Không những lừa tình và gạt tiền, mà nhiều khi


thiên hạ còn lạm dụng cái mác việt kiều và
những đồng đô la bất hạnh để có những hành
MỤC LỤC

động làm nhơ bẩn quê hương, chẳng hạn như


mở động mãi dâm, mở đường giây xuất khẩu
gái qua nước ngoài, hay những hành động làm
nghèo đất nước, chẳng hạn như những hình
thức kinh doanh không đúng vơi luật pháp qui
định.

Trước hết là những hành động làm nhơ bẩn quê


hương.

Gã xin kể ra nơi đây một trường hợp điển hình,


đó là trường hợp của Đỗ vinh Sang.
Hắn sinh năm 1969. Vượt biên qua Mỹ năm
1983. Tại đây hắn sống bằng tiền…thất nghiệp.
Vì cuộc sống khó khăn, nên hắn đã làm
giả..”người cõi trên”.

Suốt hai năm trời ăn bám dưới hình thức tu tịnh


khẩu, không nói một tiếng, mặc xà rông, ở trần,
đầu quấn kín, chỉ chừa mắt, mũi, miệng. Ai hỏi
hay nói gì, hắn chỉ lắc hoặc gật đầu.

Vào tháng giêng năm 1997, hắn về nước. Thấy


cô em gái làm ăn khấm khớ và giá sinh hoạt tại
Việt Nam lại quá rẻ so với bên Mỹõ, nên hắn đã
quyết định cắm dùi, nằm lỳ tại thành phố, lên
MỤC LỤC

phương án cộng tác với vợ chồng cô em gái


mần ăn…tầm bậy tầm bạ.

Thế là cuối năm 1998, hắn cùng vợ chồng cô


em gái bắt đầu tổ chức những điểm chứa gái để
kiếm tiền và thực hiện việc nuôi gái lầu xanh,
“đưa người cửa trước, rước người cửa sau” để
mau phất lên.

Chúng thuê hoặc mua nhà làm tiệm hớt tóc, lam
shop thời trang như bình phong che dấu những
hành động đốn mạt. Đồng thời có lý do chính
đáng để tuyển dụng gái. Bị đẩy vào đây còn có
những cô gái nhẹ dạ tin lời hứa của hắn, chẳng
hạn như trường hợp của T.

T. là một cô gái quê tại Sa đéc, gặp Sang ở một


cửa hàng nơi T. đang giúp việc. Chỉ vài lần lui
tới, Sang đã đặt vấn đề yêu thương tha thiết và
muốn cưới T. làm vợ.
Một cô gái nghèo phải bỏ quê lên thành phố tìm
việc với ý nguyện đổi đời, choáng ngợp trước
tình yêu của một chàng việt kiều thứ thiệc, nên
T. xiêu lòng…để rồi cuối cùng đã phải làm việc
tại ổ chứa của hắn.
MỤC LỤC

Sau cùng là những hành động làm nghèo đất


nước, mà điển hình là trường hợp của Trịnh
vĩnh Bình.

Trịnh vĩnh Bình là một việt kiều Hà lan, đã mang


về nước 2,3 triệu USD và 96 ký vàng để kinh
doanh tại Vũng tàu. Từ tháng 7 năm 1991 đến
tháng 7 năm 1995, mượn danh nghĩa của những
người thân bên mình và bên vợ, Bình đã mua
gom được 284ha đất, 2 cơ sở sản xuất, 11 căn
nhà rải rắc từ thành phố Hồ chí Minh, chạy dọc
quốc lộ 51 cho tới Vũng tàu. Cùng với phương
thức trên, Bình còn nhận 542ha đất trồng rừng…
Rồi sau đó, Bình sang đi bán lại để kiếm lời. Cụ
thể là Bình đã bán 2,8ha đất, thu về được 480
lượng vàng và 1,005 triệu USD, chuyển nhượng
14ha đất trồng rừng, thu về 6,2 tỷ đồng.

Ngoài ra, Bình còn hối lộ để lo giấy tờ nhập khẩu


giả cho những người thân ở địa phương khác
để dễ dàng mua bán nhà cửa, thành lập công ty,
nhận đất rừng, hợp thức hóa chủ quyền…

Mang đô la và vàng về nước để đầu tư và kinh


doanh là điều tốt, thế nhưng thật đáng tiếc là
Bình đã đầu tư và kinh doanh sai trái pháp luật,
MỤC LỤC

vi phạm nghiêm trọng về việc quản lý, bảo vệ


đất đai của nhà nước.

Hành vi sai trái của Bình đã dẫn đến những hậu


quả nghiêm trọng, đó là hàng nghìn mét vuông
đất bị sử dụng sai mục đích, thất thu tiền thuê
đất và tiền thuế đất lên tới hàng chục tỷ đồng.

Với sự tiếp tay của một số cán bộ, hành vi của


Bình đã vô hiệu hóa sự quản lý của nhà nước về
đất đai, gây ra những tác động xấu và những
hậu quả tiêu cực…
Để kết luận, gã xin kêu gọi như sau :
- Hỡi tất cả những ai thích bản nhạc chỉ có hai
nốt đô và la, thì hãy coi chừng, đề cao cảnh
giác, nhất là những người đang nuôi nhiều ước
vọng và những cô gái đang dệt nhiều mộng mơ,
hãy mở to cặp mắt mà nhìn, kẻo một khi đã sập
bẫy, thì sẽ phải ân hận suốt cả một đời.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

GIẤC MƠ LÀM... RỒNG

Hình như số báo xuân nào, người ta cũng phải


tán hươu tán vượn về con giáp.
Chẳng hạn năm nay là năm Canh Thìn, cầm tinh
con rồng, thì chắc chắn là phải đá động tới loài
động vật “huyền thoại” này.
Viết không giống như vẽ.Thực vậy, chuyện xưa
tích cũ kể lại rằng ngày kia người ta hỏi một ông
họa sĩ có tài và nổi tiếng :
- Theo ông, thì vẽ cái gì khó nhất ?
Ông họa sĩ trả lời :
- Vẽ người.
Người ta lại hỏi tiếp :
- Còn vẽ cái gì dễ nhất ?
- Vẽ ma, vẽ quỉ.
Đang khi người ta thắc mắc thì ông họa sĩ liền
cười hề hề mà giải thích :
- Người thì sống lù lù trước mắt, nếu mình vẽ
không giống thì thiên hạ sẽ chê mình là hạng
“thợ vẽ thứ dổm”, nên chi vẽ người là việc rất
khó. Còn ma quỉ là loài chẳng ai trông thấy, nên
muốn vẽ gì thì vẽ, thêm râu thêm ria, thêm sừng
thêm cẳng cũng chẳng ai hay. Ấy vậy cho nên
vẽ ma vẽ quỉ là việc dễ nhất.
MỤC LỤC

Nghe xong lời giải thích này, người ta bèn lấy


làm “khẩu phục tâm phục” ông họa sĩ hết cỡ.
Nhưng trong lãnh vực viết lách thì khác. Giá như
lúc này gã được viết nhăng viết cuội về con
mèo, con dê hay con…lợn, là những con vật
sống quanh chúng ta thì dễ dàng biết bao
nhiêu, bởi vì trong hồ sơ lưu trữ, lý lịch và tài liệu
về những con vật này quả là phong phú và hay
ho.
Chứ còn viết về…rồng, một con vật được liệt
vào hàng “cổ tích” thì thực là rỗng tuếch, chẳng
có tí ti chất liệu nào cả.
Thế nhưng, phép vua thua lệ làng. Cái lệ của
làng báo là đầu năm phải xông đất và điểm mặt
con vật cầm tinh. Và như vậy, gã đành phải
“cũng liều nhắm mắt đưa chân”, phệu bừa phệu
bãi được tí nào hay tí nấy, bởi vì méo mó có hơn
không.
Chẳng hiểu ngày xưa thì thế nào, chứ còn bây
giờ gã xin cam đoan cả hai tay lẫn hai chân rằng
: chưa một ai đã được nhìn thấy rồng. Thế mà
rồng lại len lỏi vào mọi nền văn hóa và có mặt ở
khắp mọi nơi mọi chốn, bên tây cũng như bên
ta, mặc dù hình thù có khác nhau đôi chút.
MỤC LỤC

Theo tự điển “Larousse” của mấy ông tây, thì


rồng là một con vật hoang đường, hình rắn
nhưng lại có cánh và có đuôi.
Còn theo Tự điển Việt Nam của Lê văn Đức, thì
phe ta xem rồng là một con vật mình dài, có vảy
to, miệng rộng, một sừng, chân có vấu, được
sinh ra ở dưới nước nhưng lại biết bay trên mây.
Rồng lại còn được mấy chú ba tàu xếp vào hàng
đầu trong tứ linh, bốn con thú linh thiêng, đó là
long, ly, quy, phụng :
- Áo đen năm nút con rồng,
Ở xa con phụng, ở gần con quy.
Dù hình dong bên ngoài hơi khác nhau vài ba tí,
chẳng hạn như có cánh hay không có cánh, có
sừng hay không có sừng, có chân hay không có
chân…thì rồng vẫn được mọi người quí mến :
- Bao giờ cá lý hóa long,
Đền ơn Cha mẹ ẵm bồng ngày xưa.
Và từ chỗ quí mến ấy, hầu như mọi người Việt
Nam chúng ta đều rất thích mơ được làm…
rồng.
Thực vậy, dân tộc nào trên mặt đất này cũng có
niềm tự hào riêng về gốc gác, về cội nguồn của
mình.
Chẳng hạn như dân Nhật bản chính gốc Phù
tang luôn hãnh diện vì mình là con cháu của
MỤC LỤC

“Thái dương thần nữ”. Thảo nào mà lá cờ của


họ chỉ có mỗi một hình tròn đỏ, tượng trưng cho
Mặt trời, nổi bật trên nền trắng.
Chẳng hạn như dân Pháp chính gốc Phú lãng sa
luôn hãnh diện vì mình thuộc nòi gà trống
Gaulois. Thảo nào mà ngày xưa vào thời Cách
mạng 1789, người ta đã vẽ hình con gà trống
lên quốc kỳ của mình. Thảo nào mà ngày nay
trong những trận đá banh quốc tế, các cầu thủ
Pháp thường thả một chú gà trống vào trong sân
để cầu may. Thảo nào mà mấy cố tây, mặc dù
đã tu hành, nhưng vẫn mang nặng đầu óc dân
tộc và luôn hướng về đất mẹ của mình, đã đặt
chú gà trống ở đỉnh cao cây thánh giá trên ngọn
tháp nhà thờ chính tòa thành phố Đalạt. Vì thế,
ngôi nhà thờ này vốn được bàn dân thiên hạ gọi
là nhà thờ Con Gà.
Còn người Việt Nam chúng ta, chính gốc Giao
chỉ, thì lại hãnh diện vì mình là con rồng cháu
tiên. Niềm tự hào này bắt nguồn từ một truyền
thuyết như sau :
Lộc tục, con vua Đế minh, lên ngôi vua và lấy
hiệu là Kinh dương vương. Kinh dương vương
lấy con gái của Động đình quân là Long nữ, sinh
ra Sùng lãm. Sùng lãm nối ngôi Kinh dương
vương, xưng hiệu là Lạc long quân.
MỤC LỤC

Lạc long quân lấy Âu cơ, đẻ ra một cái bọc chứa


một trăm quả trứng, nở ra một trăm người con.
Có sách thì ghi một trăm người con này bao
gồm một nửa là con giai, còn một nửa là con
gái, cũng có sách lại chép tất cả đều là đực rựa.
Ngày kia, Lạc long quân nói với Âu cơ :
- Ta là dòng dõi Long quân, tức là vua rồng. Còn
khanh là dòng dõi thần tiên. Cả hai ăn ở lâu với
nhau e rằng không ổn. Nay đã được một trăm
đứa con, khanh hãy đưa năm mươi đứa lên núi,
còn trẫm sẽ dẫn năm mươi đứa xuống biển.
Từ truyền thuyến này mà người Việt Nam chúng
ta thường vốn tự hào vì mình có “long phụ tiên
mẫu”, cha rồng mẹ tiên. Hay mình thuộc về dòng
“tiên long”, thuộc về giống tiên rồng.
Và như thế, đã là người Việt Nam, sinh ra và lớn
lên trên quê hương này, ai mà chẳng lấy làm
vinh dự về cội nguồn ấy, và ai mà chẳng thích
mơ…làm rồng.
Rồng là một con vật được mọi người yêu quí.
Trong khi đó, dưới chế độ quân chủ, thì nhà vua
là người “ngon lành” nhất trong cả và đất nước.
Chính vì vậy, hình ảnh con rồng vốn thường
được dùng làm biểu tượng cho nhà vua, cũng
như tất cả những gì thuộc về nhà vua…đều
được gắn nhãn hiệu chữ “long” lên đầu.
MỤC LỤC

Trước hết về hình dong bên ngoài của nhà vua,


chúng ta ghi nhận : long thể nghĩa là thân thể
của nhà vua. Vì thế mỗi khi nhà vua cảm cúm,
nhức đầu sổ mũi và…hắt xì, người ta liền bảo
rằng :
- Chết chửa, long thể lại bất an rồi.
Rồi long nhan nghĩa là khuôn mặt nhà vua.
Không hiểu long tu có phải là râu của nhà vua,
hay chỉ là một giống lan rừng ?
Tiếp đến là những đồ vật lỉnh kỉnh bên cạnh nhà
vua. Thôi thì đủ thứ : long sàng là giường cho
nhà vua nằm, long bào là áo cho vua mặc, long
án là bàn cho vua viết, long xa là xe cho vua đi
và long châu là thuyền cho vua ngự…
Chẳng hiểu còn bao nhiêu thứ “long” nữa thì gã
xin khất vào một dịp khác sẽ kê đơn hoàn tán
sau, chứ bây giờ mà phải kể tất tật ra thì e rằng
bản thân gã sẽ phải…long đong lắm lắm.
Có lẽ cũng vì phẩm chất cao quí này mà ngày
xưa những chiếc kiệu của các xứ đạo ngoài Bắc
đều được sơn son thếp vàng và hai đòn khiêng
đều mang hình con rồng, điều đó nói lên rằng
cha ông chúng ta muốn dành cho Thiên Chúa,
cho Đức Mẹ hay cho các thánh vinh dự số một.
Âu cũng là một cách “hội nhập văn hóa” hết xảy
của các bậc tiền bối. Xin “khẩu phục tâm phục”.
MỤC LỤC

Từ những điều vừa trình bày, thì nhà vua hẳn là


người mơ làm rồng nhiều nhất. Tuy nhiên, giấc
mơ này không phải chỉ là độc quyền dành cho
nhà vua, bởi vì dân gian cũng muốn xí phần và
ăn có, hay nói một cách nghiêm túc hơn, cũng
muốn chia sẻ tí đỉnh giấc mơ này, nghĩa là cũng
muốn được làm rồng, được gặp rồng, hay ít nữa
là được giống rồng…
Trước hết là kẻ sĩ trong xã hội ngày xưa.
Đây là giai cấp học rộng biết nhiều, luôn vâng
theo những lời dạy bảo của Khổng tử : khi thì ở
ẩn để mà tồn tâm dưỡng tánh, khi thì nhập thế
để mà hành động, khi thì xuất thế để mà về hưu.
Chính vì vậy, khi thời cơ thuận lợi đến, kẻ sĩ tự
mơ thấy mình chính là rồng gặp được mây, nên
tha hồ mà vùng vẫy để phục vụ xã hội. Chả thế
mà Nguyễn công Trứ đã từng viết :
- Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Đem tất cả sở tồn làm sở dụng.
Hay trong truyện “Phan trần” cũng có câu :
- Bây giờ cha tuổi tác này,
Mong con gặp hội rồng mây kịp người.
Ăn theo với kẻ sĩ chính hiệu con nai vàng là các
cụ đồ.
Giấc mơ của các cụ đồ thì khiêm tốn hơn, chỉ
mong sao cho nét bút của mình được lả lướt,
MỤC LỤC

được mát mắt thiên hạ để mọi người ưa thích,


hầu kiếm tí tiền còm khi ngồi viết câu đối vào
mỗi dịp tết đến, như Vũ đình Liên đã mô tả trong
bài “ông đồ già” :
- Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già,
Bày mực tàu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tâm tắc ngợi khen tài,
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay…
Ngoài ra, những kẻ tài giỏi, giàu sang hay quyền
thế cũng thích mơ được làm rồng, hay tự đồng
hóa mình với…rồng.
Chẳng hạn như một anh chồng tài giỏi và ranh
mãnh, chẳng may vớ phải một cô vợ dốt đặc cán
mai làu táu. Khi “phút đầu gặp em tinh tú quay
cuồng” đã hết và tuần trăng mật cũng đã tan,
bước vào đời thường, lúc phải đối mặt với cái
ngây ngô ngốc nghếch của vợ, hẳn anh ta đã
phải quát tháo :
- Ngu chi ngu lạ, ngu vừa vừa thôi chứ, để cho
con người ta còn ngu nữa với.
Và nếu biết ca vọng cổ, anh sẽ quai mồm ra mà
hét :
MỤC LỤC

- Rồng vàng tắm nước ao tù,


Người khôn ở với người ngu bực mình.
Còn nếu như kẻ có tí quyền hay tí chức mà rộng
tay ban phát ơn huệ hay đích thân thăm viếng
một kẻ khố rách áo ôm, thì lúc bấy giờ chẳng
khác gì “rồng đến nhà tôm” vậy.
Hồi trước năm 1975, cũng khối kẻ thích mơ làm
rồng.
Nếu gã nhớ không lầm thì hãng hàng không Việt
Nam lúc bấy giờ cũng đã lấy hình con rồng làm
biểu tượng cho mình, chắc hẳn quí vị đứng đầu
hãng này mong muốn cho máy bay của mình
bay như rồng. Vì thế, những tên nhà báo nham
nhở liền gán cho hãng này cái tên không mấy
đẹp đẽ, đó là “E rồng lộn”.
Và hình như huy hiệu của ông Nguyễn văn
Thiệu ngày nào cũng có vẽ hình con rồng. Chắc
hẳn là ông tổng thống này khoái mơ được làm
rồng, thậm chí biết đâu còn khoái mơ được làm
một ông vua. Chả thế mà dinh Độc lập, bây giờ
gọi là dinh Thống nhất, nơi ông ăn ở và làm việc,
vốn được cánh báo chí gọi đùa là…”phủ đầu
rồng”.
Mình mơ làm rồng đã đành, mà hơn thế nữa,
còn muốn cho những người mình yêu, mình
thương cũng sẽ trở thành rồng.
MỤC LỤC

Sở dĩ như vậy là vì “yêu nên tốt, ghét nên xấu”.


Khi đã “chịu đèn” mí nhau rồi, thì củ ấu cũng
tròn, trái bồ hòn cũng ngọt và một trăm chỗ lệch
cũng được kê cho bằng.
Chính vì thế, cô vợ dù có xấu đến đâu chăng
nữa, thì anh chồng cũng vẫn cứ hít hà khen lấy
khen để :
- Lỗ mũi thì tám gánh lông,
Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà,
Đi chợ mất tám tiền quà,
Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm…
Lông mũi nàng mà anh chồng cứ mơ tưởng là
râu rồng, thì quả là tuyệt vời và hết ý.
Chỉ khi nào không còn thương, hay là thương
không nổi nữa, thì anh ta bèn quay phắt 180 độ
như thiên hạ vốn diễn tả :
- Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.
Còn chị vợ khác, khi thấy anh chồng của mình
yếu kém về nghệ thuật nói dối, đã ăn vụng mà
lại không chịu chùi mép cho sạch, thành thử
chẳng dấu được ai, thì cũng đã sánh ví anh
chồng…yêu quí ấy như “rồng nằm bể cạn” :
- Rồng nằm bể cạn phơi râu,
Mấy lời anh nói dấu đầu hở đuôi.
MỤC LỤC

Hầu như ở mọi nơi và trong mọi lúc, rồng đều


được mặc lấy những đặc tính tốt đẹp, chỉ có một
vài trường hợp là rồng đã gây nên những thảm
họa cho cuộc sống. Rất may, trong những
trường hợp này, thì không phải là rồng thứ thiệc,
mà chỉ là một loại rồng dổm mà thôi.
Chẳng hạn như : rồng hút nước, rồng rê…đây là
một hiện tượng thiên nhiên, tạo nên những cơn
lốc xoáy, hút nước lên trời hay giật sập nhà cửa
dưới đất của một vùng rộng lớn.
Còn khi ngồi vào bàn tiệc, mà một anh chàng
phàm ăn tục uống, thuộc vào hàng “lấy cái bụng
làm chúa”, chẳng thèm để ý chi tới những người
chung quanh, cứ gục đầu xuống như muông
chim, thoải mái húp canh chùn chụt, chắc hẳn sẽ
được thiên hạ kê ngay tủ đứng vào miệng :
- Ăn uống chi mà cứ như rồng cuốn…không
chừng nuốt phăng cả bát đĩa và bàn ghế.
Qua những điều được bàn rộng tán dài, chúng
ta thấy dân Việt Nam rất khoái rồng. Không phải
chỉ các cụ ngày xưa mới thích mơ làm rồng, mà
hơn thế nữa, ngày hôm nay từ quan cho chí
dân, từ ông nhà nước cho đến anh nông dân, tất
cả chúng ta không phải chỉ mơ làm rồng mà còn
cố gắng biến giấc mơ này trở thành sự thật.
Nghĩa là đất nước chúng ta phải trở thành một
MỤC LỤC

con rồng trong lãnh vực kinh tế, không đại long
thì chí ít cũng phải tiểu long, không rồng lớn thì
chí ít cũng phải rồng nhỏ, không toàn cầu thì chí
ít cũng phải trong vùng Đông nam á.
Người Việt Nam chúng ta về chỉ số thông minh
không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới.
Cộng thêm vào đó là đức tính cần cù siêng
năng. Đất nước lại nhiều tài nguyên. Đó là
những điều kiện thuận lợi để hóa rồng.
Cách đây chừng bốn mươi năm, nếu gã không
lầm, thì Thái lan, Malaysia, Indonesia, ngay cả
Singapore và Đại hàn cũng chả là cái thá gì đối
với Việt Nam.
Mức thu nhập bình quân đầu người của dân ta
cũng đâu quá tệ so với họ. Lúc bấy giờ Việt Nam
mình chỉ kiêng nể mỗi một anh chàng Nhật bản
mà thôi.
Nhưng rồi chiến tranh leo thang, suốt hai mươi
năm dân ta lo bịch nhau, thì họ đã đặt được nền
tảng vững chắc cho sự phát triển. Tiếp theo là
hai mươi năm dân ta loay hoay mò mẫm tìm cho
ra một đường lối kinh tế, thì họ đã bước được
những bước tiến khổng lồ. Thành thử cho đến
bây giờ dân ta vẫn còn là một dân nghèo…rớt
mùng tơi. Trong khi đó, họ đã vươn mình trở
thành những con rồng kinh tế trong vùng.
MỤC LỤC

Chính vì thế, dân ta cũng muốn noi gương bắt


chước họ, vươn mình trở thành rồng. Thế
nhưng việc hóa rồng không phải là một việc dễ
dàng và chóng vánh một sớm một chiều. Trái lại,
đó là một việc đòi hỏi nhiều cố gắng của tất cả
trong mọi lãnh vực qua nhiều tháng nhiều năm.
Nhưng ưu tiên phải là lãnh vực con người.
Thực vậy, nếu cán bộ còn tham nhũng và hối lộ,
ăn gian và ăn cắp, nếu học sinh còn quay và
cóp, nếu thiên hạ còn bán bằng cấp giả, nếu
người sản xuất còn tung ra thị trường những
mặt hàng dổm thiếu chất lượng, nếu những
người buôn bán còn thiếu thành thật trong việc
cân đo đong đếm, nếu bộ giáo dục còn chưa có
được một chương trình đào tạo hợp tình và hợp
lý…thì không hiểu đến đời thuở nào đất nước
này mới hóa rồng được hay mãi mãi chỉ là một
loài...bò sát.
Vì thế, để nền kinh tế Việt Nam được trở thành
một con rồng trong khu vực, thì con người Việt
Nam phải hóa rồng trước đã, nghĩa là phải mặc
lấy những phẩm chất cao quí của rồng.
Bàn về chuyện “chính chị chính em”, kinh bang
tế thế sao mà thấy nhức cái đầu quá, gã xin nói
đến chuyện con nít.
MỤC LỤC

Phải thành thực mà công nhận rằng : trẻ nhỏ


ngày nay có rất nhiều đồ chơi và trò chơi. Có
những em đã dành khá nhiều thời giờ, thay vì
ngồi học bài và làm bài, thì lại ngồi trước màn
hình với những trò chơi điện tử. Bấm loạn cào
cào. Kéo lên kéo xuống như điên. Mà phần lớn
lại những trò chơi này lại nghiêng về bạo lực :
nào mìn, nào bom, nào súng, nào đạn…nào
bắn, nào đấm, nào đá…Và gã bỗng thấy thương
cho tuổi thơ bây giờ.
Không như ngày xưa, lúc gã còn nhỏ. Hồi đó chỉ
toàn là những trò chơi dân gian hay tự biên tự
diễn. Những trò chơi mang nặng tính cách nhân
bản và đẹp như một bài thơ, vì đôi khi có cả vần
cả điệu.
Chẳng hạn như chơi chuyền :
- Đôi tôi, đôi chị, đôi cành bị, đôi cành hoa.
Đôi lên tư, đôi ông sư, đôi bà vãi…
Chẳng hạn như chơi pháo :
- Pháo kêu vang, cả làng chịu chưa ?
Chẳng hạn như chơi ô quan :
- Hết quan, tàn dân, thu quân, bán họ.
Phe con gái kẹp tóc thì chơi chuyền, chơi trải
gianh, chơi ô quan, chơi nhảy giây, nhảy cò cò,
chơi chồng nụ…Phe con trai húi cua thì chơi
MỤC LỤC

khăng, chơi đáo, chơi pháo, chơi bi, chơi quay,


chơi diều…
Tuy thế nhưng lại rất phong phú, bởi vì mùa nào
thì chơi trò nấy. Và có những lần gã đã trở
thành…rồng.
Thực vậy, vào những đêm trăng sáng, bọn nhóc
tì xếp hàng trên một khoảng sân rộng. Đứa sau
ôm eo đứa trước kết thành rồng, còn một đứa
được chỉ định làm ông thày thuốc.
Bắt đầu trò chơi, xấp nhỏ rồng rắn tung tăng
nhảy quanh sân, vừa đi vừa đọc lớn :
- Rồng rồng rắn rắn,
Lên mây có cây lúc lắc,
Hỏi ông thày thuốc,
Có nhà hay không ?
Rồi dừng lại trước mặt ông thày thuốc và ông
thày thuốc liền hỏi :
-Rồng rắn đi đâu ?
Rồng rắn trả lời :
-Đi lấy thuốc cho con.
Tiếp đến là cuộc đối chất giữa ông thày thuốc và
rồng rắn :
- Con lên mấy ? - Con lên một.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên hai.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên ba.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên bốn.
MỤC LỤC

- Thuốc chẳng ngon. - Con lên năm.


- Thuốc chẳng ngon. - Con lên sáu.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên bảy.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên tám.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên chín.
- Thuốc chẳng ngon. - Con lên
mười.
- Thuốc ngon vậy.
- Xin khúc đầu. - Những xương
cùng xẩu.
- Xin khúc giữa. - Những máu
cùng me.
- Xin khúc đuôi. - Tha hồ mà
đuổi.
Sau đó, ông thày thuốc phải đuổi thế nào để tóm
được cái đuôi con rồng. Còn con rồng thì phải
hết sức ngăn chặn, để ông thày thuốc không
tóm được cái đuôi của mình.
Khi nào ông thày thuốc tóm được cái đuôi, thì
tên nhóc tì làm đuôi sẽ bị giáng chức xuống làm
ông thày thuốc. Còn ông thày thuốc thì được
nhập vào con rồng, có nghĩa là là ông thày thuốc
đã hóa rồng và đã làm rồng.
Cứ thế, cứ thế…trò chơi lại được bắt đầu với
tiếng trẻ thơ reo vang :
- Rồng rồng rắn rắn,
MỤC LỤC

Lên mây, có cây lúc lắc,


Hỏi ông thày thuốc,
Có nhà hay không ?
Chắc hẳn trên cao ông trăng cũng phải nhoẻn
miệng cười, vì có một chú nhóc lại sắp trở thành
rồng đến nơi.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● CON NGƯỜI QUẢ LÀ...DỄ SỢ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Cách đây không lâu, gã có theo dõi trên truyền
hình một bộ phim hình sự nhiều tập của Úc
mang tựa đề là “Cuộc chiến thầm lặng”. Tuy chỉ
xem bữa đực bữa cái, hôm được hôm không,
nhưng rất may mỗi tập là một vụ án, nên có đứt
đoạn cũng chẳng sao cả.

Hôm ấy, anh chàng cảnh sát được lệnh đi công


tác nhưng không được mang theo súng để xâm
nhập vào một tổ chức buôn lậu bạch phiến.

Thế nhưng, không hiểu sao, anh chàng lại lén


vào kho, lấy trộm một khẩu mà nhét vô cạp
quần. Khi hoàn tất công tác, bị cấp trên khiển
trách, anh chàng đã trả lời :

-Khẩu súng không nguy hiểm, nhưng con người


xử dụng khẩu súng mới thật là… nguy hiểm.

Câu trả lời này khiến cho gã phải “vắt chân lên
trán” mà suy gẫm lung tung, đến nỗi “đêm quên
ăn, ngày quên ngủ”, khiến cho dung nhan ngày
càng thêm tiều tụy và thân thể ngày càng thêm
MỤC LỤC

hốc hác.

Tuy nhiên, càng suy gẫm, gã lại càng cảm thấy


chí lý. Có lúc khoái quá vỗ đùi đánh đét một cái,
xin bái phục người đã phệu ra câu nói trên.
Thực vậy, theo Khổng tử thì “nhân chi sơ tính
bổn thiện”, con người thuở ban đầu vốn tốt lành,
nhưng rồi dần dần trở nên xấu xa do ảnh hưởng
của xã hội và những người chung quanh.

Còn theo Kitô giáo, Thượng đế dựng nên con


người từ bùn đất, rồi Ngài thổi hơi vào lỗ mũi,
qua đó trao ban cho nó sự sống cùng với một
tấm linh hồn.
Tấm linh hồn này có hai cơ năng chính là trí
khôn và ý muốn. Với trí khôn, con người không
ngừng phát triển. Với ý muốn, con người được
tự do chọn lựa. Và đây cũng chính là một thảm
kịch làm cho con người trở nên thật…dễ sợ.
Trước hết là với trí khôn. Mấy ông triết gia bên
tây thường phát biểu :
- Người là một con vật có trí khôn.
Còn Pascal thì bảo :
- Người là một cây sậy biết suy tư.
Đúng thế, trí khôn nhờ biết suy tư đã làm cho
con người trổi vượt trên muôn vật và liên tục
MỤC LỤC

phát triển.
Con ong ngày xưa làm tổ và kéo mật thế nào, thì
hôm nay nó vẫn làm tổ và kéo mật y chang như
vậy.
Nếu có nhúc nhích được tí xíu nào là do con
người tập luyện cho chúng, chẳng hạn như con
khỉ biết làm trò, con chó biết múa may quay
cuồng.
Đang khi con vật hành động theo bản năng và
dậm chân tại chỗ qua muôn thế hệ, thì con
người đã tạo được những tiến bộ trong mọi lãnh
vực. Gã xin đưa ra một vài phạm vi thông
thường nhất để chứng minh cho sự thật trên.

Chẳng hạn về chuyện ăn.


Ngày xưa, thiên hạ ăn sống nuốt tươi. Vớ được
trái cây hay thú rừng là liền xơi tái ngay lập tức.
Rồi con người đã tìm thấy lửa và bắt đầu nấu
nướng. Còn hôm nay, trên thực đơn người ta
không biết có bao nhiêu thứ mà kể. Nào luộc,
nào nướng, nào chiên. Rồi món tây, món tàu,
món ta…chỉ sợ không có đủ tiền để nếm thử mỗi
món một lần trong đời.

Chẳng hạn về chuyện uống.


Ngày xưa thiên hạ chắc hẳn chỉ uống nước lã.
MỤC LỤC

Rồi sau đó biết cách làm cho lên men từ một số


lá cây để rồi hôm nay người ta đã chế ra biết
bao nhiêu thứ rượu và bao nhiêu thứ chất uống
khác nhau.

Chỉ nguyên tại Việt Nam mà thôi, người ta cũng


không thể đếm hết có bao nhiêu thứ nước suối,
nước ngọt, nước uống có ga, nước uống có
cồn…Và không hiểu một ai đó đã phát biểu một
cách rất anh dũng và rất “hách xì xằng” như
sau :
- Mặc dù quê hương ta còn nghèo đói và khó
khăn, nhưng rất ta rất lấy làm hãnh diện vì đất
nước này đã hội tụ được đầy đủ các hãng bia
nổi tiếng trên cả và thế giới.
Như thế, phải chăng tinh thần ăn và uống của
dân ta đã phất lên như diều gặp gió, như rồng
gặp mây.

Chẳng hạn về chuyện ở.


Ngày xưa thiên hạ ở dưới hang, ở trong lỗ. Tiến
bộ hơn một tí là ngôi nhà tranh vách đất. Còn
hôm nay, người ta ở trong những ngôi nhà gỗ,
nhà bê tông cốt thép. Nào chung cư, nào biệt
thự, nào lâu đài…
Và người ta đã xây không biết bao nhiêu tòa nhà
MỤC LỤC

chọc trời, cao hàng mấy trăm mét. Không hiểu


những kẻ đau tim, can đảm chê cầu thang máy,
có đủ sức leo từng bậc từ dưới lên, hay mới chỉ
được nửa đường thì đã thở hồng hộc, đứt hơi
mà chết.

Chẳng hạn về chuyện mặc.


Sách Sáng thế ký đã chẳng kể lại sau khi phạm
tội, Adong Eva đã kết lá mà che thân vì thấy
mình trần truồng và xấu hổ. Đó là “mô đen” thứ
nhất.
Tiến thêm một bước, người ta làm áo quần bằng
da thú. Đó là “mô đen” thứ hai.
Còn hôm nay với ngành dệt may phát triển,
người ta không ngừng thay đổi mẫu mã, từ thấp
lên cao, rồi lại từ cao xuống thấp. Từ dày tới
mỏng rồi lại từ mỏng tới dày. Thời trang mỗi
ngày một khác. Thậm chí có những mốt thật là
quái đản và kinh dị, đố chị em đờn bà con gái
nào dám mặc vào để nghênh ngang dạo chơi
phố phường.

Chẳng hạn về chuyện đi.


Ngày xưa có lẽ phương tiện duy nhất để di
chuyển chính là đôi chân của mình, vì thế, người
ta thường phải đi bộ, đi “căng hải”, hay đi “lô ca
MỤC LỤC

chân” đường dài mà chẳng biết mỏi. Nhích lên


một chút, người ta cưỡi lừa, cưỡi ngựa, cưỡi bò,
cưỡi lạc đà…
Còn hôm nay, người ta đã có biết bao nhiêu
phương tiện di chuyển khác nhau : Nào là đi xe
đạp, đi xe gắn máy, đi xe ô tô. Nào là đi tàu lửa,
tàu thủy, tàu bay, tàu ngầm…Rồi còn có cả
những phương tiện thật tối tân và nhanh chóng,
như phản lực, phi thuyền, hỏa tiễn… Không phải
chỉ đi từ nơi này đến nơi kia, mà còn đi từ hành
tinh này tới hành tinh khác.
Khoa học đã, đang và sẽ còn tiến những bước
tiến khổng lồ, đúng như lệnh truyền của Đấng
Tối Cao :

- Hãy làm chủ cá biển, chim trời và muôn loài


trên mặt đất.
Tiếp đến là với ý muốn, con người được quyền
tự do chọn lựa. Ý muốn và sự tự do chính là một
qùa tặng tuyệt vời nhất Thiên Chúa đã trao ban
cho con người và làm cho con người trở nên
cao cả.
Một ông vua đầy uy quyền cũng không thể bắt
tôi làm điều tôi không muốn. Thậm chí ngay cả
Thiên Chúa cũng đành phải chào thua trước sự
tự do của con người, như lời ông thánh Âu cu
MỤC LỤC

tinh đã viết :
- Ngài sẽ không thể cứu chuộc tôi nếu như chính
bản thân tôi lại không muốn.
Ý muốn và sự tự do làm cho con người trở nên
cao cả, nhưng đồng thời cũng có thể biến con
người thành nguy hiểm và dễ sợ. Nếu không
biết điều khiển và quản lý chặt chẽ, nó sẽ đọng
lại, kết tủa và hóa kiếp con người thành một con
thú hoang lang thang trong cõi lòng. Đây là điều
mà các vị tiền bối đã diễn tả :
- Con người vừa có thể là một thượng đế, lại
vừa có thể là một con vật.
- Trong mỗi con người đều có tiềm ẩn một con
thú hoang.
- Con người là một con vật hai chân, thuộc loài
hỗn thực, nghĩa là xơi được mọi thứ, nhưng lại
biết…mặc quần đùi.
- Dưới làn da của con người đều có bóng dáng
của nhiều súc vật.
Bây giờ gã sẽ đi từ trong ra ngoài, từ bản thân
đến cuộc đời và xã hội để tìm dấu vết của con
thú hoang ấy.

Trước hết là nơi bản thân.


Thượng đế đã ban cho mỗi người chúng ta một
cái miệng, đôi khi cũng được gọi là cái mồm.
MỤC LỤC

Công dụng của mồm miệng là để ăn và để nói.


Dĩ nhiên còn nhiều công dụng khác nữa, chẳng
hạn như hôn, hút, mút…gã xin được miễn bàn
tới.
Về chuyện ăn thì như chúng ta vừa thấy : con
người thuộc loài hỗn thực, nghĩa là xơi được tất
tật mọi thứ. Đây cũng là một điểm làm cho con
người khác với con vật. Bình thường thì mỗi con
vật chỉ xơi một vài loại thức ăn nào đó. Chẳng
hạn như con trâu thì ăn cỏ, con hổ thì ăn thịt
sống.

Trong khi đó, con người thì thượng vàng hạ


cám, có thể đút vào miệng mình đủ thứ, từ lá
cây ngọn cỏ đến hoa trái, từ con giun con rắn
đến con gà con vịt. Ngay cả đến những con vật
khổng lồ như con voi, con tê giác…con người
cũng xơi được cả.
Mọi vất vả con người phải chịu cũng chỉ để phục
vụ cho cái miệng. Và nhiều cuộc chiến tranh đã
xảy ra cũng chỉ vì nhu cầu ăn của con người.

Thậm chí có những thứ không nên xơi mà vẫn


cứ xơi, thí dụ trong một trận đấu quyền anh,
Mike Tyson đã xơi tái cái tai của Holyfield.
Chẳng hiểu cái tai ấy có dòn như tai lợn bóp gỏi
MỤC LỤC

hay không, thì khi nào thuận tiên gã sẻ hỏi Mike


Tyson và sẽ “báo cáo” lại sau.

Hơn thế nữa, còn có những thứ không được xơi


mà cứ vẫn phớt tỉnh “ăng lê”, lại còn xơi bạo nữa
là khác, thí dụ ăn tiền, ăn gian, ăn cắp, ăn cướp,
ăn hối lộ…May ra thì chỉ có ăn đòn hay ăn tát
là…em hỏng dám đâu.

Còn về chuyện nói, thì như chúng ta đã biết :


ngôn ngữ là phương tiện Thượng đế đã trao ban
để chúng ta bộc lộ những ý nghĩ, những ước
muốn hầu tạo lấy một sự cảm thông.

Đây cũng là một điểm làm cho con người khác


với con vật, bởi vì như thiên hạ thường bảo :
- Người là một con vật có tiếng nói, có ngôn
ngữ.
Thế nhưng, lời nói lại là điều chúng ta thường
hay sai lỗi vấp phạm hơn cả. Thậm chí, thay vì
tạo được một bàu khí hòa thuận, bắc được một
nhịp cầu cảm thông, thì lại gây ra thù oán, làm
cho người khác thân bại danh liệt, đi đoong cả
một đời.
Mới đây báo Công An TPHCM có đăng một mẩu
tin nho nhỏ với tựa đề là “Câu nói đùa tai hại”,
MỤC LỤC

đại khái như thế này :


Cô H. yêu anh N. và đã có thai được ba tháng.
Vốn tính hay ghen, cô H. nghĩ rằng anh N.
không còn yêu mình nữa. Tối hôm trước, anh N.
sang nhà cô H. chơi và thấy cô H. đang ngồi
khóc, nên nói đùa :

- Anh sẽ cưới em làm vợ nhỏ, còn vợ nhớn anh


sẽ đi lấy ở nơi khác.
Trong lúc đang nghi ngờ và giận dỗi, câu nói
đùa của anh N. khiến máu ghen nơi cô H. bốc
lên đùng đùng. Vì cho đó là sự thật, nên cô H.
đã uất ức, uống thuốc độc tự tử mà chết.

Trên cơ thể con người, Thượng đế còn ban cho


chúng ta đôi bàn tay. Với đôi bàn tay, chúng ta
có thể bồng ẵm con cái, lao động sản xuất để
nuôi sống gia đình, làm việc để giúp đỡ người
khác, vân vân và vân vân…
Tuy nhiên, rất nhiều lần chúng ta đã dùng đôi
bàn tay để làm những việc mờ ám, gây nên thiệt
hại cho những người chung quanh, chẳng hạn
dùng đôi bàn tay để uỵch nhau, để thoi nhau, để
cướp của, để giết người…
Nếu cứ lần lượt bới lông tìm vết, mổ xẻ từng bộ
phận một để lần ra dấu ấn của con thú hoang,
MỤC LỤC

thì e rằng chẳng biết viết đến bao giờ mới chấm
hết. Thế nhưng chỉ với hai bộ phận nho nhỏ ấy
mà thôi, chúng ta cũng đã thấy được con người
chính là yếu tố quan trọng, quyết định trong mọi
tình huống.

Tiếng Việt Nam chúng ta không phân biệt giống


đực và giống cái. Vì thế mới có chuyện rằng :
Hai vợ chồng nhà kia, sau nhiều ngày cơm
chẳng lành canh chẳng ngọt bèn rã gánh một
cách êm ru bà rù. Tuy nhiên trước khi ca bổn
anh đi đường anh, tôi đi đường tôi, tình nghĩa
đôi ta chỉ có thế thôi, thì cũng phải chia chác tài
sản vì của chồng công vợ.
Chị vợ bèn phát biểu :

- Anh là đờn ông còn tôi là đờn bà. Anh là giống


đực còn tôi là giống cái. Vậy hễ đồ vật nào là cái
thì thuộc về tôi, còn đồ vật nào là đực thì thuộc
về anh. Bằng lòng chứ ?
Anh chồng gật đầu và OK liền tù tì.
Chỉ chờ có vậy, chị vợ bèn vội vã vơ vét về tất
cả bởi vì hầu như mọi đồ vật đều mang chữ cái
trên đầu : cái nồi, cái niêu, cái soong, cái chảo…
Phát hoảng, anh chồng bèn chộp bừa con dao
rựa và hô to :
MỤC LỤC

- Đực rựa.
Có lẽ vì thế mà đực rựa vừa có nghĩa là loại dao
lưỡi dài và sống dày, vừa có nghĩa là đờn ông
và con giai.
Trong tiếng Pháp, người ta chia danh từ thành
hai giống : giống đực và giống cái. Còn trong
tiếng La tinh, ngoài giống đực và giống cái, còn
thêm một giống nữa, đó là giống… dở (neuter),
chẳng đực mà cũng chẳng cái. Trung lập, trung
hòa, vô tính.
Sự vật chung quanh chúng ta phần lớn thuộc
giống dở, chẳng đực mà cũng chẳng cái. Xét
theo phương diện luân lý, thì chẳng tốt mà cũng
chẳng xấu. Nó trở nên tốt hay nên xấu là do con
người.

Thực vậy, con người xử dụng nó với ý hướng


tốt, hay với mục đích tốt, thì nó sẽ tốt. Còn nếu
con người xử dụng nó với ý hướng xấu, hay với
mục đích xấu, thì nó sẽ xấu.
Chẳng hạn như tiền bạc. Tự bản chất, tiền bạc
chẳng tốt mà cũng chẳng xấu. Nó tốt hay xấu là
do cách thức con người kiếm nó và xài nó.

Thực vậy, nếu tiền bạc được tìm kiếm một cách
chính đáng và công bằng qua lao công vất vả,
MỤC LỤC

qua mồ hôi và nước mắt của chúng ta thì lúc


bấy giờ tiền bạc ấy quả thực là tốt.

Còn nếu tiền bạc được tìm kiếm bằng con


đường bất chính và bất công : Kẻ sản xuất thì
tung ra những mặt hàng dổm, kém chất lượng.
Kẻ buôn bán thì dùng cân thiếu, thước hụt.
Quan chức thì tham nhũng hối lộ…Những đồng
tiền được nhồi nhét cho đầy túi tham theo kiểu
này, chắc chắn sẽ là những đồng tiền xấu xa và
nhơ bẩn.
Khi đã có đồng tiền rủng rỉnh trong hào bao, thì
cách xài tiền cũng không kém phần quan trọng.
Nếu tôi dùng tiền để nuôi sống bản thân và gia
đình cũng như giúp đỡ những người chung
quanh, thì lúc bấy giờ tiền bạc sẽ đem lại nhiều
lợi ích.
Trái lại, nếu tôi vung tiền bạc cho những cuộc ăn
chơi thâu đêm suốt sáng, nếu tôi dùng tiền bạc
để dụ khị kẻ khác làm điều bất chính…lúc bấy
giờ tiền bạc sẽ làm rạn vỡ gia đình, gẫy đổ tình
yêu và gây nên biết bao nhiêu đau khổ, đúng
như một câu danh ngôn đã bảo :
- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một
ông chủ hà khắc.
Chẳng hạn như thiên nhiên với những sức mạnh
MỤC LỤC

tiềm ẩn, tự bản chất chẳng tốt mà cũng chẳng


xấu. Ăn thua là ở con người xử dụng những sức
mạnh ấy.

Lâu lắm rồi, gã có đọc một bài trong cuốn


“Dừng”, đại khái tác giả đã viết như sau :
Hẳn chúng ta đã biết trái bom nguyên tử đầu
tiên đã được ném xuống thành phố Hiroshima
vào ngày 6 tháng 8 năm 1945. Trong nháy mắt,
trái bom ấy đã giết hại hơn 200.000 người. Từ
đó, bao nhiêu vũ khí khủng khiếp hơn nữa đã
được chế tạo. Nào là bom khinh khí. Nào là bon
neutron. Một trái bom 500 mégatonnes có đủ
sức làm cho Việt Miên Lào và một phần Thái lan
bị chìm xuống đáy biển. Một trái bom 2000
mégatonnes có thể làm cho chúng ta thấy được
ngày tận thế !

Chiến tranh nguyên tử thật kinh khủng, nó là


như một cơn ác mộng đè nặng trên nhân loại,
Tuy nhiên cái đáng sợ không phải là bom
nguyên tử mà là con người xử dựng nó. Bom
đạn vốn là vật vô hồn, không thể mang lấy trách
nhiệm của cuộc chiến. Chính con người đã chế
tạo ra bom đạn và xử dụng bom đạn mới phải
gánh lấy trách nhiệm ấy hoàn toàn.
MỤC LỤC

Các năng lực thiên nhiên tự nó rất hữu ích và


cũng chẳng hề biết gì đến nhân nghĩa cả. Nó đã
bị con người lợi dụng để chà đạp nhân nghĩa.

Điện khí rất hữu ích để làm đèn soi sáng, chứ
không phải để chạy vào thành ghế, thành
giường. Lửa rất hữu ích để thổi nấu chứ không
phải để đốt nhà. Sức mạnh của nguyên tử cũng
thế, nó không đe dọa hòa bình, không tàn sát,
không tiêu diệt, trái lại còn phụng sự hòa bình,
phát triển nông nghiệp và các ngành nghề khác.
Chỉ có con người xử dụng sức mạnh nguyên tử
mới đe dọa hòa bình, tàn sát và phá hoại mà
thôi.

Ngay cả những thực tại vốn dĩ tốt đẹp cũng vẫn


có thể bị con người xào xáo, làm cho trở thành
xấu xa.
Chẳng hạn như nghề nghiệp. Người xưa đã
từng bảo :
- Nghề nghiệp nào cũng đáng quí đáng trọng.
Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con
người xấu mà thôi.
Thực vậy, với nghề nghiệp chúng ta kiếm được
tiền bạc nuôi sống bản thân và gia đình, như tục
MỤC LỤC

ngữ đã bảo :

- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.


Đồng thời nhờ đó, chúng ta góp phần xây dựng
xã hội. Thế nhưng nếu xử dụng tay nghề của
mình vào những mục đích xấu, lúc bấy giờ
chúng ta sẽ gây nên những tai họa thảm khốc.
Thí dụ : tôi giỏi nghề in, nhưng không dùng khả
năng ấy để in sách, in báo hầu nâng cao dân trí,
nhưng lại dùng để in tiền giả khiến cho nền kinh
tế quốc gia bị lũng đoạn.
Tôi giỏi nghề võ, nhưng không dùng khả năng
ấy để bảo vệ bản thân và giúp đỡ những kẻ cô
thân cô thế, nhưng lại dùng để uy hiếp, để trấn
lột người khác…
Chẳng hạn như tình yêu, một thực tại vốn được
ca ngợi là thiêng liêng và cao đẹp, thế nhưng
con người cũng vẫn có thể lợi dụng tình yêu để
làm những điều xằng bậy.
Thí dụ : một chàng trai dùng những lời đường
mật của tình yêu để dụ dỗ cô gái, khiến cho cô
gái phải mang bầu, rồi truất ngựa truy phong, bỏ
rơi cô gái…Hay mượn đỡ danh nghĩa tình yêu
để lường gạt tiền của theo kiểu kỹ sư đào mỏ…
Cũng có thể yêu nhầm đối tượng mà làm cho
gia đình bị đổ vỡ tan hoang, vợ mình chẳng yêu
MỤC LỤC

lại cứ nhè vợ người ta mà yêu, thế mới rách


việc.

Báo Công an TPHCM cũng đăng tải một mẩu tin


ngắn như sau :
Anh T. vốn thầm yêu chị H. là một góa phụ.
Trong lúc đến chơi, lợi dụng cơ hội tư riêng, anh
đã hôn chị một miếng. Chẳng may vô tình cháu
L. nhìn thấy và khóc thét lên rồi chạy sang mách
người hàng xóm. Người hàng xóm bèn đến can
ngăn và đuổi anh T. về. Cảm thấy xấu hổ trước
mặt bà con lối xóm, ngày hôm sau chị H. đã thắt
cổ tự tử. Chị H. chết đi bỏ lại đứa con thơ mới
chín tuổi. Đúng là một cái hôn gây nên hậu quả
khó lường.

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta thấy


trong mọi việc yếu tố con người là quan trọng
hơn cả. Và nơi con người thì cái tâm hay nói
một cách nôm na và bình dân hơn, là cái lòng sẽ
nắm phần quyết định. Tốt hay xấu cũng bởi nó.
Vì thế sách giáo lý có câu :
- Hỏi tội bởi đâu mà ra ?
- Thưa tội thì bởi trong lòng mà ra.
Hay như người xưa cũng dạy :
- Nhân dục thắng, thiên lý vong.
MỤC LỤC

Có nghĩa là lòng dục của con người phát triển


thì đạo lý của trời sẽ bị mai một,
Hay :
- Dục vọng đánh đổ đạo lý.
Chính vì thế có người đã phát biểu :
- Thà rằng ngồi trong trái tim con sư tử còn hơn
là ngồi trong trái tim con người.
Và tiền nhân cũng đã từng cay đắng khi đưa ra
kinh nghiệm chua chát của mình :
- Homo hominibus lupus.
Có nghĩa là người với người là chó sói của
nhau.
Thế nhưng cái tâm ấy lại âm u. Cái lòng ấy lại
đầy những ý đồ đen tối như tục ngữ đã bảo :
- Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
- Dò sông, dò biển, dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.

Điều khó khăn và gay go nhất đó là phải làm thế


nào để kiểm soát được cái tâm và hướng dẫn
được cái lòng của mình. Thế nhưng dù khó khăn
và cam go đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải
thực hiện nếu muốn cho mọi việc luôn được êm
xuôi và tốt đẹp.
MỤC LỤC

Ngày kia, có một đứa bé ném hòn đá vào lớp


khiến cho cửa kính vỡ tung. Cô giáo đỏ mặt tức
tối. Tuy nhiên, thay vì sửa phạt cậu học trò tinh
nghịch, thì cô giáo lại đi lượm viên đá, rồi lấy
thước kẻ đánh cho viên đá một trận. Vừa đánh
vừa nói :
- Từ nay, mày phải trở nên mềm dẻo chứ không
được cứng rắn như thế này nữa nhé.
Phải kiểm soát cái tâm, phải hướng dẫn cái
lòng vì nhân tâm hay lòng người là nơi sản xuất
ra những thứ vũ khí nguy hiểm, những toan tính
mờ ám, những hành động dã man.
Và để kết luận, gã xin lập lại câu nói ban đầu
của một diễn viên trong bộ phim “Cuộc chiến
thầm lặng” :
-Khẩu súng không nguy hiểm, nhưng con người
xử dụng khẩu súng mới thực nguy hiểm.

Ôi, con người quả là…dễ sợ.


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● ĐỜN BÀ CON GÁI

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Lâu lắm rồi, gã được nghe một câu nói thuộc
hạng danh ngôn, đại khái như thế này :
- Đờn bà con gái giống như con mèo, nếu con
mèo ngoáy đuôi bên trái, thì chắc chắn nó sẽ
nhảy sang bên phải.
Cũng trong chiều hướng ấy, gần đây ở Việt Nam
giới choai rất khoái một bài hát mang tựa đề là
‘’đừng nghe những gì con gái nói’’.
Bài hát này được liệt vào ‘’tốp ten’’ nghĩa là
mười bài hát được thiên hạ ưa chuộng nhất với
những lời lẽ thật dí dỏm về dễ thương :

- Con gái nói có là không, con gái nói không là


có.
Con gái nói một là hai, con gái nói hai là một.
Con gái nói ghét là thương, con gái nói thương
là ghét.
Con gái nói giận là yêu, con gái nói yêu là giận.
Đừng nghe những gì con gái nói, đừng nghe
những gì con gái nói.
Con gái nói không biết ghen là ghen như điên
đấy nhé.
Con gái nói không biết yêu là yêu tới quên
MỤC LỤC

đường về.
Đừng nhge những gì con gái nói, đừng nghe
những gì con gái nói.

Gã có một thằng bạn, thâm niên quân vụ về cái


khoản đờn bà con gái. Sau nhiêu phen bị các
nường đá lên đá xuống, nó đã tích lũy được một
số vốn kinh nghiệm khá đồ sộ, đáng mặt sự phụ.

Ngày kia vị sư phụ nay đã truyền cho đệ tử bài


học vỡ lòng về tâm lý con gái như sau :
- Con ơi, con nên nhớ rõ điều này : khi cô nường
nói với con “ghét anh ghê…à”, nhất là lại kèm
theo một cái liếc nhìn, nheo mắt có đuôi, thì con
có thể yên chí nhớn mà hét toáng lên rằng : ôi
sung sướng quá nhẽ vì đời toàn màu hồng. Bởi
vì đó chính là lúc cô nường đã chịu đèn, yêu con
khủng khiếp. Con hãy nhào vô liền tù tì để kiếm
chút cháo, kẻo dịp may đã qua đi thì khó mà trở
lại đó, ngốc ạ.

Đối với một tên đại ngố như gã, thì đờn bà con
gái quả thực là một màu nhiệm, toàn những
chuyện ngược đời và nghịch lý, nhiều kiểu rắc
rối, đến quỉ thần cũng không lường nổi.
Đọc lại sách Sáng thế ký, gã nhận thấy thưở
MỤC LỤC

ban đầu, thượng đế lấy bùn đất nhào nặn mà


làm thành Adong.
Sau khi ban cho Adong sinh khí bằng cách thổi
hơi vào lỗ mũi, Ngài đã cho Adong sống trong
vườn địa đàng. Với khu vườn kỳ diệu này, dù
chim hót có véo von, cây cối có trổ bông khoe
sắc, thì Adong vẫn chỉ cu ki một mình, lặng lẽ
đến từng bước chân âm thầm.

Chính thượng đế cũng cám cảnh trước sự cô


đơn đậm đặc ấy, Ngài thầm nghĩ :
- Người đờn ông ở một mình không tốt, Ta sẽ
dựng nên cho nó một người nội trợ giống như
nó.
Nói và làm. Thượng đế chờ cho tới lúc Adong
ngủ say, bèn rút trộm một chiếc xương sườn
của Adong mà dựng nên Evà, rồi dẫn Evà tới ra
mắt Adong.
Thoạt nhìn thấy Evà, cặp mắt Adong long lên
còng cọc và miệng ông sững sờ kêu to :

- Này đây xương tôi và thịt bởi thịt tôi.

Nếu lúc bấy giờ Adong biết dùng tiếng Việt Nam
để diễn tả ý tưởng tuyệt vời này, thì hẳn ông chỉ
cần rên lên hai tiếng ngắn gọn :
MỤC LỤC

- Mình ơi!
Bởi vì chữ ‘’mình’’ vừa là thân xác, vừa là anh,
vừa là em, vừa là chúng ta nữa. Ôi hai tiếng
‘’mình ơi’’ sao mà ngọt như đường cát, mát như
đường phèn, thấm tới tận lục phủ ngũ tạng, làm
chết lịm cả con tim. Ôi, mình ơi!
Thế nhưng, đời không như là mơ. Sau cái phút
gặp em tinh tú quay cuồng, ‘’sau cái’’ thuở ban
đầu lưu luyến ấy, sau cái cảm giác ngọt lịm của
hai tiếng ‘’mình ơi’’ và bốn mắt liếc nhìn nhau,
thì khởi sự cho những ngược đời và nghịch lý,
những nhiều kê và rắc rối.
Evà không còn bằng lòng với thân phận của
mẩu xương sường nữa, mà muốn nhảy phóc
vào lồng ngực Adong, chiếm lãnh vị trí con tim,
đòi Adong phải yêu thương và chiều chuộng.
Rồi thừa thắng xông lên, tiến thẳng tới đầu và
xơi ngay vai trò óc não, muốn chỉ huy cả Adong
nữa.

Chính vì thế, dân Tây ban nha, một dân tộc rất
mê đấu bò, cũng đã phải kêu lên :
- Đờn bà là tai họa khủng khiếp nhất trong tất cả
những tai họa của loài người.
Tai họa đầu tiên đó là đờn bà đã cám dỗ đờn
ông.
MỤC LỤC

Thực vậy, nước làm hư rượu, xe bò làm hư


đường lộ thế nào thì đờn bà cũng làm hư đờn
ông như rứa.
Đúng thế, đờn bà vốn nổi tiếng về cái thói ăn vặt
như tục ngữ đã diễn tả
- Đi chợ mất tám tiền quà,
Chồng thương chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Cái thói ngốn hàng này đã thấm sâu vào máu
huyết và trở thành nghề ruột của các nường.
Thậm chí các em nữ sinh mắt nai ngơ ngác, thế
mà trong chiếc cặp sách dễ thương cũng đã tích
lũy bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh có thể xơi được : nào
ổi, nào cóc, nào xoài, nào tầm duộc, nào xí
muội…

Chính vì thế, ngay từ lời dụ khị đầu tiên của con


rắn, Eva đã nuốt phăng ngay trái cấm. Rồi sau
đó, Eva đã năn nỉ ỉ ôi Adong :
- Thôi mờ, ăn đi mờ…
Với lời lẽ nhỏng nhẻo mầm duyên như thế,
Adong làm sao có thể chối từ. Adong đưa mắt
nhìn, nuốt nước bọt và xơi liền tù tì, ăn ngấu ăn
nghiến, đến nỗi mắc nghẹn nơi cổ, làm thành
một cục, còn tồn tại cho đến ngày hôm nay ở bất
cứ anh chàng đờn ông con trai nào.
MỤC LỤC

Ghiền ngẫm về sự việc này, ông thánh Âu cu


tinh đã phát biểu một câu xanh dờn :
- Đờn bà chính là thủ phạm làm tăng thêm tội lỗi
cho loài người.
Kinh nghiệm trên không ngừng lặp đi lặp lại
trong dòng lịch sử. Vua Kiệt vì say mê nàng
Muội Hỉ bỏ bê triều chính, ăn chơi trác táng, sau
bị Thành thang cướp mất ngai vàng.

Vua Trụ vì nghe theo nàng Đắc Kỷ giết hại trung


thần, lòng dân oán thán, cuối cùng sự nghiệp
cũng bị tan tành theo mây khói.
Ngô phù Sai yêu quí nàng Tây Thi. Cô nàng bé
bỏng này có chứng đau bụng. Mỗi lần đau bụng
thì lại nhăn mặt. Và mỗi lần nhăn mặt thì lại đẹp
quỉ khóc thần sầu, khiến cho Ngô Phù Sai cứ mê
mẩn cả tâm thần.

Tương truyền rằng :


Ngô Phù Sai đã ra lệnh ai làm cho Tây Thi cười
thì sẽ được trọng thưởng. Nghe theo lời hiến kế
của bọn quân sư quạt mo, ông đã cho xé hết lụa
trong kho vì nghĩ rằng khi nghe tiếng lụa xé,
nàng xẽ cười mím chi, thế nhưng nét mặt Tây
Thi vẫn buồn rười rượi.
MỤC LỤC

Sau cùng ông cho đốt lửa trên Cô Tô đài để


khẩn báo cho các chư hầu biết kinh thành đang
nguy khốn, nên phải vội đem quân về tiếp cứu.
Nhưng khi về đến nơi thì mới chưng hủng,
chẳng thấy địch đâu cả, mà chỉ thấy Ngô Phù
Sai đang cũng cụng li mí Tây Thi.

Trước thái độ chưng hủng ấy, Tây Thi đã phát


cười như nắc nẻ. Nhưng rồi khi địch quân vây
hãm thực sự, dù lửa báo động đã nổi lên, thì
cũng chẳng ma nào đến tiếp cứu, khiến Ngô
Phù Sai phải thua chạy.
Từ những bằng chứng cụ thể ấy thiên hạ đã kết
luận :
- Vua nghe vợ mất nước.
Một chính tri gia mà lem nhem, gây nên sì căng
đen với đờn bà con gái, thì chỉ có nước thân bại
danh liệt mà chớ.
Bình thường chúng ta thường gọi đờn ông là
phái mạnh đờn bà là phái yếu. Thế nhưng nếu
đem ra cân do, đong đếm, chưa chắc đờn ông
đã ăn được đờn bà và phái nam chưa chắc đã
xơi tái được phái nữ.

Thực vậy, đờn ông phải thức trắng một vài đêm,
thì tứ chi liền bải hoải, ngồi đâu ngáp đấy. Trong
MỤC LỤC

khi đó, làm sao có thể kể hết những giấc ngủ


đứt đoạn và những đêm thức trắng của các bà
mẹ để chăm sóc cho đứa con của mình.

Xét về góc cạnh bền bỉ, dẻo dai để chịu đựng,


thì đờn bà hơn hẳn đờn ông. Vì thế, đờn bà con
gái thường sống thọ hơn đờn ông con trai. Nói
cách khác, các ông thường ngỏm sớm hơn các
bà. Sự kiện này để lại một hậu quả trầm trọng,
đó là số đờn bà góa chồng đông hơn số đờn
ông góa vợ bội phần.

Chẳng biết có ai đã lưu tâm tìm cách giải quyết


vấn đề xã hội này chưa ?
Bình thường đờn bà con gái vốn dịu hiền và tế
nhị, thế nhưng hãy đợi đấy. Nói vậy mà hỏng
phải vậy đâu. Con mèo tuy hiền thật, nhưng khi
cần nó chỉ cào cho một phát, là đã toạc da và vãi
máu, vì móng của nó rất nhọn và răng của nó rất
sắc.

Đờn bà con gái một khi đã nổi máu tam bành, thì
hiền cũng hóa dữ. Gã đã từng chứng kiến
những cô em bé bỏng tựa nai vàng ngơ ngác,
dịu hiền như… ni cô, hỏng dám như ma xơ đâu,
thế mà khi cơn giận bừng bừng bốc lên, tẩu hỏa
MỤC LỤC

nhập ma, cũng lồng lộn như bò điên nước Ăng


lê, cũng xỉa xói như con choi choi, cũng chửi rủa
có bài có bổn như mấy cô đào cải lương ca sáu
câu vọng cổ có mùi.

Gã xin đưa ra một vài nạn nhân của quí bà


chằng lửa.

Trước hết là Socrate. Ông là một triết gia nổi


tiếng của Hy Lạp, một bậc thầy trong thiên hạ,
nhưng oái oăm thay, ông lại là nạn nhân của
một bà vợ. Bà khinh bỉ ông là thứ trói gà không
chặt. Ngày kia, ông định ra phố, thì liền bị bà
tặng cho một chậu nước dơ vào mình sau cơn
giận lôi đình.
Thế nhưng, ông vẫn bình tĩnh nói :
- Có sấm có sét, ắt trời phải đổ mưa.
Ngán ngẩm trước mụ vợ đanh đá, ông đã phát
biểu một cách chua chát :
- Trời đất sinh ra biết bao thú dữ, những đờn bà
mới thật là con thú dữ đáng sợ nhất.
Đó là chuyện bên tây, còn chuyện bên đông thì
kể lại :
Thi hào Tô đông Pha có một người bạn tên là
Trần quí Thường. Quí Thường có người vợ hay
ghen tức và hung dữ. Mỗi lần Tô đông Pha đến
MỤC LỤC

chơi, thì đều được nghe những tiếng chửi bới la


hét ầm ĩ.
Thấy vậy, họ Tô bèn làm thơ chế diễu như sau:
- Hốt văn Hà đông sư tử rống
Trụ trượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là :
- Bỗng nghe sư tử Hà đông rống
Tay run gậy rớt lòng kinh hãi.

Từ đó, bốn chữ “sư tử Hà đông” thường được


dùng để chỉ người vợ có tính tình hung dữ. Tuy
nhiên, Hà đông ở đây là Hà đông bên Tàu, chứ
không phải là Hà đông bên Ta. Vì thế quí bà quí
cô gốc Hà đông, đừng vội lòng động lòng lo mà
sinh ra buồn bã.
Bình thường thì tề gia nội trợ và giáo dục con cái
vốn là lãnh vực riêng của đờn bà con gái. Vì thế,
thiên hạ thường phong cho quí bà quí cô làm
‘’nội tướng’’.

Và nhiều khi uy quyền của vị ‘’nội tướng’’ thật là


ghê gớm, khiến cho mấy ông chồng thuộc nòi
râu quặp phải nín khe :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà… em đây.
Gã đã thấy có những ông giám đốc hay những
MỤC LỤC

viên chức cấp nhớn, đến công sở thì hét ra lửa,


nhưng khi về nhà, thì lại miềm nhũn như con chi
chi, phục vụ và vâng lời bà xã hết mình.
Vì thế tục ngữ đã bảo :
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
Lợi dụng điểm yếu này, dân bắt mánh áp phe
thường đi của hậu, nghĩa là đút lót, lấy lòng
quan bà trước, rồi mới nhờ quan bà ton hót, tấu
với quan ông, thì việc khó đến đâu cũng xong
cả.
Được đằng chân lân đằng đầu. Từ vai trò người
nội trợ, làm bạn đường cùng đi, đờn bà con gái
xông tới, nắm quyền chỉ huy. Lúc bấy giờ quả
thực là nguy to như một cơn ác mộng, vì họ cai
trị theo tình cảm và lệnh truyền đổi thay như
chong chóng.
Thực vậy, trên đời không có gì hay thay đổi cho
bằng thời tiết và đờn bà con gái.
Có lẽ do sự nể nang và nhượng bộ của Adong
thuở ban đầu, mà nhân loại đã trải qua một thời
gian sống dưới chế độ mẫu hệ, trong đó người
mẹ nắm giữ vai trò điều khiển gia đình và xã hội.
Thật là tội nghiệp cho thân phận đờn ông con
trai lúc bấy giờ :
- Ba đồng một chục đờn ông,
Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.
MỤC LỤC

Ngày nay với phong trào giải phóng đờn bà,


nam nữ bình quyền, quí bà quí cô đang hăng hái
xông xáo tiến ra ngoài xã hội, chiếm giữ những
lãnh vực mà từ xưa cho đến rày, vốn là của phe
đờn ông con trai. Và họ đã gặt hái được những
thành công rực rỡ.
Có những bà những cô đã làm tới thủ tướng và
bộ trưởng, giám đốc và chuyên viên. Cung cách
điều khiển của họ cũng cứng không kém gì phe
đờn ông con trai, chẳng hạn như bà đầm già
Teacher, thủ tướng nước Ăng lê, vốn được
mệnh danh là bàn tay sắt bọc nhung.

Đờn bà con gái chiếm được uy quyền không


phải chỉ bởi tài năng, mà còn bởi nhiều thứ vũ
khí khác nữa, chẳng hạn như sắc đẹp, như
nước mắt, như nụ cười…
Vì thế người Đức đã nói :
- Chỉ một sợi tóc của người đờn bà cũng giật
mạnh hơn cả giây chuông.
Còn dân Nhật thì bảo :
- Chỉ với một sợi tóc, người đờn bà có thế trói
được cả… voi.
Chuyện đời còn bất công hơn nữa. Người đờn
ông chắt chiu học hành mới ẵm được cái bằng
MỤC LỤC

bác sĩ, đấu tranh vào tủ ra khám bao nhiêu năm


mới leo lên được cái ghế bộ trưởng.
Trong khi đó người đờn bà chỉ cần gật đầu hay
ừ một phát, bằng lòng lấy anh ta, thì liền khều
được cả con người lẫn chức vị của anh ta,
nghiễm nhhiên trở hành bà bác sĩ, bà bộ trưởng,
mà chẳng cần tốn một giọt mà hôi. Đờn bà là
một phản ứng cộng, một chiếc tàu há mồm, khả
dĩ vơ vét về cho mình đủ mọi thứ.

Xem ra gã khen thì ít mà chê thì thật nhiều, chỉ


biết kê tủ đứng, kể tội đờn bà con gái. Cứ điệu
này, lỡ thò mặt ra đường, ắt sẽ bị quí bà quí cô
cho ăn trứng thối mất thôi.
Cho đến bây giờ, đờn bà con gái vẫn là một màu
nhiệm, một vấn đề lớn. Để diễn tả về sự ngược
đời và nghịch lý của đờn bà con gái, hình như
một ông nhà văn Ấn độ đã bảo:
- Khi tạo dựng đờn bà con gái, Thượng đế đã
trộn lẫn những vật thể đối kháng vào với nhau.
Chẳng hạn Ngài lấy một chút gió mát mùa thu
với một chút nắng chói chang mùa hạ, một chút
ngọt của mật ong với một chút đắng của bồ hòn,
một chút cay của ớt với một chút chua của
chanh, một chút hiền hòa của chim bồ câu và
một chút hung dữ của sư tử, một chút khôn
MỤC LỤC

ngoan của con rắn và một chút ngốc nghếch của


con bò… Tất cả được Ngài hòa lẫn với nhau và
tạo nên người đờn bà đầu tiên.
Cách đây không lâu, gã lượm được một bài thơ
nói về người vợ, đại khái như thế này :

-Vợ là tình cảm sâu xa,


Vợ là gió mát, vợ là bão dông.
Vợ như một đóa hoa hồng,
Vợ là sự tử Hà đông kinh người.
Vợ là êm ái tuyệt vời,
Vợ là bão táp rụng rời chân tay.
Vợ là một chất men say
Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.
Có người nhờ vợ nên ông,
Có người vì vợ mất không cơ đồ.

Và tác giả kết luận :


-Tốt số lấy được vợ hiền,
Vô duyên vớ phải bà khùng bà điên.

Đờn bà con gái mãi mãi ngược đời như thế đó,
nhưng thử hỏi :
- Nếu không có họ thì đời còn gì là đời nữa…
Phải, nếu không có họ, thì lũ đờn ông con trai lại
lầm lũi cu ki một mình, như những ‘’con sâu làm
MỤC LỤC

tổ, trong trái vả cô đơn”. Cho nên, đờn ông


Pháp, vốn dư chất ‘’ga lăng’’ trong máu, đã phát
biểu :

- Nhà không có đờn bà như xác không hồn, như


đờn không giây.

Chả hiểu quí bà quí cô đã bằng lòng và sẵng


sàng ban cho gã một nụ cười… ruồi chưa đấy ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● ĐỜN ÔNG CON GIAI

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Trong một lễ cưới nọ, thấy cô dâu khí mang
năng tuổi đời, những “bốn mươi mí” lận, ông cha
bèn thương tình, nặn óc giảng một bài khen
ngợi, đại khái “nhân lão tâm bất lão”, người già
nhưng tâm hồn không già, bằng chứng cụ thề là
cô dâu thân mến hôm nay vẫn yêu ngon lành vì
trái tim còn trẻ chưa hề mệt mỏi và bị lão hóa.

Thế nhưng, bài giảng này đã phản tác dụng. Cô


dâu vừa nghe đến hai chữ “nhân lão”, túc là
người già, thì mồ hôi đã toát ra ở đàng sau gáy
và cho rằng ông cha chơi xỏ mình trước bàn dân
thiên hạ.

Khi mọi sự đã hoàn tất, cô nàng bèn lập tức cắt


đứt mọi liên hệ, triệt để áp dụng chính sách cấm
vận “mí” ông cha : không chào, không nói, không
cười và không…biếu xén, không quà cáp.

Khi viết bài “Những sự ngược đời của đờn bà


con gái”, gã đã quên béng mất kinh nghiệm quí
giá trên. Vì thế gã đã trót bới móc cho khoái cái
tay cầm bút và chửi xéo cho khoái cái lỗ miệng.
MỤC LỤC

Mặc dù vừa đấm vừa vuốt, bằng chứng là gã đã


kết luận :
- Hỏng có đờn bà con gái thì đời còn gì là đời.
Hỏng có đờn bà con gái thì lũ đờn ông con giai
sẽ lầm lũi cu ki một mình, như “những con sâu
làm tổ trong trái vải cô đơn”. Nhà mà hỏng có
đờn bà con gái thì như xác không hồn, như đàn
không giây.
Với cái kết có hậu mang tính cách “vuốt” này, gã
đã yên chí nhớn mà ăn no ngủ kỹ cũng như đấu
tranh vì chén cơm manh áo của mình, tưởng
chừng mọi sự đã chìm vào quên lãng như viên
sỏi trắng nằm yên dưới đáy nước hồ thu…ai dè
vào một buồi sáng trời trở lạnh như muốn lập
đông, cụ chủ nhiệm bèn bèn rờ gáy, tóm lấy cổ
gã mà rằng :
- Ký bài của chú mày về đờn bà con gái ấy đã
làm cho địch, tức là phe kẹp tóc, đùng đùng nổi
giận. Họ tới tấp phôn về tòa soạn, kêu la oai oái
cho rằng bất công, thậm bất công.

Có lẽ cụ chủ nhiệm, vì sợ bị phe địch chơi trò


cấm vận, như cô dâu đã chơi với ông cha, hay
như Mỹ đã chơi với Việt Nam, nên tiếp theo đó
đã phán với gã :
MỤC LỤC

- Chú mày liệu mà viết một bài khác chê bai đờn
ông, để mà đoái công chuộc tội, lập lại thế cân
bằng, làm cho quí bà quí cô hạ hỏa, bằng không
thì cái bản mặt nham nhở của chú mày khó mà
được an toàn khi vác nó ra đường, không ăn
giày cao gót thì cũng xơi cà chua, trứng thối mệt
xỉu.
Trước nhời phán xét như đinh đóng cột ấy, gã
cảm thấy tức anh ách như bị bò đá, nhưng cũng
đành phải cúi mặt lầm lũi xin vâng vì vâng lời
vốn trọng hơn của lễ.
Bởi đó, gã phải cầm lòng cầm trí, ngồi xuống
viết liền tù tì những hàng chữ này đấy. Bàn về
những thói hư tật xấu của bọn đờn ông thì quả
thật nói từ ngày này qua ngày khác chẳng biết
đến bao giờ mới hết, bởi vì đờn ông có biết bao
nhiêu sự trái khoáy và nghịch lý của mình.

Chẳng hạn như lúc nào cũng vỗ ngực tự xưng là


phái khỏe, thế mà xem ra lại yếu ớt hơn bất kỳ
giống vật nào trên mặt đất này như Homère đã
viết trong tác phẩm “Odyssée”. Hay như Gandhi
cũng đã nói :
- Gọi đàn bà là phái yếu là một điều phỉ báng.
Đó là một sự bất công của người đàn ông đối
với người đàn bà. Nếu người ta hiểu sức mạnh
MỤC LỤC

là thô bạo thì chắc chắn người đàn ông hơn hẳn
người đàn bà. Còn nếu bất bạo động là điều luật
của nhân loại, thì tương lai sẽ thuộc về người
đàn bà.
Đúng thế, nhiều ông ở ngoài xã hội thì hét ra lửa
như một bạo chúa, thế nhưng khi về nhà thì lại
mềm nhũn như con chi chi mỗi khi đối mặt với
bà xã theo kiểu :

- Vợ gọi thì dạ bẩm bà em đây.


Hay :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Và để lấp liếm điểm yếu nay, nhiều ông lại lâm
vào một nghịch lý thứ hai, đó là mặc dù rất mê
vợ, nhưng đôi lúc lại tỏ ra hống hách, măc dù bộ
ngực lép kẹp nhưng lại hay chơi trò cả vú lấp
miệng em bằng thái độ độc tài và độc đoán hay
thượng cẳng chân hạ cẳng tay với người mình
thương mến…
Vì vậy có người đã bảo :
- Đờn ông là thứ giống đực duy nhất đánh đập
giống cái là vợ hắn, như vậy hắn tàn bạo hơn
hết trong các loài thuộc giống đực trên hành tinh
này.
Chính lúc người đờn ông tỏ ra cộc cằn thô lỗ lại
MỤC LỤC

là lúc hắn yếu nhất vì không đủ nghị lực kiềm


chế nổi cơn nóng giận của mình.

Trong bài này gã chỉ xin bàn đến “máu mê” của
người đàn ông.
Dĩ nhiên nơi, huyết quản của người đàn ông có
nhiều loại “virus mê” thâm nhập và cắm dùi. Nào
là mê tiền bạc, mê danh vọng, mê địa vị, mê sự
nghiệp, nào là mê cờ bạc, mê rượu chè…

Trước hết, gã xin nói tới một thứ máu mê tuy dễ


thương nhưng lại vô cùng….nguy hiểm, đó là
mê đờn bà con gái.

Chuyện kể lại rằng :


Ngày xửa ngày xưa có một chú bé được vị ẩn sĩ
nọ đưa lên núi từ nhỏ. Ngày ngày tu hành học
đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho đến một
hôm, chú bé trở thành một thanh niên khỏe
mạnh và cường tráng, vị ẩn sĩ mới quyết định
đem chú xuống núi để thử lửa.

Cuộc sống nơi trần gian có nhiều điều mới lạ


khiến chú hết sức ngạc nhiên và thích thú. Thấy
bất kỳ sự gì, chú cũng ngắm nhìn và hỏi han.
Trên đường về, chú gặp mấy cô gái và hỏi sư
MỤC LỤC

phụ :
- Thưa thày, cái gì thế ?
Vị ẩn sĩ ngước nhìn và thấy mấy chiếc nón các
cô đội trên đầu nên ôn tồn trả lời :
- Ồ, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi con ạ.
Về đến núi, chú đâm ra ngẩn ngơ như kẻ mất
hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ liền hỏi :
- Con sao thế, bị bệnh ư ?
Chú buồn bã trả lời :
- Thưa thày, chẳng hiểu tại sao con lại nhớ mấy
chiếc nón ấy quá. Con thích mấy chiếc nón ấy
lắm.

Câu chuyện dí dỏm này muốn nói lên một sự


thật, đó là nam và nữ thì thu hút lẫn nhau, đờn
ông và đờn bà thì hướng tới nhau, con giai và
con gái thì hấp dẫn nhau.
Chẳng thế mà tục ngữ ca dao đã diễn tả :
- Đàn ông ví như chiếc nơm, bạ đâu úp đấy.
- Đố ai nằm võng không đưa.
Ru con không hát, anh chừa nguyệt hoa.
- Trai thấy gái lạ,
Như quạ thấy gà con.
Thánh Phaolô còn xác quyết :
- Đàn ông không được dựng nên cho đàn bà,
nhưng chắc chắn đàn bà được dựng nên cho
MỤC LỤC

đàn ông.
Vì thế, đờn ông thường đi tìm kiếm chiếc xương
sườn của mình để đắp vào chỗ đã bị Thượng đế
lấy mất.

Theo đinh luật kinh tế, những mặt hàng được ưa


chuộng thì hay tăng giá, còn những mặt hàng
không được ưa chuộng thì bị sụp giá. Trong khi
mê đờn bà con gái, người đờn ông tự hạ giá và
đánh mất chính mình.
Chả thế mà đã có một thời người ta sống theo
chế độ mẫu hệ, đờn bà con gái lên nắm quyền
chỉ huy từ trong gia đình đến ngoài xã hội.
Hay như ca dao cũng đã bảo :
- Ba đồng một chục đàn ông,
Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi,
Ai ngờ dỏ đứt lồng rơi,
Nó bò lổm ngổm mỗi nơi một thằng.
- Đàn ông ba bảy đàn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo : gái tham tài, trai
tham sắc. Vì có máu mê đờn bà con gái như thế
mà đờn ông con trai dễ trở thành mềm yếu.
Bởi đó, Kipling đã có lý khi tuyên bố :
- Một chị đờn bà ngốc nghếch nhất cũng có thể
xỏ mũi một anh đờn ông thông minh nhất.
MỤC LỤC

Hay như dân Arménie đã bảo :


- Vàng khiến cho đờn bà cảm động, còn đàn bà
lại khiến cho đờn ông cảm động.
Người ta vốn so sánh :
- Dùng vàng để nhử đờn bà, dùng đờn bà để
nhử đờn ông và dùng đờn ông để tìm ra…vàng.

Một khi đờn bà con gái đã nắm thế thượng


phong, trên cơ, lúc bấy giờ nàng sẽ là pháo đài,
còn chàng sẽ là tù nhân bị nhốt ở trong đó.

Hiện giờ chưa có cách thức nào để hủy diệt con


“virus mê đờn bà con gái” trong huyết quản
nguời đàn ông, như một nhà văn đã viết :
- Với bệnh chó dại thì nhà bác học Pasteur đã
tìm ra phương thuốc trị liệu, còn bệnh mê đờn
bà con gái thì chưa có một nhà bác học nào
nghĩ đến.
Tuy nhiên, theo gã thì các nhà bác học không
nên tìm ra phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh
này và nếu có tìm ra chăng nữa thì cũng không
nên xử dụng, bởi vì nó sẽ gây nên nhiều hậu
quả dây chuyền thảm khốc, giống như bây giờ
nếu người ta hủy bỏ được hấp lực của từ
trường, thì biết bao nhiêu chuyện rắc rối sẽ xảy
ra.
MỤC LỤC

Cũng vậy, nếu bây giờ đờn ông không còn mê


đờn bà con gái nữa, thì các bà các cô sẽ làm
đẹp cho ai ? Các nhà tạo mốt sẽ thất nghiệp.
Các tiệm uốn tóc và thẩm mĩ viện sẽ phải đóng
cửa. Các xí nghiệp chế tạo nước hoa, son phấn,
cùng với những loại kem dưỡng da, dầu gội
đầu…sẽ phải treo niêu.

Nói tóm lại, toàn bộ công nghiệp và lực lượng


nhân sự phục vụ cho cái đẹp của các bà các cô
sẽ phải “phẹc mê bu tích” nghĩa là sẽ phải dẹp
tiệm, ngồi chơi xơi nước từ đây.

Và nếu đờn bà con gái mà không làm đẹp thì


đâu còn phải là đờn bà con gái nữa. Lúc đó hẳn
xã hội sẽ buồn tênh.
Cái tội “mê đờn bà con gái” dưới góc độ này thì
cũng khá dễ thương và đáng yêu, nhưng dưới
góc độ khác thì nó cũng gây nên những hậu quả
trầm trọng khó mà lường nổi.

Trước hết nó làm cho gia đình bị tan vỡ.


Thực vậy, đờn ông thì đôi khi có tật đèo bòng,
giống như mấy ông tài xế xe hàng hay xe tải,
miệng thì thề sống thề chết :
MỤC LỤC

- Nhất phu nhất phụ.


Còn trong thực tế thì lại :
- Mỗi mụ một nơi.
Đi đến đâu, hay nói một cách rõ ràng hơn, ở đây
và lúc này thì chỉ mình em thôi. Còn ở chỗ kia và
lúc khác thì…hỏng dám bảo đảm đâu.
Hay như tục ngữ đã diễn tả :
- Đàn ông những mấy lá gan,
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.
Trong khi đó, đờn bà con gái vốn lại hay ghen,
máu “Hoạn thư” lúc nào cũng sẵn sàng bốc lên
bừng bừng, như ca dao đã bảo :
- Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Hai thứ hỗn hợp “hay mê…” và “hay ghen” mà
trộn chung với nhau, thì chắc chắn sẽ bùng nổ
một cách mãnh liệt. Sức công phá của chúng có
thể giật sập một gia đình đang êm ấm và hạnh
phúc.

Tới nước này, người ta sẽ không ngần ngại lôi


nhau ra tòa để bôi tro trát trấu vào mặt nhau, cốt
giật cho được tờ giấy ly dị. Và một khi đã ly dị thì
sản nghiệp của anh đờn ông, nếu không đi
MỤC LỤC

đoong, thì cũng mất toi một nửa, bởi vì phải chia
đôi, chàng một nửa và nàng một nửa.

Dân khố rách áo ôm như gã thì chẳng nói đến


làm chi, chứ còn những tay triệu phú mà bỗng
mất đi một nửa sản nghiệp, kể cũng đau. Nhưng
làm sao cãi được lệnh của ba tòa quan lớn, bởi
vì chồng như đó, vợ như hom, của chồng công
vợ kia mờ.
Anh đờn ông thì chết điếng còn chị đờn bà thì
vui mừng khấp khởi. Không chừng ly di lại trở
nên một cái mánh mần ăn, vì mỗi lần ly dị chị ta
lại giàu lên trông thấy.

Báo “An ninh Thế giới” với bài “Khi các ông chủ
muốn ly dị” đã đưa ra những vụ ly dị tốn kém
nhất, đại khái như sau :
“Trước năm 1970, khi chưa diễn ra cuộc cách
mạng của phụ nữ trong việc phân chia tài sản ly
dị, phần lớn tài sản thuộc về người đang nắm
giữ nó, thông thường là người chồng.
“Thậm chí, sau nhiều năm chung sống, nếu ly dị,
người vợ sẽ trắng tay. May mắn lắm thì có được
một ngôi nhà, nhưng họ thường không đủ tiền
để giữ nó. Giờ đây, tất cả đã lùi vào dĩ vãng, các
ông chủ….đang phải đau đầu với những vụ ly dị
MỤC LỤC

tốn kém chưa từng có trong lịch sử.

“Robert Goldman, theo quyết định của tòa án,


vào tháng 4 năm 1998, đã phải chia đôi 88,2
triệu đô la cho bà vợ là Vira Hadun.
“Năm 1997, Lorua Wendt giành được 20 triệu đô
la từ tay người chồng là ông Gary, tổng giám
đốc công ty Capital…tất cả đã tạo nên một làn
sóng ly dị đang nhắm vào các ông chủ kếch xù
trên khắp thế giới, ảnh hưởng nặng nề đến việc
kinh doanh của các công ty.

“Craig McCaw, một người đi tiên phong trong


lãnh vực điện thoại, hằng tháng phải chu cấp
cho Wendy, cô vợ đã ly dị của mình, 190.00 đô
la. Nhưng chưa hết, năm 1995, tòa án còn buộc
ông phải chia sẻ số tài sản trị giá 1,3 tỷ Mỹ kim
và số cổ phần trị giá 663 triệu trong Nextel
Communication và Next Link. Như thế,ø Wendy
nghiễm nhiên trở nên thành viên của Next Link,
khiến công ty phải đối mặt với nhiều vấn đề khó
khăn.

“Năm 1997, Cotello, tổng giám đốc tập đoàn


thiết kế Cadence đã mất 30 triệu đô la cho cuộc
ly dị với Magaret…..Và còn nhiều nhiều nữa.
MỤC LỤC

Không những sản nghiệp đi đoong mà hơn thế


nữa còn bị thân bại danh liệt là đàng khác.

Biết bao nhiêu thủ tướng, bộ trưởng đã bay


chức chỉ vì gian díu vời người đẹp này, người
đep kia.
Gần đây hơn cả, tổng thống Mỹ Bill Clinton cũng
đã phải một phen xính vính và hú vía trong vụ ”xì
căng đan” tình dục với Monica Lewinsky.
Nơi người đờn ông còn nhiều thứ máu mê khác.
Chẳng hạn như máu mê rượu chè với tác phong
:
- Tửu nhập tâm như cẩu cuồng tọa thị, rượu vào
như chó điên giữa chợ.
Hay :

- Một xị thì mở mamg trí hóa,


Hai xị thì giải bớt cơn sầu,
Ba xị thì mũi chảy đầy râu,
Bốn xị thì ngồi đâu khóc đó,
Năm xị thì cho chó ăn chè,
Sáu xị thì làm xe lội nước,
Bảy xị thì ra nhị tì mà ở.

Chẳng hạn nay máu mê cờ bạc với cốt cách :


- Cờ bạc là bác thằng bần,
MỤC LỤC

Áo quần bán hết, ngồi trần tô hô.


- Cờ bạc canh đỏ canh đen,
Nào ai có dại đem tiền vứt đi.
- Cờ bạc là bác thằng bần,
Ruộng nương bán hết, chôn chân vào cùm.

Đó là những thứ máu mê mà nhiều người đờn


ông mắc phải. Rất tiếc vì phần đất được dành
cho gã có hạn, nên đành phải gác lại, khi nào
thời cơ thuận tiện sẽ tái xuất giang hồ.

Viết đến đây gã bỗng cảm thấy hổ thẹn “mí”


lương tâm, bởi vì phe mình lại đi phản bội phe
ta, chơi cái trò vạch áo cho địch xem lưng.
Có lẽ gã phải chuyển hệ mất thôi, từ TV trắng
đen ra TV màu, từ chê ra khen, từ bốc thối ra
bốc thơm, để thiên hạ khỏi….ghét cái mặt.
Thế nhưng nghề của con ong là châm, nghề của
con muỗi là chích, còn nghề của gã là chọc.

Ngày nào không chọc thì ăn không ngon, ngủ


không đẫy giấc, lỡ có bị thiên hạ chưởi thì cũng
đành nhe răng mà cười trừ :

- Rằng hư quen thói mất rồi.


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● VALENTINE VÀ NGƯỜI TÌNH

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nếu mở lịch năm thánh 2000, gã thấy trong
tháng hai có rất nhiều ngày lễ đáng nói. Chẳng
hạn ngày mồng 2 thánh hóa tu sĩ, rồi ba ngày tết
nguyên đán theo truyền thống dân tộc, ngày 11
thánh hóa bệnh nhân và người tàn tật, ngày 18
cầu cho các nghệ sĩ, ngày 22 cầu cho các viên
chức phục vụ giáo xứ, ngày 27 cầu cho các
nhân viên y tế, riêng gã thì chọn ngày 14, được
gọi theo tiếng Ăng lê là “Valentine’s day”, cầu
cho những người chuẩn bị lập gia đình. Bởi vì,
chuyện tình yêu ở mọi nơi và trong mọi lúc, xưa
cũng như nay, tây cũng như ta, vốn dĩ đã là
chuyện mê ly và hấp dẫn.

Quả thực, đề tài này đã làm cho gã mất ăn mất


ngủ hai ba ngày liền. Số là lúc này vì đã có tí
tuổi, nên đầu óc thường hay quên. Đọc thì nhiều
mà nhớ chẳng được bao nhiêu.

Để viết về ngày này thì trước hết phải biết nguồn


gốc của nó. Và thế là đành phải hì hục mở các
chồng báo cũ, bở cả hơi tai, mờ cả mắt mà cũng
chả thấy.
MỤC LỤC

Rồi nhờ mấy anh và mấy chị hàng xóm cứu


bồ…nhưng họ cũng đành chịu thua. Giá như lúc
này có được một cuốn bách khoa tự điển thì hay
biết mấy, đỡ tốn sức lao động. Thành thử biết
sao nói vậy, làng nước ạ.

Theo suy luận thường tình thì “Valentine’s day”


dứt khoát là phải bắt nguồn từ ông thánh
Valentinô. Thế là lại một phen vắt giò lên cổ
chạy tìm về ông thánh này. Cuối cùng vớ được
cuốn Tự điển các Thánh (Dictionnaire des
Saints), lật ngay vần V, thì hỡi ơi, những rắc rối
và nhiêu khê cũng bắt đầu nảy sinh từ đây.

Quả thực, không kể rất nhiều vị tên là Valentinô


trong danh sách các Thánh Tử đạo, còn có ba vị
cùng tên là Valentinô và cùng được mừng kính
vào ngày 14 tháng 2.
Vị thứ nhất là thánh Valentinô, Tông đồ và Giám
mục Tyrol. Chuyện kể lại rằng : Vì ngán ngẩm
trước trách nhiệm nặng nề, đó là hoán cải các
dân ngoại sống ở rặng núi Alpes và dọc theo
sông Danube, thánh nhân đã lên đường đi
Rôma để thỉnh ý Đức Giáo hoàng Lêô cả. Thế
nhưng Đức Giáo hoàng lại phong thánh nhân
MỤC LỤC

lên chức Giám mục, rồi sai về nhiệm sở cũ.

Từ đó, thánh nhân luôn hết mình cho việc rao


giảng Tin mừng tại Tyrol và thiết lập một cộng
đoàn qui tụ các linh mục để theo đuổi mục đích
trên. Thánh nhân qua đời vào năm 74.
Vị thứ hai là thánh Valentinô, Giám mục Terni,
được diễm phúc tử đạo vào năm 273. Chuyện
kể lại rằng : Có một triết gia ngoại đạo tên là
Craton, mời thánh nhân qua Rôma để chữa
bệnh cho cậu con trai của mình đang đau nặng,
bởi vì lúc bấy giờ thánh nhân đã nổi tiếng là một
người… rất mát tay. Thánh nhân chỉ hứa là sẽ
chữa lành, nếu như Craton và cả gia đình trở lại.
Cuối cùng, cậu con trai được khỏi bệnh.

Ba người học trò Hy lạp của ông triết gia xin rửa
tội. Sự việc này không làm cho quan toàn quyền
được hài lòng, vì thế ông đã truyền chém đầu
thánh nhân. Ba người học trò quê ở Athènes liền
mang xác thánh nhân về Terni.

Vị thứ ba là thánh Valentinô, tử đạo tại Rôma


vào năm 269. Thánh nhân là một linh mục sống
dưới thời hoàng đế Clauđiô. Thánh nhân có một
tình bác ái yêu thương đặc biệt dành cho các tín
MỤC LỤC

hữu bị bắt bớ bằng cách thăm viếng họ trong


chốn tù ngục.
Rất nhiều lần thánh nhân đã nói về niềm tin kitô
giáo cho hoàng đế. Ngày kia thánh nhân xác
quyết với quan chánh án Astêriô như sau :
-Đức Kitô là ánh sáng thế gian.
Quan chánh án trả lời :
-Tôi chỉ tin điều ấy, nếu ông chữa cho con gái tôi
khỏi mù.

Sau khi cầu nguyện, thánh nhân đặt tay trên cô


gái mù và cô gái mù liền được nhìn thấy. Quan
chánh án và cả gia đình xin trở lại.

Bị dân chúng xách động, hoàng đế truyền chém


đầu thánh nhân trên đường Flaminiô.
Theo một bài viết trên báo “Kiến thức ngày nay”
số 342, thì vị thánh Valentinô thứ ba này chính
là nguồn gốc cho lễ hội tình yêu.

Số là lúc bấy giờ hoàng đế Clauđiô muốn có một


quân đội hùng mạnh, nên đã ra lệnh mọi đờn
ông tới tuổi đều phải nhập ngũ. Thế nhưng, có
nhiếu người không muốn xa vợ con và gia đình.
Điều này làm cho hoàng đế giận dữ. Ông quyết
định cấm tiệt mọi cuộc kết hôn, bởi vì nếu đờn
MỤC LỤC

ông không lập gia đình thì họ sẽ không phản đối


việc tham gia quân đội.

Trong khi đó, thánh nhân là một linh mục,


chuyên làm lễ cưới cho những người yêu nhau.
Ngay cả sau khi hoàng đề ban hành lệnh cấm,
thánh nhân vẫn âm thầm và bí mật cử hành.

Đêm kia, thánh nhân đã bị bắt đang khi làm lễ


cưới. Đôi tân hôn nhanh chân chạy thoát, còn
thánh nhân thì bị tống ngục. Trong thời gian
sống trong ngục, rất nhiều người trẻ tuổi đã đến
thăm thánh nhân. Họ ném hoa và những bức
thư ngắn qua cửa sổ cho thánh nhân. Họ muốn
thánh nhân biết rằng họ luôn tin tưởng vào tình
yêu.

Một trong những người trẻ tuổi đó là con gái của


người gác ngục. Được phép của cha, cô bé vào
thăm thánh nhân và cho rằng thánh nhân đã
hành động đúng, còn luật lệ của hoàng đế chỉ là
điều hết sức phi lý. Trước khi bị đem ra pháp
trường, thánh nhân đã để lại cho cô bé bức thư
cám ơn của mình với hàng chữ :
- Gửi con tình yêu từ Valentinô của con.
Lời nhắn này được viết vào ngày thánh nhân
MỤC LỤC

phải chết, 14 tháng 2 năm 269. Phải chăng đó


chính là nguồn gốc việc gửi thiệp và tặng quà
trong ngày lễ hội này.
Theo nghĩa rộng, thì “Valentine” là ngày tình
yêu. Đây là một lễ hội quan trọng của nhiều
người, dù là đang yêu hay là đã yêu. Vì thế,
những đôi vợ chồng già vẫn có thể biểu lộ tình
mến thương cho nhau trong ngày hội này. Bởi
chưng tuổi già có nét đẹp của tuổi già, nét đẹp
của những trái cây chín vàng. Dù rằng “má đã
hom hem lại lẹm cằm” như bà già trầu, thì nụ
cười vẫu cứ tươi ơi là tươi và duyên ơi là duyên.

Hơn thế nữa, ai dám bảo rằng người già không


có tình yêu hay tình yêu bị xơ cứng vì tuổi đời
chồng chất. Nguyễn công Trứ ngày xưa đã bảo :
- Càng già càng dẻo càng dai.
Và không hiểu một tác giả nào đó cũng đã viết :
- Bà già đã bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ viết thư cho bồ.
Bởi vậy, trong ngày “Valentine”này, xin các cụ
ông và các cụ bà hãy anh dũng tặng quà cho
nhau để hâm nóng tình yêu hay ít nữa là sống
lại cái ngày xưa “hoàng thị”, chất đầy những kỷ
niệm ngọt ngào của mình.
MỤC LỤC

Còn theo nghĩa hẹp, thì “Valentine” là ngày tình


nhân. “Pháp – Việt từ điển” của Đào đăng Vỹ thì
định nghĩa đó là hội kén chồng của dân Ăng lê
và “Valentinô” là anh chàng được một cô nàng
chọn trong ngày này.

Tự điển “Petit Larousse” thì gọi đó là lễ hội của


những anh con giai và những chị con gái, đặc
biệt là của những cặp uyên ương, vì thế
“Valentinô” chính là anh con giai được chấm.
Tuy nhiên một khi đã được chấm chọn thì có
bổn phận và nghĩa vụ phải…tặng quà cho chị
con gái.

Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của


chính sách mở cửa, cũng như do ảnh hưởng
của phim ảnh Hồng Kông, giới choi choi tại Việt
Nam, nhất là ở các thành phố lớn, cũng đã bắt
đầu học đòi háo hức đón mừng ngày
“Valentine”.

Đây chính là một dịp để những anh đờn ông nhớ


đến những chị đờn bà, rồi tặng quà và gửi thiệp
cho nhau để trang điểm cho tình yêu thêm phần
màu mè hoa lá. Lực lượng hưởng ứng ngày này
một cách ồn ào phần đông là những kẻ đang
MỤC LỤC

yêu, vì thế nó cũng mang nặng ý nghĩa của ngày


tình nhân hơn.

Về những món quà thường được xài trong ngày


“Valentine” thì thay đổi tùy tập tục của từng địa
phương. Theo một bài sưu tầm trên báo Tuổi trẻ
Chủ nhật, thì :
- Tại Pháp, hoa là món quà được tặng cho nhau
nhiều nhất với những ý nghĩa tượng trung khác
nhau. Hoa hồng đỏ dành cho tình yêu nồng
cháy, hoa hồng nụ biểu thị tình yêu buổi ban
đầu, hoa tím ám chỉ tình yêu thầm kín, hoa
“pensée” gợi lên lòng chung thủy và hoa “forget-
me-not” là dấu chỉ của một tình yêu…bất tử.
Ngoài ra, những loại quà khác cũng được ưa
chuộng, đó là nữ trang như vòng cổ, nhẫn đeo
mang hình hai trái tim lồng vào nhau hay hay
bàn tay đan lấy nhau…

- Tại Mỹ, người ta thường cầu chúc cho nhau


một ngày “Valentine” hạnh phúc và gửi cho nhau
những cánh thiệp có in hình thần tình ái hoặc
những món quà có hình trái tim.
- Tại Nhật, các chị nàng thường tặng cho các
anh chàng kẹo sôcôla, còn các anh chàng thì lại
thường mời các chị nàng đi ăn cơm tiệm.
MỤC LỤC

- Tại Trung quốc, người này tặng cho người kia


những món quà nho nhỏ, để người kia luôn
mang bên mình mà tưởng nhớ đến người này,
chẳng hạn như khăn tay, dây thắt lưng…
- Tại Việt Nam, dân chập chững yêu thương
thường gửi thiệp mừng và tặng cho nhau những
đóa hồng. Thơ mộng hơn một tí nữa thì rủ nhau
đi…ăn chè.
Suy gẫm về mối liên hệ giữa tình yêu và hôn
nhân, gã nhận thấy có nhiều cách diễn tả,
nhưng tựu trung người ta thường chia ra làm ba
thời kỳ.

Với những người thích màu sắc, thì trước khi


cưới là một màu hồng rực rỡ, liền ngay sau khi
cưới là một màu trắng đục, còn lâu sau khi cưới
là một màu xám ảm đạm.
Với những người thích nghiên cứu về thời tiết,
thì trước khi cưới là những ngày mùa xuân nắng
ấm, liền sau khi cưới là những ngày hè thu oi
bức hay mưa dông, còn lâu sau khi cưới là
những ngày dài mùa đông lạnh giá.

Với những người thích âm thanh, trước khi cưới


anh nói thì em nghe và em nói thì anh nghe, liền
sau khi cưới, anh nói thì anh nghe và em nói thì
MỤC LỤC

em nghe, còn lâu sau khi cưới, thì cả hai cùng


nói nhưng hàng xóm phải nghe.

Với những người có tinh thần ăn uống, trước khi


cưới thì nhìn nhau mà no, liền sau khi cưới thì
nhìn nhau mà ngáp, còn lâu sau khi cưới thì
thỉnh thoảng nồi niêu xoong chảo lại có dịp bay
vù ra ngoài sân.
Với những người vốn mang dòng máu ga lăng,
trước khi cưới thì chiếc dù lệch hẳn về phía
nàng và chàng sẵn sàng chịu ướt, liền sau khi
cưới thì chiếc dù nằm ở chính giữa và mỗi
người chịu ướt một nửa, còn lâu sau khi cưới thì
chiếc dù lệch hẳn về phía chàng và nàng đành
cam lòng chịu ướt.

Qua những hình ảnh diễn tả kể trên, thì giai


đoạn đầu tiên là giai đoạn đẹp đẽ nhất. Đó là
giai đoạn người ta tập tễnh đi vào tình yêu, giai
đoạn của những đôi uyên ương, giai đoạn của
những cặp tình nhân. Có một ông thi sĩ đã viết :
- Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.
Hay như một bài hát đã diễn tả như sau :
- Phút đầu gặp em, tinh tú quay cuồng.
Vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, tình yêu như
MỤC LỤC

tăng cường cho người ta thêm sức mạnh, thêm


can đảm để rồi khó khăn nào cũng vượt qua,
như tục ngữ ca dao đã nói :
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
- Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Và đôi khi, trong những lúc hăng tiết vịt vì tình
yêu, người ta cũng dám làm những điều xằng
bậy nhất nhân danh tình yêu. Sau đây gã xin kể
hầu bà con mấy mẩu chuyện vui vui mà gã đã
cắt trên báo Công an Thành phố.
Mẩu chuyện thứ nhất mang tựa đề là “giá nào
cũng yêu”.

Anh B yêu chị C, một người hàng xóm thùy mị


đoan trang. Sau nhiều lần tỏ tình bị từ chối, anh
ta nổi quặu, liền bày ra nhiều trò quậy phá :
hằng đêm anh ta cứ liên tục ném đá, ném bùn
và phóng uế vào nhà chị C. To gan bạo phổi
hơn, một đêm tối trời anh ta bèn cắt luôn đường
điện sinh hoạt của gia đình chị C. Thế nhưng
đang khi thực hiện ý đồ mờ ám này thì bị công
an tuần tra bắt giữ.
Mẩu chuyện thứ hai mang tựa đề là “giá nào
MỤC LỤC

cũng gặp”.

Lẽ thường, khi đến nhà bạn gái, thì anh chàng


con giai nào cũng tỏ ra hiền lành, lịch sự để “lấy
điểm”, nhưng đối với Nguyễn thanh Tùng thì
khác. Dù buổi tối nhà bạn gái đã đóng cửa tắt
đèn, hắn vẫn hiên ngang đập cửa đòi gặp cho
bằng được. Lúc 22 giờ ngày 15 tháng 5 năm
1999, hắn lại đến gõ và giật cửa nhà cô bạn gái.
Bị gia đình cô bạn gái kiên quyết không mở, hẳn
bỏ đi, nhưng sau đó quay trở lại với một con…
bò.
Hắn dùng một sợi dây cột bò, buộc vào cánh
cửa nhà cô bạn gái, rồi lấy roi quất mạnh vô
mông bò làm bò nhảy dựng lên, bỏ chạy và…
kéo sập luôn cánh cửa. Sau sự việc này thì hắn
khó có cơ may bước qua ngưỡng cửa nhà cô
bạn gái để mà làm anh rể quí.

Mẩu chuyện thứ ba mang tựa đề là “giá nào


cũng cưới”.
Q và X là đôi ban thân từ hồi cấp ba. Sau khi tốt
nghiệp đại học, Q liền nhờ người mai mối đến
gia đình X xin được cưới X làm vợ. Nào ngờ cha
mẹ cô gái lại thách cưới quá cao, đòi Q phải
chuẩn bị đồ cưới, nào vàng bạc, nao vòng đeo
MỤC LỤC

tay, nào tơ lụa vải vóc…lại còn phải tổ chức đám


cưới ở những hai ba nơi…Và nhất là phải tặng
cho cha mẹ vợ 5 triệu đồng gọi là tiền bù lỗ cho
công lao sinh thành và nuôi dưỡng. Mặc dù đã
năn nỉ hết lời, nhưng cha mẹ X vẫn khăng khăng
từ chối.

Trong lúc rối trí, Q đã nảy ra một sáng kiến kiếm


tiền. Vào tối ngày 29 tháng 7 năm 1999, lợi dụng
lúc ông chú họ của X đi vắng, Q liền lẻn vào dắt
chiếc xe gắn máy của ông đi cầm được 12 triệu
và đem tiền về mua sắm đồ cưới liền tù tì. Sau
một ngày điều tra, công an đã xác định được thủ
phạm chính là Q. Thế là đám cưới phải dời lại vô
thời hạn, không biết đến bao giờ…

Tuy nhiên, theo gã nghĩ, có một hành động dại


dột nhất mà những người chớm yêu đôi khi
thường hay làm, đó là ăn ở với nhau trước khi
cưới. Hành động này hình như mỗi ngày một gia
tăng và liên tục phát triển. Vì thế, đã gây nên
một hậu quả đáng lo ngại.

Linh mục Nguyễn hồng Giáo trên báo Công giáo


và Dân tộc cho biết : Ở thành phố Hồ chí Minh,
năm 1991 có 140.764 ca nạo thai, hút thai mà
MỤC LỤC

chỉ có 77.231 ca sinh, nghĩa là cứ một ca sinh


thì có 18 ca phá. Tỷ lệ này cao hơn Liên xô, gấp
3 lần ở Hungari, gấp 4,5 lần ở Ý và gấp 7 lần ở
Anh.

Đáng lưu ý là trong số 60.520 ca nạo thai ở


bệnh viện Hùng vương từ năm 1985 đến năm
1991, thì có 3,34% ở lứa tuổi 13 đến 19 và
10,3% ở lứa tuổi 20 và 21. Những con số trên
đây là vào thời kỳ mới mở cửa, còn bây giờ
chắc chắn đã cao hơn nhiều.
Về chuyện ăn ở với nhau trước khi cưới, gã xin
tạm chia thành hai loại. Loại thứ nhất được gọi
một cách văn vẻ là “hôn nhân thử”, còn nếu gọi
một cách nôm na và bình dân, thì đó là “ăn
trước kẻng”.

Thực vậy, trong những tổ chức hay trong những


cộng đoàn, chẳng hạn như ký túc xá, dòng tu…
thì giờ nào việc nấy và người ta thường dùng
tiếng kẻng để báo hiệu. Keng một cái là xuống
lớp. Keng một cái là đi xơi cơm. Keng một cái là
leo lên giường ngủ. Vì thế, ăn ở với nhau trước
khi cưới thì cũng giống như xơi cơm trước khi
tiếng kẻng báo hiệu được phép vang lên.
MỤC LỤC

Trên báo Tuổi trẻ Chủ nhật, tác giả Nguyễn thị
Oanh đã làm một cuộc điều tra nho nhỏ trong
giới sinh viên về chuyện hôn nhân thử và cho
biết như sau :
- Tất cả họ, nam cũng như nữ, đều từ tỉnh lẻ lên
thành phố tạm trú để học hành.
Kịch bản giống hệt nhau, được chia thành sáu
màn :
- Màn thứ nhất : họ gặp nhau trong một dịp nào
đó.
- Màn thứ hai : họ thích nhau và bắt đầu yêu
nhau : thường xuyên đi ăn, đi học, đi chơi với
nhau.
- Màn thứ ba : Họ gắn bó chặt chẽ với nhau hơn.
Nàng có thể giặt giũ cho chàng. Còn chàng thì
hay lui tới phòng nàng trong ký túc xá. Có khi
ban quản lý bắt gặp một “đực rựa” ngủ trên
giường của cô nữ sinh viên.
- Màn bốn : Thấy bất tiện, nên họ quyết định
thuê một căn phòng để sống chung. Lúc đầu có
thể “giường ai người ấy ngủ”, “nệm ai người ấy
nằm”, nhưng chuyện này chẳng kéo dài được
bao lâu. Phần lớn thì họ sống với nhau như vợ
chồng. Ở vào thời điểm này họ rất hạnh phúc.
Mặt mày cô gái trở nên tươi rói và rạng rỡ.
MỤC LỤC

- Màn năm : khó khăn bắt đầu khi tài chánh trở
nên eo hẹp. Họ phải tìm việc làm thêm. Sự căng
thẳng và mệt mỏi tạo ra những va chạm. Cô gái
thì tiều tụy vì phải gánh vác cả vai trò nội trợ lẫn
sinh viên, nên việc học giảm sút rõ rệt. Có khi lại
thi rớt và bỏ học. Anh chàng hào hoa ngày nào
thì nay bộc lộ bộ mặt thật của mình, nào phong
kiến, bỏ mặc công việc cho cô gái và nhất là bắt
đầu dòm ngó những hình bóng khác.

Tội đỉnh của bi kịch là cái thai. Chẳng có ông “bố


nhí” nào lại vui mừng khi biết mình có con. Và
như thế, đa số đã đi phá thai.

- Màn sáu : sự chia tay. Trong số trên bốn mươi


trường hợp thì chỉ có một vài trường hợp tiến
đến hôn nhân hay hy vọng tiến đến hôn nhân
mà thôi. Còn hầu như tất cả các anh chàng đều
nhanh giò mau cẳng cao chay xa bay.

Rút kinh nghiệm từ kịch bản trên, thì người mất


mát nhiều nhất chính là chị nàng : tiết hạnh,
danh dự, học hành, tương lai…Chỉ một thời gian
ngắn cô gái xinh đẹp đã gầy đi, xanh xao và già
hẳn. Có trường hợp toan tự tử, có trường hợp
đã tự tử và đã chết.
MỤC LỤC

Còn loại thứ hai, gã cũng xin gọi một cách nôm
na và bình dân. Đó là ăn vụng.
Mặc dù phần cốt lõi giống nhau, nhưng giữa ăn
vụng và ăn trước kẻng có đôi chút khác biệt.
Thực vậy, ăn trước kẻng, như chúng ta thấy, thì
có bài bản hẳn hoi. Ở bên phương tây, có
những cặp thử sống đời sống vợ chồng mí nhau
một thời gian, rồi mới đi tới quyết định : hợp thì
tiến tới, không hợp thì rút lui.

Gã có một tên bạn ở bên Mỹ, sống chung với


một cô nường dễ thường đã tới sáu bảy năm rồi
mà vẫn còn dùng dằng chưa quyết định, khiến
gã phải bực mình mà phang cho nó một trận :
- Mi là con nhà hai phần, đạo gốc hẳn hoi từ lúc
cha sinh mẹ đẻ, mà làm như vậy thì đâu có ổn,
thử gì mà thử mãi thử hoài, bộ định thử cho tới
lúc con người ta rách nát te tua đấy hử ?
Thế mà nó vẫn cứ nhe răng cười hề hề :
- Mi thì rõ thật là lẩm cẩm. Không thử thì biết
đàng chó nào mà lấy. Nói theo con nhà có đạo
thì một khi cái giây hôn phối đã choàng vào cổ
thì bất nhóc nhách, chẳng thể nào di dời cho
được. Lôi nhau ra ba tòa quan lớn để xin ly dị,
dù có mất nửa phần sản nghiệp, thì lương tâm
mình cũng không cho phép. Còn âm thầm rời xa
MỤC LỤC

và âm thầm cô đơn vò võ hơn một nửa đời còn


lại thì quả là vừa uổng phí lại vừa chẳng chịu
nổi. Đành phải thử cho chắc ăn.

Nghe vậy, gã bèn lắc đầu chào thua. Bởi vì, nó


chỉ tin vào sức riêng mình chứ chẳng cậy dựa
vào ơn trên một ly ông cụ nào cả.
Như gã đã nói : ăn trước kẻng thì có bài bổn hẳn
hoi và bàn dân thiên hạ đều biết, còn ăn vụng thì
quả là ngẫu hứng qua cầu, ăn lén ăn lút, không
để cho một ai chứng giám.
Có thể vì hai người quá thương nhau nên muốn
biểu lộ một hành vi dâng hiến. Lý do này xem ra
hơi hiếm.
Có thể vì hai người muốn “thử ngòi”, “hưởng
sớm mùi đời” cho biết, hay vì không cưỡng nổi
những đòi hỏi của “con lợn lòng” trong những
lần gặp gỡ sau những màn hôn hít, vuốt ve. Lý
do này xem ra khí nhiều.
Có thể vì anh chàng quá năn nỉ ỉ ôi và đôi khi đi
tới chỗ hờn dỗi và hù dọa :
- Đằng nào thì chúng mình cũng cưới nhau…
cho anh một tẹo…chìu anh một tí…hay là em
không còn yêu anh nữa.
Và thế là cô nường đành phải miễn cưỡng chiều
theo :
MỤC LỤC

- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,


Mà xem con tạo xoay vần tới đâu.

Sau những lần thầm lén vụng trộm như thế mà


còn tiến tới hôn nhân, kết thúc bằng một đám
cưới, thì quả là phúc bảy mươi đời cho cô
nườøng.
Còn nếu như anh chàng thuộc dòng họ sở, ca
bài quất ngựa truy phong, thì người thiệt hại
nhất vẫn là cô nường. Mất cả chì lẫn chài. Mất
cả vốn lẫn lãi. Và nếu như còn để lại một kết quả
cụ thể, sờ sờ trước mắt, là đứa con, thì hẳn cô
nường sẽ phải ân hận cả một đời.

Tâm lý phe đờn ông con giai là muốn chinh


phục. Và cuộc chinh phục càng cam go thì chiến
thắng càng vẻ vang. Thử hỏi một khung cửa mà
mọi bàn chân đều qua lại được, thì đâu còn giá
trị gì mấy. Anh đờn ông con giai khi chưa được
ăn thì năn nỉ ỉ ôi, nhưng khi đã thỏa mãn, đã no
nê phủ phê thì biết đâu lại đâm ra chán ngán.

Hơn thế nữa, thái độ quá dễ dãi của cô nường :


đòi gì được nấy, đôi khi lại phản tác dụng. Trước
mặt thì anh chàng ca tụng cô nường là chịu
chơi, là tuyệt vời, là hết xảy…nhưng sau lưng
MỤC LỤC

biết đâu lại chê bai và hạ giá :


- Ngữ ấy chỉ là hạng qua đường cho…đỡ buồn
mà thôi.
Vì thế sự đoan trang và đứng đắn vẫn còn là
điều cần thiết để tạo nên nét duyên ngầm cho
phe con gái. Đôi lúc còn phải tỏ ra khó khăn một
tí thì mới hấp dẫn.

Nhất là phải biết làm chủ lấy bản thân. Phải biết
bật đèn đỏ báo động khi địch quân muốn xâm
phạm vùng phi quân sự, hay muốn vượt khỏi
ranh giới và lằn mức cuối cùng được phép.
Đừng lỡ dại để rồi :

- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.


Lúc ấy, có hối thì cũng đã bất cập, có ân hận thì
cũng đã quá muộn màng.
Vẻ trong trắng của cuộc tình,
với chút quà xinh nho nhỏ,
cho những người đang yêu trong ngày
“Valentine”.
Rồi ngày mai,
khi tuổi đời chồng chất,
vẫn còn đọng lại một chút nhớ thương.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● BÀ XÃ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Trong bức thư mới nhất đề ngày 15 tháng 11
năm 1999, cụ chủ nhiệm báo Mục vụ đã than
thở cả tiếng “mí” gã như sau :

“Ở Thụy sĩ cũng như ở các nước Âu Mỹ nói


chung, các đấng ông chồng mày râu thường về
Việt Nam chim chuột…lang chạ hay kiếm đại bà
vợ bé nào đó để dành, lâu lâu vừa trở lại thăm
quê hương, vừa đi nghỉ hè, lại vừa có sẵn của
xài mà vợ con không mấy khi hay biết. Vì nếu
biết, thì gia đình sẽ đi đến chỗ xào xáo và tan vỡ
từng mảnh. Chỉ tội nghiệp cho những đứa con vì
không còn thấy được cảnh đầm ấm nữa. Các bà
thì một số đi làm có tiền, ra ngoài xã hội cũng
đua đòi, đi đến chỗ bình quyền, rồi lộng quyền.
Kết cục cũng lại là đổ vỡ. Vợ chồng mỗi người
một nhà. Những đứa con có hai nhà mà vẫn
không có được một mái ấm trong đời…

“Riêng về giới trẻ, thì tình yêu ngày càng xuống


dốc một cách thậm tệ. Họ thường hay “thử ngòi”
trước khi đi tới kết hôn, coi nhẹ việc trinh trong
của người thanh niên nam nữ…
MỤC LỤC

Chẳng hiểu lời than thở trên đây có bi quan lắm


không, nhưng chắc hẳn cũng không đến nỗi
phóng đại tô màu, đã đen lại bôi thêm cho đen
hơn.

Thực vậy, ai cũng biết rằng gia đình hiện nay


trên thế giới đang lâm vào một cuộc khủng
hoảng trầm trọng. Dĩ nhiên, các gia đình Việt
Nam ở trong nước và nhất là ngoài nước, cũng
không thoát khỏi bị cuốn theo chiều gió, bị hút
vào giòng chảy, mà nảy ra những chuyện lỉnh
kỉnh thế này hay thế nọ.

Riêng gã, với cái nhìn méo mó nghề nghiệp, thì


đây quả là một mảng đề tài thật phong phú để
khai thác. Vì thế, mỗi khi bị chiếu bí, gã bèn tìm
về vùng đất này để mà…tán hươu tán vượn cho
đầy trang giấy. Hôm nay gã xin phác họa đôi ba
nét về dung nhan…hết xảy của các bà vợ.

Tiếng Việt Nam của chúng ta thật là tuyệt vời để


diễn đạt những “gam”, những mức độ tình cảm
đậm nhạt khác nhau.
Khi mới bắt đầu thương, anh chàng luôn mồm
gọi chị chàng với cặp môi dẻo quẹo:
MỤC LỤC

- Em yêu dấu… Người yêu bé... Con mèo nhỏ…


Khi bước vào cuộc sống lứa đôi và tình yêu còn
nồng như rượu nếp mới và còn thơm như mật
ong rừng, thì anh chồng luôn trìu mến gọi chị vợ
với giọng nói ngọt như đường cát, mát như
đường phèn :
- Em…Mình…Cưng…Mẹ thằng cu…Đằng ấy…
Rồi hùng hổ giới thiệu vị “nội tướng” của mình
với bà con lối xóm bằng những danh từ thật bùi
tai, còn hơn cả đậu phộng rang, chẳng hạn
như :
- Nhà tôi…Bà xã…

Nếu là dân ghiền cải lương, thì anh chồng không


ngần ngại ca sáu câu vọng cổ có mùi bắt đầu
bằng những chữ :
- Hiền thê ơi…Ái khanh lòng ta hỡi.
Nhưng khi tình yêu đã bị xuống cấp, nhất là
trong những lúc nóng nảy, thượng cẳng chân hạ
cẳng tay mí nhau, thì anh chồng không ngần
ngại tuôn ra những lời “hàng tôm hàng cá” để
mà phang chị vợ một trận tơi bời hoa lá cành :
- Cái con mẹ mày…Cái con mụ kia…Cái bà
chằng lửa…
Từ những kinh nghiệm đời thường ấy mà có kẻ
đã hung hăng phát biểu :
MỤC LỤC

- Trong đời anh đờn ông có hai ngày vui. Ngày


vui thứ nhất đó là ngày lấy vợ. Còn ngày vui thứ
hai đó là ngày vợ…chết.

Chuyện kể rằng :
Có một anh đờn ông chẳng may qua đời, mon
men đến cửa thiên đàng. Ông thánh Phêrô thấy
vậy bèn chặn lại và lên tiếng hỏi :
- Ngươi đã làm được những gì để xứng đáng
bước vào chốn hạnh phúc muôn đời.
Anh đờn ông gãi đầu gãi tai. Xem ra trong cuộc
nơi sống trần gian anh ta đã chẳng làm được
việc gì cho ra ngô ra khoai, cho nên trò nên
trống, cho nên cơm nên cháo. Sau một hồi suy
nghĩ và xét mình, cuối cùng anh ta mới rụt rè
thưa lên :
- Bẩm thánh cả, con có vợ ạ.
Ông thánh Phêrô bèn đưa bàn tay vuốt chòm
râu bạc, rồi gật đầu ra dáng thông cảm :
- Thôi được. Ta rất hiểu ngươi. Nào, ngươi hãy
lẹ lẹ bước vào thiên đàng ngay đi.
Qua câu trả lời trên, có lẽ ông thánh Phêrô đã
nhìn thấy rất rõ những khó khăn, những gánh
nặng và những bế tắc của những anh đờn ông
có vợ. Biết đâu chừng đó cũng chính là những
khó khăn, những gánh nặng, những bế tắc của
MỤC LỤC

bản thân ông thánh khi nhìn về dĩ vãng xa xưa


của mình.

Còn gã, gã cũng xin ăn theo mà chia sẻ và mổ


xẻ cái nỗi buồn của những anh đờn ông có vợ.

Người Việt Nam hiện nay thường được nghe


đến độ mòn cả lỗ tai và thuộc lòng câu nói sau
đây :
- Không có gì quí hơn độc lập và tự do.
Khi còn là “giai tơ”, anh đờn ông lúc nào cũng có
được cái kho tàng quí giá ấy là sự tự do. Anh ta
muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm, muốn
nhậu lúc nào thì nhậu. Thế nhưng khi đã đèo
bồng cái “rờ mọc”, thì liền mất toi cái kho tàng
ấy, vì phải đổi thời và thoát xác.

Có những anh chàng thưở trước thuộc hạng


“phá gia chi tử”, đã quậy thì phải quậy tới bờ tới
bến, đã nhậu thì phải nhậu cho xỉn vì không xỉn
không về, đã chơi thì phải chơi xả láng để sáng
còn về sớm, thế mà khi lập gia đình thì bỗng trở
nên nghiêm túc, chí thú làm ăn, có lẽ vì nghĩ tới
trách nhiệm của mình ở phía trước.

Bởi đó, khi đứng trước những “con ngựa chứng”


MỤC LỤC

của hàng “giai tơ”, nhiều cụ đã khuyên :


- Cứ lấy vợ cho nó là xong tuốt luốt…Chỉ có con
vợ mới trị được nó mà thôi.
Và thế là nỗi buồn cứ len lén đi vào tâm can tì
phế, ám vào lục phủ ngũ tạng của anh đờn ông,
hay như một bài hát đã diễn tả :
- Buồn vào hồn không tên…
Để rồi anh đờn ông cứ thở dài thườn thượt mà
rằng :
- Ôi, thời oanh liệt nay còn đâu.
Chính vì vậy, các cụ ta ngày xưa cũng đã phát
biểu :
- Một là vợ, hai là…nợ.
Hay :
- Trai có vợ như dợ buộc chân.
Còn người Pháp, vốn mang giòng máu “ga lăng”
thì đã diễn tả một cách hoa hòe hoa sói hơn :
- Nếu em là trại giam, thì anh sẽ là thằng tù.
Thế mà cũng có lúc đã phải chua chát :
- Đờn bà vừa là niềm vui lại vừa là tai họa cho
đờn ông.
- Đờn bà vừa là nữ thần lại vừa là sói cái của
đờn ông.
Có những người nhờ vợ mà nổi đình nổi đám,
nên cơ đồ nên sự nghiệp :
- Giàu vì bạn sang vì vợ.
MỤC LỤC

Nhưng cũng có những người vì vợ mà tiêu tán


đường, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi.
Vì thế người xưa đã cho rằng :

- Thứ nhất vợ dại trong nhà,


Thứ hai nhà dột, thứ ba rựa cùn.

Sống trên đời, anh đờn ông con giai nào cũng
cảm thấy có ba cái bực. Thế nhưng, cái bực vào
hạng nhất đó chính là vợ dại, bởi vì nhà dột thì
hắn có thể lợp lại, rựa cùn thì hắn có thể mài lại,
hay bỏ một nơi, quẳng một xó…chứ còn vợ dại
thì vẫn cứ phải chấp nhận, vẫn cứ phải sống
chung hòa bình, vẫn cứ phải đeo đẳng bên mình
có khi còn dài hơn cả một đời, bởi vì đờn ông
thường “ngỏm củ tỉ” trước đờn bà, và tuổi thọ
của anh chồng thường vắn hơn chị vợ.

Vậy đâu là những cái nơi chị vợ thường làm cho


anh chồng phải bực, phải tức như bị bò đá mà
vẫn cứ phải cắn răng chịu vậy ?
Nếu bới lông tìm vết, sợi tóc chẻ làm mười, thì
hẳn sẽ tìm thấy nhiều tính mê nết xấu nơi đờn
bà con gái. Và nếu viết hết về những thói hư ấy
thì chắc chắn gã sẽ bị lây cái thói “rậm nhời” tức
là thói nói nhiều của “phe mình”. Vì vậy, phe ta
MỤC LỤC

chỉ xin đề cập qua quít một vài chuyện lỉnh kỉnh
của phe mình mà thôi.

Trước hết đó là chuyện nói năng.


Tìm được một chị vợ vừa niềm nở tươi tắn lại
vừa kín miệng trong lời nói qủa là một sự khó,
bởi vì nói dài, nói dẻo, nói dai, nói day, nói dứt,
nói gian, nói dối…vốn là nghề của các nường.

Có những chị vợ thường xuyên càu nhàu với


anh chồng. Chúng ta thử tưởng tượng xem một
anh chồng làm công chức. Ở sở thì bị bề trên trù
dập, bề ngang ganh tị và bề dưới bướng bỉnh.

Về tới nhà những ước mong được nhìn thấy


khuôn mặt dễ thương với những lời nói êm dịu
của chị vợ, rồi được nghe thấy những tiếng cười
trong trẻo đầy vô tư của con cái, để quên đi
những mệt mỏi, những buồn tủi và tìm lấy niềm
phấn khởi để tiếp tục cuộc dành dựt chén cơm
manh áo.

Thế mà cái mong ước thật nhỏ nhoi, thật tầm


thường này cũng chẳng có được. Bởi vì hễ thò
mặt vào nhà là y như rằng chị vợ bèn càu nhàu :
- Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua
MỤC LỤC

người ta thế nọ…người ta kiếm tiền như nước,


đem về cho vợ cho con…Còn anh thì lại vô tài
bất tướng…Thật khốn nạn cho cái thân tôi…
Không hiểu kiếp trước tôi vụng dại thế nào, mà
kiếp này lỡ vớ phải một chàng cù lần cù lèo như
anh…

Ngay cả những lúc thân mật nhất, chị vợ cũng


vẫn sẵn sàng rót vào tai anh chồng những lời
nói chua như chanh và cay như ớt hiểm. Ngồi
vào bàn ăn mà mặt mày cứ sụ xuống như bánh
bao chiều hay lầm lầm lì lì làm thành một đống.
Trong tình huống như vậy, làm sao anh chồng
có thể chịu đựng cho thấu.

Nhất là mỗi khi có chuyện bất đồng hay có điều


chi xích mích, mà sự sai lỗi lại nằm trên phần
đất của anh chồng, thì chị vợ liền xả ga, nói cho
bằng thích : nói xiên nói xẹo, nói xỉa nói xóc…Lải
nhải ngày cũng như đêm, bất cứ lúc nào chị vợ
cũng như làu bàu trong miệng một điều gì ấm ức
và bực bội.

Tới nước này, thì anh chồng chỉ có hai cách giải
quyết : một là yên lặng bỏ nhà ra đi dăm bảy
tiếng đồng hồ hay đôi ba ngày, hai là tức nước
MỤC LỤC

vỡ bờ, liền nổi máu yêng hùng thượng cẳng


chân hạ cẳng tay, cho “cái con mẹ mày một trận”
để mà câm miệng lại. Cả hai cách thức giải
quyết trên đều bất lợi cho cá nhân và gia đình.

Cũng xin nói thêm tí chút về độc chiêu đấu tranh


của đờn bà con gái, nhất là của các chị vợ.

Mỗi khi có một yêu cầu nào đó mà xem ra anh


chồng còn chần chừ, lừ khừ không muốn dứt
điểm và xem ra như muốn ngâm kíu thêm, rồi
ngâm tôm luôn…thì chị vợ thường hay tranh đấu
bằng hai phương thế sau đây :

Phương thế tranh đấu thứ nhất là vật mình vật


mẩy rồi nhỏ ra dăm ba giọt nước mắt. Về cái
khoản muớc mắt thì xem ra phe mình không bao
giờ thiếu. Nếu gã là tay “thợ thơ” thì chắc chắn
sẽ phệu ra được một bài ca tụng đôi mắt em là
như một hồ chứa đầy nước, có thể tuôn chảy
bất kỳ lúc nào.

Gã đã từng chứng kiến cảnh hai bà đang ngồi tỉ


tê với nhau và trong câu chuyện, một bà nhắc
tới chị bạn vừa mới qua đời, thế là cả hai bà
cùng mếu máo, bưng mặt khóc rưng rức.
MỤC LỤC

Ở một đám tang, mấy bà con dâu ngồi canh xác


mẹ chồng, đang chuyện trò vui như tết, bỗng
ngoài sân có tiếng chó sủa và mấy người khách
bước vào, thế là anh lê hấp, lập tức mấy bà con
dâu liền tru trếu, nghẹn ngào nấc lên từng cơn
mà thương tiếc cho công đức của mẹ chồng.

Nếu chẳng may hồ vị bể đập, nước đổ xuống


gây nên cơn lũ, cuốn phăng đi mọi sự. Cũng
vậy, một khi nước mắt chị vợ đã vãi ra, thì cũng
sẽ làm tan béng mất cái dũng khí đờn ông,
khiến cho anh chồng hóa nên mềm nhũn như
con chi chi. Bảo cái gì cũng ừ. Nói cái gì cũng
gật. Bởi vì chỉ còn là :
- Chìu thôi…chìu thôi.
Suy gẫm về những giọt nước mắt của đờn bà
con gái, người La mã thời xưa đã phải ngán
ngẩm mà thốt lên rằng :
- Nước mắt của đờn bà thường ẩn chứa những
âm mưu toan tính.
Còn dân Ăng lê thì bảo :
- Trên đời này không có gì mau khô cho bằng
nước mắt đờn bà.
- Mưa ban sáng và nước mắt đờn bà thì chẳng
mấy chốc mà ráo.
MỤC LỤC

Phương thế thứ hai đó là áp dụng chiến thật bất


bạo động, bất hợp của ngài Gandhi. Không phải
chỉ tam không, mà còn tới thất bát cửu không ấy
chứ.

Này nhé, không nói không rằng, không cười


không hỏi, không làm không lụng…thậm chí cả
đến lúc leo lên giường cũng không thèm quay
mặt ra, mà chỉ “tôi nhìn tôi trên vách”. Đến cái
nước này thì thử hỏi bố anh chồng nào chịu nổi.

Có một chị vợ kia đã hiên ngang và anh dũng


tuyên bố với anh chồng của mình như sau :
- Liệu anh có thể chịu đựng nổi sự lạnh lùng của
tôi không đấy hử ?
Và thế là anh chồng bèn phải xuống ngựa làm
một màn năn nỉ ỉ ôi, suýt gẫy cả lưỡi, để rồi yêu
sách nào cũng giải quyết, đòi hỏi nào cũng thỏa
mãn. Và anh chồng ấy đã vuốt chòm râu lún
phún và nhủ thầm :
- Mình nhịn vợ mình chứ có nhịn vợ thiên hạ đâu
mà sợ.
Tiếp đến là chuyện tiền nong và chi tiêu. Chúng
ta thường bảo :
- Có thực mới vực được đạo.
Tiền bạc tuy là của phù vân giả trá, nhưng lại rất
MỤC LỤC

cần thiết để bảo đảm cho một cuộc sống được


ấm no và hạnh phúc.
Hơn thế nữa, người xưa cũng thường bảo :
- Lấy vàng nhử đờn bà, lấy đờn bà nhử đờn ông
và lấy đờn ông để làm ra vàng.
Phần đông đờn bà con gái đều thích vàng, thích
hột soàn…nói chung là thích tiền :
- Có ăn thiếp ở cùng chàng,
Không ăn thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui.
- Ví dầu tình có dở dang,
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp về.

Theo gã nghĩ :
- Tiền bạc là do công lao vất vả, mồ hôi nước
mắt của mọi người, nên nó phải được tiêu dùng
chung, nhằm bảo đảm những tiện nghi tối thiểu,
chứ không được phép tiêu xài hoang phí cho
riêng mình.

Trong hầu hết các gia đình, thì chị vợ thường


được trao cho chân thủ quĩ để quản lý tiền bạc
chi tiêu. Đang lúc anh chồng lo quần quật làm
lụng đem tiền về cho gia đình, thì chị vợ sẽ lo
quán xuyến, nên phải biết chi tiêu cho hợp tình
và hợp lý. Với chức vụ thủ quĩ và quản lý, các
chị vợ thường mắc phải hai thái cực sau đây.
MỤC LỤC

Thái cực thứ nhất đó là quá hà tiện và keo kiệt,


mặc dù không đến độ vắt cù chày ra nước, rán
sành ra mỡ, đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà
mót hạt tấm, nhưng rất sẻn so trong việc chi
tiêu, ngay cả những chi tiêu chính đáng, chẳng
hạn như không dám mua thức ăn, nên chi bữa
nào cũng chỉ là cà ghém mắm tôm và canh cua
rau đay…rồi thì lại canh cua rau đay, mắm tôm
và cà ghém…

Thái cực thứ hai đó là quá hoang phí, theo kiểu


con nhà lính tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài,
nghèo mà lại thích xài sang. Lương tháng anh
chồng ba cọc ba đồng, thế mà chị vợ ở nhà lại
vung tay quá trán, nên suốt đời mang công mắc
nợ. Từ chỗ thiếu hụt, chẳng bao lâu sẽ dẫn tới
chỗ xào xáo lẫn nhau và gia đình cũng…đi
đoong luôn.

Trước hết là hoang phí cho việc may mặc.


Nay bộ này, mai bộ khác. Hôm thì uốn cái đầu,
hôm thì mua cái bóp, ấy là chưa kể tới son phấn
cùng muôn vàn sự lỉnh kỉnh khác nữa. Ở nhà
lắm lúc hạt cơm không có để mà bỏ vào bụng,
những ra đường thì cứ như bà hoàng bà chúa.
MỤC LỤC

Dĩ nhiên gã không chối cãi : đờn bà con gái cần


phải làm đẹp vì làm đẹp cũng là một phương
thế, một nghệ thuật để giữ lấy anh chồng và làm
cho gia đình được ấm cúng.
Gã thấy có những chị vợ khi đã được một hai
nhóc tì là bắt đầu cẩu thả trong việc ăn mặc. Cứ
thử tưởng tượng xem anh chồng đi làm mệt
nhoài, về tới nhà thì liền nhìn thấy chị vợ lem
luốc, đầu bù tóc rối, còn con cái thì bẩn thỉu, thò
lò mũi xanh…Rất có thể chỉ vì sự cẩu thả này,
mà anh chồng đi tìm những an ủi, thoải mái nơi
người khác sạch sẽ, tươm tấp và thơm tho hơn.

Tuy nhiên, làm đẹp không có nghĩa là làm đỏm,


xa xỉ và chạy theo thời trang. Nghệ thuật làm
đẹp mà chị vợ cần phải nắm chắc và thực hiện,
đó là đói cho sạch, rách cho thơm.

Thứ đến là hoang phí cho việc ăn uống.


Nếu mua để cho mọi người cùng xài thì không
sao, nhưng mua để cho mình xài riêng lại là
chuyện khác. Một trong những thói quen, đôi khi
cũng hơi dễ thương một tí, mà đờn bà con gái
thường thích mắc phải đó là cái thói ăn hàng,
xơi quà vặt. Có những cô nường, nhất là phe nữ
MỤC LỤC

sinh kẹp tóc, đã hăng tiết vịt mà phát ngôn :

- Là con gái mà không ăn quà vặt thì không phải


là con gái nữa. Đi chợ mà không ghé hàng quà,
thì dân buôn bán sẽ chết hết.
Tục ngữ ca dao cũng đã tốn khá nhiều lời để
diễn tả về thói tục này như sau :
- Đi chợ,
Đồng bấc thì quên, đồng quà thì nhớ.
Có những chị vợ đã được liệt vào hàng “top ten”
siêu đẳng :
- Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con.
Rồi đưa ra lý do để biện mình cho hành động
của mình :
- Đi chợ mất tám tiền quà,
Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Được nắm hào bào, được quản lý cái ruột
tượng, tức là tiền bạc trong gia đình, nên các chị
vợ ấy rất lấy làm yên chí nhớn mà rằng :
- Đêm nằm thì ngáy o o,
Chửa ra đến chợ đã lo ăn quà,
Hàng bánh, hàng bún bày ra,
Củ từ khoai nướng lẫn hàng cháo kê,
Ăn rồi lại rủ ra về,
Thấy hàng chả nướng lại lê trôn vào,
Chả này bà bán làm sao,
MỤC LỤC

Ba đồng một mớ lẽ nào chẳng xơi…

Có chị vợ không thèm ăn quà vặt, mà lợi dụng


mỗi khi chồng vắng là mẹ mẹ con con xúm xít
bày tiệc tùng bánh trái để xơi cho khoái khầu,
cũng như để tập tành nữ công gia chánh con
gái.

Sau cùng là hoang phí cho bài bạc, đỏ đen.


Trong khi các anh chồng tới nhà máy hay công
sở, thì các chị vợ ở nhà, tụm năm tụm ba, dở bài
cào tứ sắc, hay số đề số đuôi…Thua thì nhiều,
mà được chẳng bao nhiêu. Nếu có được thì
cũng đãi đằng. Tiền chưa kịp nóng tay, thì đã vội
bay hơi lúc nào không biết.

Những hoang phí trong việc chi tiêu như thế,


chắc chắn sẽ tạo nên một lỗ hổng, mà anh
chồng, suốt đời làm thân trâu ngựa, cũng không
thể lấp đầy cho nổi.

Trong phạm vi tiền bạc cũng còn có một sự lợm


cợm khác nữa. Đó là hiện nay vì hoàn cảnh đổi
thay, tại nhiều gia đình, ở Việt Nam và nhất là ở
phương tây, chị vợ cũng phải chen chân ra
ngoài xã hội, kiếm thêm phần thu nhập, từ đó
MỤC LỤC

phát sinh ra những tình huống dở cười dở khóc.

Nếu chị vợ gặt hái được những thành công, tiền


lương có phần trội hơn anh chồng, thì phần
thắng sẽ thuộc về người nắm được nguồn kinh
tế và tài chánh. Và nếu chẳng may, anh chồng
lâm vào cảnh thất nghiệp thì bèn phải cúi đầu
xuống như muông chim và trật tự trong gia
đình sẽ bị đảo lộn :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em đây.
Còn nếu như thu nhập đồng đều, thì tiền ai
người ấy tiêu. Anh chồng có một tài khoản trong
ngân hàng và chị vợ cũng có một tài khoản
khác. Có được tài khoản trong tay, chị vợ bèn
ngước mặt lên, quắc mắt nhìn đời, cảm thấy
như mình được giải phóng và bình đẳng với anh
chồng vì không còn bị lệ thuộc vào kinh tế và tài
chánh nữa.

Từ chỗ bình quyền, chị vợ chỉ cần nhảy thêm


một tí nữa là sẽ tót ngay lên chỗ lộng quyền cái
một. Chỉ tội nghiệp cho con cái khi cần tiền,
chẳng biết ngửa tay xin ai.
Anh chồng hì hục kéo cày và chị vợ cũng hì hục
kéo cày. Con cái không còn được chăm sóc. Gia
MỤC LỤC

đình biến thành quán trọ. Gặp nhau thoáng chốc


rồi đường ai người ấy đi, việc ai người ấy làm.
Thậm chí như cụ chủ nhiệm đã nhận xét :

- Ông một nhà, bà một nhà, con cái có hai nhà


những lại chẳng có được một mái ấm yêu
thương.

Nếu cứ tố khổ như thế, thì không biết tán đến


bao giờ mới hết. Nhưng bằng đó mà thôi cũng
đã đủ khiến cho quí bà quí cô nổi máu tam bành.
Thôi thì lần khác gã sẽ phải làm việc đền tội mà
tố khổ phe ta, phe đờn ông con giai, nhất là
những đấng làm chồng.

Để kết luận, gã xin ghi lại một bài thơ vui mà gã


đã thuổng được ở một tờ báo. Bài thơ mang tựa
đề là : Vợ.

- Vợ là tình cảm sâu xa,


Vợ là gió mát, vợ là bão giông.
Vợ như một đóa hoa hồng,
Vợ là sư tử Hà đông kinh người.
Vợ là êm ái tuyệt vời,
Vợ là bão táp rụng rời chân tay.
Vợ là một chất men say,
MỤC LỤC

Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.


Có người nhờ vợ nên ông,

Nhiều người vì vợ mất không cơ đồ….


Rồi tác giả bài thơ đã kết luận :

- Tốt số lấy được vợ hiền,


Vô duyên vớ phải bà điên, bà khùng.

Đọc xong bài thơ trên, gã cảm thấy như còn


đọng lại trong miệng một vị đăng đắng.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● BỔN ĐẠO...MỚI

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Theo lịch năm thánh hai ngàn, thì trong tháng tư
có hai ngày đáng được lưu ý, đó là Chúa nhật lễ
lá, ngày mười sáu, thánh hóa giới trẻ và Chúa
nhật thứ hai Phục sinh, ngày ba mươi, cầu cho
các tân tòng. Giới trẻ thì đã được nhiều người
chiếu cố, nếu gã có nói thêm thì cũng bằng thừa
vì chỉ lặp lại những cao kiến của thiên hạ, khiến
cho những người dễ tính nhất cũng phải lên
tiếng ca cẩm :

-Biết rồi, khổ lắm, nói mãi.


Thế là đành phải chọn đề tài về tân tòng, được
gọi một cách nôm na là bổn đạo mới. Một đề tài
hơi khô khan và khó nuốt, nhưng một liều thì ba
bảy cũng liều. Đêm nằm “vắt chân lên trán”, lục
lạo trong đầu óc tìm xem có cái gì hay ho để mà
tán hiêu tán vượn, rồi thì phó mặc, đứng ngó
xem “con tạo xoay vần đến đâu” thì đến.

Đi tìm những lý do khiến người ta trở lại, gã xin


ghi nhận mấy lý do sau đây.
Lý do thứ nhất đó là vì khắc khoải muốn đi tìm
chân lý.
MỤC LỤC

Thực vậy, có những người đã từng băn khoăn


với những câu hỏi muôn thuở của kiếp người :
- Tôi từ đâu mà đến ? Tôi sống để làm gì ? Và
rồi tôi sẽ đi về đâu ? Cuộc đời tôi liệu có một cái
gì khác hơn là việc kiến tiền, rồi ăn uống và ngủ
nghỉ hay không ?
Họ mò mẫm trong đêm tối để tìm lời giải đáp. Họ
ghé bến này, họ dừng ở bến kia. Có bến trong
nhưng cũng có bến đục. Họ đến với tôn giáo
này, họ học hỏi nơi tôn giáo kia.

Và sau cùng họ đã tìm thấy phần nào sự thực


nơi đức tin công giáo, để rồi từ đó, họ đã đổi đời,
đã thoát xác và trở nên một con người mới.

Gã được biết một cô bé sống trong gia đình “bên


lương”, nhưng không hiểu do một nguyên nhân
nào thúc đảy, mà ngay từ lúc chưa trưởng thành
là mấy, cô bé đã cảm thấy dường như còn thiếu
một cái gì đó trong cuộc sống của mình. Làm
sao để lấp đầy cái khoảng trống ấy…

Được sự chấp thuận của gia đình, cô bé đã bắt


đầu tìm hiểu về đạo dưới sự hướng dẫn của một
ma xơ. Và sau cùng cô bé đã trở lại. Nhưng
MỤC LỤC

cũng kể từ đó, bản thân cô bé trở nên như một


ngọn đèn dầu leo loét cháy giữa đêm tối, hay
như một chứng nhân âm thầm.

Cuộc sống của cô bé là như một chút men làm


cho những người chung quanh phải cảm phục
với những cử chỉ dịu dàng và những lời nói từ
tốn, hay là như một chút muối mặn ướp cho môi
trường hạn hẹp của mình, không những khỏi
ươn thối mà còn dậy lên hương thơm của sự
thánh thiện. Để rồi một thời gian sau, những
người thân yêu của cô bé cũng đã xin trở lại.

Lý do thứ hai đó là vì gương sáng của người


trong đạo lôi cuốn.
Đúng thế, rất có thể vì đời sống đạo đức và
thánh thiện, rất có thể vì những hành động bác
ái và yêu thương của người trong đạo đã chinh
phục họ, khiến họ có cảm tình với đạo. Và từ
chỗ có cảm tình với đạo, họ bắt đầu học đạo, tin
đạo và theo đạo. Đúng như tục ngữ đã bảo :
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Hay như một câu danh ngôn đã nói :
- Gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn
nhất có sức hấp dẫn và lôi cuốn người ta đến
MỤC LỤC

với Chúa.

Gã xin đưa ra một vài trường hợp điển hình.


Trường hợp thứ nhất đó là một người Tin lành
đã trở lại Công giáo chỉ vì đã nhìn thấy mấy em
nhỏ ở trong nhà thờ. Thái độ trang nghiêm sốt
sắng của các em đã làm cho người Tin lành phải
suy nghĩ :
- Nếu không có Chúa ngự thật trong bí tích
Thánh thể, thì tại sao các em bé này lại trang
nghiêm và sốt sắng như thế ?

Rồi từ đó, người Tin lành đã bắt đầu tìm hiểu


đạo và tin theo đạo.
Trường hợp thứ hai đó là một anh học trò đã trở
lại chỉ vì hành động bác ái của sư phụ mình.
Tại một ngôi làng nọ, có một ông thày dạy võ.
Ngày kia, một anh thanh niên đến xin học. Anh
ta là một người mồ côi, không nhà không cửa và
không cả thân bằng quyến thuộc. Cảm thông
trước hoàn cảnh tang thương ngẫu lục của anh
ta, ông thày đã bằng lòng nhận anh ta làm học
trò, cho ăn ở trong nhà mình và rồi còn gả cô
con gái cưng của mình cho anh ta.

Nhưng rồi thời thế đổi thay.Chiến tranh xảy ra.


MỤC LỤC

Anh học trò đi theo quân giặc. Ngày nọ, anh ta


dẫn bọn phiến loạn về làng. Đốt nhà của ông
thày và giết cả bà vợ của ông thày nữa.

Rất may là chẳng bao lâu, hòa bình trở lại, quân
phiến loạn bị dẹp tan… nhưng anh học trò thì
vẫn còn sống sót. Kể từ ngày mất vợ, ông thày
quyết tìm cho bằng được anh học trò phản phúc
để trả thù cho hả giận. Mọi người trong làng hết
lời khuyên bảo, can ngăn nhưng xem chừng
cũng chả ăn thua gì.

Nhân dịp cấm phòng mùa chay trong giáo xứ,


đích thân cha sở đã đến thăm và “năn nỉ ỉ ôi”, xin
ông thày hãy vì Chúa mà tha thứ cho anh ta.
Ông thày lầm lầm lì lì chẳng nói chẳng rằng. Mãi
sau, ông thày mới bảo :
- Thì cha cứ dẫn tên ấy đến đây.
Và khi anh học trò tới, ông thày sắn tay áo, mắt
long lên còng cọc, hùng hổ nhảy bổ vào anh học
trò, nắm lấy cổ anh ta và quát :
- Mày là đồ đểu, là thằng phản phúc. Tao đã yêu
thương mày, cho mày ăn ở trong nhà tao, dạy
cho mày những ngón võ bí truyền, lại còn gả con
gái tao cho mày, thế mà mày nỡ lòng nào, dẫn
bọn phiến loạn về đốt nhà tao, giết vợ tao…tội
MỤC LỤC

mày thật đáng chết.

Mọi người trong làng đều hồi hộp và sợ hãi theo


dõi những diễn biến, cứ ngỡ rằng ông thày sẽ
giết chết hay ít nữa cho tên học trò phản phúc
này một trận đòn nhừ tử. Cuối cùng, như đã hả
cơn giận, ông thày mới nói :
- Nhưng vì Đức Kitô, tao tha thứ cho mày.
Nói xong, ông thày lẳng lặng bỏ đi và mọi người
đều thở phào nhẹ nhõm. Rồi sau đó, người ta
thấy anh học trò xin học đạo và trong ngày anh
được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì chính ông
thày đã bằng lòng làm người đỡ đầu cho anh ta.

Những người trở lại với hai lý do trên thường


sống đạo một cách nghiêm chỉnh, có khi còn
hơn cả những người vốn vỗ ngực tự xưng mình
là con nhà có đạo từ tấm bé, hay thuộc nòi đạo
dòng nữa. Bởi vì, rất nhiều khi thiên hạ thường
phàn nàn :
- Tin đạo thì tin, nhưng chớ có tin kẻ có đạo nhé.
Sở dĩ như vậy vì cuộc sống của chúng ta, nhưng
người có đạo, cũng chẳng hơn gì thiên hạ, thậm
chí còn bê bối hơn nhiều : Cũng gian tham, cũng
điêu ngoa xảo trá, cũng đèo bòng vợ nọ con kia.
Chúng ta phải làm sao đảo lộn được câu nói
MỤC LỤC

trên, nghĩa là : qua cuộc sống của người có đạo,


thiên hạ sẽ có cảm tình với đạo và từ đó sẽ dễ
dàng tin theo đạo.
Lý do thứ ba đó là vì lợi lộc hay vì sợ hãi.

Gã cũng xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể


và điển hình.
Ngày xưa, khi một ông tổng thống là người công
giáo trên đất nước này, thì đạo được ưu đãi và
dễ dàng. Chính vì thế, nhiều người cũng rắp
ranh theo đạo, để lấy điểm với “xếp nhớn” của
mình, để dễ bề thăng quan tiến chức hay để cầu
xin ơn mưa móc, cũng nhữ để khỏi bị trù dập
cách này hay cách khác…

Nhưng rồi khi ông tổng thống ấy không còn nữa,


người ta cũng sẽ quên đạo và bỏ đạo, thậm chí
còn quay lại chửi đạo nữa, vì dậu đổ bìm leo…
Đạo chỉ là như một chiếc áo không còn hợp thời
trang nữa nên phải sẵn sàng cởi bỏ để tìm kiêm
một chiếc áo khác “mô đen” hơn…Khuôn măt
của họ là khuôn mặt của những kẻ đón gió trở
cờ. Gió chiều nào phe phẩy theo chiều ấy.
Không lập trường, không xác tín, không niềm tin.

Cũng ngày xưa, khi tới giảng đạo ở nơi nào, các
MỤC LỤC

vị thừa sai thường cố gắng nâng cao dân trí,


đem ánh sáng văn minh đến với những vùng đất
còn ngồi trong tăm tối. Bao lâu còn viện trợ, còn
được giúp đỡ bằng vật chất thì còn theo đạo và
giữ đạo.
Chính vì thế, một số người đã hiểu lầm những
hành động bác ái kể trên : Đi đạo để có gạo mà
ăn và khi hết gạo thì cũng thôi đạo.

Có người đã đến gặp cha sở và thẳng thừng đặt


câu hỏi :
- Nếu cha cho gạo…Nếu cha cấp đất…thì tui và
gia đình tui xin theo đạo liền à.
Theo đạo kiểu này cũng chẳng khác gì đặt tình
yêu trên nền tảng tiền tài vật chất, theo kiểu “hết
cơm thiếp tếch, cơ hàn thiếp lui”, hay như tục
ngữ đã diễn tả :

- Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử.


Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.

Sau cùng, lý do thứ tư đó là vì hôn nhân, vì tình


yêu.
Đây là chuyện chúng ta gặp phải nhiều nhất
trong đời thường. Cũng dễ hiểu mà thôi.
Đọc lại Kinh thánh gã thấy : đầu tiên Thượng đế
MỤC LỤC

đã dựng nên Adong. Khi thấy Adong cu ky, vò


võ một mình, Ngài liền động lòng thương và tự
nhủ :

- Ta sẽ dựng nên cho nó một người nội trợ giống


như nó.
Nói thế rồi, lợi dụng lúc Adong ngủ say, Thượng
đế đã lấy một chiếc xương sườn của ông mà
dựng nên Evà. Sau đó, Ngài dẫn bà tới trình
diện ông. Thoạt nhìn thấy bà, mắt ông đã bừng
sáng và hớn hở kêu lên :

-Mình ơi !
Sở dĩ gã xử dụng hai tiếng “mình ơi”, bởi vì hai
tiếng này đã diễn tả rất đúng tư tưởng của sách
Sáng thế ký :
-Này đây xương bởi xương tôi và thịt tôi…Vì thế,
người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mình để kết hợp với
vợ mình và cả hai đã trở nên một xương một
thịt.
Và Chúa Giêsu còn thêm :
-Vậy sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không
được phân ly.
Cũng trong chiều hướng này, tục ngữ Việt Nam
đã diễn tả rất đúng khi bảo :
- Mình với ta tuy hai mà một,
MỤC LỤC

Ta với mình tuy một mà hai.

Đã là vợ chồng thì phải cố gắng trở nên một,


không phải chỉ nơi thân xác, mà còn cả trong
tâm hồn nữa. Và trong phạm vi tâm hồn, trong
phạm vi tư tưởng, thì niềm tin và tôn giáo cũng
đóng một vai trò rất quan trọng.

Thực vậy, rất khó mà nên một nếu người này


thờ Phật, còn người kia lại thờ Chúa. Rất khó
mà nên một nếu người này đi chùa, còn người
kia lại đi nhà thờ. Rất khó mà nên một nếu
người này tin vào điều mà người kia lại cho là
nhảm nhí.

Rồi một mai, khi đã có con cái, sự khác biệt về


tôn giáo sẽ gây nên những khó khăn trong việc
giáo dục. Bố bảo một đằng, mẹ dạy một nẻo, với
đầu óc còn non nớt, đứa con sẽ chẳng biết
đường nào mà lần…thành thử đứng ở giữa thì
bị…chết chẹt.

Vì thế, ngày xưa Giáo Hội có vẻ khắt khe về


chuyện hôn nhân khác đạo. Chỉ ban phép chuẩn
trong những trường hợp bất khả kháng. Còn
hôm nay, thái độ của Giáo Hội tương đối rộng
MỤC LỤC

rãi hơn, nhưng vẫn khuyến khích đôi hôn phối


phải lo liệu và bàn định trước với nhau để có
được một sự nhất trí trong đời sống vợ chồng,
cũng như trong việc giáo dục con cái…Bởi vì cả
hai phải cố gắng trở nên một. Mình ơi !
Để trở thành “bổn đạo mới”, gã xin tạm chia
thành ba thời kỳ.

Thời kỳ thứ nhất đó là thời kỳ học đạo.


Trong giai đoạn này, xem ra người ta rất ư là
chăm chỉ, chắc hẳn là do động cơ của tình yêu
thúc đảy, bởi vì có học đạo thì mới lấy được
người mình yêu. Hơn nữa, mỗi lần đi học, đều
có người mình yêu tháp tùng, kè kè một bên, thì
ngu gì mà bỏ lỡ những cơ hội chính đáng, có
phép tắc hẳn hoi để mà gặp gỡ và chuyện trò
cùng nhau.
Hồi năm 1978, gã được cha sở nhờ day giáo lý
cho tân tòng. Lúc bấy giờ gã vô cùng “khẩu phục
tâm phục” một anh lơ xe đò đường Saigon-Rạch
giá. Cứ cách một ngày anh ta lại đến học kinh
bổn một lần theo tuyến xe chạy. Nếu hôm nay,
xe từ Rạch giá lên Saigon thì anh ta nghỉ, bởi vì
xe chạy sớm và nhà thờ thì lại cách xa Rạch giá.
Nhưng hôm sau, xe từ Saigon xuống Rạch giá,
khi đi ngang qua nhà thờ, anh ta sẽ bỏ xe để vô
MỤC LỤC

học, rồi khi học xong, thì đón xe đi tiếp xuống


Rạch giá, để sáng sớm hôm sau trở lên Saigon.
Cứ thế, cứ thế…kéo dài suốt cả một năm trời.
Quả là hết ý.

Ngày xưa, Giáo Hội thường kéo dài thời kỳ học


đạo và người ta phải trải qua những nghi thức
cho từng giai đoạn một. Còn bây giờ, vì công ăn
việc làm, một số người lại muốn đốt giai đoạn,
học tốc hành trong một thời gian thật ngắn, rảo
qua một vòng “bổn dạy những lẽ cần cho được
rỗi linh hồn” mà thôi, rồi phó mặc cho gió muốn
thổi đâu thì thổi.

Vì thế, những lời cắt nghĩa chỉ trợt trạt bên


ngoài, như nước đổ lá khoai hay nước đổ đầu
vịt, chứ chưa thể bén rễ sâu trong tâm hồn, khả
dĩ biến đổi được cuộc sống. Người học còn
đang bỡ ngỡ và chưa thể tiêu hóa nổi những sự
nhiệm màu, thì đã vội vã bước vào thời kỳ thứ
hai, đó là thời kỳ theo đạo.

Nhiều người quan niệm rằng : dẫn được một


một kẻ ngoại đạo trở về cùng Thiên Chúa là một
việc làm đáng khen ngợi và đem lại nhiều công
phúc, nên rửa tội càng nhiều thì càng tốt. Việc
MỤC LỤC

truyền giáo đặt nặng số lương hơn chất lượng,


thành thử học vội học vàng rồi chuẩn bị cho chịu
phép rửa tội ngay. Người lãnh nhận còn lơ mơ,
thậm chí chẳng hiểu gì cũng vui vẻ trở nên…bổn
đạo mới.

Chuyện kể lại rằng :


Ngày xưa, khi người ta còn cử hành rửa tội
bằng cách dìm xuống nước. Một tân tòng nọ, khi
được dìm xuống như thế, cứ nhất quyết giơ một
bàn tay lên khỏi nước. Người ta hỏi anh ta tại
sao lại làm như vậy, anh ta đã trả lời :

- Tôi xin thuộc về Đức Kitô tất cả chỉ trừ bàn tay
này mà thôi , bởi vì tôi vốn có nghề ăn trộm ăn
cắp. Tôi không dìm bàn tay xuống nước vì tôi
muốn xử dụng nó cho nghiệp vụ chuyên môn
của tôi là đi chôm chỉa của thiên hạ.

Chính vì thế mà đã sản xuất ra một thứ bổn đạo


mới “ba rọi”, nửa nạc nửa mỡ, một thứ giáo dân
“dổm”, có tên gọi là kitô hữu nhưng chẳng hề
sống niềm tin kitô giáo của mình. Và thế là
chúng ta bước sang thời kỳ thứ ba, đó là thời kỳ
sống đạo.
MỤC LỤC

Đây mới quả thực là một thời kỳ quan trọng bởi


vì nó sẽ kéo dài bằng tất cả phần đời còn lại của
người bổn đạo mới. Bình thường, nếu chị vợ trở
lại, theo đạo của anh chồng thì việc sống đạo sẽ
dễ dàng, bởi vì người nữ vốn có khuynh hướng
nghiêng chiều về những tâm tôn giáo hơn người
nam, đồng thời được sống trong một môi trường
đã mang sẵn dấu ấn của tôn giáo, như gia đình,
xứ đạo…cùng với sự nhắc nhở của những
người chung quanh, nên ở vào thế triệt buộc,
không sống đạo cũng chẳng được.

Còn nếu anh chồng trở lại, theo đạo của chị vợ
thì việc sống đạo quả là gian nan khốn khó. Bởi
vì sau ngày cưới, chị vợ, mặc dù đã là con nhà
đạo dòng, đạo gốc…cũng phải khăn gói quả
mướp về nhà chồng như cha ông đã dạy :

- Buồm theo lái, gái theo chồng.


Mà môi trường sống bên nhà chồng vốn dĩ đã là
một môi trường bên lương, một môi trường
ngoại đạo, thành thử việc sống đạo gặp phải rất
nhiều khó khăn cho cả hai vợ chồng trẻ, để rồi
cuối cùng, anh chồng cũng chẳng giữ đạo, còn
chị vợ thì cũng mất đạo luôn. Chỉ có chị vợ nào
thánh thiện và kiên vững lắm trong đức tin như
MỤC LỤC

Monica thì mới xoay chuyển được tình hình.

Chuyện kể lại rằng :


Năm 22 tuổi, Monica kết hôn với một người
ngoại đạo tên là Patriciô, một con người vừa cộc
cằn, vừa hung ác. Monica bèn dùng sự hiền hòa
của mình để cảm hóa sự tàn bạo của anh chồng
và tính khí thất thường của bà mẹ vợ. Cuối
cùng, Patriciô đã trở lại được ít lâu trước khi
chết.

Monica sinh được ba người con. Và như chúng


ta đã biết Augustinô là người con đầu lòng. Thế
nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ những
thói hư tật xấu của mình. Ỷ vào trí thông mình,
Augustinô đâm lười biếng. Bị sửa phạt,
Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cả cha mẹ lẫn
thày dạy, rồi từ đó đắm mình trong lạc thú, ăn
chơi và ham hố danh vọng. Ngoài ra còn chạy
theo bè rối Manikê mà chống lại đức tin.

Còn gì đau khổ hơn cho Monica khi thấy đứa


con yêu quí của mình ngày càng lún sâu vào
còn đường tội lỗi, nhưng tin vào tình yêu và sức
mạnh của ơn Chúa, Monica lại càng kiên nhẫn
cầu nguyện và làm việc lành phúc đức. Cuối
MỤC LỤC

cùng, lời cầu nguyện và những giọt nước mắt


của Monica đã đem lại kết quả : Augustinô đã
được ơn trở về cùng Thiên Chúa.

May hơn một tí là anh chồng cắm dùi bên nhà


chị vợ, trong một môi trường có đạo, nhưng
không phải vì thế mà không có những trục trặc.

Thực vậy, nếu những người thân yêu trong gia


đình chị vợ chỉ là những kitô hữu khô khan nguội
lạnh, chỉ biết giữ đạo ở lằn mức tối thiểu chẳng
hạn : đi “xem” lễ một tuần một lần vào ngày chúa
nhật, xưng tội rước lễ một năm một lần vào mùa
phục sinh, thì anh chồng bổn đạo mới này cũng
chỉ là một kitô hữu xoàng xĩnh, mới giữ đạo chứ
chưa sống đạo. Bởi vì giữ được cái lằn mức tối
thiểu này là đã cảm thấy yên ổn lương tâm : vì
ta đây cũng là dân có đạo.

Anh chồng sống bên nhà chị vợ, không ít thì


nhiều cũng mang một mặc cảm tự ti nào đó,
nhất là khi kinh tế gia đình bị thiếu hụt và lâm
vào cảnh nghèo túng. Nếu chị vợ và nhà vợ
không biết đối xứ một cách tế nhị thì thế nào
cũng xảy ra những va chạm, khiến cho anh
chồng chẳng còn thiết tha gì tới vấn đề đạo
MỤC LỤC

nghĩa cả.

Đây là một chuyện hoàn toàn có thật mà bản


thân gã đã từng chứng kiến. Anh chồng bổn đạo
mới sống bên nhà vợ và bên nhà vợ cũng chẳng
sốt sắng gì cho lắm.

Gia đình túng thiếu phải kiếm ăn từng ngày. Thế


rồi một bữa nọ, cuộc cãi vã với bố mẹ vợ xảy ra
và thế là cả gia đình bên vợ xúm lại “chửi hội
đồng”. Một mình anh chồng, như người hùng cô
đơn, chẳng thể địch nổi mồm mép của mấy bà
chị và của mấy cô em vợ.

Tức quá chịu không nổi, anh chồng liền vác giấy
bút ngồi xuống và hí hoáy viết một chặp, rồi hối
hả chạy thẳng lên nhà xứ, đòi gặp cho bằng
được cha sở để…nộp đơn. Đơn xin…nghỉ đạo.
Cha sở nhìn anh ta rồi hỏi :
- Tại sao con lại làm đơn xin…nghỉ đạo.
Anh ta trả lời :
- Trước kia, con đã làm đơn xin theo đạo, thì bây
giờ vì không chịu nổi người có đạo nữa, nên con
làm đơn xin nghỉ đạo. Đơn giản chỉ có vậy mà
thôi.
MỤC LỤC

Bi đát hơn nữa là có những anh chồng một khi


đã ẵm được cô vợ, bèn đánh bài…”lờ tít”, ngay
cả lằn mức tối thiểu cũng chẳng thèm giữ, ơn
Chúa xin trả lại cho Chúa, chuyện đời này lo
chưa xong, hơi sức đâu mà ngó ngàng đến
chuyện đời sau, như thiên hạ vốn thường diễn tả
:
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Con mà được vợ, con thôi nhà thờ.
Như thế, đời sống đạo đức và thánh thiện, bác
ái và yêu thương của chị vợ, cũng như của gia
đình bên vợ, rất cần thiết cho việc nuôi dưỡng
đức tin còn non trẻ của anh chồng bổn đạo mới,
bởi vì như trên gã đã nói :
- Lời nói thoảng bay, gương bày lôi kéo.

Chính những chứng tá bằng việc làm, bằng đời


sống của người có đạo mới có được một sức
mạnh cuốn hút người ta đến cùng Chúa.

Để kết luận, gã xin mượn lại ý tưởng đã viết ở


trên, đó là :

- Hãy sống thế nào để qua cuộc sống của


người có đạo, kẻ ngoại đạo sẽ cảm phục và
tìn đường trở về cùng Chúa, chứ đừng như
MỤC LỤC

thiên hạ đã bảo : Tin đạo, chứ đừng tin kẻ có


đạo.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● NGƯỜI MẸ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Mỗi khi tán hươu tán vượn xong một mẩu
chuyện phiếm, bao giờ gã cũng tự thưởng cho
mình một điếu thuốc lào. Sau đó, bèn đưa cho
mấy đứa em đọc thử để hy vọng nhận được
mấy lời khen cho phổng mũi, chứ mèo khen
mèo dài đuôi, mình cứ khen và tự khen mãi thấy
cũng… kỳ.

Tuy nhiên, hễ bài nào đụng tới đờn bà, thì lập
tức gã liền bị cô em gái lườm nguýt hay trề môi
ra chê bai mà phán :

- Anh chỉ được cái nước “bôi bác” phe kẹp tóc
mà thôi. Liệu hồn đấy, em còn để tội cho đó…
Còn cụ chủ nhiệm thì nghĩ thầm trong bụng :
- Cái lão này hễ mở mồn ra là nói xấu phái đẹp.
Và có lần cụ còn tống đạt cho một cái nghị quyết
xanh dờn :

- Liệu mà bốc thơm dân liễu yếu đào tơ đi nhé,


bằng không thì mỗi khi vác mặt ra ngoài đường,
chắc chắn sẽ bị bọn họ xúm lại mà vặt hết râu
đấy con ạ.
MỤC LỤC

Nhiều lần gã đã đã buộc chỉ cổ tay, thề “mí” đầu


gối rằng thì là sẽ không bao giờ bốc thối nữa,
nhưng sẽ học theo thói ga lăng của dân “Phăng
xe, chính hiệu con gà trống Gô loa” mà hết lời ca
tụng quí bà và quí chị, quí cô và quí nường.

Nhưng rồi vẫn chứng nào tật nấy, chó đen vẫn
giữ mực, mèo vẫn hoàn mèo mà thôi. Hay như
Nguyễn Du trong truyện Kiều đã viết :
- Rằng hư quen thói đi rồi…
Biết lỗi của mình, vì thế hôm nay gã sẽ làm một
quả “tôn vinh mẹ hiền” để đền tội, bởi vì ngày
thứ tư, 31 tháng 5, sẽ là ngày thánh hóa người
mẹ.
Sự thực thì gã cũng hơi bực bội và hờn ghen với
quí bà quí cô vì xã hội này đã đối xử bất công
với phe mày râu, đực rựa như gã.

Số là bên đông cũng như bên tây đều có tập tục


nhớ ơn mẹ hiền, rồi lại còn dành hẳn ngày 8
tháng 3 để mà “xông hương” cho nữ giới. Sao
mà gã sợ cái ngày 8 tháng 3 đến thế. Xuống phố
hôm ấy, thấy đờn bà con gái, người nào cũng
như người nấy, cái bản mặt cứ nghênh nghênh,
làm như là phe ta đang thừa thắng xông lên,
MỤC LỤC

thấy mà dễ ghét tệ, đâu có còn dịu dàng duyên


dáng như những ngày thường nữa.

Khốn khổ cho các ông chồng, ngày hôm ấy chịu


khó chui vào bếp mà nấu nướng, rồi thì hãy bắt
chước Tú Xương mà “vuốt râu nịnh vợ con bu
nó”.

Trong khi đó, phe đực rựa với thiên chức làm
chồng, làm cha, nhưng thực chất chỉ là làm thân
trâu ngựa, nai lưng ra mà kéo cày, đổ mồ hôi sôi
nước mắt, để kiếm tí tiền còm, đem về chén
cơm, bát gạo và manh áo hầu nuôi sống gia
đình…

Nhất là cho quí bà quí cô có phương tiện đi uốn


cái tóc, sửa cái mũi, sơn cái móng chân, o cái
móng tay, may cái quần, sắm cái váy… ấy thế
mà chả được ma nào nhớ tới, nói chi đến việc
ca ngợi đức ông chồng hay nhớ ơn cha… già.

Trở lại với đề tài hôm nay, đó là tôn vinh mẹ


hiền. Bên đông phương, cứ vào rằm tháng bảy
âm lịch, anh em Phật giáo cử hành lễ Vu lan,
khởi đầu cho mùa báo hiếu và tưởng nhớ công
ơn người mẹ.
MỤC LỤC

Theo ”Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển”


của Trịnh văn Thanh :
“Mục Liên, tức là Mục Kiều Liên, tên một vị bồ
tát, đệ tử của Đức Phật. Mục Liên vốn là một
người con có hiếu. Mặc dù đã tu thành chánh
quả, nhưng khi thấy người mẹ của mình, vì mắc
phải nhiều sai lỗi, chẳng hạn như luôn chê bai
các vị tăng ni và xúi dục người khác vi phạm
những giới cấm, nên đã bị đày xuống ngục A Tỳ,
phải chịu cực hình đói khát và ngồi trên chông
sắt. Hễ bà ăn hay uống thứ gì, thì tất cả đều
cháy thành lửa.

“Mục Liên nhờ gậy phép và bồn bát của Phật


Quan Âm mà xuống tận cõi âm ty để cứu mẹ
thoát khỏi cảnh cực hình, khuyên nhủ mẹ ăn năn
hối lỗi, một lòng tu niệm. Nhờ đó, mẹ của Mục
Liên cũng đắc quả.

Chính vì thế, rằm tháng bảy, ngày lễ Vu lan hay


ngày lễ Trung nguyên, không phải chỉ là một dịp
để người ta cúng cô hồn, tức là cầu nguyện cho
những người mồ côi đã chết vất vưởng, không
được một ai tưởng nhớ đến, mà còn là một dịp
để con cái báo đáp công ơn mẹ cha bằng cách
MỤC LỤC

làm việc lành, cầu nguyện cho mẹ cha được


sống lâu, không mắc phải cảnh đau ốm khổ não
và cả ông bà bảy đời được thoát khỏi cõi âm ty
mà về cõi Phật…

- Mục Liên dù đã hóa thân,


Vì thương từ mẫu muôn phần họa tai.
Bên tây phương, người ta cũng đã chọn Chúa
nhật thứ hai trong tháng năm làm ngày lễ nhớ
ơn mẹ hiền, tiếng phăng xe thì gọi là “Fête des
Mères”, còn tiếng ăng lê thì gọi là “Mother’s
day”.

Theo Thượng tọa Thích Nhất Hạnh trong cuốn


“Bông hồng cài áo” thì vào ngày này, con cái tỏ
lòng biết ơn đối với người mẹ bằng cách tặng
quà và tổ chức bữa cơm thân mật để chúc
mừng người mẹ.

Riêng những ai mà người mẹ còn sống, thì khi


ra đường sẽ được cài một bông hồng màu trắng
trên áo, để chỉ người ấy vẫn còn giữ được một
kho tàng quí giá nhất, đó là tình yêu của người
mẹ, vẫn còn có một nơi ẩn náu an toàn nhất, đó
là trái tim của người mẹ…
Ngày xửa ngày xưa có hai vợ chồng trẻ đang
MỤC LỤC

sống yên ổn trong một mái ấm ngập tràn yêu


thương và hạnh phúc. Họ đã đặt tình yêu và gia
đình của họ dưới sự bảo trợ của đức Maria.

Nhưng rồi một năm kia, mưa to và gió lớn. Mực


nước dâng lên thật nhanh và tạo thành một cơn
lũ khủng khiếp, như chưa từng xảy ra như thế
bao giờ. Nhà của họ nằm trên một ngọn đồi,
nhưng rồi ngọn đồi cũng bị ngập sâu dưới dòng
nước.
Hai vợ chồng thay nhau bồng ẵm đứa con và
trèo lên mái nhà, nhưng rồi mái nhà của họ cũng
bị dòng nước nhận chìm. Bấy giờ người chồng
nói với vợ :
-Mình hãy ôm chặt thằng nhỏ và ngồi cho vững
trên đôi vai của anh.
Người vợ vội vàng làm theo. Đôi mắt chị long
lanh những giọt lệ và cõi lòng chị đớn đau tê tái.
Chị ngồi trên vai và hai chân bắt chéo trước
ngực chồng trong một tư thế thật vững vàng.
Nhưng rồi nước vẫn cứ dâng lên, dâng lên mãi.

Bấy giờ, chị nói với đứa bé rằng :


- Con hãy ngồi thật chắc trên đôi vai của mẹ. Giã
từ con, nhưng con đừng bao giờ quên rằng cha
và mẹ luôn yêu thương con nhé.
MỤC LỤC

Chị không thể nói thêm được một lời nào nữa vì
nước đã dâng lên tràn vào miệng. Và sau cùng,
nước đã trắng xóa cả một vùng bao la, chỉ còn
khuôn mặt của đứa bé là nhô lên khỏi mặt nước
với những lọn tóc đen mà thôi.

Lúc bấy giờ, Đức Maria đi ngang qua, nhìn thấy


lọn tóc đen của đứa bé, Ngài thầm nghĩ :
- Đứa bé này thuộc về Ta vì mẹ nó đã dâng nó
cho Ta.
Khi giơ tay kéo đứa bé lên, Ngài vô cùng ngạc
nhiên vì thấy cha và mẹ của đứa bé đã chết để
cho nó được sống. Ngài khẽ nói :
- Ôi, Thiên Chúa đã làm biết bao nhiêu sự kỳ
diệu trên mặt đất này.
Và rồi, Ngài đã đưa cả ba người về thiên đàng
trong nếp áo choàng của Ngài.
Từ câu chuyện trên, gã cũng có thể xác quyết :
- Trong những điều tuyệt vời Thiên Chúa đã tạo
nên, thì trái tim người mẹ chính là điều tuyệt vời
nhất.
Tại một viện mồ côi, người ta đã làm một thí
nghiệm như thế này, đó là trong phòng nuôi
những em nhỏ mới chào đời, người ta đã lắp đặt
một hệ thống âm thanh phát ra những tiếng đập
nhè nhẹ, như tiếng đập của trái tim người mẹ và
MỤC LỤC

người ta đã ghi nhận : từ khi có những tiếng đập


nhè nhẹ ấy, những em nhỏ ăn nhiều hơn, ngủ kỹ
hơn và tăng trọng mau hơn…

Điều đó muốn nói lên rằng vai trò của người mẹ


thật là quan trọng. Thực vậy, để có mặt trong
cuộc đời, mỗi người chúng ta cần phải có ba má
như tục ngữ đã bảo :
- Con có cha có mẹ,
Không ai ở lỗ nẻ mà lên.
- Có cây mới có giây leo,
Có cột có kèo, mới có đòn tay.

Tuy nhiên, có mặt trong cuộc đời mà thôi chưa


đủ, chúng ta còn cần phải được tăng trưởng,
còn cần phải được lớn lên, còn cần phải được
phát triển về thể xác cũng như tinh thần.

Để giúp chúng ta tăng trưởng, lớn lên và phát


triển như thế, không thể thiếu vắng những đóng
góp to lớn của người mẹ.
- Con có mẹ, như bẹ ấp măng.
Làm sao chúng ta có thể kể hết những công lao,
những hy sinh người mẹ đã phải chịu vì chúng
ta suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,
rồi nuôi dưỡng và dạy bảo chúng ta cho tới ngày
MỤC LỤC

hôm nay.
- Chim trời ai dễ đếm lông,
Nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày.
- Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công ơn mẫu từ.
Trước hết là công ơn nuôi dưỡng của người mẹ,
tục ngữ ca dao Việt Nam đã viết :
- Cha sinh không tầy mẹ dưỡng.
- Có má ở nhà mới có cá mà ăn.
- Có con phải khổ vì con.
- Con biết nói, mẹ hói đầu.
- Con lên ba, mẹ sa xương sườn,
- Con biết ngồi, mẹ rời tay.
Tiếp đến là công ơn dạy bảo :
- Mẹ dạy thì con khéo,
Bố day thì con khôn.
Vì yêu thương mà người mẹ đã dạy bảo, cốt để
cho chúng ta nên người như lời một câu danh
ngôn :
- Người mẹ dù có đánh mắng, nhưng sau đó liền
hôn lên vết đánh ấy.

Người mẹ có thể thức trắng đêm để chăm sóc


cho đứa con đau yếu. Người mẹ có thể hy sinh
chính bản thân mình để cho đứa con được
sống.
MỤC LỤC

Một trận động đất xảy ra. Toàn bộ ngôi làng biến
thành đống gạch vụn. Người ta đã dùng mọi
phương tiện, mọi khả năng để tìm kiếm những
người còn sống sót. Trong số những người còn
sống sót ấy có hai mẹ con được móc lên từ
chốn đổ nát. Sau khi được cấp cứu và hồi sức,
người mẹ đã kể lại như sau :
- Lúc bấy giờ, hai mẹ con tôi đang đứng trong
góc bếp. Tòa nhà sụp đổ. Rất may chúng tôi đã
không bị dè bẹp. Không gian chỉ là một khoảng
rất nhỏ và thức ăn chỉ còn lại một hộp mứt. Sau
khi con tôi đã ăn hết hộp mứt, nó vẫn còn đói và
khóc lóc đòi ăn thêm. Thế là tôi bèn nhặt một
mảnh kính vỡ, cứa đầu ngón tay rồi đút vào
miệng nó. Hy vọng nhờ những giọt máu của tôi
mà nó sẽ được sống sót. Rồi tôi ngất đi lúc nào
cũng không hay cho tới khi được cứu thoát.
Người ta bèn hỏi bà :
- Tại sao bà lại làm được một hành động can
đảm như thế ?
Bà trả lời :
- Trong giây phút kinh hoàng ấy, tôi chỉ có một ý
nghĩ duy nhất, đó là phải làm tất cả cho con tôi
được sống.
Trước công ơn trời biển như thế của mẹ hiền,
đạo làm con là phải thảo hiếu. Sự thảo hiếu này
MỤC LỤC

được biểu lộ qua thái độ vâng lời, trọng kính và


giúp đỡ, nhất là khi người mẹ đã già yếu và túng
quẫn :

- Con không chê mẹ khó,


Chó không chê chủ nghèo.

Và trong cuộc sống, gã đã từng nhìn thấy biết


bao nhiêu người con đã sống trọn đạo hiếu đối
với cha mẹ mình. Thật đáng bái phục. Là người
Việt Nam, ai trong chúng ta lại không biết đến
tác phẩm “Nhị thập tứ hiếu” viết về hai mươi bốn
người con có hiếu, là như những mẫu gương để
chúng ta noi theo và bắt chước.

Tướng Cariolan buồn rầu bỏ thành Roma đi theo


quân địch vì những kẻ đồng hương tỏ ra vô ơn
đối với ông. Khi hay tin ông đem quân về vây
hâm thành và tìm cách tiêu diệt mọi người, dân
chúng vô cùng khiếp sợ. Họ cử một phái đoàn đi
thương thuyết nhưng không được ông tiếp. Họ
tổ chức một cuộc kiệu rước các thần minh đến
gần doanh trại của ông để cầu xin sự bình an,
nhưng ông vẫn cứ một mực làm ngơ.

Sau cùng, họ đành phải nhờ tới bà mẹ già của


MỤC LỤC

ông. Nhìn thấy mẹ từ xa, ông liền chạy ra ôm lấy


mẹ. Thế nhưng bà buồn sầu nói với con :
- Con biết lòng mẹ yêu con như thế nào hay
không ? Chẳng lẽ con định giết các em và cả vợ
con của con sao ?
Ông liền nói với mẹ :
- Mẹ đã thắng con rồi. Vâng lời mẹ, con sẽ rút
quân và dân thành Roma được giải thoát, nhưng
mẹ sẽ mất con mãi mãi.

Đúng thế, sau khi rút quân, ông đã bị kẻ địch


giết chết vì họ cho rằng ông đã phản bội.
Tuy nhiên, cũng không thiếu gì những đứa con,
một khi đã thành đạt thì bỗng quên đi công ơn
của người mẹ, để rồi có những thái độ khinh bỉ
và hất hủi.

Bà mẹ đang cặm cụi làm cỏ ruộng phía sau nhà,


bỗng rụng rời tay chân khi nhìn thấy một cột khói
bốc lên cao. Hốt hoảng, bà vội chạy về, băng
qua ngọn lửa vào nhà và ẵm lấy đứa con nhỏ
của mình đang nằm trong nôi. Cứu được đứa
con, nhưng bà lại bị phỏng nặng. Vết phỏng đã
làm cho khuôn mặt của bà trở thành nhăn nheo
và xấu xí…
Đứa bé lớn lên. Trở thành một cô gái xinh đẹp
MỤC LỤC

và được gửi học trên thành phố. Ngày kia, bà


mẹ lặn lội từ quê lên, ghé vô trường giữa lúc cô
gái đang chơi đùa với bè bạn trong sân.

Nghe nói có người tới thăm, cô bé vội xuống


phòng khách. Nhìn thấy mẹ, cô bé sa xầm nét
mặt và nói như quát tháo :
- Bà đừng đến đây thăm tôi nữa, bởi vì tôi không
thể nào chịu đựng nổi một người mẹ xấu xa và
ghê tởm như bà.

Bà mẹ âm thầm ra về, nhưng hàng tháng vẫn


gửi tiền lên cho con ăn học. Phải chăng tình yêu
của người mẹ thì không bao giờ mệt mỏi.
Nhiều khi chỉ vì quá thương con mà người mẹ đi
tới chỗ cưng chiều và làm cho con hư hỏng.
Trên báo “Phụ nữ chủ nhật”, một người chị đã
tâm sự như sau :
“…Bây giờ thì thằng em của tôi đã ngồi tù và nó
còn phải ngồi tù hơn 10 năm nữa mới hết án.
Theo tôi nghĩ, lỗi của nó chỉ một phần, mà chính
là lỗi của ba mẹ tôi. Ngay từ hồi còn nhỏ, nó đã
được muông chiều quá trớn. Nó đòi gì được
nấy…sống như một ông hoàng. Rồi nó được
sắm xe gắn máy khi học đến lớp chín và thế là
nó bỏ học, từ đó theo bạn bè lêu lổng ăn chơi.
MỤC LỤC

Mới hơn hai mươi tuổi đầu mà nó đã mang trong


người đủ thứ tội : hút chích ma túy, ăn cướp,
hiếp dâm, ngộ sát…Tội thì nó đã gánh, nhưng
lỗi thì do ai ?”

Người mẹ thường gần gũi và hiểu biết con cái


hơn, nên cũng được con cái yêu mến và nhõng
nhẽo hơn. Vì thế, ảnh hưởng của người mẹ
cũng to lớn hơn trong viêc giáo dục uốn nắn con
cái như tục ngữ đã day :
- Phúc đức tại mẫu.
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Nếu người mẹ còn tiền còn bạc thì con cháu
xúm xít lại, bằng không thì chẳng ai thèm ngó
ngàng, thậm chí có những đứa con còn vác đơn
ra tòa để chiếm đoạt ngôi nhà do chính mẹ mình
đã vất vả chắt chiu gầy dựng nên.
Báo Công an có đăng tải một mẩu tin như sau :
Tại Tây ninh, có một bà mẹ khá đông con, song
bà vẫn thích sống cảnh cô đơn trong căn nhà
tranh dột nát. Thảm hại hơn, các con bà còn
kiếm chuyện mắng mỏ đủ điều và tranh chấp với
bà từng ngọn rau tấc đất. Có lần hàng xóm thấy
vậy thương tình đến giúp đỡ thì bị người con gái
của bà nặng lời trách móc.
MỤC LỤC

Trước hoàn cảnh ấy, chính quyền địa phương


đã xây cho bà một căn nhà tình nghĩa vì bà cũng
là mẹ liệt sĩ. Thế là ngay sau đó, vợ chồng
người con gái đã từng ngược đãi mẹ lại làm đơn
gửi cho chính quyền là kể từ nay xin được…nuôi
nấng mẹ già.

Thói đời vốn thường đen bạc, kể cả con cái


trong gia đình như người xưa đã bảo :
- Mẹ giàu con có, mẹ khó con không.
Chẳng những có thái độ vô ơn và bất kính nhất
là khi người mẹ già yếu và nghèo túng, mà hơn
thế nữa, còn đối xử hà khắc, nghiệt ngã với
người mẹ của mình, bắt làm những công việc
nặng nhọc như tục ngữ diễn tả :
- Một mẹ già bằng ba con ở.
Rồi thì quát tháo, chửi bới khi người mẹ hết sức
lao động, không còn làm lụng được gì nữa, hay
chì chiết, day dứt khiến cho người mẹ phải tủi
thân vì cảm thấy mình chỉ còn là một kẻ ăn bám,
một gánh nặng cho con cái.
Vấn đề này đã được tục ngữ Việt Nam nói đến
rất nhiều :
- Một mẹ nuôi được mười con, nhưng mười con
không nuôi được một mẹ.
- Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
MỤC LỤC

Con nuôi mẹ, con kể từng ngày.


- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.
- Mẹ già ở chốn lều tranh,
Đói no chẳng biết, rách lành chẳng hay.
- Mẹ già hết gạo treo niêu,
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.

Nói về những sự vô ơn tệ bạc của con cái đối


với mẹ già thì còn dài dài, nhưng để kết luận, gã
xin ghi lại nơi đây một mẩu tin. Mẩu tin này
mang tựa đề là “Mẹ ăn mày…nuôi con khỏe”,
đại khái như sau :
“Sáng nào cũng vậy, tại một quán bánh canh
nằm trên một con đường giữa trung tâm thị xã
của tỉnh Tây ninh, người ta luôn thấy một bà cụ
già trên tám mươi tuổi, lưng còng, lê bước tới
xin từng bàn khách đang ăn và được nhiều
người thương tình giúp đỡ.

“Thế nhưng, khi bà cụ vừa bước ra khỏi quán,


thì lập tức có một người đàn ông độ khoảng bốn
mươi tuổi đi trên chiếc xe đạp dừng lại bên bà
và bà khó nhọc leo lên xe để tiếp tục cuộc hành
trình đi ăn mày. Được biết người đàn ông khỏe
mạnh ấy chính là con trai của bà.
MỤC LỤC

Người viết mẩu tin này đã bình luận như sau :


“Thiết tưởng, cha mẹ bắt con đi ăn mày đã là
điều đáng lên án, đằng này con cái lại bắt mẹ
già đi ăn xin để nuôi mình thì vô cùng trái đạo.
Những đứa con bất nghĩa này khó tránh được
tiếng đời biếm nhẽ.

Còn gã, gã lại nghĩ hơi khác một tí :


- Tình yêu của người mẹ thì trẻ mãi, không bao
giờ…già. Hơn thế nữa, dưới mắt mẹ hiền, người
con dù đã trưởng thành và khỏe mạnh, thì vẫn
chỉ là một đứa nhỏ, vừa bé bỏng lại vừa yếu ớt
mà bà cần phải chăm sóc và nuôi nấng.

Một cô bé cũng đã phát biểu :


- Nếu Thiên Chúa chỉ ban cho tôi một người mẹ
mà thôi, thì tôi cũng cảm nhận được Ngài tốt
lành biết bao nhiêu, bởi vì đối với tôi, mẹ là kho
tàng quí giá nhất và hạnh phúc thiên đàng chính
là được ngồi dưới chân mẹ hiền.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● VÌ TÔI LÀ LINH MỤC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Theo lịch năm thánh, thì ngày 30 tháng 6 kính
Thánh tâm Chúa Giêsu, cũng là ngày thánh hóa
các linh mục, vì thế gã xin viết đôi điều vun vặt
về chuyện này.

Đối với người Việt nam, đề tài linh mục cho đến
bây giờ vẫn còn là một đề tài lạ lẫm, bởi đó thỉnh
thoảng nó lại được lôi lên sân khấu, nhét vào
phim ảnh hay được những ngòi bút đá động tới,
mỗi lần như thế thì thường gây nên nhiều ấn
tượng, nhiều chú ý và nhiều ồn ào.

Nếu gã nhớ không lầm thì hồi trước giải phóng,


Lệ Hằng, một nhà văn nữ, đã viết cuốn tiểu
thuyết mang tựa đề là “Tóc mây”, nói về cuộc
tình giữa Tố Kim, một cô sinh viên Đà lạt, với Hà
vĩnh Duy (?), một linh mục nhạc sĩ.

Tác phẩm này đã tạo nên một cơn lốc, mà lúc


bấy giờ thiên hạ gọi là “hiện tượng tóc mây”.
Vào thời điểm ấy, gã đang dạy Việt văn tại một
trường trung học hẻo lánh vùng Thất sơn khỉ ho
cò gáy. Các em nhỏ học sinh, nhất là phe kẹp
MỤC LỤC

tóc, đa số là người Phật giáo, thậm chí còn có


cả đôi ba cậu sư Miên, đến tuổi thì vào ở chùa
theo tục lệ, rồi sau đó mới được thả về nhà lấy
vợ…thế mà cũng nhao nhao đòi thuyết trình và
hội thảo về tác phẩm này.

Hình như trước hay sau đó ít lâu, nhạc phẩm “Vì


tôi là linh mục” cũng được ra lò và chiềng làng.
Bài hát này đã gây được một âm vang khá lớn,
thậm chí những lúc buồn tình, các cô gái ngây
thơ cũng chu mỏ và ngay cả các “ma xơ” cũng
mở miệng nghêu ngao :
- Vì tôi là linh mục,
Không mặc chiếc áo dòng,
Nên chi đời đau khổ,
Nên trót đời lang thang…
Hẳn đây là tâm sự buồn của một linh mục lỡ dại
trót yêu một tín đồ duy nhất, nên đã cởi bỏ chiếc
áo chùng thâm mà đi bụi đời ?

Sau giải phóng, hễ nghe có cuốn chuyện nào


viết về linh mục, gã cũng vội vã đi mua hay đi
mượn mang về coi cọp, chẳng hạn như Bão
biển của Chu văn, Người mục tử trong sương
mù…
MỤC LỤC

Lúc đầu thì đọc ngấu đọc nghiến vì tò mò,


nhưng chỉ được dăm bảy trang thì bèn giở quẻ
ngáp dài ngáp vắn, ngáp lên ngáp xuống, ngán
đến tận cần cổ, đành phải cố nhướng mắt mà
nuốt cho hết thế mà nó vẫn chẳng chịu trôi.

Bởi vì, ngay từ những trang đầu gã đã ngửi


thấy sặc sụa mùi bôi bác và đã nhận ra ý đồ đen
tối của những tác giả trong luồng, đó là chụp lên
đầu những vị linh mục tội nghiệp ấy cái mũ phản
động hay cái mũ đồi trụy.

Chính vì những toan tính bẩn thỉu và lộ liễu ấy,


nên những cuốn chuyện này đã mau chóng bị
chìm vào quên lãng, chẳng cuốn hút được người
đọc, thậm chí còn phản tác dụng, khiến thiên hạ
lại càng thương cho…mấy ông cha hơn.

Xét về nguyên do của việc tu trì, thiên hạ thối


mồm thường bảo :
- Trốn việc quan đi ở nhà chùa…Chán đời, hay
thất tình thì đi…tu, bởi vì tu là cõi phúc, tình là
giây…thung.
Và người ta đã khai thác chủ đề này, viết thành
những tác phẩm nổi tiếng, chẳng hạn như “Hồn
bướm mơ tiên”, hay dàn dựng thành những vở
MỤC LỤC

kịch ăn khách, chẳng hạn như “Chuyện tình Lan


và Điệp”
Gã chơi thân với một anh chàng. Anh chàng này
thương một cô nàng, nhưng đây chỉ là một tình
yêu đơn phương, có nghĩa rằng thì là anh chàng
thì thương da thương diết, còn cô nàng thì lại
lạnh lùng, ngoảnh mặt làm ngơ, khiến cho lái tim
của anh chàng cứ héo hắt và quay quắt.
Thế rồi, cô nàng đi lấy chồng, kết tóc xe duyên
với một thằng bạn cùng học chung “mí nhau” từ
thuở còn mặc quần thủng đũng. Lái tim anh
chàng tan nát theo kiểu :
- Ngày nhà em pháo nổ,
Anh cuộn mình trong chăn,
Như con sâu làm tổ,
Trong trái vải cô đơn.
Anh chàng thẫn thờ thờ thẫn như kẻ mất hồn,
lang thang như người cõi trên và miệng thì lảm
nhảm theo giai điệu của bài “Love story” :
- Ôi biết nói gì cuộc tình quá lớn.
Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn
quá.
Cuộc tình lớn quá ôi biết nói gì cuộc tình quá
lớn.
Cuộc tình quá lớn ôi biết nói gì cuộc tình lớn
quá…
MỤC LỤC

Sau cú sốc quá đau vì cuộc tình quá lớn bị vỡ


tung, anh chàng lặng lẽ khăn gói quả mướp, lê
từng bước chân âm thầm vào một nhà dòng và
tu ở đó. Ơn Chúa tuôn đổ. Một thời gian sau,
anh chàng được thụ phong linh mục. Trong ngày
mở tay, cô nàng dắt cháu bé tới và nói :

- Con ạ cha đi con.


Cha mới chớp chớp đôi mắt “mơ huyền” và lãng
đãng nhìn về chốn xa xôi…Bây giờ mỗi khi nhắc
lại chuyện xưa, vị linh mục này thường hay mỉm
cười nói với bè bạn :
- Nếu không bị cô nàng đá lên đá xuống, toạc
đầu xẻ mũi, thì có lẽ mình đã làm bố cụ, chứ đâu
có thèm làm cụ như anh em thấy đó. Chúa chọn
con như sét chọn một cây tầm thường. Quả là ý
Ngài nhiệm màu hết xảy.

Bên đạo chúng ta, lý do “thất tình đi tu” chẳng


phải là không có, nhưng xem ra rất họa hiếm vì
chú nhóc thường vào chủng viện hay nhà dòng
từ hồi nhỏ, tóc còn để chỏm.Thế nhưng, ở cái
thuở “thò lò mũi xanh” ấy, chú nhóc làm sao hiểu
được ơn gọi là đí gì ?
Đơn giản, chú nhóc thích đi tu chỉ vì thấy mấy
“cụ” được đi giày tây, ăn bánh tây và ở nhà tây.
MỤC LỤC

Ra ngoài đường được cả và thiên hạ khoanh tay


cúi đầu chào :
- Con xin phép lạy cha ạ.
Đôi khi cha mẹ muốn cho con cái đi tu chỉ để
sau này chúng được nhàn hạ và hạnh phúc, như
lời phát biểu hăng tiết vịt của bà hiền mẫu nọ với
cha phó kia trong một cuộc hội họp hàng tháng :
- Đi tu như các cha các dì thế mà sướng, chứ
đèo bồng ở ngoài đời như chúng con khổ lắm
cha ạ.

Có chú nhóc đi tu chỉ vì ông già, bà già thầm


mong được mọi người gọi mình là “ông cố”, “bà
cố”. Bởi cái giấc mộng vàng ấy, khi thấy chú
nhóc của mình trở chứng, muốn giã từ đời tu,
một ông “chuẩn cố” đã thẳng thừng nói với “chú
nhà tràng” như sau :
- Thà rằng mày làm con chó nhà Đức Chúa Trời,
còn hơn là làm vương làm tướng ngoài thế gian,
con ạ.

Những lý do “lôm côm” ban đầu này cùng với


năm tháng dần dần được đẽo gọt, được mài
dũa, để rồi kết tinh và cô đọng lại thành cái lý
tưởng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.
MỤC LỤC

Trong thánh lễ mở tay của cha mới, các vị giảng


thuyết thường hùng hổ đến xùi cả bọt mép đề
cao vẻ đẹp tuyệt vời của thiên chức linh mục, ít
ai cả gan dám đề cập tới những thập giá của
tước vị này, khiến cho cha mới chỉ nhìn thấy
bông hồng mà quên đi những gai nhọn của nó.
Với những lời ca ngợi và chúc tụng ấy, ngày mở
tay được coi như là đỉnh vinh quang Taborê của
cha mới, không khéo thì cha mới cũng thưa lên
với Chúa như Phêrô ngày xưa :
- Lạy Thày, chúng con được ở đây thì thích lắm.
Chúng con xin làm ba lều, một cho Thày, một
cho Maisen và một cho Elia.
Thế nhưng, tiệc rượu thì chóng tàn, ngày vui thì
qua mau, vinh quang Taborê chỉ kéo dài trong
thoáng chốc, để rồi tới lúc phải xuống núi và đối
đầu với thập giá đời thường. Và đời thường thì
nhiêu khê, lắm nỗi truân chuyên và nhiều phen
lao đao, xất bất xang bang…
Các bậc lão thành thường đề cập tới ảnh hưởng
của linh mục đối với giáo dân như sau :
- Linh mục thánh thiện thì giáo dân đạo đức.
Linh mục đạo đức thì giáo dân loàng xoàng. Linh
mục loàng xoàng thì giáo dân nguội lạnh. Linh
mục nguội lạnh thì giáo dân xấu xa. Linh mục
xấu xa thì giáo dân biến thành… quỉ dữ.
MỤC LỤC

Như thế, giáo dân bị đánh tụt một bậc so với linh
mục. Đó cũng là điều dễ hiểu bởi vì linh mục là
sư phụ, còn giáo dân là đệ tử về đàng thiêng
liêng. Đệ tử làm sao hơn sư phụ. Linh mục là
người hướng dẫn. Nếu người hướng dẫn mà
mù, thì như lời Chúa đã dạy :

- Mù dẫn mù, cả hai đều lăn tòm xuống hố.


Cùng với những ý tưởng trên, gã nhớ tới một bài
giảng nhân ngày mở tay của một cha mới. Đại
khái như thế này :
“Hãy cột một chiếc nút để xe kết hai đầu giây, đó
là linh mục, bởi vì linh mục xe kết con người với
Thiên Chúa. Hãy xây một cây cầu nối liền hai bờ
bến xa cách, đó là linh mục bởi vì linh mục nối
liền đất với trời. Nói cách khác, linh mục là trung
gian giữa nhân loại và Đấng Tối Cao.

“Vì vậy, một bên linh mục phải nắm chặt lấy bàn
tay Thiên Chúa, còn một bên linh mục phải nắm
chặt lấy bàn tay con người, để rồi đặt bàn tay
con người vào lòng bàn tay của Thiên Chúa, cho
tình yêu được đâm bông kết trái và ơn tha thứ
được trao ban. Chính cái thế tay trong tay này là
điều chúng ta mong mỏi nơi các linh mục.
MỤC LỤC

“Cái thế tay trong tay ấy đòi hỏi linh mục phải
gắn bó với Thiên Chúa đã đành mà con phải
gần gũi với con người. Nếu linh mục rời bỏ một
trong hai bàn tay, không nắm chặt lấy bàn tay
Thiên Chúa hay không nắm chặt lấy bàn tay con
người, lúc bấy giờ linh mục sẽ không chu toàn
chức vụ của mình.

“Phải gắn bó với Thiên Chúa, đó là bổn phận


thứ nhất của linh mục. Thực vậy, nhiệm vụ của
linh mục là không ngừng đem Chúa đến cho mọi
người. Và muốn đem Chúa đến cho mọi người
thì chính bản thân linh mục phải là người có
Chúa trước đã. Có Chúa trong tâm hồn và có
Chúa trong cuộc đời vì linh mục không thể cho
người khác cái mình không có.

“Đức Kitô phải chiếm chỗ nhất trong trái tim linh
mục, phải là thần tượng của linh mục, phải là
điểm khởi đầu và kết thúc của cuộc đời linh mục,
phải là trọng tâm cho mọi hoạt động của linh
mục. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì
cuộc đời của linh mục cũng phải xoay quanh
Đức Kitô như vậy, để rồi linh mục có thể hãnh
diện nói lên như thánh Phaolô : Tôi sống nhưng
không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô
MỤC LỤC

sống trong tôi.

“Tiếp đến linh mục còn phải gần gũi với con
người. Gần gũi với con người bằng cách chia sẻ
những lo lắng, cảm thông những khó khăn và
tận tình giúp đỡ những cần thiết, để rồi từ đó
linh mục sẽ chỉ cho con người nhận ra bàn tay
dịu hiền và trái tim nhân hậu của Thiên Chúa.
“Phải gắn bó với Thiên Chúa nhưng đồng thời
cũng phải gắn bó với con người. Phải nắm chặt
lấy bàn tay Thiên Chúa cũng như phải nắm chặt
lấy bàn tay con người để tạo cho được cái thế
yêu thương tay trong tay.

“Tội lớn nhất của linh mục không phải là đã trót


sa ngã, đã trót vấp phạn, bởi vì Thiên Chúa
không chọn các thiên thần, nhưng đã chọn
những con người tầm thường và yếu đuối làm
linh mục của Ngài. Tội lớn nhất của linh mục, đó
là đã rời bỏ một trong hai bàn tay ấy. Hoặc là đã
quay lưng chống lại Thiên Chúa, hoặc là đã thờ
ơ lạnh nhạt với anh em đồng loại. Lúc bấy giờ,
linh mục chỉ còn là một nhịp cầu đã gẫy, một nút
giây đã đứt hay một người lính đã đào ngũ.
Trong chiến tranh, mục tiêu kẻ thù thường nhắm
tới trước hết để triệt hạ, để phá hủy, chính là
MỤC LỤC

những cây cầu…”

Từ đó, gã không ngạc nhiên khi thấy người ta cố


ý bôi nhọ và bêu rếu các linh mục, bởi vì đó là
mưu thâm chước độc của …”địch”.

Tuy nhiên, không phải chỉ phe địch mới bôi nhọ
và bêu rếu các linh mục, nhiều khi chính con cái
trong nhà cũng đã bạo phổi và mạnh miệng chỉ
trích các linh mục một cách đầy ác ý. Họ luôn
hỏi rằng :
- Linh mục đã làm gì cho tôi ?
Nhưng lại chẳng bao giờ dám nhìn thẳng vào
lương tâm để kiểm điểm xem :

- Tôi đã làm gì cho linh mục.


Hễ thấy linh mục có chút gì sai lỗi thì lập tức liền
xì xầm bàn tán, rồi mím môi mím lợi thổi phồng
bong bóng. Họ đâu có ngờ rằng rất nhiều khi
chính giáo dân đã làm hư linh mục.

Sau đây gã chỉ xin trình bày hai trường hợp, hai
thái cực nho nhỏ, trong đó giáo dân đã xô linh
mục vào chân tường, đã đẩy linh mục tới chỗ
bất ổn hay đã làm hư linh mục.
MỤC LỤC

Trường hợp thứ nhất đó là thái độ quá trọng


kính đến độ khúm núm, coi linh mục như là một
người thông biết mọi sự và chẳng hề sai lỗi bao
giờ. Mới ngày nào bè bạn còn “mày tao chi tớ”
mí nhau, nhưng một khi đã thụ phong linh mục,
từ hòn đất được cất nên ông bụt, thì lập tức
được gọi là cha, là cụ, là cố…khiến cho thiên hạ,
kể cả những người thân yêu nhất, cũng phải
“kính nhi viễn chi”.

Trọng kính linh mục là điều rất tốt, nhưng quá


trọng kính đến độ khúm núm thì lại là điều nguy
hiểm vì nó dễ làm cho linh mục quên đi mình
xuất thân từ một cục đất, mình chỉ là một dụng
cụ tầm thường trong bàn tay Thiên Chúa, đồng
thời luôn mang ảo tưởng mình là một ông bụt,
mình là cái rốn của vũ trụ, rồi từ đó trở thành
quan liêu, độc tài, độc đoán và…mất dạy.

Đọc tới đây, hẳn có người sẽ nghĩ rằng :


- Tên này thật lếu láo, dám cả gan bạo phổi nói
mấy cố mất dạy, thì đúng là hết thuốc chữa.
Bởi đó, gã xin lớn tiếng thanh minh thanh nga
rằng :
- Mất dạy ở đây không có nghĩa là vô phép, hỗn
hào… mà đơn giản chỉ là không còn được dạy
MỤC LỤC

bảo nữa mà thôi.


Nếu hiểu như thế, cộng thêm với một chút suy
nghĩ, chúng ta sẽ nhận ra phần nào sự thật. Đây
cũng là lời khuyên của một bà cố nói với người
con của mình vừa mới đỗ cụ :
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu con không ý
tứ, thì con sẽ trở nên một người mất dạy, bởi vì
với chức linh mục, con sẽ không còn được ai
dạy bảo nữa.

Đúng thế, xuất phát từ quan niệm cho rằng linh


mục là người thông suốt mọi sự, nên trong bối
cảnh của xã hội Việt Nam, linh mục thường phải
kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Từ một
người rao giảng lời Chúa và cử hành các Bí tích
cho đến một người đứng ra hòa giải các vụ
tranh chấp và kiện tụng, làm cố vấn cho các đôi
hôn nhân và các gia đình, làm kỹ sư kiêm đốc
công cho các dự án xây dựng, làm quân sư
quạt mo hướng dẫn bà con về cung cách làm
ăn…Ấy là chưa nói tới những linh mục còn phải
lãnh nhận cả những chức vụ phần đời, như
thành viên của tổ chức này, phần tử của tổ chức
nọ, đứng đầu hợp tác xã hay làm chủ máy cày,
máy xay…
MỤC LỤC

Với những công việc vừa đa dạng, vừa bận rộn


như thế, linh mục rất dễ sao lãng việc sống gắn
bó với Chúa qua những tâm tình cầu nguyện.
Từ việc sao lãng ấy, linh mục không còn nhận ra
sự soi dẫn và chỉ bảo của Chúa nữa, để rồi trở
nên mất dạy dưới cái nhìn xót xa của Chúa.

Tiếp đến, do những thành công gặt hái được và


nhất là do những trọng kính thái quá người ta
dành cho mình, linh mục cứ ngỡ rằng mình là
một bậc thày lỗi lạc, trổi vượt lên trên mọi người,
ý kiến của mình phải luôn luôn đúng…nên dễ
dàng gạt phăng xi lô những ý kiến đóng góp,
những đề nghị xây dựng khi những ý kiến đóng
góp và những đề nghị xây dựng ấy khác với
đường lối chủ trương của mình.

Từ đó, như đã trình bày, linh mục dễ rơi vào tình


trạng độc tài và độc đoán, không còn biết lắng
nghe và đón nhận. Như vậy, phải chăng linh
mục cũng đã làm cho mình dần dần trở nên mất
dạy ?

Ấy là chưa nói đến những trường hợp vì đa


đoan công việc, linh mục sao lãng chuyện tìm
hiểu và trau dồi thêm kiến thức đạo đức, khoa
MỤC LỤC

học, xã hội…qua sách vở, báo chí và những


phương tiện truyền thông khác, để rồi trình độ
mỗi ngày một xuống cấp và không sớm thì muộn
cũng sẽ bị “tụt hậu”.

Trong ngôn ngữ thường ngày, người giáo dân


được gọi là con chiên. Quan niệm này xuất phát
từ Kinh thánh. Chiên ngoan thì phải biết lắng
nghe và vâng phục chủ chăn. Điều đó rất đúng,
nhưng phải làm thế nào để xóa bỏ tính thụ động
của nó, bởi vì người giáo dân hôm nay tương
đối đã trưởng thành, nên cần phải biết chia sẻ
trách nhiệm và góp phần xây dựng tích cực của
mình vào cộng đoàn dân Chúa.

Trường hợp thứ hai là thái độ vô ơn, nghiêm


khắc và thiếu cảm thông của giáo dân đôi khi đã
làm cho linh mục buồn đau đến…rơi cả nước
mắt.

Một trong những nguyên tắc cư xử thông


thường, đó là hãy nghiêm khắc với bản thân mà
khoan dung với người khác. Thế nhưng, thiên
hạ lại hành động ngược với nguyên tắc thông
thường ấy, bằng cách tỏ ra nghiêm khắc với
người khác mà khoan dung với chính bản thân
MỤC LỤC

mình. Quan điểm này cũng được giáo dân áp


dụng vào mối liên hệ với linh mục.

Thiên hạ thường nói : nhân vô thập toàn, đã là


người thì ai cũng có những sai lỗi của mình, kể
cả linh mục vì linh mục cũng mang thân phận
mỏng dòn. Rồi bá nhân bá tánh, năm người
mười ý, bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn. Hay
như tục ngữ cũng đã bảo :
- Ở sao cho vừa lòng người.
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
Béo chê béo trục béo tròn.
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Linh mục được sánh ví như người làm dâu trăm


họ, nên khó có thể làm vừa lòng mọi người và
nếu cố gắng làm vừa lòng mọi người thì rốt cuộc
sẽ chẳng làm vừa lòng một ai.

Giáo dân hay quên mất những công ơn linh mục


đã làm, mà chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của
linh mục để lên tiếng phê bình chỉ trích một cách
gắt gao, rồi dắt díu nhau lên Tòa giám mục, nộp
đơn cho Đức cha hay cho nhà nước mà kiện
tụng linh tinh.
MỤC LỤC

Thưở ban đầu, vùng Cái sắn chỉ là một cánh


đồng hoang với cỏ dại mọc um tùm. Một cha sở
dẫn đoàn chiên của mình tới cắn dùi. Cha sở ấy
bỏ công sức, tiền bạc ra xây dựng, từ nhà thờ,
nhà xứ đến trường học…

Cùng với thời gian, cha sở mỗi ngày một già. Và


đã già thì cũng hay có những sự lẩm cẩm.
Trước những sự lẩm cẩm ấy, người ta đã xì xào
bàn tán, viết thư nặc danh ném vào phòng, hay
tố cáo chỗ này chỗ nọ, chỉ vì cha sở đã già.

Tòa giám mục hay biết liền đổi cha sở đi một nơi
khác. Nhận được tin ấy, người ta mừng rỡ ra
mặt, nhưng vẫn cử đại diện lên gặp Đức giám
mục để xin cho cha sở được ở lại với dáng bộ
rất thiểu não. Thế nhưng, khi được hỏi :
- Bộ các ông đã chẳng muốn cho cha đi hay
sao ?
Một trong những vị đại diện đã trả lời :
- Cha đi mà mình chẳng níu kéo thì coi sao
được. Ôi dào, đời mà.
Nghe câu trả lời này, đến như gã chỉ là một kẻ
hậu sinh mà cũng còn cảm thấy tê tái cõi lòng,
đúng như người xưa đã bảo :
MỤC LỤC

- Bạc như dân, bất nhân như lính.


Bao lâu linh mục còn khỏe mạnh để phục vụ
giáo xứ, thì vẫn là một người cha đáng mến
đáng trọng, nhưng một khi đã đau yếu, đã già
nua và đã là một gánh nặng, thì liền trở nên một
cái gai cần phải nhổ đi. Nói vậy xem ra khí quá,
nhưng trong thực tế, có những sự việc xảy ra
khiến cho gã phải suy nghĩ.

Một cha sở trẻ chẳng may bị ung thư và qua đời.


Việc chạy chữa và mai táng tốn kém khá nhiều.
Tốn kém ấy được chi trả bằng tiền riêng của cha
sở. Vì không đủ nên còn tồn đọng lại một món
nợ. Sau khi cha sở được “mồ yên mả dài”,
người ta đã cãi nhau chí chóe về món nợ này.
Giáo xứ cũng như dòng họ không ai muốn trả
cả. Cuối cùng thì Tòa giám mục đành phải ép
lòng ép xác mà nhận vậy…

Một cha sở trẻ khác vừa mới khánh thành ngôi


nhà thờ cho giáo xứ thì lâm bệnh nặng. Bệnh
nặng chữa không khỏi mà tiền bạc thì lại hao
tốn. Cha sở trẻ nằm dưỡng bệnh ở nhà xứ, rồi
cứ vài tuần phải đi tái khám và mua thuốc uống
tận Saigon. Cứ thế, cứ thế. Lúc đầu chưa có
MỤC LỤC

chuyện gì, nhưng sau một thời gian, những tiếng


eo xèo bắt đầu nảy sinh, mỗi ngày một lớn cộng
thêm với chuyện này chuyện nọ, rồi cuối cùng
cha sở trẻ đã phải khóc mà xin đi hưu…non,
như “con chim ẩn mình chờ chết”.

Có lẽ thấm thía nhất là nỗi cô đơn của linh mục.


Gã nhớ không rõ một tác giả nào đó đã diễn tả :
- Chiều Chúa nhật, mọi người ra về, cửa nhà thờ
khóa lại. Một mình tôi đơn độc trong khu nhà xứ
rộng mênh mông. Thưa chuyện với Chúa, thì
hình như Chúa cũng xa vời. Cuối cùng thì cũng
chỉ vò võ một mình, tôi nhìn tôi trên vách.
Nỗi cô đơn sẽ đậm đặc hơn khi linh mục đau
yếu. Một cha phó đã bật mí cho gã biết như
sau :
- Ngày nọ mình bị đau nhờ chú nhỏ giúp lễ đi tìm
người cạo gió. Nhờ bà này hay cô kia thì không
ổn, bởi vì thiên hạ sẽ bảo rằng đó là chước mốc
ma quỉ. Các bà các cô, hiền thì có hiền, nhưng
đôi khi cũng dữ như sư tử Hà đông. Khi đoàn
“nữ binh mùa thu” này mà đã loan tin bằng chiến
thuật rỉ tai thì còn nhanh hơn cả những máy móc
điện tử hiện đại nhất. Được dặn dò kỹ càng, chú
nhỏ giúp lễ kêu về một ông hàng xóm đang
trong tình trạng say không ra say, xỉn không ra
MỤC LỤC

xỉn, mới xơi đâu được ba xị rượu đế. Mà như


dân ghiền thường bảo : một xị thì mở mang trí
hóa, hai xị thì giải bớt cơn sầu, ba xị thì mũi
chảy đầy râu, bốn xị thì ngồi đâu khóc đó…Vì
được thoa dầu, nên khi cạo gió thân thể mình
đang nóng bừng bừng, thì bỗng dưng cảm thấy
lạnh toát ở xương sống, hóa ra nước mũi của
ông hàng xóm cứ vô tư rơi thánh thót trên tấm
lưng của mình. Lần khác khi giác, ông ấy đã đổ
ụp cả một ống dầu hôi lên người…Nhiều khi
đau ốm, đành âm thầm nằm ngó lên trần mà
xem những con thằn lằn đuổi nhau.

Sau cùng, nỗi cô đơn sẽ đặc quánh khi linh mục


về già. Nhà hưu thì nơi có nơi không. Mà có thì
cũng khá xập xệ. Còn về ở với gia đình, không
phải là không bất tiện. Nếu mình có tí tiền còm
giắt cạp quần, thì con cháu xem ra hăm hở nhiệt
thành. Nhưng khi tiền đã hết, thì tình cũng chấp
cánh bay cao và sự chăm sóc bèn trở thành một
gánh nặng. Có khi chưa chết mà chúng đã vội
chia chác, hay chôm chỉa được cái nào hay cái
ấy.

Mặc dù còn dài, nhưng gã xin “xì tốp” nơi đây


bằng vài mẩu chuyện nhim nhím.
MỤC LỤC

Chuyện thứ nhất : Đức giáo hoàng Piô X, ngay


sau khi vừa được tấn phong làm Giám mục
Montova, đã về thăm gia đình và khoe với mẹ
chiếc nhẫn giám mục của mình :
- Này bu, bu xem chiếc nhẫn Giám mục của con
có đẹp hay không ?
Người mẹ bèn giơ ra chiếc nhẫn cưới đang đeo
trên tay và bảo :
- Nếu không có cái này thì làm sao có cái kia.
Chuyệnthứ hai : Nghỉ hè, mấy thày rủ nhau đi
Lái thiêu. Ban trưa ghé vào một gia đình mượn
con dao để bổ trái cây. Chủ nhà là một sư huynh
Lasan đã xuất và lập gia đình, bèn nói với các
thày như sau :
- Hãy cố mà tu cho đắc đạo để làm vinh danh
Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Còn không tu
được thì cũng chẳng sao, về đây qua sẽ liệu
cho. Bởi vì lũ con của qua toàn là…thị mẹt
không à. Bậc sống nào cũng tốt. Tu là cõi phúc
mà tình cũng là cõi phúc, miễn là mình đi đúng
con đường của Chúa.

Từ khi đi chủng viện cho tới lúc ra làm cha, tỷ lệ


10%, nghĩa là cứ 10 kẻ vào tu thì chỉ có 1 người
leo lên tới chức linh mục. Kẻ được gọi thì nhiều,
mà người được chọn thì ít. Còn bao nhiêu thì rơi
MỤC LỤC

rụng dọc đường. Điều đó chứng tỏ tu không phải


là chuyện dễ và đời tu không phải là vắng bóng
thập giá. Có ở trong chăm mới biết chăn có rận
và đoạn trường ai có qua cầu mới hay.

Đã cố gắng mà chẳng được làm cha cố, thì


làm ông cố cũng tốt thôi, vì không có ông cố,
làm sao có cha cố.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● ÔNG XÃ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Có những đêm không ngủ, lồm cồm bò dậy, gã
bèn thầm thĩ cám ơn Thượng đế vì đã thương
cho gã được sinh ra đời dưới một ngôi sao
sáng. Ngôi sao sáng ấy chính là thân con giai,
chính là kiếp của anh đờn ông.

Thực vậy, nếu so sánh đờn ông với đờn bà, gã


liền nghiệm ra rằng :
- Đờn bà sao mà lắm chuyện nhiêu khê rắc rối
quá vậy.

Chẳng hạn về cơ thể.


Cơ thể chị đờn bà phức tạp hơn anh đờn ông
một trời một vực. Nhất là tháng nào đờn bà cũng
phải trải qua những ngày xiểng liểng và xính
vính, chẳng muốn thò mặt ra ngoài đường,
chẳng muốn động móng tay lay thử bất kỳ một
việc nào cả. Thậm chí con ruồi đậu vào mép
cũng chẳng buồn xua. Thế nhưng, nếu không có
những ngày xiểng liểng và xính vính ấy thì đâu
còn phải là đờn bà con gái nữa.

Chuyện rằng :
MỤC LỤC

Một hãng phim nổi tiếng tại “Hồ ly vọng” bên Mỹ,
kinh đô điện ảnh của cả và thế giới, người ta
đành phải cho nghỉ việc trong những ngày xiểng
liểng và xính vính của cô đào chính. Thế là cả
một bầu đoàn thê tử, từ ông đạo diễn tới các tay
chuyên viên đều được ngồi chơi xơi nước và
ngáp vặt. Kẹt lắm thì mới phải làm. Và nếu có
làm thì cũng phải hết sức tế nhị và vô cùng dịu
dàng, kẻo cô đào chính ấy mà nổi máu tam bành
lục tặc lên, thì quả là rách việc.

Nói thế là để cho phe đờn ông con giai, nhất là


mấy anh chồng thông cảm và hiểu cho thân
phận đờn bà. Chớ nên táy máy, gây ồn ào hay
bắt chị vợ phải lao động cật lực, như làm đồ
nhậu, đãi đằng bè bạn trong những ngày… đèn
đỏ bật sáng.

Chẳng hạn về áo quần.


Áo quần của chị đờn bà lủng củng hơn anh đờn
ông rất nhiều. Mỗi lần có công việc mà phải đi
chung cùng với cô em gái. Áo quần của gã thì
chỉ cần một cái túi nhỏ cũng chưa đầy. Còn của
cô nường hử ? Một va li to đùng cũng vẫn còn
thiếu. Ấy là chưa kể đến những thứ phụ tùng
lỉnh kỉnh khác nữa như : gương và lược, son và
MỤC LỤC

phấn…lại phải một cái bóp nhỏ cho cái dịch vụ


làm đẹp này.

Tuy nhiên, cái lý do chính khiến gã phải thầm


cám Thượng đế trong suốt cả cuộc đời, đó là
đờn ông con giai được cưng hơn đờn bà con
gái.

Thực vậy, từ cổ chí kim, từ đông sang tây, ngoại


trừ một vài trường hợp rất ư là họa hiếm, trong
đó đờn bà làm tới chức nữ hoàng, tổng thống,
thủ tướng hay bộ trưởng…còn phần đông đờn
bà con gái đều bị coi rẻ và không có lấy được
một địa vị đáng kể nào trong xã hội, chính vì
vậy, các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Một cậu
con giai đã là có, mười cô con cái vưỡn kể là
không.
Sở dĩ các cụ ta ngày xưa quan niệm như thế vì
do ảnh hưởng của Khổng giáo. Bởi vì theo
Khổng giáo :
- Một trong ba điều đại bất hiếu, đó là không có
con giai để nối dõi tông đường.

Chuyện rằng :
Hai vợ chồng nhà kia đẻ một ruỗi được năm cô
MỤC LỤC

con gái. Người tốt thì khen hai vợ chồng ấy thật


may mắn vì có được “ngũ long công chúa”, còn
kẻ thối mồm thì nói cạnh nói khóe, nói xỏ nói
xiên mỗi khi gặp anh chồng :

- Thế nào lũ vịt giời nhà ông đã có con nào…toi


chưa ?
Anh chồng rất lấy làm đau khổ. Thấy anh chồng
mỗi ngày một héo hắt và quay quắt, khiến chị vợ
vô cùng xót xa, như chính mình bị héo hắt và
quay quắt vậy. Ngày nọ chị vợ bàn với anh
chồng :
- Hay là mình mướn người đẻ giùm ?

Anh chồng lúc đầu chối bai bải, viện cả tục ngữ
ra mà bênh vực cho thái độ chung thủy, cũng
như phớt tỉnh Ăng lê của mình :
- Gái mà chi, trai mà chi,

Sinh ra có nghĩa, có nghì là hơn.


Thế nhưng, tự thâm tâm anh chồng cũng cảm
thấy bất ổn với lũ vịt giời nhà mình, nên sau một
thôi một hồi năn nỉ ỉ ôi của chị vợ, anh chồng
cũng đành miễn cưỡng đồng ý.
Và thế là chị vợ bèn đi tìm một cô gái khỏe
mạnh, thảo một hợp đồng rõ ràng rành mạch
MỤC LỤC

như một hợp đồng kinh tế để mang bầu thay cho


mình : Sinh xong thì trả con lại và được hưởng
một số tiền, rồi ai về nhà nấy. Chấm hết.

May thay cô gái sinh được một mụn con giai.


Thế nhưng, liền sau đó thì hợp đồng bị bể cái
rụp. Sở dĩ như vậy là vì cô gái không muốn trả
lại đứa con. Còn anh chồng, vì qua lại thăm con
nhiều lần, nên lửa tình nhen nhúm, rồi cuối cùng
đã bỏ chị vợ để mà cắm dùi bên nhà cô gái.

Đến lúc này, chị vợ mới sáng mắt ra thì đã


quá…muộn.
Bên Trung đông và nhất là những người theo
đạo Hồi, đờn bà con gái mỗi khi ra đường còn
phải che mặt, để khỏi bị thiên hạ nhìn thấy, bởi
vì dung nhan mỹ miều ấy chỉ được dành cho
một mình đức ông chồng thưởng thức mà thôi.

Riêng trong lãnh vực gia đình, nền luân lý Khổng


mạnh còn đưa ra những qui luật thật chặt chẽ và
nghiệt ngã cho số kiếp của đờn bà, đó là tam
tòng :
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử. Nghĩa là người con gái khi còn ở nhà thì
phục tùng cha, khi đi lấy chồng thì phục tùng
MỤC LỤC

chồng, còn khi chồng chết thì phục tùng con.

Trong khi đó, nền luân lý này lại nới lỏng và nhẹ
tay đối với đờn ông con giai khi cho phép :
- Trai năm thê bảy thiếp.
Còn :
- Gái chính chuyên chỉ có một chồng.

Bên Ấn độ, quê hương anh bảy Chà và, có nơi


người ta còn tuân theo một tập tục được liệt vào
hàng dã man, đó là khi anh chồng mà ngỏm, thì
chị vợ và các thê thiếp của anh ta cũng phải “đi
ngủ với giun” để theo hầu anh ta nơi chín suối.
Không phải chỉ xã hội, mà hình như chính
Thượng đế cũng thiên tư và cố tình cưng phe
đờn ông con giai hơn.
Thực vậy, các cụ ta ngày xưa cũng bảo :
- Gái tham tài, trai tham sắc.
Mà tài thì càng phát triển theo thời gian, còn sắc
thì ngược lại, bị thời gian làm cho tàn phai, như
tục ngữ đã dạy :
- Giai ba mươi tuổi đương xoan,
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
Chỉ có những kẻ cù nhầy theo kiểu “nhất lý nhì lỳ
tam ì tứ ẩu” như gã mới dám mở mồm mở
miệng ra mà phét lác :
MỤC LỤC

- Giai ba mươi tuổi đã già,


Gái bốn mươi tám đang ra má hồng.
Sinh ra đã thiệt thòi, lớn lên đờn bà con gái lại
càng thiệt thòi hơn, bởi vì bản thân đã trở nên
một nỗi lo âu ám ảnh cho cả bố lẫn mẹ :
- Cha chết không lo bằng gái to trong nhà.
- Gái lớn trong nhà như ma chửa cất.
- Gái chậm chồng, cha mẹ khắc khoải.

Kẻ sính vũ khí đạn dược thì bảo :


- Có con gái lớn như chứa một trái bom trong
nhà, không biết nó sẽ phát nổ lúc nào.
Rồi đến khi đi lấy chồng, tương lai của đờn bà
con gái như một canh bạc, phó mặc cho may rủi,
chứ ít khi được làm chủ quyết định cũng như
cuộc đời của mình : Phận gái mười hai bến
nước, may thì vào bến trong, còn chẳng may thì
vào bến đục. Phận gái như giọt mưa sa, may thì
rơi xuống chỗ tốt, còn chẳng may thì rơi xuống
đống bùn :

- Thân em như tấm lụa đào,


Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
- Thân em như giếng giữa đường,
Người khôn rửa mặt, người thường rửa chân.
MỤC LỤC

Và nhiều khi đã xảy ra những chuyện tréo cẳng


ngỗng khá đau lòng :

- Tiếc thay cây quế giữa rừng,


Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.
- Tiếc thay cái chậu nước trong,
Để cho bèo tấm, bèo ong dạt vào.
- Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục, lại vần than rơm.

Tuy nhiên, nhiều khi đã yên bề gia thất, thế mà


đờn bà con gái vẫn phải cắn răng chịu đựng
những thiệt thòi chỉ vì những thói hư tật xấu của
anh chồng.

Thực vậy, chân tướng của anh chồng nào cũng


đều có những nét dễ ghét và không thương nổi.
Hôm nay, gã xin nói tới một nét dễ ghét và
không thương nổi ấy, đó là cái thói độc tài và
độc đoán.

Vậy độc tài và độc đoán là đí gì ?


Theo gã nghĩ :
- Độc đoán là quyết định hoàn toàn theo ý riêng
của mình, phe lờ mọi góp ý của người khác.
Còn độc tài thì bao trùm một lãnh vực rộng lớn
MỤC LỤC

hơn :
- Dành hết mọi quyền hành cũng như quyền lợi
cho bản thân hay phe cánh của mình.
Đây cũng chính là cái thói hư mà nhiều anh
chồng đã mắc phải hay đang thích mắc phải.

Thực vậy, vào cái thưở ban đầu lưu luyến ấy,
anh chàng đã tỏ ra vô cùng ga lăng và hào hoa
phong nhã. Đối với cô nường, thì anh chàng
“cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa”. Cô
nường muốn gì thì anh chàng cũng hết sức
chiều theo, cho dù lắm lúc chẳng có được một
đồng xu dính túi.

Hay nói theo kiểu vua Hêrôđê :


- Ái khanh muốn gì thì cứ xin. Cho dù một nửa
nước, trẫm cũng vưỡn sẵn lòng.
Thế nhưng, khi ván đã đóng thuyền, cô nường
đã trở thành chị vợ thì bất nhóc nhách. Và thế là
“a lê hấp”, anh chồng bèn quay phắt một trăm
tám mươi độ, tính tình bỗng trở nên bẳn gắt,
mồm miệng thì luôn chửi bới. Quả thực anh
chồng đã để lộ chân tướng “vũ phu chi cục
mịch” của mình, như tục ngữ diễn tả :
- Khi chưa, cầu lụy trăm đàng.
Được rồi, thì lại phũ phàng làm ngơ.
MỤC LỤC

Cộng thêm vào đó là lời khuyên răn :


- Dạy con từ thưở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Và như thế, anh chồng được đà, mặc sức thao
túng chiến trường, tha hồ mà biểu lộ sự độc tài
độc đoán của mình dưới mọi hình thức.

Trước hết là trong tư tưởng.

Anh chồng thường cho rằng cái gì mình nghĩ


đều là đúng, là phải, còn cái gì chị vợ tưởng đều
là sai, là trái. Bởi vậy, hễ chị vợ mở miệng nói
lên sự gì thì liền bị kê tủ đứng :
- Đờn bà con gái biết cái chi mà nói.
Sở dĩ như vậy, vì những tư tưởng của tiền nhân
đã in sâu vào đầu óc vốn ưa “hách xì xằng” của
anh chồng :
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,
Dù là vụng dại cũng là đờn ông.
Và anh chồng đã nhìn chị vợ bằng nửa con
mắt :
- Đờn ông nông cạn giếng khơi,
Đờn ba sâu sắc như cơi đựng trầu.
Cơi đựng trầu thì có được là bao, nên chi anh
chồng thường chép miệng thở dài với một
thoáng khinh khi :
MỤC LỤC

- Ôi giào, đờn bà con gái ấy mà.


Anh chồng đang sống trong thời buổi văn minh
tin học, thế mà lại rất sính nền luân lý Khổng
mạnh, vì nền luân lý này vốn bênh vực quyền lợi
của đờn ông con giai, nên ngu gì mà không
chuộng.
Ngoài chuyện áp đặt tam tòng, tức là ba sự cần
phải phục tùng, như đã trình bày ở trên, nền
luân lý này lại còn tròng vào cổ đờn bà con gái
cái ách “phu xướng phụ tùy”, anh chồng phán
điều chi thì chị vợ phải răm rắp làm theo, không
được ý kiến, ý cò chi cả.
Thế nhưng, chuyện đời nhiều lúc chẳng đơn
giản tí nào, hơn thế nữa :
- Việc người thì sáng,
Việc mình thì quáng.

Thành thử mới cần phải đón nhận những ý kiến


xây dựng của người khác để mở rộng đường dư
luận. Bởi vì những ý kiến này thường khách
quan hơn, nên dễ tìm ra được những giải quyết
vừa hợp tình lại vừa hợp lý.

Trong khi đó, đầu óc của anh chồng vốn nghiêng


về suy luận và tổng hợp, còn đầu óc của chị vợ
lại thường nghiêng về trực giác và chi tiết. Vì
MỤC LỤC

thế, thiên hạ đã bảo :


- Cái nhìn đúng, không phải là cái nhìn của
chàng hay của nàng, mà là cái nhìn của cả hai
đứa chúng mình.

Đồng thời, như các cụ ta thường nói :


- Thuận vợ, thuận chồng tát bể đông cũng cạn.
Điều lý tưởng nhất đó là sau khi đã bàn bạc,
lắng nghe và trao đổi, vợ chồng đi tới một sự
nhất trí, rồi cùng cộng tác với nhau để thực hiện
điều đã nhất trí ấy, thì theo gã nghĩ : Khó khăn
nào cũng sẽ được vượt qua.

Tiếp đến là trong lời nói.

Ngày xưa thì :


- Anh anh, em em.
Hay :
- Mình ơi.
Chí ít thì cũng :
- Mẹ thằng cu…Má cái đĩ.
Còn bây giờ, nhất là khi cơn giận nổi lên bừng
bừng, rồi tẩu hỏa nhập ma, phát ngôn bừa bãi
theo kiểu mày tao chi tớ :

- Cái con mẹ mày…cái con mụ nọ.


MỤC LỤC

Lời lẽ thì thô tục cộc cằn, như dùi đục chấm
mắm tôm. Rồi lại còn cho nhau ăn đủ thứ cao
lương mỹ vị đến quỉ thần cũng không lường nổi.

Anh chồng cứ gân cổ mà nói thật lớn, cứ y như


rằng càng nói lớn bao nhiêu thì sự thật sẽ nằm
trên phần đất của mình bấy nhiêu. Tới nước
này, lắm chị vợ không còn kìm nổi sự chịu đựng
và nhường nhịn của mình nữa, nên cũng đốp
chát, thành thử làm điếc lỗ nhĩ hàng xóm, như
một câu danh ngôn đã bảo :

- Trước khi cưới, anh nói thì chị nghe, còn chị
nói thì anh nghe. Liền sau khi cưới, anh nói thì
anh nghe, chị nói thì chị nghe. Còn lâu sau khi
cưới, thì cả hai cùng nói, nhưng hàng xóm phải
nghe.

Anh chồng thường áp dụng chiến thuật : cả vú


lấp miệng em. Việc đầu tiên là phải chửi cái đã,
chửi phủ đầu vì chửi chậm sẽ…chết. Giống như
mấy ông tài xế, chẳng may gây tai nạn giao
thông, thì chẳng
cần biết nạn nhân bị thương nặng hay nhẹ, sống
hay chết…cứ việc vô tư hoa chân múa tay, mở
to mồm mà chửi, vì nếu không chửi thì sợ rằng
MỤC LỤC

người khác sẽ chớp mất lẽ phải, hay lẽø phải sẽ


bị bay hơi.

Lý luận của anh chồng trong nhiều hoàn cảnh


thật ngang còn hơn cả cua, thế mà vưỡn vỗ
ngực cho mình là đúng, là phải, nhất là lý luận
trong cơn say, cơn xỉn, thì quả là hết nước nói :

- Tao đã bảo cái con mẹ mày hai với hai là năm


đấy. Giỏi thì cãi lại coi.
Anh chồng nói để mà nói, nói để mà áp đảo đối
phương, chứ nào còn nhớ tới lời khuyên :
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Sau cùng là trong việc làm.
Đức Kitô đã dạy :
- Lòng đầy thì mới tràn ra ngoài.
Và chúng ta cũng bảo :
- Tư tưởng thì hướng dẫn hành động.
Một khi đã cho mình là đúng, là phải, thì anh
chồng thường biểu lộ sự độc tài độc đoán của
mình ra bên ngoài qua những lời nói đao to búa
lớn, coi trời bằng vung, huống chi là chị vợ. Hơn
thế nữa, còn được biểu lộ qua những hành động
chuyên chế và áp đặt đối với vợ con trong nhà.
Thực vậy, cung cách cư xử của anh chồng là
MỤC LỤC

cung cách “chồng chúa vợ tôi”, có nghĩa là


chồng làm chủ, còn vợ làm tôi đòi phục vụ từ A
đến Z, từ đầu chí cuối.

Mặc dù thời buổi bây giờ là thời buổi nam nữ


bình quyền, thế mà gã vẫn thấy trong một vài gia
đình, tới bữa cơm ông bố hay anh chồng ngồi
chễm chệ một mình một cỗ riêng biệt. Bao nhiêu
thịt thà cá mú phải được dành ưu tiên cho “lão
chủ phải gió” này. Sau khi lão ta đã xơi no đủ
phủ phê, thì mới tới lượt vợ con.

Thật tội nghiệp cho chị vợ mỗi khi anh chồng tổ


chức ăn nhậu đãi đằng bè bạn. Vừa vất vả mua
sắm và nấu nướng, mồi hôi mồ kê chảy xuống
đầy mặt ròng ròng, vừa phải dọn dẹp rửa ráy, ấy
là chưa kể tới việc các đấng mày râu quá chén
đến nỗi cho chó ăn chè, phải thu dọn chiến
trường đã bị ô nhiễm một cách nồng nặc này.
Gã đã được tham dự bữa tiệc mừng thượng thọ
của một anh chồng. Người ngoài khi nghe bốn
tiếng “tiệc mừng thượng thọ”, cứ ngỡ anh chồng
này chí ít cũng phải ngót nghét bảy mươi, như
cổ nhân đã bảo :
- Thất thập cổ lai hy.
MỤC LỤC

Ai dè anh chồng mới vừa tròn bốn mươi, nên


mừng tứ tuần để sớm được hưu non, cũng như
để sớm được lên lão mà cà kê dê ngỗng với
“các cụ trong rân”, theo kiểu Tú xương :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Thái độ độc tài và độc đoán còn được biểu lộ
một cách rõ ràng hơn cả qua công tác dạy vợ.
Thường thì những anh chồng này dạy bằng bạo
lực, bởi vì vũ phu chi cục mịch vốn là nghề của
chàng.
Trước hết, là quẳng nồi niêu xoong chảo, bát
đĩa…ra ngoài sân mỗi khi bực bội tức tối trong
lòng. Tiếp đến, là thượng cẳng chân hạ cẳng tay
cho chị vợ ăn đòn.
Sau đây gã xin ghi lại một vài quái chiêu mà
những anh chồng vũ phu đã sử dụng để dạy cho
chị vợ một bài học. Những quái chiêu này đã
được báo Công an đăng tải.
Quái chiêu thứ nhất, đó là dạy vợ bằng dao :
Với cung cách sinh hoạt “chồng chúa, vợ tôi” đã
quen, nên Lê ngọc Ân, ngụ tại Gò vấp, rất dễ nổi
cơn thịnh nộ mỗi khi vợ làm trái ý mình. Ngày
12.5.1999, Ân bảo vợ đi mua xe nước mía về
bán, nhưng chị Nguyễn thị như Hoa, vợ của y,
chưa mua được. Thế là Ân nổi giận đùng đùng,
MỤC LỤC

ra tay…cạo đầu vợ để lấy uy tín. Tàn nhẫn hơn,


y lại cạo bằng…dao Thái lan, khiến chị Hoa bị
rách cả mảng da đầu, máu ra nhiều đến nỗi bất
tỉnh phải dưa vào bệnh viện cấp cứu. Hiện gã
chồng vũ phu đã bị bắt giữ về tội dùng dao hành
hạ vợ.

Quái chiêu thứ hai, đó là dạy vợ bằng lửa :


Vì tức giận, nên Nguyễn văn Son 30 tuổi, ngụ tại
Kiên giang, vào ngày 5.6.1999 sau khi đi uống
rượu về, hắn đã trói vợ là chị Lý thị Oanh và đổ
dầu vào chị rồi châm lửa đốt. Phát hiện vụ
“nướng vợ” này, bà con lối xóm vội đến cứu
chữa, nhưng chị Oanh đã bị phỏng nặng.
Nguyễn văn Son đã bỏ trốn và hiện đang bị truy
nã.

Hẳn là còn nhiều quái chiêu khác nữa, nhưng


bằng đó cũng đã đủ để cho thấy việc dùng bạo
lực để dạy vợ là điều không thể chấp nhận
được. Nồi niêu xoong chảo bị đập bể, thì rồi
chính anh chồng lại phải nai lưng ra kiếm tiền
mua sắm lại. Chị vợ mang thương tích thì chính
anh chồng lại mất công, mất của mà thuốc thang
chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ chết luôn
thì bản thân anh chồng sẽ vào tù để đền tội, bàn
MỤC LỤC

dân thiên hạ sẽ coi anh ta là hạng vũ phu, còn


gia đình chắc chắn sẽ lâm vào cảnh nheo nhóc
và tan nát.

Để kết luận, gã xin ghi lại nơi đây một kiểu dạy
vợ khác, theo chiến thuật “bất bạo động” của
ngài Gandhi, vị anh hùng của dân tộc Ấn độ.

Kiểu dạy này đã được đăng trên báo Phụ nữ


qua tâm sự của một anh chồng :
Tôi và vợ tôi lấy nhau vì tình yêu. Chúng tôi là
bạn trước khi là người tình. Chúng tôi rất hiểu
nhau, vậy mà khi đã sống chung, chúng tôi đã
có không ít những mâu thuẫn, kình cãi. Từ
những lần xung đột như vậy, tôi mới bắt đều
nhận ra tính cách của chúng tôi mới khác nhau
biết bao.

Tôi điềm đạm, còn cô ấy nóng nảy. Tôi hiền, còn


cô ấy dữ. Tôi vốn tiết kiệm lời, còn cô ấy lại hay
nói. Tôi dễ bỏ qua, còn cô ấy luôn chấp nhất…
Ngán ngẩm thật và gay go thật để tìm ra một giải
pháp cho vấn đề của vợ chồng tôi.

Thế là…
Khi cô ấy làm rùm beng lên về một chuyện gì đó.
MỤC LỤC

Tôi chẳng dại gì mà hé môi. Cô ấy thắc mắc, tôi


vẫn đủ khôn ngoan để mà không mở miệng. Cô
ấy to tiếng, tôi vẫn đủ bình tĩnh để mà làm thinh.
Cô ấy càm ràm mãi, tôi vẫn đủ sáng suốt để mà
yên lặng.
Tôi còn nhớ kỷ niệm này.

Lần đó, khi vợ tôi nổi cơn tam bành, tôi im lặng.
Cô ấy không chịu. Tôi đọc báo. Cô ấy giật tờ
báo. Tôi im lặng. Cô ấy hùng hổ :
- Thà anh đánh em.
Tôi im lặng. Cô ấy lao vào tôi :
- Thà anh đuổi em.

Tôi im lặng. Tôi mở nhạc, cô ấy tắt. Tôi im lặng.


Tôi lên giường nằm khép mắt, cô ấy vạch mắt
tôi ra. Tôi im lặng. Thế là cô ấy ngồi phịch xuống
và khóc. Tôi vẫn cứ im lặng.
Khóc chán, cô ấy đưa mắt lên…kiếm tìm. Bắt
gặp. Tôi không đành im lặng nên…cười.
Thế là…
Vợ tôi bây giờ ư ? Tất nhiên là rất tuyệt.
Bạn hãy lời xúi dại của gã, cứ thử làm như thế
một lần xem sao ? Kết quả thế nào nhớ báo cho
gã được hay.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● BỒ NHÍ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Sau khi viết xong bài “ông xã” với thói độc tài và
độc đoán của mấy anh chồng cà chớn, gã cảm
thấy thơ thới hân hoan như vừa mới giải tỏa
được nỗi u uất trong lòng, bởi vì từ rày mà đi, lỡ
có vác cái bản mặt ra ngoài đường, thì cũng
không sợ các bà các cô lườm nguýt vì tội hay
nói dông nói dài, nói xỏ nói xiên về phe…ta.

Và thế là gã bèn tự thưởng cho mình một điếu


thuốc lào, rồi lơ tơ lơ mơ, vểnh mấy cọng râu cá
chốt mà suy gẫm chuyện đời. Đang lúc ngon
trớn, “xì tốp” lại không kịp, nên chi gã bèn tiếp
tục kể tội đờn ông với cái thói đào hoa phong…
đòn gánh, chuyên môn dùng những lời đường
mật, hay vung tiền dụ khị con gái nhà người ta
làm…bồ nhí cho mình.

Hôm nay người ta không thể nào chấp nhận chủ


trương :
- Trai năm thê bảy thiếp.
Trong khi đó :
- Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Thế nhưng, đối với xã hội ngày xưa thì đó lại là
MỤC LỤC

chuyện thường ngày ở huyện. Vì cớ làm sao lại


xảy ra như thế ?

Vốn thuộc nòi “bần cố nông”, khố rách áo ôm, gã


nhận thấy rằng nghề làm ruộng có nhiều công
việc nặng nhọc, từ khâu dọn đất, xuống giống,
cấy dặm và làm cỏ, đến khâu bón phân và xịt
thuốc, từ khâu gặt hái, phơi phóng đến khâu dí
bồ… Ngay cả việc bán lúa cũng cần tới những
người khỏe mạnh để cân đo đong đếm.

Những công việc nặng nhọc này đòi hỏi phải có


nhiều người, chứ chỉ một hay hai người thì
không thể nào cáng đáng cho xuể. Mà muốn có
nhiều người trong gia đình, thì phương cách bảo
đảm và an toàn nhất, chính là lấy nhiều vợ.

Vì thế, các xã hội nông nghiệp ngày xưa vốn chủ


trương đa thê, tạo thành một vòng tròn khép kín
trong cái đại gia đình để của cải khỏi bị thất
thoát ra người dưng nước lã.

Hơn thế nữa, nhiều khi thiên hạ còn đánh giá sự


giàu sang và uy quyền cũng như cốt cách phong
lưu của một người qua số vợ mà người ấy đã
cưới, cũng như qua số thê thiếp mà người ấy đã
MỤC LỤC

“tậu”.

Cái khó là anh chồng phải làm thế nào để điều


khiển được một nội cung toàn đờn bà con gái
của mình, tránh đi những sự hờn ghen, lườm
nguýt và cấu xé lẫn nhau, vì bà nào cũng chỉ
muốn được lên ngôi “ái khanh” mà thôi. Vì thế,
trong thiên hạ mới có câu :
- Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả.
Chuyện rằng :
Với một sinh lực dồi dào và với một thân thể
cường tráng, năm bảy mươi ba tuổi, Nguyễn
công Trứ vẫn còn cưới nàng hầu. Và ông có tất
cả mười bốn bà vợ.

Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi,
ông đã chẳng ngần ngại đáp :
- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam. Nghĩa là năm
mươi năm về trước, anh mới chỉ có hai mươi ba
tuổi hà.

Còn hôm nay, với phong trào giải phóng phụ nữ,
đờn bà con gái đòi bình đẳng với đờn ông con
giai, thậm chí còn muốn lấn sân, vượt lên trên
theo kiểu qua mặt không cần bóp còi :
- Ba đồng một chục đờn ông,
MỤC LỤC

Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.


Ai ngờ dây đứt, lồng rơi,

Nó bò lổm ngổm mỗi nơi một thằng.


Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xóa bỏ
tập tục đa thê, đồng thời chủ trương chế độ một
vợ một chồng , nên chị em phụ nữ thường thỏ
thẻ, tỉ tê tâm sự mí nhau :
- Chém cha cái kiếp chồng chung.
Hay :
- Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.
Tuy nhiên, luật là một chuyện, còn lệ lại là một
chuyện khác. Và nhiều khi :
- Phép vua thua lệ làng.

Vì thế cho nên vẫn có những chuyện lôm côm


trong lãnh vực này, mặc dù luật hôn nhân và gia
đình của các dân các nước đề hết sức rõ ràng
và minh bạch.
Tới đây, gã xin ghi lại một vài mẩu chuyện tưởng
như đùa mà lại hóa ra có thật ở Việt Nam trong
những ngày gần đây, đã được báo Công An
đăng tải.

Chuyện thứ nhất, đó là hợp đồng xin làm…vợ.


Cách đây bảy năm, T. là một cô sinh viên từ
MỤC LỤC

Quảng Ngãi vào học đại học Kinh tế tại Thành


phố Hồ chí Minh. Chỉ sau một thời gian ngắn, T.
quen với P. (do môi giới của một chủ quán cà
phê), một cán bộ đã ngoài bốn mươi tuổi, nhưng
trông còn dáng vẻ trai trẻ và tỏ ra thông cảm với
cô nữ sinh viện đang gặp khó khăn về cuộc
sống vật chất. Thế là lần gặp sau, P. chẳng
ngần gại đưa ngay cho T. bản hợp đồng xin…
làm vợ được qui định như sau :
Suốt bốn năm đại học, T. và P. chung sống với
nhau như vợ chồng. P. sẽ đài thọ từ A đến Z về
mọi chi phí để học tập. Riêng T. phải phục vụ
chu tất cho P. như một người vợ thực sự, nhưng
không để xảy ra chuyện có con và trong thời
gian này, T. không được phép có bạn trai. Nếu
không thực hiện đúng các điều trên, P. sẽ cắt
hợp đồng trước hạn.

Thế nhưng, để có cuộc sống an nhàn ăn học mà


chẳng mất mát gì (?), T. nghĩ cuộc sống thật
giản đơn về chuyện suốt bốn năm trời, mặc dù
phải chung sống với một người đàn ông lừa lọc,
nên đã đồng ý với hợp đồng.

Suốt bốn năm đèn sách với cuộc sống bất đắc
dĩ để đổi lấy tấm bằng đại học Kinh tế loại trung
MỤC LỤC

bình, đến khi T. tỉnh ra thì mọi chuyện đã rồi. Và


T. hết sức đau đớn khi biết mình không còn khả
năng làm mẹ, bởi suốt thời gian chung sống với
P. do phải thực hiện đúng hợp đồng nên T. đã
nhiều lần đi phá thai.

Chuyện thứ hai, đó là góp vàng xin…làm vợ bé.


Cách đây mấy năm, một hôm đang đi trên
đường, cô Út, ngụ tại Bến Tre, chẳng may bị
choáng váng và không còn biết gì nữa. Khi tỉnh
dậy, mới hay mình đang nằm trong bệnh viện là
nhờ một người khách tốt bụng có tên là NVT
đưa cô tới đây.

Năm đó cô Út đã ngoài ba mươi tuổi. Khi cha


mẹ qua đời để lại cho cô một tài sản nho nhỏ,
song nhờ biết cách làm ăn nên đã tạo được một
cơ ngơi khá ổn định. Trong lần tai nạn này, cô
luôn “biết ơn” anh T. vì đã khổ công giúp đỡ cô.
Vì vậy, trong nhiều lần thiếu vốn làm ăn, cô Út
sẵn lòng trợ giúp và tình cảm nẩy sinh ngày
càng sâu đậm. Cho tới một ngày, cả hai quyết
định phải có cuộc họp mặt cùng gia đình T. để
phân trần.

Trong cuộc hội ngộ, cô Út thưa :


MỤC LỤC

- Thưa mẹ, thưa chị (mẹ và vợ anh T.), con và


anh T. lỡ thương nhau…Con biết phận mình nên
chấp nhận làm vợ nhỏ. Con xin đóng góp hai
cây vàng để lo chuyện nhà cửa…

Sau đó, cả nhà cùng vui vẻ bên mâm cơm tác


hợp thêm một “thành viên” của gia đình.
Thế rồi, một thời gian dài họ vẫn sống êm ấm
giữa hai người đàn bà cùng một tấm chồng. Nào
ngờ mới đây bỗng nhiên chị T. đòi lại chồng (!),
anh T. tuyên bố bỏ cô Út để về với “vợ ruột” và
không chịu “lỗ vốn” nên cô Út cũng nổi sung đòi
lại hai cây vàng.
Mọi chuyện khi vỡ nhẽ thì cả ba đều vi phạm
luật hôn nhân gia đình, riêng cô Út có lẽ là người
đau nhất.

Chuyện thứ ba, đó là tờ ly hôn có…hai bà vợ


cùng ký.
PHV, ngụ tại Đồng nai, cưới vợ là LTT vào năm
1986. Thời gian sau, T. sinh con đầu lòng. Em
gái T. tên là LTH, đến ở giúp đỡ chị gái lúc sanh
nở. Ai dè chị T. vừa cứng cáp thì H. bỗng có
thai. Chị T. truy hỏi mãi, H. mới thú nhận hậu
quả này do quan hệ với anh rể. Thế là chị T.
đành phải chấp nhận cuộc sống một chồng, hai
MỤC LỤC

vợ với V. và H.
Từ đó, V. làm chồng còn sung sướng hơn cả
làm…vua. Chị em T. và H. tha hồ làm lụng vất
vả để cung phụng cho V. Vậy mà nào có được
yên. V. luôn đánh đập ngược đãi hai bà vợ bất
cứ lúc nào anh ta cảm thấy không hài lòng.

Đầu năm 1999, hai chị em bị hành hạ đến độ


không còn chịu nổi, bèn hè nhau cùng viết đơn
xin ly hôn với V.
Những truờng hợp hi hữu kể trên phải chăng chỉ
là những tia nắng cuối cùng còn sót lại và lóe lên
khi hoàng hôn đã buông xuống, hay chỉ là một
thoáng âm ấm trước khi đi vào giá lạnh bóng
đêm theo kiểu mặt trời lặn nhưng sức nóng
vưỡn còn.

Chế độ đa thê đã bị cấm tiệt, nhưng xem ra một


vài “cụ trong rân” vưỡn còn tiếc xót cho “thời
oanh liệt” nay còn đâu và thế là những cụ ấy tìm
cách luồn lách mà đèo bòng vợ nọ con kia. Vì
thế, trong dân gian mới nảy sinh ra hai tiếng
“bồ…nhí”.

Mấy anh lơ xe đò, sáng tỉnh này chiều tỉnh kia và


để lấp đầy khoảng trống trong lúc chờ tài, bèn
MỤC LỤC

kiếm thêm một cô bồ nhí để được chiều chuộng


và chăm sóc, thành thử vợ cả một nơi, còn bồ
nhí một nẻo. Nếu không bị phát giác và đổ bể,
thì lúc nào anh ta cũng oang oang ngoác mồm
ra mà thề sống thề chết mí đầu gối rằng :
- Mình lúc nào cũng trung thành, cũng thủy
chung quá cỡ thợ mộc.
Sở dĩ như vậy vì lúc này và ở đây anh ta chỉ có
một bà mà thôi. Vì thế thiên hạ bèn gọi cái sự
một vợ một chồng của mấy anh lơ xe đò là :
- Nhất phu nhất phụ, mỗi mụ một nơi.

Còn những ông Việt kiều, vì đồng Mỹ kim rất có


giá ở đất nước nghèo túng này, nên với một
dúm đô la trong tay, ông ta có thể tiêu xài vung
vít, mặc sức thỏa mãn những thói hư tật xấu của
mình. Với sức hấp dẫn của những tờ giấy bạc
màu xanh ấy, ông ta có thể kiếm cho mình
không phải một mà là dăm ba cô bồ nhí một lúc
cũng dễ như trở bàn tay vậy.

Chính cụ chủ nhiệm đã từng cả tiếng lại dài hơi


mà than van với gã và gã cũng đã từng bật mí
cho bàn dân thiên hạ trong bài về “bà xã” như
sau :
MỤC LỤC

“Ở Thụy sĩ cũng như ở các nước Âu Mỹ nói


chung, các đấng ông chồng mày râu thường về
Việt Nam chim chuột…lang chạ hay kiếm đại bà
vợ bé nào đó để dành, lâu lâu vừa trở lại thăm
quê hương, vừa đi nghỉ hè, lại vừa có sẵn của
xài mà vợ con không mấy khi hay biết.”

Chẳng hiểu lời than thở trên đây có bi quan lắm


không ? Và nếu có đúng, thì đúng được bao
nhiêu phần trăm ? Chắc chỉ có mình Đức Chúa
Trời phép tắc và thông suốt vô cùng thì mới biết
được mà thôi.

Còn ở trong nước, ngoài cái kiểu “nhất phu nhất


phụ mỗi mụ một nơi” của mấy anh lơ xe, thì một
vài vị quan chức và dân mánh mung, thừa tiền
nhưng lại thiếu đạo đức, được lúc ăn no rửng
mỡ cũng vơ đại cho mình một cô bồ nhí để trang
trí cho cuộc đời, cũng như để đáp ứng những
đòi hỏi của con lợn lòng.

Vậy thế nào là bồ nhí ?


Theo sự suy luận thô thiển của gã, thì trước hết
bồ có nghĩa là phe cánh, chẳng hạn như khi
đánh bạc, người ta thường cặp bồ, hay bắt bồ
mí nhau.
MỤC LỤC

Còn trong ngôn ngữ dân gian,thì bồ có nghĩa là


bạn thân. Riêng trong mối liên hệ giữa đờn ông
và đờn bà, giữa con giai và con gái, bồ còn có
nghĩa là người tình hay người yêu.

Tiếp đến là chữ nhí. Nếu gã không lầm thì chữ


nhí, dưới một góc cạnh nào đó, cũng đồng nghĩa
với chữ nhỏ.

Hồi học lớp đệ ngũ, trong lớp của gã có hai cô


nường tên là Thủy. Một cô thì “ăn gì to lớn đẫy
đà làm sao”, còn một cô thì ngược lại, mai cốt
cách tuyết tinh thần, vừa thấp, vừa bé, lại vừa
ốm tong ốm teo. Cô nường này mà leo qua cầu
khỉ chắc chắn sẽ bị gió thổi bay và nếu có đi thi
sắc đẹp, thì thế nào cũng ẵm được cái vương
niệm “hoa hậu tăm tre Việt Nam”.

Và để phân biệt, thiên hạ đã đặt cho mỗi cô


nường một cái…hỗn danh.
Với cô nường to lớn đẫy đà, thiên hạ gọi đó là :
- Thủy…tồ.
Còn với cô nường hoa hậu tăm tre Việt Nam,
thiên hạ bảo đó là :
- Thủy…nhí.
MỤC LỤC

Lê văn Đức trong “Việt Nam Tự điển” còn chua


thêm một nghĩa nữa cho chữ nhí, đó là lẳng lơ
và liến xáo. Chẳng hạn nhí nhảnh có nghĩa là
lẳng lơ, hay se sua quần áo, sửa sang điệu bộ
cốt được nhiều người để ý đến.

Gã nhận thấy quan hệ tình cảm giữa con giai và


con gái, giữa chàng và nàng được phân ra từng
hồi.

Hồi thứ nhất, từ gặp nhau rồi đến yêu nhau. Và


khi đã chịu đèn và thương nhau, thì người ta lập
tức liền có bồ, có người tình hay có người yêu.
Còn nói theo kiểu phim nhiều tập Hồng Kông, thì
người ta có bạn giai hay bạn gái.
Hồi thứ hai, từ yêu nhau rồi đến lấy nhau. Và khi
đã lấy nhau, thì người ta nghiễm nhiên trở thành
anh chồng hay chị vợ, ông xã hay bà xã, ngoài
ra còn một lô những danh xưng khác người ta
gán cho nhau tùy theo mức độ tình yêu còn mặn
nồng hay đã phai lạt. Thí dụ như :
- Mình ơi ! Đằng ấy ơi !
Hay :
- Cái con mụ kia hở !
Hồi thứ ba, từ lấy nhau rồi đến sinh con đẻ cái,
người ta bỗng dưng được thăng cấp, được lên
MỤC LỤC

đời, trở thành cha thành mẹ, thành ba thành má,


thành bố thành…bầm. Trong hồi này, người ta
cũng thường gọi nhau bằng những danh xưng
tùy mức độ đậm nhạt của tình yêu.
Thí dụ như :
- Bố thằng cu…Mẹ cái đĩ.
Hay :
- Cha tiên sư cái con mẹ mày.
Ngoài ba hồi chính của chuyện tình trên đây,
thỉnh thoảng gã cũng ghi nhận được một hồi
phụ. Hồi phụ này thường nằm lửng lơ con cá
vàng đâu đó trong hồi thứ ba, nghĩa là sau khi
đã lấy nhau, đã sinh con đẻ cái, bỗng dưng anh
chồng dở quẻ, thiết lập “deuxième bureau”, tiếng
phú lãng sa có nghĩa là phòng nhì.

Tuy nhiên, không phải chỉ phòng nhì mà thôi, đôi


khi còn có cả phòng ba, phòng bốn…Cũng
không phải chỉ có V2 mà thôi, đôi khi còn có cả
V3, V4…nữa. Những kẻ đi “tình tang” như thế
được thiên hạ gọi là có…mèo, hay có bồ…nhí.

Như có lần gã đã phân phô cùng bàn dân thiên


hạ : có bồ, có người tình hay có người yêu thì
khác với có mèo hay có bồ nhí. Bởi vì loại có
trên thường là công khai, hợp pháp, mang nhãn
MỤC LỤC

hiệu trình tòa hẳn hoi, còn loại có dưới bao giờ
cũng thầm lén vụng trộm, chui lủi và bất hợp
pháp.

Trong một cuộc đấu láo vung vít mí nhau tại câu
lạc bộ “bồ nhí”, mấy ông to gan lại bạo phổi, thiết
lập phòng nhì, đã vuốt chòm râu dê của mình
mà xuất khẩu thành thơ.
Ông thì ngâm nga :
- Vợ là địch,
Bồ bịch mới là ta.
Khi chiến sự xảy ra,
Ta buộc về với địch,
Nằm trong lòng địch,
Ta vẫn nhớ đến ta.
Có ông lại cười khà khà mà ví ví von von. Coi vợ
là cơm và bồ nhí là phở :
- Sáng,
Chở cơm (vợ) đi ăn phở.
Trưa,
Chở phở (bồ) đi ăn cơm.
Chiều,
Cơm về nhà cơm,
Phở về nhà phở.
Tối,
Nằm với cơm,
MỤC LỤC

Mà vẫn mong về phở.

Hai mẩu thơ trên dĩ nhiên không phải của gã


phệu ra đâu, nhưng là của một tác giả tên là
Duyên Trường, được đăng trên tờ báo Phụ nữ
Chủ nhật. Gã xin thanh minh thanh nga như thế
để khỏi bị mang tội “thuổng văn” thiên hạ.

Nói về những hậu quả do bồ nhí đem lại, thiết


tưởng không cần bàn rộng tán dài làm chi, bởi vì
cả và thiên hạ đều đã hay biết. Gã chỉ xin tóm
gọn vào mấy chữ T sau đây.
Trước hết là tốn tiền.

Thực vậy, cô bồ nhí nào cũng biết cái vị trí và


thân phận bấp bênh của mình, nên phải nhanh
tay lẹ con mắt, vơ vét về càng nhiều càng tốt,
kẻo khi chiến tranh bùng nổ, xẻ nghé tan bầy, thì
cũng có được tí chút làm vốn, đảm bảo cho
tương lai hậu vận.

Vì thế, cô nường lúc nào cũng nhõng nhẽo và


vòi vĩnh, đòi cái này, xin cái kia…từ cái tổ uyên
ương đến những chi phí hằng ngày. Và trong lúc
máu hào hoa phong nhã nổi lên đùng, anh đờn
ông chỉ biết chi và cho mà thôi. Tiền bạc cứ tiếp
MỤC LỤC

tục đội nón ra đi. Và lỡ túng thiếu, anh đờn ông


sẵn sàng bán trời không văn tự chứ nói gì đến
biển thủ công quĩ.

Tiếp đến là tan tình.


Anh đờn ông một khi đã có bồ nhí, thường có
hai thái độ. Một là tỏ ra cưng chiều chị vợ để che
dấu và lấp liếm tội lỗi của mình. Hai là tỏ ra vũ
phu, luôn chửi bới và đánh đập vợ con để có
nhiều dịp chuồn đi mà hú hí mí bồ nhí. Nhưng
làm sao dấu mãi cho được bởi vì cái mũi của chị
vợ sẽ rất thính trong những tình huống như thế.

Một khi chuyện tình dan díu bị bại lộ, thì tình yêu
chị vợ dành cho anh chồng sẽ vỡ tan thành từng
mảnh, rất khó mà hàn gắn, bởi vì nó đã khoét
sâu trong lái tim chị vợ một vết thương lòng
không thể nào cứu chữa. Và nếu có hàn gắn, có
cứu chữa được phần nào, thì nó cũng khập
khiễng, chổng chểnh như cầu ba chân.

Cổ nhân đã từng diễn tả :


- Cốc nước đổ xuống đấât làm sao hốt lại cho
đầy.
Sau rốt là tiêu tùng tất tật.
Bản thân đương sự sẽ bị thân bại danh liệt,
MỤC LỤC

bằng không thì cũng bị một phen hú vía. Biết


bao chính khứa mất chức vì đã tòm tem mí bồ
nhí, thậm chí chả còn mặt mũi nào để về nhà
đuổi gà cho vợ bởi vì lúc ấy làm gì còn có vợ,
và nếu còn thì chị vợ cũng chẳng dễ gì mà chấp
nhận…cho tái hồi mà đuổi gà.

Gần đây nhất là vụ tổng thống Bill Clinton nước


Cờ hoa đã lẹo tẹo với cô thư ký tập sự tại Nhà
Trắng tên là Monica Lewinsky. May mà ông tổng
thống này cứng tướng nên mới vượt qua cửa ải
một cách khó khăn và vất vả, toát cả mồ hôi hột.
Nếu có dịp, gã sẽ điểm qua những khuôn mặt
chính khứa nổi cộm từ đông sang tây, từ cổ chí
kim…đã ngã ngựa chỉ vì những chuyện tình còm
như thế.

Gia đình của đương sự sẽ bị gẫy đổ. Chị vợ cắn


răng chịu đựng mãi cũng không ổn. Kéo quân
gia tới đánh ghen một cách ồn ào cũng không
xong. Còn ông ăn chả bà ăn nem, chị vợ cũng đi
tìm một bờ vai để tựa đầu, hay một giải tình còm
để vắt vẻo ngang lưng, bù lỗ cho những giây
phút trống vắng thì cũng chẳng ra làm sao.

Và nếu lôi nhau ra ba tòa quan lớn để ký vào


MỤC LỤC

đơn ly dị, thì gia đình lập tức sẽ tiêu tùng và


phần thiệt hại sẽ nằm về phía con cái. Bởi vì, kể
từ lúc bố một nơi, mẹ một nẻo, con cái có hai
nhà nhưng rốt cuộc chẳng có được một mái ấm
dung thân.

Vậy đâu là những nguyên nhân dẫn tới tình


trạng này ?
Nguyên nhân thứ nhất đó là bổn tính anh đờn
ông vốn hướng tới chị đờn bà. Phải chăng đây
là một quy luật mà Đấng Tạo hóa đã khắc ghi
vào thiên nhiên cũng như vào lái tim con người.
Như hai cực âm và dương thu hút nhau thế nào,
thì đờn ông và đờn bà, con giai và con gái cũng
thu hút nhau như vậy.
Vì thế, tục ngữ đã bảo :
- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con.
Cộng thêm vào đó là cái thói hào hoa phong đòn
gánh, cứ thích của lạ nên cắm đầu cắm cổ nhào
vô, như con thiêu thân lao mình vào lửa :
- Đờn ông những bảy lá gan,
Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.
Rồi vợ mình không khen lại cứ nhè vợ thiên hạ
mà khen theo kiểu : Vợ người thì đẹp, văn mình
thì hay. Thế mới rách việc.
Bởi đó, hỡi những anh chồng đèo bồng bồ nhí,
MỤC LỤC

hãy can đảm đấm vào ngực mình mà rằng :


- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…
Tuy nhiên, đôi lúc chị vợ đã vô tình hay cố ý đẩy
anh chồng vào con đường tội lỗi mà cũng chẳng
hay.
Thí dụ mỗi khi anh chồng đi làm về, vừa bước
chân vào nhà, đã lập tức nghe thấy những tiếng
quát tháo của chị vợ :
- Sao về trễ thế, hẳn lại đi nhậu ở đâu chứ gì ?
- Con cái chi mà lì như trâu, nói hoài cũng không
chịu nghe…

Rồi lại còn áo quần xốc xếch, tóc tai luộm


thuộm…Chị vợ đã đánh mất cái duyên dáng, cái
dịu dàng thưở nào, để lộ rõ cái bản mặt bà la
sát, nói dài nói dẻo nói dai nói day nói dứt…Và
như thế, gián tiếp khuyến khích anh chồng đi tìm
sự “tươi mát” ở một nơi khác.

Trên một số báo Phụ nữ Chủ nhật, tác giả Minh


Huê đã sánh ví cuộc đời là chiến trường, còn vợ
hiền là hậu phương. Anh lính từ chiến trường trở
về cốt chỉ mong được thấy một hậu phương
thanh bình để nghỉ ngơi. Còn nếu hậu phương
mà cũng đầy khói lửa thì…thảo nào…chả trách.
MỤC LỤC

Gã xin ghi lại nơi đây những dòng thơ của tác
giả trên để thay cho lời kết luận :

- Cuộc đời là chiến trường,


Vợ hiền là hậu phương.
Thế nhưng,
Khi chiến trường tạm lắng,
Tôi trở về hậu phương,
Với áo lem bụi đường,
Mong tìm nơi ngơi nghỉ,
Để giữ gìn dũng khí,
Từ những chiến trường xa,
Hậu phương là của ta,
Kẻ thù không thể đến,
Cái “miền quê” thương mến.
ÊÂm đềm trong tiếng ru,
Tôi thèm một lời ru,
Bình yên và sâu lắng,
Để xua đi hơi đắng
Của khói bay chiến trường.
Điều mơ ước của tôi,
Mãi vẫn là mong mỏi.

Vì :
Hậu phương đầy khói lửa,
MỤC LỤC

Không một ngày bình yên.

Nên :
Ước gì có cô tiên,
Giữ yên lành hậu cứ
Như ngàn năm bất tử.
Vợ hiền : hậu phương ta.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● TUỔI THƠ BỊ ĐÁNH CẮP

Chuyện phiếm của Gã siêu.


Trước cửa nhà gã, có một khoảng sân rộng
được lát bằng gạch tàu. Ban tối, nhất là những
đêm trăng sáng, bọn nhóc thường tụ tập ở đó để
chạy nhảy vui đùa…Thế nhưng hôm nay, chúng
kéo nhau đến để tập múa lân. Tiếng trống vang
dội trong xóm vắng :
- Tùng tùng cắc tùng tùng…tùng tùng cắc tùng
tùng.
Tiếng trống dồn dập làm cho gã bỗng sực nhớ
ra rằng : trung thu đã gần kề. Mà đúng vậy,
bước chân ra đường, từ chợ thành thị cho đến
chợ thôn quê, đâu đâu cũng thấy người ta bày
bán đèn lồng và bánh ngọt.

Thế nhưng, phần lớn số đèn và bánh này được


dành cho con nhà giàu, hay cho những xếp
nhớn, bởi vì đây chính là dịp dân lính lác biểu lộ
tình cảm đối với các xếp của mình bằng quà
biếu. Còn bọn khố rách áo ôm thì chỉ đứng nhìn
mà thèm rỏ rãi. May mắn lắm thì mới được bu
mua cho khi trung thu đã qua rồi. Số hàng ế ẩm
bị tồn đọng này, các chủ tiệm cũng muốn tống
khứ đi cho khuất mắt, nên được bán với giá rẻ
MỤC LỤC

mạt. Vì thế, con nhà nghèo chịu khó “ăn” trung


thu muộn một chút cũng không sao. Méo mó có
vẫn hơn không kia mà. Và lỡ bị đau bụng thì
cũng phải cắn răng chịu vậy. Song le Đức Chúa
Trời vốn lòng lành vô cùng, nên Ngài thường
ban cho con nhà nghèo một cái bao tử với chất
lượng cao, dù xơi phải những thứ quá “đát” thì
cũng chẳng hề hấn gì.

Tết trung thu, như tên gọi, đến với chúng ta vào
đúng giữa mùa thu, mùa đẹp đẽ nhất trong năm
với trăng thanh và gió mát. Theo Toan Ánh trong
“Tín ngưỡng Việt Nam” thì tết Trung thu bắt đầu
từ thời vua Duệ Tôn, đời nhà Đường.

Số là vào một đêm rằm tháng tám, trăng tròn


sáng tỏ, nhà vua bèn hứng chí bèn làm một
vòng ngự chơi ngoài thành mãi tới tận khuya.
Lúc bấy giờ có một ông lão, râu tóc bạc phơ,
chống gậy trúc tới bên nhà vua, rồi kính cẩn
chào và hỏi :
- Bệ hạ có muốn lên cung trăng hay không ?
Nhà vua trả lời :
- Có.
Vị tiên liền giơ chiếc gậy lên trời. Và thế là ngay
lập tức có một cây cầu, một đầu giáp trăng, một
MỤC LỤC

đầu giáp đất. Tiên ông liền đưa nhà vua lên cầu
và chẳng bao lâu đã đến cung trăng. Phong
cảnh nơi đây thật tuyệt vời với những nàng tiên
nữ xinh như mộng, xiêm y cực kỳ, múa nay hết
ý. Đang say xưa ru hồn vào cõi trên, thì tiên ông
đã đưa nhà vua trở lại hạ giới.

Để kỷ niệm ngày được chu du nguyệt điện, nhà


vua đã đặt ra tết trung thu. Trong tết này, người
ta uống rượu thưởng trăng, vì thế còn được gọi
là tết trông trăng.

Nói đến trung thu thì không thể nào bỏ qua ông
Trăng, chị Hằng và chú Cuội.
Trước hết là ông Trăng. Người Việt Nam chúng
ta vốn dạt dào tình cảm, nên đã xếp những kẻ
xa lạ và ngay cả những vật vô tri giác vào lãnh
vực thân thương của mình, vì thế mới có chú ba
tàu, anh bảy cà ry, ông trời, ông trăng…cho nó
thêm phần gần gũi :
- Ông trăng xuống cô gái đẹp, thì gái đẹp cho
chồng.
Ông trăng xuống anh đàn ông, thì đàn ông cho
vợ.

Thực chất ông trăng chỉ là một vệ tinh của trái


MỤC LỤC

đất và xoay quanh trái đất mỗi tháng một vòng.


Chúng ta thấy được mặt trăng nhờ ánh sáng
mặt trời chiếu vào. Dựa trên những bức hình
của phi thuyền Apollo gửa về, thì dung mạo của
mặt trăng cũng lồi lõm, cũng rỗ chằng rỗ chịt,
chứ nào phải mặt hoa da phấn…

Thế nhưng, mấy ông thi sĩ, nhất là thi sĩ bên


Tàu, thường nhìn mặt trăng bằng cặp kính tươi
hồng của mình. Và dưới cặp kính tươi hồng ấy,
thì mặt trăng còn được gọi là cung Quảng hàn,
nơi ở của Thái âm thần nữ, vợ của thần Thái
dương, tức là mặt trời.

Tiếp đến là chị Hằng. Sách “Hoài Nam Tử” cho


biết :
Hằng Nga vốn là vợ của Hậu Nghệ. Ông ta đã
dùng ba tấc lưỡi năn nỉ ỉ ôi bà Tây Vương Mẫu
và đã xin được một viên thuốc trường sinh. Vốn
thuộc nòi nể vợ, nên ông ta đã trao cho Hằng
Nga cất giữ viên thuốc quí hiếm ấy. Biết chồng
là kẻ độc ác, lại toan tính làm phản, Hằng Nga
liền vội vã nuốt trửng viên thuốc và hóa thành cô
tiên mà bay lên cung trăng. Vì thế, người ta
thường gọi mặt trăng là Hằng Nga, là chị Hằng.
Ngoài ra danh từ này còn được dùng để chỉ
MỤC LỤC

người con gái đẹp, như trong “Cung oán ngâm


khúc” có câu :
- Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn,
Lửng da trời nhạn ngẩn ngơ sa.
Hương trờ đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

Tuy nhiên có sách lại bảo :


Hằng nga bay lên cung trăng và ra mắt Thái âm
thần nữ, kể rõ sự tình và xin thần nữ che chở.
Thái âm thần nữ liền hóa phép biến Hằng Nga
thành con cóc và đem giấu ở một nơi kín đáo
trong cung Quảng hàn cho tới ngày nay.

Sau cùng là chú Cuội. Theo người Tàu thì chú


Cuội chính là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương
đã tu và đắc đạo thành tiên, nhưng sau vì làm
nhiều điều xằng bậy trên thượng giới, nên đã bị
Ngọc hoàng nổi giận, bắt đày xuống cung trăng,
trao cho việc chặt và bóc vỏ cây quế đỏ. Thế
nhưng cây quế đỏ này lại cứng như thép, nên
ngô Cương chặt mãi, bóc hoài cho đến bây giờ
cũng chẳng xong. Vì vậy mỗi đêm nhìn lên mặt
trăng, chúng ta mới thấy bóng Ngô Cương đang
lúi húi ở dưới gốc cây quế.
MỤC LỤC

Thế nhưng, theo người Việt chúng ta thì Ngô


Cương lại chính là chú Cuội. Còn cái bóng mà
người Tàu gọi là cây quế đỏ, thì lại chính là cây
đa thần. Vì thế mới có câu :
- Thằng cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.

Sự tích chú Cuội, hẳn chúng ta đã rõ. Đó là một


kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời
đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì
cha mẹ đi vắng, chú phải coi nhà. Buồn tình, chú
bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất
thanh :
- Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi
với.
Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp
cứu. Thấy vậy, chú bèn cười ngặt nghẹo đến vãi
cả nước mắt. Lần khác, chú ngồi thổi cơm,
chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà
bốc cháy. Chú cũng kêu la thất thanh :
- Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi
với.
Thế nhưng, lần này chẳng một ma dại nào đến
tiếp cứu cho chú cả. Vì thế, dân gian mới bảo :
MỤC LỤC

- Bắc thang lên đến tận mây,


Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười,
Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.

Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà chú Cuội
bỗng trở thành hình ảnh tượng trưng cho những
kẻ chuyên môn lừa gạt : nói dối như cuội. Hay
nói một đàng làm một nẻo : hứa cuội có nghĩa là
hứa lèo, hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được đí
gì sốt, đầu voi đuôi chuột, trăm voi không được
một bát nước xáo.

Lớn lên, chú đánh lừa được một lão trượng hiền
lành và lão trượng này đã cho chú một cây đa
thần mà lá có thể làm người chết sống lại. Lão
trượng dặn chú mang về phải trồng ở mé đông
và phải luôn tưới cho cây được xanh tươi, đồng
thời còn cho chú hay cây đa thần này rất kỵ
nước tiểu. Nếu trồng cây ở hướng đông thì mọi
người phải đi tiểu ở hướng tây, không thì cây sẽ
dông lên trời mất.

Hàng ngày chú vào rừng đốn củi. Ở nhà chị vợ


vẫn tưới cây rất chăm chỉ theo lời chỉ dẫn của
chú. Cho tới một hôm vì mải mê công việc nên
MỤC LỤC

quên tưới, chợt thấy chú về đến ngõ, chị vợ sực


nhớ ra nhiệm vụ của mình. Sợ đi múc nước bị
chú trông thấy sẽ la mắng, nên chị vợ vội chạy
lại gốc cây, tốc váy lên và…tè vào đó. Vừa tè
xong, thì cây đa bỗng từ từ nhổ gốc và bay lên
trời.

Về tới nhà, thấy cây dông lên trời, trong tay lại
sẳn có chiếc cuốc, chú lền móc ngay vào gốc
cây, mong giữ được cây lại. Nào ngờ, chú chẳng
giữ được cây mà lại còn bị cuốn theo cây bay
lên cung trăng cho đến tận hôm nay. Thành thử
cứ mỗi độ trung thu về, bọn nhóc tì thường hay
ca hát :
- Bóng trăng trắng ngà,
Có cây đa to,
Có thằng Cuội già,
Ôm một mối lo…
Dĩ nhiên, còn nhiều điều phải nói về ông Trăng,
chị Hằng và chú Cuội cũng như về những tập
tục dân gian của ngày tết trung thu, chẳng hạn
như thi cỗ, thi đèn và múa lân... Nhưng bằng đó
mà thôi cũng đã đủ để cho thấy : tết trung thu
trước kia là tết của người nhớn, nhưng dần dần
được chuyển hệ và biến thành tết của trẻ nhỏ.
MỤC LỤC

Toan Ánh cũng viết :


“…Để đón tết, các em có những đèn xếp, đèn
lồng sặc sỡ thắp sáng, kéo nhau thành từng
đoàn vui reo ca hát, tối tối cùng nhau nhởn nhơ,
cùng đi đường này ngõ khác. Đây là dịp để
người nhớn đặc biệt quan tâm và chăm sóc tới
các trẻ nhỏ, nhất là những em tàn tật, mồ côi và
bất hạnh…”
Ăn theo vào đó, gã xin tán dông tán dài đôi điều
về tuổi thơ.

Thực vậy, Thánh vịnh đã coi con nít là quà tặng


Đức Chúa trời ban cho những bậc làm cha làm
mẹ vì thế chắc chắn nó phải mang nhiều vẻ đẹp
tuyệt vời.
Người ta đã gọi tuổi thơ là tuổi thần tiên, cặp
mắt của nhóc tì là cặp mắt của thiên thần và
hương thơm của trẻ nhỏ xuất phát từ thiên đàng,
mặc dù người ta chẳng hề nhìn thấy các thiên
thần, chưa một lần bước chân vào thiên đàng và
cũng chả biết thế giới thần tiên là đí gì, ngoại trừ
một vài kẻ đã được diễm phúc lạc vào đó, chẳng
hạn bên Tàu thì có vua Duệ Tôn, vua Đường
Minh Hoàng…Bên ta thì có Lưu Thần, Nguyễn
Triệu, Từ Thức…nhưng tất cả đều đã nằm yên
trong phần đất của cổ tích.
MỤC LỤC

Ông thánh Phaolô trong bức thư thứ hai gửi giáo
đoàn Côrinthô cũng đã cho biết một môn đệ
được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng có lẽ cách
diễn tả đúng nhất, vẫn là mắt chưa hề thấy và tai
chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm
nghiệm…

Còn Chúa Giêsu, Ngài đã khám phá ra nơi trẻ


nhỏ vẻ đẹp của các nhân đức nên Ngài không
phải chỉ yêu mến, chúc lành và bênh vực mà
hơn thế nữa còn lấy trẻ nhỏ làm khuôn vàng
thước ngọc cho người nhớn phải noi theo :
- Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ
chẳng được vào Nước trời đâu.
Nhìn vào trẻ nhỏ chúng ta sẽ ghi nhận được biết
bao nhiêu nhân đức cao đẹp.Trước hết, nơi trẻ
thơ không có hận thù, bạo lực mà chỉ có một
tình yêu thương dạt dào và không biên giới.

Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của hòa


bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi
Trẻ Chủ Nhật, gã thấy hay hay nên “cóp pi” ra
đây để cả và thiên hạ cùng đọc.
“…Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ đi thám thính
cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã,
MỤC LỤC

tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng
bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay
trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ
chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp lửa và một
thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó.
Với bước chân đi chập chững, nó đứng dậy cầm
chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt
chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần.
Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái
lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt
hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố mẹ
của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại
thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc lấy một ít xúp
và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho
tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không
hề hay biết. Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút
lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm
vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại
của kẻ thù…Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới
khi đuối sức thì dừng lại…Hình ảnh và cử chỉ
của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một
giây. Nó là ai ? Tại sao nó lại can đảm múc xúp
cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó ? Sức
mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như
vậy ? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng
bé, nó phải được sống trong trận càn quét sắp
MỤC LỤC

tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức
khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc
nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc
mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm
như vậy vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được
chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi
quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị
bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi
ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý
gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp
lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người
vợ bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì
mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của
tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít
xúp, phùng má thổi phù phù cho bớt nóng, rồi
mới đưa vào tận miệng tôi. Tôi chậm rãi tiết lộ
tông tích của mình và bảo họ : trước tiên vì sự
hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu
khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến
gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau mau lánh
nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc
chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến
và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình ảnh cuối
cùng mà tôi còn giữ mãi chính là hình ảnh thằng
bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa may
chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí
MỤC LỤC

trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp thơm


phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi đã
từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù
dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có
tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có
một “đứa bé của hòa bình” như thế, mãi mãi ở
giữa chúng ta”.

Tiếp đến, nơi trẻ thơ không có mưu mô và gian


dối, mà chỉ có một sự đơn sơ thành thực.

Một ông bố kia mắc nợ như chúa chổm. Vừa


mới thò mặt ra ngoài, bỗng thấy thiên hạ tới đòi
tiền, bèn vội thụt vào và căn dặn đứa bé :
- Tí nữa họ đến, con cứ bảo với họ rằng bố đi
vắng nhé.
Khi vị khách bất đắc dĩ này gõ cửa, đứa bé đã
vô tư nói :
- Bố cháu sai cháu ra thưa với bác rằng bố cháu
đi vắng.
Chả thế mà bên tây người ta thường bảo :
- Chân lý xuất phát từ môi miệng trẻ thơ. La
vérité sort de la bouche des enfants.
Còn bên ta thì nói :
- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.
Sau một thời gian đi vắng, muốn biết rõ những
MỤC LỤC

sự việc xảy ra ở nhà thì chỉ cần hỏi bọn nhóc,


chúng sẽ vô tư phun ra cho bằng hết, kể cả
những sự việc người nhớn muốn dấu diếm và
che đậy.
Thế nhưng, ngày hôm nay, những nét đẹp này
dần bị phai nhòa, thậm chí còn bị bôi xóa trong
tâm hồn trẻ thơ. Vì thế, gã mới giám cả tiếng lại
dài hơi mà la lên rằng :
- Tuổi thơ đã bị đánh cắp.
Vậy ai đã đánh cắp tuổi thơ của các trẻ nhỏ ?

Gã không phải là một chuyên viên về xã hội xã


hiếc hay tâm lý tâm liếc gì cả, nên chả dám múa
rìu qua mắt thợ, hay đánh trống qua cửa nhà
sấm, mà chỉ xin mạo muội đưa ra một vài nhận
xét thô thiển dựa vào những điều mắt thấy tai
nghe mà thôi.

Tên trộm xa đánh cắp tuổi thơ chính là xã hội.


Thực vậy, nhìn vào môi trường sống hiện nay,
gã thấy tình trạng đạo đức dường như đang
xuống cấp hay tuột dốc không phanh. Nhan
nhản khắp nơi những bạo lực, những gian tham,
những đồi trụy…Trên báo chí và truyền hình,
không ngày nào mà không có những vụ cướp
bóc và trấn lột, xì ke và ma túy, cưỡng bức và
MỤC LỤC

hiếp dâm.
Trẻ nhỏ hôm nay không mấy đứa còn thích chơi
những trò chơi dân gian. Chẳng hạn con giai thì
chơi rồng rồng rắn rắn, chơi đánh khăng, chơi
đánh núm, chơi thả diều…Con gái thì chơi
chuyền, chơi trải gianh, chơi ô quan, chơi nhảy
giây, nhảy cò cò…Nhưng lại có sẵn những trò
chơi điện tử. Có đứa thay vì học bài, đã miệt mài
ngồi bấm máy loạn cào cào hết giờ này qua giờ
khác, như ngày xưa thiên hạ ghiền tiểu thuyết
kiếm hiệp của Kim Dung, đọc ngày quên ăn, đọc
đêm quên ngủ vậy. Mà trò chơi điện tử thì nhan
nhản những bạo lực, nào bắn súng, nào bỏ
bom, nào triệt hạ tàu bay, tàu bò, tàu thủy. Và để
ăn dỗ tiền của con nít, người ta khéo chế tạo ra
những đồ chơi hấp dẫn chúng : nào kiếm, nào
gươm, nào đao, nào chùy…Thôi thì đủ món ăn
chơi, không thiếu một thứ gì sốt.

Chả thế mà trong những năm gần đây tại Việt


Nam đã xảy ra những vụ học trò đấm đá thày cô
và ở bên Mỹ đã xảy ra những vụ nhóc tì vác
súng bắn nhau loạn cào cào nơi sân trường
cũng như nơi công viên, đâu còn hình ảnh đứa
bé của hòa bình nữa.
Thế nhưng thủ phạm chính, tên trộm gần đã
MỤC LỤC

đánh cắp tuổi thơ lại chính là gia đình và đặc


biệt là cha mẹ.

Thực vậy, có những bậc cha mẹ luôn hục hặc,


thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau, cơm
chẳng lành, canh chẳng ngọt, rồi lôi nhau ra ba
tòa quan lớn mà ly dị. Những đứa con bị hất ra
ngoài đường, đi bụi đời, lang thang kiếm sống
bằng những công việc nặng nhọc. Nếu may mắn
còn được sống trong mái gia đình, thì cũng
chẳng tìm thấy một tình yêu thương chăm sóc,
Những em nhỏ bất hạnh này chẳng có được tuổi
thơ. Và nếu có, thì cũng chẳng giữ được cho
mình.

Tuy nhiên, phần lớn cha mẹ đã đánh cắp tuổi


thơ của con cái mình với những hình thức giáo
dục sai lạc.

Chẳng hạn có những đấng làm cha làm mẹ đã


cố tình bôi xóa sự đơn sơ chân thật của con cái
bằng cách dạy cho chúng gian tham. Một cô
giáo đã tâm sự qua mục “triển lãm cách dạy
con” của báo “Phụ nữ Chủ nhật” như sau :
“Chiều qua, trên đường đi làm về, nhìn thấy mấy
hàng cam tươi bên hông chợ Phạm văn Hai, tôi
MỤC LỤC

bèn rẽ vào mua. Trước đó, một bà mẹ trẻ đón


con trai từ trường mẫu giáo về cũng vừa ngồi
trên xe Dream cúi xuống lựa cam cho vào bịch
ny lông. Trong khi lựa, chị vô tình làm rớt một
trái cam khá lớn xuống đất. Sau đó, thay vì nhặt
trái cam lên, trả vào thúng cam của chị bán
hàng, thì người mẹ này lại thản nhiên cho vào
giỏ xe của mình sau khi bịch cam chị lựa đã
được cân và trả tiền đầy đủ. “Mẹ ơi, đó là trái
cam của cô bán hàng chớ mẹ ?” Cậu bé ngạc
nhiên hỏi mẹ. Người mẹ trẻ không ngờ cặp mắt
ngây thơ của cậu con trai đã kịp phán hiện ra…
sự “lầm lẫn” của mẹ nó, nhưng chị lờ đi. Thằng
bé tưởng mẹ không nghe thấy, khẽ giật vạt áo
mẹ, hỏi lớn hơn : “Mẹ ơi, đó là trái cam của cô
bán hàng bị rơi xuống đất, chớ có phải của mình
đâu mà mẹ lượn lên cho vào giỏ xe hở mẹ ?”
Bất ngờ, người mẹ quay lại, tát đánh “bốp” vào
mặt con, vừa tức giận la lên : “Mày có câm
miệng ngay đi không hả thằng khùng. Mắt mũi
mày để đâu mà không thấy đó là cam trong bịch
của mình bị rớt ra ngoài, mà còn cứ hỏi mãi.” Bị
đánh oan, cậu bé ôm mặt, òa khóc nức nở.
Chiếc xe Dream của người mẹ lao vút đi, nhưng
tiếng khóc oan ức cùng câu hỏi chưa được giải
đáp trong lòng cậu bé thì vẫn còn lưu lại trong
MỤC LỤC

tôi cho đến ngày hôm nay…”

Cũng có thể chính sự nghiêm khắc, thiếu cảm


thông của cha mẹ đã đẩy con cái tới chỗ gian
dối. Cũng trong mục “triển lãm cách dạy con” có
một mẩu như sau :
“…Cách đây vài tháng, cháu gái tôi xin phép ba
mẹ đi cắm trại hè với các bạn. Anh đồng ý cho
cháu đi đến sáu giờ chiều. Hôm đó, sau khi cắm
trại xong, trên đường trở về, các bạn rủ nhau đi
ăn kem. Cháu tôi cảm thấy lo lo, nhưng nghĩ
bụng : “Đã xin phép, chắc lỡ trễ một chút cũng
không sao.” Và rồi cháu tôi vui với các bạn đến
bảy giờ tối. Thế nhưng, đáp lại lời “Thưa ba, con
mới về” là một cái tát như trời giáng vào mặt
cháu. Sẵn tay, anh túm mái tóc dài của cháu và
tay kia cầm kéo (đã chuẩn bị trước), “xẹt” một
cái ngắn đến cổ, gần nửa phần tóc cháu. Mớ tóc
đen mượt vội rơi xuống đất. Thế là từ đó, cháu
gái tôi có một mái tóc “tém” rất “mô đen”. Và
cũng từ đó, mỗi khi muốn cùng đi chơi, giải trí
với các bạn, cháu tôi đều nói dối là đi học nhóm,
hoặc mượn tập, vở…Chiều này, anh của nhỏ
bạn cháu từ nước ngoài về, ngỏ ý “khao” các
bạn của em một chầu hải sản tươi sống, cháu
tôi buộc phải nói dối là cùng đi học nhóm. Thế
MỤC LỤC

mới được sự đồng ý của ba. Cháu nói nhỏ với


tôi rằng : “ Chính ba cháu buộc cháu phải nói
dối, cô ạ.” Tôi nghe mà không khỏi giật mình.
Bây giờ thì cháu tôi chỉ nói dối những chuyện
đơn giản, mai sau cháu sẽ quen dần, rồi chuyện
gì sẽ xảy ra ? Còn cháu út, vì không có dịp tụ
tập, vui chơi với các bạn, nên dần dà các bạn cô
lập cháu với lý lẽ “có rủ nó cũng chẳng đi”. Theo
thời gian, cháu út đã trở nên mặc cảm, chán nản
và mặc dù trước mặt vẫn ngoan ngoãn, lễ phép,
nhưng sau lưng đã bắt đầu tỏ thái độ “phản đối”
ba.

Ngoài ra, còn có những bậc cha mẹ tập cho con


cái mình thói bạo lực, vũ phu chi cục mịch.
Có lần gã được chứng kiến cảnh hai nhóc tì bịch
nhau. Một đứa chạy về méc bố và ông bố đã
làm quân sư quạt mo, vẽ đường cho hiêu chạy.
Ông ấy đã phán với nó như sau :
- Mày cứ sang nhà nó, phết cho mó một trận.
Mày mà không phết được nó thì về đây tao sẽ
phết cho mày te tua.
Tương tự như thế, vào một buổi chiều người mẹ
đón thằng bé học ở trường mẫu giáo, chị bỗng
thảng thốt hỏi : “Sao lại trầy mặt như thế này ?”
Thằng bé trả lời : “Bạn Hải cào mặt con”. Người
MỤC LỤC

mẹ liền quay hỏi cô giáo : “Hải là thằng nào vậy


cô ?” Cô giáo trả lời : “Cháu Hải về rồi chị ạ,
nhưng ban nãy cháu đã bị rầy và xin lỗi cu Bim
rồi, xin chị đừng giận, các cháu chỉ đùa và lỡ tay
một tí thôi mà. Không thể trút giận vào cô giáo,
người mẹ quay ra quát thằng bé : “Sau ngu thế,
mai mốt bạn nào cào con, thì con cứ cào lại nó,
ai đánh mình, thì mình phải đánh lại gấp đôi cho
nó sợ chứ, đứng yên ra đấy cho người ta cào cả
mặt”. Dạy cho con đánh nhau như vậy quả là hết
nước nói…”

Cha ông chúng ta thường bảo :


- Học ăn học nói, học gói học mở.
Trẻ nhỏ cần phải được học kể cả những cái đơn
sơ và tầm thường nhất, thế nhưng nhiều bậc
cha mẹ lại quên mất sự thật này, để rồi vô tình
đẩy con cái vào những thói hư tật xấu. Một tác
giả trên báo “Phụ nữ Chủ nhật” cũng đã ghi
nhận như sau :
“Một lần tôi tới nhà người bạn chơi, lúc đó mọi
người trong nhà đang quây quần bên một đứa
nhỏ chừng ba tuổi. Trông đứa bé mập mạp,
trắng trẻo thật dễ thương, tôi đến gần và nựng
bé, bỗng bé kêu lên : “Đ.M. mày”. Tôi thật ngỡ
ngàng, nhưng mọi người trong gia đình ấy lại
MỤC LỤC

cười ồ và lặp lại cái từ xấu xa kia nhiều lần, như


thể kích thích bé nói lại lần nữa.”

Gã bỗng nhớ lại một mẩu chuyện khác trong


sách “Cổ học tinh hoa” như thế này :
Vợ thày Tăng tử đi chợ, thấy con khóc đòi theo,
bà nói :
- Con ở nhà, rồi khi về, mẹ sẽ làm thịt heo cho
con ăn.
Lúc vợ về, thày Tăng tử bèn bắt heo làm thịt.
Thấy vậy bà vợ bảo :
- Mình chỉ đùa thôi.
Nhưng thày lắc đầu và nói :
- Đừng khinh trẻ thơ không biết chi. Cha mẹ làm
gì thì con cái thường bắt chước làm theo. Nay
mình nói dối con là mình đã dạy con nói dối rồi
đó.

Nói xong, thày bèn đi làm thịt heo cho con ăn


thật.

Nhưng thôi, viết nữa thì chỉ thêm buồn. Cùng với
tiếng trống tập múa lân : Tùng tùng cắc tùng
tùng… tùng tùng cắc tùng tùng…Xin hãy trả lại
tuổi thơ cho con em chúng ta.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● MỖI NĂM ĐẾN HÈ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Hôm nay, ông trời bỗng trở chứng. Một cơn bão
nhỏ từ biển Đông kéo về. Mưa rơi rả rích. Gió
thổi vù vù. Đang “cuộn mình trong chăn, như
con sâu làm tổ, trong trái vải cô đơn”, chập chờn
với giấc ngủ ban trưa, sướng rên hết ý, thì bỗng
nghe tiếng chuông reo. Mắt vẫn nhắm. Trườn
mình, vươn cánh tay với chiếc điện thoại. Giọng
nói khàn khàn của cụ chủ nhiệm vang lên, làm
gã tỉnh hẳn. Cụ phán :
- Hãy mau viết cho ta một mẩu chuyện phiến về
hè.
Thế rồi cụ cúp máy cái rụp, chẳng để cho gã…
khà khịa, châm chích chọc một vài lời hay hay tả
oán bằng sáu câu vọng cổ có mùi. Nếu như
thuở ban đầu, Đức Chúa Trời phán một lời liền
có mọi sự, thì gã cũng nghiệm ra rằng cụ chủ
nhiệm “yêu rấu” của gã cũng khoái cái món phán
như vậy lắm lắm.

Nói tới mùa hè, đôi mắt gã lim dim, bâng khuâng
tơ tưởng tới thuở còn mài đũng quần trên ghế
nhà trường. Lúc bấy giờ, mùa hè sao mà đẹp đẽ
và nên thơ quá chừng, nó đã khấy động tâm can
MỤC LỤC

và làm bừng lên những tình cảm vui buồn lẫn


lộn, nhưng chắc chắn niềm vui phải nhiều hơn
nỗi buồn.

Niềm vui lớn nhất là được “tung hê” sách vở,


được nghỉ ngơi thảnh thơi, đầu óc thoáng đãng,
không còn phải bận tâm với những bài học, bài
làm, bài thi…Và nếu ở nội trú, thì lại còn được
trở về nhà với ba với má, với chị với em, tha hồ
mà bắt nạt.

Riêng nỗi buồn thì chỉ phơn phớt và thoảng qua


như gió thổi, vì phải giã từ mái trường thân yêu,
xa rời thày cô và bè bạn. Vì thế, những ngày
trước khi nghỉ hè, dân học trò thường chuyền
tay nhau những tập “lưu bút ngày xanh”, ghi lại
những tình cảm thân thươngnhất của mình. Có
khi hai đứa cùng ở một xóm, đi cùng một đường,
ngày nào cũng đụng mặt nhau…thế mà khi thò
bút viết cũng phải làm ra vẻ lâm ly bi đát như
sắp sửa ngàn trùng xa cách, đúng như một bài
hát đã diễn tả :
- Mỗi khi đến hè lòng man mác buồn.
Khi đã khôn lớn và bước chân xuống cuộc đời,
không hiểu người khác ra sao, chứ phần gã thì
chả còn biết hè hiếc là cái đí gì cả. Ngày nọ nối
MỤC LỤC

kiếp ngày kia, quần quật kéo cày, tối tăm cả mặt
mũi. Rảnh dăm ba phút, thì chỉ kịp bắn một điều
thuốc lào mà thả hồn theo khói…Tối về đánh
một giấc cho tới sáng, rồi điệp khúc buồn lại tiếp
nối.

Bên cạnh nhà gã có một thằng bạn, tên là Cam.


Hắn đi dạy học ở phương xa, thỉnh thoảng được
về phép thăm vợ thăm con. Chỉ những ngày hè
mới thực sự thong dong, tha hồ mà hú hí. Vì thế,
cứ mỗi mùa hè, hắn lại hì hục nặn đúc một tác
phẩm trình làng, đến độ “vợ quen dạ” năm nào
cũng cho ra lò một nhóc tì để đời, khiến lũ con
nít trong xóm hát vang mỗi đêm trăng sáng :
- Mỗi năm đến hè bà Cam có bầu…

Bây giờ thì gã xin nghiêm chỉnh suy nghĩ tí chút


về sự nghỉ ngơi và gã bỗng nhận ra rằng Đức
Chúa Trời quả là một người cha nhân từ và dịu
hiền.

Theo sách Sáng thế ký, sau sáu ngày tạo dựng
thì ngày thứ bảy Ngài nghỉ ngơi. Dĩ nhiên, đã là
Đức Chúa trời thì chả cần phải nghỉ ngơi, nhưng
sở dĩ sách Sáng thế ký ghi lại như vậy là để nêu
gương cho con người. Thực vậy, trên đỉnh núi
MỤC LỤC

Sinai, Thiên Chúa đã truyền cho ông Môisen


mười điều răn, trong đó điều răn thứ ba được
qui định rành mạch như sau :
- Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày
thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và
làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy
là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công
việc nào, cả ngươi cũng như con trai, con gái,
tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong
thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa
đã dựng nên trời đất, biển khơi và muôn loài
trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy.
Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày
sabát và coi đó là ngày thánh.

Như vậy, sự nghỉ ngơi trong ngày sabát khởi


nguồn từ Thiên Chúa và nếu con người có nghỉ
ngơi thì cũng chỉ là bắt chước Thiên Chúa mà
thôi. Đối với người Do thái, cứ bảy ngày lại có
một ngày nghỉ và được gọi là ngày sabát. Cứ
bảy năm lại có một năm nghỉ và được gọi là năm
sabát. Cứ sau bảy lần bảy năm, nghĩa là sau
bốn mươi chín năm, thì năm thứ năm mươi sẽ là
năm nghỉ và được gọi là năm thánh, năm toàn
xá. Nghĩ cũng sướng.
MỤC LỤC

Một trong những việc chính yếu trong ngày


sabát, trong năm sabát, cũng như trong năm
thánh hay năm toàn xá là nghỉ ngơi. Không phải
chỉ con người mới nghỉ ngơi mà cả ruộng đất
cũng được nghỉ ngơi nữa, chứ không như chúng
ta hôm nay : làm ngày không đủ tranh thủ làm
đêm, rồi lại còn lợi dụng tối đa, múc cạn kiệt cả
nguồn tài nguyên thiên nhiên theo kiểu : vắt cù
chày ra nước, đãi cứt sáo lấy hạt đa…

Chúa Giêsu cũng vậy. Sau khi các môn đi thực


tập truyền giáo trở về và đang huyên thuyên
“báo cáo” những thành tích gặt hái được, thì
Ngài đã lên tiếng khuyên nhủ :
- Các con hãy tìm nơi thanh vắng và nghỉ ngơi
một chút.

Xem đó, gã thấy Đức Chúa Trời quả là khôn


ngoan và lòng lành vô cùng khi đòi buộc chúng
ta phải nghỉ ngơi. Thực vậy, con người không
phải là một cái máy, bởi vì cái máy có thể chạy
liền tù tì hai mươi bốn trên hai mươi bốn, nếu bộ
phận nào hỏng hóc thì lập tức được thay thế.
Con người thì khác. Nếu hỏng hóc thì có nhiều
nguy cơ ngỏm củ tỉ chứ khó mà thay thế. Và hơn
MỤC LỤC

thế nữa, yếu tố con người mới là yếu tố quan


trọng. Lao động phải phục vụ cho con người,
chứ không phải con người phục vụ cho lao
động. Vì vậy, phải biết tổ chức sao cho cuộc
sống này còn đáng sống một tí chứ.

Bản nhạc có nốt trầm nốt bổng, có dấu ngân dấu


lặng. Nếu chỉ toàn nốt bổng thì sẽ đinh tai và
nhức óc. Nếu chỉ toàn dấu ngân thì sẽ dài cổ ra
đứt hơi mà chết. Cây cung có lúc căng lúc
chùng. Nếu lúc nào cũng căng thì chẳng bao lâu
sẽ gẫy. Con người cũng vậy, có giờ làm việc thì
cũng có giờ nghỉ ngơi. Nếu cứ miệt mài lao
động, làm việc mãi, làm việc hoài thì chẳng mấy
chốc mà phát khùng, phát điên.

Trong những năm dài sau giải phóng, ở Việt


Nam đi đâu cũng đụng phải cái khẩu hiệu :
- Lao động là vinh quang.
Những kẻ thối mồm thối miệng còn chõ mõm
phệu thêm vào đó một lô một lốc, chẳng hạn
như :
- Lang thang thì chết đói.
Hay nói thì ở tù.
Lù khù thì sống lâu.
Thế mà hôm nay, nhà nước cũng đã phải qui
MỤC LỤC

định : mỗi tuần làm việc năm ngày. Thứ bảy và


chúa nhật nghỉ khỏe re, hơn cả con bò kéo xe.
Chỉ khổ cho dân buôn thúng bán mẹt. Nghỉ làm
thì cũng có nghĩa là treo niêu và nghỉ ăn luôn.
Bởi chưng :
- Có làm thì mới có ăn.
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Vì thế, ai phè phỡn, nghỉ ngơi mặc ai, còn ta, ta
vẫn phải ra sức kéo cày kiếm cơm nuôi vợ nuôi
con.

Dân Nhật, những năm trước đây đã lao động cật


lực để tái thiết đất nước sau cuộc thế chiến thứ
hai. Họ đã hùng hục làm việc bất kể ngày và
đêm. Khi nền kinh tế đã ổn định thì cũng chính là
lúc họ nhận ra dân mình có nhiều người bị
“stress”, hay nói nôm nói na là bị căng thẳng
thần kinh, bị khủng hoảng tâm lý và thích làm
người…cõi trên. Vì thế ngày nay, dân Nhật đã
“xì tốp” bớt cái nhịp điệu sản xuất, dành nhiều
thời giờ hơn cho sự nghỉ ngơi. Và dân Nhật là
dân đi nghỉ hè nhiều nhất ở nước ngoài.

Và như thế, nghỉ ngơi là một nhu cầu chính


đáng, phải đạo và sinh nhiều ơn ích, nhất là đối
với những người đã làm việc cật lực. Tuy nhiên
MỤC LỤC

vấn đề được đặt ra, đó là phải sử dụng thời gian


rảnh rỗi để nghỉ ngơi như thế nào ?
Một cô nàng ở bên Mỹ có lần đã tâm sự “mí” gã
như sau :
- Là người vợ, mình chỉ mong đến những ngày
nghỉ cuối tuần để đi mua sắn những sự lỉnh kỉnh
cần thiết cho gia đình, rồi giặt giũ, sắp xếp lại
cho ngăn nắp trật tự và nhất là mọi người sẽ
xum họp, gặp mặt nhau đông đủ. Thế nhưng, cái
mơ ước nhỏ nhoi và bình thường này cũng
chẳng thực hiện được, bởi vì từ thứ bảy tới sáng
thứ hai, anh ấy đều lặn mất tăm, biệt vô âm tín.
Anh ấy cùng với những người bạn ngồi rút xì
phé hay binh xập xám với nhau, chả còn giây
phút nào để mắt ngó ngàng tới nhà cửa và gia
đình. Có những chuyện mình cần tâm sự với
anh ấy mà chẳng được. Có những lúc mình cần
một bờ vai để tựa đầu mà cũng chẳng thấy. Dĩ
nhiên anh ấy có quyền xả hơi sau những ngày
vất vả mệt mỏi. Nhưng xả hơi theo kiểu này thì
xem ra có phầ…không êm.

Những ngày đầu khi mới đặt chân lên vùng đất
lạ, người Việt chúng ta thường lao mình vào
chuyện kiếm tiền để sớm ổn định cuộc sống và
nếu còn dư được chút đỉnh, liền gửi về giúp đỡ
MỤC LỤC

cho những người thân yêu còn trụ lại trên quê
hương này. Vì thế, ngoài giờ lao động chính
thức, còn phải cố gắng làm thêm, để tích lũy cho
mình tí tiền còm. Chả ai dám nghĩ đến chuyện đi
nhỉ hè.

Bây giờ cuộc sống tương đối sáng sủa, nên


nhiều người đã lên chương trình cho mùa hè
của mình. Chương trình ấy lệ thuộc vào cái
ngân sách, cái hào bao của gia đình. Nhiều tiền
thì đi xa. Ít tiền thì đi gần.

Nếu kinh tế đang hồi khủng hoảng, ngân sách bị


thâm thủng. Đầu vào thì ít mà đầu ra thì lại
nhiều. Kiếm chả được bao nhiêu, chẳng đủ bù lỗ
cho những nhu cầu cần thiết, ấy là gã chả dám
nói đến những kiểu tiêu xài con nhà lính tính nhà
quan, vung tay quá trán khiến cho công nợ
chồng chất. Trong trường hợp như thế, thì chỉ có
nước nghỉ hè tại nhà. Nghĩa là đóng cửa lại,
nằm ngủ cho đã con mắt. Đọc mấy cuốn sách,
để làm đẹp cho cuộc đời, làm giàu cho kiến
thức. Viết mấy bức thư, để nối lại nhịp cầu tình
cảm với những người thân quen rải rắc khắp
bốn phương trời.
MỤC LỤC

Khá hơn một tí, thì dẫn vợ con, bàu đoàn thê tử
đi chơi chỗ này chỗ khác. Nào là lên núi để
được thở hút những lọn khí trong lành. Nào là
xuống biển để được đùa dỡn với những ngọn
sóng. Nào là thăm các khu vực giải trí như
“Disney Land”…để cả nhà được vui vẻ.

Tuy nhiên, có người lại thích đếm những bước


chân âm thầm. Lặng lẽ đi tìm những cảm giác
mạnh, còn hơn là xem phim kinh dị toát mồ hôi
lạnh của Hitchcook, bằng cách chui vào những
sòng bạc, vật lộn với đỏ đen, để rồi khi ra khỏi
đó, thân hình phờ phạc và theo cách diễn tả của
ngắm mười lăm sự thương khó thì :
- Con mắt thì lõm vào, mặt mũi thì xanh xao,
chẳng còn hình tượng người ta nữa.
Đau hơn cả là đã nướng toàn bộ số tiền được
chắt chiu qua bao nhiêu ngày tháng gian nan
cực khổ đổ mồ hôi hột, không phải chỉ của mình
mà nhiều khi còn cả của vợ con nữa. Vì thế, cha
ông chúng ta ngày xưa vốn thường cảnh cáo :
- Cờ bạc anh đánh có chừng,
Hết khăn đến áo dây lưng cùng quần.
- Cờ bạc là bác thằng bần,
Áo quần bán bán hết, ngồi trần tô hô.
- Cờ bạc là bác thằng bần,
MỤC LỤC

Cửa nhà bán hết, cho chân vào cùm.


- Đêm nằm nghĩ lại mà coi,
Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà.

Nếu may mắn có số đỏ viếng thăm, có thần tài


phò trợ, thì số tiền kiếm được ở sòng bạc cũng
chả làm nên trò trống, hay cơm cháo gì, bởi vì
người ta sẽ tiêu phung tiêu phí, rốt cuộc của
thiên lại giả địa mà thôi :
- Tiền buôn tiền bán thì để trong nhà,
Tiền cờ tiền bạc để ra ngoài đường.
- Của làm ra để trên gác,
Của cờ bạc để ngoài sân,
Cùa phù vân để ngoài ngõ.

Lắm lúc nằm vắt chân lên trán thấy mình đã quá
dại, liền hối hận và dốc quyết chừa bỏ, thế
nhưng rồi chứng nào vẫn tật nấy, chó đen vẫn
giữ mực và mèo vẫn hoàn mèo mà thôi, bởi vì :
- Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt
quen mồm.
Giống như một ông thi sĩ nghiện rượu nào đó đã
ngang nhiên tuyên bố :
- Say sưa nghĩ cũng hư đời.
Hư thời hư vậy, say thời cứ say.
- Những lúc say sưa cũng muốn chừa.
MỤC LỤC

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.


Hay ưa nên mới không chừa được.
Chừa được mà ông cũng chẳng chừa.
Còn bây giờ, nếu dằn túi được một xấp tiền khá
bộn, theo kiểu “xu hào rủng rỉnh mán ngồi xe”,
thì thiên hạ có quyền nghĩ tới chuyện đi nghỉ hè
ở nước ngoài. Nếu cắm dùi tại Thụy sĩ, thì làm
một vòng Châu Âu hay bay qua Mỹ. Còn nếu ở
Mỹ thì vù sang Châu Âu. Đây quả là một sự lý
thú, bởi vì :
- Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
- Đi cho biết đó biết đây,
Ở nhà với mẹ, biết ngày nào khôn.

Tuy nhiên, phần lớn những chuyến ra nước


ngoài như vậy, thường là để thăm họ hàng hay
bè bạn. Mục đích của việc thăm viếng này quả
thực tốt đẹp vì nó bắc được một nhịp cầu cảm
thông, hâm nóng lại những tình cảm phần nào
đã nguội lạnh, phai nhạt vì sinh kế và công ăn
việc làm. Thế nhưng, nhiều lúc nó cũng đã gây
nên những phiền toái và tế nhị.

Người Việt mình vốn trọng tình nghĩa và sống


theo tình cảm, nên khi có bạn đến thăm, thì
chẳng lỡ lòng nào để bạn khăn gói quả mướp ra
MỤC LỤC

ngoài khách sạn mà ở. Thể nào cũng phải níu


kéo để bạn lưu lại tại nhà mình, rồi lại còn phải
chén thù chén tạc “mí” nhau, không chừng còn
phải nằm ghếch chân lên nhau mà tâm sự vụn.
Thôi thì đủ mọi chuyện trên trời dưới đất, từ
chuyện ngày xưa đến chuyện hôm nay, từ
chuyện người quen đến chuyện kẻ lạ ở khắp tứ
phương thiên hạ, từ chuyện trong nước đến
chuyện ngoài nước, từ chuyện chính chị chính
em đến chuyện thầm kín riêng tư…Như thế nó
mới vơi nỗi nhớ và đáng đồng tiền bát gạo cho
một chuyến đi.

- Bạn đến chơi đây, ta với ta.

Tuy nhiên, nếu chỉ lưu lại một hai ngày thì xem
ra mọi sự đều tốt đẹp bởi vì thoang thoảng hoa
nhài thì lại thơm lâu.
Thế nhưng, có người đã tính toán hơi kỹ, lấy
nhà của bạn làm nhà của mình cho đỡ tốn tiền
khách sạn cùng trăm thứ bà giằng khác nữa, lấy
điện thoại của bạn làm điện thoại của mình, lấy
xe cộ của bạn làm xe cộ của mình, thiếu điều
muốn lấy vợ của bạn làm bạn của mình nữa mà
thôi….khiến cho sinh hoạt của gia đình bạn bị
xáo trộn.
MỤC LỤC

Một khi sinh hoạt bị xáo trộn, thì sẽ trở nên gánh
nặng. Người ta muốn tống khứ vị khách bất đắc
dĩ này đi mà chẳng dám mở mồm mở miệng,
hay chẳng dám nói nên lời, khiến cho bầu khí trở
nên ngột ngạt và căng thẳng. Tình cảm ngày
đầu tay bắt mặt mừng tươi hồng thế nào thì nay
bỗng tàn tạ và héo úa. Gia đình bạn ấm ức, tức
như bị bò điên Ăng lê đá mà vẫn phải cắn răng
chịu vậy. Đôi khi vì thế mà vợ chồng bạn lườm
nguýt và âm thầm cấu véo lẫn nhau.

Theo gã thấy, thì hiện nay về thăm quê hương là


cái mốt đi nghỉ hè tiện lợi mọi bề. Một là được
nghỉ ngơi, nhất là ở những miền nông thôn khỉ
ho cò gáy mà bầu khí còn tinh nguyên, chưa bị ô
nhiễm. Hai là được thăm lại quê hương cùng với
những người họ hàng bà con và bè bạn thân
thích. Ba là giá cả phải chăng, không đến độ bị
cứa cổ hay bị đút đầu vô máy chém. Bốn là góp
được phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng
đất nước, bởi vì những đồng tiền được mang về,
nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp giúp cho
xứ sở này tươi đẹp hơn.

Tuy nhiên, không phải là không có những lạm


MỤC LỤC

dụng đáng tiếc đã xảy ra. Thực vậy, hẳn ai cũng


đã biết sự chênh lệch về mức sống giữa bên nớ
và bên ni. Hơn thế nữa, đồng đô la lại có giá.
Thành thử , với một dúm đô la trong tay, người
ta có thể tiêu xài vung vít, theo kiểu nhất dạ đế
vương, tha hồ mà mua sắm, tha hồ mà ăn chơi
phè phỡn, kể cả việc tha hồ mà lấy vợ, lấy
chồng…

Có những ông chồng, khi ở nước ngoài thì một


lòng một dạ chung thủy với vợ con. Nhưng khi
về thăm quê hương, xa vợ xa con thì lại sinh tật,
kiếm tí bồ nhí để vừa được giải sầu, vừa được
chăm sóc, lại vừa đỡ tốn tiền mà còn bảo đảm
an toàn, không lo bệnh nọ hay sợ tật kia. Lúc
nào họ cũng sẵn sàng mở miệng hô lớn :
- Nhất phu nhất phụ.
Nhưng trong thực tế thì họ lại thực hiện ý đồ đến
tối :
- Mỗi mụ một nơi.
Khi ở bên Mỹ thì chỉ có một vợ. Còn lúc ở Việt
Nam thì cũng chỉ có một vợ mà thôi. Báo chí tại
Việt Nam gần đây có đăng tải một vụ như thế
với hàng tít lớn : “Hỗn loạn trong tiệc cưới của
chàng Việt kiều”. Đại khái như thế này :
“Lúc đó là 19 giờ 15 phút ngày 16 tháng 4 năm
MỤC LỤC

2000, chú rể Lê văn Nhân và cô dâu đang niềm


nở chào đón quan khách đến dự đám cưới của
mình tại lầu 1, khách sạn New World, bỗng xuất
hiện một người đàn bà ẵm theo hai đứa con,
sấn xổ bước tới chỗ cô dâu chú rể. Nhìn thấy bà
ta, chú rể giật thót người, nhưng vẫn giả lả nói
cười với khách. Người đàn bà ấy tên là Nguyễn
thị Hồng quát to :
- Anh tính sao ? Anh tưởng mẹ con tôi không về
Việt Nam được hay sao mà tổ chức đám cưới
rình rang thế này ?
Bị chất vấn bằng những lời chì chiết, đay
nghiến, chú rể gân cổ sửng cồ :
- Tôi không biết bà là ai.
Đoạn anh ta xô đẩy ba mẹ con chị Hồng ra
ngoài.
Thấy vậy, nhân viên bảo vệ khách sạn liền đến
can thiệp. Chị Hồng tay cầm xấp ảnh, miệng
không ngớt giải thích và chứng mình cho mọi
người hiểu rằng chị là vợ chính thức của chú rể,
rồi xông vào giằng co với cô dâu. Tình huống
diễn ra khá phức tạp, bởi đi theo ba mẹ con chị
Hồng có gần một trăm đàn bà con gái, trong số
đó có hơn chục người đã xông thẳng vào đám
cưới. Đến nước này, cô dâu và chú rể phải vội
vàng thối lui vào phía trong. Nhờ sự có mặt kịp
MỤC LỤC

thời của Công an phường Bến thành, tình trạng


lộn xộn, bát nháo tại đám cưới mới chấm dứt.

Nội vụ đã được Công an phường làm rõ ngay


sau đó.
Lê văn Nhân, sinh năm 1972, định cư ở Mỹ, kết
hôn với Nguyễn thị Hồng vào ngày 18.2.1995 tại
Mỹ và đã có với nhau hai mặt con. Chị Hồng
than thở :
- Anh Nhân mới sinh tật từ trước tết đến nay. Tôi
và gia đình của anh đều khuyên nhủ anh bỏ ý
định cưới nữ nghệ sĩ U.T. làm bé, nhưng anh đã
bỏ ngoài tai.

Được biết, sau bốn lần về Việt Nam và làm quen


với nghệ sĩ hài U.T, Lê văn Nhân đã sắp đặt kế
hoạch cưới…chui.
Đoạn tường thuật kể trên, gã xin mượn tạm
trong báo Công An thành phố. Câu chuyện còn
dài, nhưng bằng đó mà thôi cũng đủ cho thấy có
những kẻ xấu lạm dụng những ngày nghỉ ngơi,
trở về quê hương để thực hiện những ý đồ mời
ám, khiến cho con sâu làm rầu nồi canh.

Để kết thúc, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nho


nhỏ như sau :
MỤC LỤC

Khi về già, tướng Wellington ngày kia đã trở lại


thăm làng cũ. Ông đưa mắt nhìn khoảng sân
trường xưa, nơi trước kia ông đã chơi đùa với
bè bạn. Rồi với một dáng bộ suy nghĩ, ông nói :
- Chính tại nơi đây, tôi đã thắng được Napoléon.
Qua lời này, ông muốn bảo rằng :
- Chính tại sân chơi này, tôi đã học được những
bài học quí giá của lòng can đảm, tự tin, kỷ luật,
cộng tác và yêu thương, nhờ đó sau này trong
cuộc đời tôi đã chiến thắng được những khó
khăn, kể cả việc chiến thắng Napoléon tại
Waterloo.
Là người Việt Nam chúng ta sẽ bảo :
- Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Như vậy, cũng phải học cả nghỉ ngơi nữa.
Là dân có đạo, chúng ta sẽ nói :
- Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, thì cũng
phải làm vì danh Đức Kitô.

Như vậy, cũng phải nghỉ ngơi vì Đức Kitô nữa.


Dù là kẻ khố rách áo ôm, vai nặng chân trơn,
đang tán hươu tán vượn tới đây, thì bỗng nghe
thấy giọng hát trong trẻo của quí vị nhi đồng trên
truyền hình với bài “Hè về” của Hùng lân :
- Hè về trong khóm trúc mền đầu bờ,
MỤC LỤC

Hè về trong tiếng sáo diều dật dờ,


Hè về gieo ánh tơ.

Lòng gã bỗng rộn lên một niềm vui dạt dào, cứ


tưởng như mình đang khăn gói quả mướp lên
đường sang Thụy sĩ nghỉ hè và luôn thể ghé
thăm cụ chủ nhiệm…”yêu rấu”.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● GÕ ĐẦU TRẺ

Chuyện phiếm của Gã siêu.


Không hiểu ở bên nớ thế nào, chứ còn ở bên ni
thì cứ vào giữa tháng 11, giới học trò lại lao xao
lên phương án cho một ngày, được gọi la ngày
nhà giáo, ngày tết của các thày cô. Đó là ngày
20 tháng 11.

Đây là cơ hội để tôn vinh và tưởng nhớ đến


công ơn của các thày cô, những người đã hy
sinh cuộc đời cho thế hệ tương lai, như lời cổ
nhân đã dạy :
- Nhất niên chi kế mạc thụ cốc, thập niên chi kế
mạc thụ mộc, bách niên chi kế mạc thụ nhân. Có
nghĩa là kế một năm không gì bằng trồng lúa, kế
mười năm không gì bằng trồng cây, kế trăm
năm không gì bằng trồng người.

Chả thế mà Viện Đại học Công giáo tại Đalạt


ngày xưa đã lấy cho mình cái huy hiệu cây
thông xanh với hai chữ : thụ nhân.

Trong ngày vui ấy, học trò ríu rít tặng hoa, tăng
quà cho các thày cô. Nhà gã ở cạnh trường và
có được một vườn bông nho nhỏ, quanh năm ra
MỤC LỤC

sức chăm sóc. Thế nhưng, vào ngày này, thế


nào cũng được xấp học trò chiếu cố, kéo đến
và…vặt trụi. Tuy nhiên nhìn vào những khuôn
mặt hớn hở, những cặp mắt ngây ngô và những
bước chân tung tăng… gã cũng cản thấy vui lây
vì mình đã làm được một việc tốt lành và hữu
ích cho tuổi thơ vùng khỉ ho cò gáy này.

Chính vì lẽ ấy, mà lịch năm thánh tại Việt Nam


cũng đã ăn theo, chọn ngày này để cầu nguyện
cho các thày cô. Còn gã thì chỉ xin ăn ké, lợi
dụng nước đục thả câu, để tán dông tái dài về
đề tài này tí chút.

Ngày xưa có những chú bé, đầu còn để chỏm,


thế mà cũng đã mong vào “tràng la tinh”, tức là
vào chủng viện với ước mơ được làm…cha. Sở
dĩ như vậy chỉ vì các cha được ăn bánh tây, ở
nhà tây, đi giày tây và ra tới ngõ đều được bàn
dân thiên hạ, bất kể già trẻ lớn bé, khoanh tay
cúi đầu chào :
- Con xin phép…lạy cha ạ.
Những chú bé ấy cũng như các tông đồ, mặc dù
đã theo Chúa, nhưng vẫn còn mang nặêng đầu
óc xôi thịt, muốn được làm lớn và được ngồi bên
tả bên hữu trong vương quốc của Chúa, theo
MỤC LỤC

kiểu vinh thân phì gia, một người làm quan cả


họ được nhờ. Thế nhưng, với sự trợ giúp của
ơn Chúa, với sự hướng dẫn của các bề trên,
ước mơ lúc ban đầu tuy vẫn đục, nhưng dần
dần được thanh lọc để rồi kết tinh thành lý tưởng
dấn thân phục vụ.

Ngày nay, nhiều cô cậu học trò khi được hỏi về


nghề ngỗng tương lai, cũng đã trả lời :
- Lớn lên, em sẽ làm cô giáo.
Đây quả là một chọn lựa can đảm bởi vì giữa
thời buổi xô bồ, đang lúc mọi người nhắm mắt
chạy theo dòng chảy của tiền bạc mà lại đi chọn
lựa nghề giáo, một nghề nghèo rớt mùng tơi, thì
chỉ có thể là anh dũng hay dại khờ mà thôi.
Cũng như chú bé “nhà tràng”, nhiều cô bé đã vô
tư ươm mơ làm cô giáo, chỉ vì mỗi khi ra đường
đều được mọi người gọi là cô, lúc nào cũng áo
quần bảnh bao, đồng thời còn nhận được rất
nhiều quà trong những dịp lễ tết.

Gã còn nhớ, hồi bé lúc ở bậc tiểu học, năm nào


cũng được đi tết thày. Bởi vì như các cụ đã từng
dạy con cháu :
- Mồng một tết cha, mồng hai tết chú, mồng ba
tết thày.
MỤC LỤC

Đồ lỡi của mối đứa là ba trái trứng gà, được mẹ


túm cẩn thận trong một chiếc khăn. Cả lớp mấy
chục đứa nên trứng chất đầy cả một cái chum
và thày cứ việc xơi trứng đến mệt xỉu. Rủi thay
đứa nào bị vấp ngã làm bể trứng thì chỉ có nước
đứng khóc hu hu dọc đường mà thôi. Được thày
xoa đầu, lì xì cho tí tiền còm hay một cái kẹo,
cũng đã vội chạy về khoe với bu.

Tuy nhiên, nghề nào thì cũng có mặt phải và mặt


trái, niềm vui và nỗi buồn của nó. Vậy niềm vui
của nhà giáo là gì ? Gã xin thưa : Niềm vui
thứ nhất, đó là thày cô đã góp phần vào việc
hướng dẫn và đào tạo các em trở nên những
con người hiểu biết và hữu ích.

Thực vậy, nhờ thày cô mà chúng ta biết đọc biết


viết, biết cộng trừ nhân chia và biết mở ra thế
giới bên ngoài…Nhờ thày cô mà chúng ta biết
rèn luyện nhân cách để thăng tiến bản thân.
Chính vì thế mà người ta vốn gọi thày cô là nhà
kỹ sư của tâm hồn, vì không thày đố mày làm
nên.

Niềm vui thứ hai, đó là thày cô đã góp phần vào


việc xây dựng xã hội.
MỤC LỤC

Thực vậy, nếu yếu tố con người là tiền vốn đầu


tư cho đất nước, thì tuổi thơ cũng chính là tương
lai của quốc gia. Đào tạo các em trở thành
những người hiểu biết và hữu ích là các thày cô
đã làm cho quê hương này được phát triển và
đi lên phơi phới, chả mấy chốc mà hóa kiếp
thành rồng lớn, rồng nhỏ, dễ như trở bàn tay.
Chính vì thế mà người xưa cũng đã bảo :
- Lương sư hưng quốc. Có nghĩa là thày giỏi thì
nước mạnh.
Do bởi những đóng góp này mà nhà giáo luôn
được trọng kính ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Ngày xưa cũng như hôm nay. Bên đông cũng
như bên tây.

Ở Việt Nam, nền luân lý mang nặng ảnh hưởng


của Khổng giáo. Và theo Khổng giáo, thì trong
xã hội có ba hạng người chúng ta phải kính phải
trọng, đó là quân sư phụ, vua thày và cha. Cho
dù người thày ấy chỉ dạy chúng ta được có một
chút xíu, bởi vì :
- Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Một chữ cũng là
thày và nửa chữ cũng là thày.
Từ đó chúng ta thấy “tôn sư trọng đạo” kính thày
va mộ đạo vốn là một nét đẹp của truyền thống
dân tộc.
MỤC LỤC

Ở bên Tây cũng vậy. Người ta thường bảo :


- Phải trọng kính thày cô hơn cả cha mẹ, bởi vì
cha mẹ trao ban cho chúng ta sự sống, còn thày
cô chỉ vẽ cho chúng ta cách sống tốt đẹp.

Gã còn nhớ hồi nhỏ có được học một bài về


lòng nhớ ơn thày. Bài này kể lại hình như ông
Carnot, sau khi đã gặt hái những thành công rực
rỡ trên đường đời, ngày kia ông trở về thăm quê
cũ, mọi người trong làng ra nghênh đón ông một
cách trọng thể và coi ông như là một vị anh hùng
của dân tộc.

Thế nhưng, vừa đến đầu làng, ông đã vội vàng


xuống ngựa, chạy thẳng tới và ôm hôn một cụ
già, khiến cho cụ già ấy vô cùng xúc động. Cụ
già ấy chính là thày giáo trường làng, đã từng
dạy cho ông những bài học vỡ lòng, khi ông cắp
sách đến trường. Ông nói lớn cho mọi người
cùng nghe :
- Chính nhờ thày mà tôi được như ngày hôm
nay.
Như trên gã đã phát biểu thật hách xì xăng :
- Phàm bất cứ nghề ngỗng nào trên đời thì cũng
có mặt phải và mặt trái, niềm vui và nỗi buồn.
MỤC LỤC

Vậy nỗi buồn của nhà giáo là như thế nào ?

Rất tiếc, nghề ngỗng của gã không phải là nghề


gõ đầu trẻ, thành thử vốn liếng kinh nghiệm tích
lũy chẳng được bao nhiêu. Thôi thì cứ việc
giương mắt ếch mà nhìn, thấy cái gì, viết cái ấy.
Lỡ có thêm tí mắm muối, hành tỏi để được đậm
đà, thì cũng mong bàn dân thiên hạ thông cảm,
chứ đừng cho nhà báo…nói láo ăn đòn đấy nhé.

Phàm làm bất cứ công việc gì trên thế gian thì


vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề…
tiền đâu ? Qui luật của muôn đời ấy mà ! Không
hiểu ở bên tây thế nào, chứ còn ở bên ta, nhà
giáo vốn thường được gọi là những người bán
cháo phổi. Vất vả rất nhiều mà tiền lương ba cọc
ba đồng, chẳng được bao nhiêu. Nuôi sống bản
thân đã khó, huống nữa là nuôi sống vợ con và
gia đình. Vi thế, người ta thường hay diễn tả :
- Nhà giáo húp…cháo mà ăn.

Cũng vì đồng lương ba cọc ba đồng, bụng đói


đầu gối phải bò…Và thế là các thày cô, ngoài
giờ đến trường và đứng lớp còn phải kiếm sống
thêm bằng những nghề phụ, được gọi là những
nghề tay trái.
MỤC LỤC

Có thày thì đi chạy xe ôm. Thế nhưng, chẳng


may gặp khách hàng là những cô cậu học trò
của mình, thì chỉ còn nước cúi gầm mặt xuống,
mong được đằng vân độn thổ như Tôn Ngộ
Không trong Tây du ký mà thôi.

Có cô thì mở lớp dạy thêm và thế là bị cuốn theo


chiều gió của đồng tiền để rồi cũng mánh mung
câu học trò. Nào là dạy trước ở cua những bài
sẽ giảng trong lớp. Nào là khi ngày thi sắp đến
thì cắt nghĩa đề cho nhóm nhỏ thân yêu. Vì thế,
những em học thêm sẽ cảm thấy khỏe re khi tới
lớp, bởi vì thế nào mình cũng sẽ được điểm cao.
Nào là những em học thêm sẽ được ưu đãi.

Có một cô bé đã vô tư hỏi mẹ :
- Má à, hôm nay cô chọn năm bạn vào đội học
sinh giỏi, nhưng không có con. Sao kỳ vậy hả
má, bởi vì năm ngoái con đứng hạng nhì cơ mà.
Rồi hôm qua, đi học về cô bé đã nằm sõng sượt,
vùa kể vừa rơm rớm nước mắt :
- Hôm nay cô chọn thêm mười bạn nòng cốt của
lớp mà vẫn chẳng có con. Nòng cốt là giỏi phải
không má ? Như vậy là con bỗng bị tụt xuống
hạng mười sáu, mười bảy rồi còn gì. Con chẳng
muốn đi học nữa đâu.
MỤC LỤC

Bỗng cô bé “à” lên một tiếng. Nó ngồi bật dậy và


nói :
- Thôi đúng rồi. Tại con không đi học thêm ở nhà
cô đấy thôi. Con nghĩ kỹ rồi. Mười lăm bạn cô
chọn, bạn nào cũng đi học thêm hết. Vậy là cô
không công bằng gì cả.
Nghe thế, người mẹ như cảm thấy nhói trong
lòng vì thực tình, bà không muốn cô bé phát
hiện ra điều ấy chút nào, bởi nó xúc phạm người
thày quá.

Mẩu đối thoại này đã được đăng trên báo “Phụ


nữ Chủ nhật” làm cho gã cũng phải xót xa. Nếu
ngày xưa các cụ ta đã bảo :
- Kim tiền hắc nhân tâm, có nghĩa là vàng bạc
làm mờ lòng người.
Thì hôm nay, đồng tiền cũng đã làm mờ mắt một
số các thày cô, để rồi không còn có được thái độ
“chí công vô tư”, nhưng ngả bên này, nghiêng
bên nọ. Báo chí cũng đã phê phán rất nhiều về
nạn “học thêm”, khiến cho các em nhỏ phải học
quá sức mình, không còn thời giờ nghỉ ngơi, bởi
vì :
- học ngày không đủ, tranh thủ học chiều học tối.
Còn những bậc cha mẹ, dù thương con, cũng
MỤC LỤC

phải cố gắng chắt bóp để bắt con cái đi học


thêm, bởi vì con người hàng xóm học thêm mà
con mình lại không thì cũng chẳng ra làm sao.
Hơn thế nữa, để được đẹp lòng thày cô, không
bị trù dập, thì cũng chỉ có con đường một chiều,
đó là học thêm mà thôi.

Tiếp đến, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai


cũng có những khuyết điểm. Vì thế, thày cô
cũng là người cho nên không tránh khỏi những
sai sót của mình. Chính những sai sót này, đôi
khi đã tạo nên những bất mãn, những bực bội
và làm giảm bớt sự trọng kính đối với các thày
cô.

Gã xin ghi lại nơi đây hai sự việc cũng đã được


đăng trên báo “Phụ nữ Chủ nhật”. Sự việc thứ
nhất được một bà mẹ bật mí như sau :
Con trai tôi kể chuyện : vào những tiết học toán,
cả lớp con không còn là học sinh nữa, mà thành
những con bò, còn lừa tất. Cô giáo chỉ vào từng
đứa, hét lên :
- Một con bò, hai con bò, cả một lũ bò.
Tôi ngạc nhiên :
- Hôm nọ là bò rồi cơ mà.
Con trai tôi thật thà :
MỤC LỤC

- Lẽ ra là lừa, nhưng chắc là cô quên. Nhưng mà


lừa hay bò thì cũng thế cả thôi.
Ngày khác, cháu nói :
- Hôm nay cô giáo con không gọi học trò là lừa
hay bò nữa.
Rồi cháu cao giọng bắt chước tiếng cô :
- Óc của các trò chỉ đáng đem cho heo ăn mà
thôi. Sao mà ngu thế không biết.
Em gái cháu cười bò ra, vô tư. Trong lúc tôi
đang buồn bã, chưa biết nói gì, thì cháu thở dài :
- Cô gào thét nhiều quá, vừa điếc tai, vừa mất
bao nhiêu thời gian học.
Ngược lại, có những cô giáo không hề la hét,
mà chỉ nói rất nhẹ nhàng :
- Hình như đầu em chỉ chứa toàn đậu phụ mà
thôi, có phải như vậy không ?
Hoặc hạ giọng mỉa mai một cô bé mặc bộ quần
áo đắt tiền mà bài không thuộc :
- Em tưởng rằng làm người mẫu thời trang thì
chẳng cần phải học. Đúng vậy không ?
Lại có cô điều khiển lớp học bằng cây thước :
- Quên vở hả ? Bốp.
- Không thuộc bài hả ? Bốp.
- Chưa làm bài hả ? Bốp.

Không ai có thể thoát khỏi cây thước của cô, kể


MỤC LỤC

cả những học sinh giỏi và ngoan, bởi vì có rất


nhiều lý do đáng được ăn thước. Thế là cả tiết
học, học trò thấp thỏm chờ đến phiên mình “ăn
thước”, cứ căng người lên mà chờ đợi, có được
mấy kiến thức chui vào đầu đâu ?

Viết tới đây, gã bỗng nhớ tới một vị thày đáng


kính, rất yêu thương học trò, những cũng vì yêu
thương ấy, khiến thày rất hay chửi bới. Thí dụ,
một học trò tên là Thông, chẳng may hôm ấy
không thuộc bài, thì liền bị một chầu xỉ vả :
- Tên mày là Thông, mà chẳng thông thái chút
nào, cứ thế này thì lớn lên sẽ đi thông cống mà
thôi.

Sự việc thứ hai là tự ái quá cao của các thày cô.


Cứ nghĩ rằng mình đứng trên bục giảng là được
đặc ân “vô ngộ”, không thể sai lầm, giống y như
Đức thánh “Pha Pha” vậy.
Một cô giáo dạy văn, khi biết mình sai về một
chữ nào đó, chẳng hạn như “trà đạp” thay vì
“chà đạp” đã nói với các em học sinh như sau :
- Cô xin lỗi vì cô đã sai. Các em chữa bài đi,
“chà đạp” chứ không phải là “trà đạp” đâu. Cô đã
hơn ba mươi năm đứng trên bục giảng và hôm
nay một em đã chỉ cho cô thấy mình sai.
MỤC LỤC

Rồi quay sang em đã chỉ ra chỗ sai, cô nói :


- Cám ơn em. Từ hôm nay em có thể nghỉ học ở
lớp này vì em giỏi rồi, tôi không còn gì để dạy
em nữa. Cả lớp mở vở ghi bài mới.
Lời cám ơn này đã làm cho mọi người chới với
và hụt hẫng.
Nỗi buồn còn len lỏi vào cả cách thức giảng dạy.
Thực vậy, thế giới và con người không ngừng
chuyển biến. Mỗi thời có những đổi thay riêng
của nó. Ngày xưa, cách thức giảng dạy có phần
nghiêm khắc hơn, bởi vì :
- Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
Người tây phương cũng bảo :
- Bác sĩ nghiêm khắc với bệnh nhân thế nào, thì
thày cô cũng phải nghiêm khắc với học trò như
vậy.

Gã còn nhớ thày giáo già dạy lớp mẫu giáo, khi
tập dánh vần, lúc nào thày cũng cầm sẵn một
chiếc roi mây, đứa nào nói ngọng hay chữ “r” mà
không cong lưỡi lên thì liền bị một roi. Chính nhờ
vậy mà bọn gã phát âm tương đối chuẩn.
Còn thày dạy Pháp văn khi gã ở bậc trung học.
Ngày nào thày cũng khảo bài cả lớp. Và hễ tên
nào không thuộc thì lập tức bị thày phán :
- Hạ mã. Có nghĩa là quì xuống.
MỤC LỤC

Nhờ sự nghiêm khắc ấy mà bọn gã học rất tiến,


để rồi bây giờ gã có thể xác quyết :
- Tất cả vốn liếng tiếng “Phăng xe” còn đọng lại
cho tới ngày hôm nay, thì hầu hết là do công lao
của thày.

Hiện giờ, cách thức giảng day có phần thoải mái


hơn. Thày phải tôn trọng trò. Nếu thày cho trò ăn
đòn, thì không khéo sẽ bị lôi ra ba tòa quan lớn
như tại các nước bên tây.
Tuy nhiên, nỗi buồn lớn hơn hết của các thày cô
hôm nay, đó là hình như lòng trọng kính dường
như đang bị sút giảm. Mặc dù báo chí vẫn hô
hào và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”,
nhưng trong thực tế, không thiếu gì những sự
việc đáng tiếc đã xảy ra.

Thày giáo tên Cảnh, dạy môn toán, mắc chứng


hay la mắng và hù dọa học trò, nhất là khi chúng
không thuộc bài. Thế rồi một buổi sáng, khi
bước chân vào lớp, thày nhìn thấy trên bàn một
củ hành tây thật to. Hình như bọn học trò này
muốn gửi cho thày một thông điệp. Thông điệp
ấy gói gọn trong củ hành tây ấy, bởi vì :
- Củ hành, có nghĩa là Cảnh hù.
Một cô bé khác trả thù thày như sau : ruộng nhà
MỤC LỤC

thày nằm sát cạnh ruộng nhà cô bé. Và thế là


mỗi khi đi làm cỏ, nhổ được cọng cỏ nào, cô bé
liền ném sang ruộng nhà thày…cho bõ tức.

Đúng là nhất quỉ nhì ma, thứ ba học trò. Có


những nghịch ngợm dễ thương, những cũng có
những nghịch ngợm hỗn láo cần phải lên án.
Không thiếu gì những trường hợp trò đã thượng
cẳng chân, hạ cẳng tay đối với thày cô. Cách
đây không lâu, báo “Công an Thành phố” có
đăng tải một mẩu tin nho nhỏ với tựa đề “Học
kém đâm…giận thày”, đại khái như sau :
“Khu nhà tập thể của giáo viên tại ấp Phú lâm,
xã Phú thành B, huyện Tam nông, tỉnh Đồng
tháp, từ ngày hai mươi tháng mười một đến
ngày mồng bảy tháng mười hai đã ba lần bị
cháy. Lần sau cùng, khi ngọn lửa được dập tắt
thì khu nhà chỉ còn trơ trọi một đống tro. Toàn bộ
quần áo, sách vở, giáo án, sổ liên lạc, bài kiểm
tra…đều bị thiêu rụi. Mỗi thày cô chỉ còn lại duy
nhất một bộ quần áo mặc trên người. Trước sự
việc nghiêm trọng này, Công an huyện Tam
nông quyết làm rõ vụ việc. Thủ phạm là Nguyễn
hoàng Nam mới chín tuổi, ở cách khu nhà tập
thể chừng năm mét. Nam là con trái út trong
nhà, rất lì lợm nhưng luôn được cưng chiều.
MỤC LỤC

Trong lớp, nhiều lần Nam không thuộc bài nên bị


thày phạt. Từ đó Nam nghĩ phải…trả thù bằng
cách đốt nhà thày.

Học trò giảm sút lòng trọng kính đã là một sự


việc đáng buồn. Thế nhưng, đáng buồn hơn
nữa, khi những bậc phụ huynh về hùa với con
cái mình mà hành hung và xin “tý huyết” thày cô.
Hay lợi dụng chức quyền mà chửi bới, trù dập
thày cô. Vì bênh con, nhiều bậc cha mẹ đã có
những hành động đáng tiếc.

Hôm đó, chẳng hiểu thày sơ ý hay vì nóng giận


đã cho một cậu ấm, con một vị chức sắc mấy
thước kẻ. Khi hay biết tin ấy, vị chức sắc kia đã
đi dọc theo những con đường làng, vừa đi vừa
chửi thày một cách thậm tệ :
- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con
cái nhà người ta như thế à. Tiên sư cha nó.

Chắc hẳn là còn nhiều nỗi buồn hơn nữa, nhưng


bằng đó mà thôi cũng đủ làm cho gã cảm thấy
thấm thía và cay đắng. Trong nghề nhà giáo, có
những cái nghịch lý, nhất là các cô giáo dạy ở
những lớp nhỏ, chẳng hạn con mình không day
lại đi dạy con người khác. Những nghịch lý ấy
MỤC LỤC

phần nào được diễn tả trong một bài thơ của


Đoàn thị Lam Luyến, gã xin mượn tạm và viết ra
đây :

- Em là cô giáo mầm non,


nghề chi mà dễ sớm con muộn chồng.
Đêm thì vắng, ngày thì đông
Chăm thì chăm thế, mẹ chồng vẫn chê!
Sáng sớm đi, tối muộn về
Trong nhà chân đất, dép lê ngoài đường,
Chồng thì khi giận khi thương.
Trẻ thì đứa ấm, đứa ương lạ đời.
Trẻ ngoan thì cô mới cười
Con mình thì nhãng, con người mình chăm
Lương mình chẳng đủ mình ăn
Thì em cấy ruộng cho bằng người ta.
Rồi tác giả đã kết luận :
- Trẻ thơ như chiếc lá diều
Em là ngọn gió một chiều đương thu.

Mặc cho những nghịch lý, mặc cho những nỗi


buồn, nghề nhà giáo vẫn cao trọng, vẫn tốt đẹp.
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, quê hương này vẫn
luôn cần đến, vì lương sư hưng quốc, và kế
trăm năm không gì bằng trồng người.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● NỖI LO CỦA TUỔI GIÀ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Gã đang cắm dùi tại một vùng nông thôn khỉ ho
cò gáy và gã bỗng nhận ra sự phát triển ghê
gớm của cỏ dại. Một thửa ruộng vừa gặt xong,
chỉ cần vài ba trận mưa là cỏ dại tự nó nảy mầm
và lớn lên. Thậm chí chỉ cần múc một tí bùn
dưới sông đổ lên mặt đường và thế là…a lê hấp
cỏ dại liền xuất hiện.

Từ hình ảnh cỏ dại, gã liên tưởng tới một hình


ảnh khác, cóc cần tới sự quan tâm của con
người, đó là hình ảnh của thời gian. Dĩ nhiên,
chẳng ai nhìn thấy thời gian tròn hay méo, dài
hay ngắn, vì thế cho nên người ta mới so sánh,
ví ví von von.

Có kẻ cho rằng thời gian giống như chiếc bánh


xe bò, đủng đỉnh quay, tuy chậm nhưng mà
chắc. Chỉ quên đi cái vèo là mấy chục năm đi
đứt.

Mới ngày nào, gã mới chỉ là một chú nhóc đầu


húi cua, thế mà giờ đây sống lâu cũng được lên
lão làng, ra đường thiên hạ cũng cúi đầu chào
MỤC LỤC

bác, chào ông.

Mới ngày nào, chúng ta còn trai trẻ thế mà giờ


đây cũng đã bước vào buổi trưa hay buổi chiều
của đời mình. Chính vì thế, các cụ ta ngày xưa
mới bảo :
- Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sống sộc nó thì tới ngay.

Có những biến cố, có những câu chuyện, gã


tưởng mới chỉ xảy ra cách đây một vài ngày hay
một vài tháng là cùng, thế mà cũng đã hai mươi
mấy năm rồi, chẳng hạn biến cố ba mươi tháng
tư năm bảy mươi lăm.

Có người cho rằng thời gian giống như một


giòng sông, âm thầm lặng lẽ trôi, ngày này sang
ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này
sang năm khác, chẳng chờ ai mà cũng chẳng
đợi ai. Và một khi đã trôi qua thì sẽ chẳng bao
giờ trở lại. Bởi đó, thiên hạ mới có lý khi phát
biểu :
- Chẳng ai tắm hai lần trên cùng một giòng sông.
Hay như tục ngữ cũng đã bảo :
- Thời giờ thấm thoát thoi đưa,
Nó đi đi mãi, chẳng chờ đợi ai.
MỤC LỤC

Chính vì chẳng thèm chờ ai mà cũng chẳng


thèm đợi ai, nên thời gian mới mang một vẻ mặt
lạnh lùng đến tàn nhẫn. Dù chúng ta có níu kéo
thì thời gian vẫn cứ đường ta, ta cứ đi, để rồi
dần dần vuột khỏi bàn tay chúng ta. Bởi đó thiên
hạ mới bảo :
- Có tuổi trẻ nào mà không già, có nhan sắc nào
mà không bị tàn phai với thời gian.

Và như vậy, cái già như một người khách bất


đắc dĩ, tới một lúc nào đó, nó sẽ sồng sộc chạy
vào cuộc đời mỗi người, dù chúng ta không
muốn. Chẳng những không muốn, mà nhiều
người còn muốn che dấu tuổi già của mình, nhất
là đờn bà con gái. Bởi đó, Xuân Diệu đã viết :
- Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em em ơi, tình non sắp già rồi.

Thực vậy, người ta đã đưa ra một ngàn lẻ một


cách thức để giúp cho các bà các cô làm đẹp để
níu kéo tuổi trẻ cùng với cái thời xuân sắc của
mình. Nào là giải phẫu, cắt chỗ này vá chỗ kia.
Nào là son phấn, bôi chỗ kia trét chỗ nọ, thậm
chí còn bắt chước cả loài rắn.
MỤC LỤC

Bởi vì , loài rắn trong quá trình phát triển,


thường phải lột da nhiều lần để lấy lại sức lực và
sự trẻ trung của mình. Cho nên, người ta cũng
khuyên các bà các cô tới thẩm mỹ viện để lột da
mặt, hầu dung nhan được tươi mát, mỹ miều.

Thế nhưng chỉ được một vài khoảng khắc, để rồi


cuối cùng vẫn phải đối mặt với cái già : tóc bạc,
răng long…Hay như người xưa đã bảo :
- Rắn già rắn lột,
Người già người chui tọt xào săng.
Sở dĩ người ta sợ tuổi già vì tuổi già có những
cái đáng sợ. Người ta lo tuổi già vì tuổi già có
những cái đáng lo. Trong phạm vi hạn hẹp cùng
với một cái nhìn phiến diện, gã chỉ xin đưa ra
một vài cái đáng sợ và đáng lo ấy.

Trước hết là tình trạng xuống cấp về thể xác


cũng như về tinh thần. Về thể xác thì ai cũng
nhận thấy. Bác sĩ Đỗ hồng Ngọc, trong loạt bài
viết cho tuổi chớm già đã mô tả như sau :
“Một sớm mai thức dậy, người uể oải, nặng
nhọc, bước vào phòng tắm, nhìn gương soi, ngỡ
ngàng như vừa gặp một người quen mà không
nhớ là ai, nhìn tới nhìn lui một lúc mới nhận ra
chính là ta đó. Ta mà như không ta. Ta bỡ ngỡ
MỤC LỤC

nhau ở cái tuổi mới lớn năm nào, chợt cao lên,
chợt lớn lên và lạ lẫm với chính mình, chân tay
lọng cọng như thừa như thiếu, mà mày thanh
mắt sáng, mà muốn làm nghiêm cũng thấy như
tủm tỉm cười, còn giờ đây cũng lạ lẫm với chính
mình mà thử nhếch khóe môi tìm lại nụ cười
chợt thấy khó khăn, niềm vui thì vẫn vậy, sao
mắt môi như trĩu nặng. Một nếp xếp đã đậm
theo vòng cung khóe miệng, những dấu chân
chim đã hằn trên khóe mắt. Và kìa, một vài
nhánh tóc đã nhạt phai, khô quắt, mỏng tanh.
Bỗng dưng thèm vẽ lại tức khắc khuôn mặt xa lạ
mà thân quen kia, trước khi tắm táp, để rồi mày
râu nhẵn nhụi lao vào cơ quan, hay đến giảng
đường, xí nghiệp, công ty…”

Thì ra mình đã già. Tuổi già âm thầm đến lúc


nào mình cũng không hay, như mảnh trăng trên
đầu :
- Trăng bao nhiêu tuổi trăng già,
Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non.

Chuyện kể lại rằng :


Ngày xưa có một người lái buôn thường đi
những chuyến đường dài. Anh bỏ người vợ trẻ
ở nhà mòn mỏi đợi trông. Như để chuộc lại
MỤC LỤC

những hờ hững của mình, lần này anh hỏi nàng


muốn anh mua món quà gì cho nàng lúc trở về.
Nàng lẳng lặng chỉ vào vầng trăng non cong vút
đang vắt trên bầu trời xanh trong vời vợi kia.
Anh ghi nhớ và hứa chắc sẽ mua cho nàng món
quà đó dù giá có đắt đến bao nhiêu. Thế rồi
ngày tháng trôi qua, một hôm trước ngày trở về,
anh nhớ lời hứa với vợ, đã nhìn lên bầu trời
trong xanh kia, vầng trăng kia, và thế là anh mua
ngay cho nàng một chiếc gương tròn, nạm
những hạt kim cương lộng lẫy. Hí hửng tưởng
nàng sẽ sướng vui, nhưng thật bất ngờ, nàng
nhìn chiếc gương tròn đắt giá kia mà cứ khóc
mãi. Thì ra nàng đâu có cần gương, nàng cần
lược, một cái lược cài đầu cong vút như mảnh
trăng non thượng tuần xinh xắn nọ. Trăng đã già
lúc nào đó vậy ?

Phàm bất cứ đồ vật nào dùng mãi thì sẽ mòn, sẽ


cũ và tới một lúc nào đó sẽ bị phế thải. Chiếc áo
đã rách, thì quá lắm là vá chằng vá đụp, dùng
tạm được ngày nào hay ngày đó, rồi sẽ bị xếp
xuống hàng giẻ lau. Một chiếc xe gắn máy, hay
một chiếc đầu video, dùng tới dùng lui, thì thế
nào cũng phải đến lúc chúng bị hỏng hóc bộ
phận này, bộ phận kia.
MỤC LỤC

Hư chút đỉnh thì sửa chữa. Hư nhiều thì đại tu


hay nâng cấp, lên đời. Còn bản thân chúng ta thì
thế nào ? Năm sáu chục tuổi đời đè nặng thì làm
sao còn mới, còn “gin” cho được. Với chiếc máy,
bộ phận nào hư chúng ta có thể thay bằng bộ
phận khác. Nhưng với cơ thể con người, thì thay
thế những bộ phận hư hỏng còn là một chuyện
nhiêu khê, rắc rối và hao tốn, mà vẫn chưa bảo
đảm được sự an toàn.

Như trên gã đã nói : sự xuống cấp về thân xác


nói chung, và của từng bộ phận trên cơ thể thì ai
cũng nhận thấy. Riêng bản thân mình thì âm
thầm “gậm nhấm” nỗi xót xa cho tình trạng
xuống cấp ấy.

Chẳng hạn cặp mắt : bắt đầu xệ xuống, có


quầng thâm, nét nhìn đã bớt long lanh, đã bớt
tinh anh, và thỉnh thoảng thấy ghèn xuất hiện ở
hai khóe. Nhìn gần không rõ nữa, nên phải
mang kính để điều tiết…Mà đúng vậy, một lần
kia, cầm tờ báo thân quen đưa lên đọc, bỗng cứ
phải đẩy dần tờ báo ra xa, xa chút nữa, rồi chỉ
đọc được những cái tựa, những dòng to. Thôi
thì đành phải mua cái kính lão. Có kính lão rồi
MỤC LỤC

cũng nhất định chưa lão, bất đắc dĩ mới phải


đeo lên. Cho đến một hôm rồi đành mua thêm
sợi dây toòng teng vì kiếm kiếng hoài thật vất
vả.

Chẳng hạn đôi tai : bắt đầu kém tinh, khiến


nhiều lúc phải lắng nghe. Và cũng do tai nghe
kém thính, người chớm già bắt đầu nói to tiếng,
cộc lốc, đều đều…

Tóc thì bạc và cứ rụng dần thành hói. Răng thì


chiếc rụng, chiếc lung lay, khấp kha khấp khiểng
như cầu rửa chân. Mũi ngửi cũng tệ. Lưỡi nếm
cũng dở khiến ăn mất ngon.

Đó là về những giác quan bên ngoài, còn lục


phủ ngũ tạng bên trong cũng chịu chung cùng
một số phận, có nghĩa là tim gan phèo phổi đều
xuống cấp, nên mới nảy sinh những chứng bệnh
hiểm nghèo.

Chẳng hạn : mạch máu như các ống nước xài


lâu năm đã bị dỉ sét hoặc bị cứng lại, không co
giãn dễ dàng nữa, nên đâm ra cao huyết áp, dễ
bị nhồi máu cơ tim, hay tai biến mạch máu não,
một là đi đứt hay là bại liệt khiến cho bản thân
MỤC LỤC

phải khổ đã đành, mà những người thân yêu


cũng khổ nữa.

Đặc biệt ở những người mập phệ, ăn quá nhiều


chất béo, làm cho xơ vữa đóng trong lòng động
mạch. Các tuyến mồ hôi làm việc kém hơn, dẫn
tới tình trạng không thải kịp chất bẩn, dễ làm cho
cơ thể…bốc mùi. Cũng vậy, các tuyến tiêu hóa
như gan mật, dịch vị cũng hoạt động tệ hơn nên
dễ bị táo bón, khó tiêu, trĩ trong trĩ ngoài…

Dĩ nhiên, gã không phải là một chuyên viên


chăm sóc sức khỏe ban đầu, nên đã mượn tạm
những mô tả kể trên của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
được đăng trên báo Kiến thức Ngày nay.

Kinh nghiệm bản thân cũng cho gã thấy đời


mình giống như một cuộc leo núi. Xuất phát từ
chân núi là lúc mở mắt chào đời, rồi cùng với
thời gian, mình leo lên, leo lên mãi ở triền núi
bên này. Bốn mươi lăm là đỉnh cao, để rồi từ đó
tuột dốc và xuống dần ở triền núi bên kia.
Người xưa có câu :
- Trai ba mươi tuổi đang xoan,
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo :
MỤC LỤC

- Trai ba mươi tuổi mà già,


Gái bốn mươi tám đang ra má hồng.

Cả hai câu tục ngữ trên đều hơi phóng đại tô


màu một chút. Vì thế, để trung dung, gã đã chọn
bốn mươi lăm là đỉnh cao cuộc đời như vừa mới
trình bày. Thực vậy, vào tuổi này mắt gã bỗng
mờ tịt, nên phải sắm thêm một cặp kiếng lão.
Dầu chưa đến độ hói đầu, nhưng tóc gã cũng
bắt đầu thưa dần.

Nếu gã nhớ không lầm thì một văn Thổ nhĩ kỳ


trong tác phẩm “ Những kẻ thích đùa” đã đưa
ra hai tiêu chuẩn để xác định cho một người
thông thái, đó là phải đeo kiếng và phải hói đầu.
Nếu đích thực là như vậy thì gã đang chớm “sa-
văng”, đang chớm khôn ra rồi đó.

Sự vui chưa qua thì sự buồn lại tới. Và nỗi buồn


không tên len lén đi vào lòng gã. Nỗi buồn thứ
nhất, đó là gã nhận thấy sức kéo của mình bị
giảm sút một cách đáng kể.
Ngày xưa lúc còn trai trẻ, gã ngồi gõ chiếc máy
chữ cà tàng mỗi ngày tám chín tiếng đồng hồ,
thậm chí có những hôm làm ngày không đủ
tranh thủ làm đêm, mà ăn vẫn ngon, ngủ vẫn
MỤC LỤC

đẫy con mắt… Còn bây giờ, ngồi nhấn vi tính,


đâu có phải vận dụng tất cả nội lực mà gõ cho
thủng mấy tờ giấy than trên chiếc máy chữ cà
tàng ấy, chỉ cần đụng nhẹ khỏe re, thế mà cũng
chỉ ngồi được bốn năm tiếng đồng hồ là đã mệt
nhoài, nhức nhối đến tận lái tim. Ăn mất ngon và
ngủ thì chỉ chập chờn.

Nỗi buồn thứ hai, đó là thân thể bỗng dưng dở


quẻ với đủ mọi thứ bệnh. Mà bệnh nào thì cũng
là như một bản án tử hình đã ký chờ ngày thi
hành. Nào là huyết áo cao. Mà huyết áp cao thì
thể nào cũng ảnh hưởng tới tim. Mà tim đã có
vấn đề thì hãy coi chừng, có thể đứt bóng dễ
như trở bàn tay. Rồi gan nhiễm mỡ, phổi bị nám,
bao tử bị loét, vân vân và vân vân.

Gã có thói quen lâu lâu tới ông bác sĩ khám tổng


quát một lần để nắm vững tình hình sức khỏe
của mình. Lần kia, sau khi đã siêu âm, ông bác
sĩ lạnh lùng phán :
- Chú có hai viên sạn nhỏ trong thận.
Gã bèn hỏi :
- Làm thế nào để tống khứ hai cái của nợ ấy ra.
Ông bác sĩ liền kê đơn :
- Một là chú phải uống thuốc theo sự hướng dẫn
MỤC LỤC

của bác sĩ. Hai là chú phải vận động tay chân.
Ba là chú phải uống nước nhiều vì nước chảy đá
mòn. Bốn là chú phải…cười, vì cười cũng là một
liều thuốc bổ đấy.

Chẳng hiểu vì nghe theo lời căn dặn của ông


bác sĩ hay do toa thuốc nam của mấy bà lang
trọc là dùng hạt chuối hột mà hai cái của nợ của
gã bỗng lặn mất tiêu, không còn hiện hữu trong
hai trái thận thân yêu nữa.

Không phải chỉ xuống cấp về phương diện thể


xác, mà còn xuống cấp về phương diện tinh
thần nữa.

Như trên bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho biết vì tai


nghe bớt thính, nên những người chớm già bắt
đầu nói to tiếng, cộc lốc, đều đều…Do đó dễ
sinh ra cáu gắt. Chuyện không đáng gì cũng
quặu, cũng trách, cũng giận, cũng hờn…thành
thử với tuổi già thì đâm ra khó tính.

Không những khó tính, mà người già lại thường


hay quên. Ngay chính gã cũng cảm thấy như
vậy.
MỤC LỤC

“…Có những lúc chợt quên mất tiêu tên một


người quen, quá quen. Quên cái tên thôi, còn thì
nhớ tất cả. Khi cần nhớ thì quên, mà khi cần
quên thì lại nhớ. Nhớ rất kỹ những chuyện xưa
cũ. Lạ lùng chưa. Có lúc nhắc chiếc điện thoại
lên, gọi cho ai đó, định nói điều gì thì quên tuốt,
đành xin lỗi, nhầm số. Không lẽ hỏi người đầu
giây bên kia, xin vui lòng cho biết tôi đang định
nói gì với bạn đó vậy”.

Nơi gã ở, có một bà cụ. Trước kia bà cụ là một


con người đảm đang, ăn nói đâu ra đấy, có bài
có bổn hẳn hoi, chứ không tào lao thiên địa. Một
tay bà cụ quán xuyến hết mọi công việc trong
gia đình, thậm chí còn thay chồng làm quan. Bà
cụ lo từ A đến Z, còn ông cụ vốn mang chức
chánh trương hay chánh tổng chi đó, chỉ có việc
ngồi ăn cỗ, thù tiếp các quan trên, hay ngồi xòe
tổ tôm chắn cạ với bè bạn.

Thế rồi khi về già, bà cụ bỗng dưng quên tất tật,


quên tuốt luốt, thậm chí quên cả những người
trong gia đình, con cháu cụ cũng gọi là ông, là
bà. Quen mà hóa ra lạ, thân mà trở thành người
dưng nước lã.
MỤC LỤC

Sự khôn ngoan thưở trước không còn nữa. Bà


cụ cư xử như một đứa con nít. Có lần trong nhà
thờ, bà cụ đã giành lên rước lễ với một bà khác
rồi sinh ra ẩu đả. Thấy bất kỳ chiếc dép nào, bà
cụ cũng đem về nhà, khiến cho con cháu phải
mất công đem trả lại cho khổ chủ. Có lần gã đến
thăm bà cụ. Lúc ra về thì chiếc dép mất tiêu,
khiến cả nhà phải đi tìm hồi lâu mới thấy được
chỗ bà cụ đã cất dấu.

Bước vào tuổi già, người ta thường trở lại thời


con nít, nhưng lại là một thứ con nít…khó
thương.

Ngoài tình trạng xuống cấp kể trên, một nỗi lo và


một nỗi sợ khác của tuổi già chính là sự cô đơn.
Dĩ nhiên không phải chỉ người già, mà hầu như
tất cả chúng ta đều sợ sự cô đơn.

Thực vậy, chúng ta không thể nào sống cu ky


mình ên, như một hòn đảo giữa biển khơi, hay
như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta
sống là sống với người khác, trong một cộng
đoàn, trong một xã hội. Vì thế, mấy ông triết gia
lẩm cẩm mới phát biểu :
- Người là một con vật có xã hội tính.
MỤC LỤC

Nếu ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn, thì


chúng ta sống là sống với người khác. Và khi
không còn người khác để sống với, thì chúng ta
sẽ rơi tõm vào tình trạng cô đơn đáng sợ và
khủng khiếp.

Cách đây ít lâu, gã có đọc một cuốn sách mang


tựa đề là “người vạn đảo”. Trong đó, tác giả kể
lại cuộc hành trình lênh đênh trên biển cả của
mấy nhà thám hiểm. Tác giả cho biết : trong
những ngày cô đơn giữa trời và nước, họ rất
thèm được liên hệ với thế giới bên ngàoi. Có
một con chim nhỏ ngày nào cũng tới đậu trên
chiếc bè của họ. Nhưng rồi một ngày kia, con
chim nhỏ không tới nữa và họ buồn tiếc như mất
đi người bạn thân thương nhất của mình.

Cô đơn là một nỗi khổ của tâm hồn. Nó đằng


đẵng và day dứt mà chỉ người trong cuộc mới
cảm nghiệm được mà thôi. Bởi vì đoạn trường ai
có qua cầu mới hay. Chính vì thế, tục ngữ Liên
xô có câu :
- Dù được ở trên thiên đàng, mà chỉ có một
mình, thì cũng chẳng thể nào sống nổi.

Cô đơn không phải là không có ai, nhưng là


MỤC LỤC

thiếu vắng những gì thân yêu nhất, những gì


hiểu biết và cảm thông với mình nhất. Kinh
nghiệm cho thấy :
- Không phải bên nhau mà đã gần nhau. Không
phải gần nhau mà đã quen nhau. Không phải
quen nhau mà đã thương nhau. Không phải
thương nhau mà đã hợp nhất với nhau, bởi vì
mỗi người là một thế giới. Mỗi người là một màu
nhiệm.

Đúng thế, nhiều khi đi giữa phố chợ đông người


mà chúng ta vẫn cảm thấy âm thầm lẻ loi vì
không thấy được một người hiểu mình. Có khi
sống giữa con cháu mà chúng ta vẫn cảm thấy
trống vắng vì nghĩ tới tuổi già mà tủi phận.

Thực vậy, người già thường dễ cảm thấy cô đơn


hơn ai hết, sở dĩ như vậy vì các cụ cảm thấy
mình bất lực, không giúp gì được cho con cho
cháu. Các cụ luôn có ý nghĩ “mình hết thời rồi”.
Những ưu tư suy nghĩ của các cụ dễ bị thế hệ
sau cho là lạc hậu và lẩm cẩm. Bị thực tại từ
chối, các cụ quay về với dĩ vãng, dù biết rằng
hoài cổ nhiều lúc cũng thực là viển vông.

Đặc biệt nơi các cụ bà thường có một cảm xúc


MỤC LỤC

bâng khuâng buồn bã khi con cái đã khôn lớn,


không cần tới sự chăm sóc của người mẹ. Cái
cảm xúc “tổ trống” khi đàn chim con đã bay xa.
Nhiều người sống những tháng ngày hiu quạnh,
cảm thấy như mình thừa thãi, vô vị…

Chính vì nghĩ tới những ngày tháng quạnh hiu


với một tương lai không mấy sáng sủa, mà
nhiều cụ ông vẫn cản đảm bước thêm bước
nữa, dù tuổi đời đã đè nặng trên đôi vai của
mình, như tục ngữ đã diễn tả :
- Con nuôi cha, không bằng bà nuôi ông.
Truyền thống gia đình tại Việt Nam là “tam đại”,
gồm ba đời : ông bà, cha mẹ và con cái cùng
sống chung dưới một mái nhà sẽ giúp cho các
cụ già bớt cô đơn và người trẻ bớt lạc lõng vì
luôn được nương tựa vào nhau. Thật hạnh phúc
đầm ấm khi trong bữa ăn cha mẹ biết gắp
những miếng ngon miếng ngọt cho ông bà và
ban tối, con cháu được sà vào vòng tay ông bà
để nghe kể chuyện cổ tích.

Thế nhưng, hình ảnh trên ngày càng bị mai một,


không phải vì thiếu thức ăn ngon để gắp cho
nhau hay ông bà thiếu chuyện cổ tích để kể cho
đàn cháu, mà vì thời gian chúng ta dành cho
MỤC LỤC

nhau không đủ. Cha mẹ quần quật suốt ngày để


tìm chén cơm manh áo. Con cháu bù đầu vào
sách vở học hành. Như vậy, tuy ba thế hệ cùng
ở dưới một mái nhà, nhưng chưa thật sự sống
chung một tổ ấm.

Còn bên tây phương, ông bà hay cha mẹ già


thường được gửi vào viện dưỡng lão. Gã xin
trích lại nơi đây những lời phát biểu của một số
các cụ già sống trong viện dưỡng lão tại Pháp,
được đăng trên báo “Phụ nũ Chủ nhật”.

Sống trong viện dưỡng lão chẳng khác gì sống


trong một nhà tù. Một bà cụ chín mươi hai tuổi
đã nói :
- Suốt ngày hình như tôi chẳng thấy một bóng
dáng ai qua lại, còn con tôi thì hình như chỉ thăm
tôi vào cuối tuần, chỉ thăm độ năm phút là chào
mẹ…con đi.

Do cuộc sống ngày càng khó khăn, con cái khi


có gia đình thường cho các cụ vào viện cho rảnh
việc để lo chuyện khác. Một quan chức của viện
dưỡng lão Seine cho biết :
- Thật ra cho các cụ vào viện dưỡng lão là công
việc thường làm ở các nước phát triển…nhưng
MỤC LỤC

chỉ buồn cho các cụ là cách đối xử của con cháu


mình.

Có lần thân nhân vác đơn kiện ban giám đốc về


thái độ ngược đãi, la mắng và cộc cằn của
những người giúp việc, thì được trả lời :
- Chính cha mẹ các anh mà các anh còn không
chăm sóc huống chi là chúng tôi, người dưng
nước lã.

Và như vậy, phải chăng phần thiệt thòi luôn nằm


về phía các cụ, những người già hôm nay ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

● HẠNH PHÚC

Chuyện phiếm của Gã siêu.


Lễ Giáng sinh và tết tây trở về, bước chân
xuống phố, hay chui đầu vào những cửa tiệm,
đâu đâu gã cũng thấy được hàng chữ :
- A merry Christmas and a happy new year.

Và cũng hàng chữ ấy được in trên từng cánh


thiệp thiên hạ gửi cho nhau nhân dịp này.

Việt nam ta luôn mở rộng vòng tay đón nhận mọi


luồng văn hóa. Tây có mà Tàu cũng có. Đầu an-
nam-mít, mà đít có khi là Phăng-xe, có khi là
Ăng lê, có khi là khỉ khô gì nữa…thì chỉ mình
ông trời mới biết.

Vì thế, cũng “ a happy new year” cho nhau khi


năm mới bắt đầu. Ngoài ra, trong dịp tết nguyên
đán, người ta cũng chúc cho nhau ba trăm sáu
mươi lăm ngày hạnh phúc. Và khi đi dự đám
cưới, người ta cũng toe toét cái miệng mà cầu
cho đôi tân hôn được trăm năm hạnh phúc. Thế
nhưng, hạnh phúc có hay không ?

Giáo lý nhà Phật vốn thường bảo :


MỤC LỤC

- Đời là bể khổ và mỗi người là một cánh bèo


trôi dạt trên đó.
Như thế, thì thật khó mà tìm thấy hạnh phúc trên
cõi đời này. Ấy vậy cho nên những người bi
quan mới nghĩ rằng hạnh phúc chỉ là một khái
niệm trừu tượng, chẳng hề tồn tại. Thậm chí, có
những tay tỷ phú, giàu nứt đố đổ vách, mà vẫn
than van : đời mình gom lại liệu được mấy giờ
hạnh phúc. Hay chán đời đi tìm cái chết để
“phẹc mê bu tích” chấm dứt một kiếp người lầm
than khổ ải.

Ngày xửa ngày xưa có một ông vua sống trong


cung điện nguy nga lộng lẫy, thế mà lúc nào
lòng cũng rầu rĩ, chút xíu nữa thì râu ria ra rập
rạp…Người ta bày đủ trò đủ cách cho ông vua
được “dui” : nào là tiệc tùng linh đình, nào là
cung nữ nhảy múa, nào là đờn hát xướng ca…
thế mà ông vua vẫn cứ buồn rười rượi.

Thế rồi, một kẻ lạ mặt đã xin vào chầu và dâng


lên ông vua cao kiến của mình :
- Nếu bệ hạ mặc được chiếc áo của một người
hạnh phúc nhất nước, thì lúc ấy căn bệnh “buôn
huyền” mãn tính sẽ được thuyên giảm liền tù tì.
MỤC LỤC

Nghe vậy, ông vua bèn truyền cho mọi quan


chức và binh đội, tất tật đều phải lên đường,
lùng sục khắp nơi, thậm chí chẳng được bỏ sót
bất kỳ một hang cùng ngõ hẻm nào, miễn sao
đem về cho ông vua tấm áo của con người hạnh
phúc nhất nước.
Tuy nhiên, đi tới đâu cũng chỉ cảm thấy sặc sụa
mùi đau khổ. Và hình như khổ đau đã phủ bóng
lên từng cây số. Bên cạnh chiếc nôi hồng của trẻ
thơ, đã thấy phảng phất bóng dáng của thần
chết. Bên cạnh ánh mắt rạng rỡ của đôi tình
nhân, đã hằn lên vết chân của phản bội, bất
trung. Bên cạnh nụ cười mãn nguyện của cặp
vợ chồng trẻ, đã để lại dấu ấn của biết bao
nhiêu vất vả, cực nhọc…

Quan với quân đi mãi đi hoài mà cũng chẳng


thấy được một khuôn mặt hạnh phúc. Thất vọng,
họ kéo lê từng bước chân mệt mỏi trở về kinh đô
chịu tội với ông vua. Đang lúc ấy, tai họ bỗng
nghe thấy một giọng hát véo von và hồn nhiên,
chắc hẳn phải là của một người hạnh phúc lắm.

Họ vội vã bước tới và nhận ra một em nhỏ đang


ngồi trên mình trâu vô tư nghêu ngao. Họ hăm
hở xông đến với ý đồ đen tối lột phăng chiếc áo
MỤC LỤC

em nhỏ đang mặc mà đem về dâng cho ông


vua.

Thế nhưng, khi mặt đã đối mặt, họ mới chưng


hửng và hụt hẫng. Thì ra em nhỏ quá nghèo,
chẳng có được một tấm áo che thân, nên phải
cởi trần trùng trục.
Thảo nào mà Nguyễn công Trứ đã phải than van
:
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Còn bàn dân thiên hạ, kẻ thì bảo :
- Phàm trên cõi đời này, chẳng có chi là sung
sướng, nên người ta mới phải mong ước…Hạnh
phúc là một cái gì thật mơ hồ, khiến chúng ta bắt
buộc phải khát khao đợi chờ.
Người thì nói :
- Hạnh phúc như một thứ tiếng vang, nó trả lời
nhưng không bao giờ đến.
Tuy nhiên, chủ trương như trên xem ra có phần
bi quan yếm thế, chẳng khác gì đeo cặp kính
râm mà soi mói nhìn vào cuộc sống. Kinh
nghiệm đời thường cho thấy : Ai trong chúng ta
cũng đã từng có những khoảng khắc sướng rên
mé đìu hiu, nhưng giây phút khoái tỷ tuyệt cú
mèo và chúng ta bảo rằng :
MỤC LỤC

- Mình rất ư là hạnh phúc tràn trề.

Dù mùa đông lạnh lẽo, thì thỉnh thoảng cũng có


được một vài ngày nắng ấm đột xuất. Đau khổ
dù đằng đẵng đeo đuổi kiếp người thì cũng có
được đôi ba ngày vui. Dù ngày vui mau qua và
rất họa hiếm, thậm chí chỉ được đếm trên đầu
ngón tay, hay dù thế nào chăng nữa thì cái được
gọi là hạnh phúc vẫn có đó. Nhưng hạnh phúc là
cái chi chi ?

Dẫn vào một bài bàn về hạnh phúc trên báo


Figaro, được báo “Kiến thức ngày nay” trích
dịch, tác giả đã ghi nhận như sau :
- Không có một từ nào mù mờ về nghĩa bằng từ
“hạnh phúc” Hạnh phúc không thể nói lên bằng
lời, không thể diễn tả, cũng không thể nắm bắt…
Càng không thể mua được bằng tiền. Nhà thơ
Pháp Jacques Prévert có lần đã viết : “Trên tấm
bảng đen của sự bất hạnh, mặc cho bao dè bỉu,
cậu bé dốt đặc đã vẽ được gương mặt của hạnh
phúc”. Vậy hạnh phúc là gì ?
Đứng trước câu hỏi này, chính bản thân gã cũng
cảm thấy bí, bèn phải vác tự điển ra để mà tra
cứu. Trước hết, theo “Việt nam Tự điển” của Lê
văn Đức, hạnh phúc có nghĩa là điều may mắn
MỤC LỤC

cho cuộc đời. Chúc ông được nhiều hạnh phúc


thì cùng có nghĩa là chúc ông được nhiều may
mắn.

Đọc xong câu định nghĩa trên, gã cảm thấy ấm


ức, không ổn và còn thiêu thiếu một cái gì ấy,
bởi vì rất nhiều người suốt đời chẳng gặp được
điều chi may mắn như trúng số, thi đỗ…mà họ
vẫn cứ sống phây phây hạnh phúc, như hình
ảnh của cặp vợ chồng con nhà nghèo :
- Râu tôm nấu với ruột bầu.
Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.
Còn theo tự điển “Larousse” của mấy ông tây,
hạnh phúc có nghĩa là một tình trạng được hoàn
toàn hài lòng. Câu định nghĩa này hơi “siêu”
nhưng xem ra lại đúng hơn.
Như thế, người ta khó mà được định nghĩa
được hạnh phúc bằng lời nói hay bằng ngôn từ,
nhưng chỉ cảm nhận được nó mà thôi. Tuy
nhiên, cách thức cảm nhận hạnh phúc của mỗi
người lại khác nhau, nên mới nhiêu khê và rắc
rối.

Thực vậy, có khi cùng một cảnh ngộ, nhưng mỗi


người lại cảm nhận một cách khác nhau. Với
người lạc quan thì đó là niềm hạnh phúc, còn
MỤC LỤC

với người bi quan thì đó lại là nỗi buồn khổ.


Chẳng hạn hai người cùng đi du lịch Đalạt, được
hỏi cho biết cảm tưởng của mình về thành phố
này. Người thứ nhất trả lời :
- Đây là một thành phố buồn. Mưa rơi và gió
lạnh chẳng đi được tới đâu, suốt ngày co ro nơi
xó nhà.
Trái lại, người thứ hai hồ hởi nói :
- Đây là một thành phố tuyệt cú mèo. Khí hậu thì
mát mẻ, cảnh sắc thì đẹp đẽ.

Hơn thế nữa, mỗi người thường lại nhắm tới


một thứ hạnh phúc cho riêng mình. Chẳng hạn
tiền đôi khi là hạnh phúc của kẻ nghèo, chỗ trú
chân đôi khi là hạnh phúc của kẻ lang bạt và mái
ấm gia đình đôi khi là hạnh phúc của kẻ cô đơn..

Lắm lúc hạnh phúc đơn sơ của người này lại là


hạnh phúc cháy bỏng của người kia. Chẳng hạn
trên đường phố : Một người phụ nữ sang trọng
đi chiếc xe Dream láng coóng, trong khi đó cặp
vợ chồng nghèo đang đèo nhau trên chiếc xe
đạp cà tàng, phía trước là thằng cu con. Anh
chồng thỉnh thoảng lại cạ chiếc cằm đầy râu của
mình lên mái đầu thằng cu con, làm nó cười
khúc khích vì nhột. Chị vợ ngồi sau tủm tỉm đấm
MỤC LỤC

nhẹ lưng anh chồng và nhắc : cẩn thận kẻo té.

Người phụ nữ sang trọng kia đã nhìn cảnh


tượng ấy bằng ánh mắt thèm khát. Còn anh
chồng nghèo lại mơ có chiếc xe Dream cho đỡ
cực cái thâm ròm của mình. Đúng như dân La
mã ngày xưa đã bảo :
- Ta muốn tìm hạnh phúc của người, còn người
thì lại thèm hạnh phúc của ta.
Cha ông chúng ta cũng đã phát biểu :
- Được voi đòi tiên.
- Đứng núi này, trông núi nọ.
Nhiều khi quả thực hạnh phúc rất đơn sơ.
Chẳng hạn ngày xưa mỗi khi tết đến được bố
may cho bộ quần áo mới, hay mỗi khi mẹ đi chợ
về cho một chiếc kẹo là gã liền cảm thấy vui
sướng quá chừng chừng. Bộ quần áo mới và
chiếc kẹo ấy chính là niềm hạnh phúc đối với gã
hồi nhỏ. Còn bây giờ, chẳng hạn mỗi khi viết
xong một mẩu chuyện phiếm, gã bèn bắn một
phát thuốc lào, điếu kêu lênro ro, mắt lim dim thả
hồn theo khói và thầm nghĩ :
- Ôi đời sao mà đẹp thế.
Và như vậy, nói nôm na theo kiểu bình dân học
vụ thì hạnh phúc chính là cái tình trạng “sướng
rên”, “khoái tỉ” của mỗi người.
MỤC LỤC

Gã rất tâm đắc với ý tưởng sau đây của


Chamfort :
- Hạnh phúc giống như chiếc đồng hồ. Càng ít
rắc rối bao nhiêu, thì càng ít hư hỏng bấy nhiêu.

Mới đây, gã đã đọc một bài của Phương Thủy


trên báo Phụ nữ Chủ nhật, trong đó có đoạn như
sau :
“Hạnh phúc cũng có giá. Song ít ai biết được giá
của hạnh phúc là bao nhiêu. Có khi rất đắt, có
khi rẻ lắm, nhưng cũng có khi vô giá hoặc được
cho không một cách hào phóng. Cũng có khi
người ta đem hạnh phúc ra mua bán hoặc đánh
đổi. Nhưng mà chỉ có thể bán hạnh phúc đi, chứ
không thể nào mua được nó…”

Sau đó, tác giả đã đưa ra một vài trường hợp cụ


thể của việc bán đứt hạnh phúc của mình :
“ Một anh bạn trai đã bộc bạch chân thành :
Mình nghèo, lấy vợ nghèo, chỉ mong có nhiều
tiền nên lao vào việc kiếm tiền. Ngày ấy hạnh
phúc của mình là tiền. Bây giờ, nhà mình giàu
có, nhưng con cái bị bỏ bê, hư hỏng, nghiện
ngập. Vợ mình suốt ngày ca cẩm, mình chán
lắm…Một cô bạn gái xinh đẹp khác thì buồn
sầu : hồi ấy mình chán “lão chồng” suốt ngày chỉ
MỤC LỤC

nghiên với cứu. Vài đồng lương kỹ sư thì có mà


ăn cám. Tưởng theo “tay” này khôn lanh, nhiều
tiền sẽ hạnh phúc. Nào ngờ…Tôi bắt gặp ánh
mắt luyến tiếc của cô nhìn về phía “lão chồng”
cũ cũng có mặt ngày hôm ấy. Cũng phải thôi. Cô
và tay chồng mới, một gã lái xe, quá chênh nhau
về trình độ học vấn. Đã thế, “chàng” đi rông
khắp nơi, bồ bịch khắp chốn thì được, nhưng về
nhà lại ghen đứng ghen ngồi với vợ. Vì vậy, cô
được “bảo quản” rất cẩn thận…”

Trong cả hai trường hợp kể trên, anh bạn trai và


cô bạn gái đều đã bán đứt hạnh phúc của mình.
Anh bạn trai thì bán đứt cho những đồng tiền
còm, còn cô bạn gái đã bán đứt cho tên lái xe nọ
với giá là một căn nhà ba tầng với đầy đủ tiện
nghi. Nhưng mà hỉ thương ôi…

Còn trường hợp thứ ba là tình yêu đơn phương


của một cô gái :
“Suốt bao nhiêu năm liền, vào những ngày thứ
bảy, cô đạp xe hai mươi cây số, từ nơi cô sống
về thành phố chỉ để nhìn người cô yêu vài phút.
Chỉ vài phút thôi vì sau đó thế nào anh chàng
cũng viện cớ để bỏ đi, sau khi hứa về một cuộc
hẹn vào tuần sau. Những giây phút ấy đối với cô
MỤC LỤC

là hạnh phúc quí giá mà cô nâng niu suốt nhiều


năm, cho tới ngày anh chàng đi lấy vợ. Giá của
cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy là những năm tháng
tuổi trẻ của cô. Tôi nói :
- Đắt quá.
Nhưng cô lắc đầu :
- Không đâu. Hạnh phúc được gặp anh ấy mỗi
tuần là nguồn ánh sáng của mình ngày ấy…Nếu
không, chưa chắc mình đã sống nổi.

Có thể cô có lý. Tôi đã không định giá được


niềm hạnh phúc ấy.”
Hạnh phúc luôn có đó, nhưng làm thế nào để
bản thân mình được hạnh phúc ?

Như trên gã đã đã viết : cách thức cảm nhận về


hạnh phúc của mỗi người thật khác nhau. Vì thế,
hạnh phúc luôn hệ tại ở lòng mình. Thực vậy,
câu chuyện sau đây đã xác nhận sự thật trên :
Đức Khổng tử ngày kia đi chơi núi Thái sơn, gặp
ông Vinh Khải Kỳ ngao du ở ngoài đồng, mặc áo
cừu, thắt lưng dây, tay gẩy đàn cầm, vừa đi vừa
hát. Thấy vậy, Đức Khổng Tử bèn hỏi :
- Tiên sinh làm thế nào mà vui vẻ thế ?
Ông Vinh Khải Kỳ trả lời :
- Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất, mà ta
MỤC LỤC

được làm người, đó là một điều đáng vui. Trong


loài người, đờn ông quí hơn đờn bà, mà ta được
làm đờn ông, đó là hai điều đáng vui. Người ta
sinh ra có kẻ đui mù, có kẻ què quặt, mà ta hoàn
toàn khỏe mạnh, nay đã chín mươi, đó là ba
điều đáng vui…Còn cái nghèo là sự thường của
thế gian, cái chết là sự hết của đời người. Ta
nay xử cảnh thường đợi lúc hết, thì có gì là lo
buồn.
Đức Khổng tử nói :
- Phải lắm, tiên sinh thế là biết cách tự làm cho
mình hạnh phúc mà hưởng sự vui thú ở đời.

Từ đó, gã nghiệm ra bí quyết thứ nhất để cuộc


đời được hạnh phúc, đó là biết khám phá ra
những niềm vui nho nhỏ ẩn dấu trong những sự
việc của cuộc sống thường ngày, như người
xưa đã nói :
- Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc, tri nhàn tiện
nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Niềm vui nho nhỏ ấy có khi được ẩn dấu ngay
cả trong những khổ đau phải chịu, bởi vì nhiều
lúc trong niềm vui lại có nỗi buồn và trong nỗi
buồn lại có niềm vui. Hay như một câu danh
ngôn đã bảo :
- Đau khổ là chiếc cầu dẫn tới hạnh phúc.
MỤC LỤC

- Không đau khổ, thì chẳng thể hiểu được hạnh


phúc.
Và như thế, cách thức cảm nhận giống như một
cặp kính chúng ta đeo vào mắt. Nếu cặp kính
màu hồng, chúng ta sẽ thấy mọi sự đều tươi
hồng và đáng yêu, nên chúng ta sẽ được hạnh
phúc. Còn nếu cặp kính màu xám, chúng ta thấy
mọi sự đều đen xám và đáng ghét, nên chúng ta
sẽ phải khổ đau. Đúng là :
- Người vui, cảnh cũng vui lây,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.

Bí quyết thứ hai để cuộc đời được hạnh phúc đó


là một cuộc sống trong sáng, không hổ thẹn với
lương tâm. Thực vậy, người hạnh phúc là người
không bị lương tâm cắn rứt. Trái lại, kẻ đi vào
con đường cong queo, xiên xẹo sẽ chẳng bao
giờ tìm thấy được hạnh phúc.

Gã còn nhớ hình ảnh của Cain trong sách Sáng


thế ký. Ghen tức vì lễ vật của Abel được Thiên
Chúa chấp nhận, Cain đã giết em mình ngoài
đồng vắng. Thế nhưng, liền sau đó, dù đi tới đâu
và dù ở nơi chân trời góc biển xa lạ nào chăng
nữa, Cain vẫn cảm thấy như đôi mắt Thiên Chúa
đang nhìn mình trừng trừng để rồi cuộc đời của
MỤC LỤC

Cain trở nên bất ổn. Một khi đã bị lương tâm dày
vò vì tội ác và cuộc đời trở nên bất ổn thì làm
sao thấy được hạnh phúc.

Bescus là một gã thanh nien đã phạm tội giết


cha của mình. Hắn thực hiện hành vi tội ác ấy
một cách tinh vi, chẳng ai biết được. Nhưng kỳ
lạ thay, là từ hôm đó hắn luôn luôn nghe thấy
những con chim én bay lượn và lặp đi lặp lại :
- Mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha.
Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng hắn vẫn
không cảm thấy được yên lòng. Cuối cùng hắn
đã phải thú nhận tội lỗi của mình.

Cặp mắt Thiên Chúa hay tiếng chim én…tất cả


chỉ là những hình ảnh nói lên sự dày vò cắn rứt
của lương tâm. Thực vậy, trước mỗi việc làm,
lương tâm sẽ lên tiếng báo động cho chúng ta
hay đó là điều tốt hay điều xấu, đó là điều được
phép hay không được phép.

Còn sau mỗi việc làm, lương tâm sẽ đóng vai


quan tòa xét xử. Nếu đã làm điều tốt, chúng ta
sẽ được vui mừng. Còn nếu đã làm điều xấu,
chúng ta sẽ bị dằn vặt, mặc dù việc làm của
chúng ta thật kín đáo, chẳng một ai hay biết.
MỤC LỤC

Cũng trong chiều hướng ấy, mà hình như cụ Tú


Lãm trong “Nửa chừng xuân” của Khái hưng, đã
có lời khuyên sau đây :
- Cha chỉ có ba thứ gia bảo này ông cha để lại
cho cha, nay cha truyền lại cho hai con mà thôi,
là : giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch và đem
hết nghị lực ra làm việc.
Bí quyết thứ ba để cuộc đời được hạnh phúc, đó
là hãy ra sức cố gắng làm cho người khác được
hạnh phúc. Đúng vậy, Abbé Delile đã nói :
- Hạnh phúc chỉ dành riêng cho những ai làm
nhiều người được sung sướng.
Gã cảm thấy lời Kinh thánh sau đây như là qui
luật của muôn đời :
- Cho thì sướng hơn là nhận.
Hay nói một cách khác :
- Càng hy sinh vì người khác thì lại càng hạnh
phúc. Nếu hạnh phúc là một thứ tiền, thì càng
cho lại càng lời.

Đúng vậy, kinh nghiệm bản thân đã cho gã hay,


mỗi khi cực chẳng đã phải ngửa tay xin tiền
người khác, sao mà gã cảm thấy ngại ngùng,
chẳng biết mở mồm mở miệng ra ăn nói thế nào
cho phải phép, mặc dù số tiền xin xỏ ấy được
MỤC LỤC

dùng vào công việc chung đem lại lợi ích cho
mọi người và mặc dù ăn tục nói phép vốn dĩ là
“nghề” của gã. Nhiều khi cầm đồng tiền của
người khác mà nghĩ thật tủi nhục, chỉ muốn ứa
cả nước mắt, nhưng vì lơi ích chung đành phải
cắn răng chịu vậy.

Thiên hạ thì : Cái có ló cái ngu. Chẳng thế mà


bên Ăng lê, có kẻ quẳng tiền ra xây khách sạn
năm sao cho…chó. Còn mình thì chỉ sợ : Cái
khó bó cái khôn. Bởi vì phàm để làm mọi việc,
thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề
tiền đâu, cho nên đành phải lật ngược thế cờ :
Cái khó ló cái khôn. Dù chỉ là thứ khôn vặt, khôn
lỏi mà thôi.

Trái lại, mỗi khi gã bố thí cho người nghèo, hay


cho người ăn mày ngồi bên vệ đường, dù chỉ
một vài đồng tiền còm, thì lập tức gã liền cảm
nhận được một niềm vui nhè nhẹ len lén đi vào
tâm hồn, khiến nhiều lúc gã đã phải cười ruồi
một mình, hay huýt sáo vu vơ cho hả bớt niềm
vui.

Cũng trong ý nghĩ ấy, Thánh nữ Têrêsa đã cho


biết :
MỤC LỤC

- Từ khi tôi biết quên mình, tôi được sống hạnh


phúc như chưa từng ai thấy.
Báo “Tuổi trẻ Chủ nhật” đã móc được một mẩu
chuyện nho nhỏ trên “internet” như sau :
Có hai người đàn ông bệnh nặng, được xếp
chung một phòng tại bệnh viện. Người nằm gần
cửa sổ được phép mỗi buổi chiều ngồi dậy một
tiếng đồng hồ để thông khí trong phổi, nên đã lợi
dụng thời gian này để kể lại cho người kia
những sinh hoạt bên ngoài : nào là bày ngỗng
đang bơi lội trên mặt hồ, nào là đôi tình nhân tay
trong tay dạo chơi dưới vòm cây, nào là đoàn
quân diễu hành đang đi qua…

Người kia mỗi ngày đều chờ đợi khoảng thời


gian ấy để được hòa nhập với cuộc sống bên
ngoài.

Ngày và đêm trôi dần cho tới một buổi sáng cô y


tá phát giác ra người nằm bên cạnh cửa sổ đã
qua đời. Khi mọi việc đã ổn định, người đàn ông
còn lại yêu cầu được chuyển đến cạnh cửa sổ.

Bác ta nhổn dậy bằng tất cả sự cố gắng của


mình và nhìn ngắm thế giới bên ngoài. Thế
nhưng, đối diện với cửa sổ chỉ là một bức tường
MỤC LỤC

xám xịt. Bác ta hỏi cô y tá xem cái gì khiến


người bạn khốn khổ cùng phòng đã mô tả cho
bác ta nghe những điều tuyệt diệu qua cửa sổ.

Cô y tá cho biết người đàn ông đó bị mù và


thậm chí cũng chẳng thấy được cả bức tường
xám xịt nữa. Cô y tá nói :
- Sở dĩ ông ta kể như vậy vì muốn cho bác được
vui và được hạnh phúc, đồng thời khuyến khích
bác can đảm hơn lên.

Tuy nhiên, để dễ dàng thực hiện ba bí quyết


trên, đồng thời cũng để cuộc đời được hạnh
phúc, thì người ta rất cần đến một niềm tin tôn
giáo.

Một vị thánh ẩn tu nọ sống khắc khổ trong khu


rừng vắng. Ngày kia có người hỏi :
- Làm sao ngài có thể chịu đựng nổi ?
Thánh nhân nói :
- Ông hãy đến và nhìn qua cái lỗ này thì sẽ rõ.
Người kia đến và thấy sau tường hang rêu phủ,
có một lỗ hổng để lộ ra một góc trời.
Thấy họ không hiểu, thánh nhân liền cắt nghĩa :
- Góc trời đó là niềm an ủi và hạnh phúc của tôi.
Một người khác vừa đau ốm lại vừa nghèo túng
MỤC LỤC

thế mà vẫn cứ sống hạnh phúc. Thiên hạ bèn


hỏi tại sao, thì bác ta đã trả lời :
- Vì tôi biết sử dụng cái nhìn với đôi mắt sáng
suốt.

Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của họ, bác ta vội cắt


nghĩa :
- Trước hết tôi nhìn lên trời và nhớ rằng nước
trời mới là quê hương đích thật của tôi. Rồi tôi
nhìn xuống đất và hình dung ra nắm bụi đất của
thân xác khi tôi đã chết. Và sau cùng, tôi nhìn
chung quanh và thấy nhiều người còn khổ hơn
tôi. Ba cái nhìn ấy làm tôi hạnh phúc, chúng khử
trừ mọi tiếng than van và trách móc.

Tìm được hạnh phúc trên cõi đời này đã là


chuyện khó, nhưng giữ được hạnh phúc trong
cuộc sống của mình lại càng khó hơn.

Thế thì gã biết mần răng bây giờ ?


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

VỢ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Không biết bên Thụy Sĩ thì thế nào, chứ còn ở
Việt Nam, hàng năm cứ vào ngày 08 tháng 3,
vốn được gọi là ngày quốc tế Phụ nữ, phe đờn
bà con gái được dịp lên nước, ngước mắt nhìn
đời bằng nửa con mắt, nhất là coi cánh đờn ông
con giai chẳng còn ký lô ram nào sốt.

Đúng ra trong đời thường, vợ vẫn là vợ và


chồng vẫn là chồng, đờn ông vẫn là đờn ông và
đờn bà vẫn là đờn bà. Gia đạo phép nước vẫn
nghiêm. Thế nhưng, bọn nhà báo vốn nói láo ăn
tiền, đã tô màu và phóng đại, thổi một cơn bão
làm cho các bà các cô phổng cả mũi, thiếu điều
nhiều đấng mày râu muốn bắt chước Tú Xương
mà :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
MỤC LỤC

Vì sống trong giòng chảy cuộc đời, nên hôm


nay, gã cũng xin lượm lặt những mô tả của bàn
dân thiên hạ, đã được đăng tải rải rắc trên các
báo, đồng thời cũng thêm mắm thêm muối, hành
tỏi bột ngọt tí chút để phác họa về dung nhan
kiều diễm của các bà vợ, vốn được coi là “nội
tướng” trong gia đình.

Vậy thế nào là vợ ?

Có một nhà văn khôi hài người Mỹ, đã sánh ví


vợ với các loại đồng hồ, đại khái như thế này :

- Vợ đẹp, sính thời trang giống như chiếc đồng


hồ đeo tay, lúc nào cũng phải đeo, một phút
không được rời.
MỤC LỤC

- Vợ chanh chua giống như chiếc đồng hồ báo


thức, chỉ nên để ở trong nhà. Bởi vì nếu nổi cơn
tam bành, cô ta có thể làm ầm lên ngay cả giữa
lúc đêm khuya thanh vắng.

- Vợ hiền thục giống như chiếc đồng hồ bỏ túi.


Bất cứ lúc nào muốn hỏi, cô ta liền trả lời thật
thà, không lừa dối. Đáng tiếc là đồng hồ loại này
hiện giờ hơi hiếm.

- Vợ khỏe mạnh giống như chiếc đồng hồ đeo


tay kiểu cổ, dùng lâu cũng không hỏng.
- Vợ ốm đau giống như chiếc đồng hồ dổm,
chạm vào là hỏng và luôn phải sửa chữa.
- Vợ thật thà trung thực giống như chiếc đồng hồ
treo tường. Cô ta chỉ làm nghĩa vụ trong gia
đình, không cùng chồng đi ra ngoài.
MỤC LỤC

Những sánh ví trên được đăng trên báo Phụ nữ


Chủ nhật, chẳng hiểu đúng hay sai, bởi vì hiện
gã còn đang phục vụ trong lực lượng “phòng
không”, nên kinh nghiệm chả được mấy tí.

Có một bài thơ đã định nghĩa...vợ như sau :


- Vợ là mẹ các con ta.
Thường kêu bà xã, hiệu là phu nhân.
Vợ là tổng hợp : bạn thân,
Thủ trưởng, bảo mẫu, tình nhân, mẹ hiền...
Vợ là ngân khố, kho tiền,
Gởi vô nhanh gọn, hơi phiền rút ra.
Vợ là biển cả bao la,
Đôi khi nổi sóng khiến ta chìm phà,
Vợ là âm nhạc, thi ca,
Vừa là cô giáo, vừa là luật sư.
Cả gan đấu khẩu vợ ư ?
Cá ươn không muối, chồng hư cãi vờ (vợ).
MỤC LỤC

Chồng ơi! Đừng có dại khờ,


Không vợ, đố biết cậy nhờ tay ai ?
Vợ là phước lộc thọ tài...
Thuộc trăm định nghĩa, trả bài vợ khen.

Trích dẫn bài thơ này, không chừng những kẻ


thối mồm lại liệt gã vào hàng “râu quặp” mất
thôi. Tuy nhiên, vô tư mà nói, khi nghĩ về vợ bá
tánh thường chia ra làm hai phe, chống đối nhau
kịch liệt : phe khen và phe chê, phe nâng và phe
hạ, phe bốc thơm và phe bốc thối. Trước hết, gã
xin điểm qua lập trường của phe bốc thối, rồi
sau đó của phe bốc thơm, để tạo nên một cái
kết...có hậu.

Chuyện kể rằng : có một anh chồng chẳng may


ngỏm cù tỷ, đi tàu suốt sang thế giới bên kia.
Anh chồng mon men đến cửa thiên đàng thì bị
MỤC LỤC

thánh Phêrô chặn lại.

Sau khi nghe hết bản lý lịch trích ngang cùng với
những chi tiết lỉnh kỉnh, chẳng hạn như quê ở
đâu, tên là chi, làm nghề nghiệp gì cùng mê tính
xấu nào ? Thánh Phêrô bèn lắc đầu quầy quậy,
nhất định không cho vào, bởi vì anh chồng này
không có tên trong sổ thiên đình.

Anh chồng bèn năn nỉ ỉ ôi :


- Lạy thánh cả, xin thương con với ?
- Nhưng ngươi có điểm chi đặc sắc để ta thương
được ?
Nghe vậy, anh chồng liền mắt sáng như đèn ô
tô, trả lời phăng xi lô, không một chút do dự :

- Bẩm lạy thánh cả, con có vợ cơ ạ.


Thánh Phêrô vuốt chòm râu bạc ra dáng suy
MỤC LỤC

nghĩ rồi gật đầu :


- Thôi được, ta cho ngươi vào, bởi vì ngày xưa
ta cũng có vợ và cũng phải khổ vì vợ, đoạn
trường ai có qua cầu mới hay, nên ta rất thông
cảm với ngươi.
Té ra Thánh Phêrô cũng như nhiều người khác
đôi lúc cũng đã cảm thấy vợ là một gánh nặng,
một thập giá Đức Chúa Trời đặt lên vai anh đàn
ông. Hay như tục ngữ cũng đã bảo :
- Trai có vợ như rợ buộc chân.

Thực vậy, cũng theo một bài trên báo Phụ nữ


Chủ nhật, thì những “cựu binh” trên “chiến
trường tình ái”, còn được mệnh danh là “mặt
trận không tiếng súng”, đã chẳng ngần ngại đưa
ra một cách lén lút sáu điều thần tiên khi chưa
có vợ :
Một là bạn không cần bắt chước Jame Bond,
MỤC LỤC

đóng vai “điệp viên không không thấy” trước


những tờ giấy báo tiền điện nước, điện thoại,
cùng vô vàn những khoản phụ thu lỉnh kỉnh khác
nữa.

Hai là bạn không cần phải học những kỹ năng


làm bếp, giặt giũ, rửa chén...bởi vì mẹ, chị hoặc
em gái bạn đã gánh hết những công việc “lu xa
bu” này. Nhất là bạn chẳng bao giờ phải pha
sữa cho em bé giữa đêm khuya, đơn giản chì vì
bạn không có vợ, thì làm sao có em bé.

Ba là bạn không mất nhiều thời gian bào chữa


cho lý do vắng nhà, về trễ, hay họp “đột xuất”,
cũng không quá lo lắng về xuất xứ của những
“vật thể lạ” trong túi quần, túi áo.
Bốn là các vật dụng của bạn có thể “đi hoang” ở
hốc bà tó nào đó trong xó nhà mà không bắt
MỤC LỤC

buộc phải luôn ở đúng vào vị trí cố hữu của nó.


Bạn cũng có thể nằm ngủ dưới đất, hay ngủ
chung hòa bình với những con vật cưng như
con chó, con mèo...Những điều này tuyệt nhiên
không được chấp nhận khi bạn đã có vợ.

Năm là bạn không phải căng mắt tìm trên báo


xem trong tuần siêu thị nào tổ chức khuyến mãi
để đưa vợ đến mua sắm.

Sáu là bạn được tùy nghi dán ảnh của một cô ca


sĩ hoặc người mẫu mà bạn yêu thích vào bóp
hoặc trong phòng ngủ...Bạn cũng có thể an tâm
mua một món đồ trị giá 2.000 đồng với số
tiền...20.000 đồng mà không sợ bị cằn nhằn,
nhăn nhó vì mua nhầm và vì...tiếc của.

Vâng, còn nhiều, rất nhiều và hơn thế nữa. Ai


MỤC LỤC

dám bảo có vợ là sung sướng ? Tuy nhiên, nói


vậy thôi, chứ kể lể dông dài làm chi kẻo thiên hạ
đâm…oải, mà chẳng thèm lấy vợ nữa thì thật
nguy tai, loạn mất thôi.

Một khi đã bước chân vào con đường tình ái


cong cong, thì dù được vợ cưng hay bị vợ đày,
anh chồng cũng xất bất xang bang. Gã xin ghi lại
tâm sự của hai anh chồng, mà gã lượm lặt được
trên báo, nói lên nỗi khổ của kẻ bị vợ đày, cũng
như của người được vợ cưng.

Trước tiên là anh chồng bị vợ đày.


Anh ta bảo :
Vợ tôi rất yêu chồng, thương con và đảm đang
trong việc thu vén cho gia đình, nhưng ngặt nỗi
rất độc đoán và cửa quyền, đôi khi trở nên cáu
gắt và…cộc lốc. Ý nàng là ý trời. Nói không
MỤC LỤC

ngoa chứ lau nhà, đổ rác tôi cũng phải hỏi ý kiến
nàng.

Nhà thì sau khi đã miết ngón tay xuống sàn để


kiểm tra, nàng liền phán :
- Lau được rồi.
Còn rác thì nàng bảo :
- Chịu khó hôi một tí, mai hẵng đổ, vì bao rác
còn vơi, lúc này bao nhựa đắt nên phải tiết kiệm.

Phụ nàng làm bếp, nêm canh bằng nước mắm


hay muối tôi cũng phải hỏi nàng. Lỡ mặn một tí,
hay lỡ nhạt một tẹo thì tôi liền bị kê tủ đứng :
- Sao mà đoảng vậy, có thế cũng không xong.
Nhất là mỗi khi có tiệc tùng, thì tôi chỉ là một tên
đày tớ để cho nàng sai vặt đến toát cả mồ hôi
hột. Nhiều khi nhìn thấy vợ người ta dịu hiền và
tế nhị mà tôi đâm phát thèm :
MỤC LỤC

- Nếu ai bán cái dịu dàng,


Tôi mua một gánh tặng nàng làm duyên.
Dịu dàng như phép thần tiên,
Làm vơi mệt nhọc, làm quên buồn phiền.
Như vậy, xem ra anh chồng này muốn bắt
chước Tú Xương, thế mà cũng chẳng xong :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà em đây.

Tiếp đến là anh chàng được vợ cưng.


Anh ta tâm sự :
Đã tám năm nay, tôi phải khổ muôn phần vì bị
vợ...chăm sóc quá chu đáo. Mọi sinh hoạt hàng
ngày của tôi, từ chuyện ăn uống, tắm giặt đến
nghỉ ngơi giải trí...cũng phải nhất nhất tuân thủ
theo sự sắp đặt của cô ấy.

Này nhé, chẳng hạn ăn sáng tôi chỉ được quyền


MỤC LỤC

chọn một trong ba thứ : xôi, bánh mì ốp la và


phở. Ngoài ra, bất kỳ thứ gì cô ấy cũng không
đồng ý vì đủ lý do. Mà phải tự tay cô ấy làm
hoặc mua về nhà cho tôi kia, chứ để tôi tự đi ăn
một mình là cô ấy không yên tâm chút nào.

Ngay đến cả quần áo mặc hàng ngày cô ấy


cũng tự tay giặt ủi cho chồng. Cô ấy đã ủi bộ
nào là tôi cứ phải mặc bộ ấy, không có ý kiến ý
cò gì hết. Còn nếu như tôi lại tự ý ủi một chiếc
áo nào khác để mặc là y như rằng khi phát hiện
ra, cô ấy sẽ giận hờn cả tuần, cho là tôi không
còn yêu thương, tin tưởng vợ nên mới coi
thường vợ như vậy.
Đồ ăn cũng thế, có bữa cô ấy nấu một món mới
học được trên tivi, nhưng tôi không sao ăn
được, thế là cô ấy cũng tấm tức khóc, “chụp mũ”
cho chồng là không còn yêu thương nữa.
MỤC LỤC

Ở cơ quan tôi, không ai là không biết tôi được


vợ nuôi nấng, chăm sóc chu đáo thế nào, thậm
chí họ còn giễu cợt, gọi tôi bằng cái tên :
- Chồng khỏe chồng ngoan.
Theo kiểu các bà mẹ thi đua thực hiện khẩu hiệu
của nhà nước :
- Đẻ con khỏe, dạy con ngoan.

Thế nhưng, tôi góp ý đến mấy cũng bằng thừa.


Cô ấy còn động viên, an ủi tôi :
- Ối dào, các lão ấy không được vợ chăm sóc
nên ghen tị với anh chứ có gì đâu mà lạ!
Cứ thế, hai năm gần đây tôi bắt đầu sợ về nhà.
Sợ phải uống nước chanh, mà ngày nào cô ấy
cũng tự động pha, khi tôi vừa về tới nhà, bất kể
tôi thích hay không. Sợ phải nghe cô ấy giục đi
tắm, giục ăn cơn, mặc dù tôi rất muốn được nghỉ
MỤC LỤC

ngơi chốc lát trong yên tĩnh, hoặc nghe một bản
nhạc cổ điển êm dịu...

Thế là tôi bắt gặp mình có thói quen không về


nhà ngay sau giờ làm việc từ khi nào không rõ.
Lúc thì cùng bạn bè đi đâu đó uống vài ly bia.
Lúc thì một mình ngồi ở quán cóc với ly cà phê
đen nguội ngắt nguội ngơ mà không biết mình
đang suy gẫm điều gì. Cũng có buổi tôi lại thích
phóng xe chầm chậm trên những con đường
vắng vẻ đơn côi...

Nói chung, tôi làm bất kỳ một việc gì đó để


không phải về nhà sớm. Lúc đầu, vợ tôi tưởng
tôi thay lòng đổi dạ, tư tình với ai đó. Cô ấy hết
hậm hực tới buồn rầu, mất ăn mất ngủ. Nhưng
khi biết tôi về trễ chỉ vì những chuyện không
đâu, cô ấy mới yên tâm nhưng vẫn không bỏ
MỤC LỤC

được thói quen chăm sóc chồng một cách quá


đáng mỗi khi tôi trở về nhà.

Mong sao đừng có người đàn ông nào trên trái


đất này phải...khổ như tôi.
Theo gã, thì nỗi khổ của anh chồng này chính là
nỗi khổ của một con chim trong lồng, cho dù
chiếc lồng được làm bằng vàng mà nhiều kẻ vốn
ước mơ.

Đúc kết lập trường của phe bốc thối vợ, gã xin
kê ra sự khác biệt giữa vợ và sách mà thiên hạ
đã ghi nhận :
1- Sách càng cổ càng hiếm thì lại càng giá trị,
còn vợ thì khác, càng trẻ, càng đẹp thì lại
càng...tốt.
2- Bạn có thể quên ngày mua sách, nhưng
không bao giờ được quên ngày sinh nhật vợ,
MỤC LỤC

hoặc kỷ niệm ngày cưới.


3- Bạn có thể sở hữu rất nhiều sách, nhưng chỉ
có được một vợ mà thôi.
4- Mua sách, bạn có thể tự mình quyết định,
nhưng cưới vợ nhất thiết phải có sự đồng ý của
cả hai bên. Nếu bạn không cần cô ấy, thì cô ấy
cũng không nhất thiết cần đến bạn.
5- Mua sách là sự đầu tư một lần, còn cưới vợ là
bắt đầu của một sự đầu tư dài hạn.
6- Hiện nay, mua sách bạn có thể được khuyến
mại, được tặng thưởng...nhưng cưới vợ thì bạn
phải mua thêm rất nhiều thứ đi kèm.
7- Sách đem lại cho bạn những chân trời mới,
còn vợ thì luôn trông chừng để bạn đừng ra khỏi
nhà.
8- Sách dù thâm thúy đến đâu cũng có lúc hiểu
được, còn vợ nghĩ gì thì vĩnh viễn bạn không thể
hiểu nổi.
MỤC LỤC

9- Sách không bao giờ tranh luận với bạn, còn


với vợ thì bạn suốt đời chỉ là người nghe.
10- Bạn có thể đối xử với sách như với một
người tình tri kỷ, nhưng không thể đối xử với vợ
như một quyển sách.

Bây giờ, gã xin đề cập đến lập trường của


những người bốc thơm vợ.
Sau đám cưới, người ta đã hỏi về cảm tưởng
của một chú rể già, hơn bốn mươi tuổi mới chịu
lấy vợ. Và chú rể già này đã không ngần ngại trả
lời :
- Nếu biết rằng lấy vợ sướng như thế, thì mình
đã cưới phứt cách đây ba chục năm rồi.

Sở dĩ như vậy, vì theo một tác giả, để đối lại với


sáu điều “thần tiên” khi chưa vợ mà gã đã ghi lại
ở trên, thì lấy vợ trái lại có rất nhiều mối lợi như
MỤC LỤC

sau :
Thứ nhất, nếu không có vợ thì ai là người đẻ
con cho bạn, rồi cùng với bạn nuôi dưỡng chúng
hầu bạn có được niềm vui khi lên chức...ba bày
trẻ, bố xấp nhỏ.

Thứ hai, nếu không có vợ có con làm sao bạn


hiểu và làm được những công việc không tên
của người phụ nữ, như bếp núc, giặt giũ, rửa
bát, pha sữa...như ngày trước bạn cứ đùn đẩy
những việc “lu xa bu” này cho mẹ, chị hay em
gái của bạn.
Thứ ba, vợ là người chăm lo cửa nhà sạch sẽ,
gọn gàng, ngăn nắp. Điều lạ là những vật dụng
cá nhân của bạn đi hoang, bất kể chỗ nào trong
nhà cũng được vợ để vào vị trí cũ và chỉ cần bạn
hỏi vợ :
- Mắt kiếng của anh đâu rồi ?
MỤC LỤC

Lập tức vợ bạn sẽ trả lời vanh vách như thuộc


lòng.
Thứ bốn, nếu bạn thích ngủ chung với những
con vật cưng như con chó, con mèo...khi còn
độc thân, thì bảo đảm trong vòng tay ấm áp của
vợ, bạn sẽ cảm thấy tuyệt vời hơn nhiều.

Thứ năm, vợ là người nhắc nhở khi bạn “lầm


đường lạc lối” trong công việc hay trong chuyện
tình cảm, hoặc nhắc bạn đi cắt tóc khi tóc bạn
dài, mua sắm quần áo, nón mũ, giày dép...giúp
và soạn cho bạn bộ đồ vía để bạn đi hội họp hay
đi dự tiệc.
Thứ sáu, bạn sẽ được thưởng thức những bữa
ăn ngon, vì vợ luôn biết rằng :
- Đường đến trái tim của người đàn ông phải đi
qua bao tử.
MỤC LỤC

Và khi “trái gió trở trời” vợ nấu cho bạn tô cháo


hành hột gà để bạn giải cảm. Khi lỡ xỉn, vợ pha
cho bạn ly nước đá chanh để...giã rượu.
Thứ bảy, điều quan trọng là lấy vợ rồi, bạn sẽ có
thời gian đầu tư vào sự nghiệp, không còn suy
nghĩ lung tung, rồi đi nhậu khi thấy bạn mình
chuẩn bị làm đám cưới.
Thứ tám, sau cùng người ta có vợ thì bạn cũng
phải có vợ, nếu bạn không đi...tu. Bằng không,
người ta sẽ nói :
- Bạn...có vấn đề đấy.
Dựa trên những lợi ích thiết thực trên, có lẽ các
bà các cô sẽ phải tổ chức một cuộc đại hội, thảo
ra một tuyên ngôn kêu gọi :
- Bớ những đấng mày râu, bớ toàn thể phe đàn
ông con giai đang phục vụ trong “lực lượng
phòng không”, hãy mau mau lấy cho mình cái
vợ, bởi vì có vợ lợi lắm anh em ơi.
MỤC LỤC

Không hiểu liệu có tên nào phản động, đầu óc


đầy sỏi đá, kỳ thị chủng tộc, phân biệt giai cấp,
mà kê tủ đứng vào cái bản kêu gọi này :

- Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn.


Tuy nhiên, nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ, bàn
dân thiên hạ đều phải công nhận sự đóng góp
không nhỏ của vợ vào sự nghiệp của chồng,
như tục ngữ đã bảo :
- Của chồng, công vợ.
- Chồng như đó, vợ như hom.
- Giàu vì bạn, sang vì vợ.
- Chồng sang vì bởi vợ ngoan.
- Gái ngoan làm quan cho chồng.
Hay như một câu danh ngôn phương tây đã xác
quyết :
- Đằng sau những thành công của người chồng,
MỤC LỤC

đều có bóng dáng của người vợ.


Đây là một sự thật chẳng thể nào chối cãi. Cứ
thử nhìn vào mấy ông tổng thống nước Mẽo là
chúng ta sẽ thấy được như vậy.

Thực vậy, sự thành công của tổng thống John


Kennedy, chắc chắn phải có những đóng góp
của bà Jacqueline, bởi vì bà luôn tháp tùng ông
trong những tháng tranh cử và những năm
nhiệm kỳ của mình.

Cũng thế, sự thành công của tổng thống Bill


Clinton, chắc chắn phải có bàn tay của bà Hilary,
bởi vì bà đã giúp ông rất nhiều để hoàn thành
nhiệm vụ của mình và đã chống đỡ ông khi “xì
căng dan” tình cảm lem nhem của ông bùng nổ,
bằng không thì ông dám đã bị đi đoong lắm.
MỤC LỤC

Và gần đây, sự đắc cử tổng thống của ông


George Bush cũng có những góp phần của bà
Laura. Trong thời gian tranh cử, bà thường nói :
- Tôi chỉ là một người vợ bình thường, biết pha
trà, nướng bánh, chăm lo cho gia đình...

Khi được hỏi về sự hậu thuẫn của bà, ông Bush


đã thừa nhận trên đài CNN :
- Quyết định sáng suốt nhất trong cuộc đời tôi là
đã kết hôn với bà ấy.
Để kết luận, gã xin ghi lại bài thơ “luận về vợ”
của Bá Hy :

- Vợ ngon như sữa đậu nành,


Uống rồi cứ muốn để dành uống thêm.
Đêm đông vợ ấm hơn mền,
Không cho chị gió vén rèm chui vô.
Vợ như thóc lúa đầy bồ,
MỤC LỤC

Chẳng sợ bỏ đói, tha hồ rong chơi.


Không vợ cực lắm ai ơi,
Phải làm tất bật bở hơi tai...hà.
Có vợ như có vườn hoa,
Hương thơm “nồng nặc” thở ra hít vào.
Vợ là “lãnh đạo” tối cao,
Đôi khi nổi dóa hết gào lại rên.
Vợ là cỗ máy loại bền,
Đa năng đa dạng cộng thêm mượt mà.
Nàng là cố vấn của ta,
Tiền lương nộp đủ bài ca ngọt ngào.
Trên trời có mấy vì sao,
Dưới đất chẳng có chỗ nào thiếu em.
A-di-đà-phật...Xe duyên,
Cho tôi vớ được cô tiên “vợ nhà”.

Và như vậy, có lẽ Đức Chúa Trời cũng mỉm cười


MỤC LỤC

khi nhìn thấy Adong Eva sánh vai cùng nhau


bước đi trong vườn địa đàng.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CHỒNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Chẳng hiểu cụ chủ nhiệm khả kính của chúng ta
mắc phải chứng bệnh “dị ứng” chết tiệt nào mà
hễ nhận được những sự phản đối của độc giả,
nhất là độc giả thuộc phe kẹp tóc, thì cụ liền nổi
máu tam bành lục tặc, nổi giận đùng đùng,
phùng má trợn mắt như Trương Phi trong “Tam
quốc chí diễn nghĩa”, quyết làm cho ra ngô ra
khoai.

Chả thế mà, có lần gã vô ý tán hươu tán vượn


về “sự ngược đời của đờn bà con gái”, liền bụ
cụ phang cho một trận tơi bời hoa lá, tối tăm mắt
mũi.

Và rồi Cụ đã phán :
- Bộ chú mày muốn xơi cà chua ủng và trứng
MỤC LỤC

ung của các cô nường hay sao mà dám bạo gan


bạo phổi, mở mồm mở miệng bốc thối phe địch
đến thế.

Không kịp để cho gã phân bua, Cụ liền méo mó


nghề nghiệp mà “ra việc đền tội” :
- Hãy may mau viết ngay một bài nói xấu đờn
ông con giai cho ta. Liền tút xuỵt, không oong đơ
gì sốt.

Trở về với thực tại. Số trước, gã đã nổi hứng


mần một “quả” về dung nhan “kiều diễm” của
các chị vợ. Thế nhưng, vốn biết thân phận mình
hẩm hiu, còn đen hơn cả mõm chó mực, thành
thử hôm nay gã phải ép mình ép xác mà cà kê
dê ngỗng về khuôn mặt hốc hác của những anh
chồng.
MỤC LỤC

Sở dĩ như vậy, bởi vì gã đã di “dép râu” trong


bụng Cụ chủ nhiệm nhà ta, nếu không viết thì rồi
cụ cũng bắt phải viết. Hình như lúc nào cụ cũng
chỉ muốn “dĩ hòa vi quí”, có âm có dương, có
nếp có tẻ, có đực có cái, có mình có ta...

Theo một số nhà nhân chủng học thuộc hạng


“gà mờ” thì rất có thể vào cái thuở xa xưa ấy,
nhân loại đã trải qua một thời kỳ sống trong chế
độ mẫu hệ. Nghĩa là người mẹ nắm mọi quyền
hành trong nhà cũng như ngoài ngõ.

Trong chế độ mẫu hệ này, thì phe đờn bà con


gái được lên ngôi, nắm đầu và chỉ huy tất tật.

Hồi đó, các cô nường đi cưới chồng, chứ không


phải là các anh chàng đi cưới vợ như ngày hôm
nay. Phe đờn bà con gái thì lãnh đạo, còn cánh
MỤC LỤC

đờn ông con trai thì chỉ đóng vai trò trang trí cho
vui cửa vui nhà, đúng là :

- Phụ xướng phu tùy, có nghĩa là vợ nói thì


chồng phải theo. Đã bảo thì đừng có gân cổ ra
mà cãi.

Chứ đâu có phong cách nho nhe :


- Phu xướng phụ tùy, có nghĩa là chồng nói thì
vợ phải theo.
Tàn tích của chế độ “phong kiến hồng quần” này
còn rơi rớt lại trong một vài câu tục ngữ, chẳng
hạn như :
- Một trăm con giai,
Không bằng lỗ tai con gái.
- Ba đồng một chục đờn ông,
Ta bỏ vào lồng, ta xách đi chơi.
Ai ngờ dây đứt, lồng rơi,
MỤC LỤC

Nó bò lổm ngổm, mỗi nơi một thằng.

Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay thì chế độ


phong kiến rất êm dịu và rất dễ chịu này đã
“phẹc mê bu tích”, nghĩa là đã đóng cửa tiệm từ
lâu, để nhường chỗ cho cánh đờn ông con giai
lên ngôi.

Bằng sức lao động và sản xuất của mình, cánh


đờn ông con trai đã thoát khỏi tình trạng nô lệ,
để nắm vai ông chủ. Điều này gã thấy nhan
nhản trong kho tàng văn chương bình dân của
người An nam mình.

Các cụ ta ngày xưa đã chẳng bảo :


- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Có nghĩa là
đẻ được một “thằng cu” thì đã là có, chứ còn đẻ
được cả trăm “cái đĩ “ cũng vẫn kể như là không.
MỤC LỤC

Rồi các cụ cũng đã nâng anh đờn ông con giai


lên tới tận chín tầng mây khi nói :
- Đờn ông nông nổi giếng khơi,
Đờn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà.
Dù là vụng dại cũng là đờn ông.

Còn rất nhiều những câu đại loại như thế nữa,
gã chẳng dám kể ra, kẻo mà như bà huyện
Thanh quan đã diễn tả :
- ...Đau lòng con quốc quốc.
- Và...mỏi miệng cái gia gia.

Cánh đờn ông con giai được ưu thế trong nhiều


lãnh vực, gã chỉ xin đan cử một lãnh vực rất
mực bình thường, chẳng hạn như lãnh vực tuổi
tác :
MỤC LỤC

- Giai ba mươi tuổi đang xoan.


Gái ba mươi tuổi đã toan về già.

Có kẻ đã sánh ví cuộc đời của anh đờn ông con


giai tựa như đoàn tàu lửa :
- Ở tuổi hai mươi, họ muốn đỗ ở mỗi ga.
- Sang ba mươi tuổi, họ chỉ có thể đỗ ở một ga.
- Đến bốn mươi tuổi, họ muốn đỗ, nhưng họ
không được phép đỗ ở một ga khác.
- Quá tuổi năm mươi, họ muốn đỗ nhưng họ
không thể nào đỗ được.
- Và khi họ sáu mươi, thì ngay đến việc khởi
động họ cũng không thể, thì làm sao mà đỗ
được đây.

Về phương diện này, để an ủi phe đờn bà con


gái, gã bèn trích một câu trong cuốn “Tục ngữ
phong dao” của Ôn như Nguyễn văn Ngọc, trang
MỤC LỤC

350, gọi là để nói có sách, mách có chứng :


- Giai ba mươi tuổi mà già,
Gái bốn mươi tám đang ra má hồng!!!

Chính vì sự đổi ngôi này, mà có một vị chân tu,


mặc dù tuổi đời đã xế bóng, thế mà lúc nào cũng
mỉm cười, để lộ hàm răng như răng trẻ thơ,
nghĩa là chẳng còn một cái răng nào sốt.

Thiên hạ thấy vậy, bèn rất lấy làm ngạc nhiên và


hỏi :
- Tại sao cụ cứ cười hoài vậy ?

Như được gãi đúng chỗ ngứa, vị chân tu không


phải chỉ cười ruồi, mà còn há miệng cười một
cách hả hê, cười ngặt cười nghẹo đến vãi cả và
nước mắt, âm thanh thì rộn rã như tiếng chuông
nhà thờ.
MỤC LỤC

Sau một hồi cười dài như xe lửa kéo còi, vị chân
tu mới lồm cồm bật mí.
- Tại sao ta lại không cười được ? Này nhé, Đức
Chúa Trời dựng nên loài người ta có đờn ông và
đờn bà. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà làm đàn ông thì sướng hơn làm đờn bà. Có
đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Đó là lý do thứ nhất khiến ta cười hoài.
- Còn lý do thứ hai ?
- Này nhé, làm đờn ông thì một là lấy vợ, hai là
đi tu. Có đúng vậy không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà đi tu thì sướng hơn là lấy vợ. Có đúng vậy
không hề ?
MỤC LỤC

Thấy thiên hạ yên lặng gãi đầu chẳng giám trả


lời, vị chân tu bèn phán luôn :
- Mấy cái lão này chả biết đí gì sốt. Người đời đã
chẳng bảo : tu là cõi phúc tình là giây oan đó
sao.
- Dạ thưa đúng.
- Đó là thứ hai khiến ta cười mãi.
- Còn lý do thứ ba ?
- Thứ ba hử ?

Vị chân tu bèn rít một điếu thuốc lào kêu ro ro,


rồi lim dim đôi mắt mà khẽ nói :
- Này nhé, thiên hạ đi tu thì một là làm cha hai là
làm ma...xơ, đại loại là như thế. Có đúng vậy
không hề ?
- Dạ thưa đúng.
- Mà làm cha thì sướng hơn làm ma...xơ bội
phần. Có đúng vậy không hề ?
MỤC LỤC

Lần này, thiên hạ cũng lại yên lặng gãi tai chưa
kịp trả lời, thì vị chân tu đã vội cướp đài nói luôn
phăng xi lô :
- Mấy cái lão này lại chẳng biết đí gì sốt, không
sướng mà sao mấy ma...xơ cứ biểu tình, lập
kiến nghị đòi cho được làm...cha. Thế có ngược
đời không cơ chứ ?

- Dạ thưa đúng.
- Chính vì thế mà ta cười vang lên như nắc nẻ.
Ví dù có các vàng thì ta cũng chả dám làm
ma...xơ đâu.
Gã chẳng biết ý kiến ý cò của vị chân tu này có
lệch lạc nhiều lắm không. Riêng bản thân mình,
gã cảm thấy làm thân đờn ông con giai cũng
nhiều cái nhiêu khê, phức tạp và rắc rối, ba chìm
bảy nổi chín lênh đênh, chứ chẳng phải êm ru
bà rù đâu.
MỤC LỤC

Hẳn là bàn dân thiên hạ đều biết rằng :


Thuở ban đầu, Đức Chúa Trời đã dựng nên ông
Adong và cho ông sống trong vườn địa đàng.
Cảm thương cái cảnh cô đơn vò võ của Adong,
Đức Chúa Trời bèn đợi lúc ông ngủ say, rồi lấy
một nửa chiếc xương sườn của ông mà dựng
nên Eva.

Sau khi hoàn tất tác phẩm của mình, Đức Chúa
Trời bèn dẫn Eva vô ra mắt Adong. Vừa nhìn
thấy bà, ông đã mừng húm mà hô vang :
- Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.

Kiểu diễn tả của dân Giu-dêu như trên xem ra có


vẻ hơi vòng vo, chứ còn diễn tả theo kiểu người
Việt Nam ta thì khỏe re, Adong chỉ cần chớp
chớp hai hàng mi, rồi khe khẽ kêu lên với một
MỤC LỤC

giọng đầy trìu mến :

- Mình ơi.
Hai chữ “mình ơi” này quả thật là tuyệt vời, quả
thật là hết ý!!!
Vì Eva được dựng nên bởi nửa chiếc xương
sườn của mình, nên suốt đời Adong hằng loay
hoay tìm kiếm nửa chiếc xương sườn kia của
mình. Chính vì thế, dân “Phú lãng xa” vốn gọi bà
xã của mình là :

- Ma moitié, có nghĩa là “hỡi nửa kia của anh ơi!”


Bởi vậy cho nên đờn ông hướng tới đờn bà, con
giai hướng tới con gái và ngược lại, âu cũng là
chuyện rất bình thường và rất tự nhiên, vốn nằm
sẵn trong bản tính con người :

- Trai thấy gái lạ,


MỤC LỤC

Như quạ thấy gà con.


Thế nhưng, chính cái khuynh hướng bình
thường và tự nhiên này đã gây nên nhiều rắc rối
cho phe đờn ông, nhất là cho những anh con
giai mới nhớn. Chuyện rằng :

Có một vị thiền sư kia ngày nọ dẫn chú đệ tử


của mình xuống núi. Trên đường, hai thày trò
gặp mấy cô thôn nữ đang đi cấy, cười nói vui vẻ.
Thấy vậy, chú đệ tử bèn hỏi sư phụ của mình :
- Thưa thày, đó là cái chi vậy ?
Vị thiền sư chưa biết trả lời ra làm sao, thì bỗng
nhìn thấy mấy cô thôn nữ đội những chiếc nón
lá, bèn trả lời :

- Ồ có gì đâu, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi.


Kể từ lúc bấy giờ, chú đệ tử chẳng nói chẳng
rằng. Một sự im lặng thật là dễ sợ. Về đến nhà,
MỤC LỤC

cứ thừ ra như người mộng du hay đi trên mây


ấy. Vị thiền sư lân la hỏi chuyện, miết rồi chú đệ
tử mới dám thỏ thẻ bày tỏ nỗi lòng :

- Thày ơi, sao con nhớ mấy cái...nón ấy quá.


Con thương mấy cái nón ấy lắm.
Mang thân phận đờn ông “vai năm thước rộng,
thân mười thước cao” theo “mô đen” của anh
chàng Từ Hải mà Nguyễn Du đã diễn tả trong
truyện Kiều, mà nhảy vào lòng cuộc đời, lắm lúc
cũng thật là nhiêu khê và rối rắm như nắm bòng
bong.

Nếu chẳng may sinh ra đời dưới một ngôi sao


xấu, trong một gia đình làm ruộng, suốt ngày
đánh vật với “con trâu đi trước, cái cày theo
sau”, thì bị bọn con gái sẽ chê ỏng chê eo :
- Chàng nông nãi vũ phu chi cục mịch,
MỤC LỤC

Lấy yếm thắm chỉ đào chi cho uổng công.

Còn nếu may được sinh ra dưới một ngôi sao


sáng, trong một gia đình giàu có, được ăn học
đến nơi đến chốn, thì cũng bọn con gái ấy lại mở
miệng, trề môi ra mà liệt vào hạng “trói gà không
chặt”, ham chi mà ham :
- Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm.
Rồi thiên hạ cũng lại bảo :
- Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.

Khi có được mấy cọng râu lún phún, tập tễnh


bước vào đời, đứng trước ngưỡng cửa hôn
nhân, thì cũng lại gặp phải những phiền toái.
MỤC LỤC

Nếu mình cặp kè với một cô bồ thuộc loại con


nhà giàu, thì bị thiên hạ coi khinh, nhìn mình
bằng nửa con mắt và phong ngay cho cái học vị
“kỹ sư đào mỏ”.

Nếu mình vớ được một cô vợ cao, cao về thân


thể cũng như cao về kiến thức, thì thiên hạ lại lo
cho mình :
- Chồng thấp mà lấy vợ cao,
Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa.

Còn nếu ông tơ bà nguyện xe lầm sợi tơ duyên,


cột chân mình lại với một cô nàng hơn mình tí
tuổi đời, thì chắc chắn thiên hạ chẳng chịu
buông tha, lại chõ mồm vào mà bình luận lung
tung :
- Chồng già, vợ trẻ là tiên,
Vợ già, chồng trẻ là duyên...con bò.
MỤC LỤC

Tử tế hơn, thì họ bảo :


- Chồng lớn, vợ bé thì xinh,
chồng bé, vợ lớn ra tình chị em.
Nếu vớ được một cô vợ đẹp như tiên giáng trần,
hay ít nữa cũng như một cây trúc mà tục ngữ đã
diễn tả :
- Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.

Với một cô vợ đẹp và xinh như vậy, thì dễ gì mà


đã được hạnh phúc và sung sướng, bởi vì khi đi
ở ngoài đường, lắm lúc tức hộc cả máu mồn,
cũng tại bọn đờn ông chiếu cố, ngoái nhìn đến
sái cả cần cổ. Chẳng lẽ lại nổi máu Hoạn thư,
ghen lấy ghen để.

Bản lãnh lắm thì mới tự an ủi lấy mình :


- Thôi thì bông hoa đẹp cứ để cho cả và thiên hạ
MỤC LỤC

nhìn ngắm chán chê mê mỏi, có mất mát đí gì


đâu mà sợ.
Ấy thế mà vẫn còn bị thiên hạ cho mình là kẻ
tầm thường và dại khờ.
Có một người đàn ông đã hỏi Đức Chúa Trời :
- Tại sao Ngài tạo ra đờn bà đẹp thế ?
- Thì ngươi mới yêu được cô ta.
- Nhưng tại sao họ lại nông cạn vậy ?
- Để cô ta có thể yêu được ngươi ấy mà.

Hay như Somerset Maugham đã phát biểu :


- Tại sao những người đờn bà đẹp lại lấy những
người đờn ông tầm thường ? Xin thưa : vì
những người đờn ông khôn ngoan sẽ không lấy
những người đờn bà đẹp.
Trong thời gian bồ bịch, anh con giai lại còn phải
tỏ ra hết sức “ga lăng”, chiều chuộng “cô nường
bé bỏng” của mình cho tới mức, đúng là phải :
MỤC LỤC

- Cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa.

Thế mà nhiều lúc cũng vẫn còn bị “thất sủng” với


những độc chiêu, chẳng hạn như : nào giận, nào
hờn, nào phạt, nào nghỉ chơi…và không chừng
còn bị cho leo cây, như lời tâm sự với nhau của
hai nữ sinh khoa điện, mà gã đọc được trên báo
Phụ nữ Chủ nhật như sau :

- Hôm qua tao định cắt cầu dao với lão ta rồi.
Con giai gì mà điện trở kém quá, tao đến muộn
có 45 phút mà lão ta đã nóng đỏ cả dây tóc lên
rồi! Lần sau mà còn như vậy thì tao cho đứt cầu
chì luôn.

Cô bạn nghe xong bèn tiếp lời :


- Mày còn hiền quá đấy, phải tao thì lão ta đã bị
một trận tóe hồ quang ra ấy chứ...Cái lão chập
MỤC LỤC

mạch ấy sao mày ham quá vậy. Thử xem lão ta


đẹp ở chỗ nào mà cảm ứng được mày cơ chứ.
Người thì dài ngoẵng như cây bút thử điện. Đầu
tóc thì bù xù không ra nối tiếp, cũng chẳng ra
song song, lại còn ngủ ngày như cái “tăng phô”.
Mày đi với lão trông lệch pha bỏ xừ. Là con gái,
mày phải chủ động nắn dòng cho lão ta mới
được. Khi hắn quá dòng mà mày chịu tụt áp, thì
lão ta sẽ xem thường mày ngay cho mà xem…

Thế thì có trời mới hiểu được lòng dạ đờn bà


con gái. Thật đúng như lời một câu danh ngôn
đã bảo :
- Chỉ có hai khoảng thời gian trong đời anh đờn
ông không hiểu gì về đờn bà, đó là trước và sau
đám cưới.
Suy gẫm về câu danh ngôn này, gã bèn thở dài
thườn thượt mà rằng :
MỤC LỤC

-Thế thì hết bố nó rồi còn gì.

Thực vậy, một tác giả, dày dạn trên “tình


trường”, đúc kết lại những kinh nghiệm riêng tư
của mình, đã bật mí cho cánh đờn ông con giai
như một lời tâm sự chân thành, để mà suy gẫm
và tùy nghi “đối phó”, hay theo ngôn từ của
những cuộc thi hoa hậu hôm nay thì để mà tùy
nghi…“ứng xử” :
- Nếu bạn hôn cô ta, cô ta bảo bạn không đứng
đắn. Còn nếu bạn không hôn, cô ta bảo bạn
chẳng phải đờn ông.
- Nếu bạn khen cô ta, cô ta bảo bạn nói dối. Còn
nếu bạn không khen, cô ta bảo bạn không biết
nhìn người.
- Nếu bạn chiều theo ý cô ta, cô ta bảo bạn nhu
nhược. Còn nếu bạn không chiều theo, cô ta
bảo bạn chẳng hiểu gì cả.
MỤC LỤC

- Nếu bạn tới thăm cô ta thường xuyên, cô ta


bảo chán ngấy. Còn nếu bạn không tới thăm
thường xuyên, cô ta nghi ngờ bạn bắt cá hai tay.
- Nếu bạn ăn mặc “mô đen”, cô ta bảo bạn là
dân chơi. Còn nếu không, cô ta bảo bạn là cù
lần cù lèo, quê ba bốn cục.
- Nếu bạn ghen, cô ta bảo đó là tật xấu. Còn nếu
bạn không ghen, cô ta bảo bạn chẳng biết yêu là
đí gì.
- Nếu bạn tỏ ra lãng mạn, cô ta bảo bạn không
tôn trọng cô ta đúng mức. Còn nếu không, cô ta
bảo bạn không thích cô ta.
- Nếu bạn đến trễ một phút, cô ta bảo bạn đã để
cô ta phải chờ gần chết. Còn nếu cô ta đến trễ,
cô ta bảo con gái là như vậy đó.
- Nếu bạn tới thăm cô gái khác, cô ta bảo bạn
không nghiêm túc trong tình cảm. Còn nếu cô ta
được chàng trai khác tới thăm, cô ta bảo đó là
MỤC LỤC

chuyện thường tình của con gái.


- Nếu bạn thỉnh thoảng mới hôn cô ta, cô ta nói
bạn lạnh lùng. Còn nếu bạn hôn cô ta thường
xuyên, cô ta bảo bạn lợi dụng.
- Nếu bạn không xách nặng giúp cô ta, cô ta bảo
bản chẳng lịch sự. Còn nếu bạn xách, cô ta bảo
đó chỉ là ý đồ đen tối, âm mưu dụ dỗ.
- Nếu bạn nhìn cô gái khác, cô ta bảo bạn không
đáng tin cậy. Còn nếu cô ta được chàng trai
khác ngắm, cô ta bảo đó chỉ là ngưỡng mộ mà
thôi.
- Nếu bạn nói, cô ta muốn bạn nghe. Còn nếu
bạn nghe, cô ta lại muốn bạn nói.
Quả thật là nguy tai, thậm nguy tai ấy chứ. Đến
quỉ thần cũng chẳng hiểu nổi đờn bà con gái :
- Ở sao cho vừa lòng người.
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn.
MỤC LỤC

Béo chê béo trục, béo tròn.


Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Tới khi lập gia đình, bước vào hôn nhân, chính
thức sống chung hòa bình “mí nhau”, cánh đờn
ông con giai cũng không thoát khỏi cảnh lận đận
và long đong. Vì thế, thiên hạ đã sánh ví :
- Trong đời anh đờn ông, khi còn độc thân là
như một con công; Khi đã đính hôn là như một
con sư tử; Còn khi đã kết hôn, là như một con…
lừa.
Sở dĩ như vậy, đó là vì :
- Trai có vợ như rợ buộc chân.
Bởi thế, dân Ý đại lợi đã bảo :
- Cưới vợ là bán đứt sự tự do của mình...Cưới
vợ là tự tạo cho mình những điều phiền muộn.
Và rồi họ đã kết luận :
- Trong đời anh đờn ông có hai ngày sướng
MỤC LỤC

nhất, đó là ngày cưới vợ và ngày chôn vợ.


Xem ra điều kết luận này thật là...quá đáng. Dầu
vậy, thì thân phận của anh chồng cũng chẳng
được sáng sủa hơn bao nhiêu. Bởi vì trong hôn
nhân, chị vợ là người được hưởng lợi trăm bề.

Gã xin đưa ra một vài thí dụ nho nhỏ, chứng tỏ


anh con giai khi đã có vợ thì bị “bóc lột” đến tận
xương, tận tủy.

Này nhé, sau nhiều năm dài học hành chăm chỉ
anh chồng mới khều được cái bằng bác sĩ, thế
mà phóc một cái, chị vợ bỗng nghiễm nhiên trở
thành bà bác sĩ.

Sau biết bao nhiêu ngày tháng chí thú mần ăn,
đổ cả mồ hôi hột...anh chồng mới ngoi lên được
cái chức giám đốc, thế mà ngày trước ngày sau,
MỤC LỤC

chị vợ bèn tót ngay lên thành bà giám đốc, mà


chẳng gẫy một tí móng tay móng chân nào.

Sau những năm dài đấu tranh cực kỳ gian khổ,


anh chồng mới ngồi được vào cái ghế tổng
thống, thế mà chị vợ chỉ đi làm cảnh, cho thêm
phần màu mè hoa lá, cũng lập tức được cả và
thiên hạ cúi gập mình xuống mà xưng tụng là
“First Lady”, có nghĩa là đệ nhất phu nhân, vợ
tổng thống, hay...bà tổng thống.

Còn nếu cuộc tình mà tan vỡ, để rồi anh đi


đường anh, em đi đường em, tình nghĩa đôi ta
chỉ có vậy mà thôi, thì chị vợ vẫn được lợi như
thường.

Trong một cuộc chia tay kia, chị vợ nói với anh
chồng :
MỤC LỤC

- Tôi là đờn bà, nên phàm cái chi là giống cái thì
thuộc về tôi, còn phàm cái gì là giống đực thì
thuộc về anh.

Anh chồng nghe nói bùi tai bèn gật đầu cái rụp.
Và thế là chị vợ bèn chỉ vào từng đồ vật trong
nhà mà nói :
- Cái ti vi, cái tủ lạnh, cái xe hơi. Cái...và cái...và
cái...
Tóa hỏa tam tinh, nói chậm thì hết, anh chồng
bèn chỉ vội vào con dao rựa mà bảo :
- Đực rựa.

Và rồi anh chồng bèn chộp vội lấy con dao rựa
mà ra khỏi nhà. Thật là bẽ bàng và cay đắng cho
thân phận những kẻ...đực rựa như gã vậy thôi.

Ngày nay, pháp luật đã gióng lên tiếng nói để


MỤC LỤC

bảo vệ quyền lợi của những anh chồng chẳng


may bị đứt gánh giữa đường, nên đã qui định là
phải chia đôi, “half anh half”, mỗi bên năm chục
phần trăm.

Nhưng dù thế nào chăng nữa, xét theo khía


cạnh kinh tế, thì hôn nhân vẫn là một cuộc đầu
tư có lợi cho...đờn bà con gái.

Không biết có phải vì lý do trên hay còn nhiều lý


do khác nữa cộng lại, chẳng hạn như vì lý do
tình cảm, muốn cho gia đình được trong ấm
ngoài êm, hay vì lý do tâm sinh lý...mà các anh
chồng thường hay nể chị vợ. Và từ chỗ nể đến
chỗ sợ, đoạn đường ngắn chủn, chẳng bao xa.
Thậm chí có anh chồng còn tuyên bố một cách
hắch xì xằng :
- Mình sợ vợ mình chứ có sợ vợ thiên hạ đâu
MỤC LỤC

mà lo. Nào có mất mát chi!

Đáng lý ra gã sẽ còn viết thêm mấy trang nữa về


chuyện này, nhưng vì phần đất có hạn. Hy vọng
số sau, gã sẽ mổ xẻ về những căn bệnh trầm
kha của cánh đờn ông, trong đó dĩ nhiên phải có
cái bệnh đáng yêu, đó là cái bệnh...sợ vợ.

Chừ thì gã chỉ xin kết luận bằng một câu danh
ngôn :
- Thật tội nghiệp cho nhà nào có gà mái gáy, còn
gà trống thì lại im.
Chẳng biết câu nói này của dân Ý đại lợi đúng
được bao nhiêu phần trăm đây ???
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

BỆNH ĐỜN ÔNG : SỢ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Từ xưa cho đến rày, gã vốn bị mang tiếng là
thiên tư, thiên vị, chỉ biết bốc thơm phe ta, tức là
cánh đờn ông con giai hay cánh húi của, mà lại
bốc thối phe mình, tức là cánh đờn bà con gái
hay cánh kẹp tóc, mặc dù theo “mo den” bây
giờ, nhiều cô chẳng còn cái tóc để mà kẹp.

Thậm chí cô em gái của gã, cũng đã nhiều lần


trề môi mà bảo :
- Anh chỉ khéo bôi bác người ta mà thôi, liệu hồn
đấy, không thì có ngày sứt tai, phù mỏ và vỡ
mặt ra ấy chứ.

Mặc dù đã dại dột nghe theo ý kiến ý cò của cụ


chủ nhiệm, cố gắng tạo lấy cái thế cân bằng,
nghĩa là một khi đã lỡ “chêu chọc” phe đờn bà
MỤC LỤC

con gái, thì lập tức phải có một mẩu khác “châm
chích” phe đờn ông con giai.

Thế nhưng mà tự thâm tâm, mỗi khi được dịp


nói xấu cánh kẹp tóc, gã luôn cảm thấy khoái tỉ,
chữ nghĩa tuôn ra rong rỏng. Nói thật đấy, bởi vì
như các cụ ta ngày xưa đã phán :

- Dấu bàn dân thiên hạ thì được chứ làm sao


dấu nổi Thiên Chúa.
Thành thử gã đành phải thú nhận như Nguyễn
Du :

- Rằng hư quen thói đi rồi.


Cũng trong chiều hướng tạo lấy cái thế cân
bằng mà hôm nay gã xin bàn đến một vài chứng
bệnh của phe đờn ông con giai.
MỤC LỤC

Trong số báo trước, gã vừa mới sờ tới chứng


bệnh “sợ vợ” của các đức ông chồng, bỗng giật
nảy mình và tỉnh hẳn cơn mơ, vội coi lại số trang
và đếm lại số chữ đã viết, thì thấy rằng mình đã
“vượt chỉ tiêu trên giao”, đành phải “xì tốp” và
hẹn...hạ hồi phân giải.

Bởi vì nếu viết thêm, thì sẽ lấn sân, chiếm dụng


phần đất của người khác. Vừa tốn sức lao động,
lại vừa bị những kẻ thối mồm kê tủ đứng :

- Học ở đâu cái thói nói dài, nói dẻo, nói dai y
như...đờn bà vậy.
Và đúng hẹn lại lên, hôm nay gã xin bàn tiếp về
chứng bệnh sợ vợ.
Chuyện rằng :

Thôn làng nọ, không hiểu vì giếng nước có chất


MỤC LỤC

gì, hay vì ông tổ xì hơi bảy mươi đời không


được táng vào địa thế hàm rồng mà vào địa thế
đuôi lươn, nên từ thế hệ này qua thế hệ khác,
đều lâm vào cảnh âm thịnh dương suy, hầu hết
cánh đờn ông con giai ở đây đều có giòng máu
sợ vợ trong huyết quản. Lớn lên, anh nào anh
nấy đều râu quặp.

Mỗi khi có việc phải giao lưu với dân làng khác,
thì họ đều bị bàn dân thiên hạ coi thường và
diễu cợt :

- Làm trai rửa bát, quét nhà,


Vợ gọi thì dạ : bẩm bà em đây.
Tức khí vì bị chạm nọc, các ông chồng trong
làng từ già cho đến trẻ, nhất là cánh xồn xồn,
bèn tổ chức một cuộc đại hội với bảng hiệu :
MỤC LỤC

- Đờn ông đòi quyền sống.


Họ đã bầu được một vị bí thư kiêm chủ tịch. Vị
này đã đưa ra nghị quyết và kêu goi :
- Kể từ nay, tất cả phe đờn ông con giai chúng
ta phải đoàn kết lại, dứt khoát phải vùng lên, phá
tan sự kìm kẹp và bẻ gẫy cái cồng của phe đờn
bà con gái. Chúng ta phải đòi hỏi cho được sự
bình đẳng giữa nữ và nam. Để đạt tới mục tiêu
đã đề ra, chúng ta sẽ dùng chiến thuật bất bạo
động : không cày ruộng, không gặt hái, không
thổi cơm, không quét nhà, không tắm heo,
không cọ chuồng lợn và cả không...

Mọi người tham dự đều vỗ tay tán thưởng nhiệt


liệt. Bàu khí thật ồn ào, ai nấy đều hung hăng
như con bọ sít, khua chân múa tay. Và đại hội
chắc chắn sẽ thành công tốt đẹp.
MỤC LỤC

Thế nhưng, trong đám đờn ông con giai ấy có


một tên Giuđa phản phé, lẻn vào phòng vệ sinh,
dùng điện thoại di động, báo cáo với bà xã của
mình về diễn biến đấu tranh của cánh đờn ông,
để mà...lấy điểm.

Và thế là…...Alêhấp. Chỉ năm phút sau, giữa lúc


các ông chồng đang say men chiến thắng, mắt
lim dim nâng cốc chúc mừng, thì các bà vợ liền
ập tới. Mặt bà nào bà nấy đùng đùng sát khi.
Tay cầm chổi cùn rế rách và phang túi phang
bụi. Còn miệng thì ngoác lên tới tận mang tai,
vừa la lại vừa hét :

- Này nhé, đòi sướng thì bà cho sướng...Này


nhé, đòi sướng thì bà cho sướng.
Bọn đờn ông bèn :
- Dĩ đào vi thượng sách, Phương kế hay hơn cả,
MỤC LỤC

đó là chạy trốn.
- Thần thấy nguy thần tẩu”, có nghĩa là gặp nguy
thì em xin...biến.
Tất cả bọn đờn ông con giai đều ba chân bốn
cẳng trốn tiệt đi đằng nào không biết, mất cả tăm
lẫn tích. Chỉ còn lại mỗi mình cụ chủ tịch kiêm bí
thư vẫn ngang nhiên bám trụ.

Bỏ của chạy lấy người, nhưng ngoái cổ lại phía


sau, nhìn thấy vậy, anh chồng nào cũng mừng
thầm vì đã chọn đúng người, không hổ danh
cho...phe ta.

Nào ngờ cụ chủ tịch kiêm bí thư nhà ta đã chết


đứng từ lâu. Vì quá sợ, cụ liền bị nhồi máu cơ
tim, đi đoong luôn, chẳng kịp ngáp và cũng
chẳng kịp bước chân tháo chạy như các...đồng
chí đồng rận của mình.
MỤC LỤC

Chuyện khác kể lại rằng :


Một trận mưa đám mây bất ngờ đổ xuống làm
cho anh chồng kia không kịp chạy ra sân thu
gom quần áo đang phơi. Và thế là anh chồng kia
liền bị bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà đông tích
cho một trận tơi bời hoa lá cành.

Thấy vậy anh chồng này, là người hàng xóm,


bèn mở miệng chê bai, phóng thanh qua dậu
mồng tơi mà rằng :
- Sao ông hèn quá vậy, sao ông nhát quá
vậy...được đằng chân lân đằng đầu, để cho bà
ấy làm tới hoài mãi sao ? Phải tay tui thì...
Vừa nói đến đây, bỗng bà vợ xuất hiện. Bà đứng
chống nạnh, trừng mắt và phán :
- Phải tay tui thì sao ?
MỤC LỤC

Và thế là anh chồng này bèn cúi mặt xuống như


muông chim, miệng thì ấp a ấp úng :
- Dạ, phải tay em, thì em xin thu gom từ trước
lúc trời mưa ạ.
Mencken có nói một câu đang cho gã suy nghĩ :

- Khi một người đờn ông và một người đờn bà


lấy nhau, thì họ chỉ còn là một người. Tuy nhiên,
cái khó đầu tiên là phải quyết định xem đó là
người nào ?

Trong trường hợp sợ vợ, thì người đờn bà đã


lấn trọn phần sân của người đờn ông. Và như
vậy, khi người chồng đánh mất bản lãnh của
mình, trở nên “người vợ của vợ mình”, thì đó là
một sự thất sủng, một sự mất giá của người đờn
ông.
MỤC LỤC

Thật tội nghiệp cho những nhà gà mái thì gáy,


còn gà trống thì lại câm lặng...
Mặc dù biết như vậy, nhưng không hiểu tại sao
cánh đờn ông phần lớn đều sợ vợ ?
Có thể lúc ban đầu, do “galăng vốn sẵn tính
trời”, hơn nữa lại muốn cho bàu khí gia đình
được trong ấm ngoài êm mà anh chồng nể chị
vợ. Nào ngờ, được đằng chân lân đằng đầu, chị
vợ thừa thắng xông lên, dành dân chiếm đất, để
rồi cuối cùng anh chồng rơi tõm vào cái tình
trạng sợ vợ lúc nào cũng không hay, thậm chí
còn hãnh diện về thành tích của mình nữa, như
nhiều anh chồng đã phát biểu :

- Mình sợ vợ mình chứ có sợ vợ thiên hạ đâu


mà lo. Nào có mất mát chi.
- Ta sợ vợ ta, vì vợ ta có công sinh ra con ta...
Cũng lại chuyện rằng :
MỤC LỤC

Có một anh chồng, sau khi nhìn vào gương,


bỗng thấy mình thuộc nòi râu quặp, đã tâm sự
với bè bạn bằng ngôn ngữ bóng đá như sau :

- Tôi đã đánh giá nhầm cô ấy trước khi cưới. Hồi


đó tôi nghĩ rằng mình cần một thủ môn để giữ
khung thành.
- Còn bây giờ thì thế nào ?
Anh chồng thở dài, lắc đầu và nói :
- Ai dè tôi đã vớ phải một trọng tài nghiêm khắc,
lúc nào cũng sẵn sàng thổi phạt và lăm le rút thẻ
vàng, thẻ đỏ, lại còn tính đuổi tôi ra khỏi sân
nữa.

Từ lời tâm sự cay đắng của anh chồng trên, gã


nhận thấy một lý do khác nữa khiến cánh đờn
ông luôn sợ vợ, đó là ngán ngẩm trước sự chế
tài và cấm vận của phe đờn bà, nên đành sợ vợ
MỤC LỤC

đi cho nó xong chuyện.

Một anh chồng khác cũng đã tâm sự trên báo


Phụ nữ Chủ nhật như sau :
“Chẳng biết ai như thế nào, chứ riêng tôi thì sợ
vợ một phép. Vợ tôi chẳng phải bự con hay
miệng hùm gan cọp gì, mà ngược lại bé tí tẹo.
Tôi thì béo to béo tốt, nhờ vợ nuôi mà tròn trèm
có 80 ký hà. Còn bà nhà tôi thì phì nhiêu với 42
ký nhờ đã sanh cho tôi cả công chúa lẫn hoàng
tử, chứ lúc trước nàng chỉ cò 38 ký thôi. Ấy thế
mà chẳng hiểu sao tôi vẫn cứ sợ nàng mới chết
chứ. Thật xấu hổ khi kể chuyện mình sợ vợ cho
quí ông chồng khác cùng biết, nhưng tôi nghĩ tôi
cũng chẳng phải “đặc biệt” gì.

Tiền lương của tôi tháng nào cũng nộp đầy đủ,
thiếu một xu nàng cũng biết. Nàng rất khéo tính
MỤC LỤC

toán, mỗi tháng chỉ chừa cho tôi 150.000 đồng


để ăn sáng. Tướng ta như tôi mỗi buổi sáng
5.000 đồng thì ăn được gì ? Nhưng tháng nào
nàng cũng bỏ ống heo tới 200.000 đồng tiền cà
phê và thuốc lá, chỉ vì tôi không biết uống cà
phê, lại không biết hút thuốc lá, nhờ thế mà
nàng tiết kiệm được bằng ấy tiền.

Bất cứ chuyện gì từ chuyện ăn uống đến chuyện


dạy con học, nói chung là từ A đến Z một tay
nàng lo toan, tôi không phải động tay vào, tôi chỉ
có việc tháng tháng đưa tiền lương về cho nàng
một cách đầy đủ.

Nếu có vậy thì tôi cũng không tức đến nỗi phải
viết ra đây. Đằng này cả...chuyện ấy. Chẳng là
nhà tôi không mấy rộng rãi nên cả bốn người :
vợ chồng con cái đều nhét vô một phòng, mà
MỤC LỤC

giường ngủ thì cũng chỉ có một cái.

Khi xưa lúc chưa có con thì còn tương đối thỏa
mái. Giờ sinh ra hai con “kỳ đà”, nên tôi phải
xuống đất mà nằm. Nhiều đêm chuyện gì xảy ra
phải xảy ra, nhưng với tôi thì không. Mỗi khi tôi
khều nàng là nàng trừng mắt nhìn tôi rồi nhìn
xấp nhỏ và chẳng hiểu vì sao lúc đó tôi chỉ nín
khe chứ không “phụ nam vùng lên” cho nàng
biết tay...”

Các cụ ta ngày xưa đã dạy :


- Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Có nghĩa là từ những cái nhỏ mọn và tầm
thường đến những cái nhiêu khê và phức tạp,
chúng ta đều phải học tất tật, huống hồ để trở
nên “chồng giỏi chồng ngoan”. Đây quả là một
nghệ thuật vừa tế nhị lại vừa rối rắm.
MỤC LỤC

Cũng trên báo Phụ nữ Chủ nhật, gã đọc được


một bài trích từ tạp chí “Reader’s Digest” số
tháng 5 năm 2000, viết về bí quyết để trở nên
“chồng giỏi chồng ngoan”, gã chỉ xin lẩy ra một
vài điểm hay ho mà thôi :

- Trong bữa ăn với khách khứa, nhớ cười cò mồi


một cách thú vị cho mọi người cười theo, mỗi khi
vợ mình kể chuyện, cho dù câu chuyện đã nghe
qua hàng trăm lần trước đó và chỉ muốn hét
toáng lên rằng : biết rồi, khổ lắm, nói mãi.

- Phải dành cho vợ độc quyền sử dụng “rờ mót”


TV mỗi tối.
- Phải lắng nghe, cấm không được than phiền
mỗi khi vợ cao hứng gào lên một bài hát nào đó
với giọng rè rè như ống bơ dỉ.
MỤC LỤC

- Cuối tháng, không bao giờ được tính riêng số


tiền điện thoại những cuộc gọi đường dài của vợ
là bao nhiêu.

- Chấp nhận để vợ sử dụng từ “vợ chồng chúng


tôi” mỗi khi kể với ai đó về công việc mà mình đã
vắt kiệt sức làm một mình. Chẳng hạn như “vợ
chồng chúng tôi” mới sơn lại nhà, sửa lại hàng
rào vào ngày chủ nhật vừa rồi...

- Mỗi tối nhớ hỏi thăm về công việc của vợ và


nhẫn nại lắng nghe hết những kể lể, than phiền
dài lê thê như mưa dầm tháng bảy.

- Khi chơi trò gì với vợ, đô-mi-nô chẳng hạn,


đừng dại dột nói cô ấy chơi dở hay sai luật, cho
dù đấy là sự thật “chăm phần chăm”.
MỤC LỤC

- Trong những cuộc cãi lộn, cho dù là lúc tức


giận nhất, cũng đừng bào giờ phán rằng : càng
ngày cô càng giống...bà ngoại. Và khi hòa bình
trở lại, phải tuyệt đối xin lỗi một cách vô điều
kiện.

- Phải chăm chú nhìn mỗi khi vợ mặc thử năm


hay sáu chiếc áo chẳng khác gì nhau, trước khi
gật gù tâm đắc : em mặc cái thứ nhì là tuyệt
nhất.
- Mỗi khi vợ đi làm đầu về, phải trầm trồ xuýt xoa
như thể đây là kiểu tóc tuyệt vời, một sự sáng
tạo đầy ấn tượng, cực kỳ mốt...hết ý!!!
- Cuối cùng, phải cố tìm thấy sự quyến rũ và gợi
tình của vợ, thậm chí cả khi cô ta đầu bù tóc rối,
quần áo nhàu nát và rộng lùng bùng như một
đống vải quấn quanh con lạc đà.
MỤC LỤC

Bài này kèm theo một tái bút đầy ngậm ngùi như
sau :
- Ôi, ngồi dịch những hàng chữ này mà
muốn...rơi cả nước mắt. Đàn ông xứ Tây cũng
không khác đờn ông xứ ta là mấy!

Từ những điều trên, gã xin đúc kết lại thành một


kinh nghiệm để đời :
- Muốn trở nên “chồng giỏi chồng ngoan” thì
đừng bao giờ quên rằng : lấy vợ là phải bắt đầu
yên lặng, chấp nhận và chịu đựng.

Hay như Tú Xương, muốn trở thành “chồng giỏi


chồng ngoan” thì chỉ cần mỗi một việc phải làm
ngay, đó là :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Thấy chuyện làm “chồng giỏi chồng ngoan”
MỤC LỤC

nhiêu khê và rắc rối như vậy, nên có một anh


chàng nhiều lúc đã thầm mơ và ước được làm
ông Adong, bởi những lẽ sau đây :
- Adong là người đàn ông duy nhất, nên không
bị Eva so sánh và móc lò : sao anh đoảng thế,
chẳng được như người ta.

- Adong là người không có cái được gọi là gia


đình bên vợ.
- Thời Adong chưa có các cửa hiệu, các siêu thị
và thời trang.
- Adong không lo cảnh thất nghiệp, phải đi kiếm
việc làm, cũng chẳng lo cảnh Eva ngồi lê la đôi
mách với...hàng xóm.

Đã bàn đến những anh chồng sợ vợ, thì không


thể bỏ qua những anh chồng hảo hớn, lúc nào
cũng sẵn sàng nổi máu kẻ cả đối với chị vợ.
MỤC LỤC

Thái độ của những anh chồng này, gã xin tóm


tắt vào mấy chữ “Đ” như sau :
- Độc đoán, đày đọa và đánh đập...vợ mình.

Thái độ trên xuất phát từ những tư tưởng chỉ


đạo của Nho giáo. Bởi vì Khổng Mạnh vốn chủ
trương trọng nam khinh nữ, một khi đã mang
thân phận đờn bà con gái thì cần phải sống cái
đạo “tam tòng” :
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử. Có nghĩa là ở nhà thì phục tùng bố. Khi lập
gia đình thì phục tùng chồng. Còn khi chồng
ngỏm thì phục tùng con.

Từ đó mà luôn luôn phải :


- Phu xướng phụ tùy. Có nghĩa là chồng phán
thì vợ phải vâng theo.
MỤC LỤC

Ôm mớ lý thuyết này mà đi vào thực hành, các


ông chồng luôn nắm giữ vai trò “gia trưởng”, coi
vợ như đầy tớ, có bổn phận phải phục dịch cho
bản thân mình, đúng với tiêu chuẩn :
- Chồng chúa vợ tôi.
Quan niệm này ngày nay đã bị đảy lui trước
những phong trào nổi lên như : phụ nữ đòi
quyền sống, nam nữ bình quyền...Dầu vậy, đôi
lúc nó vẫn còn tái xuất giang hồ ở chỗ này hay
chỗ khác, dưới hình thức nọ hay hình thức kia.

Trước hết, về phương diện tư tưởng, các ông


chồng này luôn tỏ ra độc đoán, cho ý nghĩ của
mình là đúng và bắt mọi người phải tuân theo.
Tác phong của họ là “ cả vú lấp miệng em”. Dù
bộ ngực của nhiều người trong bọn họ lép kẹp vì
là dân “hít tô phe” nghĩa là nghiện thuốc phiện,
hay xì ke ma túy.
MỤC LỤC

Tiếp đến, về phương diện lời nói, các ông chồng


này luôn tỏ ra gắt gỏng, cộc cằn và thô lỗ, theo
kiểu “dùi đục chấm mắm tôm”. Mở mồm ra là :
- Cái con mẹ mày...cái con mụ kia.
Trong khi đó, môi miệng của họ lại dẻo quẹo đối
với bồ nhí hay đối với người dưng nước lã, thôi
thì :
- Anh anh, em em...mình ơi, mình à...
Cứ ngọt xớt như đường cát và mát như đường
phèn ấy chứ lị!
Còn về phương diện việc làm thì phải diễn tả
cho đúng mức bằng hai động tác :
- Đày đọa và đánh đập.

Đày đọa bằng cách bắt chị vợ phải làm hết mọi
công việc nặng nhọc, từ buôn bán ngoài đường
đến bếp núc trong nhà. Còn họ thì lúc nào cũng
MỤC LỤC

phải thuốc lào ngon, trà tàu đặc...để mà bàn


chuyện chính chị chính em, chuyện trên trời
dưới đất với mấy ông bạn già, rồi ngước mặt
nhìn đời bằng nửa con mắt. Tác phong của họ
đã được diễn tả như sau :
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.

Tới bữa thì phải cơm bưng nước rót. Lắm khi
nhà nghèo không đủ tiền mua gạo, thế mà vẫn
phải có tí thịt...cho ông chồng nhắm rượu. Có
gia đình còn phải dành riêng cho anh chồng một
mâm riêng, khi anh ta xơi xong thì mới tới lượt
vợ con và những người trong nhà. Thiếu điều
chị vợ còn phải đứng mà quạt theo kiểu :
MỤC LỤC

- Em hầu quạt...mo.
Đày đọa như thế chưa đủ, đến khi tẩu hỏa nhập
ma, cơn giận nổi lên đùng đùng, thì liền ném nồi
niêu. xoong chảo, bát đũa…ra ngoài sân. Nếu
chưa hả cơn nóng, thì bèn thượng cẳng chân hạ
cẳng tay, đánh đập chị vợ một cách không
thương tiếc.

Nghĩ về thái độ “vũ phu chi cục mịch này”, gã


thấy làm như vậy quả là vô cùng dại dột. Bởi vì
khi tỉnh cơn mê, nếu nồi niêu bát đũa bị bể vỡ,
lại phải bỏ tiền ra mà mua sắm. Nếu chị vợ đánh
bị phun máu đầu, lại phải bỏ tiền bạc và thời giờ
ra mà chạy chữa. Còn nếu chẳng may chị vợ...bị
đi tàu suốt sang thế giới bên kai, thì chắc chắn
ông chồng này sẽ được luật pháp sờ vào gáy,
cho ngồi nhà đá mà đếm lịch. Rồi tương lai gia
đình và con cái sẽ như thế nào ?
MỤC LỤC

Một anh chồng đã thề quyết với bè bạn như


sau :
- Tớ hứa từ nay sẽ không bao giờ đánh vợ nữa.
Tốn kém lắm.
Mọi người đều ngạc nhiên :
- Sao lại tốn kém ?

Anh chồng buồn sầu trả lời :


- Vợ tớ thích làm đẹp, tớ hoàn toàn đồng ý.
Nhưng càng ngày cô ấy càng quá đáng. Hôm
trước cô ấy hỏi ý kiến để đi xâm môi, tớ không
đồng ý vì từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ môi vợ tớ
đã thật dễ thương rồi. Mua son gì tớ cũng chịu,
chứ đi xăm nó hâm hâm tái tái, như miếng thịt
trâu ôi, nhìn thấy mà ghê. Tớ cương quyết : Em
mà xâm môi, anh nhất quyết sẽ không bao giờ
hôn em nữa. Đồ thật còn chẳng ăn, ai lại ăn đồ
MỤC LỤC

giả. Yên lặng được một thời gian, lần này cô ấy


chẳng thèm hỏi han gì, qua mặt tớ luôn. Các cậu
thấy đấy, cái mũi vợ tớ trước giờ vốn hênh hếch
nhìn có duyên đáo để. Thế mà hôm nay cô ấy
đem về trình diện tớ một cái mũi dọc dừa thẳng
tưng, chóp mũi còn cao hơn cả cái trán. Tớ mở
tủ xem ngân quĩ thì thấy thiếu mất một triệu rưỡi.
Khổ quá! Đang dành tiền tính đổi cái xe đạp cà
tàng cổ lỗ sắp thành sắt phế thải rồi. Cũng phải
lên đời, chuyển hệ thành xe máy chứ. Tức quá,
tới gọi cô ấy lại, xáng cho nguyên một bạt tai.
Của đáng tội, tớ đánh nhẹ thôi chứ đâu có mạnh
tay. Lần đầu tiên kể từ khi cưới nhau, tớ đánh
vợ tớ. Các cậu biết chuyện gì xảy ra không ? Cái
mũi “mỹ viện” của cô ấy lệch sang một bên, nhìn
giống như cục thịt thừa. Cô ấy soi vào gương
mà cứ khóc thút thít khiến tớ ân hận quá. Nắn
mãi cũng không làm sao cho mũi ngay ngắn lại
MỤC LỤC

được. Đành phải chở vợ tớ tới mỹ viện, tốn


thêm một triệu rưỡi nữa để họ chỉnh cái mũi lại
như cũ. Tớ chỉ đánh vợ một lần duy nhất mà
thôi, tởm tới già. Giận quá mất khôn. Tốn một
lần chưa đủ hay sao mà lại muốn tốn thêm một
lần nữa.

Kinh nghiệm sống sượng trên đây đáng cho mọi


anh chồng vũ phu suy gẫm trong cung cách cư
xử với chị vợ của mình.

Làm thân đờn ông đã khó, còn làm anh “chồng


giỏi chồng ngoan” lại càng khó hơn.
Và để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện
như sau :

Hôm đó, một nhóm các cô gái đi tới câu lạc bộ


“tìm bạn”, nơi mà người ta quảng cáo có rất
MỤC LỤC

nhiều chàng trai để các cô làm quen. Khi họ đến,


người hướng dẫn nói :
- Chúng tôi có năm tầng. Các cô cứ đi theo thứ
tự từ tầng một và có thể dừng lại bất cứ chỗ nào
các cô thấy thích hợp.

Họ đi vào tầng một, thấy tấm biển với hàng chữ :


- Ở đây có những chàng trai thấp và chất phác.
Họ liền cười ồ và tiếp tục lên tầng hai. Tại tầng
hai, họ thấy tấm biển với hàng chữ :

- Ở đây có những chàng trai thấp và đẹp.

Các cô thấy chưa đủ tiêu chuẩn, nên tiếp tục lên


tầng ba. Tại tầng ba, họ thấy tấm biển với hàng
chữ :

- Ở đây có những chàng trai cao và chất phác.


MỤC LỤC

Các cô muốn các chàng trai tốt hơn nên đi tiếp.


Tại tầng bốn, họ thấy tấm biển với hàng chữ :

- Ở đây có những chàng trai cao và đẹp.


Các cô rất hào hứng vì thấy càng lên cao, tiêu
chuẩn càng tăng và chất lượng càng bảo đảm.
Các cô thầm nghĩ :
- Còn một tầng nữa, tội gì mà không lên.

Vì thế, các cô tiếp tục leo lên tầng năm. Tại tầng
năm, họ thấy tấm biển với hàng chữ :
- Ở đây chẳng có chàng trai nào cả. Tầng này
được xây chỉ để chứng minh rằng : ở trên đời,
không có cách nào làm cho phe đờn bà con gái
được vừa ý.

Đọc xong mẩu chuyện trên, gã đã phải mất trọn


một đêm không ngủ, nằm vắt chân lên trán mà
MỤC LỤC

suy gẫm. Rồi sau đó, lồm cồm bò dậy, bắn một
phát thuốc lào, tớp một ngụm trà nóng, rồi vỗ
bụng cười…hề hề.

Đờn ông con giai còn những chứng bệnh nan y


nào nữa ?
Xin các bạn cứ vô tư và mặc sức kể ra bằng
cách viết và gửi về tòa soạn. Bảo đảm cụ chủ
nhiệm sẽ trả tiền thù lao.

Riêng gã thì xin hỏi :

- Các bạn có biết chứng bệnh “nổ “ là gì không ?


Nếu không, thì xin vui lòng xem số sau, sẽ rõ.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

BỆNH ĐỜN ÔNG : NỔ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Từ ngàn xưa và cho tới ngày hôm nay, phe đờn
ông con giai vốn được bàn dân thiên hạ gọi là
phái khỏe. Mà họ khỏe thực. Vừa bước vào tuổi
mới lớn, các cơ bắp liền nổi lên cuồn cuộn, đúng
với vóc dáng vai u thịt bắp. Họ ăn không biết no,
như các cụ ta đã bảo :

- Nam thực như hổ, nữ thực như miu, có nghĩa


là đàn ông con giai ăn như hùm, còn đờn bà con
gái thì ăn như mèo.

Cũng vì cái sức khỏe trời cho ấy, mà cánh đờn


ông con giai thường phải cáng đáng những công
việc nặng nhọc, đòi buộc phải mạnh mẽ và dũng
cảm. Cũng vì cái sức khỏe trời cho ấy, mà cánh
đờn ông con giai thường là chỗ dựa cho phe
MỤC LỤC

đờn bà con gái, vốn được bàn dân thiên hạ gọi


là phái yếu. Bởi vì có yếu thì mới cần dựa, chứ
khỏe thì cần quái gì mà phải dựa với dẫm.

Có một bà vào lứa tuổi sồn sồn đã tâm sự vụn


“mí” gã như sau :
- Những ngày nghỉ cuối tuần, mình mong anh ấy
ở nhà để mình tìm thấy một bờ vai tựa đầu, thế
mà anh ấy cứ đi biền biệt, ăn nhậu và bài bạc
với đám bè bạn chiến hữu, mãi tới sáng thứ hai
mới thò mặt về, thử hỏi còn nhờ cậy được cái
chi ?

Hơn thế nữa, phe đờn ông con giai còn là mục
tiêu cho quí bà quí cô phô bày vẻ đẹp của mình.
Chả lẽ ngồi trang điểm suốt cả mấy tiếng đồng
hồ, để rồi cuối cùng thở dài ngao ngán :
MỤC LỤC

- Chỉ mình tôi nhìn tôi trong gương thôi ư ?


Mấy hôm nay đọc báo, gã đã ghi lại một câu
“ranh ngôn” như thế này :
- Thượng đế chẳng phải là một Đấng hoàn hảo,
mười phân vẹn mười, bởi vì người ta đã phải lập
ra biết bao nhiêu mỹ viện nhằm tu sửa phần nào
tác phẩm do Ngài tạo nên và quí bà quí cô cũng
đã tốn biết bao nhiêu tiền bạc, thời giờ và công
sức để hoàn thiện cái vẻ đẹp và Ngài đã phú
ban cho.

Chính vì luôn nghĩ mình là phải khỏe, nắm ưu


thế và giữ một vai trò quan trọng, mà có tới 99%
cánh đời ông con giai đều mắc phải chứng bệnh
“sĩ” và chứng bệnh “nổ”. Vậy thế nào là bệnh “sĩ”
và thế nào là bệnh “nổ” ?

Trước khi đi sâu vào hai chứng bệnh này, gã xin


MỤC LỤC

kể lại câu chuyện về “con chó đá” :


Tại làng kia có một gia đình gồm hai bố con.
Ông bố thì chí thú làm ăn và luôn hòa nhã vui vẻ
với mọi người. Còn cậu con giai thì chuyên cần
học hành, dùi mài kinh sử, mơ ước có một ngày
ra giúp dân giúp nước. Ai nấy đều kính nể và quí
mến gia đình này.
Ngày nọ, ông bố đi ngang qua ngôi đình làng thì
tượng con chó bằng đá trước cổng bỗng đứng
lên và vẫy đuôi chào. Ông bố bèn hỏi :

- Tại sao vậy ?


Con chó đá trả lời :
- Vì gia đình ông ăn ở tốt lành với bà con lối
xóm, nên thiên đình đã quyết định khoa thi này
con ông sẽ đỗ trạng nguyên.

Thế nhưng, cũng kể từ ngày hay tin ấy, hai bố


MỤC LỤC

con đã thay đổi hẳn nếp sống và cách cư xử của


mình. Ông bố thì hà hiếp dân chúng và lúc nào
miệng cũng la lối :
- Ta là bố quan lớn.

Còn cậu con giai thì sinh ra rượu chè, cờ bạc và


hút sách. Trong cơn say, cậu con giai luôn mồm
lảm nhảm :

- Ta là trạng nguyên khóa này. Ta là trạng


nguyên...
Rồi cũng một ngày nọ, ông bố lại đi ngang qua
ngôi đình làng, lần này thì con chó đá đứng yên
bất động vì nó chỉ là một pho tượng. Ngạc
nhiên, ông bố bèn hỏi :
- Tại sao vậy ?

Con chó đá bèn trả lời bằng một giọng thiểu não
MỤC LỤC

:
- Vì bố con ông ăn ở thất đức, nên thiên đình đã
quyết định gạch tên con ông trong kỳ thi này.

Và quả thực trong cuộc thi năm ấy, cậu con trai
đã rớt cái ạch và trượt vỏ chuối te tua.

Riêng phần mình, gã nhận thấy hai bố con gia


đình này quả là đại biểu xứng đáng cho những
kẻ mắc chứng bệnh sĩ và nổ mãn tính, như tục
ngữ đã bảo :
- Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.

Gã không phải là một nhà ngôn ngữ học, nên


đành phải ngồi mở sách vở ra mà tra cứu và tìm
hiểu. Theo “Tự điển Việt Nam” của Lê văn Đức,
thì :
MỤC LỤC

- Sĩ là người học trò và từ đó cũng ám chỉ là


người tài giỏi. Còn diện là cái bản mặt, chẳng
hạn như khi nói : bạch diện thư sinh. Và như
thế, sĩ diện là thể diện của người học trò, đồng
thời cũng ám chỉ danh dự bên ngoài của một
con người.

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã biết trong xã


hội Việt Nam thời xưa, kẻ sĩ được mọi người
kính nể và trọng vọng. Chẳng thế mà Nguyễn
công Trứ đã ca tụng :
- Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Hai câu trên được diễn dịch như sau :
- Tước có năm bậc là công hầu bá tử nam thì sĩ
đều được liệt vào trong đó. Dân có bốn nghề là
sĩ nông công thương thì sĩ được đứng hàng đầu.
Tuy nhiên, con nhà bình dân nghèo túng, đôi lúc
MỤC LỤC

cũng đã mỉa mai nhạo cười :


- Nhất sĩ nhì nông,
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
Hay như :
- Ai ơi chớ lấy học trò,
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Giữ lấy cái sĩ diện, cái danh dự của mình là điều
tốt, bởi vì nếu không còn sĩ diện, nếu không còn
danh dự thì thà rằng chết quách đi cho rồi.

Tuy nhiên, nếu nó đi tới chỗ thái quá thì sẽ trở


thành chứng “sĩ diện hão” hay gọi một cách vắn
tắt là “bệnh sĩ”.

Bệnh sĩ là một chứng ung thư não, hay nói cách


khác, trong óc có những khối u. Một nữ ký giả
trên báo Phụ nữ Chủ nhật đã đưa ra những phát
MỤC LỤC

hiện” lâm sàng” của chứng bệnh này như sau :

- Có những ông chẳng có vai trò gì cả, thế mà


cũng cứ tưởng tượng ra một vai trò rất rõ rệt, rất
quan trọng cho mình. Có những ông rất giỏi
khâu nịnh nọt và luồn cúi cấp trên, nhưng đối với
cấp dưới thì vẫn oai, vẫn oách như thường. Có
những ông ở cơ quan thì sợ từ cô thư ký trở lên,
nhưng về nhà thì luôn hét ra lửa đối với vợ con.
Ngược lai, có những ông ở nhà thì rất ư là sợ
vợ, nhưng ra đường hoặc đến chỗ đông người
thì cứ phải chứng tỏ mình là...gia trưởng, là lãnh
đạo!!!

Tú xương cũng đã diễn tả về tác phong của


những ông này như sau :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời cá bộ anh.
MỤC LỤC

Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại mẩu chuyện về


“vợ chồng người nước Tề” như sau :
Người nước Tề có hai vợ, vợ cả và vợ lẽ. Ngày
ngày chồng cứ sáng ra đi, tối đến mới về, mà
hôm nào về cũng no say phè phỡn. Hai vợ
thường hỏi :
- Đi ăn với ai, mà đi luôn thế ?
Anh ta nói :
- Ta đi ăn toàn với những bậc giàu có, sang
trọng cả.

Một hôm, vợ cả bảo vợ lẽ :


- Chồng ta chơi bời toàn với nhưng bậc giàu
sang, mà sao không thấy một người giàu sang
nào đến chơi nhà nhỉ ? Ta thử dò xem chồng ta
đi những đâu và chơi với những ai ?

Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi


MỤC LỤC

cùng làng này, xóm khác, chẳng thấy một người


nào đứng lại nói chuyện với chồng mình cả. Khi
đi đến phía đông ngoài thành, thấy có đám cất
mả, người ta đang tế lễ ăn uống, thì đánh
thoáng một cái, đã thấy chồng lật đật lại đấy, xin
những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn
xong lại ngong ngóng đi chỗ khác…

Bấy giờ chị ta mới rõ cái cách chồng ngày ngày


no say là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về,
kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than rằng :

- Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị


em mình lại gặp phải một người chồng đê mạt
quá đến như thế!

Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau ở giữa sân


sụt sùi khóc. Ngay lúc ấy, anh chồng ngất
MỤC LỤC

ngưởng ở đâu về, vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ


như những hôm trước.

Ôi! Đem con mắt tinh đời mà coi, thì ngày nay
những kẻ cầu công danh phú quí hồ dễ không
mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn không
tủi, không ngấm ngầm khóc với nhau như hai vợ
người nước Tề này!

Kết thúc câu chuyện, tác giả đã đưa ra một lời


bàn như sau :
Lấy đức, lấy tài, lấy học thức, đường đường
chính chính mà được công danh phú quí thì còn
gì bằng. Nhưng nịnh nọt, luồn cúi, làm những
việc đê hạ, mất cả phẩm giá con người, để chen
chúc vào đám công danh, để cầu lấy chút phú
quí, thì tưởng không còn gì đáng khinh hơn.
MỤC LỤC

Thế mà đến lúc được công danh phú quí, lại còn
vác mặt làm cao, ra dáng hách dịch, thiên hạ
người ta biết ra, thì còn ai cho vào đâu nữa.
Tưởng rằng khuất một người để đè nén muôn
nghìn người, nhưng dù người ta có e lệ bề
ngoài, trong bụng người ta cũng không sao
trọng được.

Thày Mạnh Tử đặt ra câu chuyện người nước


Tề này, thật là phơi bày được cái xấu xa của
những kẻ quen thói cầu công danh phú quí “hôn
dạ khất ai, kiêu nhân bạch nhật”, đêm khuya van
lạy, ban ngày vênh váo khinh người vào những
thời buổi mạt tục vậy.

Tuy nhiên nếu bệnh sĩ, một chứng ung thư não,
có bướu trong óc, như vừa trình bày, được phát
triển tới thời kỳ di căn, Và nếu nó di căn ra tới
MỤC LỤC

mồm tới miệng, thì biến chứng và trở thành


bệnh nổ.

Bệnh nổ nơi phe đờn ông con giai thường dễ


nhận thấy hơn cả nơi bàn tiệc. Bởi vì lúc bấy
giờ, rượu là như một chất kích thích, làm cho
miệng họ ngứa, khiến mồm họ văng ra đủ thứ
ngôn từ đao to búa lớn. Chả thế mà các cụ đã
bảo :
- Rượu vào lời ra.
Tệ hơn nữa, những thứ ngôn từ đao to búa lớn
này lại chẳng êm tai chút nào :
- Tửu nhập tâm, như hổ nhập lâm. Có nghĩa là
rượu một khi đã thấm vào lục phủ ngũ tạng, thì
như cọp dữ giữa rừng.

- Tủu nhập tâm, như cẩu cuồng tọa thị. Có nghĩa


là rượu một khi đã thấm vào tâm can tì phế, thì
MỤC LỤC

như chó điên cắn càn ngoài chợ.


Cũng nữ ký giả kia trên báo Phụ nữ Chủ nhật đã
đưa ra những phát hiện lâm sàng như sau :

“Không có gì cũng nổ, mà có một chút xíu thì nổ


đến văng cả miểng, nhất là khi họ nhậu lai rai
với nhau...Chuyện đông tây kim cổ, từ vi mô đến
vĩ mô, lãnh vực nào mấy ông cũng có vẻ thông
thạo, uyên bác cả. Càng nổ lại càng hăng.

Gặp dân tay mơ không có kinh nghiệm, thì rất


dễ là nạn nhân của mấy ông.
Càng nổ nhiều lại càng tỏ rõ những lỗ hổng về
kiến thức. Người ta nói “thùng rỗng kêu to” mà.
Nếu chỉ dừng lại ở bàn nhậu, thì sự nổ ấy chẳng
tác hại nhiều lắm.

Nhưng có ông lại nổ cả trong công việc nước,


MỤC LỤC

thế mới khổ. Có ông với một chút chức quyền và


một chút chuyên môn lại cứ hay khoái “sáng
kiến, tối kiến”, can thiệp thô bạo vào những lãnh
vực chuyên môn khác mà ông chẳng thạo, “ý
kiến ý cò” chỉ đạo tham mưu, thể nghiệm thể
nghiếc, bắt người khác phải vắt chân lên cổ mà
chạy, chẳng cần biết thiệt hại do mình gây ra
như thế nào. Mà có biết đi nữa thì cũng “lý gio lý
trấu”, tại-bởi-vì khách quan này nọ, cùng lắm
là...rút kinh nghiệm cho lần sau.”

Quả là :
- Đã dốt thì lại hay nói chữ!!!
Đúng như vị nữ ký giả kia đã nhận xét : chứng
bệnh nổ không phải chỉ xuất hiện nơi bàn tiệc.
Trái lại, theo gã nghĩ chứng bệnh ấy luôn liên tục
phát triển ở mọi nơi và trong mọi lúc ngay giữa
lòng cuộc đời.
MỤC LỤC

Hồi còn bé, lúc đang học nội trú, thằng bạn đã
đưa tặng cho gã tấm “cạc vi dít” của bố nó.
Trong tấm cạc này, gã đọc thấy như sau :
- Ông Nguyễn văn Mỗ.
Nhân viên Phủ Tổng thống.
Mắt gã mở tròn xoe đầy khinh ngạc. Và tự đáy
lòng, gã quả tình đã “khẩu phục tâm phụ” ông bố
kia...quá chời, đâu phải như bố mình, suốt đời
chân lấm tay bùn, làm bạn với “con trâu đi trước,
cái cày theo sau”, dân nhà nông chính hiệu con
nai vàng.

Gã đem câu chuyện này kể lại với một vị đờn


anh. Vì đờn anh này bèn ôm bụng cười sằng
sặc, rồi ngoác miệng ra mà phán :
- Ố là là. Ố là là. Có chi mà ghê gớm vậy. Ông ta
đích thị chỉ là một nhân viên tắm ngựa cho tổng
MỤC LỤC

thống mà thôi.

Số là thời bấy giờ, Tổng thống Ngô đình Diệm


hình như thích cưỡi ngựa thì phải. Ấy vậy cho
nên người ta mới nuôi ngựa trong dinh Độc lập.
Chính mắt gã đã nhìn thấy những con ngựa vừa
cao, vừa to lại vừa khỏe...vào những buổi chiều
thứ năm, khi đi dạo ngang qua hàng rào của
dinh.

Té ra ông bố kia chỉ là kẻ phụ trách quét chuồng


ngựa trong dinh Độc lập, nhưng trên tấm cạc và
trong đời thường vẫn hãnh diện vì mình là nhân
viên phủ tổng thống. Ai không biết cội nguồn,
gốc gác thì chỉ có nước phục sát đất mà thôi.

Riêng đối với ông bố kia, bằng đó cũng đã đủ để


ông rất lấy làm hãnh diện. Ông có thể huýt sáo
MỤC LỤC

và nghêu ngao :
- Hãy ngước mặt nhìn đời...
Rồi coi trời bằng vung với nửa con mắt.
Nếu gã không lầm, thì chứng bệnh nổ hiện đang
chiếu cố và tấn công mạnh mẽ phe đờn ông con
giai, mang nhãn hiệu trình tòa là…Việt kiều.

Đúc kết từ những cuộc điều tra âm thầm, cũng


như những cuộc thăm dò dư luận công khai, gã
đã rút ra một kinh nghiệm sống sượng như sau :
- Thiên hạ càng mù tịt về dĩ vãng của mình, thì
mình lại càng dễ nổ...mà đã nổ, thì phải nổ lớn,
nổ vô tư, nổ hung hăng con bọ sít cho đáng
đồng tiền bát gạo.

Sau khi đã luồn lách và mánh mung chui ra khỏi


cái quê hương rách nát tả tơi, khó thương này
và được định cư ở đất nước thứ hai, hay thứ ba
MỤC LỤC

chi đó, tức là đã hết cơn bĩ cực tới thời thái lai,
thì cánh đờn ông liền nổ ngay lập tức, chẳng
“oong đơ” trì hoãn chi hết.

Ngày xưa mình chỉ là anh binh nhì “đơ giem cùi
bắp”, thì bây giờ phải vỗ ngực tự xưng là sĩ
quan Biệt động, sĩ quan Nhảy dù...Toàn là
những binh chủng thứ dữ không à. Đã khoe thì
phải kheo cho đến nơi đến chốn, chứ ai lại thèm
bảo mình là địa phương quân , là nghĩa quân
hay là lính ma lính kiểng.

Ngày xưa mình chỉ là anh lao công bệnh viện,


chuyên môn đi hốt và đốt những bông gạc, rác
rưởi nhà thương, thì bây giờ phải tự phong lên
làm bác sĩ cho nó oai và cho nó oách. Ai rỗi hơi
đâu mà đi sưu tra lý lịch của mình. Chỉ hơi
sượng sùng một tí khi đụng mặt những thằng
MỤC LỤC

bạn thân thuở nào mà thôi.

Sau khi định cư được vài năm và cuộc sống


tương đối đã có phần ổn định, thì bèn làm mọi
cách để quên đi cái gốc gác “annammít” của
mình. Ra đường, nếu gặp đồng hương đồng
hao, thì luôn mồm luôn miệng :
- Hai...Bai...
Còn gặp dân Mẽo chính gốc Huê kỳ, dân Ăng lê
chính tông nước Anh hay dân Phú lãng sa chính
hiệu Pháp quốc, thì liền cúi xuống lí nhí bảo
mình :
- Tôi là người Nhật.
Hay :
- Tôi là người Đại hàn...
Rõ thật :
- Nhận vơ lấy vợ thằng Nhân,
Nó cho bát bún, nó vần cả đêm!
MỤC LỤC

Thì ra :
- Thấy người sang, bắt quàng làm họ.
Xin tạm quên đi cái gốc gác, cội nguồn :
- Tôi là người Việt Nam.

Khi trở về quê hương và thăm lại những người


thân quen, thì bệnh nổ lại càng tăng thêm phần
trầm trọng của nó. Bởi vì người bên ni làm sao
biết được kẻ bên nớ “làm nghề nghiệp gì cùng
mê tính xấu nào ?”

Trước hết là nổ trong cung cách tiêu xài. Có


những người ở bên nớ vừa ăn lương thất
nghiệp và vừa tìm việc làm chui ở nhà để kiếm
thêm tí tiền còm. Có những người ở bên nớ phải
đi vay mượn khả dĩ dằn túi một mớ. Với xấp đô
la trong tay, thì suốt những ngày ở Việt Nam, họ
mặc sức tiêu xài, mua sắm như muốn chứng tỏ
MỤC LỤC

với mọi người thân quen rằng :

- Ta rất thành công ở bên nớ và tiền bạc chỉ là


chuyện nhỏ.
Mai mốt có phải kéo cày để trả nợ, thì...hạ hồi
phân giải. Còn bây giờ phải chơi trội cái đã.

Tiếp đến là nổ trong lời nói. Mới đi được mấy


năm, chẳng biết ở bên nớ học được mấy tiếng
Ăng lê, hay chỉ toàn nói với thiên hạ bằng tay,
“English by hand”, thế mà về Việt Nam, mở mồm
mở miệng ra toàn những “pao” với “mai” :
- Con cá này nặng mấy pao ?
- Từ đây lên thành phố là bao nhiêu mai nhỉ ?
Thật tội nghiệp cho đám bà con nhà quê cứ
ngẩn tò te, chẳng biết pao với mai là cái đí gì
sốt.
MỤC LỤC

Ngoài ra là nổ trong việc ăn uống. Thứ gì của


đất nước cũng bị chê là thiếu tiêu chuẩn, thiếu
chất lượng, không đảm bảo vệ sinh. Cho con
uống sữa thì phải là thứ sữa nhập từ bên nớ.
Khi uống bia, nếu là dân Việt kiều Úc, thì phải
chọn bia Foster, theo đúng phong cách Úc.

Ngày xưa, khi ở Việt Nam thì đớp thịt chó như
điên, còn bây giờ nếu ai lỡ mời thịt chó thì chối
nguây nguẩy :
- Em chả...Em chả...
Rồi lại còn cao giọng mà lên lớp :
- Ăn thịt chó là...dân man di mọi rợ.
Nhiều lúc nghe qua, gã cũng nóng gáy muốn
chửi thầm trong bụng cho một chặp :
- Tiên sư anh nhé. Anh cũng “Mít đặc”, mà tôi
cũng “Mít đặc”. Chửa chi mà anh đã quay lại
khinh bỉ chính cái nôi đã nuôi anh khôn lớn.
MỤC LỤC

Sau cùng là nổ trong việc phét lác. Ở bên nớ, đi


hầu bàn hay rửa bát cho thiên hạ, thì về bên ni
bèn tự xưng là chủ nhà hàng. Ở bên nớ, đi quét
dọn thư viện, thì về bên ni bèn tự phong là quản
thủ thư viện. Con cái mới học được một tí chữ,
thì đã vội khoe đứa nào cũng giỏi, đứa nào cũng
nhất...coi thiên hạ chẳng có ký lô nào sốt. Rồi
còn trăm ngàn sự lỉnh kỉnh khác nữa.

Để kết luận, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nữa,


cũng trích từ sách “Cổ học tinh hoa”. Chuyện
rằng :
Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc
quan. Có tên đánh xe theo hầu.
Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng
tay cầm cây dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên
trời, dương dương tự đắc.
MỤC LỤC

Lúc chồng về nhà, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng


hỏi :
- Tại làm sao ?
Nàng nói :
- Án tử người gầy thấp, bé nhỏ làm đến tướng
nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế
mà thiếp xem ông vẫn khiêm nhường như chưa
bằng ai. Chớ như chàng cao lớn đẫy đà, chỉ mới
làm được một tên đánh xe tầm thường hèn hạ,
thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh
hạnh, tưởng không ai bằng nữa. Nên thiếp xin
bỏ chàng, thiếp đi.

Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh


váo, chừa được cái tính nông nổi. Án tử thấy
thế, lấy làm lạ bèn hỏi. Tên đánh xe đem việc
nhà kể lại. Án tử bèn cất cho làm đại phu.
MỤC LỤC

Lời bàn của câu chuyện trên cũng đáng cho gã


suy gẫm :
Tên đánh xe của Án tử thực là sang vì vợ, nhờ
được người vợ giỏi, biết lấy cái địa vị hèn hạ, cái
dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ,
mà sửa được tâm tính chồng và thành được
thân danh cho chồng.

Tiếc thay, ở đời bây giờ có biết bao nhiêu kẻ chỉ


là đầy tớ người ta, mà đã vênh váo lên mặt,
nghênh ngang tự đắc như tên đánh xe, mà lại
không có được những người vợ như người vợ
tên đánh xe để khuyên răn chồng, làm cho
chồng biết tự sỉ mà phấn chí tu tỉnh cho ra
người.

Trước khi chia tay, một lần nữa gã bèn long


MỤC LỤC

trọng kêu gọi phe đờn bà con gái hãy vùng lên
kể tội cánh đờn ông con giai.

Bài kể tội xin cứ vô tư gửi về cho cụ chủ nhiệm.


Và khi thấy nó xuất hiện trên báo, thì chắc chắn
là...có thưởng đấy nhé.
Thời buổi...khuyến mãi mờ.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐÀO HOA

Chuyện phiếm của Bà chằng


Tôi vẫn thừơng lên tiếng phản đối cụ chủ nhiệm
đã thiên vị, để Gã Siêu múa bút tấn công bới
móc nói xấu phe kẹp tóc hơi nhiều, đã thế cái
mặt « gã » còn câng câng ra cái điều thách
thức...

- Cụ phải để cho con vài trang kể tội đàn ông thì


mới công bằng.
Cụ giẫy nẩy như bỏng nứơc sôi :
- Đâu có đựơc, bộ cô em không biết rằng năm
nay là năm Tỵ à? Qua đâu có dám dại dột cõng
rắn cắn gà nhà, để cô em vạch áo đàn ông cho
qúy bà xem lưng !

Coi bộ năn nỉ không xuôi, tôi bèn thay đổi chiến


thuật, đe « nghỉ chơi » với Mục vụ. Lời hăm dọa
MỤC LỤC

xem chừng hiệu nghiệm, có sợ «rứơc voi về dầy


mả tổ» hay không, thì cụ cũng phải dành cho
con vài tấc giấy để phục hồi bình đẳng, bình
quyền lại cho phái yếu !

«Tội lớn nhất của đàn ông là yêu đàn bà nhiều


qúa, nếu yêu bớt đi thì sẽ tránh được bao nhiêu
tội khác ...», tôi không đồng ý, nên đổi lại thứ tự
«yêu nhiều bà qúa, nếu yêu một bà thì sẽõtránh
được nhiều tội khác .. »

Nếu chỉ có người đàn ông mới nhìn thấy nét đẹp
của đàn bà, thì chỉ có đàn bà mới nhận ra đâu là
tật xấu nơi ngừơi đàn ông !

Qủa thật không sai, vì một trong «tứ đại mỹ


nhân» của lịch sử Trung Quốc, Dương qúy Phi,
với hơn bảy mươi kí lô, dĩ nhiên nàng không thể
MỤC LỤC

được xếp loại mình dây, trường túc,vóc hạc,


thân gầy, xác ve, miệng chu, mỏ dẩu... như minh
tinh màn bạc hoặc các top model thời đại bây
giờ, thế mà Đường Minh Hòang u mê, lú mề, để
giặc đuổi, bỏ thành chạy te tua. Cô nàng Monica
Lewinsky chỉ vớiù cặp môi tề tề trông đến mất vệ
sinh, mà làm Tông Tông Clinton súyt nữa thì đầu
ly dị với cổ, thân tàn ma dại ! Gần đây nhất,
nhân vật thứ ba của Pháp, Roland Dumas cũng
mới trộ khám vào tù bóc lịch cũng chỉ vì chiều ý
ngừơi tình, bà cũng chẳng có sắc đẹp siêu đình
đổ quán gì cho cam. Còn đương kim Thái Tử
Anh Quốc đã thờ ơ bỏ bê cô vợ trẻ đẹp như
Tiên Nga giáng trần, đeo đuổi theo bà già «có
nhan sắc của người đàn ông không đẹp giai
mấy!», đến đây thì tôi phải công nhận là các ông
có «hoa mắt» khác đàn bà chúng tôi thật!
MỤC LỤC

Tội của đàn ông đếm ra thì rất nhiều như : lười,
bẩn, hay quên, bê bối, độc đoán, rượu chè, cờ
bạc, hút sách, vui đâu chầu đấy...nhưng cái tội
khó tha thứ nhất nơi người đàn ông muôn đời
vẫn là cái tội lắm bà, cái tật ...mê gái ! Hay nói
văn huê hơn thì gọi là những anh chàng Don
Juan, Casanova, nghĩa là có máu Đào Hoa !
Nhất là những ông có nhiều dịp phải chường
mặt, chường mũi ra trứơc đám đông, phải giao
tế với nhiều tầng lớp xã hội, thì máu đào hoa lại
càng đậm đặc!

Để chỉ lòng tham vô đáy của đàn ông, các cụ


ông đã phải vuốt râu gật gù công nhận:
- Sông bao nhiêu nước chẳng vừa
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng

Tại sao vậy cà ?


MỤC LỤC

Vì , đàn ông là:


- “Loài» bạc tình nhất trong các lòai biết hứa hẹn
và cũng là «loài » «có mới nới cũ » nhất trong
các loài biết thề thốt!
- «Loài» tương cận với con «Lừa»: bạn có thấy
con “Lừa” nào nói thật chưa?
- Chiếc thùng rỗng đáy: vì không có đáy, bạn có
tống thứ nào vô cũng chẳng bao giờ đầy, có
điều là với cái thùng bạn có thể vá viu lại, hoặc
vứt đi thay cái mới, nhưng đàn ông lại không
đơn giản như vậy.

- Cái gậy ông ăn mày : bạ đâu chọc đấy


- Kameleon : tắc kè đổi theo mầu bất cứ chỗ nào
chú ta đứng, ít bà nào có thể vừa làm chủ cả thể
xác lẫn trái tim của người đàn ông.

Các ông vẫn ao ước có được ngườiø vợ hiền


MỤC LỤC

thục, đảm đang, biết chiều chồng và hy sinh cho


con, không se sua đua đòi, dễ nghe, dễ bảo, và
chung thủy, nhưng các ông vẫn khát khao dáng
dấp một người tình nóng bỏng, hấp dẫn, duyên
dáng, õng ẹo và biết… nũng nịu để tô hồng cuộc
đời. Ở trong nhà thì các ông chủ trương ‘cái nết
đánh chết cái đẹp’ nhưng khi ra khỏi nhà thì lại
đòi hỏi « cái đẹp đè bẹp cái nết » !

- Mây lang thang: bạn đãù thấy áng mây nào


dừng yên lại một chỗ chưa ? hay chỉ tự do bay
mãi không ngừng trên bầu trời cao thẳm, tư tình
cùng trăng gíó và đùa cợt với muôn vì sao ?

- Căn nhà trống: vì trống tuếch, trống toác nên


ngọn gió nào lúa vô cũng chịu!
- Cái ống cống: bất cứ thứ nước nào chẩy vào
cũng sẵn sàng tiếp thu! vv và vv.
MỤC LỤC

Chuyện xưa kể lại rằng tại xứ Ba Tư, có một bạo


chúa nọ, hoang đàng và trác táng, mặc dù cả
ngàn cung nữ và các nô lệ ngày đêm phục dịch,
nhưng vẫn không sao làm cho Vua hài lòng,
người đàn bà nào không mua vui được cho nhà
Vua thì sẽ bị chém đầu. Một hôm, có người con
gái tuyệt vời xinh đẹp đến xin được hầu hạ nhà
vua, hằøng đêm nàng dâng lên Vua những câu
chuyện cực kỳ lý thú cùng với lối kể thật duyên
dáng, sau mỗi đêm, nhà Vua bằng lòng để
ngươi con gái ấy sống thêm một ngày nữa, rồi
những ngày kế tiếp. Càng nghe,Vua càng thích
thú, say sưa, mê man, và như bị thu hút bởi sự
quyến rũ huyền hoặc nơi người con gái, Vua bỏ
ăn, quên ngủ chỉ để nghe cô kể chuyện, cho đến
đêm thứ một ngàn lẻ một thì nàng cảm hóa
được vị bạo chúa kia, và nhà Vua bãi bõ lệnh
giết nàng. Người con gái ấy đã tiết kiệm được
MỤC LỤC

một ngàn lẻ một cái đầu của những cô gái vô tội.

Hết duyên, hết tình, bởi vậy các ông cũng đừng
trách là tại sao:
- Đàn bà cứ có nói không
Hễ muốn lấy chồng, lại bảo đi tu
Hoặc bị các nàng ỡm ờ trả lời như cô bạn tôi :
- Nhà em ở đâu ?
- Dạ, nhà em ở gần cái chùa ạ!
- Thế cái chùa ở đâu?
- Dạ thưa, cái chùa ở cạnh nhà em.
Các vị Vua như Càn Long hoặc Đường Minh
Hòang bên Tầu, nổi tiếng là có lắm cung tần, mỹ
nữ, mỗi Đấng có không dưới vài ngàn bà.

Bên Nam ta,Vua Long Đĩnh, còn gọi là Ngọa


Triều, đã biết đàn bà lúc còn rất « nhí « đú đởn
rượu chè cả trăm thứ linh dược hun đúc cơ thể,
MỤC LỤC

no say, cũng vì ăn chơi trác táng quá độ, nên vị


Vua này không chịu đi mà cũng chẳng thèm
đứng, chỉ biết nằm và đến khi chết cũng là...chết
nằm.

Thái Tông Hoàng Đế, băng hà khi mới tròn hai


mươi tuổi, trong lúc Vị «con Giời » này đang tòm
tèm vớùi người đẹp Thị Lộ, nàng hầu của quan
cận thần Nguyễn Trãi, Thiên Tử bèn chết dẫy
đành đạch không kịp trăn trối, còn dòng họ nhà
Nguyễn Trãi thì bị tru di tam tộc.

Trong thời bình, các Thiên Tử được no hơi, ấm


cật và rửng mỡ, những ông Giời con này chỉ lo
ăn chơi ngao du sơn thủy, đi săn bắn và săn…
đàn bà, lo sưu tầm một ngàn lẻ một thú vui và
món nhậu, ngòai các món sơn hào hải vị của
hòang gia, phải kể đến những món ăn chơi
MỤC LỤC

như : Dơi hấp mật gấu, vựơn lắc đầu, hoặc


«chuột sa chĩnh sâm», tức là bảy đời nhà chuột
bị ép phải ngốn toàn là sâm, mà phải là loại sâm
đặc biệt qúy hiếm, đến anh chuột đời thứ bẩy, vị
« con Giời» chỉ việc há họng, bấu đuôi anh
chuột một phát, bị đau, anh chỉ kịp thét lên được
tiếng «chít » rồi đâm đầu chui tọt vào miệng
Thiên Tử. Các món qủy quái này làm như vẫn
chưa đủ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu «chuộng của
lạ» của qúy ông Giời con, nên các tay đầu bếp
bèn bịa thêm những món oái oăm, mới nghe
qua đã phát ớn lạnh nổi lông gà như : hổ mang
nhồi sọ khỉ, mãng xà hầm óc diều hâu...cộng
thêm anh «cửu xà lung linh tửu», rượu mật
rắn...Thiên Tử tha hồ say sưa, chỉ còn thiếu món
«xương rồng» là chưa có tên trong danh sách
ẩm thực của hoàng cung mà thôi ! Chẳng hiểu
ăn vào có được tăng tuổi thọ hoặc bổ thận, bổ tì
MỤC LỤC

ở chỗ nào - chứ cả như tôi, nếu có được « get


one, free one» cho không, biếu không chắc cũng
chẳng dám rớùù - thế mà đại đa số các ông «
con Giời» này đã «bổ ngửa» toi mạng lúc còn
rất trẻ.

Ngày nay các ông Vua dầu hỏa Á Rập, mỗi lần
di chuyển là vác theo phải trên hai mươi bà vợ,
to, bé, lớùn, nhỏ, mập, gầy đủ cỡ để hầu hạ
Vua. Ông Vua nước láng giềng tí hon Brunei đã
treo gíá mua người đẹp một đêm với 50,000 Đô
la Mỹ, tức là hơn một trăm năm lương của một
công chức bên Việt Nam, những cuộc sống
vương gỉa ăn chơi phung phí trên sự đau khổ và
nghèo đói của dân gian, và luật đa thê tại các xứ
Cà Ry Nị vẫn còn tồn tại, đàn ông Hồi Giáo
được quyền cươi đến bốn bà vợ, trong khi đàn
bà nơi xứ này bị coi thường rẻ rúng hơn cả con
MỤC LỤC

lừa.

Tại các nước dân chủ lập hiến, sau khi sắc lệnh
độc thê được ban hành, mỗi khi đệ nhất phu
nhân bước chân ra khỏi cửa, ngoài « body
guard » canh theo sát nút, Tông Tông còn phái
thêm các thám tử ngầm theo dõi rất cẩn mật,
không phải để bảo vệ bất trắc xảy ra cho phu
nhân, nhưng là cốt để canh chừng bà vợ dở
chứng trở về bất tử thì còn biết lối ra hiệu cho
các cô bồ nhí chuồn êm bằng cửa hậu.

Trước 75 , khi có lệnh cấm trại một trăm phần


trăm, thì các ông sĩ quan bay bướm hào hoa
trong thời chiến của nền đệ nhị Cộng Hòa miền
Nam ta được lợi dụng bay nhẩy trốn bà xã, vì
«chẳng ai xấu xí và vô duyên như vợ mình để
lén đi xây tổø tò vò với đào, nhiều khi vắng nhà
MỤC LỤC

liền tù tì cả tháng, thỉnh thoảng mới lò mò tạt về


thật lẹ thì cũng lại rón chân cò chuồn êm rất
nhanh. Đôi khi, những bà vợ, mò lên tận tiền
đồn thăm chồng, bắt gặp những vật lạ mà ông
chồng chưa kịp phi tang, mặc dù các ông đã lau
mép kỹ lưỡng, nhưng ác thay, nếu lửa và khói
không thể nào che được mắt phàm nhân, thì
mấy ông có bồ nhí cũng không thể nào đậy nổi
những con mắt ‘lục lăng’ của các bà vợ ! Sau
màn la lối đập phá mỏi chân tay, y ỷ khóc lóc
trong nhà không xong thì các bà sẽ vác ghế ra
ngồi đầu hè mà bù lu, bù loa kể lể thảm thiết làm
y như bắt vạ hàng xóm phải lo canh...xác ông
chồng hộ bà, và phải lo đi đánh ghen hội đồng
dùm bà. Tôi nhớ hồi còn học lớp đệ tam, có một
tên chuyên môn phá phách và nổi tiếng nham
nhở ưa chọc gái, bố hắn là sĩ quan một sao.
Hôm thầy gọi lên trả bài, không thuộc, hắn ta ấp
MỤC LỤC

úng :

- Tại vì tối hôm qua, em phải chở má em đi đánh


ghen !

Cả lớp cười ồ!
Kế cạnh nhà tôi, có ông gìa gân «mât nết », gọi
là già Ba Chi vì ông chôm cả ba chị em, chẳng
hiểu ông có ‘ruyên’ ngầm ở chỗ nào, hay là ông
có tí của mà « mía ngọt ông đánh cả cụm ». Hồi
bà vợ lớn đi sanh, cô em kế lên giúp chị rồi
chẳng biết vì lý do nào, mà sau đó, cô em khăn
gói qủa mướp đến ở chung. Và đến khi cả hai
bà chị dẫn nhau đi vào nhà thương Từ Dũ thì cô
em út lên trông cháu, cũng bị ông «thuổng »
nốt ! Ông hãnh diện tự khen mình là người đàng
hòang nên chẳng bỏ rơi bà nào ráo trọi, làm như
biết thân, biết phận «anh em ta, cùng mẹ cha »,
MỤC LỤC

nên chẳng bà nào ghen tương lườm ngúyt bà


nào, cả ba bà đều có cửa tiệm làm ăn buôn bán
đề huề, và coi bộ các «cao dân » - các «anh em
ghẻ» cũng thân thiện với nhau ra phết!

Không hiểu một đứa con có máu đào hoa và một


đứa chẳng có cái hoa, đứa nào làm các cho ông
bô, bà bô phải lo lắng hơn ? Tôi có thằng em bà
con ở Quận Cam, ngày hắn mới giựt được
mảnh bằng Bác Sĩ, bà dì hãnh diện lắm, bà vênh
váo treo gía ngọc cho cậu ấm «con gái nào bố
chết táng vào hàm rồng mới lấy được thằng
Lãõm ! ». Với cái « mác » bác sĩ to như cái mẹt,
cùng với vóc dáng cao ráo đẹp trai như tài tử xi
nê, cậu lại chịu khó chải chuốt, mặc veston cao
cổ, đeo kính râm, trông rất bảnh trai, ăn đứt anh
chàng Lê Minh của điện ảnh Hồng Kông. Các nữ
độc gỉa thân yêu của Mục Vụ, có thể đâm đơn
MỤC LỤC

gửi về tòa sọan, chúng tôi sẽ chuyển liền tút xuỵt


!

Khi cậu bắt đầu tròm trèm bốn chục và công ăn


việc làm đã vững chắc, thì dì bắt đầu dòm ngó
gia đình các bà bạn có con gái mà dì gọi là gia
phong lễ giáo, cu cậu tế nhị viện cớ bận việc,
chưa nghĩ tới việc lập gia đình. Chả là thời còn
sinh viên, cậu có đem mấy cô nghệ sĩ về ra mắt
dì dượng, cô nào cũng xinh xắn, nhí nhảnh
lẫn… đỏng đảnh, sợ cậu qúy tử của mình bị yêu
ma đào mỏ hoậc bị mọc sừng tua tủa, dì viện cớ
vin theo tướng học nói các cô không phải là hiền
mẫu, có lẽ vì chưa đến thời kỳ yêu đậm hoặc
chưa đến giờ ‘đói vợ’, nên từ đó hắn im bặt,
chẳng nhắc tới cô nào nữa. Vì có cái mã «
gentleman », mấy cô em, mấy bà chị họ lợi dụng
bắt hắn làm ‘escort boy’ hoặc làm tài xế trong
MỤC LỤC

những cuộc hội hè tiệc tùng, đôi khi còn bắt hắn
phải làm vú em, dắt lũ cháu đi piscine hoặc đi
xinê, đi sở thú. Thấy thế, dì phàn nàn :
- Nó khó lấy vợ là tại tụi mày, bố ai dám nhào vô.

Dượng tôi chép miệng trách thằng con khó tính :


- Già kén kẹn hom, lấy phải cô vợ còm mới trắng
mắt ra, kén mãi, thế nào rồi mày cũng vớ phải
con mụ gìa cóc đế ! vừa già vừa xấu xí vô duyên
cho mà xem !

Hắn vẫn chẳng rục rịch gì, đám bạn cùng lứa đã
ký bản án tử hình gần hếát, có những anh chàng
đã cưới lên cưới xuống cả mấy đời vợ.

Bạn bè trêu chọc :


- Hay là mày mê nhằm vợ người hở mày? Cho
ông chồng một liều thuốc chuột là xong chứ gì ?
MỤC LỤC

Hoặc :
- Mày là bác sĩ mắt, tai, mũi, họng, chứ có phải
là bác sĩ sản khoa đâu mà ngán đàn bà?

Hắn vẫn không đính chính, chỉ lẳng lặng mỉm


cười, dì thở dài, lo lắng ra mặt, sợ cậu ấm bị
nhiễm chứng bệnh thời đại, chân mười giờ
mười, đi hai hàng, nghĩa là mê cả đàn ông lẫn
đàn bà, yêu cả nam lẫn nữ. Quýnh quáng, bà so
sánh liều :
- Đẹp trai không bằng chai mặt, giá như thằng
cu Tửng vậy mà hay hơn!

Chẳng là anh cu Tửng về Việt Nam mới có tám


lần, mà đã vác sang được ba bà vợ.
Những năm gần đây có lan tràn chiến dịch «go
home» của những anh Việt Kiều kén vợ, khát
vợ, mồ côi vợ, bị vợ chê hoặc trốn vợ… về nước
MỤC LỤC

ưu tiên là øtìm « một tấm », vì ở hải ngoại các


ông được xếp vào hàng thứ ba sau.. con KiKi,
«ta về ta tắm ao ta, nhưng ao ta không cho ta
tắm!», cu Tửng cũng được xếp trong liste này.

Quen miệng gọi là cu Tửng vì biết hắn hồi còn


bé, hắn vừa lùn, vừa đẹt, vừa quắt lại vừa còi,
làm nghề bán bảo hiểm nhân thọ, nhưng khi
phải đối diện với đàn bà con gái thì hắn câm
như thóc, thế mà sau khi nghe thầy bói tán
tụng :

- Giời ơi !, số gì mà làm khổ đàn bà đến thế này,


đã yêu hai bà rồi mà lại còn có mấy bà khác
thương thầm nữa! Đào hoa qúa là đào hoa!
- Dạ, có cô nào đâu ạ?
- Thì đã nói là yêu thầm mà lỵ !
MỤC LỤC

Quả lời bói mò của ông thầy thật linh thiêng, anh
ta mò về Việt Nam, chẳng hiểu duyên cớ ra
răng, mà hắn tán được hai cô, có lần cả hai cô
đột nhập vào phòng hắn không hò hẹn, bốn con
mắt sắc như dao cạo chạm nhau như muốn lột
da mặt nhau ra, hắn đứng yên như trời trồng, cà
lăm không ú ớ nên lời, cô ả lên cơn mệt tim thở
phì phò như người sắp hết hơi, đỡ được cô này
lên, thì cô kia lên cơn suyễn nghẹt thở, hắn bèn
chạy lại ôm cô kia, cứ thế hai cô thay phiên nhau
làm nũng, cô nào cũng chờ cô kia bỏ hắn để
chiếm trọn vẹn trái tim, nhưng coi bộ cả hai nàng
đều có tính cả nể, nặng nợ duyên tình, nên
chẳng ai dám phụ rẫy hắn cho đến ngày xuất
ngoại.

Về Việt Nam, các chàng ViKi được thể tha hồ rủ


nhau ăn nhậu và ăn vụng vung vít, đấng nào lỡ
MỤC LỤC

nhấp nhó món này thì nên cẩn thận, chùi mõm
cho sạch, chớù coi thường khinh «địch» mà bị
biến thành Thái Giám bất đắc dĩ thì khốn! Vì các
bà có thể dễ dàng nhắm mắt làm ngơ để các
ông ăn hối lộ, ăn gian, ăn tham hoặc ăn quỵt...
nhưng mà ăn vụng thì khó lòng tha thứ.

Trong buổi Đại Nhạc Hội gây qũy xây nhà thờ tại
miền bò vàng «Tếch Xịt », nữ ca sĩ Khánh Ly đã
cảnh giác các ông băm nhăm :
- Bên này, dao thớt rẻ, đàn bà chúng tôi lại học
thêm được nghề...mài dao, « phập » một phát là
...xong!”

“Có tiền, có tật !” Các ông có tiền thì chắc chắn


là có mèo, có vợ bé. Vua Đường Minh Hoàng có
tới ba ngàn cung phi, nhưng chưa thấy sử sách
ghi lại bà Quận Chúa nào có ba ngàn ông
MỤC LỤC

chồng?

Câu chuyện vui kể lại rằng, sau khi chết, dưới


âm ty Diêm Vương ra lệnh cho những anh
chàng Đào Huê nào khi còn sống đã dê cô em
vợ thì đứng xếp vào cột ghi số một, anh nào
mèo nhè vợ bạn thì xếp vào cột số hai. Thấy có
anh chàng lớ ngớ mãi mà không chịu đứng vào
hàng nào cả, lấy làm lạ, Diêm Vương bèn hỏi :

- Cái anh kia, tại sao lại không chịu xếp hàng,
chẳng lẽ ta bắt lầm nhà ngươi chăng?
Chàng ta run run trả lời :
- Dạ thưa Ngài, tôi không biết phải đứng vào
đâu, vì khi còn sống, tôi đã lỡ dê cô em vợ và
trót lấy luôn cả vợ bạn nữa.
Diêm Vương vuốt râu mỉm cười
- Thế thì mày lên đây, ngồi chung với tao!
MỤC LỤC

Khi nào các tinh cầu còn quay thì tật Đào Hoa
của đàn ông còn dài và còn nhiều, thay lời kết
tôi xin cống hiến qúy ông bài vè lục bát, chứng
tỏ nói có sách, mách có chứng hẳn hòi :
Trên trời có bẩy tê tê.
Có ông mười vợ không chê vợ nào.
Vợ cả thì đẹp như sao.
Vợ hai chín nhũn như đào chín cây.
Vợ ba khéo vá, khéo may.
Vợ tư dệt cửi ở ngay trong nhà.
Vợ năm thì đi buôn hồng,
Buôn phải hồng nhũn, một đồng ba đôi.
Vợ sáu thì đi buôn nồi,
Buôn phải nồi thủng, một nồi ba vung.
Vợ bảy thì lủng bủng, lùng bùng.
Vợ tám đánh vỡ cả vung lẫn nồi.
Vợ chín thì nấu cháo bồi,
MỤC LỤC

Chồng ăn chẳng được, bị đôi trận đòn


Vợ mười có vú mà lại không con.
Đang viết dở dang thì chuông điện thoại của cụ
chủ nhiệm réo làm tôi quên mất tiêu, không biết
bà nào hay lủng bủng, bà nào bị chồøng «oánh
» tơi bời hoa lá, và bà nào có con mà lại không
có vú . Ấy chỉ mới có mười bà mà coi bộ đã vất
vả như thế, thì “mụ“ đến độ nào!

Nếu kiếp sau có bị Tây Vương Mẫu đầy xuống


trần gian, tôi chỉ xin được làm Hoàng Minh Đế!
Lời bàn của Gã siêu
Rất hoan nghênh sự góp mặt của Bà Chằng,
nhưng chỉ xin “chõ mồm” vào một vài điểm nho
nhỏ trong bài viết để được gọi là “đóng cửa dạy”
nhau.

Trước hết, Bà Chằng vốn là phe kẹp tóc, thế mà


MỤC LỤC

lại tự dành lấy cho mình quyền phê phán phe ta,
chấm cô này đẹp, cô kia xấu...,Bởi vì cái đẹp thì
rất ư là chủ quan, như một câu ranh ngôn đã
bảo : đẹp chính là con cóc cái dưới mắt con cóc
đực. Dù có nặng tới bảy mươi ký lô, thì đối với
Đường mình hoàng, Dương quí phi lúc nào cũng
rất...tuyệt vời.

Tiếp đến, sau một hồi “rũa” đờn ông te tua, thế
mà cuối cùng Bà Chằng lại muốn kiếp sau mình
được làm Hoàng minh đế, nghĩa là được làm
đờn ông. Và hơn thế nữa, một thứ đờn ông cao
cấp, có những hơn ba ngàn bà vợ. Như vậy,
đờn ông quả là có giá và hình như luôn nắm
thế…thượng phong. Hóa ra gậy bà lại đập lưng
bà mà thôi.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NHẬU

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Một trong những chứng bệnh của phe đờn ông
con giai, khiến cho quí bà quí cô nhiều khi phải
nhăn mặt “âm thầm gậm nhấm nỗi đớn đau cô
đơn” của mình, đó là chứng bệnh nhậu.

Để diễn tả nỗi đớn đau vò võ ấy, người ta đã


nhái theo bài hát “Hòn vọng phu” như sau :
- Bao nhiêu đêm cầm roi đứng đợi chồng về,
Bao nhiêu đêm vòng tay đứng nghe chồng thề.

Không hiểu bên Thụy sĩ, người ta nhậu ra làm


sao và nhậu theo phong cách nào ? Chứ còn tại
Việt Nam, người ta nhậu ở mọi nơi, trong mọi
lúc và với bất kỳ lý do nào. Vui cũng nhậu, buồn
cũng nhậu và thậm chí muốn nhậu là nhậu,
chẳng cần lý do nào sốt.
MỤC LỤC

Vì vậy, phong trào nhậu cứ “liên tục phát triển”.


Chả thế mà đất nước mình thuộc vào hạng
nghèo rớt mùng tơi, nhưng lại có mặt đầy đủ
những thứ bia nổi tiếng trên thế giới và hàng
năm người ta sản xuất ra không biết bao nhiêu
triệu lít bia.

Rồi trong những ngày gần đây tại Saigon, xuất


hiện hàng loạt những “làng nướng”, làng “lẩu”…
Cứ chiều chiều đi ngang qua những thứ làng
này, mùi thịt thà cá mú bốc lên làm điếc mũi
hàng xóm. Tất cả những điều ấy, gã đã có dịp
trình làng.

Riêng hôm nay, gã sẽ nhìn hiện tượng nhậu


dưới góc độ của anh đờn ông cũng như của chị
đờn bà, để rồi đi đến một kết luận cụ thể, đó là
MỤC LỤC

ta phải nhậu như thế nào cho đáng mặt mày râu.

Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào chi tiết, gã xin đề


cập tới vị sư tổ của trường phái nhậu, đó chính
là Lưu linh.

Theo sách vở thì Lưu linh tự là Bá luân, người


đời Tấn. Ông thuộc nhóm “thất hiền”, tức là một
trong bảy vị hiền tài ở Trúc lâm, tính tình phóng
khoáng, thích uống rượu lại giỏi thơ văn. Ông đã
để lại cho đời một bài thơ bất hủ, ca ngợi cốt
cách phong lưu của việc uống rượu. Bài thơ ấy
mang tựa đề là “tửu đức tụng”. Chả thế mà trong
“Cung oán ngâm khúc” có câu :
- Cờ tiên, rượu thánh ai bằng,

Lưu linh, Đế thích là làng tri âm.


Tục truyền trằng : vào một đêm trăng thanh gió
MỤC LỤC

mát, ông ngồi uống rượu và ngâm thơ với các


“chiến hữu” trên một chiếc thuyền. Trong lúc cao
hứng, ông đứng lên, loạng choạng bước tới mũi
thuyền. Nhìn thấy vầng trăng lung linh dưới đáy
nước mà cứ ngỡ là lơ lửng trên bàu trời, ông
liền giang tay nhảy xuống ôm lấy trọn vầng trăng
và bị thế là…dòng nước cuốn trôi.

Từ đó cho đến nay, dân bợm nhậu vốn thường


được gọi là đệ tử của Lưu linh và tôn ông làm
sư tổ của mình.

Nhiều người cho rằng :


- Đối với phần lớn đờn ông con giai, thì tình yêu
đi vào trái tim thường phải rẽ qua ngả đường
của bao tử.

Điều đó chứng tỏ rằng anh đờn ông con giai nào


MỤC LỤC

cũng khoái ăn ngon. Thế nhưng, đồ ăn thịnh


soạn mà thiếu chất cay cay để đưa mồi thì cũng
hóa thành nhạt nhẽo như người xưa đã bảo :
- Cỗ không rượu như kiệu không cụ. Đi rước
kiệu mà không có cha chủ sự thì còn ra cái thể
thống chi nữa.

Chính vì vậy, rượu đã xuất hiện từ một thuở rất


xa xưa và có mặt trên từng cây số nơi các dân
tộc, từ đông sang tây, từ cổ chí kim và làm thành
nét đẹp riêng của văn hóa. Chả thế mà trong
ngành du lịch, người ta đã đưa ra chiêu bài nền
“văn hóa ẩm thực” của dân tộc mình để thêm
phần hấp dẫn hầu dễ bề móc túi du khách.

Gã không biết ai là người đầu tiên đã chế biến


nên rượu. Thôi thì đành dựa vào Kinh thánh vậy.
Theo sách Sáng thế ký : sau cơn đại hồng thủy,
MỤC LỤC

khi nước đã rút hết, thì Noe đã trông nho và làm


rượu. Ông cũng đã nhậu một chầu túy lúy với
những xị rượu đầu tiên của mình.

Và thế là chuyện nhậu được phổ biến và trở


thành một tập tục của loài người. Hai tên bạn
khố rách áo ôm lâu ngày gặp nhau, thế nào
cũng phải làm xương xương với nhau vài táo.
Các chính khứa hội đàm “mí” nhau và khi cuộc
hội đàm kết thúc, thế nào cũng phải có màn
chiêu đãi tiệc tùng.

Cũng bởi lẽ ấy, mà các cụ ta ngày xưa đã bảo :


- Nam vô tửu như kỳ vô phong, có nghĩa là đờn
ông con giai mà không biết uống rượu thì như
cờ treo mà không có gió. Ủ rũ.

Gã xin ghi lại nơi đây tâm sự buồn của một anh
MỤC LỤC

con giai không biết nhậu, được đăng trên báo


“Phụ nữ Chủ nhật” :
“ Khi còn độc thân mỗi lần được bạn bè mời đi
dự đám tiệc, tôi đều phải len lén chọn những
bàn tập trung phái nữ và cũng chọn cho mình
một loại thức uống giống y như họ là một
chai...nước ngọt! Trong lúc bạn bè cùng “hệ”
đang hí hửng với những ly bia vàng óng, sóng
sánh bọt, tưng bừng hô vang “Zdoô, zdoô...” một
cách hết sức sôi động, thì tôi chỉ biết cắm cúi
gắp lấy gắp để cho đến món cuối cùng hầu
được...ra về! Đến khi lập gia đình, điều kém nay
mắn này lại càng được bộc lộ rõ ràng hơn. Ngay
vào ngày cưới, thường chú rể là người “bị” uống
nhiều nhất. Hết bàn này đến bàn khác, hết
người này chúc mừng đến người kia mời mọc.
Mặc dù đã “tự nhủ lòng” phải kiềm chế tối đa để
bảo đảm cho một đêm tân hôn...cực kỳ tỉnh táo,
MỤC LỤC

nhưng trước những lời chúc tụng quá ư chân


thành của bạn bè, của bà con hai họ, tôi cũng
ráng gồng mìn...uống, như để nuốt cạn từng lời
chúc mừng chí tình chí nghĩa ấy! Cho tới bàn
cuối cùng, tôi chỉ còn nhớ được mang máng
hình như có ai đó đã...vác tôi ra xe taxi rồi đưa
về nhà trước khi tàn tiệc cưới! Đến khi giật mình
tỉnh giấc đã là bảy giờ sáng của ngày hôm sau
và điều chắc chắn rằng trong đêm tân hôn đó,
chú rể vẫn còn là chú rể và tất nhiên cô dâu
cũng vẫn còn là cô dâu, chẳng chút mảy may
xây xước. Đâu đã hết, điều kém may mắn ấy
vẫn còn theo đuổi tôi cho đến bây giờ. Chẳng là
gia đình bên vợ tôi rất đông người, bốn anh em
trai cộng thêm với ba người anh cột chèo, vị chi
là bảy người và ai cũng uống bia như
uống...nước mía, chỉ lẻ loi mình tôi là “yếm thế”.
Những lúc giỗ tết, tôi chỉ còn biết ngồi khép nép
MỤC LỤC

bên vợ để được “che chở” khỏi bị ép uống...Có


thể nhiều bà vợ cứ nghĩ chồng mình không biết
uống rượu là một điều hạnh phúc, nhưng các bà
đâu có thể hiểu hết được những “nỗi thẹn thùng”
của các ông mỗi khi đụng chuyện. Đàn ông đàn
ang như tôi mà không biết uống rượu quả đáng
xấu hổ. Vì thế, nếu cho tôi một điều ước, tôi sẽ
chẳng do dự nói ngay rằng :

Phải chi tôi cũng biết...nhậu”.


Nếu như cô gái lỡ thời đã tâm sự :
- Không chồng khổ lắm chị em ơi!
Thì hẳn anh chàng này cũng phải lớn tiếng mà
kêu lên :
- Không nhậu khổ lắm anh em ơi!

Đã vậy, nhiều lúc chẳng muốn nhậu mà cũng


vẫn bị nhậu và bắt buộc phải nhậu, thì nào có
MỤC LỤC

khoái, có vui sướng gì cho cam. Dĩ nhiên ở đây


gã không bàn tới những vị sáng say chiều xỉn tối
lăn quay, thuộc hàng cao thủ võ lâm, bợm nhậu
mãn tính hay dân ghiền hạng nặng, dám vỗ
ngực tuyên bố :
- Thà bỏ...vợ còn hơn bỏ...nhậu.

Nhưng chỉ xin dề cập đến những đấng thường


thường bậc trung, mỗi khi nhậu đều có những lý
do chính đáng và lắm lúc có cả giấy phép của…
bà xã nữa. Vậy tại sao những đấng ấy lại nhậu,
hay nói một cách khác, những đấng ấy nhậu để
làm gì ? Dựa vào một bài báo trên “Phụ nữ Chủ
nhật” gã xin bổ túc và đưa ra những lý do khiến
người ta nhậu một cách rất chính đáng.

Lý do thứ nhất, đó là phải nhậu thì mới có tiền.


MỤC LỤC

Mới nghe qua lời phát biểu này thì thấy nó có vẻ


vô lý, bởi vì theo luật kinh tế : càng đông vui thì
lại càng hao. Nhậu miết thì thể nào cũng mắc
chứng “viêm màng túi” kinh niên. Thế nhưng,
nếu suy nghĩ một chút, gã thấy cũng đúng.

Có một anh bạn, chủ một doanh nghiệp tư nhân,


vốn được xem là “chuyên gia” nhậu. Gọi điện
thoại tìm anh ta thường được nghe con gái anh
ta trả lời :
- Ba con đi nhậu rồi.
Vợ anh ta phải “thay” chồng quán xuyến công
việc sản xuất , trông coi cơ sở kiêm luôn
nghề...”chỉ điểm” :
- Anh ấy đang ngồi với ông nọ, ông kia ở quán...
Còn anh ta thì lại tâm sự :
- Nhậu hoài chán lắm, ở nhà với vợ con thích
hơn, nhưng có nhậu mới ký được nhiều hợp
MỤC LỤC

đồng làm ăn. Hoàn tất hợp đồng, lời lỗ gì cũng


lại…nhậu tiếp để kiếm hợp đồng mới, cứ thế mà
nhậu quanh năm.

Có lẽ đúng như vậy. Thời buổi kinh doanh cạnh


tranh khốc liệt, cơ sở của anh ta thì nhỏ, vốn ít
nhưng đều đều có hợp đồng để làm, đủ trả
lương công nhân, nhà xưởng, điện nước, thuế
má và quan trọng nhất, đã nuôi sống cả gia đình
bố mẹ, vợ chồng và ba cô con gái. Tuy rằng
trong đó có công sức không ít của người vợ :
hiểu chồng và giúp chồng.

Lý do thứ hai đó là nhậu để tỏ ra có tí quyền, tí


chức và cũng bề thế như ai.

Một anh bạn khác, ngoài những tiệc nhậu ở nhà


hàng được người ta mời, anh ta cũng thường tổ
MỤC LỤC

chức nhậu tại nhà với danh nghĩa là đám giỗ.


Giỗ bên nội, rồi giỗ bên ngoại. Khách được mời
toàn những nhân vật có “máu mặt”, thiên hạ
nhìn vào phải nể phục sát đất quyền cao chức
trọng của anh ta. Có lần người ta thắc mắc
không biết là giỗ ai, hỏi ra mới hay :
- Giỗ người em họ của ông nội, mà khi mất mới
có vài tuổi, gia chủ cũng chẳng còn nhớ tên là
gì, nên chỉ gọi là giỗ...ông trẻ!

Lý do thứ ba đó là nhậu để thắt chặt tình bè bạn.

Như trên gã đã nói : hai tên bạn cũ lâu ngày gặp


nhau thì chỉ cần làm mấy ly là sống lại biết bao
nhiêu kỷ niệm êm đẹp của một thuở xa xưa.
Hơn thế nữa, khi rượu đã ngấm vào lục phủ ngũ
tạng, lúc bấy giờ các chiến hữu tha hồ mà “nổ”,
sẵn sàng tỏ lộ tâm can tì phế của mình. Những
MỤC LỤC

chuyện không thể nói với bà xã, thì lúc này là lúc
thuận tiện nhất để tuôn ra rông rổng cho các
chiến hữu.

Nếu ở nhà :
- Nhất vợ nhì giời.
Còn bây giờ và ở đây :
- Trời chỉ bằng cái vung, thì bà xã chắc chắn
cũng chẳng là cái thớ gì cả.
Rượu mở mang trí hóa, giải bớt cơn sầu và làm
cho tình nghĩa tuôn chảy tràn trề và lai láng
khiến các chiến hữu sẵn sàng cảm thông, không
phải chỉ chín bỏ làm mười, mà nhiều khi chín bỏ
làm mười một mười hai không chừng. Và khi tới
màn chót của vở kịch, các chiến hữu sẽ hôn
nhau chùn chụt, hay ôm lấy nhau mà khóc thút
thít, lâm ly bi đát hơn cả đờn bà con gái bội
phần.
MỤC LỤC

Sau cùng, lý do thứ tư đó là nhậu để nói cho


thiên hạ biết rằng :

- Ta đây là loại đờn ông chính hiệu con nai vàng.


Thực vậy, bộ râu là dấu chỉ để phân biệt đờn
ông đờn bà, như các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Đờn ông không râu bất nghì,
Đờn bà không vú lấy gì nuôi con.

Thế nhưng, ngoài bộ râu ra, việc nhậu cũng đã


trở nên dấu chỉ để phân biệt đờn bà đờn ông.
Sở dĩ như vậy vì dân nhậu hầu như toàn đờn
ông, còn đờn bà hầu như chẳng thấy...nhậu bao
giờ.

Gã chỉ xin nói “hầu như” mà thôi, bởi vì cũng có


những chị đờn bà uống rượu như hũ chìm và
MỤC LỤC

cũng có những chị đàn bà...mọc râu mọc ria, oai


ra phết. Trong khi đó lại có những anh đờn ông
chỉ biết “phá mồi” và cằm thì nhẵn nhụi trơn tru,
có vác kính lúp ra soi cũng chẳng tìm thấy được
một cọng râu.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là khi nhậu


sừng sừng, người ta mới dễ bề tỏ ra mình là
đấng “nam nhi đại trượng phu”. Gã tìm thấy trên
báo “phụ nữ Chủ nhật” tâm sự của một anh bạn
đi tìm “bản lãnh đờn ông” trong việc nhậu như
thế này :

“Sau khi lấy vợ, nếu không đi nhậu, các chiến


hữu cho rằng bây giờ tôi sợ vợ, “không xài
được”. Tự ái nổi lên, chứng tỏ ta đây không sợ
ai hết. Thế là từ đó tôi luôn luôn sống trong tình
trạng “ bạn nhậu một bên và em một bên”. Cho
MỤC LỤC

đến lúc vợ tôi “tuyên chiến” với nhậu, nàng luôn


than vãn cằn nhằn, kêu ca, nổi giận bảo rằng
thật bất hạnh khi kết hôn với một cái...hũ hèm,
thì tôi thực sự hoảng hốt. Buồn quá, tôi lại tiếp
tục tìm vui trong men nhậu. Khi nhậu, tôi được
các chiến hữu tung hô, được em út tôn sùng và
nhiều thứ mà lúc tàn canh tôi không có
được...Trong bàn nhậu tất cả đều bình đẳng,
hơn thế nữa, nó giải tỏa biết bao buồn bực.
Cùng lứa với tôi, bạn bè nhiều đứa đã giàu sang
thành đạt, còn tôi vẫn cứ quèn. Nhưng trong bàn
nhậu, “nhà ngói cũng như nhà tranh”, tôi cũng
ngon như ai nếu biết chịu chơi và chịu chi...Vợ
tôi cho rằng tôi là người yếu đuối, nhưng khi
nhậu tôi thấy mình có đủ “bản lãnh đờn ông”.

Bản lĩnh đờn ông này được bạn cảm nhận khi
ruợu đã thấm vào như sau :
MỤC LỤC

Bạn cảm thấy mình là người thông minh. Ý kiến


bạn hoàn toàn đúng và dĩ nhiên ý kiến kẻ khác
hoàn toàn sai. Bạn sẵn sàng “nhả ngọc phun
châu” với bất kỳ ai, về bất cứ đề tài nào, còn
thiên hạ đang vểnh tai hướng tới bạn để lắng
nghe. Rốt cuộc, sự cãi vã là điều không thể
tránh khỏi khi mọi người đều...thông minh.

Bạn cảm thấy mình là người giàu nhất trên thế


giới, thậm chí sãn sàng bao luôn bữa tiệc, hay
mua thêm rượu mời mọi người cùng uống, bởi
vì bạn luôn có sẵn một núi tiền. Đối với bạn,
thân xác chỉ là cát bụi, danh vọng chỉ là mây
khói và tiền bạc chỉ là...bùn đất mà thôi.

Bạn cảm thấy mình là người gan dạ, sẵn sàng


đánh nhau với bất cứ ai. Chỉ cần một lời nói trái
tai, lập tức người ấy trở thành kẻ thù của bạn.
MỤC LỤC

Không một ai có thể đánh bạn phun máu đầu,


bởi vì bạn không hề lùi bước trước bất kỳ đối thủ
nào. Bạn là người gan dạ cơ mà. Khi đã xỉn rồi,
bạn cứ giữa đường mà đi, mặc cho xe cộ thi
nhau tránh. Thậm chí, bạn còn dám bò bằng
“bốn chân” về nhà trước mặt vợ con và hàng
xóm.

Bạn cảm thấy mình là người lịch sự, bởi vì bạn


luôn mồn xin lỗi thiên hạ. Thậm chí khi bị va vào
cột đèn sưng u cả đầu, thế mà bạn vẫn cứ đứng
xin lỗi cho tới bao giờ cái cột đèn trả lời mới thôi.
Có khi bạn xin phép chủ nhà để đi về tới mười
lần mà vẫn luẩn quẩn chưa ra khỏi được phòng
nhậu.

Bạn cảm thấy mình là người rất cẩn thận, thậm


chí còn nhớ móc chân vào sườn xe đạp trước
MỤC LỤC

khi làm một giấc ngủ ngon lành ngay bên lề


đường.

Sau cùng, bạn cảm thấy mình là người có trí


nhớ tốt bởi vì những việc tưởng chừng như đã
qua đi từ đời tám tai ông Bành tổ, thế mà bạn
vẫn nhớ và nhắc đi nhắc lại hàng chục lần, chỉ vì
sợ kẻ khác quên hay không hiểu.

Những biểu lộ “bản lĩnh đờn ông” trên đây khi


rượu vào, nếu ở mức độ trung bình thì tạo được
một bàu khí vui vẻ và đôi lúc đem lại nét dễ
thương, nhưng nếu đi tới chỗ thái quá, chắc
chắn sẽ tạo nên những bất ổn, bởi vì :

- Rượu thì trắng, nhưng uống vào sẽ làm cho


mặt đỏ và nhuộm đen tư cách.
Gã xin ghi lại nơi đây bài thơ của Đăng Châu :
MỤC LỤC

- Đêm qua anh đi nhậu về,


Đợi anh, em thấy tái tê cõi lòng.
Khi đi lịch sự đàng hoàng,
Khi về xất bất, xang bang phát rầu.
Nào đâu chiếc kính đổi màu,
Cái máy di động mua đầu mùa xuân.
Nào đâu cái mũ phớt đen,
Cái “dây bao tử”...mất luôn, khỏi tìm.
Nói ra sợ tiếng sợ tăm,
Van anh, anh hãy giữ thân giữ mình.
Như xưa anh vốn hiền lành,
Cứ ăn nhậu miết, riết thành hư thân.
Muốn cho vợ quí, con thương,
Van anh sớm bỏ con đường bê tha.
Đêm qua anh đi nhậu về,
Đàng hoàng lịch sự bay đi...rất nhiều.
Từ đó, gã tự hỏi :
- Phe đờn bà con gái sẽ nhìn hiện tượng nhậu
MỤC LỤC

như thế nào và sẽ nghĩ gì về kẻ say xỉn ?


Công bằng mà nói :
- Phe đờn bà con gái không uống rượu, nhưng
lại rất khổ vì rượu.

Không cần nói ra thì ai cũng biết những hậu quả


nghiêm trọng rượu đã gây nên. Nếu nhậu ở nhà
thì mệt cho bà xã, vừa phải lo nấu nướng, lại
vừa phải lo thu dọn. Chiến trường thật ngổn
ngang và nồng nặc khi cuộc vui vừa tàn. May
phúc nếu các chiến hữu còn tỉnh táo biết đường
về và ông chồng leo lên giường ngủ một giấc.
Bằng không, các chiến hữu cứ ngồi cù cưa, hát
hỏng hay tâm sự còm với nhau, còn ông chồng
lại quay ra quậy phá, chửi bới hàng xóm, đánh
đập vợ con thì quả thật là hết nước nói.

Trái lại, nếu nhậu ở tiệm chắc chắn sẽ phải hao


MỤC LỤC

tốn giữa lúc kinh tế gia đình đang gặp nhiều khó
khăn, đồng thời cũng không đảm bảo được sự
trong sáng. Có giời mới biết. Ấy là gã chưa đá
động tới những tai hại về sức khỏe, nhất là về
hạnh phúc, bởi vì hầu hết các gia đình lục đục
hay hục hặc với nhau phần lớn đều có chung
một hiện tượng, đó là ông chồng say xỉn.

Một tác giả thuộc phe kẹp tóc, sau khi quan sát
những biến động trong khu xóm, đã ghi nhận
như sau :
“Có hai gia đình ly dị thì cả hai ông chồng đều là
những hũ hèm, dù họ đều là những người có
học, một ông kỹ sư và một ông phó giám đốc.
Có ba phụ nữ góa bụa còn khá trẻ, thì ba người
chồng của họ đều chết vì rượu. Một người
chồng vì say, gây ra tai nạn giao thông bị chấn
thương sọ não. Một người khác không say
MỤC LỤC

nhưng lại do một kẻ say tông vào anh, gây


thương tích nghiêm trọng và anh đã mất ở bệnh
viện. Một người chồng khác qua đời vì đã “tự tử
dần” trong rượu, bởi vì rượu đã hủy hoại lá gan
lẫn nhân cách của anh ta...Và cho dù không gây
ra điều gì nghiêm trọng chăng nữa, thì chẳng
người vợ nào hứng thú khi ông chồng mỗi tối về
nhà với bộ mặt đỏ gay, mồm sặc mùi rượu và
“ấn tượng” hơn là còn nôn thốc nôn tháo. Một
phụ nữ có đứa con đau ốm liên miên, chị bảo vì
nó là “đứa con của tối thứ bảy”. Chồng chị hay
nhậu mỗi cuối tuần và sau khi đã ngà ngà ông
ấy liền tìm đến chị và kết quả là đứa con duy
nhất của họ cứ oặt ẹo hoài…Một bà mẹ suốt đời
quá khổ vì có ông chồng uống rượu, nên khi cô
con gái xinh đẹp tới tuổi lấy chồng, có bao
chàng trai theo đuổi, bà chỉ yêu cầu chàng rể
tương lai một điều kiện duy nhất, đó là không
MỤC LỤC

uống...rượu”.

Theo một tài liệu mới đây của Hội đồng Giám
mục Pháp, thì hàng năm tại nước này có tới
40.000 người chết vì rượu và rượu là nguyên
nhân thứ ba gây nên tử vong, sau bệnh ung thư
và các bệnh tim mạch. Vì thế, các Giám mục
Pháp không ngần ngại gọi rượu là chất ma túy
độc hại.

Trước những hậu quả nghiệt ngã ấy, theo gã ghi


nhận thì lập trường cánh đờn bà con gái được
chia thành hai phe.

Phe thứ nhất là phe chống đối quyết liệt, nhất


định không thỏa hiệp với nhậu. Phải dùng mọi
biện pháp từ yêu thương đến cứng rắn khai trừ
rượu cho bằng được. Chẳng hạn trong những
MỤC LỤC

dịp giỗ tết, phải giảm bớt lượng rượu tối đa, phải
nghe ngóng và khi thấy có hơi men trong nhà,
thì lập tức và kiên quyết dập tắt.

Phe thứ hai là phe nghĩ rằng : già néo thì đứt
dây, trước một hiện tượng hiển nhiên không thể
xóa bỏ được, đành phải tìm giải pháp sống
chung với rượu. Cũng như đồng bào vùng đồng
bằng sông Cửu long, năm nào cũng bị ngập
nước, nên đành phải đưa ra những cách thế
sống chung với lụt. Giải pháp này được một chị
mô tả như sau :
“Không cho ổng đi thì không được, vì làm sao
mà ngăn chặn. Tôi đành vớt vát : anh nhậu in ít
thôi. Dĩ nhiên là tôi được nghe ổng hứa những
lời ngọt ngào như rót vào tai : Ừ, anh biết rồi, chỉ
phá mồi chứ uống có vài lon…Tranh thủ việc
ổng còn biết nể vợ và nghe lời vợ mà tôi kềm
MỤC LỤC

bớt, giữ ổng ở nhà được bữa nào hay bữa nấy.
Ví dụ có ai mời thì tôi lấy lý do sinh nhật con, kỷ
niệm ngày gặp nhau, quen nhau, yêu nhau, cưới
nhau...để tổ chức tại nhà cho ổng bớt đi. Thậm
chí đến cả lần cãi nhau đầu tiên, tôi cũng tổ
chức kỷ niệm bằng một bữa ăn thịnh soạn ngon
lành. Thế mà cũng không giữ chân được ổng
mọi nơi mọi lúc. Dù cứng tay chiều chồng, buộc
được ổng ở nhà một tháng, thì con ma men
trong người ổng ít ra cũng sổng hết một hai
ngày. Mà những ngày ấy thì ôi thôi không sao kể
xiết. Nói ra thì ổng bảo : Có phải ngày nào anh
cũng đi đâu, có phải anh mèo mỡ gì đâu. Tiền
lương anh nộp hết cho em. Lâu lâu mới nhậu
một bữa thì phải cho anh nhậu lâu lâu chứ ?
Chồng tôi vốn rất hiền và thương vợ, tuy lúc sỉn
ổng có quậy, nhưng là quậy hiền, nên tôi vừa
giận lại vừa buồn cười, vừa tức lại vừa thương
MỤC LỤC

mà chẳng thể nào bỏ ổng được. Bạn có biết


không, ổng lấy cớ lâu lâu mới được vợ “thả” cho
đi một lần, nên ông cũng thả giàn luôn, tới khi
“lết bánh” mới về. Đến nhà, ổng dùng khổ nhục
kế như tự đá vào vách, đập đầu vào tường...để
mình thấy tội nghiệp, sợ ổng đau, trúng gió nên
ráng mà lôi ổng vào giường để xoa dầu. Vậy mà
ổng còn làm eo, có chịu đi liền cho đâu. Cứ nằm
ì ra đó...Đó là lúc xỉn chưa tới bến, chứ còn khi
tới bến rồi, ổng mở cửa tủ mà tưởng mở toa lét,
báo hại bao nhiêu quần áo đều bị ướt đẫm, phải
mang đi giặt...Rồi lại còn cái nạn chờ chồng, chỉ
có những bà có chồng nhậu mới thấu hiểu.
Chuyện mất tiền, mất xe, thậm chí cả tai nạn
đâu phải là hy hữu. Mà đang vui, chẳng ông nào
chịu điện thoại về một tiếng vì ngán bị bạn chê là
sợ vợ, mà ổng cũng không muốn gọi vì ngán bị
mình càm ràm làm ổng mất vui. Thà cứ xả láng
MỤC LỤC

đi rồi về chuộc lỗi sau vậy. Dù đang giận và


đang tức, mà thấy ổng chân nam đá chân chiêu
lò dò về đến nhà, ngã vật xuống đất, thì nỗi vui
mừng đã chế ngự được bao nhiêu tức
giận...Thôi thì giảm được chừng nào hay chừng
nấy. Cũng đành chấp nhận giải pháp sống
chung với rượu. Miễn là ổng biết hạn chế, biết
yêu thương mình lúc tỉnh, thì mình cũng sẵn
sàng chiều ổng mỗi khi ổng xỉn”.

Trước khi kết luận, gã xin kể lại một vài mẩu


chuyện trên báo “Công an Thành phố” để làm
giảm bớt bầu khí căng thẳng.

Mẩu chuyện thứ nhất được gọi là “nụ hôn kinh


hồn”. Đây không phải là là nụ hôn “cẩu xực” làm
mất cái lỗ tai đối thủ của võ sĩ Mike Tyson trong
một trận đấu quyền anh đầy tai tiếng. Mới đây
MỤC LỤC

ông Hai, một đệ tử Lưu linh, vì quá hứng trong


một chầu nhậu đến “quỷnh cà ná”, đã ôm lấy
ông Tư, người cùng xóm, tỉ tê tâm sự, rồi đột
nhiên cắn một phát, tiện đứt cái lỗ tai của chiến
hữu do tình cảm trào dâng như men rượu đế.
Sau đó vì quá hối hận, ông Hai đã cầm dao chặt
phăng ngón tay trỏ của mình để mong...chuộc lại
lỗi lầm!

Mẩu chuyện thứ hai được gọi là “người có võ


gồng”. Trong một bữa nhậu, khi đã xừng xừng,
một anh bạn bèn nổ :

- Tao có võ gồng. Một khi đã gồng lên thì dao


chém vào đều bật tung ra hết.
Thấy các chiến hữu không tin, anh ta bèn sắn áo
lên, đưa ra một cánh tay gân guốc và bảo :
- Cho tụi bay thử.
MỤC LỤC

Nghe vậy, một chiến hữa bèn vác dao làm liền.
Phập một nhát, tay anh ta đầm đìa những máu.
Và thế là anh ta hét toáng lên :
- Tao nói giỡn, tại sao tụi bay lại làm thật.
Từ những điều vừa trình bày, gã xin lặp lại câu
hỏi :
- Phải nhậu như thế nào cho đáng mặt mày
râu ?
Theo gã nghĩ :
- Tự bản chất rượu không phải là điều xấu.
Bởi vì chính Thánh vịnh cũng đã viết :
- Chúa ban rượu ngon làm no thỏa lòng người.
Và thánh Phaolô còn khuyên Timôthê như sau :
- Vì con đau bao tử, nên hãy cố mà dùng một
chút rượu.
Các bác sĩ cũng nói :
- Uống ít rượu mỗi ngày, có thể làm giảm nguy
MỤC LỤC

cơ tim mạch.

Sở dĩ rượu dẫn tới những hậu quả xấu là do


người uống rượu không biết kềm chế và không
biết tự đặt cho mình những lằn mức, những giới
hạn.

Thực vậy, khi ngồi vào bàn nhậu, phải biết giữ
lấy nhân cách của mình. Rồi lại còn phải biết khi
nào nên uống, còn khi nào phải sì tốp. Và khi đã
đủ, thì dù có bị mời mọc, cũng phải thôi và một
giọt cũng không.

Một tác giả khác đã tóm lược như sau :

“Cái chính là người nhậu phải có “bản lãnh đờn


ông”, biết lúc nào thì dừng lại. Hoàn cảnh gia
đình mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả đều phải
MỤC LỤC

nằm trong giới hạn cho phép. Mà người cấp


phép lại chính là bà...vợ yêu quí của mình”.
Và như vậy :

- Mình phải làm chủ rượu, chứ đừng bao giờ để


cho rượu làm chủ mình.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NGHỈ

Chuyện phiếm của Gã siêu.


Cái nắng ban trưa thật chói chang như đổ lửa, oi
bức đến độ làm cho mồ hôi mồ kê chảy xuống
ròng ròng. Đang vật lộn với giấc ngủ chập chờn,
thì bỗng chuông điện thoại reo vang. Lồm cồm
bò dậy, tưởng người đẹp nào cơ chứ, ai dè hóa
lại ra cụ chủ nhiệm đáng kính nhà ta. Sau một
hồi vòng vo tam quốc, cà kê dê ngỗng đủ thứ
chuyện trên trời cũng như dưới đất, cụ mới “dô
đề” :
- Thiên hạ bên tây sắp dắt nhau đi nghỉ hè rồi
đó, chú mày mau viết cho một mẩu, gọi là để
bàn dân thiên hạ đề cao cảnh giác, phòng bệnh
còn hơn chữa bệnh nhé.
Giữa lúc còn đang ngái ngủ, gã bèn trả lời
“phăng xi lô” chẳng so đo và tính toán :
- Ôi giào, chuyện nhỏ mà.
MỤC LỤC

Bây giờ ngồi vào bàn, đầu óc rỗng tuênh, bởi vì


từ hồi cha sinh mẹ đẻ cho tới lúc này, đã măm
mươi mấy tuổi rồi, mà nào có biết hè hiếc là đí
gì đâu. Chỉ khi còn là “chú học trò thò lò mũi
xanh” thì mới được nghỉ, bằng cách “tung hê”
sách vở, rời xa trường lớp, về quê với bu được
mấy tháng. Chứ một khi đã thò chân vào cuộc
đời, thì làm gì có cơ may được đi hè trong tình
trạng thắt lưng buộc bụng, kinh tế suy thoái, mắc
chứng “viêm màng túi kinh niên”, làm không đủ
ăn như hiện nay ở Việt Nam.
Và thế là gã bỗng nghiệm ra rằng :
- Không cái dại nào bằng cái dại mồm dại miệng.
Bởi vì như các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời
vừa tuột ra khỏi miệng, thì bốn ngựa cũng khó
mà đuổi theo.
MỤC LỤC

Thành thử những người khôn ngoan mới


khuyên nhủ :
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Đã trót hứa với cụ chủ nhiệm, thì cũng phải cố
mà làm, như Nguyễn Du đã bảo :
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu ?
Để lấy khí thế cũng như tạo thêm niềm hứng
khởi, gã bèn đứng lên, bắn một điếu thuốc lào.
Thuốc ngấm vào tận lục phủ ngũ tạng, thở phào
một cái và lim dim đôi mắt theo làn khói tỏa, gã
bỗng thấy cuộc đời mới đẹp làm sao. Và thế là
vội chạy ngồi vào bàn mà viết lấy viết để, kẻo tí
nữa nó lại quên béng đi mất.
Phần lớn người Việt Nam hôm nay sống trên
mảnh đất này chả dám nghĩ tới chuyện nghỉ hè.
Cũng như phần lớn người Việt Nam ở nước
ngoài, khi mới chân ướt chân ráo tới định cư ở
MỤC LỤC

quê một hương thứ hai, chả dám tơ tưởng đến


việc xách va li cùng với bà xã và bày trẻ đi tắm
biển hay lên núi thở hút những lọn khí trong
lành.
Sở dĩ như vậy vì hôm nay ở đó và ngày xưa ở
đây, mình chỉ là thân trâu ngựa, nai lưng ra kéo
cày để mà kiếm sống. Làm ngày không đủ tranh
thủ làm đêm. Trong những ngày tháng xám xịt
ấy thì nghỉ có nghĩa là bản thân và gia đình
phả...treo niêu. Bởi vì :
- Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Hơn thế nữa, đồng lương trong những giờ làm
phụ trội ấy cũng nhích hơn một chút, nên người
ta hy vọng rằng sẽ “ky cóp” được thêm tí tiền
còm, bảo đảm cho những sinh hoạt cần thiết
cũng như cho tương lai về lâu về dài, bởi vì :
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
MỤC LỤC

- Năng nhặt thì chặt bị.


Cho đến hôm nay, cuộc sống đã được ổn định
và tương lai đã lóe sáng, chứ không còn âm u
như chiều đông ảm đạm hay tăm tối như cuối
con đường hầm, người ta mới bắt đầu tính đến
chuyền đi nghỉ hè và mơ ước những giờ phút
thênh thang, thoải mái lang bang thăm chỗ này
chỗ nọ.
Bây giờ “đi nghỉ hè” đối với nhiều người Việt
Nam ở nước ngoài, không phải là một cái “mốt
thời thượng” theo kiểu “phú quí sinh lễ nghĩa”,
hay “trưởng giả học làm sang” nữa, mà là một
nhu cầu chính đáng, vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Thực vậy, trong một bản nhạc có nốt bổng thì
cũng có nốt trầm, có dấu ngân thì cũng có dấu
lặng. Nếu cứ bổng mãi và cứ ngân mãi thì hẳn
sẽ đứt gân cổ lăn quay ra mà chết. Còn nếu cứ
MỤC LỤC

trầm hoài, lặng hoài thì đâu phải là bản nhạc


nữa.
Horace, một thi sĩ gốc La mã, trong tác phẩm
Odes đã viết như sau :
- Thần Apollo đâu có dương mãi cây cung của
mình.
Lời phát biểu này muốn nói lên rằng :
- Đối với cây cung, có lúc dương thì cũng phải
có lúc chùng. Chứ cứ dương mãi dương hoài,
lúc nào dây cũng căng cũng thẳng, thì chẳng
bao lâu nó sẽ bị gẫy hay bị đứt.
Tác giả sách Giảng viên trong Cựu ước đã xác
định đại khái như sau :
- Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời.
Một thời để chào đời , một thời để lìa thế...
Một thời để khóc lóc, một thời để vui cười...
Một thời để làm thinh, một thời để lên tiến...
MỤC LỤC

Một thời để yêu thương, một thời để thù ghét...


Một thời để gây chiến, một thời để làm hòa.
Và như thế, ắt phải có :
- Một thời để làm việc, một thời để nghỉ ngơi.
Gã xin “no table” nghĩa là miễn bàn tới những kẻ
mắc bệnh “lươi huyền” mãn tính, hay nói một
cách cụ thể hơn, mang tật lười biếng quanh
năm, bởi vì họ nghỉ suốt hai mươi bốn trên hai
mươi bốn, họ chơi suốt ngày này qua ngày
khác, chẳng cần cuối tuần hay hè hiếc chi cả.
Ca dao tục ngữ đã diễn tả rất nhiều về họ.
Trước hết họ là hạng người “há miệng chờ
sung”. Chuyện rằng tại ngôi làng nọ có một anh
chàng lười vào hạng siêu đẳng, được tôn làm sư
phụ. Mặc dù bụng đang đói cồn đói cạo, nhưng
lại được nằm dưới gốc một cây sung đầy trái
chín, thế mà vị sư phụ khả kính này cũng chẳng
thèm đứng lên, hái mà ăn, cứ nằm há mồm và
MỤC LỤC

chỉ nhai tóp tép trái nào rơi vào chính miệng
mình mà thôi. Vì thế, chẳng bao lâu sư phụ bèn
giã từ cõi sống mà về chầu tiên tổ.
Thứ đến, họ là hạng người làm ít ăn nhiều. Làm
chẳng bao nhiêu mà ăn thì quả là...có vấn đề :
- Ăn như rồng cuộn, làm như cà cuống lội
ngược.
- Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng.
Tác phong của họ được mô tả :
- Ăn thì ăn những miếng ngon,
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.
- Ăn rồi nằm ngả nằm nghiêng,
Có ai lấy tớ thì khiêng tớ về.
Hình ảnh tiêu biểu cho hạng người lười này là
hình ảnh của một ông chú…thân thương :
- Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
MỤC LỤC

Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.


Đối với những người chăm chỉ làm việc, nghỉ
ngơi không phải chỉ là một quyền lợi, mà nhiều
lúc còn là một bổn phận cần làm ngay, nghĩa
là… phải nghỉ, phải ngơi.
Nói thế, hẳn nhiều người cho rằng gã đang về
hùa với những kẻ lười biếng, chỉ thích ngồi nhà
mát mà ăn những bát vàng. Đứng trước mọi
công việc, chỉ thầm mong được người ta chọn
làm người chỉ đạo nghĩa là đứng chỉ tay mà
chẳng phải đụng vào, hay được người ta bàu
làm giám đốc nghĩa là chỉ dám đốc, dám xúi mà
lại chẳng dám làm.
Thế nhưng, ở đây gã xin thề độc thề địa :
- Chết sa...đó là sự thật.
Bởi vì phen này gã nói có sách, mách có chứng
hẳn hoi, chứ chẳng phải tán hiêu tán vượn và
phệu ra đâu nhé.
MỤC LỤC

Thực vậy, trong Tin mừng có lần Chúa Giêsu đã


xác quyết :
- Cha Ta làm việc và Ta cũng làm việc.
Mà theo luật thì :
- Đã làm việc cật lực thì cũng phải được nghỉ
ngơi.
Đúng thế, Sách Sáng thế ký đã kể lại việc Thiên
Chúa dựng nên trời và đất cùng muôn vật muôn
loài như sau :
Ngày thứ nhất Ngài dựng nên ánh sáng, rồi
phân rẽ ánh sáng và bóng tối, Ngài gọi ánh sáng
là ngày và bóng tối là đêm. Ngày thứ hai Ngài
dựng nên một cái vòm và nước, rồi phân rẽ
chúng, Ngài gọi cái vòm là trời. Ngày thứ ba
Ngài bắt nước phải tụ lại một nơi để lộ ra chỗ
cạn. Ngài gọi chỗ cạn là đất và khối nước là
biển, rồi đất trổ sinh mọi thứ cây cỏ. Ngày thứ tư
Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng muôn vì
MỤC LỤC

tinh tú. Ngày thứ năm Ngài dựng nên chim trời
cá biển cùng mọi loài sinh vật trên mặt đất. Ngày
thứ sáu Ngài dựng nên con người giống hình
ảnh Ngài. Thế rồi ngày thứ bảy, sau khi hoàn tất
công trình, Ngài đã nghỉ ngơi.
Không những Thiên Chúa nghỉ ngơi mà Ngài
còn muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài,
cũng nhỉ ngơi như vậy sau khi đã làm việc. Đúng
thế, sách Xuất hành đã kể lại việc Thiên Chúa
truyền cho ông Mai sen mười điều răn được
khắc ghi trên hai bia đá tại đỉnh Sinai. Điều răn
thứ ba đã mói rõ như sau :
- Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng
ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ, dù đang vụ cày hay
vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.
Điều răn này rất quan trọng và được quy định
một cách khắt khe :
MỤC LỤC

- Ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày


sabát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Đức
Chúa, kẻ nào làm việc trong ngày ấy sẽ bị xử tử.
Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sabát
tại những nơi mình ở.
Dân Do thái đã tuân giữ điều răn này một cách
rất nghiêm minh. Trên đường trở về miền đất
hứa, họ phải lang thang trong sa mạc suốt bốn
mươi năm và suốt khoảng thời gian này, Thiên
Chúa đã nuôi sống họ bằng manna bởi trời. Thế
nhưng, họ phải lượm manna ngay từ hôm trước
mà dành sẵn cho ngày thứ bảy. Thậm chí khi bị
quân địch xông đánh vào ngày thứ bảy, họ thà
chịu chết chứ không cầm vũ khí chống cự.
Từ chỗ nghiêm minh họ đã đi đến chỗ khắt khe
và thái quá. Chính vì thế chúng ta hiểu được tại
sao bọn biệt phái lại chỉ trích việc Chúa Giêsu
MỤC LỤC

chữa lành cho những người đau ốm vào ngày


thứ bảy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã có lập trường dứt
khoát của riêng mình :
- Ngày sabát được phép làm điều lành...Ngày
sabát được dựng nên vì con người, chứ không
phải con người vì ngày sabát.
Như vậy việc nghỉ ngơi ngày sabát thời xưa hay
ngày Chúa nhật thời nay là một điều răn buộc
phải tuân giữ. Cùng với sự ổn định về kinh tế,
trong dịp cuối tuần người ta được nghỉ không
phải chỉ một ngày mà những hai ngày, đó là
ngày thứ bảy và Chúa nhật.
Lần kia, sau khi các môn đệ đi thực tập truyền
giáo trở về và đang kể cho Ngài nghe những
việc mình đã làm và những điều mình đã dạy,
Chúa Giêsu liền khuyên các ông như sau :
MỤC LỤC

- Các con hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.
Như vậy nghỉ ngơi quả là một điều cần thiết, bởi
vì kinh nghiệm bản thân cho thấy :
- Có nghỉ ngơi thì mới hoàn tất một cách tốt đẹp,
hay ít nữa có nghỉ ngơi thì mới bắt đầu lại một
cách hăng say.
Vì thế, sau một giờ học chăm chỉ người ta có
những giây phút giải lao. Sau một ngày làm việc
miệt mài, người ta có những giờ ban đêm để
ngủ nghỉ. Sau một tuần làm việc cần cù người ta
có những ngày cuối tuần để xả hơi. Sau một
năm làm việc vất vả , người ta có những tuần
phép để đi đây đi đó, mà gã xin tạm gọi chung
chung là đi...nghỉ hè. Và sau một đời làm việc
nhọc nhằn, người ta có những tháng năm
để...hưu dưỡng.
MỤC LỤC

Nghỉ ngơi không phải chỉ là điều cần thiết, mà


lắm lúc còn là điều bắt buộc :
- Phải nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe cho bản
thân, phải nghỉ ngơi để có thời giờ chăm sóc cho
gia đình và những người thân yêu.
Nhiều đứa con đã hư hỏng chỉ vì cha mẹ mải mê
mánh mung không để ý tới chúng. Nhiều ông
chồng đã mất toi bà vợ “xinh xỉnh xình xinh” của
mình cũng chỉ vì miệt mài áp phe áp chảo hay
ngâm kíu ngâm kiếc, yêu việc hơn yêu vợ,
không ngó ngàng chi đến nhà với cửa, tới khi
“ngộ ra” thì quá muộn, nàng đã xé toạc tờ hôn
phối hay đã khăn gói bước theo kẻ khác để
được chiều chuộng và quan tâm hơn.
Nghỉ ngơi là điều cần thiết và bó buộc, thế
nhưng, phải nghỉ ngơi như thế nào ? Đó mới là
chuyện quan trọng cần phải bàn bạc. Gã tạm
chia sự nghỉ ngơi làm hai loại, sự nghỉ ngơi của
MỤC LỤC

quí vị con nít và sự nghỉ ngơi của quí vị người


nhớn.
Trước hết là sự nghỉ ngơi của quí vị con nít.
Như chúng ta đã biết con nít vốn hiếu động, nhất
là bọn nhóc tì “húi cua”, vì thế trong những lúc
rảnh rỗi, không thể nào bắt chúng ngồi yên như
pho tượng hay quì “chắp tay xỏ lỗ mũi” mà cầu
nguyện hồi lâu, bởi vì chúng luôn nghí ngoáy,
quay bên nọ, ngó bên kia. Đối với chúng, nghỉ
có nghĩa là chơi. Hễ lúc nào nghỉ ngơi là lăn xả
vào vui chơi lúc ấy. Nhưng phải chơi ra làm
sao ?
Các cụ ta ngày xưa vốn căn dặn :
- Học ăn học nói học gói học mở.
Điều căn dặn này cho thấy chúng ta phải học tất
cả từ những điều tầm thường và nhỏ mọn nhất.
Chơi tuy dễ mà lại khó, tuy đơn giản mà lại phức
tạp, bởi vì rất nhiều người đã chẳng chơi cho
MỤC LỤC

phải phép. Chính vì thế, trên lá cờ của thế vận


hội người ta thêu hai chữ “Fair Play”, có nghĩa là
“Chơi Đẹp”. Để được chơi đẹp, thiết tưởng
những người có trách nhiệm hướng dẫn nên
nhắc quí vị con nít mấy điều sau đây :
Thứ nhất là phải chơi cho đúng lúc.
Thực vậy, người ta thường bảo :
- Giờ nào việc nấy.
Học thì phải cho ra học, còn chơi thì phải cho ra
chơi. Ngồi trong lớp học, thay vì nghe thày cô
giảng bài, lại vác cờ ca rô ra mà chơi với nhau,
chắc chắn là bấn ổn rồi. Thời giờ là vàng. Hãy
biết lợi dụng nó để trau dồi kiến thức, làm giàu
cho bản thân và làm đẹp cho cuộc sống. Bởi vì
thời giờ đã qua đi thì sẽ chẳng bao giờ trở lại.
Người xưa cũng đã xác quyết :
- Ấu bất học, lão hà vi.
MỤC LỤC

Bé mà không học, thì lớn lên chỉ còn cách “ bị


gậy” đi ăn mày. Lúc đó có hối tiếc thì e rằng đã
quá muộn.
Thứ hai là phải chơi cho đúng nơi.
Thực vậy, người ta cũng thường bảo :
- Mỗi việc đều có chỗ của nó.
Nhà thờ là để cầu nguyện. Trường lớp là để học
hành. Sân bãi là để vui chơi. Nếu chúng ta lộn
chuồng, chẳng hạn : chơi trong trường lớp, cầu
nguyện ngoài sân bãi và học trong nhà thờ...thì
quả thực chẳng ổn tí nào.
Thứ ba là phải chơi cho đúng cách.
Trong một cuốn sách bàn về thể thao, một tác
giả Ăng lê đã viết như sau :
- Đừng bao giờ đổ lỗi cho người khác cũng như
đừng bao giờ ăn gian và che dấu sai lỗi của
mình. Dù được hay thua, cũng phải chơi cho
MỤC LỤC

đúng cách và chơi cho thật đẹp. Phải tôn trọng


tinh thần thể thao hơn là chiến thắng.
Ngoài ra, chơi cho đúng cách còn có nghĩa là
phải biết tự chủ, đừng cố tình chơi xấu làm
người khác bị tổn thương. Chẳng hạn cố tình
“cốp” vào chân đối phương đễ họ bị “đo sân” và
phải bỏ dở cuộc chơi.
Khi về già, tướng Wellington, ngày kia đã trở lại
thăm trường cũ. Ông đưa mắt nhìn khoảng sân
rộng, nơi mà hồi xưa ông đã vui chơi với bạn bè.
Rồi bằng một dáng bộ trầm ngâm, ông nói :
- Chính tại sân chơi này mà tôi đã thắng được
Napoléon.
Đúng thế, chính tại sân chơi này, ông đã học
được những bài học của sự can đảm, tự tin,
cộng tác và yêu thương để rồi khi bước xuống
cuộc đời ông đã thắng được mọi nỗi khó khăn,
kể cả việc thắng được Napoléon tại Waterloo.
MỤC LỤC

Tiếp đến là sự nghỉ ngơi của quí vị người nhớn.


Sự nghỉ ngơi này xem ra nhiêu khê và rắc rối
hơn. Thời gian nghỉ ngơi phải là thời gian bồi bổ
cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Thực
vậy, nhờ nghỉ ngơi, thân thể lấy lại được sức
khỏe, nhờ rảnh rỗi mà chúng ta có thể trau dồi
thêm cho mình những điều cần thiết, chu toàn
bổn phận tôn giáo, chăm sóc đến những người
thân yêu như vợ chồng, con cái hay thực hiện
công việc bác ái đối với những người chung
quanh. Thế nhưng, rất nhiều lần người ta đã
không làm như vậy.
Đúng thế, có những ông chồng đi làm về liền
nằm dài trên ghế mà đọc báo hay xem truyền
hình và...…chờ cơm, chẳng hề phụ giúp cho bà
vợ trong chuyện bếp múc và nhà cửa. Nhất là
vào cuối tuần, những ông chồng ấy liền vù đi
đánh bài hay nhậu nhoẹt với bè bạn, mãi tới
MỤC LỤC

sáng thứ hai mới dẫn xác về. Thành thử những
ngày nghỉ cuối tuần, đáng lẽ ra phải là dịp cho
mọi người đoàn tụ và xum họp, thì bây giờ
đường ai người ấy đi, việc ai người ấy làm.
Ngày Chúa nhật cũng giống như ngày thường,
gia đình lãnh lẽo và trống vắng như...Chùa Bà
Đanh. Thậm chí có bà vợ đã phải tâm sự :
- Cuối tuần, mình rất muốn anh ấy ở nhà để vợ
chồng tâm sự với nhau, cha mẹ trò chuyện cùng
con cái, nhờ đó gia đình được thêm phần ấm
cúng. Nhiều lúc mình mong nhận được những
lời an ủi, hay ít nhất một bờ vai để tựa đầu mà
cũng chẳng thấy. Nghĩ cũng tủi. Một mình vò võ.
Chồng đi đằng chồng. Con cái đi đàng con cái.
Biết làm sao bây giờ ?
Trên đây mới chỉ là sự nghỉ ngơi ngắn hạn như
cuối ngày hay cuối tuần. Còn sự nghỉ ngơi
MỤC LỤC

tương đối dài hơn, chẳng hạn như nghỉ hè, thì
sao ?
Với một cuộc sống ổn định và nhất là với một số
“đô la” kha khá dằn trong bóp hay trong túi áo,
người ta có quyền nghĩ đến và vẽ ra cả một
chương trình cho chuyến đi nghỉ hè.
Đây không còn là là chuyện riêng tư của một
thiểu số, nhưng đã trở thành chuyện chung
chung của nhiều người. Kẻ phương tây thì chạy
sang phương đông và trái lại người phương
đông lại chạy sang phương tây. Kẻ phương bắc
chạy xuống phương nam và trái lại người
phương nam lại chạy lên phương bắc…thôi thì
cứ loạn cào cào, muốn đi đâu thì đi, miền là
có…tiền.
Riêng người Việt Nam mình ở nước ngoài thì
nên như thế nào ?
MỤC LỤC

Nếu ngân sách eo hẹp, người ta có thể dắt bầu


đoàn thê tử đi từ thành phố này qua thành phố
khác trong cùng một nước. Chẳng hạn ra biển
để tắm nắng, hay lên núi để nhìn mây bay bay
cũng như nghe suối chảy róc rách và thác đổ ầm
ầm.
Còn nếu tiền bạc rủng rỉnh, người ta có thể đi
nghỉ hè xuyên lục địa, từ nước này đến nước
khác. Nhất là những nơi có nhiều danh lam
thắng cảnh. Trong số những nước được đưa
vào chương trình, thì hẳn phải có tên Việt Nam.
Thực vậy, người Việt Nam trở về Việt Nam là
thượng sách, bởi vì Việt Nam chính là quê
hương của mình. Và nếu dẫn theo con cái nữa
thì lại càng tuyệt vời. Bởi vì con cái, nhiều đứa
sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, chả có mấy tí
hiểu biết về Việt Nam. Dẫn chúng về để chúng
nhìn thấy đất nước mình hầu tạo được một gắn
MỤC LỤC

bó nào đó. Bằng không, một thời gian sau chúng


hoàn toàn bị “Tây hóa” hay “Mỹ hóa” và sẽ bị…
mất gốc.
Về Việt Nam quả thực mang nhiều cái lợi.
Cái lợi thứ nhất, đó là hâm nóng lại tình nghĩa
ruột thịt, bè bạn, làng xóm.
Đúng thế, người Việt Nam mình vốn trọng nhân
nghĩa, như tục ngữ đã xác quyết :
- Miếng trầu nên nghĩa, chuyến đò nên duyên.
Thế nhưng, tình nghĩa ấy dù có mặn nồng,
nhưng không được hâm nóng, thì dần dần cũng
sẽ nguội. Thời gian và không gian sẽ gậm nhấm
và làm cho nhạt phai, như tục ngữ đã bảo :
- Xa mặt, cách lòng.
Hay như người dân tộc Tày-Nùng đã nói :
- Đường không qua lại cỏ tranh mọc,
Anh em không đi về thành người dưng.
MỤC LỤC

Cái lợi thứ hai đó là giá cả sinh hoạt ở Việt Nam


khá rẻ so với những nơi khác. Vì thế, với đồng
đô la, người ta có thể mua sắm đủ thứ ở Việt
Nam. Với đồng đô là, người ta có thể giúp đỡ bà
con, thiết đãi bạn bè mà không hao xót lắm. Với
đồng đô la, người ta có thể sống thoải mái trên
đất nước này...ngay cả việc “sắm” cho mình một
cô vợ trẻ cũng không quá tốn kém.
Và còn nhiều cái lợi khác nữa tùy theo đích
nhắm của từng người. Dĩ nhiên gã không bao
giờ làm quảng cáo cho các hãng du lịch, nhưng
chỉ muốn nói lên tình cảm chân thành nhất của
những con người rời xa quê hương, bởi vì :
- Ta về ta tắm ao ta,
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Có những người, thoạt đầu khi nói về Việt Nam
thì đã dãy đay đảy như đỉa phải vôi, bởi vì còn
đeo nặng dĩ vãng hay mang một thành kiến nào
MỤC LỤC

đó. Nhưng rồi khi đã về, thấy ấm lên tình người


và không ngần ngại hẹn gặp lại nhau một ngày
gần nhất.
Tuy nhiên, trong việc trở về Việt Nam cũng có
một vài chuyện lôm côm, những chuyện lôm
côm này gã đã từng mổ xẻ nhiều lần.
Chuyện lôm côm thứ nhất đó là bệnh nổ. Nhiều
ông ở bên đó chỉ là dân cu li cu leo, nhưng về
bên này bèn nổ tung và nghiễm nhiên trở thành
bác sĩ, kỹ sư, chuyên viên này, chuyên viên nọ.
Có những ông ở bên đó phải chạy đi vay ngân
hàng hay bè bạn mới có tí tiền còm dằn túi,
nhưng về bên này liền ăn tiêu xả láng cho thiên
hạ phục sát đất. Có những ông ở bên đó chỉ biết
nói chuyện với Mỹ bằng tay và rất thạo chia
động từ “to quơ”, nhưng về bên này mở mồm ra
nói, thì câu nào cũng chêm nấy tiếng Ăng lê cho
MỤC LỤC

ra vẻ con nhà học thức...Rồi thì chê ỏng chê eo


nhưng điều kiện sinh sống tại Việt Nam.
Chuyện lôm côm thứ hai đó là bệnh lừa gạt. Với
các mác Việt kiều, người ta sẵn sàng gạt tiền
của người khác bằng cách bỏ vốn ma đầu tư
cho những công ty ma, nghĩa là chẳng có trên
thực tế. Với cái mác Việt kiều, người ta sẳn sàng
lừa tình của những cô gái nhẹ dạ. Mặc dù ở bên
đó đã đùm đề vợ con, nhưng về bên này vẫn
muốn kiếm tí tình còm vắt vai để được chiều
chuộng thỏa mãn mà chẳng tốn kém bao
nhiêu...
Riêng các bà các cô, thì nhiều người về bên này
bỗng dưng máu “shopping”, mua sắm nổi lên
đùng đùng. Vì hàng ở bên này vừa rẻ lại vừa
đẹp, nên nhìn thấy cái gì cũng mua cũng sắm.
Gã đã từng tháp tùng vợ chồng một chú em
đi...chợ. Chị vợ luôn tay chỉ trỏ :
MỤC LỤC

- Cái này, cái kia...và cái kia nữa.


Lúc đầu anh chồng còn vui vẻ để chứng tỏ mình
“ga lăng”, nhưng rồi khuôn mặt bắt đầu đổi sắc,
nhăn nhó và kèm theo cả một vài lời gắt gỏng :
- Mua gì mà mua lắm thế.
Thậm chí anh chồng phải lén tới chi nhánh ngân
hàng rút tiền “ngoài dự tính” để trang trải cho
những mua sắm phụ trội. Cuối cùng, những thứ
mua sắm phụ trội này đành phải để lại Việt Nam
vào tối hôm trước lúc ra phi trường vì không còn
chỗ để mà chứa...
Kể ra thì còn dài dòng lắm. Nhưng thôi.
Chung quanh nhà chả có cây phượng nào. Mà
phượng ở Việt Nam bây giờ cũng thay đổi theo
thời tiết, nở hoa vào khoảng cuối tháng ba và khi
hè về thì đã tàn. Riêng cái nắng thì vẫn chói
chang như đổ lửa. Chính trong bầu khí oi ả này,
MỤC LỤC

gã bỗng nhẩm đi nhẩm lại bài “Hè về” đượm sắc


tình Việt Nam của Hùng lân như một kết thúc :
- Hè về trong khóm trúc mềm đầu bờ,
Hè về trong tiếng gió chiều dật dờ,
Hè về gieo ánh tơ.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TẬT ĐỜN BÀ : NHỚ DÀI VÀ NÓI DAI

Chuyện phiếm của Gã siêu.


Trước khi viết những hàng chữ này, gã bèn phải
cả tiếng thanh minh thanh nga đôi điều với bàn
dân thiên hạ, để mong có được một chút cảm
thông nào đó.
Điều thứ nhất, đó là mấy bữa nay gã sống thật
phất pha phất phơ, cà lơ thất thểu, thần hồn nát
thần tính, bồng bềnh như kẻ bị tai nạn chạm mát
thần kinh, tỉnh dậy bỗng quên tất tật mọi sự, hay
như người cõi trên, liêu xiêu chân không đụng
tới đất, chẳng phải vì gã muốn làm thi sĩ “mơ
theo trăng mà vơ vẩn cùng mây”, nhưng chỉ vì bị
cái máy vi tính nó vật mờ cả mắt.
Thực vậy, cái máy vi tính của gã đang chạy êm
ru bà rù, bỗng dưng giở quẻ, đình công bãi thị.
Bấm tới bấm lui nó cũng chẳng chịu nghe lời.
Mời chuyên gia tới thì nghe hắn phán :
MỤC LỤC

- Chiếc đĩa cứng có vấn đề.


Gửi lên công ty bảo hành, họ liền chuyển về cho
một chiếc đĩa khác mới toanh. Nhưng than ôi,
bao nhiêu công sức chắt chiu, bao nhiêu sự hay
ho và đẹp đẽ tọng vào cho nó, bỗng chốc bị bay
hơi, khiến gã như kẻ bị phá sản hay như người
bị quân trộm cướp ưu ái đến viếng thăm. Ngay
cả địa chỉ của cụ chủ nhiệm khả kính cũng biến
mất tiêu. May mà gã còn ghi vào sổ tay, nên bài
này mới bay qua bên nớ được.
Thành thử gã mới ngán ngẩm nhận ra rằng :
- Càng văn minh thì càng bị lệ thuộc vào máy
móc. Và một khi máy móc bị trục trặc hay hỏng
hóc, thì ta chỉ còn nước cứ đứng ngẩn...tò te,
theo kiểu : “đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư”!!!
Sự cố này đến nay vẫn chưa khắc phục được
hoàn toàn.
MỤC LỤC

Điểm thứ hai, đó là nhiều kẻ đầu óc “san nặng”


cho rằng gã như kẻ cuồng sĩ múa bút vườn
hoang, tán hươu tán vượn, cà kê dê ngỗng,
thiên binh thiên tướng, nhưng lại rất thiên tư
thiên vị, chỉ biết bênh vực phe mình, tức là cánh
đờn ông con giai, trong khi đó lúc nào cũng sẵn
sàng chõ mõm vào để bới lông tìm vết mà phá
thối phe ta, tức là cánh đờn bà con gái.
Qủa là oan ôi ông địa cho gã quá, bởi vì lúc nào
gã cũng muốn giữ cái thế cân bằng, đã châm
bên nọ thì cũng phải chích bên kia. Bằng cớ là
trong mấy số báo vừa qua, gã đã mổ xẻ đôi ba
tật xấu của phe mình, được tạm gọi là...bệnh
đờn ông.
Vì thế, để tạo cho được trạng thái đề huề giữa
giai và gái, giữa nam và nữ, kể từ số này gã xin
giải phẫu một vài thói hư của phe ta, được tạm
gọi là...tật đờn bà, chứ không dám gọi là...bệnh
MỤC LỤC

đờn bà đâu nhé. Bởi vì nếu gọi là “bệnh đờn bà”


thì hẳn có kẻ đầy ác ý sẽ phong cho gã là “bác
sỡi sản khoa hay phụ khoa” chi đó, thật là nguy
tai.
Gã bèn chắp cả hai tay mà vái tứ phương thiên
hạ :
- Nhà em...hỏng dám đâu.
Tật thứ nhất, đó là tật nhớ dai và nói dài. Khi viết
hai chữ “nhớ dai”, gã xin bàn dân thiên hạ, từ
già chí trẻ, vui lòng hiểu cho một cách nghiêm
văn chỉnh, chứ đừng hiểu xiên hiểu xẹo, hiểu
méo hiểu mó, nhất là hiểu theo kiểu nói lái thì
hỏng bét. Có tội đấy!!!
Hai chữ “nhớ dai” bỗng làm cho gã nghĩ tới
chiếc máy vi tính, bởi vì lúc này gã vẫn còn bị
cơn ác mộng của nó đè nặng. Trên một tờ báo,
người ta đã đưa ra câu hỏi :
- Tại sao máy vi tính lại thuộc về giống cái ?
MỤC LỤC

Và người ta đã ghi nhận được nhiều điểm của


máy vi tính rất gần và rất giống với đờn bà con
gái :
1- Ngay cả những người tạo ra nó cũng chẳng
thể nào hiểu được nó.
2- Một lỗi, dù là nhỏ nhất của bạn, cũng sẽ được
ghi nhớ tức thời.
3- Người khác không thể nào hiểu được loại
ngôn ngữ mà máy vi tính dùng để trao đổi thông
tin với nhau.
4- Khi trang bị máy vi tính, tức là bạn đang trút
phân nửa hào bao cho các thứ phụ tùng lỉnh
kỉnh.
5- Bạn luôn muốn thử máy của người khác.
6- Máy vi tính lỗi thời rất nhanh.
7- Tuy nhiên, các máy vi tính có một lợi thế lớn
hơn nhiều so với đờn bà con gái, bởi vì chúng
có nút “tắt và mở”
MỤC LỤC

Riêng phần gã, gã xin thêm một đặc tính khác


nữa, đó là chẳng biết được lúc nào và tại sao nó
lại trục trặc hay ngục ngặc, cũng giống như anh
chàng chẳng thể nào biết được lúc nào và tại
sao chị nàng lại…nổi giận đùng đùng và nghỉ
chơi với mình.
Nếu gã nhớ không lầm thì có một vài ông triết
gia khỉ gió nào đó đã đưa ra những câu định
nghĩa hết sức “vô lý”, chẳng hạn :
- Trí nhớ là một khả năng để quên.
- Ai nghĩ đến quên thì ắt sẽ nhớ.
Trong phạm vi lý luận, người ta lại khoái cái món
“vô lý” như thế thì phải, bởi vì các bậc thày trong
thiên hạ thường nghiệm ra rằng :
- Điều gì càng tối, thì lại càng sâu. Chứ còn đơn
giản, ai cũng biết thì còn hay ho gì nữa.
Cho nên cần phải phát ngôn làm sao để thiên hạ
không thể hiểu nổi, phải nể phục mình sát đất và
MỤC LỤC

thế là nghiễm nhiên mình nhảy tót lên hàng sư


phụ.
Chuyện lý luận hay suy tư như vậy, gã dốt đặc
cán mai làu táu, nên chẳng dám ý kiến ý cò gì
sốt. Riêng trong phạm vi đời thường, người ta
thấy đờn ông con giai vốn có đầu óc tổng hợp,
cái gì cũng đại khái chủ nghĩa, “qualoarement”,
nên rất ư là hay quên.
Hồi còn nhỏ, mỗi lần ra đường, bà mẹ thường
phải nhắc đức con giai đầu húi cua của mình
như sau :
- Con phải nhìn trước nhìn sau kẻo xe nó đụng.
Nhớ mang theo cái áo đi mưa, kẻo lại ướt như
chuột lột lúc nào cũng không hay.
Gã có một thằng bạn, thỉnh thoảng hai đứa lại rủ
nhau lên thành phố. Tối hôm trước, thằng bạn tự
tay gấp quần áo bỏ vào sắc, thế mà lần nào
cũng vậy, không quên cái này thì cũng sót cái
MỤC LỤC

kia. Có lần khi chui vào phòng tắm nhà người ta,
hắn mới phát giác ra rằng mình quên không
mang theo quần đùi, nên vội khều gã lại và nói
nhỏ với gã :
- Cậu chịu khó xuống phố mua cho tớ hai chiếc
quần xà loỏng. Mau lên nhé.
Còn việc hắn mặc quần tây mà quên không kéo
“phẹc-mơ-tuya”, thì đó chỉ là chuyện nhỏ, vốn
xảy ra thường ngày.
Tuy nhiên, dưới một góc cạnh nào đó, cái quên
cũng có những lợi ích của nó. Bởi vì nếu phải
nhớ hết mọi sự, chẳng bao giờ được phép quên,
ắt hẳn đầu óc sẽ không còn đủ chỗ chứa cho
những dữ kiện được nạp vào, bấy giờ nó sẽ nổ
tung và điên lên mất, chỉ vì bị...quá tải mà thôi.
Chính vì thế, có người đã phát biểu như sau :
- Đôi khi quên những điều mình biết cũng làm lợi
ích.
MỤC LỤC

- Biết quên là một hạnh phúc hơn là một nghệ


thuật.
Kinh nghiệm bản thân cũng cho gã hay :
- Nhiều lúc gặp phải chuyện buồn, mình cũng
muốn quên phứt đi tất cả. Quên đời và quên
người. Có quên đi thì mới được ngủ mới yên.
Bằng không thì cuộc sống cứ nặng trình trịch
như đeo cối đá vào cổ vậy.
Trong khi đó, đờn bà con gái thì ngược lại, vốn
có đầu óc phân tích, sợi tóc chẻ làm bốn, luôn
chú trọng tới những chi tiết nhỏ mọn nhất, nên
rất ư là nhớ dai.
Chính vì thế, hồi ở tiểu học, cánh con gái
thường dẫn đầu những môn học thuộc lòng, lên
trung học phe kẹp tóc thường giỏi về sinh ngữ
và khi thò chân vào cuộc đời, họ thường thích
hợp với nghề thư ký, dạy học, nội trợ…là những
nghề đòi phải có óc tỷ mỉ và nhớ dai.
MỤC LỤC

Gã có một bà chị ở bên Mỹ, trước khi về Việt


nam bốn tháng, bà chị ấy đã truyền cho gã cả
một “bộ luật chương trình”, ngày nào phải đi
đâu, phải làm gì...Rồi lại còn hỏi xem có cần
phải thay đổi hay bổ túc gì không ? Gã chỉ biết
trả lời :
- Cứ về đã, rồi hạ hồi phân giản, tới đâu hay tới
đó.
So với chiếc máy vi tính thì đờn bà con gái nhiêu
khê và rắc rối hơn nhiều. Đối với chiếc máy vi
tính, một văn bản hay một hình ảnh đã được lưu
vào bộ nhớ, lúc nào mình muốn bỏ đi thì chỉ cần
bấm chọn tận gốc rồi nhấn nút “delete”, thế là
xong, an toàn chăm phần chăm. Chứ còn đờn
bà con gái ấy hở, một khi đã nhớ thì nhớ mãi
nhớ hoài, nhớ vào tận tim gan phèo phổi, chẳng
thể nào bỏ được. Mình càng cố gắng xóa đi thì
MỤC LỤC

họ lại càng nhớ dai hơn, thành thử tình huống


trở nên rất ư là phức tạp.
Sau đây gã xin ghi lại tâm sự buồn của một ông
chồng có bà vợ nhớ dai. Tâm sự buồn này đã
được đăng tải trên báo Phụ nữ Chủ nhật. Gã xin
trích dẫn nguyên con như thế này :
Cho dù các nhà khoa học có phát minh ra loại
máy tính hiện đại nào có bộ nhớ tốt đến đâu đi
nữa, tôi cam đoan rằng nó vẫn không bằng trí
nhớ của...vợ tội.
Thưở mới yêu nhau, sự “nhớ dai” của nàng làm
tôi hạnh phúc và tuy đó không phải là yếu tố
quyết định, nhưng lại là một trong những lý do
khiến tôi cưới nàng làm vợ. Lấy nhau rồi, tôi mới
nhận ra sự nhớ dai của nàng làm tôi khổ sở.
Thuở yêu nhau, không có sinh nhật của người
nào trong gia đình tôi mà nàng không nhớ. Vào
những ngày đó, bao giờ nàng cũng dành cho gia
MỤC LỤC

đình tôi những bất ngờ thật dễ thương, không


phải những món quà, mà chính sự quan tâm sâu
sắc, sự tinh tế chu đáo của nàng làm cho mọi
người trong nhà rất có cảm tình với nàng. Ba mẹ
tôi giục tôi “cưới vợ thì cưới liền tay” bởi ông bà
sợ vuột mất cô dâu quí. Mấy đứa cháu thì tối
ngày cứ quấn lấy nàng khiến tôi có khi phải
ganh tị với nàng.
Còn thói quen của mọi người trong nhà, thì nàng
nhớ chính xác không sai vào đâu được : mẹ tôi
kiêng món gì, ba tôi thích đọc loại sách nào, còn
đứa em gái tôi thích mặc đồ “size” bao
nhiêu...Tóm lại, nàng có thể nhớ tất tần tật
những gì mà một thằng tôi sống trong gia đình
từ bé đến lớn cũng không biết, chứ đừng nói là
nhớ. Cho đến khi cưới xong, gia đình tôi vẫn an
tâm hài lòng về sự chu đáo của cô con dâu mà
MỤC LỤC

theo mẹ tôi “còn hơn cả những đứa con ruột tao


đẻ ra nữa”.
Chỉ có tôi mới biết tôi phải khổ sở bởi tính nhớ
dai của nàng như thế nào. Trước khi cưới, có
lần nàng bảo tôi :
- Anh hãy dọn dẹp lại phòng riêng của mình coi
xem có gì cần “niêm phong” lại không thì làm
trước khi em về, đừng để sau này em phát hiện
ra là “mệt” đó!
Tôi hiểu nàng “ám chỉ” cái gì và câu nói với
mệnh đề “nếu...thì...” của nàng còn bao hàm cả
sự “đe dọa”, bởi trước kia tôi đã “thật thà thú
thiệt” với nàng về những mối tình thời sinh viên
của mình mà quên mất một câu đúc kết vô cùng
chí lý là : “thật thà thường thua thiệt”. Nàng
muốn tôi “dọn dẹp” những lá thư tình, những
hình ảnh hay những kỷ vật có liên quan đấy mà.
Lúc đó, tôi nghĩ thật đơn giản :
MỤC LỤC

- Có gì mà phải dọn, miễn là mình chỉ còn yêu


cô ấy và lấy cô ấy mà thôi là đủ rồi.
Vả lại, bấy giờ tôi cũng chẳng nhớ mình để
những thứ đó ở đâu. Tôi quan niệm những gì
qua rồi thì thôi, tính tôi không thích những hoài
niệm cũ với quá khứ. Vậy mà, chỉ sau tuần trăng
mật, nàng bắt đầu ra tay “thanh lý” cái mớ bòng
bong trong phòng tôi và không mấy khó khăn
truy ra một đống “kẻ thù của những bà vợ hay
ghen” : thư từ, hình ảnh, vài chiếc khăn tay và
cả những thứ tôi từng tặng cô người yêu cũ
nhưng bị trả lại kèm với những lời yêu đương vô
cùng thắm thiết.
Thế là nàng yên lặng suốt mấy ngày sau đó.
Bình thường sự ít nói của nàng đáng yêu vô
cùng, nhưng lúc đó tôi chỉ thấy rờn rợn một sự
lạnh lùng bao phủ hai vợ chồng. May mà tôi vừa
tận hưởng những gì ngọt ngào nhất của tuần
MỤC LỤC

trăng mật, chứ nếu không, có lẽ nàng trừng phạt


tôi bằng “mật đắng” mất. Nàng đọc tất cả không
sót một chi tiết nào và sau này cứ mỗi lần có dịp
là nàng lại lôi ra, không để “dằn vặt” thì cũng để
“dằn mặt” tôi vì đã để cho nàng xem những thứ
cấm kỵ đó.
Và chính cái trí nhớ chết tiệt của nàng đã hỗ trợ
cho nàng trong việc công kích tôi. Đi ngoài
đường, nếu tôi có lỡ dại ngoái nhìn một người
nào đó trông quen quen thì nàng nhỏ nhẹ :
- Giống chị ấy quá hở anh ?
Khi tôi khen nàng cao và trắng, thì nàng hờn
dỗi :
- May mà em giống chị ấy ở chỗ cao và trắng,
nên anh mới lấy, chứ nếu không...dễ gì.
Rõ ràng những tấm ảnh nàng bắt gặp được đã
in tạc vào bộ nhớ của nàng mất rồi. Những lúc
đó tôi chỉ còn biết chịu trận. Người ta nói :
MỤC LỤC

- Cái gì chẳng phải trả giá.


Tôi biết mình đang phải “trả giá” cho sự “sơ sót
của mình, nhưng tôi không nghĩ hậu quả lại kéo
dài và dai dẳng đến vậy...
Sau nhiều lần nhún nhường, tôi nổi cáu thực sự.
Thế nhưng, khi thấy nàng thút thít :
- Tại sao biết em nhớ dai như vậy mà anh còn
cố tình để em thấy những thứ đó làm chi ?
Tôi mới nhận ra lỗi là ở tôi cũng như ở cái trí
nhớ dai dẳng của nàng, chứ nào phải nàng
muốn làm khổ tôi.
Nếu có được một điều ước, tôi sẽ ước cho vợ
tôi đừng có trí nhớ tốt như vậy, tương đương bộ
nhớ của Pentium IV. Sẵn đây cũng xin nhắn nhủ
cùng những người vợ có thói quen thích lôi quá
khứ của chồng ra “nhắc nhở” rằng :
- Các ông chồng dù có thương vợ đến đâu cũng
không thể chịu đựng nổi cái kiểu đào xới quá
MỤC LỤC

khứ của chồng lên như thế, tìm hiểu quá khứ
của chồng chỉ để thông cảm và hiểu hơn về
người chồng của mình thì tốt, bởi ai chẳng có
quá khứ, nhưng đừng đay nghiến, xỏ xiên hay
chỉ trích, bởi đó cũng là một phần cuộc sống của
mỗi người, hơn ai hết lại là của người mình đầu
ấp tay gối, kề cận mỗi ngày. Trân trọng quá khứ
của chồng hóa ra cũng chỉ là một cách yêu
thương và tôn trọng chồng vậy!
Chắc hẳn trong khối óc của đờn bà con gái,
trung khu thần kinh về nhớ chắc hẳn nằm cận kề
với trung khu thần kinh về nói. Vì thế, một khi đã
nhớ dai thì chắc chắn họ cũng sẽ nói dài. Lòng
đầy thì ắt hẳn phải tràn ra ngoài mà thôi.
Như chúng ta đã biết :
- Người là một con vật có ngôn ngữ, có tiếng
nói.
MỤC LỤC

Ngôn ngữ và tiếng nói chính là một quà tặng quí


giá Thượng đế ban tặng cho con người, để
truyền thông những tư tưởng, những ý nghĩ,
nhờ đó hiểu nhau hơn và xích lại gần nhau hơn.
Thế nhưng, ngôn ngữ và tiếng nói lại là điều
chúng ta thường sai lỗi hơn cả, bởi vì với ngôn
ngữ và tiếng nói, chúng ta có thể sai lỗi ở mọi
nơi, trong mọi lúc và với mọi người.
Gã không rõ có ai đó đã phát biểu một câu được
liệt vào hạng “ranh ngôn” như thế này :
- Nơi nào có hai hay ba chị đờn bà tụ tập lại, thì
nơi đó bỗng trở thành một cái chợ.
Lúc bấy giờ chị đờn bà nào cũng nghiêm nhiên
là một phóng viên vỉa hè. Họ thu lượm và thông
truyền cho nhau đủ mọi thứ tin tức từ trong nhà
cho ra đến ngoài phố, từ chuyện riêng tư cho
đến chuyện công cộng, chị đờn bà nào cũng
MỤC LỤC

cảm thấy ngứa cái lỗ miệng, nên rất khỏe nói :


nói dẻo, nói dai, nói dài.
Gã không đồng ý với mấy câu ca dao vốn ca
tụng cánh đờn ông con giai :
- Đờn ông nông nổi giếng khơi,
Đờn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
- Khôn ngoan cũng thể đờn bà,
Dù là vụng dại cũng là đờn ông.
Thực vậy, trong cuộc sống không thiếu gì những
anh đờn ông khù khờ và dại dột, đồng thời cũng
không thiếu những chị đờn bà khôn ngoan và
giỏi giang, chẳng thế mà có chị đờn bà đã làm
tới chức nữ hoàng, thử tướng, bộ trưởng...
Thế nhưng, không phải cứ nói dẻo nói dài mà sự
thực và phần thắng sẽ thuộc về mình, bởi vì :
- Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều,
Người khôn mới nói nửa điều đã khôn.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, nói dẻo nói dài nói dai mà thôi chưa
kinh khủng cho bằng việc nói day và nói dứt.
Thực vậy, một anh chồng, ở sở thì bị cấp trên
chèn ép, cấp ngang ganh tị, cấp dưới bướng
bỉnh. Trở về nhà chỉ thầm ước một điều là sẽ tìm
thấy khuôn một mặt dịu hiền, một nụ cười tươi
thắm, một lời nói ngọt ngào của chị vợ để quên
đi những buồn đau và cực nhọc :
- Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
- Lạ thay nết nói nết cười,
Nết sao lại khiến cho người muốn thương.
Thế nhưng, có chị vợ lại thường xuyên càu nhàu
và cạu cọ. Cứ thấy anh chồng vác mặt về là liền
“a lê hấp” nhào vô đay nghiến và day dứt :
- Sao anh thua người ta thế này, sao anh thua
người ta thế nọ. Người ta kiếm tiền như nước
MỤC LỤC

đem về cho vợ cho con, còn anh sao vô tài bất


tướng quá vậy. Khốn thân tôi, khổ thân tôi...
Ngay cả những lúc thân mật, chị vợ ấy cũng sẵn
sàng rót vào tai anh chồng những lời nói chua
như giấm và cay hơn cả ớt. Nhất là những khi
xảy ra chuyện xích mích, thì nói dẻo nói dài nói
dai mà thôi chưa đủ, chị vợ ấy còn nói xiên nói
xẹo, nói bóng nói gió, nói móc nói méo, xóc vào
đến tận tâm can tì phế anh chồng.
Hai chủ đề thường được chị vợ đem ra mà day
dứt đối với anh chồng, đó là chuyện “cơm áo
gạo tiền” và chuyện “tình lem nhem”, cho dù
chưa được phối kiểm hay chỉ là những tin đồn
thất thiệt.
Đến nước đó, anh chồng chỉ còn hai cách giải
quyết :
MỤC LỤC

- Một là yên lặng bỏ đi, hai là thượng cẳng chân


hạ cẳng tay, cho cô ấy một trận để câm miệng
lại.
Cả hai cách giải quyết đều bất ổn và bất lợi cho
bản thân cũng như cho gia đình.
Gã cũng xin ghi lại nơi đây nỗi buồn của một
anh chồng có chị vợ vốn nói dẻo và nói dài, nói
day và nói dứt :
...Khi yêu nhau thì hầu như các cô rất dịu dàng,
e lệ và ít nói. Nhưng khi đã yên bề gia thất, thì
cái sự nói dài tỷ lệ thuận với năm tháng và tuổi
tác. Những lời dễ thương âu yếm thì con êm tai,
chứ đi làm về mệt mà nghe những chuyện ngày
xưa dai nhách thì thật khổ. Đôi khi giận cá chém
thớt, cằn nhằn con rồi la rầy luôn cả chồng, coi
chồng như con.
Các ông kiếm cớ kéo dài thời gian ở ngoài
đường để khỏi bị “nhai lỗ tai”, rồi những chuyện
MỤC LỤC

gì xảy ra thì chỏ có trời mới biết! Có ông tâm sự


rằng :
- Ước gì có thể ghi âm “bài ca không quên” của
vợ để được quyền bấm nút stop bất kỳ lúc nào
muốn, chứ thực tế ngoài đời thì đành chịu thua.
Cuộc sống ngày càng cuốn hút con người vào
tốc độ của nó. Những giây phút hiếm hoi ở nhà,
ở bên nhau nên là những giây phút êm đềm.
Hãy nói những lời yêu thương mật ngọt. Nếu
mệt quá thì chí ít là nên...im lặng để có thể thư
giãn nghỉ ngơi. Chuyện gì thủng thẳng lúc hai vợ
chồng bình tĩnh cùng trao đổi. Đừng làm khổ
nhau vì những chuyện không đáng, nhằm giữ
cho mái ấm luôn là “một cõi đi về”.
Sau cùng là nói gian và nói dối. Nói dối chồng
con trong việc chi tiêu, nói dối bè bạn trong việc
giao tế, buôn bán và nhất là nói gian cho người
MỤC LỤC

khác. Cũng lại một câu “ranh ngôn” khác phát


biểu :
- Nơi nào có hai hay ba chị đờn bà tụ lại với
nhau, chắc chắn nơi đó có nói hành nói xấu,
bằng không thì cứ chặt đầu tôi đi.
Nói đúng sự thật những sai lỗi của người khác
còn có thể thông cảm, chứ phóng đại tô màu,
bóp méo sự thật, hay dựng chuyện cốt để vui
cười với nhau hay để hạ nhục, thì đó là điều bất
ổn làm mất đi danh dự của người khác, khó mà
đền trả cho được, bởi vì :
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời
nói ra khỏi miệng, thì bốn ngựa đuổi theo cũng
không kịp.
Bởi đó, người xưa đã khuyên :
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
MỤC LỤC

Để kết luận, gã xin ghi lại lời một người mẹ


khuyên cô con gái rượu của mình sắp sửa đi
làm dâu thiên hạ như sau :
- Con ơi mẹ bảo con này,
Học buôn học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa.
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TẬT ĐỜN BÀ : CHÌA KHÓA

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Đã từ lâu, gã bị mang tiếng là thiên tư thiên vị,
chuyên môn bốc thơm phe nhà mà lại hay phá
thối phe ta. Có nghĩa là gã luôn mồm khen ngợi
cánh đờn ông con giai, trong khi đó hễ mở
miệng ra là lại chê bai phe đờn bà con gái.
Sở dĩ như vậy cũng dễ hiểu thôi, bởi vì bản thân
gã cũng thuộc cánh đờn ông con giai, thuở nhỏ
có một thời bố bắt phải húi cua, để có cái đầu
“ca-rê” tóc năm phân đều…cho nó mát.
Nếu hồi tâm xét mình, gã cũng cảm nhận được
đích thực là như vậy. Không hiểu tại sao mỗi khi
phải vạch áo cánh đờn ông cho quí bà quí cô
xem lưng, thì gã thường hay bị…tắc tị, tìm hoài
kiếm mãi mà chẳng thấy được một con giáp nào
cả. Còn khi bới móc phe ta ấy hả, văn chương
chữ nghĩa cứ tuôn ra rông rổng chẳng cầm lại
MỤC LỤC

được, theo kiểu “sine fine dicentes” nói tới nói lui
mà vẫn chẳng hết.
Hôm nay gã xin thành thật thú nhận và xưng tội
trống với quí bà quí cô sự thể là như vậy :
- Bởi vì dối người thì dễ chứ làm sao dối được
cả Chúa.
Mà cũng kỳ thật, hễ cứ đụng tới “phạm trù” này
là tay chân, miệng mồm gã đều ngứa ngáy,
giống như bị dị ứng, hay bị phong giật mỗi khi ăn
phải ngao sò ốc hến...Nên đành phải viết, phải
nói cho đã...ngứa.
Nếu có bị phang lại, thì cũng đành phải chịu trận
:
- Rằng hư quen thói mất rồi.
Trước khi tiếp tục việc kể tội đờn bà con gái,
như thường lệ, gã xin ghi lại nơi đây một vài so
sánh, một vài ví von, được coi như là món…khai
vị.
MỤC LỤC

Một anh chàng nọ, hẳn đã bị các cô đá lên đá


xuống như một trái banh, nên đã cay cú phát
biểu như sau :
- Tivi thú vị hơn đờn bà.
Rồi anh chàng hâm hâm này đã đưa ra những
nhận định riêng tư của mình như thế này :
- Này nhé, tivi chỉ cần một miếng vải che cho đỡ
bụi mà không cần chạy theo “mô đen mô điếc” gì
cả. Tivi không bao giờ hỏi bạn tại sao về trễ, hay
tại sao lại có vết son trên áo. Bạn có thể xem tivi
bất kỳ lúc nào bạn muốn và có thể bấm nút
“mute” cho nó “im cái mồm”. Chỉ cần ngồi ở nhà
với cái tivi, bạn có thể biết tất cả mọi chuyện xảy
ra trên thế giới. Tiền điện mỗi tháng cho tivi dĩ
nhiên phải ít hơn tiền son phấn, quần áo và sửa
sắc đẹp của nàng…Và còn nhiều, còn nhiều
điều thú vị khác nữa.
MỤC LỤC

Anh chàng khác, đã méo mó nghề nghiệp, phân


tích đờn bà con gái theo cung cách của một nhà
khoa học và đã công bố kết quả “ngâm kíu” của
mình như sau :
Về vật lý : Đờn bà con gái, bề mặt thường được
phủ một lớp màu sắc, tựa như một bức tranh
trừu tượng. Có thể sôi sục vì bất cứ điều gì,
nhưng cũng thường đóng băng mà chẳng cần lý
do rõ ràng. Sẽ đau khổ nếu không được trọng
dụng đúng chỗ.
Về hóa học : Có một ái lực rất mạnh đối với
vàng bạc và những loại đá quí. Hấp thụ rất
nhanh các loại vật chất có tính xa hoa. Thường
chuyển sang màu hồng khi bị khám phá ra trong
trạng thái tự nhiên và chuyển sang màu xanh
nếu bị đặt bên cạnh một đối tượng đẹp đẽ hơn.
Còn về công dụng, gã không dám phô ra vì sợ
mang tính chất báng bổ, bởi vì nhà ngâm kíu
MỤC LỤC

lẩm cẩm này mới chỉ ghi nhận được một vài
công dụng phụ như có sức trang trí nhất là trên
các xe du lịch và có sức làm thư giãn rất cao…
mà thôi.
Trong cuộc sống, hình như đã có một sự phân
công, tuy vô hình nhưng lại khá rõ ràng. Đó là
đờn ông thì có bổn phận kiếm tiền, dù có phải
vất vả đổ mồ hôi sôi nước mắt, còn đờn bà thì
có bổn phận phải...tiêu tiền.
Gã không nhớ rõ, hình như có một câu danh
ngôn diễn tả mối liên hệ giữa đờn ông, đờn bà
và tiền là như một chiếc vòng lẩn quẩn như sau :
- Người ta lấy tiền nhử đờn bà, lấy đờn bà nhử
đờn ông và lấy đờn ông để...nhử tiền.
Hơn thế nữa, để phục vụ cho chồng, người vợ
ngày xưa phải lo từ manh quần tấm áo đến cái
khăn cái lược. Công việc này được gọi là “nâng
khăn sửa túi”. Thế nhưng, những kẻ đầu óc có
MỤC LỤC

sạn lại nghĩ rằng việc “sửa túi” ở đây là sửa và


nắm lấy cái túi tiền của chồng.
Sở dĩ có sự phân công như trên, bởi vì người
đờn bà thường quản lý và quán xuyến mọi sự
trong gia đình, cho nên việc giữ tiền và tiêu tiền
phần lớn đều nằm trong tay người vợ, người
mẹ.
Thế nhưng, sự đời đâu có phẳng phiu và trơn tru
như vậy. Tiền bạc thường là một trong những
nguyên nhân chính yếu gây nên hục hặc và đổ
vỡ trong nhiều gia đình.
Ngày xưa, người ta thường để tiền, nhất là tiền
cắc trong những chiếc bao nhỏ, được gọi là hào
bao. Riêng các bà các cô lại thường để tiền
trong chiếc “ruột tượng”. Ruột tượng là một
chiếc bao nhỏ bằng vải thật dài, vừa làm dây
lưng vừa đựng tiền bạc.
MỤC LỤC

Ngày nay, người ta thường để tiền trong những


chiếc hòm hay những chiếc “két” sắt rồi khóa lại
cẩn thận. Muốn mở hòm hay mở két thì cần phải
có chìa khóa. Chính vì thế, người vợ vốn giữ
chân thủ quỹ và quản lý tiền bạc trong gia đình
nên được gọi là...tay hòm chìa khóa.
Sự kiện này làm gã nhớ tới lời Chúa Giêsu phán
với thánh Phêrô :
- Thày trao cho con chìa khóa Nước trời. Sự gì
con cầm buộc dưới đất , trên trời cũng cầm
buộc. Sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng
cởi mở.
Vì thế, trong lòng Giáo hội, người ta cũng đã gọi
quyền của thánh Phêrô là quyền...chìa khóa.
Ngặt nỗi tay hòm chìa khóa trong gia đình lại có
những tình cảm và phản ứng riêng của mình :
vui khi tiền được nhập vào, nhưng buồn khi phải
xuất ra, nên chỉ xuấr ra nhỏ giọt, nếu có xuất ra
MỤC LỤC

ồ ạt thì lại chỉ dành cho những chuyện không


đâu, thành thử mới bị thâm thủng nặng nề.
Gã xin ghi lại nơi đây tâm sự buồn của một anh
chồng :
- Vợ tôi có tánh rất kỳ, nàng không quan tâm gì
tới những khó khăn trong công việc của tôi để
chia sẻ, an ủi, khích lệ mà cứ tôi đem tiền về
nhiều thì vui vẻ, hớn hở. Còn đem về ít, thì nàng
than thở, buồn phiền, trách móc và gây chuyện.
Có những lúc thị trường nhà đất đóng băng, việc
xây dựng chựng lại hay vật tư lên cơn sốt, tôi
phải án binh bất động vì nhận công trình sẽ lỗ
sặc gạch. Nàng gây gỗ, có những lời xúc phạm.
Tôi không nín nhịn được, phản ứng lại. Không
khí gia đình sôi sục như lò phản ứng hạt nhân,
hạnh phúc chông chênh bên bờ vực thẳm, con
cái ngơ ngác nhìn cha mẹ sắp chia xa...
MỤC LỤC

Bình thường, người chồng đi làm đem tiền về


cho vợ. Còn người vợ vừa giữ tiền, vừa tính
toán làm sao cho việc chi tiêu được cân đối, để
khỏi bị vay công mắc nợ.
Tuy nhiên, với vai trò thủ quỹ và quản lý, người
vợ thường mắc phải một trong hai tình trạng thái
quá. Mà đã thái quá thì bất cập. Đó là hà tiện và
hoang phí.
Trạng thái bất cập thứ nhất đó là tính hà tiện,
keo kiệt.
Chỉ muốn nhập vào mà không muốn xuất ra. Và
nếu có xuất ra thì cũng chỉ xuất ra nhỏ giọt, kèm
theo đó là những lời “mắng chó chửi mèo”.
Hồi còn nhỏ, gã có một thằng bạn, cứ đến đầu
tháng là mặt mũi cu cậu buồn xo như treo cờ
tang. Hỏi ra mới vỡ nhẽ : mỗi lần xin bu tiền
đóng học phí, thế nào bu cu cậu cũng giáng cho
cu cậu một bài luân lý giáo khoa thư về sự cực
MỤC LỤC

nhọc để kiếm ra đồng tiền đồng bạc, khiến cu


cậu rất sợ khi phải mở miệng xin tiền cho những
nhu cầu chính đáng của mình.
Sau đây cũng lại là tâm sự buồn của một anh
chồng có chị vợ rất “keo nặng” thuộc hàng “vắt
cù chày ra nước”, “đãi cứt sáo lấy hạt đa”. Anh
ta đã giãi bày trên báo Phụ nữ Chủ nhật như
sau :
- Lần cuối tôi vứt đồ ăn xuống cát và hùng hổ
với vợ rồi bỏ đi thuộc về năm ngoái...Hay hớm gì
kiểu chi li, riết róng tới mức ấy cho cực cái xác,
khổ cái tâm mà lại sinh ra kình cãi ồn ào trong
nhà chứ! Vẫn biết đã là phụ nữ, đã là vợ, là mẹ,
là người giữ trách nhiệm “tay hòm chìa khóa” thì
tiêu pha, chi phí gì cho gia đình và bản thân
cũng phải được tính toán, chứ không được
hoang phí. Bản chất của tôi cũng là một người
đàn ông chừng mục trong tất cả mọi chuyện,
MỤC LỤC

nhất là chuyện xài tiền và vì thế tôi rất thương


quí những người phụ nữ biết căn cơ, thu quén.
Tiện tặn là tốt, nhưng tiện tặn kiểu nào chứ kiểu
của vợ tôi thì tôi xin...đầu hàng.
Vợ chồng tôi có một quán giải khát bình dân ở
dưới bãi biển. Công việc bận rộn lắm và vợ tôi
quay như chong chóng suốt ngày cùng với công
việc bán buôn. Tôi đôi lúc còn có thì giờ rảnh rỗi
để lê la, lai rai với mấy ông bạn, chứ vợ tôi tuyệt
đối là không. Từ sáng đến tối, cô ấy không mấy
khi được nghỉ tay. Thương vợ và muốn bồi
dưỡng cho ba mẹ con cô ấy, tôi có lỡ trót dại ba
lần trong năm nay. Giờ xin tổng kết lại.
Lần thứ nhất khi tôi mua về một chục trứng vịt
lộn để cả nhà cùng ăn cho vui. Mấy cha con tôi
thì đúng là vui thật, nhưng cô ấy thì ngược lại.
Cô ấy ca cẩm là tốn nhiều tiền, là hoang phí. Cô
ấy xỉa xói tôi là thứ phá của. Cô ấy kể lể sự cực
MỤC LỤC

nhọc của mình khi tom góp tiền lời từng ly nước
mía, từng hộp sữa tươi...Và tôi không chịu nổi
nên đã ném hắt tất cả xuống cát rồi bỏ đi.
Lần thứ hai khi tôi mua về nửa ký chả quế Hà
nội vì nghe cô ấy nói mình chưa được ăn loại
chả này lần nào.
Lần thứ ba là nguyên một con gà nướng thơm
lựng và béo giòn.
Tôi phải bỏ đi ngay để tránh những cặp mắt tiếc
rẻ của các con, để khỏi phải thấy cái mặt “men”
vì xót của nơi cô ấy. Để...dằn lòng. Để thương
vợ hơn và cũng giận vợ hơn.
Sao không thử một lần tôi mua món gì đó ngon
ngon về nhà mà cô ấy không kiềng riềng. Ăn liền
một phát cho tôi mát cái bụng hay tưng tửng
khen tôi một câu cho tôi nở cái mũi...
MỤC LỤC

Trạng thái bất cập thứ hai, đó là sự hoang phí


theo kiểu “vung tay quá trán”, “con nhà lính tính
nhà quan”.
Ngặt nỗi sự xuất ra ồ ạt này lại được dành cho
những nhu cầu không cần thiết của gia đình hay
chỉ để dành riêng cho bản thân mình mà thôi.
Vậy đâu là những khoản vốn được phe ta hồ hởi
và sẵn sàng chi ra một cách rộng rãi trên cả
mức bình thường ?
Trước hết đó là khoản ăn quà vặt.
Không hiểu bên Thụy sĩ thế nào chứ còn ở Việt
Nam ấy hả, bước chân ra đường, xó góc nào
cũng có những hàng quà vặt, phục vụ tinh thần
ăn uống rất cao của quí bà quí cô.
Ca dao vốn đã dành nhiều lời để diễn tả về “đức
tính” này :
- Nhạt mồm chẳng muốn ăn quả,
Có mía súc miệng được vài bốn cây.
MỤC LỤC

- Đi chợ hết tám tiền quà,


Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
- Một đồng là chín củ khoai,
Mẹ ăn một thì con ăn hai.
Mẹ sai con đi bốc muối thì khoai chẳng còn.
Con ngồi con khóc nỉ non,
Mẹ cầm cái vọt lon xon lên rừng...
Theo Hoàng Thiếu Phủ, thì từ xa xưa trong
truyền thuyết dân gian đã xuất hiện hai “siêu
sao” điển hình cho tính ăn hàng của đờn bà con
gái, đó là cặp bài trùng bà Rằn, bà Rí.
Đối với bà Rằn, ca dao đã diễn tả :
- Bà Rằn đi chợ miền quê,
Thấy hàng chả chó, lại lê trôn vào.
Chả này bà bán làm sao ?
Ba đồng một gắp, lẽ nào chẳng mua.
Nói dối rằng mua cho chồng,
Đi đến quãng đồng, ngả nón ra ăn.
MỤC LỤC

Về nhà đau quẳn đau quăn dạ này,


Đem tiền đi bói ông thày.
Bói ra quẻ này những chả cùng nem.
Ông thày nói dối đã quen,
Nào tôi ăn chả, ăn nem bao giờ.
Còn đối với bà Rí, thì có một mẩu chuyện vừa
buồn cười lại vừa dễ thương như sau :
Bà Rí vốn rất yêu chồng. Biết chồng thích uống
rượu, nên mỗi lần đi chợ bà thường mua thêm
một món “ngoài luồng” để chồng đưa cay. Hôm
ấy gặp món lòng lợn luộc, vừa ngon lại vừa rẻ,
bà Rí mua mấy lạng bỏ vào rổ đội lên đầu mang
về. Dọc đường, bà Rí thòm thèm, thỉnh thoảng
lại đưa tay lên đầu bốc một miếng lòng lợn bỏ
vào miệng. Về đến cổng nhà, bà Rí vội kêu réo
chồng :
- Mình ơi, ra nhanh lên, xem có cái gì dành cho
mình đây nè ?
MỤC LỤC

Thế nhưng, khi bà Rí hạ chiếc rổ xuống thì mới


hay cả gói lòng lợn luộc đều đã bốc hơi, chỉ còn
lại miếng lá chuối. May sao trong rổ có một gói
dưa giá. Bà Rí nhanh trí nói :
- Chợ hôm nay chẳng có gì cả, em mua cho
mình gói dưa giá này để mình nhắm rượu đỡ
vậy.
Từ đó cho đến nay, cái máu ăn hàng của hai bà
đã thấm qua nhiều thế hệ hậu duệ như một thứ
“gien” di truyền. Con cháu hai bà ngày càng
đông thì nhu cầu ăn hàng lại càng lớn. Chả thế
mà các kiến trúc sư vẽ kiểu chợ rất am hiểu tâm
lý đờn bà con gái. Mỗi cái chợ, dù là chợ nhà
lồng, chợ chồm hổm, chợ chuồng bò...đều có
một khu trung tâm thuận lợi dành cho việc ăn
hàng.
Khoản tiền ăn hàng này dĩ nhiên chẳng bao giờ
được báo cáo công khai với gia đình, nhưng
MỤC LỤC

được luồn lách bằng cách tính bổ vào các khoản


chi khác trong buổi chợ. Do việc bội chi này,
chúng ta thường nghe không ít các bà các cô đi
chợ luôn than một câu rất quen thuộc :
- Chợ hôm nay cái gì cũng đắt.
Rất hiếm khi họ khen được một tiếng “rẻ”.
Tác phong của việc ăn quà cũng đã được diễn
tả :
- Vào hàng bánh ít chả tôm,
Hai tay lột lá, miệng mồm há ra.
- Chồng chê vợ xấu không ham,
Vợ chê làm bếp, ăn hàng vểnh tai.
Vì sợ người quen bắt gặp, nên khi ăn hàng, các
bà các cô thường cúi mặt xuống như muông
chim một cách kín đáo. Trong tư thế đó, tuy giấu
được cái mặt nhưng không thể giấu được đôi
tai. Vì thế mới có thành ngữ “ăn hàng vểnh tai”.
MỤC LỤC

Có kẻ đã định nghĩa chiếc cặp của các nữ sinh


chính là một cái chạn, một kho bãi chất chứa
mọi thứ ăn được, từ trái me trái cóc đến quả
xoài quả mận và không bao giờ quên một
gói...muối ớt.
Có cô nàng còn tuyên bố hách xì xằng :
- Không ăn hàng, không phải là đờn bà con gái.
Mỗi lần được tháp tùng bà chị hay cô em đi
thành phố, gã không bao giờ lo bị đói, bởi vì
trong suốt cuộc hành trình dài, miệng bà chị hay
mồm cô em luôn tóp tép nhai nuốt một thứ gì đó.
Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, chuyện ăn hàng
của đờn bà con gái là điều bình thường, đáng
mừng và đáng cảm thông, đôi khi lại còn mang
cái nét duyên thầm nữa là khác.
Ông bác sĩ giải thích :
- Ở người phụ nữ, cơ thể của họ phải trải qua
nhiều biến động đặc biệt như tuổi dậy thì, ngày
MỤC LỤC

hành kinh, thời kỳ mang thai, hay cho con bú…


Một cơ thể phụ nữ tốt thường phải tiêu hao
nhiều năng lượng trong những thời kỳ ấy. Do đó,
tuy ăn ít bởi vì “nữ thực như miêu”, con gái vốn
ăn như mèo, nhưng họ cứ thèm ăn vặt suốt
ngày, nếu không muốn nói là suốt đời, chính là
để nạp đủ năng lượng cần thiết.
Và rồi ông bác sĩ đã kết luận :
- Gia đình và xã hội nên tạo điều kiện thuận lợi
để phe đờn bà con gái có thể ăn hàng một
cách...thoải mái.
Không hiểu lời kết luận này có chí lý lắm không.
Riêng phần gã, gã vẫn thích lời khuyên của câu
ca dao sau đây :
- Đi chợ thì chớ ăn quà,
Về chợ thì chớ rề rà ở trưa.
Dù ai bảo đợi bảo chờ,
Thì em nói dối con thơ em về.
MỤC LỤC

Tiếp đến, đó là khoản sửa sắc đẹp, tu bổ ngoại


hình cho bắt mắt.
Có một câu “ranh ngôn” đã bảo :
- Thượng đế cũng không phải là nhà sáng chế
hoàn hảo, bởi vì người ta đã phải lập ra nhiều
mỹ viện nhằm cải thiện phần nào các tác phẩm
do Ngài tạo nên.
Như chúng ta đã biết phe đờn bà con gái vốn
được gọi là phái đẹp. Và quả thực họ cũng đẹp
ra phết đấy chứ. Vì thế, làm đẹp phải là nghề
của các nàng.
Lại cũng một câu tuyên bố hách xì xằng nữa :
- Đờn bà con gái mà không làm đẹp thì chẳng
còn là đờn bà con gái nữa.
Với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, các
mỹ viện ngày nay mọc lên như nấm và người ta
có thể làm được nhiều chuyện :
MỤC LỤC

- Mắt một mí thì sửa thành hai cho nó tình tứ.


Miệng hô thì sửa cho gọn gàng, để khỏi phải lấy
tay che khi nở nụ cười mím chi. Mũi tẹt thì sửa
cho nó cao. Ngực lép thì sửa cho nó to. Rồi thì
cắt chỗ này, vá chỗ kia.
Chỉ cần liếc qua những hàng quảng cáo trên báo
là đã thấy mê tít thò lò, chẳng hạn :
- Tạo làn da trắng mịn sau một lần tắm sữa.
- Giảm từ một đến ba ký sau một lần điều trị.
- Làm cho bụng nhỏ, eo thon...
Nhiều bà nhiều cô ở ngoại quốc, trong thời gian
về thăm quê hương, đã tranh thủ tới các mỹ viện
để sửa chỗ này, chữa chỗ kia…bởi vì giá cả ở
Việt Nam vốn tương đối rẻ.
Dĩ nhiên chẳng ai có quyền cấm cản quí bà quí
cô làm đẹp. Thế nhưng, trong lãnh vực này cũng
cần phải lưu ý một vài điểm chính yếu :
MỤC LỤC

Chẳng hạn phải chọn những chuyên viên có tay


nghề cao, dùng những mỹ phẩm “chính qui”,
bằng không làm đẹp lại hóa thành làm xấu và
còn mang họa vào thân, như trường hợp bơm
hay độn chất silicone.
Chẳng hạn phải cân đối ngân sách trong gia
đình, đừng vì chuyện làm đẹp cho riêng mình
mà gia đình bị thiếu hụt.
Chẳng hạn phải biết mình làm đẹp cho ai và làm
đẹp như thế nào cho phù hợp với vóc dáng của
mình, bằng không sẽ bị thiên hạ cười vào mũi :
- Đen thủi đen thui cũng lượt là.
Sau đây cũng lại là tâm sự buồn của anh
chồng :
- Vợ tôi hay làm đẹp. Tôi không hề phản đối mà
trái lại còn ủng hộ hết mình. Người đàn ông nào
lại không thích vợ mình ngày càng đẹp. Tôi
không tiếc gì khi nàng mua sắm quần áo, mỹ
MỤC LỤC

phẩm, miễn là những thứ đó làm cho nàng đẹp


lên. Tôi nói thế vì nhiều khi nàng đổ rất nhiều
công sức và tiền bạc mà hiệu quả hình
như...ngược lại. Thế mới đau, mà đau nhất là
tôi, vì phải ngắm nhìn những “bản sao bị hỏng”
đó hàng ngày, hàng đêm. Vợ tôi trước đây có
mái tóc thề bỏ xõa ngang vai rất đẹp, nhưng rồi
khi cô ca sĩ nọ nổi lên, được báo chí lăng xê hết
mình, lập tức nàng cắt ngắn mái tóc ấy không
chút thương tiếc. Tôi công nhận mái tóc ấy hợp
với một số người nhưng nó hoàn toàn không
hợp với nàng. Tôi góp ý, nàng cho tôi là bảo thủ,
là độc đoán. Tóc của nàng chứ phải tóc của tôi
đâu mà có ý kiến ý cò…Một hôm nàng ra phố,
rồi về nhà với cái mũ nồi tùm hụp và một cặp
kiếng đen khiến tôi cứ tưởng là điệp viên...không
không bảy. Riết rồi tôi thấy nàng hơi xa lạ,
không còn là người mà khi mới gặp, tôi đã vui
MỤC LỤC

mừng nhận ra đó chính là nửa kia của tôi, đó


chính là chiếc xương sườn cụt của tôi.
Sau cùng, đó là khoản mua sắm.
Trong lãnh vực này, gã chả có được mấy tí kinh
nghiệm, nên bèn phải mượn đỡ những lời phát
biểu của những chiến hữu dày dạn sương gió
được đăng tải trên báo Phụ nữ Chủ nhật.
Trước hết, đức tính “dễ thương” bẩm sinh của
đờn bà con gái là khoái mua sắm, còn gọi là “hội
chứng sốp-ping”. Mấy bà mấy cô mà vào chợ,
vào siêu thị, vào “sốp”, hay đơn giản là...ghé chợ
chồm hổm bên lề đường, thì cứ như lạc vào mê
hồn trận. Thứ gì cũng hoa mắt, muốn mua,
muốn sắm.
Chợ thì ngày nào cũng đi, cũng lượn từ đầu chợ
đến cuối chợ, rồi lặc lè mang về hàng đống thức
ăn, tiêu thụ cả tuần mới hết, rồi hôm sau lại đi…
MỤC LỤC

chợ. Tuy là mua rẻ, nhưng để lâu bỏ đi phân


nửa thì cũng thành mắc.
Mấy bà mấy cô lại dễ bị dụ khị bởi chiêu “khuyến
mãi” của người bán, thành ra tiền nong trong
nhà cứ lần lượt ra đi một cách “vô tổ chức”. Tiền
ít, thì lại sa vào cái bẫy…mua trả góp. Cái gì
cũng góp khuân về nhà, thậm chí nhà mình
chưa cần đến nhưng vì hàng xóm đã có, nên
mình cũng phải mua, rồi hàng tháng ky cóp trả
không nổi, nợ nần chồng chất, vợ chồng gấu ó
nhau, mệt.
Cao cấp hơn nữa là khoản thời trang, đẹp thì có
đẹp nhưng chủ yếu là người khác ngắm, chứ
các đức ông chồng thì đã quá quen mất rồi, có
sửa mắt cắt môi hay khoác thời trang cao cấp,
thì cũng vẫn là vợ mình, chỉ lo ngân quĩ gia đình
ngày càng cạn kiệt.
MỤC LỤC

Chẳng phải các bà các cô không biết cân đối chi


tiêu, nhưng khi “máu” đã bốc lên thì không kiềm
chế được. Nạn nhân của hội chứng này là các
đức ông chồng, nhất là mấy ông thích chứng tỏ
sự ga-lăng hoặc nín nhịn mà không dám can vợ.
Nhẹ thì mất thời giờ, nặng thì hao tốn tiền bạc.
Cứ thế mà liên tục phát triển, thành thử không
dám giao cho các bà các cô quản lý ngân quỹ
gia đình nữa, rồi lặng lẽ âm thầm thành lập quỹ
riêng...ảnh hướng không tốt đến tình nghĩa vợ
chồng.
Không giao quản lý tiền bạc thì bị coi là “keo
kiệt”, là để dành cho “con nào” ? Mà giao tiền
cho các bà các cô có “máu tiêu xài vô kế hoạch”
quản lý, khác nào...giao trứng cho ác. Thật là
khó xử.
Một ông chồng khác lại cả tiếng than thở :
MỤC LỤC

- Sống với nhau, ban đầu tôi cảm thấy mình như
trẻ đi mười tuổi. Sự hồn nhiên đôi khi ngây ngô
của nàng khiến tôi phải mỉm cười một mình mỗi
khi nhớ đến. Tôi như cuốn hút tất cả tâm trí vào
nàng. Nhưng cuộc sống vợ chồng đâu thể nhìn
nhau suốt ngày là đủ, nó còn biết bao nhiêu việc
phải làm, biết bao nhiêu điều phải tính. Nàng
nay là vợ, là chủ một gia đình, dầu gia đình mới
chỉ có hai người nhưng tương lai nàng còn là mẹ
của những đứa con. Thế nhưng, không những
nàng vẫn giữ tính nhõng nhẽo, đua đòi như thời
con gái mà còn có chiều hướng gia tăng hơn,
khi nàng nắm trong tay cái túi tiền gia đình. Mỗi
khi lĩnh lương, tôi đưa hết cho nàng và lập tức
ngày hôm sau trong nhà tôi có nhiều thứ mới lạ
xuất hiện, nhất là tủ quần áo và kệ giày dép, nó
luôn luôn được nàng “cập nhật hóa” liên tục...
MỤC LỤC

Theo gã nghĩ tiền bạc là do công lao vất vả của


mọi người trong gia đình, vì thế nó phải được
tiêu dùng chung, nhằm bảo đảm một cuộc sống
ấm no, chứ không phải tiền anh, tiền em và
mạnh ai người ấy xài, nhất là xài hoang phí cho
những chuyện không đâu.
Với những nhu cầu cần thiết và chính đáng, thì
dù tốn kém bao nhiêu cũng phải chi. Còn với
những thứ xa xỉ và thừa thãi, thì một đồng một
cắc cũng không.
Nói tới đờn bà con gái là nói tới cái đẹp, tình yêu
và hạnh phúc. Nếu thế gian này không còn phe
đờn bà con gái thì cánh đờn ông con giai cũng
chẳng thiết sống nữa. Đờn bà con gái sinh
ra...tất cả. Vì thế, trên đời này ngu nhất là đi nói
xấu đờn bà con gái.
Và lúc này, gã đang dại dột phạm phải cái
ngu...tuyệt vời ấy.
MỤC LỤC

TẬT ĐỜN BÀ : GHEN

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Người ta thường nói :
- Tình yêu không biên giới.
Điều này có nghĩa là :
- Tình yêu chẳng bao giờ loại trừ một ai cả.
Tiếng sét của nó có thể giáng xuống tối tăm mặt
mũi trên người già cũng như người trẻ, đờn ông
cũng như đờn bà, không phân biệt tuổi tác, màu
da, tiếng nói và trình độ văn hóa. Chẳng thế mà
Nguyễn công Trứ, dù đã bảy mươi mí” tuổi rồi,
vẫn cứ chịu khó cưới thêm một nàng hầu trẻ
măng. Tổng cộng ông có tới mười bốn bà vợ.
Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu tuổi,
ông không ngần ngại trả lời tỉnh bơ :
- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam. Có nghĩa là
năm mươi năm trước, anh mới có hai mươi ba
tuổi hà.
MỤC LỤC

Hay như ca dao cũng đã diễn tả :


- Bà già đã tám mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng.
Tương tự như thế, gã cũng có thể nói :
- Ghen không biên giới.
Điều đó có nghĩa là :
- Phàm đã là người thì trong huyết quản ai nấy
đều mang tí máu ghen.
Thực vậy, tình yêu luôn dính liền với cái ghen,
bởi vì :
- Có yêu thì mới ghen, chứ chẳng ai vô công rồi
nghề, rỗi hơi đâu mà đi ghen cho tốn sức lao
động, cho héo hắt và quay quắt con tim, cho
mau xuống sắc người ngợm và già đi lúc nào
cũng chẳng hay.
Như vậy, một khi tình yêu đã không biên giới thì
hậu quả tất nhiên cái ghen cũng phải không biên
giới. Gã xin lượm lặt những mẩu tin trên báo
MỤC LỤC

“Công an Thành phố” để đưa ra những chứng


tích cụ thể.
Trước hết, cái ghen không phân biệt tuổi tác. Có
những cụ ông cụ bà gần đất xa trời thế mà cũng
ghen lồng ghen lộn. Tại Mỹ tho, cách đây không
lâu, người ta phát hiện một xác phụ nữ trôi sông.
Qua điều tra khám nghiệm, thì được biết nạn
nhân là bà Trần thị Ngân, 56 tuổi và thủ phạm
không ai khác chính là chồng bà, ông Ngô văn
Lộc, 66 tuổi. Nguyên nhân chỉ vì ông cụ nghi bà
cụ có “bạn trai”, nên sau khi đã cãi nhau một
trận chí chóe, máu ghen bốc lên, ông cụ dùng
cây phang bà cụ tới tấp cho đến chết, rồi quăng
xác xuống sông hầu phi tang.
Tiếp đến, cái ghen không phân biệt giới tính, có
nghĩa là đờn ông cũng ghen ra phết. Anh Hoàng
Quế là một người chồng hiền lành, rất yêu
MỤC LỤC

thương vợ, nhưng cuối cùng chỉ vì ghen đã


phạm tội giết vợ. Câu chuyện xảy ra như sau :
Nguyễn thị Diễm là cô gái xinh đẹp. Hầu như cả
đám trai làng đều săn đón cô, trong đó có Hoàng
Quế. Quế thầm yêu nhớ trộm Diễm đến mức
quên ăn quên ngủ, thân hình cứ rạc hẳn đi. Bởi
tình yêu của anh ta là tự trái tim, lại nữa anh ta
ghen với tất cả đám trai làng. Diễm đối với anh
nào cũng vậy. Mắt cô lúng liếng đung đưa. Cô
cười nói, đùa vui với mọi chàng. Thế nhưng, cái
đẹp ấy, cái duyên ấy cùng với sự cởi mở của
Diễm càng khiến Quế phát sốt phát rét lên. Anh
ta chỉ muốn Diễm là của riêng mình.
Thế rồi hai người lấy nhau. Tuy đã có chồng với
một dứa con, nhưng Diễm vẫn như ngày xưa.
Đôi mắt vẫn lúng liếng đung đưa. Chính vì thế,
sau một thời gian dài tính toán, anh ta đã bỏ quê
nhà ở Nghệ an, đưa vợ con vào Đắc lắc sinh
MỤC LỤC

sống. Anh ta muốn tách Diễm ra khỏi đám trai


làng. Sự ghen tuông bóng gió đã khiến anh ta
liều lĩnh chấp nhận cuộc đời phiêu bạt.
Ở quê mới, do cật lực lao động, anh ta đã tạo
lập được một cơ ngơi tạm gọi là ổn định với nhà
cửa và vườn cà phê xanh tốt. Thế nhưng, đôi
mắt của người vợ anh yêu thì chẳng thay đổi,
vẫn lúng liếng đung đưa. Vì thế, anh ta ghen, rồi
hình như những cơn ghen ấy trở thành một căn
bệnh. Anh đánh vợ và cuối cùng đã giết vợ, khi
không còn làm chủ được cơn ghen của mình
nữa.
Sau cùng, cái ghen không phân biệt lý do. Nếu
vẻ đẹp được diễn tả như là con cóc cái dưới mắt
con cóc đực, là bởi vì tình yêu có những lý lẽ
chủ quan của nó, khiến thiên hạ nhiều lúc phải
bưng miệng cười :
- Lỗ mũi em mười tám gánh lông,
MỤC LỤC

Chồng yêu chồng bảo : râu rồng trời cho.


Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu chồng bảo : ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu chồng bảo : về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu chồng bảo : hoa thơm rắc đầu.
Cũng vậy, cái ghen có những lý do riêng của nó
mà nhiều khi đến quỷ thần cũng không lường
nổi.
Chuyện rằng : chị vợ kia chạy Honda tới gần
ngã tư Bảy Hiền, bất ngờ bị tên cướp giật mất
sợi dây chuyền. Về nhà chị kể lại cho anh chồng
nghe diễn biến của vụ cướp với lời đe dọa :
- Lần sau nó mà còn cướp kiểu đó, em sẽ đuổi
theo giết chết.
Thương vợ, anh chồng kiểm tra quanh cổ thấy
nhiều vết thương như bị cào, bèn hỏi :
MỤC LỤC

- Hình như nó để tay ở cổ em hơi lâu ?


Chị vợ bẽn lẽn trả lời :
- Đầu tiên nó sờ nhẹ vào cổ, em tưởng nó chọc
ghẹo nên...để yên, không ngờ nó lại cào giật...
Nghe vậy, anh chồng bèn nổi ghen đùng đùng,
giáng cho chị vợ một cái bạt tai nổ đom đóm,
khiến chị vợ khóc hết nước mắt.
Chuyện khác kể lại : Anh chồng nọ đi lính. Chị
vợ là giáo viên. Thế nhưng, từ khi cậu quí tử thứ
hai ra đời, anh chồng chẳng quan tâm tới mà
con nghi ngờ vợ mình không chung thủy với hai
lý do :
- Một là thằng bé sinh thiếu tháng là điều không
thể chấp nhận. Hai là hình như thằng bé giống
một ai đó trong xóm.
Vì thế, anh chồng luôn cau có với chị vợ cũng
như không hề bồng bế và chăm sóc thằng bé.
MỤC LỤC

Dù chị vợ hết lời phân trần, anh ta vẫn cứ khăng


khăng :
- Nếu nó là con tui thì tại sao lại sinh sớm hơn
một tháng ? Vậy là cô đã có bầu trong lúc tôi
vắng nhà.
Mới đây, trong khi hai vợ chồng cự lộn to tiếng,
thì bà chị chồng, sau khi hiểu rõ nguyên nhân,
bèn cười lên như nắc nẻ và giải thích :
- Mọi việc đều do tôi cả. Ngày cô ấy sinh, tôi đi
làm giấy cho cháu. Chỉ vì quen nhớ ngày theo
âm lịch, nên đã khai như vậy. Thay vì ngày
8.1.1988 theo dương lịch mới đúng, thì tôi lại ghi
ngày 1.12.1987 theo âm lịch, nên mới ra nông
nỗi này.
Mặc dù ghen không biên giới, nhưng xem ra nó
lại là cái nghề của quí bà quí cô. Bởi vì, người ta
thường bảo :
- Nơi đờn bà con gái, thì lái tim to hơn cái đầu.
MỤC LỤC

Có nghĩa là đờn bà con gái sống bằng tình yêu


nhiều hơn sống bằng suy luận và như vậy tình
yêu chi phối toàn bộ cuộc đời. Với họ, tình yêu là
tất cả. Một khi đã yêu nhiều, thì ắt hẵn cũng sẽ
ghen nhiều, đó là lẽ đương nhiên. Chả thế mà
khi bị tra hỏi, Hoạn Thư đã trả lời :
- Rằng tôi chút phận đờn bà,
Ghen tương thì cũng người ta thường tình.
Hay như ca dao cũng đã nói :
- Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng.
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Khi anh chồng lem nhem trong vấn đề tình cảm,
có máu băm nhăm, nay tán cô này, mai tán cô
kia, hay có tí bồ nhí để hú hí một mình, thì chị vợ
ghen là điều dễ hiểu.
MỤC LỤC

Đằng này nhiều bà nhiều cô có tật ghen bóng


ghen gió, theo kiểu đánh phủ đầu, bắt nhầm còn
hơn thả nhầm. Cứ việc ghen cái đã để dằn mặt
anh chồng. Phòng bệnh còn hơn chữa bệnh kia
mà.Vì thế, họ hay ghen lung tung.
Lãnh vực đầu tiên thường gặp phải, đó là ghen
với dĩ vãng. Hình như có lần gã đã kể lại mẩu
chuyện anh chàng kia, sau tuần trăng mật,
chẳng may bị chị vợ khám phá ra mấy bức thư
tình kẹt trong góc tủ từ đời ông bành tổ, mà anh
chàng đã quên béng đi mất, không chịu thu dọn
sạch sẽ trước khi rước cô nàng về nhà làm vợ.
Chị ta đã đọc tất cả không sót một chữ và sau
này cứ mỗi lần có dịp lại lôi ra, không để “dằn
vặt” thì cũng để “dằn mặt” cho bõ ghét.
Chẳng hạn đi ngoài phố, anh chồng lỡ dại ngoái
nhìn một người nào đó trông quen quen thì liền
bị chị vợ nhỏ nhẹ kê tủ đứng :
MỤC LỤC

- Giống chị ấy quá hở anh.


Khi anh chồng khen chị vợ cao và trắng, thì liền
bị chị vợ trề môi, chu mỏ hờn dỗi :
- May mà tôi giống chị ấy ở chỗ cao và trắng,
nên chi anh mới lấy, chứ không thì... dễ gì.
Một anh chồng khác còn lâm vào tình trạng giở
mếu giở khóc, đáng thương hơn rất nhiều. Câu
chuyện đại khái như thế này :
Với bản tính hiền lành và trung thực, anh chồng,
trong những phút giây thân mật, quyết định kể
lại dĩ vãng cho vợ nghe vì nghĩ rằng với người
mình đã yêu thương, đầu ấp tay gối thì không
nên giấu diếm điều gì. Hơn thế nữa, nếu biết
được, hẳn chị vợ sẽ càng quí mến anh hơn bởi
tấm lòng chân thật của mình.
Nào ngờ, khác với những gì đã nghĩ, câu
chuyện ngày xưa của anh chồng đã gây một cú
sốc cho chị vợ. Chị cho rằng anh ta giả dối, sống
MỤC LỤC

bên nhau cứ tưởng anh ta chung thủy, thế mà


chuyện “tày trời” ấy bây giờ mới công khai tiết lộ,
thì ra trong lòng anh ta vẫn còn bóng dáng của
người đàn bà đó. Điều này làm cho chị vợ không
thể nào chịu nổi. Chị muốn trong trái tim anh
chồng chỉ có một mình chị mà thôi. Chị kết án
anh ta là đã nhiều lần ngoại tình trong tư tưởng
với người tình đầu mà chẳng chăm sóc gì đến
chị và các con. Tóm lại, từ lâu chị đã sai lầm khi
lấy phải một anh chồng không chung thủy.
Để cho anh chồng không còn thời giờ nghĩ đến
bất kỳ ai, chị vợ nghĩ ra cách quản lý anh chồng
thật chặt chẽ. Anh chồng ở công sở, thì chị vợ
gọi điện thoại đến để kiểm tra. Đi làm về trễ năm
mười phút, liền bị chị ghen tuông cằn nhằn. Anh
chồng mất dần những mối quan hệ bạn bè, bởi
đi đâu thì chị vợ cũng kè kè một bên, khiến anh
MỤC LỤC

chồng cảm thấy cuộc sống ngột ngạt như địa


ngục.
Ngày nọ, sau nhiều lần lén lút theo dõi, chị vợ
thấy chồng đang đi cùng một cô nhân viên trẻ,
không còn đủ bình tĩnh, thế là a lê hấp, chị vợ
lao đến chặn xe cô gái lại rồi gào thét :
- Thì ra là mày. Tưởng mày ở đâu không ngờ lại
ở cạnh chồng bà.
Cô gái cảm thấy mình bị xúc phạm đã bật khóc,
mặc cho anh chồng giải thích, chị vợ cũng
chẳng nghe. May mà chị vợ chưa có những
hành động dại dột.
Thậm chí, có chị vợ còn ghen với cả
người...điên. Chuyện rằng : Kim Thanh là một cô
gái mắc chứng hoang tưởng và đang được điều
trị tại gia. Suốt ngày Kim Thanh ngồi và tưởng
tượng ra những chuyện động trời động đất. Và
MỤC LỤC

lần này, Kim Thanh hướng tới Thu Cúc, một


người hàng xóm.
Đầu tiên Kim Thanh nói rằng mình được báo
mộng cho hay vị hôn phu tương lai của cô chính
là anh Tuấn, chồng của Thu Cúc. Sau đó, Kim
Thanh rình rập, hễ Thu Cúc bước ra khỏi nhà,
lập tức liền bị Kim Thanh theo sau bén gót và
tuôn ra những lời nói dễ làm cho các bà vợ nóng
đầu, chẳng hạn :
- Hôm nay, em mới gặp chồng chị. Anh ấy khen
em đẹp...
Ban đầu Thu Cúc làm ngơ và tự nhủ :
- Chấp nhất với kẻ điên kẻ khùng làm gì cho
mệt,
Thế nhưng, ngày này qua ngày khác cứ phải
nghe những lời khó nghe của Kim Thanh, khiến
Thu Cúc không sao giữ được sự bình tĩnh. Chị
trở nên nóng nảy, dễ nổi cáu và cảm thấy buồn
MỤC LỤC

bã không chịu nổi. Cuộc sống gia đình như bị


xào xáo hẳn lên. Đã vậy, Thu Cúc còn nghe xì
xào những lời bàn tán của nhiều kẻ lắm chuyện :
- Con Thanh nó điên mà khôn lắm. Mấy bữa nay
tao thấy nó cứ níu thằng Tuấn hoài, coi bộ tình
tứ lắm. Coi chừng mất chồng như chơi đó em...
Cuối cùng, vào ngày 5.12.1998, Thu Cúc rủ Kim
Thanh tới nhà và đãi một ly đậu đỏ có bỏ...thuốc
độc, khiến Kim Thanh phải chết.
Đã yêu thì phải ghen. Tuy nhiên “ghen tương thì
cũng dăm bảy đường”. Có thứ ghen sáng suốt
thì cũng có thứ ghen mù quáng. Có thứ ghen
lành mạnh, thì cũng có thứ ghen bệnh hoạn. Có
thứ ghen chỉ để dành quyền sở hữu chứ không
phải để biểu lộ yêu thương. Có thứ ghen không
xuất phát từ sự thật mà lại xuất phát từ tính đa
nghi như Tào Tháo, để rồi chuốc lấy những hậu
quả tai hại, đó là gia đình bị tan tác và bản thân
MỤC LỤC

bị pháp luật hỏi thăm. Điều cần thiết là phải ghen


cho đúng người, đúng nơi và đúng cách, biết lấy
nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường, bằng
không thì ghen quá chỉ hóa dại mà thôi.
Từ ngày mới quen nhau, chị nàng rắp tâm chiếm
đoạt cho bằng được trái tim anh chàng. Chị
nàng không cho anh chàng giao thiệp với bất cứ
với cô gái nào. Vì quá thương, anh chàng phải
cúi đầu tuân theo vô điều kiện.
Thế rồi họ lấy nhau. Máu Hoạn Thư trong chị
nàng ngày càng sôi sục quá quắt. Chị không cho
anh mời bất cứ ai là phái nữ đến dự tiệc cưới.
Vài anh bạn trai dắt theo người yêu đã làm cho
chị hờn ghen, khó chịu. Mỗi khi chú rể lại gần
bàn tiệc có nhiều bóng hồng xinh đẹp, chị lại
trừng mắt lên rồi dùng thân mình che lấp anh đi.
Những ngày làm chồng của anh trôi qua lạt lẽo
với “luật lệ nghiệt ngã” của cô vợ trẻ. Bất cứ anh
MỤC LỤC

đi đâu, chị cũng đòi theo cho bằng được. Chị lại
còn muốn anh phải tuyệt giao với tất cả bè bạn,
nam cũng như nữ. Lúc đầu anh chồng còn chấp
nhận, nhưng rồi anh “ngộ” ra rằng “lấy vợ như rợ
buộc chân” nên bắt đầu phản ứng. Thế là chị vợ
chanh chua giẫy lên đành đạch, kêu khóc rầm
trời cho rằng anh đã...bội bạc.
Cuối cùng vở bi hài kịch theo dõi chồng đã xảy
ra. Vào một buổi sáng, chị vợ bắt gặp anh chồng
của mình chở cô tài vụ đi thanh toán tiền cho
hãng. Lập tức chị nhào ra cản đừờng, la lối, tìm
cách hành hung người con gái mà chị cho là tình
địch. Anh chồng mất mặt, cảm thấy nhục nhã.
Do không kiềm chế được, đã đánh vợ giữa phố
đông người qua. Chị vợ gào thét rồi viết đơn
đòi...ly dị.
Người viết mẫu tin này đã bình luận như sau :
MỤC LỤC

Khi đã là của nhau rồi, thì người ta có thể chiếm


hữu nhau như một thứ tài sản mà quên mất rằng
mỗi người còn có một cách sống, và một tự do
riêng. Chính vì suy nghĩ sai lạc như vậy, nên
một số người đã ra sức “nô lệ hóa” đối tượng,
biến cuộc sống gia đình thành một thứ tù ngục
ngột ngạt, lầm tưởng đó là sự quan tâm chăm
sóc lẫn nhau. Ghen quá hóa dại.
Thứ ghen bệnh hoạn và mù quáng này trước hết
được biểu lộ qua việc rình rập và theo dõi
chồng. Thậm chí có bà vợ còn ngửi áo chồng
trước khi giặt để phát hiện xem có mùi gì khác lạ
hay không, theo đúng bài bổn và kinh nghiệm
của các cụ ta ngày xưa :
- Chim khuyên ăn trái nhãn lồng,
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.
Tiếp đến là ban hành “luật bế môn tỏa cảng”.
Cấm tiệt chồng không được liên hệ với bất kỳ ai,
MỤC LỤC

kể cả bạn trai và nhất là bạn gái. Một người


cháu đã kể lại nỗi khổ tâm của ông chú như
sau :
“...Trong các mối quan hệ, chú tôi luôn giữ một
khoảng cách nhất định. Chú rất thương vợ
thương con. Vậy mà thím nào có hiểu, luôn mặt
nặng mày nhẹ mỗi khi có cô gái nào điện thoại
tìm chú. Có hôm rõ ràng chú ở nhà nhưng thím
không gọi và nếu có ai để lại lời nhắn thì thím
cũng thường hay quên. Quá đáng hơn, mỗi lần
chú tôi có chuyện phải đi thì y như rằng thím
cũng tìm cách gác lại công việc để theo dõi
chồng. Bạn bè chú tôi thấy thế bất mãn thay cho
chú...”
Sau cùng, cái ghen được bùng nổ bằng những
hành động kinh thiên động địa và đáng sợ,
chẳng hạn như đánh đấm, rạch mặt, xé quần xé
áo, bỏ thuốc độc, tạt a-xít...để tiêu diệt tình địch.
MỤC LỤC

Những hành động dã man này khó mà qua mặt


pháp luật và thường được kết thúc bằng những
tháng ngày tù tội, khiến cho con cái phải nheo
nhóc.
Trong một bài viết, linh mục Piô Ngô Phúc Hậu
đã phân tích về nguyên nhân dẫn tới cái ghen
nơi đờn bà và đờn ông như sau :
“Trời sinh ra con gái để làm mẹ, muốn làm mẹ
thì phải có chồng. Muốn chu toàn bổn phận làm
mẹ để có con ngoan con giỏi, thì phải có người
chồng biết yêu thương và đùm bọc vợ con.
Người chồng là bóng mát để người mẹ đùm bọc
đứa con. Người chồng phải chung thủy để
người vợ trở thành người mẹ lý tưởng. Khi
người chồng không còn chung thủy nũa, thì sự
nghiệp của người phụ nữ bị tuyên bố phá sản và
định mệnh của đứa con bị đe dọa. Vì thế, sau
khi trao cho phụ nữ sứ mạng làm mẹ, thì
MỤC LỤC

Thượng Đế lại trao cho họ một vũ khí để tự vệ.


Họ bảo vệ bản thân và nhất là bảo vệ hạnh phúc
của đứa con. Vũ khí ấy là ghen. Ghen để giữ lấy
chồng cho mình và giữ lấy cha cho đứa con.
Đàn ông cũng ghen, nhưng cái ghen của đàn
ông chỉ là nỗi giận để bảo vệ danh dự. Bị cắm
sừng đối với đàn ông là một sự xúc phạm. Bởi
thế, khi tình địch của đàn ông là một đấng nam
nhi cao cường, thì cơn ghen chỉ nổ lép bép như
một tép pháo tiểu. Nếu tình địch chỉ là một tên
tép riu, thì cơn ghen nổ đùng như một quả pháo
đại. Đàn ông ghen nhiều ít tùy thuộc danh dự bị
xúc phạm nhiều hay ít. Còn đàn bà ghen thì
không bao giờ có liều lượng, vì khi đàn bà bị
phản bội thì số phận của họ và con cái họ đổ vỡ
tan tành.
Hãy ghen và hãy đánh ghen để dành lại những
gì đã mất, để xây dựng những gì đã đổ nát.
MỤC LỤC

Nhưng phải đánh ghen cách nào để chiến thắng


và chiến thắng giòn giã, nghĩa là đưa chồng trở
về nguyên vẹn, lại biết thương vợ và lại biết lo
cho con cái. Người chồng trở về nguyên vẹn là
người không bị mất mặt đối với láng giềng,
không mặc cảm tội lỗi đối với gia đình. Đối với
đàn ông thì danh dự là lớn. Ghen mà chửi thô
tục như thế là phản chiến thuật, là làm hổ ngươi
chồng. Nếu chồng biết hối hận trở về, hoặc
người kia vì xấu hổ quá mà nhả chồng ra, thì
ngày trở về chỉ là ngày sắp sửa ra đi nữa thôi...
Người đàn ông không thể chịu nhục.”
Sau đó Linh mục đã kể lại một chuyện đánh
ghen như sau :
“Hắn làm lớn, có địa vị, có tiền và có uy tín. Vợ
hiền, con ngoan. Thế là sướng quá rồi. Bỗng
dưng sinh tật... Bạn của vợ hớt hải báo tin :
MỤC LỤC

- Chồng mày cặp với con nhỏ nào đó, mày biết
không ?
- Không có đâu. Anh ấy đàng hoàng lắm.
- Mày ngu quá à ! Đàn ông mà không kềm thì...
sớm muộn cũng có vợ bé, vợ mọn. Mày không
tin thì chiều thứ bảy đến nhà tao, tao chỉ điểm
cho.
Chiều thứ bảy kế đó hai bà bạn ngồi uống nước
trà bên ban công của một biệt thự sang trọng,
ngó xuống một ngã tư sầm uất. Bỗng một bà chỉ
trỏ :
- Chồng mày kìa... Nó đó.
Bà khách lẳng lặng đi xuống cầu thang, vừa đi
vừa lâm râm cầu nguyện. Bà băng qua đường,
tiến thẳng đến trước mặt ông chồng đang vuốt
ve cô bồ.
- Con chào ông ạ! Con chào bà ạ! Lúc nào ông
bà rảnh, xin mời đến nhà con chơi...
MỤC LỤC

Sau đó bà lên taxi biến mất vào dòng người, để


lại đôi tình nhân sượng sùng đến tội nghiệp.
Đêm hôm ấy, ông công chức cao quí thức trắng.
Sáng thứ hai đi làm, thú tội với ông bạn nối khố :
- Bà xã tao chơi nước cờ cao quá. Đêm hôm ấy,
tao quì bên giường xin lỗi bà. Tao quì lâu còn
hơn chầu Thánh Thể. Tao thề với mày là từ nay
xin chừa.
Để kết luận, gã xin trở lại với câu ca dao :
- Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Tuy nhiên, chuyện đời không êm ru bà rù, trái lại
luôn có những sự tréo cẳng ngỗng, bởi vì trong
thực tế, gã đã ghi nhận được hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất đó là tuy ớt vẫn cay,
nhưng có những người, chẳng hạn như quí vị
gốc gác ở Huế, lại ăn ớt ngọt như ăn chuối.
Cũng vậy, có những anh chồng cố đấm ăn xôi,
MỤC LỤC

hay áp dụng chiến thuật “nhất lý nhì lì tam ì tứ


ẩu”, cứ phớt tỉnh Ăng lê, thành thử cái ghen của
chị vợ không còn “xi nhê” và không mấy “ép
phê”, tương tự uống hoài một thứ thuốc thành
thử hóa lờn.
Trường hợp thứ hai đó là có những loại ớt
chẳng cay tí nào. Cũng vậy, có những chị vợ
mang dòng máu lạnh, chẳng hề ghen tương một
ly ông cụ nào sốt, mặc cho anh chồng ba hoa
chích chòe, vùng vẫy mãi cũng chán, để rồi cuối
cùng đành phải tung cánh chim tìm về tổ ấm. Gã
xin ghi lại tâm sự buồn của một anh chồng có
chị vợ hổng biết ghen, được đăng trên báo Phụ
nữ Chủ nhật :
“Khi chưa có mảnh tình vắt vai, nhìn những cặp
tình nhân nũng nịu, giận giận hờn hờn, ghen
bóng ghen gió, tôi thấy... ôi hương vị tình yêu
giống như mắm muối, gia vị làm tăng chất đậm
MỤC LỤC

đà cho tô phở Hà Nội, mới nghĩ thôi đã phát


thèm. Tôi hy vọng, mơ mộng sau này gặp
“người ấy” cũng sẽ được... ghen như có câu hát
rằng :
- Có yêu mới khổ vì ghen,
Có ghen con mắt mới đổ ghèn.
Chứ cuộc sống cứ phẳng lặng như gió mùa thu
thì chán chết, miễn đừng ghen kiểu Hoạn Thư
có mà...tắt thở. Nhưng ông Trời đúng chỉ trao
những gì con người...ghét, còn thích thì ổng sức
mấy mà trao, thành ra tôi đã lấy phải bà vợ hổng
biết ghen.
Ấm ức mãi, tôi phải kiếm chuyện cho nàng ghen
mới được, để vui cửa vui nhà í mà và “hãnh
diện” vì được vợ ghen chứ, phải không quí vị
đờn ông ?
Một hôm tôi cố tình đi nhậu với bạn bè đến tận
khuya, chuyện động trời tôi chưa từng thể hiện
MỤC LỤC

bao giờ. Chắc mẩm phen này mò về sẽ “được”


nàng làm mình làm mẩy, ngắt véo om sòm. Tôi
rón rén bước nhẹ vào nhà. Nhưng sao không
thấy nàng đâu cả ? À chắc nàng đang nằm trong
phòng...khóc nức nở. Đúng rồi, nàng nằm trên
giường quay vào vách, nhưng nàng không khóc
mà đang ngáy...khò khò. Công lao tôi diễn kịch,
giờ chẳng ai xem cả. Sáng ra, nàng còn hỏi :
- Về hồi nào vậy?
Tức muốn chết đi được.
Không chịu bỏ cuộc, lần sau tôi cũng đi nhậu
nhưng về sớm hơn, trước đó tôi nhờ cô bạn
cùng phòng ấn nguyên dấu son trên vai áo. Về
nhà, tôi giả nai chìa dấu son cho nàng thấy.
Không chút lay động, nàng còn phán một câu
xanh rờn :
- Anh giặt đồ, chứ đâu phải em mà sợ.
MỤC LỤC

Trời ơi, quả là hết thuốc chữa. Nhưng càng tức


tối, tôi càng nghĩ ra cách độc chiêu hơn. Thế là
tôi viết về mối tình của thằng bạn, rất thơ mộng,
lãng mạn rằng : trước khi lấy vợ, ngày xưa đã
yêu một người say đắm, nhưng gặp nhiều trở
ngại nên phải chia tay, giờ tuy có vợ, nhưng tình
yêu vẫn dành trọn vẹn cho người tình cũ, vợ
không là...cái đinh gì hết. Và tôi ký tên mình.
Xong xuôi, gửi cho báo.
Nhờ ăn ngay ở lành, hay văn chương cũng có
tầm cỡ, bài viết của tôi hiện diện chình ình trên
trang báo. Tôi vội vàng trình cho nàng xem.
Nàng đọc, tôi chờ đợi từng thay đổi trên nét mặt
nàng : không thấy gì hết.
Bỗng nàng buông tờ báo xuống. Rồi, lần này
“chăm phần chăm” đã kích thích được bản năng
ghen của nàng. Nhưng nàng không bù lu bù loa
như tôi nghĩ, mà nàng cười và hỏi tôi :
MỤC LỤC

- Anh viết bài này có nhuận bút không ? Có thì


lĩnh về đưa cho em hết nghen...cấm bỏ túi riêng.
Đến nước này, tôi muốn kêu trời mà kêu chẳng
được tiếng nào. Vợ tôi không hề biết ghen hay
tôi tuyệt vời quá nên nàng...thèm vào ghen ?
Hổng dám đâu. Tôi hỏi :
- Đọc xong lời thú tội động trời đó, sao em không
ghen ?
Nàng trừng mắt một cái khiến tôi điếng hồn, may
mà nàng chưa tru tréo, nhưng đã làm cho tôi
một tăng :
- Anh làm như em là...rôbô không bằng, cái bài
anh viết mới đọc em biết ngay là của bạn anh,
hồi đó anh đã kể cho em nghe rồi, hổng nhớ hả.
Ghen quá thì chết, mà không ghen thì cũng
buồn. Vậy phải ghen tí ti, nhưng ghen một cách
lành mạnh và sáng suốt, để tình yêu thêm đậm
MỤC LỤC

đà khó quên vì đã được nêm mắm muối, hành


tỏi...
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

RÁN SÀNH RA MỠ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Đang mải miết suy gẫm về những thói hư tật xấu
của đờn ông lẫn đờn bà, của con giai lẫn con
gái, thì “xếp nhớn”, tức là cụ chủ nhiệm khả
kính, bỗng “phôn” và ra lệnh cho gã :
- Chú mày liệu viết cho một mẩu về cái tính keo
kiệt, hà tiện, bủn xỉn của thiên hạ đi nhé.
Gã bèn đoán già đoán non :
- Hẳn rằng lúc này xếp nhớn bị “bà cả đọi” thăm
viếng, đầu vô thì ít mà đầu ra thì lại nhiều. Toát
mồ hôi hột khi nghĩ tới những khoản phải chi,
mà túi tiền thì đã cạn.
Thậm chí, gã còn phóng đại tô màu cho mê ly
rùng rợn :
- Hay là xếp nhớn nhà ta định kêu gọi sự giúp
đỡ của bá tánh, nhưng bị bá tánh từ chối, thành
thử hận đời đen bạc, bèn nhờ gã chửi toáng lên
MỤC LỤC

một trận cho “hạ hỏa”...Thôi thì vâng lời trọng


hơn của lễ, bèn phải cặm cụi viết, chứ biết sao
bây giờ.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều biết giá trị
của đồng tiền :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân.
Một khi đã biết được giá trị của nó là như thế,
nên mọi người, bất luận nam phụ lão ấu, đều
thích tiền. Từ chỗ thích tiền tới chỗ tham tiền chỉ
cách nhau có tí xíu.
Tại một nước Hồi giáo, người đàn ông nọ bị kết
án tử hình vì đã lấy trộm thức ăn của kẻ
khác.Trước khi bị treo cổ, theo thông lệ, anh ta
MỤC LỤC

được phép xin nhà vua ban cho một ân huệ. Và


anh ta đã kêu lên :
- Xin bệ hạ cho thần được trồng một cây táo. Chỉ
trong một đêm mà thôi, hạt giống sẽ nảy mần,
đâm bông và kết trái ngay lập tức, vì đó là bí
quyết gia truyền.
Nhà vua chấp thuận. Đúng giờ đã định, trước
mặt nhà vua và bá quan văn võ, anh ta đào một
cái lỗ nhỏ và nói :
- Chỉ người nào chưa hề ăn trộm, mới có thể
gieo hạt giống này được. Vì đã từng lấy cắp,
nên tôi không thể...
Nhà vua tin lời anh ta, bèn quay sang nhìn quan
tể tướng. Sau một lúc do dự, quan tể tướng bèn
thưa :
- Tâu bệ hạ, thần nhớ lại lúc còn niên thiếu cũng
có lần lấy cắp của người khác, nên thần không
thể...
MỤC LỤC

Nhà vua thầm nghĩ :


- Ta sẽ nhờ viên thủ kho vốn nổi tiếng thanh
liêm, không tham nhũng hối lộ.
Nhưng viên thủ kho cũng khiêm tốn từ chối vì đã
có lần thụt két và gian lận trong tiền bạc.
Không tìm được người nào, nhà vua bèn đứng
dậy cầm hạt táo đến bỏ vào chiếc lỗ, nhưng
bỗng sực nhớ ra rằng mình đã có lần đánh cắp
báu vật của vua cha.
Lúc bấy giờ tên tử tội mới chua xót thốt lên :
- Các ngài là những kẻ giàu sang, quyền cao
chức trọng, chẳng hề thiếu thốn điều chi, thế mà
cũng đã hơn một lần ăn cắp. Còn tôi, một kẻ
khốn khổ, chỉ vì mượn đỡ thức ăn trong cơn đói
thì lại bị kết án treo cổ. Chẳng công bằng chút
nào.
Thậm chí, ngay cả quí vị con nít cũng rất thích
và rất tham tiền.
MỤC LỤC

Ngày nọ, một chú nhóc bị kẹt cả bàn tay trong


chiếc bình cổ. Trước khi đập bể chiếc bình quí
giá ấy, ông bố nói với chú nhóc :
- Con hãy thử lần cuối bằng cách duỗi thẳng các
ngón tay ra và rút lên.
Nhưng chú nhóc trả lời :
- Nếu duỗi thẳng các ngón tay ra thì đồng tiền
con đang cầm sẽ rơi mất sao ?
Điều oái oăm thay, đó là lòng tham của con
người thì dường như không có đáy, chẳng bao
giờ được no thỏa.
Tên đầy tớ được ông chủ thương cho ở trong
một ngôi nhà đẹp đẽ, có vườn hoa bao quanh.
Sau một tháng đi vắng, khi trở về ông thầm nghĩ
người đầy tớ sẽ sung sướng và biết ơn ông. Thế
nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược. Tên đầy tớ
lúc nào cũng nhăn nhó như bực bội điều chi.
Ngạc nhiên, ông chủ bèn hỏi :
MỤC LỤC

- Anh không cảm thấy sung sướng khi có đủ mọi


sự hay sao ?
Tên đầy tớ trả lời :
- Làm sao tôi sung sướng cho được ? Ông bảo
là tôi có đủ mọi sự ư ? Không đâu. Nhà bên
cạnh có một con chim hoàng yến. Tôi muốn mà
chẳng được. Tiếng hót của nó ngày càng làm
cho tôi khổ tâm.
Thật đúng như tục ngữ đã diễn tả :
- Đứng núi này trông núi nọ.
- Được voi đòi tiên.
Đã thích tiền và tham tiền thì phải làm thế nào
cho có và có nhiều tiền. Muốn được như vậy,
người ta phải nai lưng ra mà kiếm tiền.
Có người kiếm tiền một cách chân chính bằng
sức lao động cật lực của mình. Những người
này thường nghèo và chẳng có được mấy tí.
Thế nhưng, lắm kẻ lại kiếm tiền một cách bất
MỤC LỤC

chính bằng mọi thủ đoạn như ăn trộm, ăn cắp,


ăn cướp, ăn gian, ăn hối lộ... Những kẻ này
thường giàu và phất lên trông thấy.
Một khi đã có tiền,thì phải biết dùng tiền. Trong
phạm vi tiêu tiền, gã xin ghi nhận hai thái cực.
Thái cực thứ nhất đó là tiêu tiền một cách hoang
phí, theo kiểu :
- Vung tay quá trán.
- Bóc ngắn cắn dài.
- Con nhà lính, tính nhà quan.
Nếu thái cực này cứ ø liên tục phát triển thì
chẳng mấy chốc mà đi đoong sự nghiệp và trở
thành dân khố rách áo ôm.
Thái cực thứ hai đó là tiêu tiền một cách keo
kiệt, bủn xỉn, vốn được người đời gọi là hà tiện.
Và đây chính là điều gã xin bàn đến. Vậy chân
dung những kẻ hà tiện là như thế nào ?
MỤC LỤC

Cũng như bao người khác, họ là những kẻ thích


tiền và tham tiền, nhưng lại không dám xài tiền
và tiêu tiền, nếu có thì cũng rất bủn xỉn và nhỏ
giọt nhưng trong lòng lại tiếc hùi hụi.
Tục ngữ Việt Nam đã diễn tả họ là những kẻ :
- Rán sành ra mỡ.
- Vắt cù chày ra nước.
- Đãi cứt sáo lấy hạt đa,
Đãi cứt gà mót hạt tấm.
- Keo cút người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyên thở những hơi đồng.
Họ tưởng rằng mình làm chủ tiền bạc, nhưng
trái lại, chính tiền bạc đã làm chủ họ. Một ông
chủ thật hà khắc.
Họ là những kẻ chỉ có đầu vô mà không có đầu
ra. Cố gắng tích lũy mà không dám tiêu xài, dù
cho những nhu cầu chính đáng và cần thiết. Cái
MỤC LỤC

khoái duy nhất của họ là được ngồi đếm tiền và


thấy túi tiền của mình mỗi ngày một căng phồng.
Có một ông nhà giàu nhưng rất keo kiệt. Ông đã
xây cho mình một căn phòng bí mật để cất giấu
tiền. Hằng đêm một mình ông lẻn xuống, mắt
sáng rực khi ngồi đếm những xấp tiền mới tinh.
Ông đưa lên mũi, hít hà và đê mê thích thú, như
say thuốc lào hay “phê”... sì ke vậy. Rủi thay
hôm ấy, ông vội vã đóng sập cửa nhưng lại để
quên chìa khóa ở ngoài. Ông gào thét song
chẳng ai nghe thấy. Cuối cùng, ông đã chết thối
giữa những đồng tiền của mình.
Hình ảnh hằng đêm ông ngồi lặng lẽ đếm tiền đã
nói lên một sự thật :
- Mũi kẻ hà tiện có tài chịu đựng nổi mùi hôi tanh
của tiền bạc, giống như mũi của người nghèo
khổ có tài chịu đựng nổi mùi hôi thối của rác
rưởi.
MỤC LỤC

Thói hà tiện và keo kiệt này lại thường gia tăng


theo tuổi tác, như một câu danh ngôn đã bảo :
- Khi các tật xấu khác xem ra đã già, thì thói hà
tiện và keo kiệt vẫn cứ trẻ mãi. Và càng già, thì
lại càng có những sức bật mới.
Đây cũng là điều dễ hiểu, bởi vì người già
thường nhìn thấy một tương lai bấp bênh đang
chờ đón mình, nên phải gom góp thật nhiều hầu
tạo cho mình một cảm giác an toàn.
Và như vậy, kẻ hà tiện sống rất khổ cực.
Một bà lão ăn mày, quanh năm vất vả rảo qua
các ngõ lối để xin bố thí. Dù mùa đông băng giá,
bà cũng chỉ mặc một manh áo rách. Bà van lơn
thảm thiết, kể lể cảnh túng cực. Người thương
tình thì cho tí chút, kẻ quen mặt thì xua đuổi bà
như kẻ trộm, nhưng bà vẫn kiên tâm. Tối đến,
bà trở về túp lều xiêu vẹo. Bà chỉ ăn những mẩu
bánh thừa người ta cho, đau ốm không dám
MỤC LỤC

mua thuốc vì tiếc tiền. Do sống quá kham khổ,


bà đã ngã bệnh và chết, tay vẫn chỉ vào góc
nhà. Người ta đào bới và tìm thấy một cái hộp
trong đó đựng gần hai trăm ngàn đô la!
Không phải họ chỉ sống rất khổ cực, mà chết
cũng rất khổ cực.
Một ông già hấp hối, vị linh mục tới xức dầu,
nhưng ông nhất định không chịu mở bàn tay ra.
Sau khi ông chết, người ta thấy bàn tay ấy vào
giây phút cuối cùng vẫn nắm chặt chìa khóa
“két” tiền.
Một ông hà tiện khác, làm lụng vất vả suốt năm,
ngày thường cũng như ngày Chúa nhật. Ông
sắm được nhiều vàng. Lúc sắp chết, ông xin
người ta đặt những thỏi vàng trên tay. Người ta
bỏ vàng đầy cả hai bàn tay. Nhưng khi vừa chết,
vàng liền rơi ra vì hai bàn tay đã cứng đơ. Thật
đúng như ca dao đã nói :
MỤC LỤC

- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,


Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Kẻ hà tiện chẳng dám tiêu tiền và xài tiền cho
bản thân mình, mặc dù có những nhu cầu thật
chính đáng và cần thiết. Như vậy người khác
đừng có hòng tơ tưởng và xơ múi gì vào đồng
tiền của họ, đừng có hòng trông mong họ giúp
đỡ và bố thí.
Nếu có người tới hỏi vay, họ sẽ trả lời :
- Lúc này tôi cũng túng bấn và kẹt lắm, không
thể giúp được.
Nếu người đó có năn nỉ ỉ ôi đến gẫy lưỡi thì họa
may họ mới cho vay nhưng với mức lời cắt cổ.
Nếu có người vì trách nhiệm phải tới lạc quyên,
xin họ giúp đỡ cho những công trình phúc lợi
chung hay cứu trợ cho những nạn nhân của
thiên tai bão lụt, họ sẽ trốn để khỏi lôi thôi và
MỤC LỤC

phức tạp. Còn nếu không trốn được, họ sẽ miễn


cưỡng trả lời :
- Thèm lòng chứ ai lại thèm thịt. Lòng tôi thì
muốn rất nhiều, nhưng cái khó bó cái khôn,
hoàn cảnh lúc này thật là...
Rồi họ sẽ cà kê dê ngỗng, vòng vo tam quốc, tả
oán một chặp. Cuối cùng mới bủn xỉn ló ra được
vài đồng bạc lẻ đã nhàu nát.
Thành thử đồng tiền của kẻ hà tiện chẳng đem
lại lợi ích gì cho đời và cho người như một câu
danh ngôn đã bảo :
- Kẻ hà tiện giống như một mỏ vàng, trên đó cây
cối chẳng thể nào đâm bông kết trái.
Họa chăng chỉ khi nào họ đã chết thì may ra tiền
bạc ấy mới đem lại tí ti lợi ích nào chăng :
- Con lợn chỉ tốt và có ích khi nó... hết sống. Kẻ
hà tiện cũng vậy, chỉ có ích cho người khác khi
họ đã chết mà thôi.
MỤC LỤC

Hay khi họ biết mở mắt ra nhìn cảnh khốn cùng


của những người chung quanh mà “cải tà qui
chánh”.
Một ông tỷ phú có thói quen lên sân thượng
dùng ống nhòm nhìn lén các cô thiếu nữ. Ông
thản nhiên trước nếp sống lầm than của đám
dân nghèo khổ chung quanh. Ngày kia, ông nhìn
thấy một phụ nữ tay cầm một sợi dây với dáng
đi thiểu não. Ông vội chạy xuống tìm gặp người
phụ nữ ấy thì được biết vì quá túng cực nàng
muốn treo cổ lên cây mà chết. Ông liền hỏi :
- Sao cô không chạy tới những người giàu có ?
- Những người càng giàu thì lại càng hay keo
kiệt.
- Còn các cơ quan từ thiện ?
- Họ đòi hỏi nhiều thứ giấy tờ, thủ tục hành
chánh quá phức tạp.
- Thế chồng cô đâu ?
MỤC LỤC

- Anh ấy bị thất nghiệp.


Vừa lúc đó cảnh sát bắt được một tên trộm và
dẫn đến. Tên trộm ấy chính là chồng của người
thiếu phụ. Lúc bấy giờ ông tỷ phú mới mở mắt ra
và nói :
- Sự việc hôm nay đã giúp tôi thức tỉnh sau một
đêm dài ích kỷ và keo kiệt. Mặc dù giàu có,
nhưng vì không quan tâm tới những người
chung quanh nghèo đói, nên mới ra nông nỗi
này.
Vì thế, cần phải biết tiêu tiền cho hợp tình và
hợp lý, không hoang phí theo kiểu “phá gia chi
tử”, nhưng cũng không keo kiệt bủn xỉn theo
kiểu “rán sành ra mỡ”.
Tiền bạc trước hết phải được tiêu dùng cho bản
thân và gia đình, hầu bảo đảm một cuộc sống
vật chất ấm no. Gã còn nhớ lời khuyên của một
thày giáo già trường làng như sau :
MỤC LỤC

- Đối với những sự cần thiết và chính đáng thì


bao nhiêu cũng sẵn sàng chi ra, nhưng đối với
những sự thừa thãi và hoang phí, thì một đồng,
một cắc cũng không.
Ngày kia, người ta đến lạc quyên một gia đình
nọ. Vừa tới cổng thì đã nghe thấy tiếng bà mẹ la
mắng cậu con trai :
- Con lại đốt phí một que diêm rồi đấy.
Nghe thấy thế, người ta thầm nghĩ :
- Xem chừng bà chủ keo kiệt, chắc chẳng ăn
thua gì.
Tuy vậy, vì bổn phận, người ta cũng bấm
chuông. Cánh cửa mở ra và bà chủ tươi cười
nói :
- Hẳn quí vị đã nghe tôi mắng đứa con trai.
Nhưng nếu tôi chẳng tiết kiệm từng que diêm thì
hôm nay làm gì có 500 đô mà giúp hội từ thiện.
MỤC LỤC

Thế nhưng, tiền bạc không phải chỉ được tiêu


dùng cho bản thân và gia đình, mà hơn thế nữa
nó còn phải được tiêu dùng cho người khác,
nhất là những người nghèo túng, cực khổ đang
cần được quan tâm giúp đỡ.
Khi giúp đỡ người khác, không phải chúng ta chỉ
cố gắng “xóa đói giảm nghèo” hay làm vơi bớt
nỗi khổ đau của họ, mà thực ra là chúng ta giúp
đỡ và làm lợi cho chính bản thân mình.
Sách Cổ học tinh hoa đã ghi lại câu chuyện
“mua nghĩa” như sau :
Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn
nhiều. Một hôm sau Phùng Huyên sang đất Tiết
đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi :
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ?
Mạnh Thường quân nói :
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì
mua.
MỤC LỤC

Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại và
bảo :
- Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân
đều tha cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt sạch.
Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường
quân :
- Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa
đầy chuồng, người đẹp đầy phòng, không còn
thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”,
tôi trộm phép vì Tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế cũng không
hỏi gì đến tiền nữa.
Sau Mạnh Thường quân bị bãi quan, trở về đất
Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước
đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới
ngoảnh lại bảo Phùng Huyên :
MỤC LỤC

- Trước kia tiên sinh vì tôi mua “nghĩa”, nghĩa ấy


nay tôi mới trông thấy.
Câu chuyện trên làm cho gã nhớ tới Lời Chúa
trong Tin mừng :
- Hãy dùng của cải chóng qua mà mua lấy bạn
hữu.
Chính những hành động bác ái yêu thương mới
là người bạn đích thực, theo chúng ta và bênh
vực cho chúng ta. Chính những hành động bác
ái yêu thương mới là tấm giấy thông hành cho
chúng ta bước vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Một ông nhà giàu nhưng tình lại keo kiệt, sau khi
chết, được dẫn đi tham quan thiên đàng. Phong
cảnh thiên đàng thật là tuyệt vời, đi mãi không
biết chán. Trưa đến, đói bụng ông ghé vào một
quán ăn ven đường. Ông lên tiếng hỏi :
- Đĩa cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?
- Một đồng.
MỤC LỤC

- Còn đĩa cơm lớn ?


- Cũng một đồng.
- Vậy hãy cho tôi một đĩa cơm lớn.
- Nhưng ông có tiền không đã ?
- Có chứ.
Nói rồi, ông nhà giàu lấy ra trong chiếc ví dày
cộm một đồng tiền còn mới. Thế nhưng người
chủ quán lắc đầu và nói :
- Không được, ở thiên đàng không xài thứ tiền
“thu tích” mà chỉ tiêu thứ tiền “cho đi” mà thôi.
Tất cả tiền trong ví của ông đều là loại tiền thu
tích, ông chẳng hề có lấy được một xu cho đi,
bởi vì trong cuộc sống ông có giúp đỡ ai bao
giờ.
Nghe nói thế, ông nhà giàu tái mặt bỏ đi. Bước
chân tuyệt vọng lặng lẽ rời khỏi thiên đàng. Chả
biết những gì đang chờ đón ông.
MỤC LỤC

Tiền bạc sẽ thối mục nếu chỉ biết thu tích, nhưng
trái lại sẽ nảy nở nếu biết cho đi.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NĂM NGỌ VIẾT VỀ NGỰA

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nhìn vào những tấm lịch, ắt hẳn mọi người đều
thấy năm 2002 được gọi là năm Nhâm ngọ, cầm
tinh con ngựa. Vì thế, theo thói quen tốt lành vốn
có từ lâu trong làng báo, gã cũng phải chịu khó
“ngâm kíu” chút ít về con vật thân thương vừa
mới được lên ngôi này, để ba hoa chích chòe,
khoác lác với bà con lối xóm.
Thú thật với bàn dân thiên hạ : hồi còn bé gã
cũng đã được học qua quít, nhưng nhũng kiến
thức ấy đã bị bụi bậm thời gian phủ kín, nên bây
giờ chẳng còn nhớ được tí ti nào. Thế là đành
phải vác tự điển ra để mà ngó ngang ngó dọc.
Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức thì
ngựa là loài thú to, móng cao và cứng, đầu dài,
bờm dài, đuôi dài và chạy rất nhanh. Còn theo
tự điển “Petit Larousse”, mấy ông tây đã định
MỤC LỤC

nghĩa như sau : ngựa là loài có vú, có móng, có


chân dài và rất khoái chạy.
Lông của nó có đủ màu đủ sắc. Trắng thì gọi là
ngựa bạch, đen thì gọi là ngựa ô. Còn có cả
những màu sắc gã chưa hề thấy bao giờ, chẳng
hạn xanh thì gọi là ngựa bích, tím thì gọi là ngựa
tía...
Vì rất khoái chạy, nên ngựa thường được người
ta nuôi để cưỡi. Lính tráng thì cưỡi ngựa xông ra
chiến trận để bảo vệ quê hương đất nước,
chẳng thế mà đã có hẳn một binh chủng mang
tên là “kỵ mã”, tức là lính cưỡi ngựa. Còn những
bậc ”thi sỡi” thì lại thích cưỡi ngựa xem hoa,
đủng đỉnh cho đúng với cốt cách phong nhã của
con nhà tao nhân mặc khách.
Vì rất khoái chạy, nên ngựa còn được người ta
nuôi để kéo xe. Trong những gia đình quyền quí
ngày xưa, người ta có những chiếc xe song mã,
MỤC LỤC

tam mã, tứ mã... Riêng giới bình dân thì có xe


độc mã, nghĩa là chỉ có một con ngựa duy nhất
để kéo.
Hồi còn bé, gã đã được nhìn thấy những chiếc
xe ngựa ở vùng Hóc môn và ngay cả trong
thành phố Saigon nữa. Xe ngựa thời đó cũng rất
thanh lịch và đẹp mắt, thường được dùng để
chở khách đi chợ.
Có những bác tài tốt bụng và yêu trẻ, đã cho
bọn nhóc tì quá giang khi đến trường cũng như
lúc tan trường. Và gã rất thích cái thú nhảy xe
ngựa, mặc cho bác tài phùng má trợn mắt mà la
hét, tay cầm chiếc roi dư dứ trước mặt.
Bây giờ thì xe ngựa đã được thay thế bằng xe
gắn máy, xe ô tô. Một thoáng bâng khuâng tiếc
nhớ như bà huyện Thanh Quan trong “Thăng
long thành hoài cổ” :
- Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
MỤC LỤC

Đền cũ lâu đài bóng tịch dương.


Cũng vì rất khoái chạy, nên người ta thường
dùng ngựa để tổ chức những cuộc đua, xem con
ngựa nào chạy nhanh nhất và về đích sớm nhất.
Hồi còn bé, lúc học trong nội trú, cứ vào chiều
thứ năm là bọn gã được đi “bát phố”. Có hai
điểm được chiếu cố nhiều hơn cả, đó là vườn
“Bờ rô” và trường đua Phú Thọ, bởi vì hai điểm
này không quá xa, đủ sức để mà đi bộ.
Vườn “Bờ rô” có sân Tao Đàn, nơi tập dượt của
đội Quan thuế. Vào đó để được nhìn thấy thủ
môn Rạng, nổi tiếng nhất miền Nam thời bấy giờ
với những đường “bay bắt bóng”. Ngoài ra,
vườn “Bờ rô” còn có một câu lạc bộ, hay nói một
cách vắn tắt, còn có một hội những người đua
ngựa do một ông tây nào đó làm xếp. Đứng ở
ngoài vòng đai, thiên hạ tha hồ chiêm ngắm
những con ngựa đua vừa cao to, lại vừa khỏe
MỤC LỤC

mạnh. Đen cũng có mà nâu cũng có. Khác hẳn


những con ngựa gầy trơ xương sống kéo xe bở
hơi tai của dân ta.
Còn trường đua Phú Thọ tọa lạc trên một khu
đất rộng, với những hàng cây xanh mát và nhất
là với một khán đài rất bề thế được xây theo
kiểu tây. Hàng tuần cứ vào chiều thứ bảy và
Chúa nhật, người ta lại tổ chức những cuộc đua.
Thế nhưng, đua không quan trọng bằng cá.
Người chơi cá ngựa sẽ mua vé theo số thứ tự
con ngựa mình thích. Những con ngựa này còn
được gọi bằng những tên rất đẹp và rất kêu,
chẳng khác gì tên của những nữ ca sĩ. Nếu con
ngựa mình thích mà về nhất thì được chia tiền
lời.
Đây quả là một cuộc đỏ đen, hên xui may rủi.
Thành thử đa số những người chơi cá ngựa đều
bị ngựa đá. Khi đá, ngựa dùng hai chân sau
MỤC LỤC

búng vào người. Còn khi cá cược, người chơi


lắm lúc bị ngựa đá văng cả một đống tiền, cả
một căn nhà hay cả một sản nghiệp mình đã
chắt chiu gầy dựng qua bao năm tháng.
Nhất là khi ngựa về ngược. Con ngựa dở, bỗng
ngẫu hứng qua mặt những con ngựa giỏi khác
cái rụp, chẳng kịp bóp còi mà về nhất. Trong
trường hợp ngựa về ngược như thế, người chơi
chỉ còn cách cười ra nước mắt mà thôi. Dù bị
ngựa đá đau điếng, người chơi vẫn cứ ham và
vẫn cứ sẵn sàng nướng cho đến đồng xu cuối
cùng.
Dĩ nhiên ở đây gã không có thời giờ bàn đến
cảnh ngựa về ngược trong những mùa tranh cử,
bởi vì có những ứng cử viên vào chức tổng
thống, nghị sĩ, dân biểu... vừa vô tài lại vừa thiếu
đức, nhưng chẳng may ngáp phải ruồi, do mánh
mung vung tiền hay do phe nhóm phò trợ, trúng
MỤC LỤC

ngay cái ghế mình nhắm. Khiến cho bàn dân


thiên hạ phải lao đao khốn khổ.
Sau ngày ba mươi tháng tư, trò đua ngựa cũng
như xổ số và nhiều món ăn chơi lỉnh kỉnh khác
đã bị nhà nước cấm tiệt vì cho đó là một loại cờ
bạc trá hình. Nhưng rồi sau đó, những thứ gì đã
cấm thì nay lại được liên tục phát triển. Trường
đua được mở cửa lại, xổ số được tổ chức không
phải chỉ ở trung ương mà còn ở mỗi tỉnh, nhảy
đầm được bung ra như nấm, ì xèo khắp cả
thành phố, đúng như một nhà bình luận đã nói :
- Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một con đường
vòng, đi từ tư bản chủ nghĩa đến tư bản chủ
nghĩa.
Giữa tiếng ta và tiếng tàu có nhiều mối liên hệ
mật thiết với nhau. Vì thế, khi đã nói đến chữ
ngựa, thì cũng phải tra xem trong tiếng tàu có
những chữ nào bàn về loài động vật này.
MỤC LỤC

Trước hết là chữ ngọ.


Ngọ là chữ thứ bảy trong mười hai chi : tí sửu
dần mão... Nói theo kiểu “nho chùm” trong “Hán
Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng thì ngọ
là vị thứ bảy trong thập nhị chi. Và trong thập nhị
chi, thì ngọ ám chỉ con ngựa. Vì thế cứ mười hai
năm một lần, con ngựa lại lên ngôi và bất kỳ
năm nào mang nhãn hiệu trình tòa là “ngọ” thì
cũng đều cầm tinh con ngựa cả.
Tiếp đến là chữ câu.
Câu là con ngựa trẻ đang sung sức. Bên tàu thì
nói :
- Bạch câu quá khích, có nghĩa là con ngựa
trắng vụt ngang khe cửa.
Còn bên ta thì bảo :
- Bóng câu qua cửa sổ.
Cả hai đều diễn tả ý tưởng thời gian qua mau.
Sau cùng là chữ mã.
MỤC LỤC

Mã là con ngựa. Ngày xưa, người ta sính văn


chương thơ phú. Vì thế mới xảy ra :
Có hai cậu học trò, một người thì giỏi còn một
người thì dốt. Cậu học trò giỏi vào ra mắt viên
tướng. Viên tướng bảo cậu hãy làm một bài thơ
với tựa đề : bạch mã.
Chẳng cần suy nghĩ, cậu học trò giỏi bèn đọc
một lèo :
- Bạch mã mao như tuyết,
Tứ thúc cương như thiết.
Tướng quân kỵ bạch mã,
Bạch mã tẩu như phi.
Có nghĩa là : Ngựa trắng lông như tuyết, bốn
chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi ngựa
trắng, ngựa trắng chạy như bay.
Nghe xong bài thơ trên viên tướng lấy làm đắc ý,
vỗ đùi đánh đét một cái, rồi thưởng cho cậu học
trò giỏi một số tiền lớn.
MỤC LỤC

Thấy vậy, cậu học trò dốt cũng mon men vào ra
mắt viên tướng. Viên tướng nhìn ra sân, thấy bà
cụ già đi ngang qua, bèn ra đề tài bài thơ là bà
lão.
Cậu học trò dốt nghĩ mãi chẳng được một câu
nào, cuối cùng bèn “thuổng” bài thơ trên mà
rằng :
- Bà lão mao như tuyết,
Tứ thúc cương như thiết.
Tướng quân kỵ bà lão,
Bà lão tẩu như phi.
Có nghĩa là : bà lão lông trắng như tuyết, bốn
chân cứng như sắt, tướng quân cưỡi bà lão, bà
lão chạy như bay.
Quả là hết ý, thiếu điều viên tướng nọc cậu ra,
phét cho mấy trượng vào mông cho chừa thói
“đạo văn” của người khác.
MỤC LỤC

Ngày xưa người ta cũng thường dùng da ngựa


để bọc tử thi, vì thế mới có câu :
- Mã cách lõa thi, ám chỉ cái chết của người nam
nhi có chí khí đi đánh giặc, nếu chết thì lấy da
ngựa bọc thây đem chôn là đủ :
- Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Ngày nay người ta dùng hai chữ “mã lực”, có
nghĩa là sức ngựa, để chỉ công suất của một
chiếc máy có thể nâng một vật nặng bảy mươi
lăm ký lô lên cao một mét trong một giây đồng
hồ.
Nói tới chữ mã, gã không bao giờ quên được kỷ
niệm của những ngày còn bé. Hồi đó các thày
cô thoải mái đánh mắng học trò mà không bị
phiền phức như bây giờ. Thày dạy tiếng Pháp
của gã, tuy không đánh nhưng thường xuyên
phạt quì những đứa không thuộc bài.
MỤC LỤC

Chẳng hạn vào đầu giờ lớp thày bảo :


- Lấy vở ra, viết lại mười tiếng ngữ vựng.
Những đứa chỉ viết được năm tiếng trở xuống,
liền bị thày phán :
- Hạ mã.
Hai chữ hạ mã có nghĩa là xuống ngựa, nhưng
trong hoàn cảnh này, nó mang một nét đặc thù,
đó là...quì xuống.
Còn những đứa viết được sáu chữ trở lên, thày
không bảo “thượng mã”, nhưng chỉ cần nhìn
thấy nụ cười của thày là đã cảm thấy ấm lòng.
Hai chữ thượng mã có nghĩa là lên ngồi trên
lưng ngựa. Đơn giản chỉ có thế, xin đừng hiểu
dài và hiểu rộng quá chương trình thành chứng
“thượng mã phong”, chết lăn quay trên lưng...
kẻo làm cho kẻ thanh sạch mất lòng khiết tịnh
chăng ?
MỤC LỤC

Đối với người Việt Nam, ngựa tuy không gần gũi
như gà vịt, chó mèo và lợn, không gắn bó như
trâu bò, nhưng lại góp phần rất lớn trong việc lập
nước và giữ nước. Gã xin kể hầu một vài câu
chuyện để chứng minh cho sự thật trên.
Câu chuyện thứ nhất về ngựa sắt.
Đời vua Hùng Vương thứ sáu, nước Ân ở phía
bắc mưu toan xâm lăng để cướp lấy nước Văn
Lang. Vua Hùng Vương rất lấy làm lo lắng, bèn
họp quần thần để hoạch định kế giữ nước.
Trong hàng quan văn có người cho biết ngày
trước tiên đế Lạc Long Quân có truyền lại rằng :
- Khi nào nước nhà gặp cơn nguy biến, thì nên
cầu thần lên giúp.
Hùng Vương liền truyền lệnh triệu thần nhân. Ba
hôm sau, có một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên
giữa lúc mưa bão, tự xưng là Lạc Long Quân.
Cụ bảo rằng :
MỤC LỤC

- Trong ba năm nữa, giặc Ân từ phương Bắc sẽ


tràn xuống. Bấy giờ nhà vua hãy cho người đi
khắp nước cầu tướng tài ra giúp, chừng ấy sẽ
có thần tướng hiện ra cứu an xã tắc.
Ba năm sau, quả nhiên giặc hùng mạnh như vũ
bão tràn sang cướp nước Nam. Chúng đi đến
đâu là nhà tan cửa nát, còn người thì bị giết, gây
nên bao cảnh hãi hùng. Tin cấp báo về đến
Phong Châu, Hùng Vương nhớ lời dặn của Lạc
Long Quân...
Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh, thuộc tỉnh
Bắc Ninh bây giờ, có một người đàn bà đã ngoài
sáu mươi tuổi, cách mấy năm trước, ra đồng
trông thấy một vết chân người to lớn. Lấy làm lạ,
bà ta liền đặt chân mình vào ướm thử, bỗng
nhiên tâm thần giao động. Về nhà liền thụ thai,
sinh ra một đứa con trai đặt tên là Gióng. Tuy đã
được ba tuổi, nhưng Gióng không biết lẫy,
MỤC LỤC

không biết bò, không cò rò biết đi và cũng chẳng


nói được một tiếng nào.
Nhưng lạ thay, khi sứ giả của vua Hùng Vương
đi qua đấy, Gióng liền ngồi lên, rồi cất tiếng yêu
cầu mẹ mời sứ giả đến. Bà mẹ vô cùng kinh
ngạc, nhưng cũng chiều ý con, đi mời sứ giả tới.
Gióng liền bảo sứ giả về tâu vua cho đúc một
con ngựa sắt và một thanh gươm sắt để đuổi
giặc.
Nhớ lời tiên tri của Lạc Long Quân, vua Hùng
Vương biết đó là thần nhân, liền cho đúc ngay
một con ngựa sắt và một thanh gươm sắt.
Khi sứ giả của vua mang đủ các thứ đến nhà,
Gióng đứng lên, vươn vai thành một người to
lớn dị thường, bảo mẹ nấu cơm cho ăn và xin
mặc áo. Bà mẹ nấu liên tiếp mấy nồi cơm,
nhưng Gióng ăn không no. Cả làng phải góp
gạo, giết gà, mổ heo, làm cơm cho Gióng ăn.
MỤC LỤC

Gióng ăn rất khỏe, ăn mãi mà vẫn chưa thỏa. Cả


làng xóm góp vải vóc để may quần áo cho Gióng
mà vẫn không đủ với tầm thước của Gióng.
Gióng đội nón, cầm gươm, nhảy lên ngựa sắt
thúc chạy nhanh như gió. Trong miệng ngựa
bỗng nhiên khạc ra lửa. Ngựa phi nhanh như
sấm sét, mang Gióng ra chiến trường.
Giặc Ân trông thấy Gióng như một thiên thần
xông pha ngang dọc. Gióng đi đến đâu thì ngựa
phun lửa đốt cháy quân giặc tới đấy. Các tướng
Ân bị gươm của Gióng chém chết ngã rạp như
chuối. Giặc Ân chạy trốn trối chết, thây người
chồng chất ngổn ngang.
Đang tung hoành giữa chiến trận, thanh gươm
sắt bị gãy ngang, Gióng thuận tay nhổ luôn bụi
tre bên đường đập vào đầu quân giặc hung ác,
làm chúng rối loạn hàng ngũ.
MỤC LỤC

Dẹp xong đám giặc Ân khát máu, Gióng phi


ngựa chạy lên núi Sóc, trút bỏ quần áo lại, rồi cả
người lẫn ngựa đều bay bổng lên trời.
Tương truyền các ao hồ từ những vùng Kim
Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn đều do dấu
chân ngựa sắt của Gióng để lại. Khu rừng chỗ
giặc Ân bị đốt chết cháy ngày nay vẫn còn mang
tên là làng Cháy.
Nhớ công ơn đã trừ giặc bạo ác cứu nước, vua
Hùng Vương liền phong cho Gióng chức Phù
Đổng Thiên Vương. Còn người đời thường gọi
Gióng là Thánh Gióng.
Ca dao có câu :
- Làng Phù Đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ,
Ai hay thần tướng đợi chờ phong vân.
MỤC LỤC

Ngày nay, nói tới ngựa sắt là thiên hạ lại nghĩ


ngay đến những chiếc xe gắn máy được thanh
niên nam nữ phóng như bay và bóp còi inh ỏi
trên đường phố.
Chuyện thứ hai về ngựa đá.
Tương truyền rằng giặc Mông Cổ tràn sang xâm
lấn nước ta. Hưng Đạo Vương phải một trận thư
hùng tại sông Bạch Đằng, đuổi quân Mông Cổ
không còn một manh giáp.
Khi tan trận, vua Trần Nhân Tôn thấy ngựa đá ở
trước lăng tẩm, chân đều vấy bùn và mình rịn
mồ hôi, nên nhà vua tin rằng nhờ anh linh các
bậc tiên đế cưỡi ngựa đá theo giúp đuổi giặc,
nên Hưng Đạo Vương mới chiến thắng. Vì thế,
nhà vua liền ngửa mặt lên trời mà cảm tạ :
- Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
Có nghĩa là :
MỤC LỤC

- Xã tắc hai lần nhọc ngựa đá,


Non sông ngàn thuở vững ngai vàng.
Sau cùng, chuyện thứ ba về ngựa gỗ.
Chuyện này xuất phát từ thần thoại Hy lạp. Số là
để đột nhập vào thành Troie, chàng dũng sĩ
Ulysse đã phải làm một con ngựa gỗ thật lớn và
đem dâng cho dân thành. Thế nhưng, chàng đã
ém một số binh lính tinh nhuệ trong bụng con
ngựa gỗ khổng lồ ấy. Khi cổng thành được mở
ra, lập tức các binh lính nhào tới, đánh chiếm
thành và đã chiến thắng vẻ vang.
Nhìn những con ngựa chiến thật oai phong lẫm
liệt với những đặc tính vừa dễ thương lại vừa dễ
mến. Tuy nhiên, những đặc tính dễ thương và
dễ mến này, một khi được áp dụng cho con
người, thì lập tức chúng bị biến thái, trở thành
vừa dễ thù lại vừa dễ ghét.
MỤC LỤC

Như trên chúng ta đã thấy, ngựa là một trong


những loài vật giúp ích rất nhiều cho con người,
thế nhưng khi rủa :
- Đồ ngựa.
Hai chữ “đồ ngựa” này lại ám chỉ hạng đờn bà
con gái lẳng lơ và trắc nết.
Cũng vậy, mặt ngựa tuy dài, sống mũi thẳng và
cao bằng trán, nhưng cũng đẹp đáo để, chẳng
thế mà anh chàng tài tử Fernandel, người Pháp,
vốn được mang biệt danh là “mặt ngựa” vì mặt
của anh chàng này khí dài, đã nổi tiếng khắp thế
giới, đã hốt bạc với những cuốn phim của mình
và tên tuổi còn được ghi lại trong từ điển
Larousse. Thế nhưng, khi chửi :
- Lũ đầu trâu mặt ngựa.
Bốn chữ “đầu trâu mặt ngựa” này lại ám chỉ bọn
ác ôn côn đồ, không biết thương người.
MỤC LỤC

Một đặc tính khác của ngựa đó là rất nhớ


đường. Chỉ một lần đi qua, lập tức đoạn đường
liền được ghi vào bộ nhớ của nó, nhất là khi bị
bán đi xa, nó thường tìm cách trở về con đường
cũ mà tìm lại chủ xưa. Vì thế, người ta mới bảo :
- Ngựa quen đường cũ.
Bốn chữ “ngựa quen đường cũ” này lại ám chỉ
những thói hư khó bỏ. Một người đã quen làm
việc xấu, thì dù được khuyên bảo để trở nên
lương thiện, thì rồi vẫn chứng nào tật ấy, mèo
vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực để rồi
cuối cùng vẫn nhớ tật cũ mà làm quấy, làm xằng
, làm bậy lại mà thôi.
Ngoài ra, như gã đã trình bày : ngựa rất khoái
chạy và chạy càng nhanh càng tốt, nhất là lại
chạy như gió nữa thì quả là tuyệt vời. Chả thế
mà người ta đã gọi những con ngựa tuyệt vời ấy
MỤC LỤC

là “ngựa truy phong”, có nghĩa là ngựa chạy


theo được gió. Thế nhưng, khi kết án ai là :
- Hạng quất ngựa truy phong.
Bốn chữ “quất ngựa truy phong” này lại ám chỉ
kẻ dùng những mánh khóe lừa gạt người khác
rồi bỏ trốn. Cụ thể như anh đờn ông mở miệng
ra là “nói khó” cùng chị đờn bà để được yêu
thương. Thế nhưng, khi đã đạt mục đích, khi
“con ong đã tỏ đường đi lối về”, thì liền “quất
ngựa truy phong”, lập tức... biến mất tăm mất
tích, mặc cho chị đờn bà bụng mang dạ chửa.
Rõ là đồ sở khánh, Rõ là phường đểu giả.
Cho đến bây giờ, sau nhiều đêm suy gẫm, gã
vẫn chẳng hiểu được tình trạng biến thái từ
ngựa sang người lại tồi tệ đến như vậy.
Món thịt ngựa do gã chế biến xem ra cũng đã đủ
gia vị ngọt bùi đắng cay. Giờ đây, trước khi nghỉ
MỤC LỤC

xả hơi cho những ngày tết, gã xin kể lại mẩu


chuyện sau đây như một kết luận.
Tương truyền rằng Tái Ông có một con ngựa
đực. Ngày kia, con ngựa buồn tình bỏ đi hoang
mất tiêu. Bà con lối xóm thấy vậy liền đến hỏi
thăm và chia buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo :
- Biết đâu là phước đó.
Cách mấy hôm sau, con ngựa trở về và dẫn
thêm mấy con ngựa cái nữa. Bà con lối xóm
thấy vậy liền đến hỏi thăm và chia vui, Thế
nhưng, Tái Ông nói :
- Biết đâu là họa đó.
Quả nhiên mấy hôm sau, các con ông thấy ngựa
đẹp bèn tranh nhau cưỡi, chẳng may sẩy tay, té
ngã gẫy chân. Lối xóm hay tin liền đến hỏi thăm
và chia buồn. Thế nhưng, Tái Ông bảo :
- Biết đâu là phước đó.
MỤC LỤC

Đúng vậy, quê nhà có giặc, loạn ly khắp nơi, đất


nước cần lính nên mộ binh, con ông nhờ gẫy
chân mà không phải thi hành nghĩa vụ quân sự.
Như vậy, chúng ta mới thấy việc họa phước
chẳng biết đâu mà đoán lường trước được. Có
khi họa xảy đến liên miên cho điêu đứng khổ sở.
Nhưng thường là :
- Họa vô đơn chí, phước bất trùng lai.
Có nghĩa là : tai vạ không đến một mình, thường
tai vạ này nối tiếp tai vạ khác. Còn vận may thì
trái lại, không dễ có hai lần cùng lúc.
Cũng như Tái Ông mất ngựa, gã xin cầu chúc
cho bàn dân thiên hạ khắp bốn phương trời,
trong năm con ngựa này, dù có gặp phải xúi
quẩy, thì những xúi quẩy này cũng mau chóng
biến thành hên may.
Hay như lời Đức Kitô đã phán :
MỤC LỤC

- Hôm nay các con phải buồn khổ, nhưng ngày


mai nỗi buồn của các con sẽ trở nên niềm vui.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NHỮNG KIỂU LÀM VỢ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Kinh nghiệm chiến trường khiến gã mở mắt ra
và nghiệm thấy rằng :
- Cuộc sống càng văn minh, thì người ta lại càng
trang bị cho mình nhiều tiện nghi, mà càng nhiều
tiện nghi thì lại càng tốn tiền và hao bạc. Cái này
véo một tẹo, cái kia cấu một tí, thành thử “ngân
khố” của bản thân cũng như của gia đình cứ liên
tục bị rách nát te tua.
Gã xin đan cử một thí dụ : hồi chưa có điện, ông
bà mình chỉ cần một ngọn đèn dầu leo loét cũng
đủ để soi sáng cả nhà. Ban tối trải manh chiếu
rách xuống khoảng sân đất cho cả nhà ngồi
quây quần bên mâm cơm dưới ánh trăng vàng.
Vừa thoáng mát lại vừa…tình tứ ra phết. Đến khi
có điện, phải vội sắm thêm chiếc tủ lạnh, máy
điều hòa, máy giặt, chiếc điện thoại, dàn vi
MỤC LỤC

tính...cuối tháng nhìn những tấm biên lai thu tiền


mà toát cả mồ hôi hột.
Cũng vì sính những tiện nghi này, mà có một
anh chàng đã sánh ví đờn bà con gái như một
chiếc điện thọai. Anh chàng này bèn tự hỏi :
- Vì cớ làm sao mà điện thoại lại thuộc giống
cái ?
Sau khi đã bóp trán suy nghĩ, anh ta đã đưa ra
những lý do sau đây :
- Vì sử dụng điện thoại là một việc tốn tiền.
- Nói nhiều bao nhiêu, điện thoại càng thích bấy
nhiêu.
- Ở mọi nơi và trong mọi lúc, điện thoại vẫn có
cách làm cho người khác chú ý đến mình.
- Dù là lúc nửa đêm, điện thoại vẫn có thể kéo
bạn dậy để nói một điều gì đó.
MỤC LỤC

- Nếu giận ít, điện thoại sẽ cho bạn ra “ngoài


vòng phủ sóng”, còn nếu giận nhiều thì sẽ “cắt”
không cho bạn tiếp cận.
- Chỉ mình bạn là người có lỗi, chứ điện thoại thì
không bao giờ.
- Nói chung, thái độ của điện thoại là : Ừ, em vậy
đó, anh không ưng thì thôi hà.
- Có loại điện thoại “mẹ bồng con”.
Không hiểu những suy luận của anh chàng hâm
hâm này đúng được bao nhiều phần trăm.
Chuyện này thì chỉ có ông trời và quí bà quí cô
biết được mà thôi. Còn gã thì xin chào thua. Thế
nhưng, từ những món khai vị kể trên, gã xin đi
vào món chính của thực đơn hôm nay, đó là
nghệ thuật làm vợ với câu hỏi :
- Có mấy kiểu làm...vợ ? Và thế nào là một
người vợ lý tưởng ?
MỤC LỤC

Nghe xong câu hỏi trên, hẳn có người nghĩ rằng


gã chỉ là một kẻ ấm ớ hội tề. Đã là vợ thì là vợ
chứ còn là cái chi chi nữa, đơn giản chỉ có vậy.
Hỏi vớ vẩn, chỉ vẽ chuyện, thêm rách việc mà
thôi.
Thế nhưng, xin quí vị chớ nổi nóng, bởi vì
chuyện đời đâu có êm ru bà rù như vậy. Ngay
đến chữ “tu” kia mà cũng còn có dăm bảy
đường, như các cụ ta ngày xưa đã xác quyết :
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba mới tới tu...nhà dòng.
Làm vợ cũng vậy, có cả một lô kiểu làm vợ khác
nhau. Con tắc kè đổi màu như thế nào thì khuôn
mặt các bà vợ cũng thiên biến vạn hóa, đến quỉ
thần cũng không lường nổi. Chả thế mà có kẻ
đã “miêu tả” :
- Vợ là tình cảm sâu xa,
MỤC LỤC

Vợ là gió mát, vợ là bão dông.


Vợ như một đóa hoa hồng,
Vợ là sư tử Hà Đông kinh người.
Vợ là êm ái tuyệt vời,
Vợ là bão táp rụng rời chân tay.
Vợ là một chất men say,
Vợ là cái đắng cái cay trong lòng.
Có người nhờ vợ nên ông,
Nhiều người vì vợ mất không cơ đồ.
Và rồi tác giả đã kết luận :
- Tốt số lấy được vợ hiền,
Vô duyên vớ phải bà điên bà khùng.
Trước khi trình bày những kiể...…làm vợ, gã xin
thành thật khai báo rằng : gã có mượn tạm cái
sườn bài viết của Vương Huyền Cơ trên báo
Phụ nữ Chủ nhật, số 3 năm 2002. Tuy nhiên, gã
xin bổ túc thêm một vài kiểu nữa cho được đầy
đủ hơn, đồng thời như một người đầu bếp, gã
MỤC LỤC

cũng xin bỏ vào đó chút hành tiêu tương tỏi để


được đậm đà ý vị hơn.

Kiểu thứ nhất : vợ là như một người mẹ.


Cố nhạc sĩ Y Vân đã để lại cho đời một bài hát
bất hủ và tuyệt vời, đó là bản “Lòng mẹ” với
những lời ca mang nặng ý thơ :
- Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,
Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào,
Lời ru êm ái như đồng lúa chiều rì rào
Tiếng ru êm đềm qua nhiều năm tháng triền
miên.
Tình mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa
thu...
Đối với những người vợ kiểu này, thì lòng mẹ
còn bao la hơn biển Thái Bình cả ngàn vạn lần,
bởi vì họ không chỉ lấy tình mẹ mà cư xử đối với
con, nhưng còn lấy cả tình mẹ mà cư xử đối với
MỤC LỤC

chồng mình nữa. Vì thế, dưới mắt họ, ông chồng


chẳng khác gì một đứa con cần được cưng
chiều mà thôi. Chỉ tiêu được đề ra cho những
người vợ kiểu này là :
- Nuôi chồng khỏe, dạy chồng ngoan.
Giống như chỉ tiêu nhà nước Việt Nam đã đề ra
cho các bà mẹ là :
- Nuôi con khỏe dạy con ngoan.
Họ chăm sóc ông chồng như chăm sóc con
mọn. Họ là người quyết định cho ông chồng ăn
gì, dù món ấy ông chồng đã ngấy tới cần cổ. Họ
là người quyết định cho ông chồng phải mặc gì,
dù bộ quần áo đó ông chồng chả thích tí nào. Họ
là người quyết định cho ông chồng phải ngủ vào
giờ nào và phải thức vào giờ nào, dù ông chồng
có việc phải thức thêm một tí, hay muốn nằm
ngủ nướng thêm một tẹo. Thiếu điều họ đánh
thức ông chồng như gọi đò sông cái :
MỤC LỤC

- Anh ! Dậy, đi đái, lấy nước, đánh răng, súc


miệng, ăn sáng.
Làm chồng của những người vợ kiểu này thật là
sướng rên mé đìu hiu, chẳng phải động não hay
động tay chân vào bất cứ công việc nào. Ngoại
trừ những giờ đi làm là được thoát khỏi sự chăm
sóc chiều chuộng, còn thì a lê hấp cứ việc : về
nhà vợ nuôi. Người vợ sẽ lo cho ông chồng từ A
đến Z và trang bị cho ông chồng tới tận răng.
Tuy nhiên, phàm cái gì thái quá cũng bất cập.
Nhiều khi ông chồng lại cảm thấy ngượng nghịu
và bực bội với những chăm sóc chiều chuộng
ấy, bởi vì mình chỉ là như một con ngỗng được
vỗ cho mập và hơn thế nữa trong thẳm sâu cõi
lòng, bất kỳ ông chồng nào, không nhiều thì ít
cũng có cái bản lĩnh đàn ông và muốn hét to lên
cho bàn dân thiên hạ nhận ra rằng :
- Ta là đờn ông đây.
MỤC LỤC

Và rồi cuối cùng, ông chồng ấy sẽ đi tìm một đối


tượng nào đó để xả xú bắp, tỏ lộ cái bản lãnh
đàn ông của mình.

Kiểu thứ hai : vợ là như một đứa con.


Kiểu thứ hai hoàn toàn trái ngược với kiểu thứ
nhất. Có vợ kiểu này chẳng khác gì có một đứa
con bé bỏng hoàn toàn lệ thuộc vào mình. Từ
việc to cho chí việc nhỏ, người chồng phải quyết
định hết ráo, bởi vì cô nàng sẽ chẳng biết làm gì
cả nếu không có sự bảo ban hướng dẫn của
người chồng.
Suốt ngày từ sáng đến tối, cô nàng sẽ không
ngừng mở miệng như một đứa con nít với điệp
khúc muôn thuở :
- Anh ơi, cái này làm thế nào ?
- Anh hỡi, cái kia ra sao hử ?
- Anh à, làm vậy có được hông ?
MỤC LỤC

Mọi việc từ đầu tới chân, nếu không có ý kiến ý


cò của người chồng là chẳng xong. Và nếu có lỡ
mồm nói nặng với cô nàng một tiếng, thì lập tức
cô nàng sẽ khóc, như chưa bao giờ được khóc.
Và những trận khóc dầm dề ấy đôi lúc biến
thành lũ lụt, cuốn phăng lập trường sáng suốt
của ông chồng.
Làm chồng những người vợ kiểu này, tuy bản
lĩnh đờn ông được liên tục phát triển, lúc đầu
cảm thấy thỏa mãn sung sướng vì mình là nhân
vật số một, nhưng về lâu về dài lại cảm thấy vô
cùng mệt mỏi để rồi cuối cùng sẽ đi tìm những
sự vuốt ve chiều chuộng khác, như một sự bù
lỗ.

Kiểu thứ ba : vợ là như bà chủ, bà chằng.


Gã không phải là một nhà sử học, cũng không
phải là một nhà nhân chủng học, nên chẳng thể
MỤC LỤC

nào biết rõ được chế độ mẫu hệ đã xuất hiện ở


đâu và vào thời nào trên mặt đất này. Có lẽ từ
rất xa xưa, trước khi nông nghiệp phát triển. Gã
chỉ nắm một cách qua quít và hiểu một cách lơ
tơ mơ rằng : trong chế độ mẫu hệ, người đờn bà
làm chủ gia đình và nắm quyền sinh sát trên
chồng con. Chỉ có một cái khoái duy nhất trong
chế độ mẫu hệ là chị con gái sẽ đi cưới anh con
giai làm chồng, chứ không phải anh con giai đi
cưới chị con gái làm vợ như ngày hôm nay.
Phải, nếu như ngày hôm nay, chế độ mẫu hệ mà
tái xuất giang hồ, hẳn thế giới này sẽ bị đảo lộn
tùng phèo, như bài thơ “Thí dụ như” của một tác
giả nào đó mà gã đã quên béng mất tên rồi. Xin
thành thực cáo lỗi và sẵn sàng nhận một thẻ
vàng của trọng tài Fifa.
- Bây giờ thí dụ như là :
Chồng thì làm bếp vợ ra quán hè,
MỤC LỤC

Vợ nhậu đến bữa quên về,


Chồng sang hàng xóm, ngồi lê cả ngày.
Vợ đi bia bọt gác tay,
Chồng mua mỹ phẩm mất bay triệu đồng.
Vợ mê em út lung tung,
Chồng diện áo váy hở mông hở đùi.
Vợ thời phóng khoáng ham vui,
Chồng thì bủn xỉn ví như ngân hàng.
Vợ quen cái thói làm tàng,
Chồng thì mê tín thắp nhang đêm ngày.
Lên xe vợ phóng như bay,
Chồng thì tỷ mỉ vá may thêu thùa.
Vợ lo điện nước búa xua,
Chồng lo giữ trẻ sớm trưa ru hời.
Vợ thèm thuốc lá chờ mời,
Chồng ham tứ sắc mê chơi quên ngày.
Vợ thời ở bẩn một cây,
Chồng thì sạch sẽ đêm ngày soi gương.
MỤC LỤC

Vợ thời phải nộp sạch lương,


Chồng thì tính toán đủ đường, đủ đôi.
Vợ thời đi biển có đôi,
Chồng thì đi biển mồ côi một mình.
Mới nghĩ mà đã phát kinh.
Tạm gác lại chuyện thế giới này bị đảo lộn tùng
phèo khi những “thí dụ như là” xảy ra, để được
trở về với kiểu vợ làm bà chủ. Dòng máu “mẫu
hệ” lưu thông ào ào trong huyết quản, nên họ
bèn vùng lên, không những đòi quyền...sướng
và bình đẳng với giới mày râu, mà còn giành lấy
mọi quyền hành, quyết định tất tật mọi chuyện to
nhỏ trong gia đình. Lúc bấy giờ thân phận ông
chồng thật là hãi hùng và bi đát :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà con đây.
Và một khi quyền hành rơi vào tay người vợ, thì
tình hình sẽ trở nên não nề, bởi vì từ cái ghế bà
MỤC LỤC

chủ, người vợ không ngần ngại nhảy phóc lên


ngô...…bà chằng. Bởi vì chữ chằng chẳng gần
với chữ chủ lắm ru ?
Từ cổ chí kim, những khuôn mặt bà chằng thì
quả là ê hề và đầy rẫy. Gã chỉ xin đan cử hai
khuôn mặt “điển hình tiên tiến”. Một bên đông và
một bên tây.
Bên đông thì đó là khuôn mặt bà vợ Trần Quí
Thường, vốn được mang biệt danh “sư tử Hà
Đông”. Điển xưa tích cũ kể lại rằng : Thi hào Tô
Đông Pha có người bạn tên là Trần Quí
Thường. Quí Thường lại có người vợ nổi tiếng
hung dữ. Mỗi lần Tô Đông Pha đến chơi, thì đều
nghe tiếng bà vợ của Quí Thường quát tháo, la
hét ầm ỉ. Thấy vậy, họ Tô mới làm thơ chế diễu
ông bạn hiền có cô vợ dữ như sau :
- Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
Đàm không thuyết pháp dạ bất miên.
MỤC LỤC

Hốt văn Hà Đông sư tử hống,


Trụ trượng lạc thủ tâm mang mang.
Có nghĩa là :
- Ai hiền hơn cữ sĩ Long Khâu,
Đọc kinh, giảng đạo suốt canh thâu.
Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
Tay run gậy rớt lòng kinh hãi.
Từ đó, biệt danh “Sư tử Hà Đông” vốn được
dùng để ám chỉ người vợ có tính hung dữ. Nếu
ở các rừng châu Á, cọp là vua của loài thú, thì ở
châu Âu, sư tử là chúa sơn lâm. Các loài thú
khác khi nghe sư tử rống, đều cúp đuôi hoảng
sợ, vắt giò lên cổ mà chạy trốn.
Còn bên tây thì đó là khuôn mặt bà vợ Socrate.
Ông là một triết gia lừng danh của Hy Lạp cổ
xưa. Lý thuyết của ông ngày nay vẫn còn giá trị.
Nhưng ác thay, đang khi ông là một bậc thày
đáng kính của đông đảo các môn đệ và sau này
MỤC LỤC

muôn thế hệ vẫn coi ông như một bậc tôn sư, thì
ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà đã chanh
chua, khinh rẻ ông là hạng trói gà không chặt,
dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Lần kia, sau khi
đã chửi ông một trận kịch liệt, bà đã tặng cho
ông nguyên cả một chậu nước dơ lên người,
nhưng ông vẫn thản nhiên và nói :
- Tôi biết mà, sau khi đã có sấm chớp thì tất
nhiên trời sẽ đổ mưa.
Lần khác ông mời bè bạn đến nhà dùng bữa, bà
hầm hầm nét mặt, bưng cả mâm cơm hắt ra
ngoài sân. Ông vẫn bình tĩnh lượm lên, tái phối
trí rồi cùng với bè bạn ngồi ăn ngoài sân. Trời
không chịu đất, thì đất đành phải chịu trời chứ
còn sao nữa.

Kiểu thứ bốn : vợ như một đầy tớ.


MỤC LỤC

Kiểu thứ bốn hoàn toàn trái ngược với kiểu thứ
ba. Người vợ kiểu này bị coi như là một đầy tớ,
một con ở trong nhà. Sở dĩ như vậy vì ông
chồng còn mang nặng đầu óc phong kiến “xuất
giá tòng phu”, người con gái một khi đã lấy
chồng thì phải phục tùng chồng, để rồi “phu
xướng phụ tùy” chồng chỉ việc phán, còn vợ phải
cúi đầu vâng nghe đến tối tăm cả mặt mũi. Hay
độc tài quân phiệt “chồng chúa vợ tôi”, chồng là
chủ còn vợ chỉ là tôi đòi.
Và như chúng ta đã biết : lòng đầy thì mới tràn
ra ngoài. Vì khắc sâu trong đầu một lập trường
như thế, nên cái óc phong kiến và quân phiệt
luôn được tuôn trào bằng lời nói và bằng hành
động.
Trước hết bằng lời nói. Những ông chồng độc tài
này chẳng bao giờ có được những lời nói êm tai
MỤC LỤC

với cô vợ của mình. Đâu rồi thuở ban đầu lưu


luyến ấy :
- Anh anh, em em.
Hay :
- Mình ơi, mình à.
Nếu không có được những cách gọi nhau ngọt
như đường cát mát như đường phèn ấy, thì chí
ít cũng phải như người bình dân :
- Mẹ thằng cu ơi, má cái đĩ à...
Thế nhưng, những ông chồng bạo chúa này
nhìn cô vợ bằng một cặp mắt khinh bỉ : đờn bà
con gái chẳng biết đí gì sốt, nên mở mồm mở
miệng ra, toàn là :
- Cái con mẹ mày...cái con mụ kia...
- Ta thế này, ta thế nọ...
Rõ thật oai hơn cóc chết. Vợ mà không vâng, thì
chỉ có nước ăn chửi và ăn đòn mà thôi.
MỤC LỤC

Tiếp đến bằng hành động. Những ông chồng


độc tài này chẳng buồn thò tay giúp cô vợ một
công việc nào, để mặc cô vợ đầu tắt mặt tối, còn
mình thì chỉ việc ngồi uống trà và hút thuốc, hay
nằm đọc báo và coi truyền hình...bởi vì họ nghĩ
rằng : thò tay giúp vợ là mất mặt đấng nam nhi
đại trượng phu. Xem ra họ rất thích đóng vai chỉ
đạo nghĩa là chỉ cho người khác làm, còn mình
thì xin miễn. Hay đóng vai giám đốc, nghĩa là
đốc cho người khác làm, còn mình thì xin được
hai chữ bình yên.
Gã đã từng thấy có những bà vợ buôn thúng
bán mẹt, suốt ngày gánh hàng đến chai cả vai,
vẹo cả cổ, bòn từng đồng xu, cốt để tới bữa ăn,
phải có tí thịt tí cá và xị rượu cho ông chồng.
Thậm chí còn phải bày cả một mâm riêng cho
ông chồng xơi trước, dư lại bao nhiêu mới tới
lượt bà và các con.
MỤC LỤC

Để kết luận cho kiểu thứ ba và thứ tư này, gã xin


mượn lời suy diễn của thánh Tôma, đấng tiến sĩ
Hội Thánh, như sau :
- Thiên Chúa không lấy xương đầu của ông
Adong mà dựng nên bà Evà, vì e rằng bà sẽ
thừa thắng xông lên mà coi mình là bậc đờn chị
để rồi cai trị ông và gây nên những hậu quả tai
hại sau này. Thiên Chúa cũng không lấy xương
gót chân của ông Adong mà dựng nên bà Evà,
vì e rằng ông sẽ xem thường và đày đọa bà, coi
bà chỉ là một thứ tôi đòi. Trái lại, Thiên Chúa đã
lấy chiếc xương sườn của ông Adong mà dựng
nên bà Evà. Hẳn mọi người đều biết : xương
sườn là một thứ xương ở giữa thân thể con
người và nằm sát trái tim, nên bà cần phải được
bình đẳng với ông và cần phải được ông yêu
thương chăm sóc.
MỤC LỤC

Kiểu thứ năm : vợ như một người quản lý.


Gã đã có một kinh nghiệm thật cay đắng về
ngân hàng. Số là sau ngày 30 tháng 4 năm
1975, tất cả những người mắc nợ ngân hàng
đều phải thanh toán, trả lại cho bằng hết, tới tận
đồng xu cuối cùng. Trong khi đó số tiền thiên hạ
gửi vào thì ngân hàng lại...lờ tít, thành thử mất
cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi.
Vì thế, có người đã sánh ví vợ như là một ngân
hàng sống. Khi ta lấy vợ, có nghĩa là ta mở một
trương mục ở ngân hàng để ký thác toàn bộ
cuộc đời và tiền bạc của ta vào đó. Có người
cảm thấy rằng nhờ vậy mà cuộc đời được an
toàn và tiền bạc được sinh lời, dù rằng lãi suất
rất thấp.
Thế nhưng cũng có kẻ cảm thấy rằng mình
bị...mất cắp. Mất cắp cuộc đời cũng như mất
cắp tiền bạc. Thực vậy, suốt bao năm tháng học
MỤC LỤC

tập đèn sách, đổ mồ hôi sôi con mắt, mới khều


được cái mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư hay ngoi lên
làm ông chánh, ông trùm...còn cô nàng ấy hả,
chỉ cần ừ một phát để làm vợ người ta và
nghiễm nhiên được cả và thiên hạ gọi là bà bác
sĩ, bà kỹ sư hay bà chánh, bà trùm.
Còn chuyện tiền bạc. Trước kia làm đồng nào
mình xào đồng ấy, còn bây giờ, làm được bao
nhiêu đem về nộp bấy nhiêu. Chẳng được thiếu
một đồng một cắc. Không nộp hết là không
xong. Nhưng phiền một nỗi đó là nộp vào thì dễ
mà rút ra thì khó. Thành ra đôi lúc phải nói
quanh nói co, nói gian nói dối để có tí tiền còm
cà phê cà pháo hay chi dùng chuyện nọ chuyện
kia.
Tuy nhiên, gã không thích sánh ví vợ với ngân
hàng, dù là ngân hàng sống bởi vì nó có vẻ tiền
bạc vật chất quá đi thôi, mà muốn sánh ví vợ với
MỤC LỤC

một người quản lý hơi tham lam. Người quản lý


tham lam này sẽ coi ông chồng như một công cụ
kiếm tiền và cô nàng sẽ bòn rút cho đến hơi thở
và đồng xu cuối cùng. Khi ông chồng đem tiền
về thì cô nàng vui như tết. Khi ông chồng bị thất
nghiệp hay không kiếm ra tiền nữa thì chỉ có
cách biến đi chỗ khác chơi, chứ ở nhà thì cũng
phát điên lên mất vì những lời chì chiết và bóng
gió. Khi ông chồng ngửa tay xin mấy đồng tiền
lẻ, thì hãy đợi đấy nghe cô nàng ca vọng cổ sáu
câu có mùi cái đã.
Dân Mỹ mới có mấy người chết vì bệnh than thì
đã cuống cà kê, còn những ông chồng đáng
thương này chịu đựng “bệnh...than” của cô nàng
suốt bao nhiêu năm tháng mà có chết chóc gì
đâu.
Quản lý thì phải dính liền với tiền bạc vật chất.
Đó là chuyện thường tình. Tích lũy hay ky cóp
MỤC LỤC

nhằm bảo đảm đời sống vật chất cho gia đình
thì tốt, dù cô nàng có hơi chặt chẽ, keo kiệt hay
bủn xỉn một tí cũng không sao. Vì lợi ích chung,
mình vì mọi người kia mà. Như chị kiến, tha lâu
cũng đầy tổ, mùa hè vẫn ra sức thu gom để mùa
đông không bị túng quẫn.
Tuy nhiên, có những cô nàng keo kiệt với chồng
với con, nhưng lại hào phóng với bản thân theo
kiểu vung tay quá trán, con nhà lính tính nhà
quan, mắc phải hội chứng đi “shop”, nay mua cái
này, mai sắm cái kia, thành thử chẳng mấy chốc
mà ngân quĩ trong gia đình bị bốc hơi hay đội
nón ra đi lúc nào cũng không hay.

Kiểu thứ sáu : vợ như người tình.


Những bà vợ kiểu này thường hay dẩu mỏ chê
bai ông chồng của mình là kẻ “chỉ biết có nồi
cơm chứ chẳng hề biết còn có cả hoa hồng
MỤC LỤC

trong cuộc sống”. Hay trách móc ông chồng của


mình “khô như ngói, chẳng hề biết lãng mạn, để
hâm nóng tình yêu”.
Và thế là dù đám cưới đã xong xuôi và mọi việc
đều đã trở về với nhịp điệu bình thường của nó,
ông chồng vẫn cứ phải tiếp tục đóng vài trò
người tình, tức là phải săn đón cô nàng, căng óc
ra mà đoán xem cô nàng đang muốn gì để mà
chiều chuộng.
Ngày sinh nhật, ngày cưới nhau, ngày tình yêu,
ngày phụ nữ, ngày tết, ngày lễ...tất tần tật đều
phải lên lịch để mua hoa, mua quà kèm theo
những lời lẽ lâm ly bi đát nhất không kém gì
tuồng cải lương. Nếu trót dại mà lỡ quên thì
chắc chắn chiến tranh lạnh sẽ xảy ra, mặt mũi
cô nàng sẽ ủ dột như bánh bao chiều :
- Anh không còn thương em nữa...dồi. Hay là lại
anh có người ta.
MỤC LỤC

Còn cô nàng thì chăm sóc đến nhan sắc của


mình hơn là chăm sóc việc nhà bởi vì cô nàng
đang đóng vai người tình kia mà.

Kiểu thứ bảy : vợ là như người...vợ.


Có một truyền thuyết cho rằng : người đàn bà
không phải được tạo nên từ chiếc xương sườn
của người đàn ông, mà được làm ra bằng một
loại hợp chất. Đúng vậy, thuở ban đầu, người
đàn ông sống trơ trụi một mình. Vừa đơn độc lại
vừa buồn phiền. Thượng đế nhìn thấy bèn lấy
làm tội nghiệp, nên dủ lòng thương, bèn lấy một
chút dịu dàng của hoa lan, một chút xinh đẹp
của bông hồng và một chút tinh khiết của cánh
huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau. Nhưng chưa
đủ. Ngài còn hòa vào hợp chất ấy một chút tinh
ranh của con khỉ già, một chút độc ác của con
rắn hổ mang và một chút hung dữ của con sư
MỤC LỤC

tử. Tất cả được nhào nặn và quyện lẫn vào


nhau mà tạo nên người đàn bà.
Thượng đế bèn trao cái khối hợp chất kỳ diệu và
quái quỉ ấy cho người đàn ông. Và từ đó người
đàn ông không còn cô đơn trơ trụi nữa. Thế
nhưng, vào một buổi sáng u ám, người đàn ông
bỗng cảm thấy không còn chịu đựng nổi sự tinh
ranh, độc ác và hung dữ của cái hợp chất quái
quỉ ấy, nên đã mang trả người đàn bà lại cho
Thượng đế. Song cuộc ly hôn đầu tiên này diễn
ra chưa đầy một tuần trăng, thì người đàn ông
bỗng cảm thấy nhớ day nhớ dứt cái vẻ dịu dàng,
xinh đẹp và tinh kết của cái hợp chất kỳ diệu ấy,
bèn chạy đến xin Thượng đế trả lại người đàn
bà cho mình. Từ đó họ sống hòa thuận, đầm ấm
và hạnh phúc với nhau.
Dầu vậy, người đàn ông vẫn không ngừng kêu
cầu :
MỤC LỤC

- Xin cho nàng mãi mãi dịu dàng như hoa lan,
xinh đẹp như bông hồng và tinh khiết như cánh
huệ.
Từ truyền thuyết trên, chúng ta thấy người vợ lý
tưởng chính là người vợ kiểu thứ bảy. Cô nàng
đích thị phải là người vợ “một chăm phần chăm”,
người vợ chính hiệu con nai vàng.
Muốn được như thế, cô nàng phải là tổng hợp
của sáu kiểu trên với một thành phần vừa đủ
cho mỗi kiểu. Cô nàng phải biết lúc nào nên
chăm sóc và hỏi ý kiến ông chồng, lúc nào nên
nũng nịu và vòi vĩnh còn lúc nào phải nghiêm
khắc và cứng rắn. Cô nàng cũng phải biết lúc
nào phải thu gom tiền bạc và lúc nào phải ban
phát. Có đầu vào thì cũng phải có đầu ra. Vừa
có tình lại vừa có lý. Vừa cương lại vừa nhu...
Nhưng trên cõi đời này, hỏi có mấy anh đờn ông
tìm được một chị vợ như vậy. Và một người vợ
MỤC LỤC

lý tưởng kiểu thứ bảy liệu có thực sự tồn tại trên


mặt đất này không ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

THẾ GIỚI KHÔNG ĐỜN BÀ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Trước khi đi vào bài viết hôm nay, gã xin ghi lại
một so sánh khập khiễng mà gã đã sưu tầm
được. Nhà địa lý nhìn người đờn bà bằng cặp
mắt méo mó nghề nghiệp của mình và đã diễn
tả như sau :
Ở độ tuổi từ mười lăm đến hai mươi, người phụ
nữ được ví như nước Công gô, một nửa đã
được khám phá, và một nửa vẫn còn hoang dại.
Ở độ tuổi từ hai mươi đến ba mươi, người phụ
nữ được ví như nước Mỹ, đã được khám phá
trọn vẹn và hoàn chỉnh về mặt kỹ thuật.
Ở độ tuổi ba mươi đến ba mươi nhăm, người
phụ nữ được ví như nước Ấn độ, rất nóng bỏng,
rất xinh đẹp và đầy hiểu biết.
MỤC LỤC

Ở độ tuổi ba mươi nhăm đến bốn mươi, người


phụ nữ được ví như nước Pháp, một nửa đã bị
tàn phá sau chiến tranh, nhưng vẫn rất hấp dẫn.
Ở độ tuổi bốn mươi đến năm mươi, người phụ
nữ được ví như nuớc Đức, không còn đấu tranh
nhưng vẫn cứ hy vọng.
Ở độ tuổi năm mươi đến sáu mươi, người phụ
nữ được ví như nước Nga, rất rộng, rất yên tĩnh,
nhưng không còn thu hút nữa.
Ở độ tuổi sáu mươi đến bảy mươi, người phụ
nữ được ví như nước Anh, với một quá khứ vẻ
vang, nhưng tương lai thì chẳng có gì.
Còn sau lứa tuổi bảy mươi ấy hả ? Người phụ
nữ được ví như Sibêria, tất tật đều biết nơi này,
nhưng chẳng ai thèm tới.
Từ những so sánh khập khiễng và có tính cách
méo mó nghề nghiệp trên, gã xin đi vào điểm cốt
lõi của vấn đề.
MỤC LỤC

Ngày xửa ngày xưa, lúc còn bé, gã rất khoái đọc
cuốn truyện “Gulliver phiêu lưu ký”. Chuyện ấy
kể lại rằng :
Ngày nọ, Gulliver đi lạc vào lãnh địa của những
người tí hon. Người người này đã coi Gulliver
đích thực là một anh chàng khổng lồ, đem tai
họa đến cho quê hương đất nước của họ. Và
thế là họ bàn mưu tính kế quyết định giết
Gulliver. Nhưng phải làm sao bây giờ ?
Chả lẽ lại như hội đồng chuột trong câu chuyện
ngụ ngôn. Toàn thể đại hội của họ hàng nhà
chuột đều nhất trí cao là phải đeo một cái
chuông vào cổ mèo, để hễ mèo đi đến đâu, thì
liền phát ra những âm thanh kính keng, báo
động cho họ hàng nhà chuột biết đường tẩu
thoát. Ý kiến ý cò thì rất tuyệt vời, nhưng rồi
chẳng một con chuột nào dám thực hiện cả.
MỤC LỤC

Ở đây thì khác, nhưng người tí hon không giống


như họ hàng nhà chuột, họ nói và làm liền tức
khắc. Họ huy động cả nước, đợi cho Gulliver
ngủ say, và thế là a-lê-hấp, tất cả đều nhất tề
đóng những chiếc cọc đâm sâu xuống đất, rồi
dùng những sợi dây nhỏ cột chặt Gulliver lại.
Khi tỉnh giấc, Gulliver đã không thể nào dứt đứt
những sợi dây nhỏ ấy. Và thế là anh chàng
Gulliver tội nghiệp của chúng ta bỗng chốc trở
thành tù bình cho những người tí hon.
Đó là trong chuyện cổ tích ngày xưa. Còn hôm
nay trong đời thường, gã có một anh bạn thân.
Anh bạn này, thời còn giai trẻ đã khổ đau với
những mối tình còm của mình. Khi thì bị cô này
cho leo cây, lúc lại bị chị kia cho tuột dù. Mãi tới
“bốn mươi mí” hắn ta mới kiếm được một cô vợ.
Cứ tưởng rằng có vợ rồi ắt hẳn sẽ yên bề gia
thất và cuộc đời sẽ mỉm cười với hắn ta, ai dè
MỤC LỤC

đâu hắn ta vớ phải cô vợ thuộc týp bà chằng, chỉ


kém sư tử Hà Đông có một tẹo, thành ra chó
đen vẫn giữ mực, mèo vẫn hoàn mèo. Khổ đau
thì vẫn cứ khổ đau, nhưng xem ra còn có mòi
dai dẳng và cay đắng hơn trước. Chính những
khổ đau ấy đã kết tủa thành một cục sạn to tổ bố
trong óc não của anh ta.
Vì thế, hễ mở mồm mở miệng đá động tới đờn
bà con gái là hắn ta phun ra toàn những lời độc
địa, chua hơn chanh và cay hơn cả ớt. Thậm
chí, hắn ta còn ra sức sưu tầm và “ngâm kíu”
những tư liệu nói xấu đờn bà con gái.
Hễ tờ báo nào có bài thơ hay mẩu viết hợp gu
với hắn ta, là hắn ta bèn cắt béng ngay đi, cất kỹ
vào ngăn tủ, khóa chặt lại, để mỗi khi bà xã đi
vắng, thì bèn lôi ra mà tủm tỉm tụng niệm.
MỤC LỤC

Tối hôm ấy, trước khi đi ngủ hắn đã lâm râm đọc
một bài thơ mà hắn đã thuổng của một tác giả
nào đó trong báo “Phụ nữ Chủ nhật” :
- Ước chi không có đờn bà,
Một mình thanh thản, cửa nhà êm ru.
Đầu óc chẳng phải lu bù,
Sợ lời léo nhéo, gật gù làm theo.
Chẳng lo va vấp, chẳng mèo mỡ chi.
Ăn, ngủ, chơi thích là đi.
Chẳng lo tra hỏi : làm gì ? Ở đâu ?
Thật vui khi chẳng muộn sầu,
Chẳng người yêu bước lên tàu sang ngang.
Một mình cuộc sống an nhàn,
Ung dung, thư thái, đàng hoàng. Cần chi ?
Tươi vui cuộc sống có khi,
Kéo dài tuổi thọ, ít thì gấp...ba.
Ước chi không có đàn bà,
Đờn ông một lũ, thế là khỏe...ru!
MỤC LỤC

Lâm râm đọc xong bài thơ ấy, hắn ta thiếp ngủ
lúc nào cũng không hay, trên miệng vẫn còn nở
một nụ cười...ruồi, rất ư là mãn nguyện
Trong lúc ngủ mê mệt như vậy, hắn ta mơ thấy
mình đang đi dưới ánh trăng vàng, thì gặp một
ông già, râu tóc bạc phơ. Hắn ta nhớ mang
máng hình như đã gặp ông già này ở đâu thì
phải. Hắn ta ngẫm nghĩ, rồi vỗ trán đánh đét một
cái và mừng rỡ kêu lên :
- Đúng rồi, ngài chính là “nguyệt lão” đã cột cẳng
chân ta bằng một sợi dây đỏ vào với cẳng chân
của cô ấy, để rồi ta với cô ấy nên duyên vợ
chồng.
Thế là lập tức ba chân bốn cẳng, hắn ta chạy vắt
giò lên cổ tới ra mắt nguyệt lão. Nguyệt lão nhìn
hắn ta rồi lên tiếng nói :
- Nhà ngươi hãy báo cáo cho ta tình hình bà xã
ngươi như thế nào ?
MỤC LỤC

Mặt hắn ta liền xụ xuống, ủ rũ như cờ tang. Rồi


hắn thành thực khai báo với nguyệt lão :
Cô nàng mà ngài đã cột vào cẳng con chẳng
còn ra thể thống nào cả. Này nhé, con chỉ xin kể
ra một vài tội “điển hình tiên tiến” mà thôi.
Tội thứ nhất đó là cô ấy mắc phải cái chứng
bệnh than một cách trầm trọng. Nước Mỹ sau
ngày 11 tháng 9 năm 2001, mới chỉ có mấy
người chết vì cái chứng bệnh này, ấy thế mà họ
đã lo sốt vó, lo cuống cà kê cả lên. Còn cô ấy hả
? Mắc chứng bệnh than mãn tính. Này nhé
“sáng ra, cô ấy than hết tiền hết gạo. Chiều về,
cô ấy than hết xăng hết dầu. Đầu tháng cô ấy
than giá cả tăng cao. Cuối tháng cô ấy than tiền
lương hạ thấp. Ngày, cô ấy than nhiều việc làm
không xuể. Đêm, cô ấy than mệt mỏi đau lưng.
Đến cơ quan, cô ấy than chồng không bằng
người. Về nhà mình, cô ấy than đồng nghiệp
MỤC LỤC

xấu tính xấu miệng. Hết than người rồi lại đến
than mình. Nhiều lúc cô ấy đấm ngực thùm thụp
mà than : bè bạn bằng tuổi có nhà có cửa, có
chồng làm ông nọ ông kia, có con thi cấp này
cấp khác. Thật khốn thân tôi vớ phải ông
chồng…...cả tũm. Uổng bao công sức học hành,
nai lưng ra làm việc mà cũng chẳng nên cơm
cháo gì. Hơi mệt trong người một tí, cô ấy than
như mắc phải chứng nan y...Suốt ngày, hở lúc
nào lại ra rả như vậy thì làm sao con chịu nổi”.
Ngoài ra, cô ấy còn mắc phải cái “hội chứng trí
thức” nữa mới chết con. Ngày xưa, như ngài đã
biết, hành trình của bất cứ bà vợ nào cũng là từ
nhà ra đến chợ và rồi lại từ chợ về đến nhà. Đơn
giản chỉ có vậy mà thôi.
Còn bây giờ ấy hả. Với mảnh bằng đại học trong
tay, cô ấy đã nhảy bổ ra ngoài xã hội. Rất may là
việc nhà cô ấy không nỡ phó mặc cho bố nó,
MỤC LỤC

nhưng vẫn còn kiêm nhiệm, nên cũng đỡ khổ


cho cái thằng con. Bình thường thì cô ấy cũng
hiền cũng dịu, nhưng chỉ phiền một nỗi, đó là
mỗi khi không vừa ý, hay tức giận điều chi, thì
cô ấy la toáng lên, khiến mấy thằng bạn xấu
bụng xấu dạ đã “bình luận” với con rằng :
- Bà xã mày, mặt thì mặt đờn bà, nhưng cốt lại là
cốt đờn ông.
Nếu hứng chí bày trò làm thơ ca tụng cô ấy thì
đừng có mà nói tới “công dung ngôn hạnh”. Xưa
rồi Diễm ơi. Bài thơ có phệu ra được, thì chí ít
cũng phải như một tác giả mang tên Đỗ :
- Em vất vả nơi văn phòng máy lạnh,
Hồ sơ đầu tư đè nặng vai gầy.
Em tất tả giữa ngân hàng sóng gió.
Chân rã rời cao ốc chạm vào mây.
MỤC LỤC

Đôi khi cũng muốn có tí ý kiến ý cò với cô về


chuyện này chuyện nọ, thì liền bị kê tủ đứng vào
miệng :
- Rõ đồ hai lúa, quê một cục, biết gì mà nói.
Vừa báo cáo tới đây, nguyệt lão bèn xua tay và
bảo :
- Đủ rồi, đủ rồi. Ta rất hiểu hoàn cảnh não nùng
và bi đát của ngươi. Này đây ta sẽ cho ngươi
được phỉ chí toại lòng.
Nói xong, nguyệt lão bèn giơ cao chiếc gậy trúc,
rồi hô :
- Một, hai, ba, đờn bà...biến.
Lập tức tất tật đờn bà con gái liền lặn khỏi mặt
đất, hay do phép thần thông biến hóa của
nguyệt lão, mà bỗng trở nên “tàng hình” hay ẩn
nấp ở cái xó xỉnh nào không ai nhìn thấy.
Hắn ta đủng đỉnh bước ra khỏi nhà, hít thở một
bàu không khí trong lành và nhẹ nhõm như vừa
MỤC LỤC

thoái khỏi cái ách gông cùm, bởi vì trai có vợ


như rợ buộc chân.
Ngoài đường phố hắn ta chỉ thấy rặt có phe
mình, toàn những đấng mày râu không hà. Anh
nào anh nấy nét mặt tươi rói, cười cười nói nói,
ồm ồm như sấm vàng, rất ư là vô tư. Gặp nhau
tay bắt mặt mừng và hô lớn bằng đủ thứ ngôn
ngữ :
- Chào... Hai... Rua...
Ôi, cái ngày vắng bóng đờn bà con gái mới
khoái làm sao. Báo chí, truyền thanh và truyền
hình đã có những phóng sự, những hình ảnh
thật tuyệt vời về ngày trọng đại này. Phóng viên
Hùng Khâm của một tờ báo nào đó, trong tiểu
phẩm của mình đã mô tả như sau :
Đó là buổi sáng khi bạn thức dậy mà chẳng cần
ai đánh thức, có nghĩa là bạn được ngủ rất ư
thoải mái và lố vào giờ làm việc đến hơn một
MỤC LỤC

tiếng đồng hồ. Chẳng sao cả, không có ai càu


nhàu về chuyện bạn đi làm muộn. Không ai bắt
bạn phải thay quần áo và bạn cứ tự do đeo lên
người bộ đồ đã nhăn nhúm từ hôm qua.
Bạn ra đường không sợ xui vì “gặp đờn bà” và
cũng không phải liếc ngang liếc dọc tìm ngắm
một bóng hồng nào...Và bạn còn có thể ra quán
cà phê ngồi gác chân lên ghế, thậm chí gếch cả
hai chân lên bàn mà không phải ngượng vì một
cô gái nào đó đi qua, nhìn và đánh giá tư cách
của bạn. Tất nhiên cô chủ quán cũng sẽ chẳng
có mặt để đòi cái số nợ mà bạn còn ghi sổ từ
tháng trước.
Ban chiều, bạn sẽ không phải nghe điện thoại
với cái câu chán ngắt :
- Anh thích ăn gì để em còn đi chợ.
Và bạn sẽ chẳng cần phải nghĩ cách nói dối rằng
tối nay bận họp hành gì gì đó để rồi trốn đi nhậu
MỤC LỤC

với bạn bè. Nghĩa là bạn được tư do hoàn toàn.


Thật tuyệt vời ! Bạn cứ việc nhậu cho thoải mái,
cho mát mái luôn và chẳng cần nghĩ đến chuyện
về, cứ uống mút chỉ tới sáng cũng được mà.
Hai giờ sáng bạn mới ngất ngưởng về đến nhà.
Sẽ chẳng có ai đứng ở cửa với khuôn mặt...hình
sự. Bạn sẽ chẳng phải nghe những lời than vãn
vì sự thiếu trách nhiệm, vì sự bê tha và vì đủ thứ
tội trên đời. Thậm chí ác liệt hơn thì còn có thể
là :
- Trời đất ơi ! ngày xưa có tới mười bốn anh
toàn đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu đeo đuổi tôi,
vậy mà sao tôi lại đâm đầu vào lấy anh.
Hay những bài đít cua, đít cáy đại loại là như
vậy.
Không hề có những rắc rối và bạn được tự do
mở ti vi đúng chương trình đá banh mà bạn
thích, rồi cứ tự nhiên để nguyên cả quần áo,
MỤC LỤC

giày dép mà phi lên giường, làm một giấc tới lúc
nào thích thì dậy. Một giấc ngủ tuyệt vời không
hề có ác mộng hay phải mơ tới một cô gái nào.
Và rồi bạn lại bắt đầu một ngày thần tiên mới...
- Ôi , cuộc đời vẫn đẹp xinh. La vie est en rose.
Cuộc đời quả là tươi hồng.
Hắn ta cũng vậy. Để kỷ niệm ngày xổ chuồng,
tối hôm ấy hắn cùng với mấy tên bạn chí cốt ra
ngồi thiền ở quán lẩu dê bên lề đường, làm một
chầu tới ngoắc cần câu. May mà còn đủ tỉnh để
lê từng bước chân âm thầm, thậm chí đôi lúc
còn phải bò trong bóng đêm mà lết về tới nhà.
Rồi sau đó là một giấc ngủ vật vã.
Thế nhưng, như một đồng tiền, cuộc đời có mặt
phải, thì cũng có mặt trái của nó nữa. Và lúc
này, hắn ta đang mon men tiến gần tới mặt trái
của công cuộc giải phóng đờn ông.
MỤC LỤC

Ban sáng thức giấc, đầu nhức như búa bổ, bụng
đói cồn đói cạo, nhào vô bếp kiếm chút cháo
dằn vào bao tử mà chẳng có đí gì sốt. Mở tủ
kiếm áo quần tươm tất để đi làm, thì lại chẳng
còn bộ nào cả. Mọi sự đều nằm gọn trong chiếc
thau, bốc mùi chua ngoét.
Riêng bộ vía hắn ta đang đeo trên mình thì lại
nồng nặc toàn mùi rượu. Sở dĩ như vậy vì “mồ
hôi rượu” của hắn chảy ra ròng ròng, rồi thấm
vào chiếc áo. Nếu đem ngâm chiếc áo hắn ta
đang mặc với một chút nước, rồi vắt cho cạn kiệt
thì chí ít cũng được khoảng một bát. Cái dung
dịch ấy phải chứa tới mấy chục phần trăm cồn,
lúc thèm rượu đem ra uống cũng đủ giải bớt cơn
sầu, nếu không muốn nói là cũng có thể ngồi
đâu khóc đó.
Bạn bè thường sánh ví hắn ta với một chiếc bình
“ắc qui” :
MỤC LỤC

- Mày đúng là một chiếc bình gin, cầm hơi hết


xảy.
Bước chân ra đường, vắng đờn bà con gái thì
cũng vắng luôn những sắc màu của cuộc sống.
Ôi thời oanh liệt nay còn đâu ?
Phải, còn đâu nữa màu xanh, màu đỏ, màu tím,
màu vàng và cả màu cứt ngựa...của những
chiếc áo dài thướt tha, của những thứ váy dài
váy ngắn, khoe rốn, khoe đùi, kheo cẳng...
Còn đâu nữa những cặp môi đỏ choét như tiết
gà mái, những cặp môi xám ngắt như thịt trâu ôi
theo mốt tài tử Hàn quốc.
Còn đâu nữa những mái tóc dài ngắn đủ màu đủ
kiểu.
Báo chí, phim ảnh,tuồng kịch...tóm lại tất cả các
bộ môn nghệ thuật đều tắt ngấm, bởi vì không
còn đờn bà con gái thì các tác giả cũng hết chất,
MỤC LỤC

chẳng còn đề tài để mà lia máy, múa bút hay


vung cọ.
Ta với ta, đối mặt nhau, toàn dân đực rựa, nói
cười oang oang, nhưng lại cộc cằn như dùi đục
chấm mắm tôm. Chẳng mấy chốc, bầu khí trở
nên căng thẳng và oi bức như nắng hè đổ lửa.
Còn đâu những lời nói dịu êm, như ru hồn lạc
vào chốn thiên thai.
Và thế là cái đức tính “ga lăng”, hào hoa phong
đòn gánh của những bậc công tử cứ mỗi ngày
một thui chột rồi mất tăm mất tích. Chỉ còn là
chữ nghĩa đọng trong tự điển mà thôi. Mai mốt
phải mỏi mồm mỏi miệng cắt nghĩa thì con cháu
mới hiểu được thế nào là ”ga lăng” và thế nào là
hào hoa phong đòn gánh.
Về tới nhà, lũ con nheo nhóc, đói bụng đòi ăn
thế là hắn ta lại phải đâm đầu vào bếp. Rất may
vì đã được bà xã dạy vỡ lòng cho cái môn “nam
MỤC LỤC

công gia chánh”, nên nồi cơm hắn ta nấu không


đến nỗi trên sống dưới khê, tứ bề nhão nhoét.
Ngó vào xó góc nào cũng bụi bậm bẩn thỉu, thế
là hắn lại phải cặm cụi quét dọn, rửa ráy. Chăn
mùng mền toát ra một mùi xú khí nồng nặc đến
không chịu nổi, thế là hắn lại phải lầm lũi giặt
dũ...toát cả mồ hôi hột lúc nào cũng chẳng hay.
Biết bao nhiêu công việc không tên trút lên đầu,
lên cổ hắn ta, mà lúc trước, khi còn bóng dáng
bà xã, hắn ta chẳng hề động ngón tay lay thử,
thậm chí cũng chẳng bao giờ thèm nghĩ tới. Đi
làm về, hắn ung dung ngồi đọc báo hay xem
truyền hình chờ cơm. Trong khi đó, bà xã hắn
cũng đi làm về, nhưng lại phải lăn xả vào bếp và
lo giùm cho hắn những việc lỉnh kỉnh ấy. Nếu có
giúp thì hắn ta cũng chỉ giúp qua quít cho phải
phép mà thôi. Không chừng lại còn làm vướng
MỤC LỤC

chân thiên hạ vì cái bản năng đoảng và cả


quỷnh của hắn ta.
Lúc này, hắn ta mới cảm thấy thèm được ăn một
tô canh chua cá lóc, thèm được có người đứng
đợi khi hắn ta tan sở về nhà, thèm một cử chỉ
chăm sóc, thèm một lời an ủi nhẹ nhàng.
Và lỡ có quá chén mà say xỉn, thì hắn ta lại thèm
một ly nước chanh tọng vào bao tử hay một
chiếc khăn lạnh đắp lên mặt cho giã rượu.
Khi cảm cúm, thì hắn lại thèm được một bàn tay
mềm dịu cạo gió, hay một nồi nước xông cho
toát cả mồ hôi.
Và hắn ta còn thèm. Thèm rất nhiều thứ khác
nữa.
Hắn hốt hoảng khi phải sống trong một thế giới
không còn đờn bà con gái nữa. Sự hốt hoảng
làm hắn ta đập mạnh chân xuống giường đánh
rầm một cái.
MỤC LỤC

Hắn ta tỉnh giấc và thầm nói :


- May quá, đó chỉ là một giấc mơ.
Và kể từ giấc mơ ấy, hắn ta đã đổi mới tư duy
và lập trường của hắn ta như chiếc bản lề, quay
phắt một trăm tám mươi độ. Hắn ta không còn
coi cô ấy như đối thủ, hay như địch thủ của mình
nữa, mà lại coi cô ấy như bà xã thứ thiệt, như
người vợ chính hiệu con nai vàng của mình.
Mặc cho bè bạn chê bai, hắn vẫn cứ vững như
kiềng ba chân và còn rất lấy làm tự hào về tác
phong của mình :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó.
Và cũng kể từ giấc mơ ấy, hắn ta bắt đầu sưu
tầm và “ngâm kíu” những tư liệu ca tụng đờn bà
con gái.
Và những lúc hứng chí trước mặt bà xã hắn đã
tuôn ra rông rổng những bài thơ bài thẩn, chẳng
MỤC LỤC

hạn như mẩu sau đây của ông thợ thơ Trần
Thiện Ngân :
- Nếu đời không có đờn bà,
Bầu trời u ám như là đêm đông.
Còn đâu bóng dáng hoa hồng,
Mấy chàng thi sĩ cũng không viết bài.
Viết rồi biết tặng cho ai ?
Khi đời còn có con trai không hà.
Trăng kia chênh chếch xa xa,
Chế súng cao xạ, bắn cho tan tành.

Nếu đời chỉ có các anh,


Lấy ai hầu hạ, cơm canh đêm ngày.
Áo dơ anh chẳng thèm thay,
Quần anh sứt chỉ ai may cho mình.
Suốt ngày im ắng lặng thinh,
Anh thèm nghe tiếng của mình thân yêu.
Chẳng lo vợ mãi nói nhiều,
MỤC LỤC

Lời hay ý đẹp, vì yêu thôi mà.

Nếu đời chỉ có các...cha,


Nhậu hoài cũng chán chẳng ra con người.
Mong rằng trái đất vẫn tròn,
Vạn ngàn năm nữa vẫn còn các...em !!!

Từ cõi trên nhìn xuống, nguyệt lão cảm thấy


mãn nguyện. Và cũng trong đêm trăng sáng ấy,
nguyệt lão đưa tay vuốt chòm râu bạc, đắc chí
mỉm cười :
- Có thế chứ.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NHÂN LOẠI CHẲNG ĐỜN ÔNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Vào năm 1984, bỗng dưng gã được công an kêu
đi “làm việc”. Họ thân ái hạch hỏi gã về cái-tội-
không-phải-là-tội. Thế rồi quen mui thấy mùi ăn
mãi, cứ ba tuần một lần, họ lại trìu mến bắt gã
phải trình diện, để coi tướng coi tá, coi giò coi
cẳng, xem có sứt mẻ bề gì chăng. Suốt mấy
năm trời, gã luôn để bên cạnh giường một cái bị,
trong đó có mấy bộ đồ và một chai dầu cù là, lỡ
được ưu ái mời, thì mình đã sẵn sàng để...đi
luôn.
Cũng trong thời gian ấy, vì muốn quên chuyện
đời, gã bèn đóng cửa “ngâm kíu” về việc...bếp
núc. Gã lôi một đống sách dạy nữ công gia
chánh, đọc ngấu nghiến, ghi chép hẳn hoi và
phân loại cẩn thận. Cuối cùng gã đã tổng hợp và
nghiệm thấy rằng :
MỤC LỤC

- Tất cả các món ăn từ cổ chí kim, từ đông sang


tây, đều được chế biến bằng ba cách. Một là
luộc qua nước. Hai là chiên qua mỡ. Ba nà
nướng qua lửa. Rồi tùy theo thể thức nêm mắm
muối hành tỏi và các đồ gia vị cũng như tùy theo
thể thức trình bày mà làm ra món nọ món kia.
Riêng về cà phê, thiên hạ đã chỉ cho gã một bí
quyết gia truyền như sau :
- Ly cà phê tuyệt vời phải là ly cà phê đen như
thằng quỷ, nóng như hỏa ngục và lịm như tình
yêu.
Thế nhưng gần đây trên báo Phụ nữ Chủ nhật,
có kẻ ghiền cà phê đã cả gan cho rằng cà phê
còn tuyệt vời hơn cả đờn bà. Và rồi kẻ bạo phổi
ấy đã đưa ra những lý lo để biện minh cho chủ
trương, đường lối của mình như sau :
- Bạn không cần thêm kem, cà phê vẫn cứ ngon.
Vào lúc sáng sớm, ly cà phê trông thật tuyệt cú
MỤC LỤC

mèo. Bạn không buồn ngủ sau khi xơi xong một
ly cà phê. Cà phê sẽ chẳng bao giờ làm cho bạn
phải nhức đầu. Bạn muốn cà phê ngọt hay đắng
là tùy ở bạn. Bạn có thể hút thuốc trong khi uống
cà phê. Cà phê lạnh cũng êm mà cà phê nóng
cũng khoái. Còn cà phê Buôn Ma Thuột ấy hở ?
Chắc chắn sẽ mang lại cho bạn “nguồn cảm
hứng sáng tạo mới”.
Trở lại với câu chuyện “Gulliver phiêu lưu ký” mà
gã đã mê tít thò lò từ hồi còn nhỏ. Sau khi thoát
khỏi lãnh địa của những người tí hon, Gulliver bị
lạc bước vào đất nước của những anh chàng
khổng lồ.
Dưới mắt những anh chàng khổng lồ này,
Gulliver chỉ là một nhóc tì, bé tí bé tẹo, khả dĩ có
thể đứng được nơi đầu ngón tay của họ. Và thế
là chú nhóc tì, bé tí bé tẹo này tha hồ nhảy nhót
MỤC LỤC

trên vành tai, nghí ngoáy trong lỗ mũi của những


anh chàng khổng lồ...
Còn đầu tóc của họ ư ? Quả là một cánh rừng
bạt ngàn đối với chú nhóc. Ngặt một nỗi, nếu
chẳng may anh chàng khổng lồ hắt xì hơi một
phát, thì cái phát hắt xì hơi ấy có thể thổi văng
chú nhóc tì, bé tí bé tẹo ấy, đi cả mấy ki lô mét
lận.
Cà kê dê ngỗng một tí cho vui, bây giờ thì gã xin
đi vào đề tài hôm nay, đó là nhân loại chẳng đờn
ông, để đối với đề tài tháng trước, đó là thế giới
không đờn bà.
Vào một đêm trăng sáng vằng vặc, có một tốp
các bà các chị quyết đi vào rừng trúc, tìm cho
được nguyệt lão, hầu trình bày nỗi khổ của
mình. Để tăng thêm nhuệ khí, vị chủ tịch của các
bà các cô đã hô hào :
- Hỡi chị em ơi có biết không ?
MỤC LỤC

Trời phú cho ta một tấm chồng.


Có phước gặp được người tử tế,
Vô duyên dính gã “tứ đổ tường”.
Sáng xỉn, chiều say, khuya...tỉnh giấc.
Nay cờ, mai bạc, mốt lông bông.
Chồng con, cái nợ là như thế,
Hỡi chị em ơi có biết không ?
Nhìn thấy các bà các chị hùng hổ tiến đến, xem
chừng nguyệt lão cũng run. Để giữ bình tĩnh,
nguyệt lão bèn vuốt chòm râu bạc, rồi hắng
giọng nói :
- Các ngươi muốn xin gì ?
Tất cả đều nhất tề thưa lên :
- Chúng tôi muốn dứt bỏ cái sợi chỉ đỏ mà ngày
xưa ngài đã buộc chân chúng tôi với chân
những...lão ấy, để trở thành vợ thành chồng với
nhau.
Nguyệt lão xua tay hỏi :
MỤC LỤC

- Tại sao các ngươi lại muốn dứt bỏ sợi chỉ đỏ


của ta ?
Một bà đáp :
- Khổ lắm ngài ơi, kể từ khi có chồng, tôi như
đeo gông vào cổ.
Một chị khác, xem chừng như một cô đào cải
lương, đã vội ngâm mấy câu thơ sau đây :
- Lấy chồng, lấy phải chồng ghen,
Như đeo trên mắt cục ghen hổ ngươi.
Lấy chồng, lấy phải chồng lười,
Một mình gánh cục nợ đời nặng vai.
Lấy chồng, lấy phải chồng say,
Lành nguyên...cục súc thẳng tay bạo hành.
Nguyệt lão bèn trầm ngâm suy nghĩ rồi nói :
- Vậy ý các ngươi như thế nào ?
Một lần nữa, tất cả đều nhất trí và đồng ý :
MỤC LỤC

- Xin ngài hãy làm cho bọn đờn ông biến khỏi
mặt đất này, để chúng tôi thực sự được giải
phóng và hạnh phúc.
Một chị bèn thỏ thẻ :
- Ước chi không có đờn ông,
Thì em đâu phải tay bồng nách mang.
Anh như cái ách giữa đàng,
Em ngu quá xá nên quàng vô thân.
Xưa kia bụi chẳng lấm chân,
Tự do ngang dọc chẳng cần tới ai.
Tiền mẹ tha hồ tiêu xài,
Sáng siêu thị, tối mệt nhoài đăng xinh.
Chẳng cần đi bẩm về trình,
Dạ vâng nhỏ nhẹ : “thưa mình, em đây”.
Khi xưa ta đây “một cây”,
Thời trang hiện đại đến tây cũng phải hàng.
Giờ đây thiếp sống bên chàng,
Như cá không nước, như đàn đứt dây.
MỤC LỤC

Như rồng không gặp được mây,


Tay chân đầu tóc suốt ngày rối tung.
Coi như sợi xích lùng bùng,
Chồng, còng số tám lạnh lùng khóa vô.
Xưa kia em quá ngây ngô,
Ham vui theo bạn đổ xô “săn” chồng.
Một chị khác cũng ấm ức than thở :
- Ước chi không có đờn ông,
Thì đâu có cảnh chờ chồng đêm khuya.
Mê nhậu, mê gái, mê bia,
Ngất nga ngất ngưỡng…đi hia một giò.
Về nhà là ngáy kho kho,
Quên bài...không trả, học trò lưu ban.
Thì sống cái kiếp hồng nhan,
Còn hơn cứ phải điêu tàn héo hon.
Quần áo giày dép phấn son,
Tha hồ chưng diện chẳng còn ai ghen.
Mỗi khi thành phố lên đèn,
MỤC LỤC

Vui chơi nhảy nhót đêm đen mới về,


Một mình vui thú chán chê,
Gạo còn hay hết chẳng hề lo toan.
Thật là cuộc sống huy hoàng.
Đờn ông biến hết, chỉ còn phe ta.
Nguyệt lão gật đầu :
- Được rồi, ta sẽ cho các ngươi được phỉ chí toại
lòng.
Nói rồi, nguyệt lão giơ cây gậy trúc và hô :
- Đờn ông con giai...biến.
Và thế là kể từ giây phút trọng đại ấy, chẳng còn
một mống đờn ông con giai, chẳng còn một vị
nam nhi đại trượng phu, chẳng còn một dân húi
cua tóc ba phân đều nào trên mặt đất này cả.
Và lịch sử bắt đầu một kỷ nguyên mới.
Một tác giả tên là Kim Hương đã ghi nhận buổi
bình minh của kỷ nguyên mới ấy như thế này :
MỤC LỤC

Sáng hôm đó, tôi thức dậy hơi bị sớm, bỗng


phát hiện ra một việc là ông chồng mập nằm kế
bên mình bị...”mất tích”.
Chà, không biết ổng đi đâu sớm thế, chứ bình
thường cũng phải hơn bảy giờ mới ra khỏi
giường.
Tôi lo lắng chạy bay ra đường nghe ngóng coi
có tin tức gì của chồng mình không. Ai ngờ, vừa
ra tới ngoài đường, tôi thấy rất nhiều bộ dạng
của những người phụ nữ : già có, trẻ có mà sồn
sồn cũng có. Quần áo tươm tất có và cả đồ ngủ
cũng “xuống đường”. Hỏi ra mới biết, tất cả các
ông chồng đều biến mất.
Đầu tiên ai cũng tỏ ra lo lắng, không biết chồng
mình đi đâu hay bị “bắt cóc” ? Nhưng nhìn qua
nhìn lại, thấy bà nào cũng bị mất chồng, nên mọi
người đều nghĩ “ chừng nào chồng họ xuất hiện,
MỤC LỤC

thì tất chồng mình cũng thế, chẳng sợ”. Và cứ


vậy mà yên chí lớn, ai về nhà nấy.
Thật sung sướng không sao kể xiết khi bắt đầu
một ngày mới không có...đờn ông. Tôi lên kế
hoạch đàng hoàng, chẳng phải lo đồ ăn sáng
cho “ổng”, đỡ tốn thêm cái khoản cà phê, thuốc
lá. Lại nữa, đi chợ thích gì ăn nấy, không phải
đắn đo suy nghĩ coi ổng thích ăn món chi ?
Và không gì bằng đi siêu thị mà không sợ ai to
mồm rằng “mua gì lắm thế”.
Đã thế lại còn tiết kiệm được khá nhiều tiền khi
không cần đến mỹ viện để làm gầy, lại còn được
tha hồ ăn, chả sợ béo phì, chả sợ ai chê là mập
như...
Và không phải giả bộ...cười khi thấy bản mặt “dễ
ghét” của ổng. Nhất là...Ôi thật tuyệt vời, cánh
đờn bà chúng mình có thể nằm ngủ thẳng giấc...
MỤC LỤC

Mới tính toán sơ sơ thôi, mà tôi đã cảm thấy


lâng lâng, dễ chịu và thoải mái vô cùng. Tôi sẽ
trở lại thời…con gái, thời mà tôi chưa bị đờn ông
đem nhốt vô lồng với bao nhiêu công việc không
tên bù đầu bù cổ.
Nhưng từ đây, tôi và các chị sẽ đổi thay hoàn
toàn, tự do hoàn toàn. Tôi đã chuẩn bị “tư thế
mới” để bắt đầu lăn vào cuộc sống không đờn
ông.
Hầu như tất cả quí bà quí cô đều hăm hở lên
chương trình cho cuộc sống riêng, cũng như cho
khoảng trời riêng của mình. Trong cuộc sống và
khoảng trời riêng ấy, dứt khoát là không có bóng
dáng đờn ông con giai. Chương trình đại khái
mang những nét giống nhau.
Ban sáng ta có thể nằm ngủ nướng mặc sức,
chả phải dậy sớm mà chui vào bếp. Cứ việc
thoải mái cho tới khi mặt trời xỏ lỗ mũi cũng
MỤC LỤC

chẳng hề hấn gì. Nếu muốn thì đánh răng rửa


mặt, còn không thì cứ việc đầu bù tóc rối, có ai
để ý đâu mà sợ. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao !
Nếu thích trang điểm, thì ta cứ việc ngồi vào
bàn, tô son trét phấn mặc sức. Cứ việc vô tư
biến khuôn mặt mình trở thành khuôn mặt của
một cô đào cải lương, hay của dân phường chèo
cũng vẫn là hết ý. Rồi sau đó ướm thử hết bộ
này đến bộ kia, bộ nào ưng ý nhất thì khoác vào
thân, cho dù bộ ấy có hở “một phần da ba phần
thịt”, cũng chẳng sợ ông xã nhăn mặt. Ôi cuộc
đời mới tuyệt làm sao !
Còn nếu mắc chứng bệnh “lươi huyền mãn
tính”, thì ta cứ việc để nguyên bộ đồ ngủ mà đi
lại trong nhà, hay xuống phố mà chẳng cần đeo
vào mình những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh. Thế mới
thật là nhẹ nhõm. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm
sao !
MỤC LỤC

Không phải chui đầu vào bếp nấu nướng cho


ông xã đã đành, mà ta còn tha hồ xơi theo sở
thích của mình. Muốn gì xơi nấy. Thậm chí có
thể anh dũng ngồi ngồi bên vỉa hè, húp chùn
chụt một lúc vài tô bún riêu, hay vài tô bún ốc
cho đã thèm, cho khoái khẩu mà chả sợ ma nào
cười, ma nào chê. Ta cũng có thể rít một hơi
thuốc lá, rồi thả hồn mơ theo làn khói. Ôi cuộc
đời mới tuyệt làm sao !
Thời giờ còn lại của một ngày ấy hả ?
Ta có thể ngồi hát karaoke hết bài này sang bài
khác, từ những bài tình cảm ướt át cho đến
những khúc “quân hành ca” thật oai phong lẫm
liệt. Ta không sợ giọng hát vượt thời gian của ta
hành hạ, làm rúng động con tim và làm điếc lỗ
nhĩ của hàng xóm, Bởi vì hàng xóm gần gũi nhất
của ta, hắn đã...biến mất tiêu rồi, đâu còn nữa.
Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao !
MỤC LỤC

Ta có thể bật đầu máy coi hết những bộ phim


tình cảm lâm ly bi đát nhiều tập của Hồng Công
hay của Hàn Quốc mà chẳng sợ bị một ai phá
đám. Xem từ sáng đến tối cho thỏa cơn ghiền,
khi nào mắt mờ và tai lùng bùng mới thôi. Quả là
đã điếu. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao !
Ta có thể mải mê đọc những tờ báo lá cải,
“ngâm kíu” từng vụ án cướp bóc, nhất là từng
chuyện tình éo le, từng cuộc đánh ghen, ngay cả
những tin xe cán chó, ta cũng chẳng bỏ qua, để
rút tỉa những kinh nghiệm quí giá, làm giàu cho
đầu óc và làm đẹp cho bản thân. Ôi cuộc đời
mới tuyệt làm sao.
Ta có thể kéo nhau sang nhà bà hàng xóm, tụm
năm tụm ba đấu hót vung vít. Tha hồ cà kê dê
ngỗng, kể tội bọn đờn ông, từ lão này sang lão
khác. Hết chuyện phe địch thì lại bắt quàng sang
chuyện phe ta. Nào là nhỏ này dễ ghét, nào là
MỤC LỤC

nhỏ kia chả ra cái thể thống gì. Ngôn ngữ tuôn
trào rông rổng, chẳng khác bà phát ngôn viên
của bộ ngoại giao Việt Nam là mấy. Ôi cuộc đời
mới tuyệt làm sao !
Ta còn có thể lôi nhau đi “shop”, ngắm hết gian
hàng này đến gian hàng kia. Tha hồ mua sắm
mà chẳng phải dè chừng cặp mắt cú vọ của lão
chồng keo kiệt, hay những tiếng thở dài của tên
bồ mắc chứng bệnh…than trầm trọng kể từ ngày
mười một tháng chín năm hai ngàn linh một. Ôi
cuộc đời mới tuyệt làm sao !
Rồi khi màn đêm buông xuống, ta cứ việc nhảy
phóc lên giường đánh một giấc cho đẫy con
mắt, mà chẳng sợ bị ai khều, ai gọi. Rồi sáng
hôm sau, một ngày tuyệt vời vắng bóng đờn ông
con giai lại được bắt đầu. Và cứ thế, cứ thế.
Ngày nọ nối tiếp ngày kia như hồi nọ nối tiếp hồi
kia trong truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa bên
MỤC LỤC

Tàu, bản dịch của Tử Vi Lang và lời bàn của


Kim thánh Thán. Ôi cuộc đời mới tuyệt làm sao !
Tất cả những cái ấy đã được đúc kết thành một
bài thơ mang nhiều tính cách hồ hởi như sau :
- Không chồng không phải không chồng,
Không chồng vì bởi chồng không có nhà.
Ú là...khỏe quá thân ta,
Tha hồ ngủ, vất gối bừa lên chăn.
Sáng buồn thì khỏi đánh răng,
Cơm ăn khỏi phải lo mần cho ngon.
Hễ vui cứ việc cười giòn,
Mặc cho ai ngó, ai dòm kệ ai.
Nhạc thì cứ mở đã tai,
Tha hồ nhún nhảy gầm gừ mình ta.
Rồi sang hàng xóm lân la,
Ngồi lê đôi mách chuyện gà chuyện dê.
Chuyện trời, chuyện nước, chuyện non.
Chẳng chừa cả chuyện chồng con của mình.
MỤC LỤC

Một ngày thật quá phỉ tình,


Ước chi chồng biến luôn mình mừng thay.
Thế nhưng, sau thời gian quá độ đầy phấn chấn
này, thời gian như chùng xuống rồi ngừng đọng,
không gian như đi vào một mùa đông ảm đạm,
và lạnh lẽo. Người ta bỗng thấy quí bà quí cô
trầm hẳn xuống. Ít cười và ít nói. Hình như ai
cũng anh ách một bầu tâm sự riêng tư mà chẳng
biết tỏ cũng ai, bởi vì lỡ dại mồm dại miệng nói
ra, không chừng lại bị thiên hạ cười cho thối
mũi, nên đành phải canh cánh bên lòng, như
một ung nhọt đang nung mủ chưa chịu vỡ.
Thò chân xuống khỏi giường, nhìn thấy xấp nhỏ
ngây ngô và ngơ ngác, bởi vì toàn là “vịt giời”,
toàn là dân “thị mẹt”. Ta bỗng dưng tiếc nhớ
những cái nghịch ngợm của mấy thằng nhóc,
phá phách như quỉ sứ. Bực bội đấy nhưng mà
lại vui. Còn xấp nhỏ hôm nay ngơ ngác là do
MỤC LỤC

không có cha. Con mà không cha thì như nhà


“không có nóc”. Tự thâm tâm ta nghiệm ra rằng :
đờn ông là như cây tùng, cây bách phủ bóng
mát xuống cuộc đời và là chỗ dựa tốt cho con
cái cũng như cho bản thân ta nữa, nếu như
“hắn” không quá xệ.
Thực vậy, không có đờn ông con giai trong nhà,
bóng đèn tắt không ai thay, cầu chì hư không ai
sửa, bàn ghế gẫy chẳng ai thèm lấy đinh ra
đóng lại. Ta mà cầm cái búa, thì cứ lóng nga
lóng ngóng. Đầu đinh không đóng, chỉ chực
đóng xuống ngón tay. Ta cũng giống mấy anh
học trò ngày xưa, là dân trói gà không chặt, dài
lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Hồi trước ấy hả ? Bao nhiêu việc nặng nhọc, ta
khoán trắng cho bọn đờn ông con giai. Chỉ cần
cười ruồi một phát, hay cho bọn họ uống nước
đường bằng một lời khen là xong tuốt luốt. Nặng
MỤC LỤC

nhọc đến mấy, họ cũng vẫn làm hùng hục, lại


còn cảm thấy thích thú và khoái chí nữa. Thế
mới chết. Sao mà họ mà...ngu quá đỗi vậy !
Ngoài ra do ăn uống thả dàn, không cần kiêng
khem. Hễ cái gì khoái khẩu là xơi liền tù tì. Ổi,
xoài và cóc thì cứ phải hàng ký lô. Chè cháo thì
cứ phải dăm ba ly. Vì thế, thân thể ta cứ liên tục
phát triển bề ngang. Lúc này eo ếch mà làm chi.
Không còn đờn ông con giai thì ta cần chi mà
phải làm đẹp. Bởi vì có làm đẹp thì cũng chẳng
ma nào ngắm và xuýt xoa khen tặng. Thôi thì
hãy vứt quách nó đi áo quần thời trang, giày dép
“mô đen”, son phấn đủ kiểu. Bị ăn theo vào đó,
các thẩm mỹ viện cũng như các tiệm uốn tóc,
sửa móng tay móng chân đều dự động “phẹc
mê bu tích”, có nghĩa là đóng cửa, giải nghệ,
kiếm việc khác làm mà kiếm sống.
MỤC LỤC

Từ hồi đó cho đến bây giờ, chẳng còn có một


cuộc thi hoa hậu hay sắc đẹp nào cả. Bởi vì ta
với ta, mình với mình, thì cần chi mà phải thi với
thố. Ai cũng là “miss” cả. Ai cũng đẹp cả, nếu
không mười phân vẹn mười, thì cũng chí ít kẻ
tám lạng người nửa cân. Hơn thế nữa, cuộc thi
không có khán giả chiêm ngưỡng và vỗ tay, sẽ
nhạt phèo như nước ốc, ai mà ham.
Ngày quốc tế phụ nữ mồng tám tháng ba mất đi
ý nghĩa của nó. Ta với ta, thì còn đấu tranh đòi
bình đẳng với ai. Và như vậy, các bà mất đi một
dịp may hiếm có để làm làm tình làm tội, đày
đọa đức ông chồng của mình cho bõ ghét.
Rồi ngày Valentine mười bốn tháng hai cũng
vậy, sẽ trở thành trống rỗng, bởi vì mình với
mình thì còn tình nhân, tình nhiếc mà làm chi.
Và như vậy các cô mất toi niềm vui được nhận
quà. Chả còn một bông hồng đỏ thắm cũng như
MỤC LỤC

chả còn một lời tỏ tình tha thiết nào cả. Sao
cuộc đời lại vô duyên đến thế.
Đi “shop” mãi, mua sắm mãi thì đồng tiền đồng
bạc cứ âm thầm đội nón ra đi, cho tới lúc chả
còn một xu teng dính túi. Đầu tháng rồi, mà
chẳng ai thèm cống nộp tiền lương cho mình. Và
thế là ta rơi vào một thế cờ bí. Đầu ra thì có mà
đầu vào lại không, khiến ta lo toát cả mồ hôi hột.
Cái khó bó cái khôn. Ta chả còn mặt mũi nào để
mỉm cười với đời.
Coi phim Hồng công miết cũng như đọc báo
hoài chỉ tổ mờ mắt. Cà kê dê ngỗng đủ mọi
chuyện trên trời dưới đất với mấy bà hàng xóm
cũng như hát karaoke mãi chỉ tổ mỏi mồm mỏi
miệng mà thôi. Rồi khi trở về với lòng mình, ta
trừng trừng nhìn ta trên tấm gương trong “toa
lét” và bỗng thấy trái tim ta cô đơn, cuộc đời ta
cô độc và bản thân ta cô quạnh quá đi thôi.
MỤC LỤC

Lúc bấy giờ ta thầm ước có một mái ấm để mà


chắt chiu chiều chuộng. Mái ấm ấy có những
tiếng bi bô và những trò ngịch ngợm của mấy
thằng nhóc. Tuy vất vả cực nhọc, nhưng ta lại
cảm thấy vui vui, vì thiên chức của ta là làm mẹ
chúng nó kia mà.
Lúc bấy giờ ta thầm ước có một gia đình để mà
ra công chăm sóc. Gia đình ấy có một bờ vai
vững chắc để tựa vào, hầu tìm lấy một sự chở
che, một sự cảm thông và một sự chia sẻ.
Ta lấy làm tiếc xót, chỉ vì sự nghiệp giải phóng
mà ta đã nỡ bẻ gẫy cái gông đeo cổ.
Ta lấy làm đớn đau, chỉ vì muốn đòi quyền sống
cũng như muốn được bình đẳng với bọn đờn
ông con giai mà ta đã lỡ phá hủy cái chương
trình muôn thuở muôn kiếp của đất trời.
Ta lấy làm hối hận, chỉ vì nghĩ rằng không gì quí
hơn độc lập tự do mà ta đã dại dột xin nguyệt
MỤC LỤC

lão hô biến đi tất cả bọn đờn ông con giai trên


mặt đất này.
Ôi, giá mà ta được làm lại từ đầu.
Ôi, giá mà...Giá mà...
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CÁI TÌNH LÀ CÁI CHI CHI?

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Bàn về tình yêu, người ta thường bảo :
- Tình yêu thì cũ như trái đất, nhưng lại đổi mới
như mỗi độ xuân về.
Xem ra gã không nhất trí với nhận xét này cho
lắm, bởi vì trái đất vào thuở ban sơ, chưa một
bóng người, giống như mặt trăng hay sao hỏa
bây giờ, thì đào đâu cho ra được tình yêu. Tình
yêu là lãnh vực của con người. Vì thế, phải có
con người thì mới có tình yêu.
Đây cũng là điều sách Sáng Thế Ký đã mô tả.
Thượng Đế lấy bùn đất tạo nên hình hài Adong,
rồi thổi phù một cái để phú ban cho Adong tấm
linh hồn. Và từ đó, Adong sống động như chúng
ta bây giờ. Ngài để Adong ở trong vườn địa
đàng, một nơi cư ngụ thật tuyệt vời, đầy ắp
MỤC LỤC

những hoa thơm cỏ lạ, ríu rít những tiếng chim


kêu vượn hót và ve ngâm.
Thế nhưng, Ngài vẫn cảm thấy như có một điều
gì đó bất ổn, một điều gì đó trục trặc…Suốt ngày
Adong lủi thủi một mình, cô đơn đếm từng bước
chân âm thần trên sỏi đá, hái những trái cây
chín ngọt mà nuốt chẳng vô.
Lúc bấy giờ Thiên Chúa mới “ngộ ra” điều bất
ổn, điều trục trặc ấy. Ngài vỗ trán đánh đét một
phát, rồi lẩm bẩm :
- À, thì ra thế. Anh đờn ông ở một mình không
tốt. Ta hãy dựng nên cho nó một người bạn
đường tương xứng với nó.
Nói là làm. Đợi lúc Adong ngủ say, Thượng Đế
bèn lấy một chiếc xương sườn của Adong mà
dựng nên Evà, chị đờn bà đầu tiên. Sau đó,
Ngài dắt Evà tới ra mắt Adong. Vừa nhìn thấy
Evà, Adong đã mừng rỡ kêu lên :
MỤC LỤC

- Này đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi.
Nếu diễn tả bằng ngôn ngữ bình dân Việt Nam,
hẳn Adong đã hồ hởi gọi lớn :
- Mình ơi ! Mình ơi !
Hai chữ “mình ơi” này sao mà ngọt như đường
cát, mát như đường phèn. Evà nghe xong cũng
cảm thấy ấm cả cõi lòng. Đồng thời, với hai tiếng
“mình ơi” đầy trìu mến này, tình yêu đã anh dũng
đi vào nhân loại và chiếm ngự mặt địa cầu.
Suốt dòng thời gian, tình yêu vẫn liên tục phát
triển. Làm sao kể cho hết những bài thơ, những
bản nhạc, những câu chuyện, những cuốn sách,
những bức tranh, những pho tượng, những
phim ảnh, những tuồng kịch…nói về tình yêu.
Thế nhưng, nếu có ai lỡ dại mồm dại miệng mà
lên tiếng hỏi :
- Tình yêu là đí gì ?
MỤC LỤC

Chắc hẳn chẳng một ai trong chúng ta đưa ra


được một định nghĩa đầy đủ và chính xác về
tình yêu. Như thế, tình yêu mãi mãi vẫn là một
mầu nhiệm. Thành thử một ông thi sĩ nào đó đã
thất vọng kêu lên một cách não nùng và bi đát :
- Đố ai định nghĩa được tình yêu,
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều.
Và một nhà thơ cổ đã đưa ra một nhận xét thật
chí lý :
- Cái tình là cái chi chi,
Dầu chi chi, vẫn chi chi với tình.
Đúng thế, mặc dù không hiểu tình yêu là đí gì,
thế mà người ta vẫn cứ phây phây sống tình
yêu. Mặc dù chẳng biết cái tình là cái chi chi, thế
mà người ta vẫn cứ chi chi với tình.
Vậy phải sống tình yêu như thế nào, phải chi chi
với cái tình ra làm sao ?
Các cụ ta ngày xưa đã khuyên nhủ bày trẻ :
MỤC LỤC

- Học ăn, học nói, học gói, học mở,


Điều đó có nghĩa là chúng ta phải học từ những
cái đơn sơ và tầm thường, đến những cái phức
tạp và quan trọng. Phải học tuốt luốt, bất cứ sự
gì, huống nữa là tình yêu, một vấn đề vừa cần
thiết, vừa phức tạp, lại vừa tế nhị.
Có những người đã già cái đầu, gần đất xa trời
rồi mà vẫn chưa biết yêu cho đúng đắn. Họ cứ
tưởng mình yêu người, những hóa ra lại là yêu
chính cái tôi của mình. Mà cái tôi lại thường đi
đôi với cái tồi, hay nói theo kiểu Nguyễn Du :
- Chữ tồi liền với chữ tôi một vần.
Có một chàng thanh niên tới gõ cửa một nhà
dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng hồi
lâu rồi hỏi :
- Thế thì con đã yêu ai chưa ?
Chàng thanh niên đỏ mặt tía tai, ấp úng trả lời :
- Thưa cha, chưa ạ.
MỤC LỤC

Cha bề trên bèn cười lớn và nói với chàng :


- Thế thì con phải trở về, học yêu trước rồi mới
tới đây mà học tu sau.
Kinh nghiệm cũng cho thấy : tình yêu không ở
thể tĩnh, mà luôn ở thể động, người ta không chỉ
yêu một lần thay cho tất cả, trái lại phải yêu mãi,
yêu hoài, có nghĩa là tình yêu phải được liên tục
đổi mới, phải được liên tục phát triển, mỗi lúc
một tăng, ngày hôm nay chất lượng phải cao
hơn ngày hôm qua.
Giống như anh chàng và chị nàng, không phải
chỉ kết hôn một lần ở nhà thờ là đã xong chuyện,
nhưng hơn thế nữa, mỗi ngày họ còn phải kết
hôn lại với nhau, mỗi ngày họ còn phải hâm
nóng lại tình yêu.
Người ta thường phân chia tình yêu thành hai
loại, đó là ấu trĩ và trưởng thành, vị kỷ và vị tha,
vì mình và vì người. Vậy thế nào là một tình yêu
MỤC LỤC

ấu trĩ, một tình yêu vị kỷ, một tình yêu vì mình ?


Còn thế nào là một tình yêu trưởng thành, một
tình yêu vị tha, một tình yêu vì người ?
Với loại thứ nhất, người ta đặt cái tôi của mình
lên hàng đầu. Họ giống như anh chàng Narcisse
trong thần thoại Hy Lạp. Anh ta cúi xuống dòng
sông và chỉ nhìn thấy khuôn mặt đẹp trai của
mình trên làn nước, để rồi cuối cùng anh ta đã
nhảy xuống sông mà chết. Hồn biến thành cây
hoa thủy tiên mọc ở bên bờ.
Tình yêu của họ là một tình yêu vị kỷ hay vì
mình bởi lẽ khi yêu họ bắt người yêu phải phục
vụ cho bản thân họ, phải làm cho họ được vui
sướng mà không kể gì tới những khổ đau,
những tủi cực mà người yêu phải gánh chịu.
Họ giống như chị đờn bà nhìn vào cặp mắt anh
đờn ông, không phải để thấy rằng cặp mắt ấy
MỤC LỤC

đẹp, mà chỉ để thấy hình ảnh mình được in trong


cặp mắt ấy.
Tình yêu của họ là một tình yêu ấu trĩ , bởi lẽ họ
giống như một đứa con nít yêu mẹ nó chỉ vì mẹ
nó có một bầu sữa, sẵn sàng cho nó bú tí bất cứ
lúc nào.
Trong khi đó với loại thứ hai, người ta dành địa
vị ưu tiên số một cho người mình yêu.
Tình yêu của họ là một tình yêu vị tha hay vì
người, bởi lẽ khi yêu họ sẵn sàng chấp nhận mọi
hy sinh gian khổ, để đem lại hạnh phúc cho
người họ yêu.
Họ giống như một người vợ tần tảo, đầu tắt mặt
tối nuôi chồng, đã được ca dao diễn tả qua hình
ảnh con cò :
- Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về trở lại cùng con,
MỤC LỤC

Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng…


- Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Tình yêu của họ là một tình yêu trưởng thành
bởi lẽ chỉ có người đã trưởng thành mới biết
quên mình và dám hy sinh vì người khác.
Họ giống như một người mẹ không quản thức
khuya dậy sớm để chăm sóc cho đàn con.
Nạn đói năm Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc, khiến
cho gần một triệu người bị chết. Lúc đầu người
ta còn ăn cháo, ăn rau. Về sau, ngay cả củ chuối
trong vườn cũng không còn nữa để mà ăn. Đi tới
đâu người ta cũng thấy những thây ma nằm la
liệt, chỉ còn da bọc xương.
Có hai mẹ con nhà kia nằm thoi thóp bên vệ
đường. Nghe tiếng khóc của đứa con, người mẹ
đã cắt đứt đầu ngón tay, đút vào miệng đứa con,
để đứa con được bú những giọt máu cuối cùng
MỤC LỤC

của mình thay cho dòng sữa, với hy vọng đứa


con sẽ được một người tốt bụng nào đó cứu
sống.
Và hy vọng này đã trở thành sự thật. Đứa con
ấy đã được một người hảo tâm đi qua bồng ẵm
về nhà và nuôi dưỡng, đến nay vẫn còn sống.
Sự tiến triển của tình yêu là một con đường một
chiều. Hướng đi bắt buộc là phải đi từ ấu trĩ đến
trưởng thành, từ vị kỷ đến vị tha, từ vì mình đến
vì người.
Tuy nhiên, hướng đi này đòi buộc chúng ta phải
cố gắng không ngừng. Sở dĩ như vậy vì từ bên
trong, mỗi người đều mang sẵn hai yếu tố thiện
và ác, vị kỷ và vị tha. Hai yếu tố này không
ngừng giao tranh để dành dân chiếm đất. Chỉ
cần nhắm mắt ngủ quên hay chểnh mảng một
chút, lập tức cái ác sẽ thắng thế và vị kỷ sẽ lên
ngôi. Đúng như ông thánh Phaolô đã bảo :
MỤC LỤC

- Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Còn


điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.
Vì thế :
- Sống là chiến đấu, là bơi ngược dòng nước,
nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước
cuốn trôi.
Những điều vừa trình bày ở trên, xem ra nặng
phần lý thuyết. Vì thế, bây giờ gã xin đi vào đời
thường để đưa ra mấy thứ tình yêu thật cụ thể,
không chừng mỗi người chúng ta đều đã gặp
phải.
Gã tạm chia thành ba thứ, đó là tình yêu “nếu”,
tình yêu “vì“ và tình yêu “dù”ø. Ba chữ nếu, vì và
dù là những yếu tố then chốt, quyết định cho đặc
tính và tên gọi cho mỗi thứ tình yêu.
Vậy trước hết, thế nào là tình yêu nếu ?
Đây là thứ tình yêu thường xuất hiện vào giai
đoạn đầu khi hai người mới quen nhau. Thực
MỤC LỤC

vậy, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, người ta
vừa mơ mộng lại vừa so đo, vừa thi vị hóa lại
vừa cụ thể hóa tình yêu, để rồi đưa ra những
điều kiện thế này thế nọ cho tình yêu được nảy
mầm và lớn lên, đâm bông và kết trái.
Nói huỵch toẹt ra thì đây là một thứ tình yêu có
tính toán, có điều kiện :
- Nếu anh thế này…thì em sẽ yêu anh.
- Nếu em thế kia…thì anh sẽ yêu em.
Một trong những chữ nếu tệ hại nhất mà nhiều
chị nàng ngây thơ đã bị sập bẫy và đã trở thành
nạn nhân đáng thương, đó là :
- Nếu em…”cho” anh, thì anh sẽ yêu em mãi
mãi. Nếu em thỏa mãn những đòi hỏi của anh,
thì anh sẽ yêu em trọn đời.
Trước những lời dụ dỗ đường mật ấy, nhiều chị
nàng đã phe lờ những cảnh cáo của cha mẹ,
cũng liều nhắm mắt đưa chân, để rồi cuối cùng
MỤC LỤC

đã phải cúi mặt lãnh nhận hậu quả thảm khốc


của đau khổ và nước mắt vì sự lầm lỡ và dại dột
của mình, đúng là :
- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.
Còn anh chàng, một khi đã được thỏa mãn, lập
tức quên béng ngay mất những thề thốt khi
trước và lộ nguyên hình là một chàng họ sở tên
khanh, bèn quất ngựa truy phong, phóng lên
ngựa chạy biến mất tiêu, để chị chàng ở lại ôm
mối hận một đời.
Có lẽ cũng vì thế mà tại các ký túc xá sinh viên,
nạn “ăn cơm trước kẻng” vẫn cứ liên tục phát
triển, và Việt Nam, con số những người nạo hút
và phá thai cao vào bậc nhất trên thế giới, nhất
là đối với những cô gái còn non trẻ.
Tuy nhiên, thứ tình yêu nếu này mới chỉ là như
một chứng bệnh ngoài da, phớt qua mà thôi. Bởi
vì tới một lúc nào đó, người ta sẽ sáng mắt ra,
MỤC LỤC

không thể ngồi đấy mà sống với những chữ nếu,


những ảo tưởng, như dân tây chính hiệu con nai
vàng ngơ ngác đã bảo :
- Với những chữ nếu, người ta có thể bỏ kinh
thành Paris vào trong một cái chai.
Tiếp đến, thế nào là tình yêu vì ?
Mấy ông triết gia lẩm cẩm, thường phát biểu
như sau :
- Phàm đã là người thì mỗi khi hành động thì
đều có lý do riêng của mình.
Cũng vậy, khi yêu người ta cũng đưa ra những
lý do này lý do khác để biện minh cho việc làm
của mình. Anh yêu em vì em thế nọ. Còn em
yêu anh vì anh thế kia. Thứ tình yêu này chẳng
cần màu mè hoa lá, nhưng mang nặng tính cách
thực dụng.
Cô gái nọ yêu chàng trai kia. Mọi người đều lên
tiếng can ngăn vì chàng trai kia không đủ tiêu
MỤC LỤC

chuẩn. Ngay cả cha sở cũng phải lắc đầu ngao


ngán. Thế nhưng cô gái đã trả lời :
- Con dứt khoát phải lấy anh ấy, vì anh ấy đẹp
trai và gia đình anh ấy lại giàu có. Ít nữa ra mắt
con phải nhìn thấy một cái gì cụ thể chứ.
Đám cưới của họ được tổ chức một cách linh
đình và trọng thể, trong nhà thờ chính tòa cũng
như trong một nhà hàng năm sao. Cưới nhau
xong họ liền có một chiếc xe hơi và một căn nhà
bề thế. Cô gái hoàn toàn thỏa mãn với chỉ tiêu
được hoàn thành.
Thế nhưng, chỉ ba tháng sau, cô gái tới gặp cha
sở với khuôn mặt sưng vù vì bị chồng đánh sau
một trận nhậu thiếu xỉn thừa say. Cô gái khóc
lóc thảm thiết :
- Biết thế này thì…
Và cha sở cũng phải thở dài :
MỤC LỤC

- Bây giờ thì con đã nhìn thấy một cái gì cụ thể


rồi chứ ?
Người ta có thể đưa ra nhiều lý do cho sự chọn
lựa của mình, nhưng cuối cùng xem ra cũng
không ngoài ba lãnh vực, đó là sắc đẹp, tiền bạc
và quyền thế.
Thứ nhất, đó là sắc đẹp. Em yêu anh vì anh
bảnh trai lại còn hào hoa phong nhã. Anh yêu
em vì em đẹp gái.
Lãnh vực này thường cuốn hút mấy anh đờn
ông nhiều hơn. Nói vậy không có nghĩa là mấy
chị đờn bà chẳng để ý tới ngoại hình của cánh
mày râu đâu nhé. Bằng chứng là khối bà khối cô
mê như điếu đổ mấy anh chàng tài tử, ca sĩ, cầu
thủ đẹp giai như Elvis Presley, David
Beckham…Mấy ông thần tượng này mà đi tới
đâu, thì không thiếu đờn bà con gái liền bâu tới
đó!!!
MỤC LỤC

Thế nhưng suy cho cùng, có tuổi trẻ nào mà


không già, có sắc đẹp nào mà không bị thời gian
gậm nhấm, cũng như có sắc đẹp nào mà không
bị tàn phai dưới ánh nắng mặt trời.
Khi sắc đẹp không còn nữa, khi cái lý do yêu đã
đổ ngả đổ nghiêng, thì lập tức người ta liền đi
tìm một đối tượng khác để điền vào chỗ trống
cho hợp nghĩa, đúng như ca dao Việt Nam đã
diễn tả :
- Còn duyên anh cưới ba heo,
Hết duyên anh đánh ba hèo đuổi đi.
- Còn duyên kén cá chọn canh,
Hết duyên rốc đực, cua kềnh cũng vơ.
- Còn duyên kén những trai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
Thứ hai, đó là tiền bạc. Em yêu anh vì anh có
nhiều tiền. Anh yêu em vì gia đình em giàu sang.
MỤC LỤC

Lãnh vực này thường cuốn hút mấy chị đờn bà


nhiều hơn vì họ muốn thấy được một cái gì cụ
thể, bảo đảm cho tương lai của mình, như một
câu danh ngôn đã bảo :
- Người ta lấy vàng để nhử đờn bà. Người ta lấy
đờn bà để nhử đờn ông. Và người ta lấy đờn
ông để tìm ra vàng.
Đúng là cái vòng lẩn quẩn!!!
Nói vậy không có nghĩa là mấy anh đờn ông
chẳng để ý tới sự bề thế của gia đình vợ đâu
nhé. Bởi vì không thiếu gì những anh đờn ông
nhắm chỗ giàu sang để tá túc, chẳng quản ngại
thân phận ở rể. Cưới xong một phát là đã có
được một căn nhà đầy đủ tiện nghi, đỡ tốn sức
lao động, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Mấy anh đờn
ông loại này đã chẳng được xã hội phong cho
hàm kỹ sư đào mỏ đó sao.
MỤC LỤC

Thế nhưng, tiền bạc vốn dĩ là cái ở bên ngoài


chúng ta, nay còn mai mất. Và khi tiền bạc
không còn nữa, thì tình yêu cũng chấp cánh bay
cao :
- Bây giờ tiền hết, gạo không,
Thì anh ở lại mà trông lấy hòm.
Thứ ba, đó là quyền thế. Em yêu anh vì anh là
bác sĩ, là kỹ sư…Còn anh yêu em vì ông già em
là chủ tịch, là giám đốc…
Lãnh vực này thường được cả đờn ông lẫn đờn
bà nhắm tới. Thực vậy, có những chị đờn bà
ngày hôm trước còn bán thịt lợn ngoài chợ, hay
bầu bạn với nồi niêu xoong chảo trong xó bếp,
nhưng ngày hôm sau đã nghiễm nhiên được cả
và thiên hạ gọi là bà bác sĩ, bà kỹ sư, bà chủ
tịch, bà giám đốc…kể ra thì cũng thích và cũng
oai. Đây chính là một tước hiệu từ trời rơi xuống,
MỤC LỤC

chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào cả, cũng chẳng


cần kèn cựa tranh đua chi cả.
Lại cũng có những anh đờn ông đi vào hôn
nhân, nhắm tới người vợ thì ít, nhưng nhắm tới
ông bố vợ thì nhiều, bởi vì ông bố vợ là một
người thế lực, mà anh ta có thể dùng làm bàn
đạp, hay dùng làm chiếc thang để leo dần lên
từng nấc danh vọng. Anh ta không đứng trên đôi
chân của mình, mà đã mượn đỡ và đứng trên
đôi chân của ông bố vợ cơ đấy!
Một khi thứ tình yêu nếu và tình yêu vì được
đem đi kiểm nghiệm và phân chất, hẳn chúng ta
sẽ thấy chúng thuộc loại tình yêu ấu trĩ, tình yêu
vị kỷ, tình yêu vì mình, bởi vì mọi thứ từ tiền bạc
đến quyền thế, từ ông bố vợ đến ngay chính
người vợ nữa, tất cả đều được dùng để phục vụ
cho cái tôi của mình. Nói cách khác, đây là một
MỤC LỤC

thứ tình yêu dổm, một thứ tình yêu trá hình, một
thứ tình yêu ngụy tạo mà thôi.
Sau cùng, thế nào là tình yêu dù ?
Theo gã nghĩ : đây mới là loại tình yêu thứ thiệt,
tinh ròng, không pha thêm tạp chất như hai thứ
tình yêu kia. Đây mới là loại tình yêu trưởng
thành, vị tha và vì người.
Trong thứ tình yêu này, người ta sẵn sàng chấp
nhận những khuyết điểm, những thiếu sót của
nhau :
- Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Trong thứ tình yêu này, người ta sẵn sàng chấp
nhận mọi hy sinh gian khổ để đem lại hạnh phúc
cho nhau :
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Để rồi :
MỤC LỤC

- Râu tôm nấu với ruột bầu,


Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.
Và theo các nhà đạo đức, thứ tình yêu này chính
là một phản ảnh trung thực cho tình yêu của
Thiên Chúa, bởi vì :
- Thiên Chúa hằng yêu thương con người, dù
con người đã phản bội Ngài. Thiên Chúa hằng
yêu thương chúng ta, dù chúng ta là kẻ tội lỗi.
Đi vào thực tế, gã thấy thứ tình yêu dù đã được
xuất hiện dưới nhiều hình thức, cụ thể là để đáp
ứng với những tiêu chuẩn mà thứ tình yêu vì đã
đưa ra.
Đáp ứng với tiêu chuẩn sắc đẹp : dù chị nàng có
xấu như Chung Vô Diện trong truyện Tàu, thì
anh chàng cũng vẫn yêu lấy yêu để :
- Mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
MỤC LỤC

Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.


Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
Đáp ứng với tiêu chuẩn giàu sang : dù anh
chàng có nghèo rớt mùng tơi, có là dân khố rách
áo ôm chăng nữa, thì chị nàng cũng vẫn mê tít
thò lò :
- Chồng ta áo rách, ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
- Yêu nhau chẳng quản chiếu giường,
Dẫu rằng tàu lá che sương cũng tình.
Đáp ứng với tiêu chuẩn quyền thế : dù anh
chàng có là phó thường dân nam bộ, vai nặng
chân trơn, hay bần cố nông chăng nữa, thì chị
nàng cũng vẫn cứ gắn bó khắng khít còn hơn cả
keo Michelin, keo dán sắt, hay keo bẫy chuột :
MỤC LỤC

- Yêu anh tâm trí hao mòn,


Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh.
Jean Wasa, một viên quan xứ Phần Lan, bị kết
án tù chung thân vì tội phản loạn. Bà vợ là
Catherine đã xin với nhà vua cho phép mình
được vào trong tù, chia sẻ nếp sống đọa đày với
chồng. Nhà vua cũng như mọi người hết sức
khuyên ngăn.
Cuối cùng, bà đã phải rút chiếc nhẫn cưới cho
mọi người xem. Trên chiếc nhẫn cưới này có
khắc ghi hai chữ : “sola mors”, nghĩa là chỉ trừ
có cái chết mà thôi.
Được phép của nhà vua, bà đã sống với chồng
mười bảy năm trong tù, cho đến khi nhà vua
băng hà và Jean Wasa được trả tự do.
Thứ tình yêu dù này làm cho gã nhớ tới lời cam
kết mà đôi hôn nhân vốn thề thốt cùng nhau : dù
thịnh vượng hay gian nan, dù khỏe mạnh hay
MỤC LỤC

bệnh hoạn, thì họ vẫn cứ chung thủy, yêu


thương và tôn trọng nhau mọi ngày trong suốt
cả cuộc đời.
Quả là tuyệt vời, khiến Thiên Chúa cũng phải hài
lòng và mỉm cười!!!
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐỜN BÀ VÀ ĐỜN ÔNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu


Trong những tháng vừa qua, gã đã phải bất đắc
dĩ làm cái nghề “bới lông tìm vết” moi móc
những thói hư tật xấu của cả phe mình lẫn phe
ta, của cả đờn ông lẫn đờn bà, của cả chồng lẫn
vợ. Sự moi móc này chẳng đem lại một tí lợi lộc
nào hết, mà chỉ chuốc thêm thù oán vào thân,
bởi vì nó đã làm cho nhiều người phẫn nộ. Gã
chỉ sợ mỗi khi vác mặt mo của mình ra ngoài
phố, thì sẽ bị xơi cà chua hay trứng thối bất kỳ
lúc nào mà thôi.

Bản thân gã cũng cảm thấy nhức nhối, bởi vì


vạch áo cho người ta xem lưng thì nào có hay
ho gì, nhất là khi lưng của mình lại đầy những
vết sẹo. Mà người ta ở đây lại là phe địch, đứng
ở bên kia chiến tuyến, thế mới chết không cơ
MỤC LỤC

chứ.

Đờn bà và đờn ông, chuyện dài của muôn đời,


có lẽ viết mãi viết hoài cũng chẳng bao giờ hết.
Đờn bà và đờn ông có những khác biệt ngay từ
lúc Thượng Đế cho ra lò tác phẩm đầu tay của
mình, thành thử nếu không khéo hòa hợp,
những khác biệt ấy sẽ trở thành những đối
kháng làm cho tê liệt mọi sinh hoạt, thì quả thật
là thậm chí nguy.

Phải, chị đờn bà thì chu mỏ chê bai anh đờn


ông, như tục ngữ ca dao đã diễn tả :
- Đờn ông ba bảy đờn ông,
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.

Hay như :
- Ba đồng một chục đờn ông,
MỤC LỤC

Ta bỏ vào lồng, ta xách ta chơi.


Ai ngờ dây đứt, lồng rơi.
Nó bò lổm ngổm mỗi thằng một nơi.

Trong khi đó anh đờn ông thì lại ngán ngẩm, dài
cổ ra mà ca với cẩm :
- Kiếp sau chẳng dám làm chồng,
Làm cây cọc cắm bên sông cũng đành.
Còn hơn có vợ bị hành,
Bầm lên dập xuống như chanh cuối mùa.
Lương chưa kịp giấu sơ cua,
Đã moi sạch nhách chẳng chừa một xu.
Giữ chồng còn hơn giữ tù,
Đi đâu bà cũng lù lù theo sau.
Bạn bè vừa mới gặp nhau,
Chai chưa kịp cạn, “về mau, tối rồi”.
Điểm tâm sáng chỉ gói xôi,
Cà phê, thuốc lá xa rời từ lâu.
MỤC LỤC

Tan sở chẳng dám đi đâu,


Đón con, ghé chợ mua rau, mua hành.
Về nhà kho cá, nấu canh.
Lau chùi giặt giũ, dỗ dành... bày heo.
Mười năm khổ vẫn còn đeo,
Trời ơi, cứu kiếp bọt bèo của con. (PNCN số
45).

Mặc dầu sự đời vốn dĩ là như thế, đờn bà và


đờn ông tuy lườm nguýt nhau, nhưng vẫn cứ lôi
cuốn, hấp dẫn lẫn nhau, cho tình yêu được nở
rộ, cho nòi giống được tồn tại. Anh đờn ông thì :
- Trai thấy gái lạ,
Như quạ thấy gà con.
Còn chị đờn bà thì :
- Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
MỤC LỤC

Đây quả thực là ý muốn vừa thâm sâu, lại vừa


nhiệm màu của Đấng Tạo hóa. Vì thế các cụ ta
từ ngày xửa ngày xưa vốn đã từng xác quyết :
- Nhất âm, nhất dương chi vi đạo.

Âm dương, qui luật của muôn đời, không phải


chỉ là đạo người mà còn là đạo chung của tất cả
vạn vật. Thực vậy, muôn loài trong vũ trụ đều bị
chi phối bởi luật âm dương. Hơn thế nữa, âm và
dương luôn thu hút lẫn nhau mà lưu truyền trong
dòng thời gian. Vì thế, anh đờn ông có liếc mắt
đưa tình chị đờn bà, hay chị đờn bà có liếc mắt
đưa tình anh đờn ông, âu cũng là chuyện
thường ngày ở huyện :

- Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa, cũng vòng phu thê.
MỤC LỤC

Và như vậy, gã thấy trong vũ trụ vật chất thì âm


cũng cần, mà dương cũng cần. Còn trong cõi
nhân sinh, thì đờn bà cũng quí, mà đờn ông
cũng trọng. Tuy nhiên điều đáng lưu ý đó là phải
biết điều hòa, chứ đừng nhất bên trọng, nhất
bên khinh. Các cụ ta ngày xưa đã từng dạy :
- Thái quá bất cập.

Nhân đức bao giờ cũng đứng giữa, ở vào cái thế
trung dung, chứ không nghiêng bên này, hay
ngả bên kia. Âm dương phải hòa hợp, nam nữ
phải đề huề, thì mới liên tục phát triển :
- Gái có chồng như rồng có vây.
Bằng không thì rất khó mà tiến tới :
- Gái không chồng như cối xay chết ngỏng.
Có biết tôn trọng lẫn nhau, thì mới tạo được sự
bình an và hạnh phúc. Còn gì êm đẹp cho bằng
hình ảnh vợ chồng đồng lao cộng khổ với nhau
MỤC LỤC

như ca dao tục ngữ đã diễn tả :


- Đôi ta là nghĩa tào khang,
Xuống khe bắt ốc, lên đàng hái rau.
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
- Râu tôm nấu với ruột bàu,
Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon.

Còn nếu như bị “lệch pha”, chẳng hạn như “âm


thịnh dương suy” ắt sẽ tạo nên những bất ổn,
như danh ngôn đông tây vốn đã đề cập đến :
- Đờn bà không có đờn ông như vườn không có
rào.
Trong khi đó :
- Đờn ông không có đờn bà như đàn đứt dây.
- Nhà không đờn bà như thân xác thiếu mất linh
hồn.
MỤC LỤC

Thành thử sau hai bài viết : thế giới không đờn
bà và nhân loại chẳng đờn ông, gã mới “ngộ” ra
rằng, đó là hai thái cực không thể nào chấp
nhận được. Phải có đờn bà cũng như phải có
đờn ông. Đồng thời cả hai phải biết tựa vào
nhau để mà sống.

Đọc lại những trang đầu của sách Sáng thế ký,
gã thấy được một quan niệm rất đặc sắc về hôn
nhân, cũng như về đờn bà và đờn ông của Kitô
giáo.

Thực vậy, sau khi dựng nên Adong, Thiên Chúa


đặt ông đứng đầu để trông coi cá biển chim trời
và muôn vật sống trên mặt đất. Thấy ông sống
cô độc, lẻ loi và cu ki, Thiên Chúa thầm nghĩ :
- Người đờn ông ở một mình không tốt. Ta hãy
dựng nên cho nó một người nội trợ giống như
MỤC LỤC

nó.

Đợi lúc ông ngủ say, Thiên Chúa bèn lấy một
nửa chiếc xương sườn của ông mà tạo thành
người đờn bà. Rồi Ngài dẫn bà ra mắt ông.
Thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã mừng rỡ, hớn
hở kêu lên :
- Này đây mới thật xương bởi xương tôi và thịt
bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là người nữ vì bởi
người nam mà ra.

Như thế, Adong đã đồng hóa Eva với chính thân


xác của mình. Để diễn tả ý tưởng “một xương
một thịt”, theo gã nghĩ, trong tiếng Việt Nam của
chúng ta có một danh từ thật dễ thương, thật
tuyệt vời, đó là chữ “mình”.

Bởi vì mình vừa là anh và cũng lại vừa là em,


MỤC LỤC

vừa là chàng và cũng lại vừa là nàng. Vừa là


ngôi thứ nhất :
- Mình làm ra chẳng ma nào giúp.

Và cũng lại vừa là ngôi thứ hai :


- Biển sâu sóng vỗ rập rình,
Biển bao nhiêu sóng thương mình bấy nhiêu.
Mình còn là cả chúng ta. Ngoài ra, mình vừa là
thân xác :
- Mình lính, tính quan.

Và cũng lại là cả con người nữa.


Nếu thế thì khi thoạt nhìn thấy Eva, Adong đã
hớn hở gọi :
- Mình ơi!

Hai chữ “mình ơi” quả thật đã ngọt hơn đường


cát, mát hơn đường phèn và trên cả tuyệt vời
MỤC LỤC

nữa.

Từ hai chữ “mình ơi” gã bỗng nhớ tới hai chữ “ai
ơi”. Số là cách đây mấy chục năm tại Việt Nam
người ta vẫn còn e thẹn, dù đã là vợ chồng “mí
nhau” nhưng rất ít khi người ta gọi nhau một
cách thẳng thừng :
- anh anh, em em.

Có hai vợ chồng trẻ mới cưới. Chị vợ nấu cơm


trong bếp. Anh chồng làm cỏ ngoài vườn. Khi
nồi cơm đã chín, từ trong bếp chị vợ bèn gọi
vọng ra :
- Ai ơi về ăn cơm.
Anh chồng bèn hỏi :
- Cơm ai nấu.

Chị vợ liền trả lời :


MỤC LỤC

- Ai nấu chứ ai.


Ôi chu choa, tiếng Việt mình quả là dễ thương
và hết xảy!!!

Cũng từ một nửa chiếc xương sườn, gã liên


tưởng đến hình ảnh một nửa trái tim. Có một
câu chuyện thần thoại kể về việc tạo dựng trái
tim đờn bà và đờn ông được tóm lược như sau :

Thưở ban đầu, Thượng đế chỉ dựng nên có một


trái tim duy nhất. Sau đó, Ngài bổ trái tim ấy
thành hai mảnh đều nhau. Một mảnh thì Ngài
đặt trong thân xác người đờn ông. Còn mảnh
kia, thì Ngài đặt trong thân xác người đờn bà.
Hai mảnh trái tim ấy luôn khắc khoải tìm kiếm
nhau.

Cho dù hai người có sống cách xa nhau hàng


MỤC LỤC

ngàn cây số, thì vẫn có những cuộc tình xuyên


lục địa. Cho dù hai người có sống ở hai bên bờ
biển ngàn trùng, thì vẫn có những cuộc tình
xuyên đại dương. Cho dù hai người có sống ở
những đất nước khác nhau, thì vẫn có những
cuộc tình xuyên quốc gia...

Vì thế, người Pháp mới gọi người vợ hay người


chồng thân thương của mình là :
- Ma moitié! Có nghĩa là “Nửa của anh ơi!” “nửa
của em ơi”!
Qua hình ảnh một nửa chiếc xương sườn và hai
nửa trái tim, gã nhận thấy đờn bà và đờn ông
đều đáng quí đáng trọng và phải được bình
đẳng với nhau.

Nói tới hai chữ bình đẳng, hẳn chúng ta lại nghĩ
tới những phong trào đòi nam nữ bình quyền,
MỤC LỤC

phụ nữ đòi quyền sống... Những phong trào này


một thời đã gây ồn ào và làm cho quần chúng
chú ý đến. Thế nhưng rất nhiều người lại thích
hiểu lầm về hai chữ “bình đẳng”.

Thực vậy, họ cho rằng người đờn bà mặc gì, thì


người đờn ông cũng có thể bắt chước mà mặc
như vậy. Vì thế ngày nay, chúng ta mới thấy anh
đờn ông để tóc dài, đeo bông tai...Chỉ còn việc
mặc váy là chưa được phổ biến sâu rộng, ngoại
trừ đờn ông xứ Tô Cách Lan!

Họ cho rằng người đờn ông làm gì thì người


đờn bà cũng có thể bắt chước mà làm như vậy.
Vì thế, ngày nay chúng ta mới thấy nhiều chị
đờn bà cũng để đầu trọc, đấu võ Sumô, hút
thuốc và uống rượu như điên.
MỤC LỤC

Báo “Công an Thành phố” có đăng tải về đời


sống của “Bà Tư xả láng”. Đây là một chuyện
buồn, buồn nẫu cả gan và thối cả ruột. Chuyện
buồn ấy như thế này :

Ông bà ngày xưa thường nói :


- Phúc đức mới sinh được nhiều con.
Nếu cứ theo cách nghĩ của người xưa, thì bà
Trần Kim Nga thật có phước. Bà có tới tám đứa
con, lớn nhất ba mươi, nhỏ nhất lên mười và
các con bà thuộc loại chăm chỉ. Bốn con trai lớn
đã về quê vợ làm ăn, hai con trai kế tiếp đi làm
phụ hồ và xúc cát mướn. Cô con gái xinh đẹp
tên là Nghi chỉ học đến lớp chín, rồi ở nhà may
quần áo đem bán để phụ mẹ và nuôi đứa em út
mới lên mười tuổi.

Thế nhưng, bà Nga không biết giữ gìn hạnh


MỤC LỤC

phúc trời cho ấy. Bà sinh tật uống rượu vì buồn


chồng mèo mỡ. Năm 1955 khi bà và người
chồng chính thức chia tay, bà bán căn nhà, nơi
cả gia đình sinh sống những ngày tháng đầm ấn
nhất, được mười hai lượng vàng. Bà chia cho
chồng năm cây để chồng đi với vợ mới, còn bà
thì bắt đầu đến với rượu nhiều hơn để “hóa giải”
cơn sầu! Bà uống hết hiệp này sang hiệp khác
và say bí tỉ, vì vậy dân nhậu đặt cho bà biệt
danh “Tư xả láng”.

Từ tháng 6 năm 2001, Tư xả láng có quan hệ


thân thiết như vợ chồng với anh Nguyễn Văn
Tuấn, ngụ cùng phường và cũng là bạn nhậu
của Tư xả láng.

Tuấn thua bà Nga, tức Tư xả láng, mười bốn


tuổi, hai người thường bỏ nhà đi chơi tới ba, bốn
MỤC LỤC

giờ sáng mới về. Mỗi lần say về, bà ói mửa, rên
hừ hử, bắt các con bóp tay chân và chửi mắng
thô lỗ. Mọi chuyện trong gia đình bà phó mặc
cho Nghi, để chị em Nghi bữa đói bữa no. Thỉnh
thoảng bà mới tỉnh rượu, gặp lúc lối xóm kêu đi
chùi xoong nồi, bà làm và lấy tiền đi nhậu với
Tuấn.

Nghe lối xóm đồn ầm ĩ về chuyện hai người,


Nghi hỏi mẹ :
- Mẹ và chú Tuấn yêu nhau à ?
- Ừ, chú ấy yêu mẹ.
- Không được đâu, mẹ đã lớn tuổi vả lại chú ấy
kém tuổi mẹ nhiều!
- Mẹ yêu là để trả thù ba vì ba có vợ nhỏ, bỏ mẹ.

Khuyên nhủ mẹ không được, nhiều lần Nghi gặp


Tuấn để can ngăn hãy buông tha mẹ để mẹ lo
MỤC LỤC

cho em của Nghi. Nhưng mặc lời can ngăn, mối


quan hệ vẫn tiếp diễn. Bà Nga bỏ mặc các con
ngay cả lúc con trai út sốt xuất huyết nặng, Nghi
phải chạy vạy vay tiền đưa em vào bệnh viện
cấp cứu.

Mười lăm giờ ngày 01.4.2001, bà Nga và Tuấn


đi chơi ở Châu Đốc về. Bà lên giường nằm một
lúc rồi lại vùng dậy đi nhậu tiếp. Tới 18g30
không thấy mẹ về, Nghi lo mẹ uống nhiều sẽ
bệnh, nên vội đi tìm. Gặp những người cùng
nhậu với mẹ, Nghi hỏi :
- Mẹ con đâu ?

Mọi người trả lời :


- Bà ấy với thằng Tuấn đi rồi.

Nghi nháo nhào đi tìm khắp nơi không thấy, nên


MỤC LỤC

chạy đến nhà Tuấn. Gõ cửa phòng mười lăm


phút không thấy ai trả lời, nghi lén leo lên vách
nhà nhìn vào thì thấy mẹ đang nằm trên giường
của Tuấn. Gõ thật mạnh một lúc nữa mới thấy
Tuấn mở cửa. Nghi đề nghị :
- Chú Tuấn để cho mẹ tôi về.
Nghi đưa mẹ về nhà và nói :
- Mẹ nghỉ cho đỡ mệt.

Rồi nhìn cảnh nhà bữa đói bữa no, đứa em lên
mười ngơ ngác tội nghiệp, người mẹ chỉ nhậu
về là rên la, không lo gì cho con, trong lòng Nghi
nổi lên ý định giết Tuấn để “giành lại mẹ”. Lúc
hai mươi giờ, Nghi lấy dao Thái Lan dắt vào
bụng và tới nhà Tuấn, mời Tuấn ra quán cà phê
nói chuyện.

Ra quán, Nghi năn nỉ Tuấn hãy buông tha mẹ để


MỤC LỤC

mẹ chăm lo cho gia đình, chăm lo cho chị em


Nghi và nhờ Tuấn khuyên mẹ không nên uống
rượu vì mẹ lớn tuổi. Tuấn nói :
- Tôi thương rồi, bỏ không được.

Vào lúc ấy, bà Nga lại đi tìm Tuấn. Thấy Tuấn


đang ngồi với Nghi, bà định bỏ đi, nhưng Nghi
kéo mẹ lại ngồi giữa Nghi và Tuấn :
- Đây có mẹ, ba mặt một lời, mẹ nói mẹ có
thương chú Tuấn không ?
Bà Nga nói :
- Mẹ không thể lấy Tuấn vì tuổi tác, nên xem
nhau như bạn thôi.
- Vậy chú Tuấn thì sao ?
- Tôi thương bả, không thể cưới được, nhưng
cũng không thể bỏ được.

Quá uất ức, Nghi đập chai nước ngọt vào đầu
MỤC LỤC

Tuấn và đâm Tuấn. Sau đó, Nghi mang dao đến


công an phường tự thú.

Chính vì sự hiểu lệch lạc hai chữ “bình đẳng” mà


phát sinh ra những hành động đáng tiếc theo
kiểu “ông ăn chả, bà ăn nem” làm cho gia đình bị
tan vỡ.

Vậy bình đẳng là như thế nào ?


Dĩ nhiên, gã không phủ nhận những khác biệt
giữa đờn bà và đờn ông. Chẳng hạn đàn bà thì
yếu, còn đờn ông thì mạnh. Đàn bà thiên về tình
cảm, còn đờn ông thiên về suy luận. Đờn bà có
óc phân tích, còn đờn ông có óc tổng hợp... Tuy
nhiên, những khác biệt ấy không phải là để đối
chọi và triệt tiêu lẫn nhau, như ánh sáng và bóng
tối, như lửa và nước, nhưng là để bổ túc và
nâng đỡ cho nhau.
MỤC LỤC

Vì thế, người ta thường bảo :


- Cái nhìn đúng không phải là cái nhìn của anh
hay của em, nhưng là cái nhìn của cả hai đứa
chúng mình.

Tiếp đến, gã cũng phải công nhận rằng trong


thân thể có nhiều chi thể và mỗi chi thể có một
nhiệm vụ, nhưng tất cả đều hướng tới một mục
đích, đó là làm cho thân thể được liên tục phát
triển.

Ngày nọ, hai chân lên tiếng phản đối cái miệng.
Chúng nói :
- Suốt ngày tôi phải đi rạc cả cẳng, còn ngươi thì
chỉ việc ngồi nhà mát ăn bát vàng.
Hai tay cũng lên tiếng :
- Tôi phải làm lụng quần quật suốt ngày, còn
MỤC LỤC

ngươi thì chỉ việc xơi hết những thành quả do tôi
làm ra.

Thế là đôi tay và đôi chân đình công, không đi


và cũng không làm nữa, thành thử cái miệng
chẳng có gì để ăn. Nhưng chỉ một ngày, toàn
thân ủ rũ như sắp chết đến nơi. Nhờ sự can
thiệp của bộ óc, các chi thể mới hiểu được vai
trò cần thiết của mình và tiếp tục hoạt động lại,
làm cho toàn thân được sống và sống dồi dào.

Ngoài xã hội cũng vậy, mỗi người có một nghề


để sinh sống và đóng góp cho đất nước. Nếu
mọi người đều cấy lúa thì lấy ai dệt vải. Nếu mọi
người đều dệt vải thì lấy ai xây nhà...

Đêm kia, một thi sĩ nằm mơ. Anh chàng thấy


người giúp việc đến và nói :
MỤC LỤC

- Tôi xin nghỉ việc. Từ nay, anh phải nấu lấy mà


ăn, giặt lấy mà mặc.

Người giết heo cũng đến và bảo :


- Tôi xin giải nghệ. Từ nay anh tự nuôi lợn, mổ
lấy mà ăn.
Rồi người trồng cà phê, người trồng thuốc lá,
người cấy lúa... Tất cả đều xin nghỉ việc, khiến
anh chàng lo toát cả mồ hôi, đập mạnh chân
xuống giường, thì ra đó chỉ là một giấc mơ.

Thế nhưng, từ giấc mơ này anh chàng nhận ra


rằng : mình cần đến người khác và mình mắc nợ
người khác nhiều lắm.

Nơi gia đình luật phân công ấy cũng đã được áp


dụng : người thì kiếm tiến, kẻ thì nấu bếp... Tuy
nhiên, tất cả đều có chung một nỗi băn khoăn lo
MỤC LỤC

lắng, đó là góp phần xây dựng cho cuộc sống


được tốt đẹp hơn.

Như thế, mỗi người đều có một công việc một


bổn phận và không có công việc nào là thấp
hèn, đáng khinh đáng ghét. Trái lại, công việc
nào cũng tốt và cũng cần như nhau.
Giống như khi nói về nghề nghiệp :

- Nghề nào cũng đáng quí đáng trọng. Không có


nghề xấu mà chỉ có người xấu mà thôi.

Sau khi đã khẳng định như vậy, gã nhận ra rằng


bình đẳng có nghĩa là đờn bà và đờn ông đều
bằng nhau về nhân vị và phải được tôn trọng
như nhau. Đờn bà cũng là một con người, cũng
có một phẩm giá và cũng phải được quí mến
như đờn ông. Quan niệm “trọng nam khinh nữ”
MỤC LỤC

chuộng nam chê nữ, hay “nhất nam viết hữu,


thập nữ viết vô” một cậu con giai là đã có, chứ
còn mười cô con gái cũng chỉ là số không, quả
là đã xưa rồi Diễm ơi!

Tiếp đến, bình đẳng còn có nghĩa là đờn bà và


đờn ông đều bằng nhau về quyền lợi cũng như
về trách nhiệm. Cả hai đều phải kề vai sát cánh
cộng tác với nhau trong việc xây dựng một cuộc
đời chung, một mái ấm chung.

Người chồng ngoài giờ đi làm, cũng phải giúp


đỡ người vợ trong việc “tề gia nội trợ” cũng như
giáo dục con cái, Người vợ ngoài việc bếp múc,
cũng phải phụ với người chồng một tay trong
việc bươm chải, tìm tiền kiếm bạc cho gia đình
có được một cuộc sống vật chất ấm no. Nhất là
khi người chồng bị sao quả tạ chiếu tướng, rơi
MỤC LỤC

vào tình trạng thất nghiệp, ở nhà đuổi gà cho vợ


và ngồi chơi xơi nước, không còn kiếm ra một
đồng xu nào sốt, thì người vợ cũng đừng vì thế
mà lên tiếng chì chiết người chồng là hạng vô tài
bất tướng, ăn hại đái nát. Rồi thay lòng đổi dạ.

Lệnh Nữ là con gái của quan thái thú Hạ Hầu


Văn Ninh, được gả cho Tào Văn Thúc, cháu nội
của Tào Tháo. Văn Thúc chẳng may chết sớm,
Lệnh Nữ góa chồng. Nàng sợ cha mẹ bắt phải
tái giá, nên cắt cụt tóc, ý muốn ở vậy thờ chồng.
Nhưng cha mẹ không nghe, ép phải lấy chồng.
Lệnh Nữ bèn dùng dao cắt đứt hai tai, rồi sang ở
với người anh họ của chồng là Tào Sảng. Khi
Tư mã Ý diệt nước Ngụy, giết cả dòng họ Tào,
chú của Lệnh Nữ bắt nàng về Lương Châu định
ép gả. Nàng lại tự xẻo mũi, cương quyết ở vậy
cho trọn đạo vợ hiền. Bà con thấy vậy liền bảo :
MỤC LỤC

- Tất cả họ hàng nhà chồng đều bị tru diệt, nàng


thủ tiết với ai mà phải đày đọa thân xác đến
thế ?

Lệnh Nữ đáp :
- Tôi thường nghe người nhân chẳng lấy lẽ thịnh
suy mà đổi tiết. Xưa kia họ Tào còn thế lực, mọi
người thảy đều khuất phục để thụ hưởng giàu
sang, nay chẳng may bị tru diệt, tôi há lại hùa
theo thiên hạ mà làm điều bất nghĩa hay sao ?

Hẳn rằng khi bước vào cuộc sống hôn nhân,


chúng ta đã lớn tiếng đọc lên lời thề hứa rằng :

- Sẽ giữ lòng chung thủy với nhau khi thịnh


vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn
cũng như lúc khỏe mạnh, để yêu thương và tôn
MỤC LỤC

trọng nhau trong suốt cả cuộc đời.

Viết đến đây, gã xin khép lại chuyện đờn bà và


đờn ông, để chuyển sang một đề tài khác, theo ý
muốn của cụ chủ nhiệm. Đề tài ấy như thế nào,
thì xin... hạ hồi phân giải.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐỒN THỔI

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Chả biết từ đời thuở nhà nào, trong thiên hạ đã
có lời xác quyết :
- Người là một con vật có trí khôn.
Đúng thế, càng suy gẫm gã càng nhận ra sự
thực tuyệt vời của câu nói ấy. Sở dĩ con người
vượt trội hơn con vật là nhờ đầu óc. Thế nhưng,
đầu óc mới chỉ là bình diện vật chất. Không phải
cứ đầu to óc lớn mà tài giỏi. Nếu lấy khối lượng
làm tiêu chuẩn thì hẳn con bò phải ăn đứt con
người, thế mà chúng ta vẫn bảo :
- Ngu như bò.
Và chúng ta cũng thường kết án :
- To đầu mà dại.
Cái làm nên chất lượng cao cho đầu óc con
người chính là trí khôn. Nhờ trí khôn, con người
mới có được những tư tưởng hay ho, rồi từ đó
MỤC LỤC

nảy sinh những việc làm tốt đẹp, bởi vì tư tưởng


thì hướng dẫn cho hành động.
Nhờ trí khôn, con người mới có được những
phát minh làm đổi thay bộ mặt trái đất.
Chẳng hạn trong lãnh vực ăn, ngày xưa người
ta ăn sống nuốt tươi, thế mà hôm nay đã có
hằng hà sa số những thứ cao lương mỹ vị. Cứ
chiều chiều đi dạo phố Saigon, người ta ghi
nhận được biết bao nhiêu nhà hàng, biết bao
nhiêu quán ăn, biết bao nhiêu... làng nướng mọc
lên khắp nơi, khói tỏa nghi ngút, hương thơm
ngào ngạt làm điếc mũi hàng xóm và khách qua
đường.
Chẳng hạn trong lãnh vực uống, ngày xưa
người ta uống nước lã cầm hơi, thế mà hôm nay
đã có muôn vàn thứ rượu. Quê hương Việt Nam
chúng ta vốn còn nghèo nàn và nhiều người vốn
MỤC LỤC

còn thiếu ăn, thế nhưng nếu bây giờ người ta


hỏi gã :
- Có bao nhiêu thứ bia trên đất nước này ?
Gã đành bó tay chào thua, chẳng thể trả lời
được, bởi vì hầu như tất cả các thứ bia nổi tiếng
trên thế giới, cũng như những thứ bia vô danh
tiểu tốt chả ai biết đến đều có mặt tại vùng đất
khốn khổ này, hơn thế nữa lại còn liên tục phát
triển và không ngừng vươn lên.
Chẳng hạn trong lãnh vực ở, ngày xưa người ta
ở hang ở lỗ, thế mà hôm nay đã có cơ man nào
những ngọn tháp, những tòa nhà chọc trời, cao
hằng mấy trăm mét, đứng ở dưới mà nhìn lên,
cứ tưởng chúng đụng tới mây và làm cho mình
hoa cả mắt, chóng cả mặt.
Trong khi đó, con vật thì vẫn cứ giậm chân tại
chỗ, trước sao sau vậy, chẳng tiến bộ được một
ly ông cụ nào cả.
MỤC LỤC

Chẳng hạn con cọp thì vẫn cứ ăn sống nuốt


tươi, con chuột thì vẫn cứ chui hang chui hốc,
con chim thì vẫn cứ xơi những hạt lúa rụng và
tha những cọng rơm về làm tổ.
Chỉ riêng con người là không ngừng phát triển
về đủ mọi phương diện. Sở dĩ như vậy cũng chỉ
vì con người có trí khôn.
Một trong những sinh hoạt chính của trí khôn, đó
là suy nghĩ. Chẳng thế mà Pascal đã bảo :
- L’homme est un roseau pensant, con người là
một cây sậy biết suy nghĩ.
Và chính Pascal còn đã khẳng định thêm :
- Je pense, donc je suis, tôi suy nghĩ, vậy tôi
hiện hữu.
Cái làm nên con người tôi, cái làm nên cuộc
sống tôi, đó là sự suy nghĩ. Nếu tôi sống mà
không suy nghĩ, thì kể như đã tiêu tùng từ lâu và
không còn là tôi nữa.
MỤC LỤC

Bây giờ, gã xin “xì tốp” những chuyện triết lý trên


mây trên gió ấy để chỉ nói tới những chuyện đời
thường mà thôi, bởi vì gã chẳng được học
chuyên sâu về môn này, kẻo lắm kẻ thối mồm lại
bĩu môi, chu mỏ mà bảo :
- Ban môn lộng phủ, múa bút trước cửa nhà Lỗ
Ban.
Được diễn nôm thành :
- Đánh trống qua cửa nhà sấm.
Hay :
- Múa rìu qua mắt thợ.
Trong những lúc ngồi suy tư mông lung, chúng
ta ít khi nghĩ đến những sự trên trời, mà hay
nghĩ đến những sự dưới đất, chúng ta cũng ít
nghĩ đến chuyện mình, mà hay nghĩ đến chuyện
người. Rồi sau đó, đưa ra những nhận định và
những đánh giá.
MỤC LỤC

Chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái


giỏ trước ngực đặt những sai lỗi của của người
khác, còn cái giỏ sau lưng đặt những sai lỗi của
bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất
rõ những sai lỗi của người khác, rồi lên tiếng
phê bình và chỉ trích một cách gắt gao. Còn
những sai lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn
thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng
sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bào chữa, để
biện minh : vì... tại... bởi... Chúng ta thường khắt
khe đối với người khác mà khoan dung với bản
thân, đáng lẽ ra, chúng ta phải khoan dung với
người khác mà khắt khe đối với chính bản thân
mình.
Tuy nhiên, những nhận định và đánh giá của
chúng ta rất ít khi vô tư và chính xác, bởi vì
chúng ta thường bị chi phối bởi nhiều lý do khác
nhau.
MỤC LỤC

Trước một sự việc, mỗi người đều có một cái


nhìn riêng và một phán quyết riêng, đúng như
tục ngữ đã bảo :
- Năm người, mười ý.
Ngày nọ, có hai cha con nhà kia dắt một con lừa
ra chợ để bán. Người cha ngồi chễm chệ trên
lưng lừa, còn đứa con đi bộ theo sau. Khách
qua đường thấy thế bèn nói :
- Người cha gì mà không biết thương con! Ngồi
chễm chệ trên lưng lừa trong khi đứa con phải đi
bộ.
Nghe vậy, người cha bèn nhảy xuống khỏi lưng
lùa và nhường cho con cưỡi. Đi được một chốc,
hai cha con lại nghe khách qua đường chỉ trích :
- Đồ con bất hiếu, còn trẻ mà ngồi ung dung trên
lưng lừa, trong khi cha thì già mà lại phải cuốc
bộ.
Nghe vậy, hai cha con mới bảo nhau :
MỤC LỤC

- Chỉ còn một cách để cho thiên hạ khỏi bàn ra


tán vào, đó là cả hai cha con ta cùng cưỡi.
Thế là hai cha con cùng leo lên lưng lừa. Nhưng
vừa đi được một quãng, họ lại nghe thấy một lời
chỉ trích khác :
- Rõ là phường vô nhân đạo! Làm sao con lừa
gầy chịu đựng nổi một sức nặng như thế.
Nghe vậy, hai cha con lại vội nhảy xuống khỏi
lưng lừa. Thế nhưng cũng chỉ một lúc sau, có
người lại phê bình :
- Rõ là đồ ngu dốt. Có lừa mà không dám cưỡi
lại phải đi bộ.
Hai cha con không biết làm sao, đành phải nai
lưng khiêng con lừa đến chợ.
Câu chuyện này làm cho gã nhớ tới một câu ca
dao của người Việt Nam chúng ta :
- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
MỤC LỤC

Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,


Béo chê béo trục, béo tròn,
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.
Sở dĩ có những cái nhìn riêng và những phán
quyết khác biệt như thế, bởi vì khi nhận định và
đánh giá, chúng ta thường chủ quan, bị tình cảm
chi phối, theo kiểu :
- Yêu nhau củ ấu cũng tròn,
Trái bồ hòn cũng ngọt.
- Yêu nhau cau bảy bổ ba,
Ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười.
- Yêu ai yêu cả đường đi,
Ghét ai, ghét cả tông chi họ hàng.
Ngày xưa, bên nước Tống có một người rất
giàu. Ông xây tường cao chung quanh nhà để
đề phòng kẻ gian xâm nhập. Một hôm mưa to và
gió lớn, cuồng phong và bão táp nổi lên, khiến
MỤC LỤC

một cây cổ thu ïbên đường bị đổ và làm sập mất


một khoảng tường. Người con thấy thế bèn nói :
- Xin cha cho xây tường lại ngay đi, nếu không
kẻ trộm sẽ lẻn vào mất.
Người láng giềng thấy vậy cũng đề nghị :
- Này bác, không xây lại ngay thì e rằng sẽ có
trộm.
Tường chưa kịp sửa, thì ngay đêm hôm đó, nhà
ông phú hộ bị kẻ trộm viếng thăm. Sáng ra khi
hay nhà mất trộm, ông khen người con là khôn
ngoan, nhìn xa trông rộng, biết trước mọi sự.
Trong khi đó, ông lại nghi ngờ người hàng xóm
là gian xảo, lợi dụng thời cơ, xâm nhập gia cư,
lấy trộm đồ đạc nhà ông.
Cũng vậy, ngày xửa ngày xưa ở bên Tàu có một
ông quan rất được nhà vua sủng ái, mà gã quên
béng mất tên rồi. Ngày kia, thiên hạ đem dâng
cho nhà vua một món sơn hào hải vị. Thấy vậy,
MỤC LỤC

ông quan này bèn xơi trước một bát. Nhà vua
nghe biết liền khen :
- Rõ thật là bậc trung thần, ăn trước để xem
trong món sơn hào hải vị ấy có thuốc độc hại
trẫm hay không.
Thời gian sau, ông quan này bị thất sủng. Ngày
kia, thiên hạ cũng đem dâng cho nhà vua một
món sơn hào hải vị. Thấy vậy, ông quan này
cũng xơi trước một bát. Khi nghe biết, nhà vua
bèn đùng đùng nổi giận và quát mắng :
- Rõ thật là đồ khinh quân phản phúc, dám xơi
trước, chẳng còn kính nể gì trẫm nữa. Không
những phải tội chết, mà còn phải tru di tam tộc.
Nói thế rồi, nhà vua bèn truyền lệnh :
- Lính đâu ? Chém đầu.
Những câu chuyện trên làm gã nghĩ tới lời cha
ông chúng ta đã xác quyết :
- Yêu nến tốt, ghét nên xấu.
MỤC LỤC

Hay như dân tây thường bảo :


- C’est la vie!!! Đời là thế!!!
Tuy nhiên, khi nhận định và đánh giá người và
việc, ngoài yếu tố tình cảm, chúng ta còn bị bị
tâm trạng cũng như hoàn cảnh, những yếu tố
bên trong cũng như bên ngoài chi phối nữa, như
Nguyễn Du đã từng viết :
- Cảnh nào, cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.
Ông du khách lái xe phom phom từ Nha Trang
lên Đàlạt, khi qua khỏi đèo Ngoạn Mục, người ta
hỏi :
- Ông thấy Nha Trang thế nào ?
Ông mỉm cười và nói :
- Nha Trang hở ? Gió biển mát mẻ, con người
vui vẻ, quả là một địa điểm du lịch tuyệt vời.
Người ta hỏi tiếp :
MỤC LỤC

- Ông lên Đàlạt, vậy ông nghĩ gì về thành phố


này ?
Ông trả lời :
- Tôi hy vọng Đàlạt cũng sẽ tuyệt vời như vậy và
còn hơn vậy nữa.
Lúc sau, một ông du khách khác lái chiếc xe cà
rịch cà tàng, từ Nha Trang lên Đàlạt. Bò mãi mới
leo tới đỉnh đèo Ngoạn Mục, người ta hỏi :
- Ông thấy Nha Trang thế nào ?
Ông nhăn nhó và nói :
- Nha Trang ư ? Khí hậu oi bức, con người cục
súc. Quả là một nơi du lịch tồi tệ.
Người ta hỏi tiếp :
- Ông lên Đàlạt, vậy ông nghĩ gì về thành phố
này ?
Ông trả lời :
- Tôi cho rằng Đàlạt cũng sẽ tồi tệ như vậy, mà
còn hơn vậy nữa.
MỤC LỤC

Sau cùng, khi nhận định cũng như đánh giá


người và việc, nhiều khi chúng ta còn cố tình để
cho những ý đồ đen tối lộng lành mà vo tròn bóp
mép sự thật.
Đúng thế, bất kỳ ai trong chúng ta cũng đều
mang lấy một chút tự ái, một chút tự cao, một
chút tự đại... Bất kỳ ai trong chúng ta cũng đều
bị tính kiêu căng len lỏi vào từng ngõ ngách tâm
hồn.
Khi người khác gặp phải tai ương hoạn nạn, có
thể bên ngoài chúng ta ủ rũ như treo cờ tang,
nhưng bên trong lại khấp khởi mừng thầm :
- Cho mày chết.
Khi người khác phạm phải một sai lỗi nào đó.
Thay vì tìm hiểu để có được một thái độ cảm
thông, chúng ta bèn vội vã lên tiếng kết án một
cách nghiệt ngã như muốn đạp họ xuống tận
MỤC LỤC

bùn đen và giám tiếp nói rằng mình tốt hơn họ


bội phần :
- Tôi không như vậy đâu.
Đúng như tục ngữ đã bảo :
- Chân mình những lấm mê mê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Hơn thế nữa, những nhận định và đánh giá của
chúng ta vốn thường sai lầm, bởi vì chúng ta
không hiểu rõ được hoàn cảnh của họ, cũng
như những lý do thầm kín đã chi phối hành động
của họ.
Một cô gái bán dâm, hành động ấy chắc chắn
phải là một hành động xấu, nhưng biết đâu cô
gái ấy lại có những lý do chính đáng để được
giảm nhẹ, chẳng hạn như cô gái ấy đang cần
một số tiền để mua thuốc chữa bệnh cho mẹ già
sắp chết.
MỤC LỤC

Một ông chồng khô khan nguội lạnh, chẳng hiểu


buồn vì chuyện gia đình lục đục hay chuyện làm
ăn thất bại, mà ngày nọ đã nhảy xuống sông tự
tử. Mọi người đều tin rằng ông ấy đã mất linh
hồn, chết sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp.
Thế nhưng, nào có ai hay ông ấy vốn kính mến
Đức Mẹ. Thứ bảy đầu tháng nào, ông cũng dâng
lên Mẹ những bông hoa tươi. Chính vì thế, ông
đã được ơn ăn năn vào giây phút cuối cùng, như
lời thánh Vianney đã nói với bà vợ của ông :
- Giữa cây cầu và dòng sông có một khoảng
cách. Khoảng cách ấy tuy nhỏ nhưng cũng đã
đủ để ông ta sám hối. Và chính khoảng cách
nhỏ này cấm chúng ta không được xét đoán liều
lĩnh.
Khi tỏ lộ những nhận định, những đánh giá chủ
quan và sai lạc của mình cho thiên hạ biết, là
MỤC LỤC

chúng ta đã tạo nên và tung ra những tin đồn. Vì


thế, trong tự điển người ta đã định nghĩa :
- Đồn là nói chuyền cho nhiều người biết.
- Tin đồn là tin không chắc chắn do nhiều người
rỉ tai cho nhau.
Chẳng hạn trong ca dao có câu :
- Cúc mai trồng lộn một bồn,
Chúng mình chồng vợ, ai đồn mặc ai.
Còn sau khi nhận được một tin đồn, chúng ta nói
lại cho người khác, thì lúc bấy giờ chúng ta
chẳng khác gì kẻ đang phùng má trợn mắt thổi
cho tin ấy lan nhanh.
Vì thế, người ta mới gọi là đồn thổi. Đã đồn thì
phải thổi để cho tin ấy được bay đi khắp bốn
phương trời :
- Tiếng lành đồn xa,
Tiếng dữ đồn ba ngày đường.
MỤC LỤC

Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi chúng ta đã


phải ngậm đắng nuốt cay mà nhận ra rằng :
- Đồn về tiếng lành thì chẳng bao nhiêu, còn thổi
về tiếng dữ thì lại quá nhiều, chẳng thể nào kể
ra cho xiết.
Tin đồn thường không đúng với sự thật. Chính vì
tính cách “thất thiệt” này mà tin đồn do chúng ta
tung ra, hay do chúng ta thổi cho nó bay đi xa,
đã giết hại biết bao nhiêu người ngay lành và
thiện chí mà nhiều khi chính chúng ta cũng
chẳng thèm biết đến.
Bà chị của gã lấy chồng. Anh ấy là cảnh sát cấp
“nhớn”. Hai người có với nhau ba mặt con. Rồi
anh ấy được “bốc” đi mình ên trước ngày 30
tháng 4 năm 1975.
Suốt quãng thời gian dài, chị đã không nhận
được một tin tức hay có một liên hệ gì với anh.
Một sự thinh lặng quả là dễ sợ. Và cũng trong
MỤC LỤC

khoảng thời gian đằng đẵng ấy, người ta đã đồn


rằng :
- Anh ấy bị chết chìm giữa biển khơi vì tàu bị
đắm.
- Anh ấy bị đụng xe bên Mỹ và đã được mai táng
tại nghĩa trang...
Và tệ hơn nữa :
- Anh ấy đã lấy vợ và đã có con.
Những tin đồn vô căn cứ này làm cho chị héo
hắt và quay quắt. Chị âm thầm nuốt những giọt
nước mắt cay đắng, ra sức làm lụng vất vả để
nuôi dạy ba đứa con. Cho tới ngày nhận được lá
thư, trong đó anh cho biết mình đang xúc tiến
thủ tục đón chị và các con qua Mỹ theo diện
đoàn tụ gia đình.
Dầu vậy, chị vẫn còn bán tín bán nghi, nên đã
viết và đặt thẳng vấn đề với anh :
MỤC LỤC

- Thế thì qua Mỹ, mẹ con em sẽ ở với ai, bởi vì


người ta đồn rằng anh đã lấy vợ và đã có con.
Một câu chuyện khác kể lại rằng :
Tại một thị trấn nhỏ, chàng thanh niên kia có
những triệu chứng và biểu hiện khác thường.
Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ “nghi ngờ” anh
ta mắc phải bệnh phong cùi.
Tuy không phải là một phán quyết dứt khoát,
nhưng kể từ đó mọi người bắt đầu xa tránh anh
ta, nhìn anh ta với con mắt kinh hãi và ghê tởm
vì sợ bị lây lan, vì thế anh ta không dám ra khỏi
nhà và cũng chẳng dám tiếp xúc với một ai.
Ngay cả những người thân trong gia đình cũng
cho rằng anh đã mắc phải chứng bệnh khủng
khiếp đó.
Và để che dấu con người bị coi như một nỗi tủi
nhục và xấu hổ chung, họ đã nhốt anh ta vào
một căn phòng nhỏ và khóa chặt. Chàng thanh
MỤC LỤC

niên đáng thương ấy chỉ còn sống vất vưởng


nhờ mấy chén cơm được đưa vào mỗi ngày. Vũ
trụ của anh ta chỉ còn là căn phòng nhỏ với bốn
bức tường khép kín. Ngậm đắng nuốt cay từng
giây từng phút, anh ta chỉ còn một hy vọng duy
nhất, đó là trốn thoát khỏi căn phòng giam của
chính mình.
Ngày nọ, anh ta đã lẻn được ra ngoài, nhưng
chẳng may, gia đình đã kịp thời phát giác và lại
tống anh ta vào căn phòng nhỏ. Lần này, chàng
thanh niên khốn khổ ấy dường như không còn
một tia hy vọng nào nữa. Anh ta chỉ muốn tìm sự
giải thoát qua cái chết mà thôi.
Lần thứ hai, anh trốn khỏi vũ trụ tăm tối của
mình. Nhưng lang thang mãi trên đường phố mà
vẫn không tìm được một sự tin tưởng và giúp đỡ
của những người chung quanh, vì đi tới đâu anh
ta cũng đều bị chối từ. Và thế là anh ta quyết
MỤC LỤC

định tìm đến cái chết như một lời biện hộ cuối
cùng.
Anh ta đã mua thuốc ngủ và tự tử trước mặt mọi
người. Cái chết của anh ta đã gây chấn động
trong dư luận. Người ta yêu cầu khám nghiệm
tử thi. Và kết quả cuộc khám nghiệm đã làm cho
mọi người chưng hửng và sửng sốt :
- Anh ta chẳng hề mắc phải bệnh phong cùi.
Một khi tin đã được tung ra, một lời đã được đồn
thổi, thì không thể nào thu hồi lại được, cũng
như không thể nào đền bù những thiệt hại tinh
thần lẫn vật chất mà chúng đã gây nên.
Có một người đàn bà vào tòa cáo giải và xưng
tội nói hành nói xấu của mình. Cha giải tội bèn
ra việc đền tội :
- Con hãy mua một con gà giò, ôm nó vào lòng
và đi khắp thành phố. Vừa đi vừa nhổ lông nó.
MỤC LỤC

Tuần sau, người đàn bà lại vào tòa cáo giải và


lại xưng tội nói hành nói xấu. Cha giải tội hỏi :
- Lần trước, con đã làm việc đền tội chưa ?
- Thưa cha, rồi ạ.
- Vậy việc đền tội lần này, đó là con hãy đi lại
những con đường đã đi hôm trước và nhặt đưa
về cho cha hết tất cả những chiếc lông con gà.
- Nhưng thưa cha, gió đã thổi bay chúng hết rồi.
- Cũng thế con ạ, con không thể nào thu hồi lại
những lời nói hành nói xấu của con, bởi vì chúng
đã được chuyền từ miệng người này tới miệng
người kia.
Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Nhất ngôn xuất khẩu, tứ mã nan truy. Một lời
nói ra khỏi miệng, bốn ngựa đuổi theo cũng
không kịp.
Đừng bao giờ tự mình tung ra những tin đồn thất
thiệt. Cũng như đừng bao giờ tiếp tay bằng cách
MỤC LỤC

thổi cho những tin đồn thất thiệt ấy bay đi khắp


nơi, khắp chốn.
Trái lại, hãy là bờ cát vàng, để những con sóng
đồn đại xô tới chúng ta, lập tức sẽ bị tan thành
những đám bọt trắng hiền hòa, không còn mang
lấy những tác dụng độc hại của chúng nữa.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ÔNG KHỦNG BỐ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, không phải
chỉ là một biến cố làm rụng rời tay chân trên toàn
nước Mỹ, mà còn là một biến cố làm cho kinh
hồn khiếp vía cho cả và nhân loại đang sống
trên mặt đất này.
Nhìn những chiếc máy bay dân sự chở đầy
hành khách đâm sầm vào Trung tâm Thương
mại quốc tế tại Nữu Ước, bổ nhào xuống Lầu
Năm góc của bộ quốc phòng, hay rơi trên sa
mạc bang Pensylvania, ai mà chẳng cảm thấy
khiếp đảm.
Nhìn những đống đổ nát của tòa tháp đôi, quả
thật là không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá
nào, ai mà chẳng thở dài ngao ngán :
- Ngày tận thế cũng đến vậy là cùng.
MỤC LỤC

Nhìn những nạn nhân bị thiệt mạng trong ngày


kinh hoàng ấy, ai mà chẳng xót xa và muốn chia
sẻ bằng những giọt nước mắt bồi hồi xúc động
của mình.
Sáng hôm ấy, khi nhìn và nghe tin tức trên
truyền hình, gã cũng đã bàng hoàng sửng sốt.
Trước một cú đánh bất ngờ, chẳng ai lường
trước được, gã đã phải băn khoăn tự hỏi :
- Tại sao người ta lại có thể hành động một cách
dã man đến như thế.
Thời gian vẫn cứ tiến tới bằng những bước chân
âm thầm. Một năm đã trôi qua. Một năm nhiều
xáo trộn. Một năm nhiều bạo lực. Nào những
căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan. Nào là bầu
khí ngột ngạt tại Trung Đông giữa Do Thái và
Palestine, với những “trái bom sống”, hay nói
cách khác với những “người bom”, nghĩa là
MỤC LỤC

những người ôm bom sẵn sàng để chết hầu


mong giết được nhiều kẻ thù của mình.
Chính trong bối cảnh ấy mà hai chữ “khủng bố”
được bàn dân thiên hạ nói đến nhiều nhất. Vậy
khủng bố là như thế nào ?
Để đưa ra một định nghĩa chuẩn xác gã bèn
phải bật tự điển, để mà nói có sách mách có
chứng, thế nhưng vẫn không thoát khỏi những
kẻ xấu bụng cho rằng :
- Ôi dào, gã ấy chỉ thông thái nhờ sách vở mà
thôi. Cái hạng “doctus cum libro” thì ăn cái giải gì
cơ chứ.
Thôi thì cũng đành phải cắn răng chịu vậy bởi vì
mình thì có giỏi giang chi với ai. Theo tự điển
thì :
- Khủng là làm cho người ta sợ hãi.
MỤC LỤC

- Bố là kinh hoàng sợ hãi, ngoài ra còn có nghĩa


là tra xét, bắt bớ, đánh đập, cướp bóc…chẳng
hạn như nói : đi bố ráp.
Và như vậy :
- Khủng bố là dùng những hành động tàn bạo
làm cho người ta sợ hãi. Một đôi khi khủng bố
cũng còn có nghĩa là chửi mắng để làm cho
người ta lo sợ.
Trên lý thuyết, hễ dùng bạo lực để làm cho
người ta sợ hãi, thì được phong làm khủng bố,
nhưng trong thực tế, sự việc lại không đơn giản
như vậy.
Hồi đệ nhị thế chiến, nếu gã nhớ không lầm, thì
những anh chàng phi công gan dạ của Nhật
Bản, lái máy bay đâm thẳng xuống những chiến
hạm Mỹ và đã tạo được một chiến thắng lừng
lẫy tại Trân Châu Cảng, khiến Mỹ phải kinh
MỤC LỤC

hoàng…nhưng chẳng ai dám gọi họ là quân


khủng bố cả.
Hiện thời, khó mà phân định về những hành
động khủng bố, bởi vì nó còn tùy thuộc vào cái
nhìn chủ quan, vào cái lập trường chính chị
chính em của mình.
Chẳng hạn việc đâm máy bay dân sự vào tòa
tháp đôi, hầu như mọi người đều coi đó là hành
động khủng bố, nhưng dưới mắt ông Bin Laden,
thì đó lại là một hành động tử đạo, chắc chắn sẽ
được đấng Allah ân thưởng bội hậu.
Chẳng hạn việc ôm bom tự sát để giết cho được
nhiều người Do Thái, chúng ta cho đó là hành
động khủng bố, nhưng dưới mắt dân Palestine,
thì đó lại là hành động can đảm và anh hùng,
một hành động yêu nước và cứu dân. Thật đúng
như mấy ông tây đã bảo :
MỤC LỤC

- Ố là là, chân lý thì ở bên kia dãy núi


Pyrénées!!!
Nhưng dù sao chăng nữa thì hầu như mọi người
đều phải công nhận rằng thế giới hôm nay đã bị
in đậm dấu ấn của bạo lực. Thực vậy, bạo lực
xuất hiện trên báo chí với những câu chuyện về
vụ án cướp của giết người. Bạo lực xuất hiện
trên phim ảnh, người ta giết nhau dễ dàng như
trở bàn tay với những lý do chẳng đâu vào đâu.
Bạo lực xuất hiện trong những trò chơi điện tử
làm cho những em nhỏ còn hoi mùi sữa đã làm
quen và rành rẽ việc bắn giết nhau.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn đó là bạo lực đã
có mặt khắp nơi trong cuộc sống thường ngày
dưới nhiều hình thức khác nhau. Và nếu cần
phải dán nhãn hiệu trình tòa cho thế giới hôm
nay, có lẽ gã sẽ phải ghi một chữ “bạo” thật to,
bởi vì người ta đã tỏ ra táo tợn và hung dữ trong
MỤC LỤC

nhiều lãnh vực. Vì thế, chữ bạo này cũng được


thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không
lường nổi. Gã chỉ xin kê đơn hoàn tán một số
kiểu “bạo” vốn hay gặp thấy mà thôi.
Thứ nhất là bạo nghĩ. Con người thời nay nghĩ
rất táo tợn, nhất là nghĩ xấu cho người khác.
Thấy một hành động bất ổn là vội vàng phê
bình, chỉ trích và kết án, rồi lại còn thêm mắm
thêm muối, vẽ râu vẽ ria cho thêm phần lâm ly bi
đát.
Thứ hai là bạo ăn. Con người thời nay rất phàm
ăn. Ăn tuốt luốt từ con tép cho đến con voi. Hầu
như tất cả mọi thứ trên đời này đều phục vụ cho
cái lỗ miệng của con người. Người ta ăn cho
khoái khẩu, nhằm thỏa mãn mọi vui thú cho
sướng cái thân mình. Thậm chí ngay cả những
thứ không ăn được, thế mà thiên hạ vẫn cứ
thích xơi, thích đớp như thường, chẳng hạn như
MỤC LỤC

ăn tiền, ăn cướp, ăn hối lộ…Họa may chỉ có ăn


đòn là “em chả dám đâu”.
Thứ ba là bạo nói. Con người thời nay hay nói
vung thiên địa, thích những ngôn từ đao to búa
lớn của nghề quảng cáo, cứ nói và nhất là nói
hành nói xấu, sẵn sàng chụp mũ và đổ lên đầu
người khác đủ mọi giống tội, mà chẳng thèm để
ý tới những hậu quả gây nên cho nạn nhân.
Thứ bốn là bạo làm. Con người thời nay thực
hiện rất nhiều hành động hung dữ dựa trên sức
mạnh, nên rất khoái những hình thức bạo động.
Hiền lành và khiêm nhường là hèn nhát. Đấu
tranh bất bạo động quả là “xưa rồi Diễm ơi”. Họ
đánh mình một, thì lập tức mình phải đánh trả
mười. Cũng vì vậy, mặc dù tự do và nhân quyền
được nói đến hoài hoài mỏi cả miệng, thế mà xã
hội vẫn đẻ ra những tên bạo chúa và những chế
độ bạo quyền.
MỤC LỤC

Sau cùng, thứ năm là bạo tàn. Con người thời


nay thích tàn phá danh dự và hạnh phúc của kẻ
khác. Đã vùi dập ai thì phải vùi dập cho tới tận
bùn đen khiến họ không thể ngóc đầu lên nổi,
khiến họ phải thân bại danh liệt và khiến cuộc
đời họ kể như đi đoong luôn…Như thế mới hả
lòng hả dạ.
Bây giờ, gã xin trở lại với chuyện khủng bố. Khi
nói tới khủng bố là gã nghĩ ngay tới những phần
tử đối lập quá khích, dùng bạo lực làm cho
người ta khiếp sợ, để rồi từ đó đưa ra những đòi
hỏi, những yêu sách của mình. Khi nói tới khủng
bố là gã hình dung ra những tên không tặc, mặt
đằng đằng sát khí, súng kè kè bên hông, tay
cầm trái lựu đạn đã mở chốt nhằm uy hiếp hành
khách cũng như phi hành đoàn…
Đây là thứ khủng bố có bài bổn và mang tầm
mức quốc tế, hay ít nữa cũng mang tầm mức
MỤC LỤC

quốc gia. Tuy nhiên, trong một phạm vi nhỏ hẹp


hơn, gã cũng thấy khủng bố có mặt trong mối
liên hệ giữa những cá nhân với nhau. Thực vậy,
nếu hiểu khủng bố là làm cho người khác khiếp
sợ, tinh thần trở thành bạc nhược để rồi cuối
cùng phải cúi đầu tuân theo những yêu cầu,
những đòi hỏi được đưa ra, thì gã thấy rất nhiều
lần chúng ta cũng đã khủng bố lẫn nhau.
Phương tiện dùng để khủng bố, có thể bằng lời
nói và cũng có thể bằng việc làm. Trước hết là
bằng lời nói. Gã thấy có những ông bố mở
miệng ra là chửi bới và cấm đoán, khiến cho con
cái khiếp sợ. Hình như họ muốn dùng phương
thế khủng bố để giáo dục con cái mình, nghĩa là
làm cho con cái phải sợ mà vâng lời. Thế
nhưng, biện pháp khủng bố này thường không
đem lại những kết quả mong muốn.
MỤC LỤC

Có hai ông bố thường răn đe con cái của mình


như sau :
- Kỳ thi này, mày phải đỗ, bằng không thì đừng
vác mặt về nhà.
Con cái của họ học lấy học để, học ngày không
đủ tranh thủ học đêm, nhưng bị sao quả tạ chiếu
tướng, học tài thi phận, cuối cùng đều rớt. Vì
không dám vác mặt về nhà, anh con giai thì bỏ
đi bụi đời, còn chị con gái thì nhảy xuống cầu
Bình Lợi mà tự tử.
Gã quen một vị gia trưởng. Vị này rất là oai
phong lẫm liệt, nhưng chỉ vì cái thói độc tài và
độc đoán, bất cứ lời nào phán ra, đều chắc như
đinh đóng cột, vợ con phải răm rắp tuân theo,
bằng không thì e rằng khó sống với vị ấy…Mặc
dù chưa dùng tới bạo lực và bạo hành, nguyên
cái chuyện bạo ngôn mà thôi cũng đủ khiến vợ
con căng thẳng, bạc nhược để rồi đứa thì đi với
MỤC LỤC

mẹ, đứa thì kiếm cớ công việc làm ăn giã từ vị


gia trưởng đáng kính ấy, tìm nơi khác sinh sống.
Bây giờ, tuổi đời đã xế chiều, vị gia trưởng ấy
chỉ sống cu ki một mình trong căn nhà rộng. Vợ
con vẫn chưa hết sợ để tìm đường đoàn tụ,
“tung cánh chim tìm về tổ ấm”.
Khi mới quen và yêu nhau, anh tỏ ra là một
chàng trai ga lăng, mềm mỏng. Nhưng khi cá đã
mắc câu rồi, thì anh không còn giữ gìn ý tứ với
chị nữa. Anh luôn quát nạt, chửi mắng và dùng
lời lẽ thô tục với chị, khiến chị phải cắn răng chịu
đựng…(PNCN số 25).
Tiếp đến là bằng việc làm, tức là dùng bạo lực
với những hành động vũ phu, tàn ác theo kiểu
bạo hành, bạo động…để trấn áp khiến đối
phương phải hồn xiêu phách lạc. Chẳng hạn cha
mẹ thì đánh đập con cái, chồng thì thượng cẳng
chân hạ cẳng tay với vợ.
MỤC LỤC

Gã xin ghi lại một số những sự kiện được đăng


tải trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, để thấy rằng tình
trạng khủng bố về tinh thần cũng như về thể xác
đã, đang và sẽ còn liên tục phát triển dù rằng
mọi người đều công nhận sự bình đẳng giữa
nam và nữ.
Theo thống kê trên toàn thế giới, cứ mười lăm
giây lại có một phụ nữ bị bạo hành trong giai
đoạn yêu đương. Riêng tại Việt Nam, đến 70%
phụ nữ bị bạo hành trong gia đình và 85%
trường hợp ly hôn là do bạo hành. (PNCN số
25).
Có một bà vợ trót dại yêu thương một người bạn
đồng nghiệp. Thấy nguy cơ gia đình tan vỡ, bà
bèn dừng lại và thú nhận, mong được chồng tha
thứ. Ông chồng chỉ yêu cầu bà vợ viết tờ kiểm
điểm. Rồi hàng ngày trước giờ ăn, ông bắt bà
đọc tờ kiểm điểm trước mặt chồng con. Từ khi
MỤC LỤC

thằng cu Bi năm tuổi bây giờ nó đã thi đại học,


bà vẫn phải đọc. Xấu hổ với con, bà xin ông
được chấm dứt hình phạt đó, nhưng ông bảo
ông vẫn còn nhục lắm. Chuyên viên tư vấn kiên
nhẫn giải thích, ông vẫn phớt lờ. Chuyện gia
đình ông không muốn người ngoài chen vào.
Vậy là lúc vợ ngoại tình gia đình không tan vỡ,
nhưng đến khi ròng rã năm này qua năm nọ phải
đọc kiểm điểm, bà hết chịu nổi, nên đòi được ly
hôn…Phải chăng đó chính là một sự khủng bố
về tinh thần. (PNCN số 26).
Ngắm nhìn bà xã trong chiếc áo thung bó sát
người, chiếc váy mềm mại, một ông chồng khác
đã ngẩn người say đắm, nhưng cũng chính vì
thế mà ông không chịu nổi ánh mắt của những
gã khác nhìn vợ mình. Và thế là…bao nhiêu cái
áo, váy đẹp của vợ, ông cắt, xé cho bằng hết.
Có thể vợ ông không tơ tưởng đến ai, cũng có
MỤC LỤC

thể chẳng gã nào cố tình tán tỉnh, nhưng nếu vợ


ông cứ “khoe hàng” trước mặt bọn đàn ông, thì
sẽ dễ nảy sinh tội lỗi. (PNCN số 26).
Bạo hành và khủng bố không phải chỉ có mặt
trong gia đình, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ
với con cái, nhưng còn có mặt ở nhiều lãnh vực
khác nữa.
Chẳng hạn giữa chủ và thợ : báo chí đã đăng tải
nhiều tin tức liên quan tới các công nhân Việt
Nam làm việc trong các công ty hay xí nghiệp
của Đại Hàn. Họ đã bị những ông chủ “Sâm Cao
Ly” đánh đập một cách tàn nhẫn.
Chẳng hạn giữa thày cô và học trò. Báo Công
An Thành Phố mới đăng một mẩu tin như sau :
Sau khi ra chơi tập thể dục giữa giờ, em Bằng
và em Phúc, con cô giáo, chạy xô vào nhau và
cùng ngã. Bằng đã xin lỗi Phúc. Cùng lúc ấy,
một em khác nói với Bằng : xin lỗi không được
MỤC LỤC

đâu, tí nữa cô giáo đánh bạn đấy. Câu nói ấy đã


là lời cảnh báo. Khi trống vào lớp được 5-10
phút, Bằng từ khu văn phòng nhà trường về, xin
vào lớp, cô giáo đang giảng bài, sa sầm nét mặt,
tay cầm thước tiến đến gần Bằng vụt mạnh vào
tay phải em và giật giọng nói : Vào lớp đi. Bằng
bị đứng ở cuối lớp, sau đó cô giáo nói : Cái
thằng kia không biết đau đâu, cả lớp xuống đấm
cho nó thối phổi, cho nó chết đi. Ngay sau lời nói
của cô, những đứa trẻ chưa đầy 10 tuổi đã biến
thành công cụ trả thù của cô giáo. Bị đau và lo
sợ trước lời dọa nạt, Bằng về không dám nói với
gia đình. Hôm ấy Bằng không ăn cơm tối, không
học bài, đêm đến lại sốt cao. Mẹ gặng hỏi mãi,
Bằng mới ghé sát tai mẹ và nói : Con nói với mẹ
nhưng mẹ đừng nói với ai, cô giáo xui các bạn
đánh vào bụng con. Mẹ vạch áo con thấy nhiều
chỗ thâm tím đã òa khóc. Bắt đầu từ hôm ấy,
MỤC LỤC

Bằng luôn sống trong tình trạng hoảng loạn :


cơm không ăn, bài không học, đêm chạy loạn xạ
khắp nhà, đặt lưng xuống là nói sảng và giật
mình thon thót. (CATPHCM số 1065).
Bình thường thì những người có chức có quyền,
hay nói cách khác, những kẻ được coi là bề trên
mới khủng bố những người bề dưới, chẳng
hạn : chồng đối với vợ, chủ đối với thợ, cha mẹ
đối với con cái, thày cô đối với học trò…Thế
nhưng, sự việc đâu có thẳng ruột ngựa như vậy,
mà luôn có những chuyện tréo chẳng ngỗng và
ngược đời.
Chẳng hạn con cái khủng bố cha mẹ. Một cậu
quí tử đã nói với cha mẹ rằng : nếu không cho
tiền sắm chiếc xe đời mới thì sẽ đi chích choác
mang cái bệnh Sida về nhà. Một cô gái rượu đã
nói với n đấng sinh thành của mình như sau :
nếu không cho đi chơi, thì sẽ tìm cách mang một
MỤC LỤC

bầu để nằm ở nhà chờ…đẻ. Những lời phát


ngôn trên khiến cho cha mẹ phải phát kinh phát
khiếp.
Chẳng hạn học trò khủng bố thày cô. Từ lâu rồi
không hiếm những chuyện học trò hành hung
thày cô, khiến cho thiên hạ phải than rằng : bọn
trẻ bây giờ không còn tiên học lễ hậu học văn
nữa, nhưng là tiên học…võ hậu học văn, để bất
cứ lúc nào cũng sẵn sàng chơi cái ngón bạo lực.
Và nhất là đờn bà khủng bố đờn ông. Chẳng
hạn vợ khủng bố chồng. Ai trong chúng ta cũng
biết Socrates. Ông là một triết gia lừng danh thời
cổ xưa của Hy lạp. Triết lý của ông ngày nay vẫn
còn giá trị. Nhưng ác hại thay, đang khi ông là
một bậc thày đáng kính của đông đảo môn đệ và
sau này muôn thế hệ vẫn coi ông như một bậc
tôn sư, thì ông lại là nạn nhân của một bà vợ. Bà
đã chanh chua, khinh rẻ ông là hạng trói gà
MỤC LỤC

không chặt. Lần kia sau khi đã chửi bới ông một
trận kịch liệt, bà đã tặng cho ông nguyên cả một
chậu nước dơ lên người, nhưng ông vẫn thản
nhiên và nói : Tôi biết mà, sau khi đã có sấm
chớp thì tất nhiên trời sẽ đổ mưa.
Chẳng hạn bạn gái khủng bố bạn trai. Nàng đặt
ra một cái lệ bắt chàng nhất nhất phải tuân
theo : mỗi lần hẹn cứ đến trễ năm phút là bị một
cái nhéo đau điếng vào bụng. Chàng là một
người tham công tiếc việc nên cũng thường xài
giờ dây thung với bạn mình, thế là suốt một
tuần, chàng không dám ở trần trong nhà vì sợ
mẹ nhìn thấy những vết bầm. Nhéo bụng chán,
nàng chuyển sang ngắt vào cánh tay, có lần vết
ngắt nung mủ làm chàng phải đi sát trùng rồi
băng lại. Mấy bữa chàng bụng bầm, tay nhức
nhưng nàng không hề nao núng, thực hiện tiếp
chiêu cắn lên bả vai. Đi làm cả ngày mình mẩy ê
MỤC LỤC

ẩm, tưởng gặp người yêu thì được chăm sóc,


thư giãn, nào dè lại còn bị hành hạ thêm, đó là
chưa kể những màn đay nghiến xỉ vả…(PNCN
số 27).
Một trường hợp khác cũng không kém phần quái
đản. Anh là một người hiền lành ít nói, còn chị
lúc nào cũng ào ào và thẳng thắn, chính vì vậy
mà chị luôn lấn lướt anh. Vào dịp sinh nhật một
nhỏ bạn trong nhóm. Nhỏ bạn mời cả nhóm đến
quán ăn, ai có bạn trai cũng được mời theo.
Hôm ấy có anh và một vài người nam khác.
Đang ăn uống vui vẻ thì một bạn nam đề nghị :
bốn người nam uống một chai chúc mừng sinh
nhật chủ nhân, còn các bạn nữ thì uống nước
ngọt. Anh tán thành : Ừ được đó. Chị trừng mắt
nhìn : Anh đừng uống, tối còn đưa em về nữa.
Cả nhóm đồng thanh : Không sao đâu, uống một
chai cho vui. Rồi như sợ mất mặt bạn bè, anh
MỤC LỤC

gọi lớn : Cho một chai bia Saigon. Không còn


êm dịu nữa, chị chồm dậy túm lấy cổ áo của anh
: tôi đã bảo anh thôi mà, sao anh lì quá vậy. Mọi
người sửng sốt . Ai cũng can : Thôi, không uống
thì thôi, làm gì mà nóng vậy. Chẳng nói chẳng
rằng, anh đứng lên và bỏ đi…Lần khác, chị dặn
anh đón chị đi sinh nhật một người bạn. Anh đến
trễ, rồi trên đường đi anh quẹt xe trúng người ta,
may mà không có chuyện gì. Chị tức giận với
anh và vung tay tát anh một cái vì tội đi ẩu. Sau
hai năm quen nhau với những giận hờn, cuối
cùng họ đã chia tay nhau thật sự. Bây giờ thì chị
sống ở ngoại quốc. Trong một bức thư đã
khuyên bạn mình như sau : Mày phải nhẹ nhàng
với ông xã của mày! Đàn ông ai cũng thích ngọt,
ai cũng thích phụ nữ tụi mình dịu dàng. Mỗi lần
nghĩ đến chuyện ngày xưa, tao lại thấy mình có
lỗi và nông nổi quá chừng….(PNCN số 29).
MỤC LỤC

Để kết thúc, gã xin kể lại một câu chuyện vui


nhưng có thật “chăm phần chăm”, của một bậc
đáng kính mà gã xin gọi là “Ông Khủng Bố”. Thế
nhưng, tại sao lại gọi bậc đáng kính ấy là ông
khủng bố, thì xin quí vị kiên nhẫn xem tiếp phần
sau ắt sẽ rõ.
Ông khủng bố của gã là một vị chức sắc trong
Giáo hội, vừa là cha sở lại vừa là đấng bề trên
của một hội dòng, có cơ sở ở trong nước cũng
như ở ngoài nước. Vì thế mà xuân thu nhị kỳ,
một năm ít là hai lần ông khủng bố được đi chu
du nước Mỹ, gọi là để thanh tra các kẻ bề dưới.
Thấy ông khủng bố đi Mỹ như đi chợ, gã thèm
giỏ dãi nên có lần đã than ngắn thở dài :
- Một là làm bề trên, hai là làm bề dưới, chứ
đừng làm bề ngang. Bởi vì bề trên thì được ưu
đãi, còn bề dưới thì được dễ dãi chẳng ai thèm
MỤC LỤC

ngó tới. Chứ bề ngang ấy hả…gian nan lắm, khó


khăn lắm.
Sau ngày 11 tháng 9 mấy tháng, ông khủng bố
bay từ Thụy Sĩ qua Mỹ. Ai cũng tưởng chuyến đi
sẽ gặp nhiều sự nhiêu khê phức tạp, nhất là cái
khâu khám xét để đề phòng khủng bố. Thế
nhưng, sau chuyến đi, ông khủng bố đã hăng
tiết vịt cho biết như sau :
- Nhìn cái “mác” linh mục cũng như cái bản mặt
hiền khô của mình, chẳng ma nào nó khám xét
cả. Máy bay vắng khách, rộng thênh thang, tha
hồ mà ngủ. Mình đã làm một giấc dài trong suốt
chuyến đi, khỏe re, chẳng giống con bò kéo xe
chút nào, bù lại những đêm thức trắng vì bận
rộn công việc.
Đó là chuyến đi êm ru bà rù hồi năm ngoái. Còn
năm nay, ông khủng bố cũng làm một chuyến
MỤC LỤC

công du qua Mỹ. Nhưng năm nay khác năm


ngoái và ông khủng bố của gã đã gặp rắc rối to.
Số là ông khủng bố mua vé máy bay theo lộ
trình Thụy Sĩ – Dallas – New-Orleans, nhưng khi
tới Dallas, ông khủng bố ghé thăm một người
cháu. Thiên hạ thường bảo :
- Một người cháu bằng sáu thằng kẻ cướp.
Thế nhưng, người cháu của ông khủng bố lại
chẳng giống thế chút nào. Trái lại, rất thương
ông cậu, nên đã lặng lẽ mua vé máy bay của
một hãng khác, nhiều tiện nghi hơn để ông cậu
đỡ đau lưng, mà chẳng hề báo cho hãng máy
bay cũ. Cũng do cái sự không thông báo, không
đi máy bay hãng cũ mà lại đi máy bay hãng
khác, nên khi trở về Thụy sĩ, bậc đáng kính đã
gặp phải nhiều phiền toái ngoài ý muốn, bởi vì
bọn “xịa”, bọn an ninh cho rằng bậc đáng kính
có vấn đề, nên phải đổi máy bay trong cùng một
MỤC LỤC

ngày với hai hãng khác nhau. Nói trắng ra là họ


nghi ngờ bậc đáng kính có ý đồ đen tối, nên đã
thông báo đi khắp nơi phải canh chừng, bởi vì
rất có thể hắn ta là quân khủng bố.
Sau khi thanh tra các “kẻ bề dưới”, bậc đáng
kính cảm thấy hài lòng vì đã làm sáng danh cha,
sáng danh con và sáng danh dòng ta mọi bề,
liền vui vẻ khăn gói quả mướp lên đường trở về.
Chuyến bay vì phải vòng qua Luân Đôn trước
khi đáp xuống Thụy Sĩ, nên phải đổi nhiều lần.
Tại bất cứ phi trường nào, bậc đáng kính đều
được chiếu cố khám xét kỹ lưỡng, rồi lên máy
bay xong xuôi, thì cô tiếp viên mới “phôn” xuống
khu vực hành lý và báo cho biết :
- Kẻ tình nghi đã…an tọa, có thể chuyển hành lý
của hắn ta lên.
Sở dĩ thiên hạ hành động như vậy là để ăn chắc
và bảo đảm an toàn, vì nghĩ rằng một khi ông
MỤC LỤC

khủng bố có mặt trên máy bay thì chẳng khác gì


đã chui đầu vào…rọ. Chứ còn người không lên
mà hành lý cứ lên, nhỡ xảy ra bom nổ thì biết
túm tóc ai bây giờ.
Hơn thế nữa, mấy cô tiếp viên hàng không,
khuôn mặt thì đẹp, nhưng cái nhìn lại chẳng đẹp
tí nào bởi vì cái nhìn ấy chất chứa những nghi
ngờ, như thầm nói :
- Cần phải dè chừng.
Bực cả và mình, bậc đáng kính bèn nói toáng
lên với một cô tiếp viên như sau :
- Cái bản mặt tôi hiền như cục đất thế này mà lại
là dân khủng bố, ác ôn côn đồ hay sao ?
Thế nhưng, cô tiếp viên hàng không vẫn cười
mím chi và trả lời tỉnh bơ :
- Ngài không bị tình nghi, nhưng vé máy bay của
ngài bị tình nghi. Ngài không có vấn đề, nhưng
vé máy bay của ngài có vấn đề. Ngài không phải
MỤC LỤC

là dân khủng bố, nhưng biết đâu hành lý của


ngài lại là thứ dùng để khủng bố.
Cáu sườn, bậc đáng kính bèn phán :
- Thì cứ việc khám xét : mấy cuốn sách, vài bộ
quần áo và dăm ba hộp kẹo để nhai cho đỡ
buồn, họa chăng có giết được ruồi chứ nào giết
được ai ?
Cô tiếp viên vẫn lịch sự nói :
- Ấy là để đề phòng thôi mờ!!!
Rồi cúi đầu đáp lễ bậc đáng kính bằng một nụ
cười tủm tỉm.
Máy bay ghé Luân Đôn và phải chờ bốn tiếng
đồng hồ. Đầu óc căng thẳng và mệt mỏi, bậc
đáng kính bèn phớt tỉnh như dân ăng lê, xem
thường thiên hạ và coi mọi người như cỏ rác,
nên đã nằm lăn ra trên băng ghế công cộng, khò
một giấc cho đỡ khổ cuộc đời. Thiên hạ kẻ qua
người lại, nhòm nhòm ngó ngó và thì thầm :
MỤC LỤC

- Coi bộ chân cẳng cũng cao ráo, chẳng đến nỗi


tệ lậu, thế mà lại là dân du thử du thực, đầu
đường xó chợ, cầu ba cầu bất, nên mới lăn quay
ra đây há miệng mà ngủ.
Trong lúc lơ tơ lơ mơ như thế, bậc đáng kính
hình như loáng thoáng nghe thấy tiếng chân một
vài người Việt Nam đi qua và nói lèo xèo những
chi không rõ. Ôi quả thực xác thịt thì nặng nề
lắm lắm.
Rồi cũng về tới Thụy Sĩ, kết thúc một chuyến đi
đầy bão táp. Và cũng vì thế, gã đã vô phép gọi
bậc đáng kính ấy bằng danh xưng “Ông Khủng
Bố”.
Bây giờ hẳn quí vị đã biết Ông Khủng Bố của gã
là ai. Nếu biết, xin vui lòng thông báo gấp rút cho
tòa soạn, để tòa soạn kịp thời đề phòng bởi vì
thời buổi nhiễu nhương, chẳng tin giai gái nào
MỤC LỤC

cả. Bảo đảm chắc chắn quí vị sẽ nhận được


phần thưởng lớn lắm đấy ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

LƯỜI BIẾNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Lâu rồi, gã có đọc trên một vài tờ báo và đã
lượm được một mẩu suy gẫm về cuộc sống hôm
nay, đại khái như thế này :
Hiện giờ,
Chúng ta có nhà cao hơn, nhưng nhân cách lại
nhỏ hơn.
Chúng ta có nhà to hơn, nhưng gia đình lại nhỏ
hơn.
Chúng ta có nhà sang trọng hơn nhưng tổ ấm lại
đổ vỡ nhiều hơn.
Chúng ta có đường phố rộng hơn, nhưng quan
điểm lại hẹp hơn.
Chúng ta mua sắm nhiều hơn, nhưng hưởng thụ
lại ít hơn.
Chúng ta có nhiều tiện nghi hơn, nhưng lại ít
thời gian nhàn rỗi hơn.
MỤC LỤC

Chúng ta có nhiều bằng cấp hơn, nhưng lại kém


ý thức hơn.
Chúng ta hiểu biết nhiều hơn, nhưng lại kém suy
xét hơn.
Chúng ta có nhiều nhân tài hơn, nhưng lại ít
sáng tạo hơn.
Chúng ta có nhiều thuốc men hơn, nhưng sức
khỏe lại kém hơn.
Chúng ta có nhiều của cải hơn, nhưng lại thiếu
nhân bản hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, nhưng lại yêu quá ít.
Chúng ta biết cách kiếm sống, nhưng không biết
xây dựng cuộc đời.
Chúng ta sống thọ hơn, nhưng lại sống ít ý
nghĩa hơn.
Chúng ta chinh phục được vũ trụ, nhưng không
thắng được cõi lòng.
MỤC LỤC

Chúng ta làm được những việc lớn hơn, chứ


không phải là tốt hơn.
Chúng ta làm sạch không khí, nhưng lại gây ô
nhiễm trong tâm hồn.
Chúng ta đã tách nguyên tử, chứ không loại bỏ
được thành kiến.
Chúng ta viết nhiều hơn, nhưng học ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít
hơn.
Chúng ta chỉ biết vội vã, nhưng không biết chờ
đợi.
Chúng ta có thu nhập cao, nhưng đạo đức lại
thấp.
Chúng ta có nhiều thức ăn hơn, nhưng lại kém
dinh dưỡng.
Chúng ta có nhiều thức ăn nhanh, nhưng lại tiêu
hóa chậm.
MỤC LỤC

Chúng ta chuộng số lượng, mà quên mất chất


lượng.
Chúng ta có lắm lợi nhuận, nhưng quan hệ lại
hời hợt.
Chúng ta có nhiều phương tiện giải trí, nhưng lại
ít niềm vui.
Chúng ta có thu nhập gấp đôi, nhưng chia ly lại
nhiều hơn.
Chúng ta bên ngoài thì hào nhoáng, nhưng bên
trong lại rỗng tuếch.
Chúng ta cổ võ cho hòa bình thế giới, nhưng nội
chiến vẫn triền miên.
Chúng ta làm được những việc phức tạp, nhưng
lại không làm được những việc đơn giản với
đồng loại.
Chúng ta uống quá nhiều, hút quá mức, chi quá
lố, cười quá ít, giận quá mau, thức quá muộn,
MỤC LỤC

dậy quá mệt, đọc quá ít, xem truyền hình quá
nhiều và lái xe quá nhanh.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về,
nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua
đường gặp người hàng xóm mới đến.
Chúng ta có nhiều máy tính để lưu trữ thông tin
nhằm cung cấp những bản sao, nhưng lại ít liên
lạc thân tình hơn.
Đây là thời của những chuyến du hí chớp
nhoáng, của khăn dùng một lần, của buông trôi
đạo đức, của những chỗ dừng một đêm, của
những cơ thể béo phì và của những loại thuốc
kích thích, an thần để giết người.
Và rồi tác giả đã kết luận :
- Thời đại công nghệ mang lại cho bạn thông
điệp này và cũng là thời đại bạn phải lựa chọn :
hoặc là sống khác đi, hoặc là sẽ buông xuôi.
MỤC LỤC

Riêng phần gã, trong bài này, gã muốn thêm


một chi tiết nho nhỏ khác nữa, đó là :
- Hiện nay chúng ta có quá nhiều máy móc,
nhưng lại lười và làm biếng hơn bao giờ hết.
Thực vậy, ngày xưa cha ông chúng ta cuốc bộ
dăm bảy cây số là chuyện nhỏ, còn ngày nay
người ta đi vài ba trăm mét cũng phải vội leo lên
xe. Ngày xưa người vợ hay người mẹ trong gia
đình phải quét dọn và lau chùi nhà cửa, cũng
như giặt giũ áo quần bở hơi tai, toát cả mồ hôi
hột, còn ngày nay người ta chỉ cần mở máy hút
bụi hay ném vào máy giặt…loáng một chốc là
xong.
Chẳng thế mà trong một bài viết mang tựa đề là
“Nghệ thuật làm biếng” trên báo Kiến thức Ngày
Nay, thiên hạ đã đưa ra một nhận xét như sau :
“ Kỳ lạ nhất là trong lúc người có vẻ hoạt động
hơn khi rỗi rảnh, thì khoa học kỹ thuật lại mang
MỤC LỤC

đến những cải thiện khuyến khích sự…lười


biếng như máy giặt, máy rửa chén, máy hút
bụi…Thậm chí kỹ thuật hiện đại đã tiêu diệt
hoàn toàn những cố gắng ít nhất về sức lực : đi
vài trăm mét cũng leo lên xe hơi chứ không đi
bộ, dùng thang máy để lên lầu, dùng “remote
control” điều khiển TV và video vì sợ phải di
chuyển chỉ vài bước chân! Nhiều nhà xã hội học
cho rằng con người càng lúc càng béo phì là do
cuộc sống “chây lười” kiểu đó tạo ra.”
Vậy thế nào là lười biếng ?
Mở tự điển ra gã ghi nhận như sau :
- Lười là biếng nhác, ham ở không, sợ làm việc.
- Còn biếng là lười, trễ nải, uể oải, không thiết
đến việc làm.
Tác giả đã trích dẫn một câu tục ngữ để minh
chứng :
- Những người lêu lổng chơi bời,
MỤC LỤC

Cùng là lười biếng, ta thời tránh xa.


Nói tóm lại, lười hay biếng thì cũng hao hao
giống nhau, nghĩa là thích ở không, thích hưởng
nhàn và ngại làm việc, ngay cả những việc cần
thiết nhất như tắm rửa, vệ sinh thân thể của
mình.
Tục ngữ ca dao Việt Nam đã đưa ra những nét
chấm phá về họ như sau :
- Ăn như rồng cuốn,
Làm như cà cuống lội ngược.
- Ăn thì lựa những miếng ngon,
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.
Như thế còn đỡ, chứ như thế này thì quả thực là
“siêu đẳng” :
- Ăn rồi nằm ngả nằm nghiêng,
Có ai lấy tớ, thì khiêng tớ về.
Còn người phương Tây cũng diễn tả về họ như
thế này :
MỤC LỤC

- Kẻ lười biếng, như con đà điểu, khi phải bay thì


nói : tôi là một con lạc đà. Còn khi phải mang
nặng thì bảo : tôi là một con chim.
Cách đây không lâu, báo Phụ Nữ Chủ Nhật có
đưa ra một mẫu gương “điển hình tiên tiến” cho
cái sự làm biếng. Nhân vật này quả thực đã
“lươi huyền” tới trình độ siêu đẳng mà có lẽ
trong cả và thiên hạ không ai sánh bằng.
Mẩu tin ấy như sau :
“Làm biếng hết cỡ. Danh hiệu này có lẽ rất xứng
đáng được trao cho gã thuê nhà của ông lão bảy
mươi tám tuổi Camille de Roey ở thành phố
Strombeek-Bever thuộc nước Bỉ.
Suốt mười bốn năm qua, gã thuê nhà bốn mươi
tuổi này đã không hề quét dọn bất chấp lời kêu
gọi hay đe dọa của ông chủ! Ông chủ nhà De
Roey đã phải dùng biện pháp cắt điện từ năm
MỤC LỤC

1992, nhưng vẫn không lay chuyển được tính…


làm biếng của gã thuê nhà cứng đầu.
Cúp diện ư ? Gã ta nối dây với máy điều nhiệt ở
hệ thống cung cấp khí nóng để xài đỡ.
Thậm chí ông chủ đã phải dùng đến biện pháp
nhờ cậy hội đồng thành phố và cảnh sát làm áp
lực “tống khứ gã thuê nhà ra khỏi cửa”, nhưng
gã ta vẫn bình chân như vại.
Mãi tới ngày 28 tháng 4 năm 2002, “gã sống
khắc khổ” ấy không còn đủ tiền để trả, nên đã tự
động xách va-li ra khỏi nhà. Tuy nhiên, “tài sản”
gã ấy để lại là đống rác khổng lồ với hàng trăm
chai rỗng, lon đồ hộp, thức ăn dư thừa và rác
bẩn chất lên đến tận trần.”
Vậy sự lười biếng sẽ đem lại những hậu quả
như thế nào ?
MỤC LỤC

Nhìn dưới góc độ tích cực, sự lười biếng đôi khi


cũng đem lại một chút hậu quả tốt đẹp và cần
thiết cho con người.
Chẳng hạn, theo tác giả Lê Lộc, đối với những
người bị “tress” do làm việc quá căng thẳng,
thậm chí đối với những ai có nỗi buồn ray rứt,
các bác sĩ khuyên họ hãy buông bỏ tất cả và hãy
đi nghỉ hè như những cô cậu học trò. Đây là một
nhu cầu có thật và hữu ích để giải tỏa tâm trí,
thúc đẩy một nguồn sinh lực mới để đi tiếp trong
cuộc sống.
Chẳng hạn, sau một buổi sáng miệt mài làm
việc, thì giấc ngủ ban trưa cũng là điều cần thiết
để được thanh thản và hăng say cho công việc
ban chiều. Trong một bản nhạc, có nốt bổng thì
cũng có nốt trầm, nếu cứ bổng mã thì sẽ phải
gân cổ ra mà hát. Sợi dây cung có lúc căng thì
MỤC LỤC

cũng phải có lúc chùng, nếu cứ căng mãi thì sẽ


đứt…
Sau đệ nhị thế chiến, dân Nhật bản hùng hục
xây dựng lại đất nước, làm ngày không đủ họ
bèn tranh thủ làm đêm, thành thử đầu óc họ lúc
nào cũng căng thẳng. Số người bị “tress” và tự
tử ở đất Phù Tang này rất cao, mặc dầu cuộc
sống vật chất của họ chất rất đầy đủ. Và thế là
họ bèn mở mắt ra và quyết định làm việc ít thôi,
còn dành thời giờ…làm biếng, để nghỉ ngơi và đi
du lịch nơi này nơi khác cho cuộc sống được trở
nên tươi hồng và đáng sống.
Tại thành phố Medellin nước Colombia, hàng
năm người ta tổ chức “ngày làm biếng”. Đó là
ngày mà chẳng ai muốn làm việc, một ngày hội
được ra đời từ năm 1985, nhằm phản đối tình
trạng thất nghiệp và công nhân bị đuổi việc tràn
lan. Để ủng hộ cho “ngày lười biếng” này vào
MỤC LỤC

trung tuần tháng tám vừa qua, các nghệ sĩ nỗi


tiếng của thành phố đã tham gia biểu diễn trên
đường phó. Tiết mục biểu diễn của họ mang
đúng ý nghĩa của ngày hội : không ai làm gì cả
ngoài việc ngồi đọc báo!!!
Cũng trong chiều hướng ấy, cũng theo tác giả
Lê Lộc trên báo Kiến Thức Ngày Nay, suốt thập
niên 60, phong trào “hippie” của giới trẻ phương
tây đã tẩy chay các hình thức lao động áp dụng
trên toàn xã hội, để bày tỏ sự tự do và đời sống
cá nhân phong phú.
Tại Pháp, trong làn sóng biểu tình phản đối nổi
tiếng vào tháng 5 năm 1968, nhà xã hội học
Paul Lafargue có đề ra “quyền được lười biếng”,
rất được giới trẻ hoan nghênh. Không hiếm các
kiến nghị của giới trẻ đòi hỏi làm việc mỗi
ngày…hai tiếng đồng hồ, còn bao nhiêu thời giờ
khác thì để nghỉ ngơi và giải trí.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, phong trào phản kháng này rất nhanh


chóng bị phai mờ do cuộc khủng hoảng kinh tế
năm 1973 và nạn thất nghiệp gia tăng.
Hậu quả tích cực của chuyện làm biếng là như
thế. Còn hậu quả tiêu cực thì sao ?
Hậu quả tiêu cực thứ nhất, sự lười biếng là
nguồn gốc sinh ra những thói hư tật xấu về tinh
thần, như các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Nhàn cư vi bất thiện.
Chẳng riêng gì các cụ ta ngày xưa, mà hầu như
cả và thiên hạ đều nói như vậy. Chẳng hạn
người Tàu thì bảo :
- Lười biếng chính là mồ mả sống động vậy.
- Trăm chứng bệnh hư hỏng đều do lười biếng
mà sinh ra.
Còn người Tây thì nói :
- Lười biếng là một người mẹ có một con trai là
thằng ăn cắp và một con gái là cái đói nghèo.
MỤC LỤC

- Một trí tuệ tầm thường mà chuyên cần có thể


tiến xa hơn một trí tuệ thông minh nhưng lười
biếng.
Kinh nghiệm đời thường cũng cho thấy : vì nhàn
rỗi nên đờn ông mới tụm năm tụm bảy để mà cờ
bạc hay chè chén say xưa, còn đờn bà mới tụm
hai tụm ba để mà nói hành nói xấu người khác…
Và mọi bất ổn đều bởi đó mà ra cả.
Hậu quả tiêu cực thứ hai, sự lười biếng là
nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo túng về
vật chất, như các cụ ta ngày xưa cũng đã nói :
- Giàu đâu tới kẻ ngủ trưa,
Sang đâu tới kẻ say sưa tối ngày.
Thực vậy, không làm việc thì đào đâu ra tiền,
giữa một thời buổi gạo châu củi quế. Và như vậy
cái nghèo như đã được nắm chắc trong lòng
bàn tay của những kẻ lười biếng. Đúng thế :
MỤC LỤC

- Kẻ lười biếng đi chậm đến nỗi sự nghèo túng


đuổi theo kịp.
- Kẻ lười biếng là anh ruột của tên ăn mày.
- Tuần lễ của người làm việc có bảy ngày hôm
nay, còn tuần lễ của kẻ lười biếng của bảy ngày
mai.
Khi lâm vào tình trạng nghèo túng, thì chính bản
thân mình phải phấn đầu, phải chịu khó làm việc
thì mới hòng thoát ra, chứ còn biếng nhác theo
kiểu “há miệng chờ sung” thì chỉ có nước “khố
rách áo ôm” mà thôi.
Hình như “Lã Phụng Tiên” có một câu chuyện
ngụ ngôn kể lại rằng : ngày kia, chú nhái bén rớt
vào một thùng sữa bò. Cứ sự thường thì chú sẽ
bị chết chìm, thế nhưng chú vẫn ra sức vùng vẫy
với một chút hy vọng le lói là sẽ được cứu thoát.
Và sự thật đã xảy ra đúng như chú mong ước.
Nhờ sự vùng vẫy của chú mà thùng sữa bò
MỤC LỤC

bỗng đông đặc lại thành bơ và chú đã trèo ra


một cách dễ dàng.
Vì thế mà người ta mới bảo :
- Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Kẻ lười biếng đã lãng phí thời giờ của mình một
cách vô ích. Mà thời giờ là một cái gì rất ư là quí
giá. Người Tây thì bảo :
- Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc.
Còn người Tàu thì nói :
- Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc
thời gian là một tấc vàng.
Trong thực tế, thời giờ có lẽ còn quí hơn cả
vàng lẫn bạc. Mới đây, tác giả Nguyễn Tiến Hữu
đã đưa ra vài con số “kinh hoàng” mà con người
trên thế giới đã làm được trong một phút.
Phải, trong một phút người ta đã sản xuất ra :
- 61.000 lít rượu vang.
- 210.000 lít bia.
MỤC LỤC

- 4 tấn ca cao.
- 11 tấn cà phê hột.
Và đã nốc vào bụng 1,6 triệu tách cà phê.
Người ta ăn hết bao nhiêu trong một phút ?
Không biết. Nhưng con người đã giết chết cơ
man nào là súc vật lớn bé để sản xuất ra :
- 117 tấn cá.
- 314 tấn thịt đủ loại.
- 14 tấn xúc xích thịt heo.
Con người còn nhờ đàn gà đẻ giùm 1,7 triệu quả
trứng để ăn với 680.000 ổ bánh mì ban sáng.
Tất cả chỉ trong một phút.
Không chỉ biết ăn, con người còn biết chơi. Và
chơi cũng không kém phần vĩ đại. Chỉ trong một
phút, họ cho ra lò :
- 165 chiếc xe đạp để đi.
- 62 chiếc ô tô để chạy.
- 178 chiếc tivi để xem.
MỤC LỤC

- 281 chiếc radio để nghe.


- 7.935 đôi giày để mang.
- 126 máy điện thoại để nói chuyện thoải mái.
Con mắt, đôi chân, cái tay đều có điều kiện tiêu
khiển, thì cái miệng nó ghen.Con người lại phải
cật lực sản xuất thêm trong một phút :
- 15 tấn thuốc lá, tương đương với 21.000 điếu
xì gà bự và 10 triệu điếu thuốc lá để phì phèo.
Hút thước chưa đủ, cái miệng còn đòi nhấm
nháp lúc xem tivi. Và thế là cứ một phút cái
miệng ngốn hết 252 ký đậu phộng! Nhưng so ra
chẳng thấm vào đâu so với họ sản xuất được 45
tấn đậu phộng trong một phút.
Chưa hết chuyện, cái tóc con người vẩn tiếp tục
mọc. Nó mọc đến 1,1 cây số chỉ trong một phút
ngắn ngủi.
Từ những con số kinh hoàng kể trên, người Đức
có câu tục ngữ khá sâu sắc :
MỤC LỤC

- Ai không biết quí trọng một phút, người đó


chẳng đáng sống một giờ.
Kẻ lười biếng luôn tiêu dùng những sản phẩm
do tay người khác làm ra, như : gạo, trà, đường,
sữa, xăng, dầu…thế mà hắn lại chẳng làm ra
được một chút gì cả, vì thế đối với xã hội, kẻ
lười biếng chính là một tên ăn cắp chính hiệu
con nai vàng ngơ ngác.
Tới đây, gã xin ghi lại một mẩu chuyện nho nhỏ :
“Ở dơ như hủi. Chỉ tắm một lần một tuần, nếu
cần thiết. Một người tồi”.
Đó là lời tự quảng cáo để tìm bạn đời của ông
Reason, 63 tuổi ở thành phố Aberdeen, nước
Úc.
Thế nhưng, lời quảng cáo này lại hấp dẫn phái
nữ mới lạ chứ.
Vô cùng ngạc nhiên vì chỉ sau một vài ngày
những lời quảng cáo này được đăng trên mục
MỤC LỤC

tìm bạn bốn phương, ông đã nhận được không


biết bao nhiêu thư điện tử.
Sau khi nói chuyện qua điện thoại và email qua
lại, ông quyết định sẽ hẹn gặp mặt 7 người
“dường như tâm đầu ý hợp” vào tháng chín.
Quí bà quí cô cho biết sở dĩ mình quyết định làm
quen vì :
- Anh ấy có vẻ thật thà và có óc hài hước khi mô
tả về mình”.
Ôi, cái làm biếng cũng có tí lợi đấy chứ và đờn
bà con gái đúng là khó hiểu thật.
Để kết luận, gã xin trích một mẩu trong báo Kiến
Thức Ngày Nay như sau :
“Lười biếng tạo ra các hậu quả sinh lý cho cơ
thể con người và cho xã hội. Nhưng lười biếng
không phải lúc nào cũng tiêu cực. Vấn đề là phải
biết…lười cho đúng lúc.
MỤC LỤC

Bạn đang “tấn công tình cảm ráo riết” một cô


gái, cô ta sắp sửa xiêu lòng mà bạn lại lăn ra
ngủ và ngáy khò khò, thì quả thực bạn vừa lười
lại vừa chẳng giống ai!
Tuy nhiên, khi mơ màng nhìn trăng sao mà suy
nghĩ :
- Mình là ai ?
- Mình từ đâu mà đến ?
- Và mình sẽ đi về đâu ?
Ai dám bảo họ là kẻ lười biếng ?
Vì nếu như thế, thì tất cả các bậc hiền nhân
quân tử cao quí xưa nay đều không
được….siêng cho lắm.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CHÔM CHỈA

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể một mẩu chuyện
mang tựa đề là “Lấy của ban ngày”, đại khái như
thế này :
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp
cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng :
- Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái
này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được…
Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền, anh ta nói
:
- Lửa tham nó bốc lên làm mờ cả hai con mắt.
Bao nhiêu hàng hóa trong chợ, tôi cứ tưởng là
của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi,
các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ
đem tiền trả lại.
MỤC LỤC

Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi,
bắt của ai phải trả lại người ấy. Cả chợ cười ồ.
Anh ta mắng :
- Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường
dùng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của
người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày,
so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư ? Các
ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ.
Từ câu chuyện trên gã nhận thấy cái bệnh “cầm
nhầm” của anh chàng này, mặc dù đã thấm
nhiễm vào lục phủ ngũ tạng, di căn tới tận tim
gan phèo phổi, khiến cho tẩu hỏa nhập ma, khi
“lửa tham bốc lên làm mờ cả hai con mắt”, khiến
cho thấy mọi sự đều là của mình. Quả là hết
thuốc chữa.
Tuy nhiên nếu so sánh với những vị tai to mặt
lớn, vì ham mê phú quí, mà lừa thày phản bạn,
ngấm ngầm làm hại đồng bào, thì cái bệnh ăn
MỤC LỤC

cắp lẻ tẻ của anh chàng kia chẳng thấm tháp


vào đâu. Vì thế, người làm sách, tức là tác giả
“Cổ học tinh hoa”, mới thở dài kết luận :
- Trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm
vặt, chớ không biết trừng trị những kẻ đại gian
đại ác.
Đọc xong lời kết luận này, gã bèn nhớ tới một
sự thật mà người xưa đã từng “đề cao cảnh
giác” :
- Con ơi, nhớ lấy lời này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là…quan.
Sự thật cay đắng ấy, ngày hôm nay vẫn đang
liên tục phát triển ở bất cứ xã hội nào : dân khố
rách áo ôm ăn trộm, ăn cắp tí tiền lẻ thì bị tù mọt
gông, còn những xếp nhớn, nuốt trửng bạc tỉ thì
lại sống phây phây, hưởng thụ giàu sang phú
quí. Tiền bạc ở Việt Nam sợ bị bại lội, thì đem
MỤC LỤC

cất kỹ ở ngân hàng Thụy Sĩ, hay mua sắm biệt


thự ở bên Mỹ, bên Tây.
Liếc qua bất kỳ tờ báo nào, nhất là ở mục “chó
cán xe” gã đều thấy nhan nhan những tin tức về
trộm cắp, dân đạo tặc lộng hành khắp nơi khắp
chốn như ở chỗ không người vậy, dù cho công
an cảnh sát có đứng đầy đường, đầy phố.
Có rất nhiều lý do khiến cho tệ nạn này bành
trướng.
Lý do thứ nhất đó là do lòng tham. Lòng tham
của con người ví như chiếc thùng không đáy, có
thể bỏ vào đó tuốt luốt, từ con gà con vịt đến
những máy móc đắt tiền chất lượng cao. Khi
lòng tham bừng bừng nổi dậy, thì trông gà hóa
quốc, của người cứ tưởng là của mình, nên ung
dung thò tay ra….cầm nhầm.
Lý do thứ hai đó là do sự lười biếng, muốn giàu
mà lại sợ không dám đổ mồ hôi sôi nước mắt.
MỤC LỤC

Muốn bốc lên mau mà lại sợ phải lao động vất


vả cực nhọc, nên chi đi “thuổng” của thiên hạ
là…thượng sách :
- Con ơi học lấy lời cha,
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
Lý do thứ ba là do sự túng quẫn. Đói quá thì
phải đi ăn trộm, Túng quá thì phải đi ăn cắp, như
người xưa đã diễn tả :
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Đói ăn vụng, túng làm càn.
Từ những lý do kể trên, tệ nạn trộm cắp như gặp
được một thửa đất màu mỡ để nảy mầm và lớn
lên như nấm sau cơn mưa.
Người ta sẵn sàng chôn vùi lương tâm, miễn
sao vơ vét về cho thật nhiều. Người ta sẵn sàng
cười hô hố trên những khổ đau của người khác,
miễn sao những cú làm ăn bất chính của mình
MỤC LỤC

được trót lọt. Người ta coi đức công bằng là một


cái gì cổ hủ và lỗi thời…xưa rồi Diễm ơi !!!
Thế nhưng cho tới ngày hôm nay, công bằng
vẫn phải là yếu tố căn bản cho mọi liên hệ xã
hội, bởi vì công bằng phải đi trước và làm nền
tảng cho bác ái.
Thực vậy, nếu không có công bằng thì tình
thương sẽ bị méo mó, lệch lạc và sụp đổ. Nếu
không có công bằng thì tình thương cũng sẽ
đi…đong luôn. Chính vì thế, ngay từ hồi còn tấm
bé, trước thánh lễ ngày Chúa nhật, người ta
thường đọc :
- Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn, thứ bảy
chớ lấy của người…thứ mười chớ tham của
người.
Hai điều răn này xuất phát từ lời Thiên Chúa
truyền dạy cho ông Maisen trên Núi Sinai như
sau :
MỤC LỤC

- Ngươi không được trộm cắp…Ngươi không


được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng,
tôi tớ nam nữ, con bò con lừa hay bất cứ vật gì
của người ta.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều biết :
- Của cải vật chất là điều rất cần thiết giúp chúng
ta sống và sống xứng đáng với nhân phẩm của
mình.
Thiên Chúa biết rõ điều ấy. Ngài đã quy định hai
điều răn trên và đòi buộc chúng ta phải tuân giữ.
Sách giáo lý còn xác định một cách cụ thể hơn :
- Điều răn thứ bảy dạy ta không được lấy hay
giữ của người ta một cách trái phép.
Trong phạm vi lấy của người ta một cách trái
phép, gã xin ghi nhận có nhiều thứ “ăn” bất ổn
mà chúng ta cần phải xa tránh, đó là ăn trộm, ăn
cắp, ăn cướp, ăn gian, ăn hối lộ, ăn lời…Tuy
MỤC LỤC

nhiên, hôm nay gã chỉ bàn đến mấy vụ “ăn”


thông thường mà thôi.
Trước hết, đó là ăn trộm và ăn cắp.
Theo nghĩa bình dân thì ăn trộm và ăn cắp là lấy
của người ta một cách kín đáo bằng tài khéo
của mình.
Tuy nhiên, ăn trộm nhấn mạnh đến khía cạnh
khổ chủ vắng mặt, hay ngủ mê không biết.
Chẳng hạn ban đêm lẻn vào nhà người ta mà
lấy đi đồ đạc, tiền bạc hay bắt heo, bắt gà, bắt
vịt…
Còn ăn cắp thì thường được thực hiện nay
trước mắt khổ chủ mà khổ chủ cũng không hay.
Chẳng hạn lợi dụng lúc chen lấn nhau lên xe,
quân gian ác bèn thuổng mất chiếc ví hay rạch
cái túi xách, lấy đi tiền bạc, áo quần của thiên
hạ.
MỤC LỤC

Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời, ông bố


dẫn những đứa con của mình đi thăm sở thú.
Lúc về tới nhà, thọc tay vào túi quần thì mới hay
chiếc ví của mình đã không cánh mà bay. Trong
chiếc ví ấy hãy còn một số tiền nhỏ và ông đã tự
hỏi :
- Việc xảy ra vào lúc nào nhỉ ? Rõ ràng lúc lên
xe, mình còn mở ví, lấy tiền trả cho bác tài cơ
mà.
Có lẽ lúc ngồi trên xe, hay lúc kẻ lên người
xuống, quân đạo tặc đã nhanh tay lẹ con mắt
“nẫng” mất chí ví của ông bố.
Hồi xưa, khi còn phải qua phà ở bắc Mỹ Thuận,
có lần gã cũng đã được chiếu cố, phải nếm thử
kinh nghiệm đau thương ấy.
Lúc đó, gã đang đứng lơ tơ mơ, tựa vào lan can
mà ngắm dòng sông hiền hòa, đem lại phù sa
cho đồng bằng sông Cửu Long, rồi suy nghĩ tản
MỤC LỤC

mạn tới những chuyện trên trời cũng như những


chuyện dưới đất. Khi phà cặp bến, gã bèn ba
chân bốn cẳng chạy đuổi theo xe, nhưng bỗng
thấy chiếc xắc của mình bị kéo “phẹc mơ tuya”,
mở toang hoác từ lúc nào không rõ.
Mồ hôi mồ kê vãi ra ròng ròng. Mắt nổ đom đóm.
Kiểm tra lại thì phát giác ra bị bay hơi mất một tí
tiền còm. Từ lần đó, mỗi khi đi đâu, gã thường
để tiền ở một vài chỗ khác nhau : trong túi quần,
trong xắc, ngăn ngoài ngăn trong, để lỡ có mất
chỗ này thì vẫn còn chỗ kia.
Tiếp đến, đó là ăn cướp.
Ăn cướp có nghĩa là dùng sức mạnh, dùng vũ
lực để uy hiếp hầu cưỡng đoạt của cải người
khác một cách công khai. Chẳng hạn vào đêm
khuya trên đoạn đường vắng, bọn côn đồ dùng
dao búa hay súng đạn chặn đường, rồi giật mất
chiếc đồng hồ trên tay thiên hạ. Hay xông vào
MỤC LỤC

nhà, trói gô tất cả mọi người lại, đẩy vào phòng


tắm, rồi ung dung chiếm lấy tiền bạc, hay dinh tê
những đồ đạc quí giá.
Qua sách vở cũng như báo chí, gã thấy những
kẻ làm nghề này thường kết thành băng, thành
đảng. Một khi đã cướp của thì phải lấy đi cho
nhiều, hay là lấy đi những thứ quí giá nhất. Đồng
thời, cướp của lại thường đi đôi với giết người.
Thực vậy, đồng tiền thì liền với khúc ruột. Nhìn
thấy tiền bạc do mình ky cóp tích lũy và của cải
do mình chắt chiu gầy dựng, bỗng dưng bị lấy đi
như vậy, khổ chủ thường ra sức chống cự để
bảo vệ tài sản của mình, chứ ít ai dám “bỏ của
chạy lấy người”, vì thế bọn cướp phải dùng đến
biện pháp mạnh như đánh đập và có khi giết
chết để chiếm đoạt cái họ muốn lấy.
Sau cùng, đó là ăn gian.
MỤC LỤC

Ăn gian là dùng mưu mô xảo trá để lừa gạt hầu


lấy đi tiền bạc hay của cải người khác.
Chẳng hạn trường hợp của những người buôn
bán. Thiên hạ thường bảo :
- Phi thương bất phú. Không buôn bán thì khó
mà giàu.
Để được chóng giàu và “phất lên” một cách mau
chóng, thì không thể thật thà như đếm, chân chỉ
hạt bột hay thành thực chất phác mà trái lại phải
mánh mung, lươn lẹo, gian dối và xảo trá. Thí dụ
khi cân đo đong đếm hàng hóa cho người mua,
thì phải dùng những chiếc cân thiếu, hoặc
những chiếc thước hụt, hầu ăn chạên, ăn bớt
được tí nào hay tí ấy.
Chẳng hạn trường hợp của những kẻ sản xuất.
Họ chế tạo ra những mặt hàng dổm, kém phẩm
chất và tung ra thị trường, rồi nhờ quảng cáo,
đánh lận con đen, trở thành hàng xịn, hàng tốt,
MỤC LỤC

hàng chất lượng cao mà dối gạt các vị thượng


đế là khách hàng.
Chẳng hạn trường hợp của các nhân viên hay
người giúp việc, lợi dụng uy tín, được chủ tin
cậy mà bớt xén số tiền đã được trao cho mình.
Hiện thời gã đang cắm dùi tại một vùng sâu
vùng xa, thuộc vào hàng khỉ ho cò gáy, nên sách
vở hơi…hiếm. Suốt tuần qua, gã đã phải chạy
toạc cả cẳng, hỏi chỗ này, nhờ chỗ kia để mượn
đỡ cuốn “Nghệ thuật ăn trộm và bắt trộm” của
Toan Ánh, để dùng làm tư liệu ngâm…kíu. Dù
đã kiếm mờ cả con mắt, mà rốt cuộc cũng đành
phải chào thua, tìm không ra nổi cuốn sách đó.
Hồi xưa gã đã đọc một lần, nhưng bây giờ vì có
tí tuổi, nên hay quên, chỉ còn nhớ lõm bõm mà
thôi. Gã xin kể lại một vài mánh ăn trộm ăn cắp
của người xưa mà Toan Ánh đã ghi nhận.
MỤC LỤC

Ở thôn quê Việt Nam, nhiều người đã nuôi


ngỗng để coi nhà. Mỗi khi có động dạng, ngỗng
sẽ kêu lên quang quác, thay cho tiếng chó sủa.
Thế nhưng dĩ độc trị độc. Ngỗng vốn sợ rắn.
Biết được yếu điểm này, bọn trộm cắp bèn làm
giả một con rắn, rồi quơ quơ trước mặt ngỗng.
Và thế là những chú ngỗng liền bị tê liệt, đứng
ngây như phỗng đá. Bọn trộm chỉ việc thò tay
bắt bỏ vào bị.
Còn để bắt trộm vịt, phường đạo tặc hay dùng
những mánh sau đây.
Mánh thứ nhất đó là bí mật đào một cái hố rồi
phủ rơm lên trên. Khi người chăn lùa bày vịt ra
đồng ăn và đi ngang qua, thế nào cũng có mấy
chú vịt sập bẫy mà rơi xuống hố. Khi người chăn
và bày vịt đã đi xa, quân đạo tặc mới xuất hiện
và…tóm cổ.
MỤC LỤC

Mánh thứ hai đó là dùng một sợi dây nhỏ, một


đầu thì buộc lưỡi câu với tí mồi, còn một đầu thì
buộc vào một cục đá, rồi để trên những chiếc lá
súng lớn. Vịt ăn phải lưỡi câu, bị hòn đá kéo ghì
và từ từ chìm xuống dưới nước. Đợi lúc thuận
tiện, khi không còn người chăn nữa, phường
trộm cắp chỉ việc lội xuống và bắt vịt lên.
Tuy nhiên, độc chiêu hơn cả phải kể đến mánh
bắt chó. Để bắt trộm chó, chúng cũng có hai
mánh như sau.
Mánh thứ nhất là dụ khị. Hẳn rằng ai cũng biết
chó ở Việt Nam rất thích xơi…phân người. Vì
thế, một tên trộm ra bãi rác đầu làng, rồi ngồi…ị
để dụ chó đến. Khi chó đang nhởn nhơ xơi món
thực phẩm khoái khẩu còn nóng hổi, thì một tên
khác cầm chiếc vồ, rón rén đến phái sau, rồi đập
mạnh xuống. Tuy nhiên, cần phải nhắm cho kỹ,
MỤC LỤC

kẻo thay vì đập vồ xuống chó, thì lại đập vồ


xuống đồng bọn thì quả là chí nguy.
Mánh thứ hai được gọi là “mỹ cẩu kế”. Hẳn rằng
ai cũng biết các nàng chó có mùa tìm bạn bốn
phương. Và khi mùa tình yêu tới, do tài đánh hơi
trời đã phú ban cho, các chàng chó “đào hoa
phong nhã” từ khắp nơi kéo về. Lợi dụng cái
“basic instinct”, cái bản năng gốc ấy, chủ nhân
của các nàng chó đã nghĩ ra một mưu sâu
chước độc như sau :
Hắn ta khoét một cái lỗ nhỏ ở bờ tường vây
quanh nhà, thả nàng chó ra, rồi lại gọi vào qua
cái lỗ nhỏ ấy. Cứ thế, cứ thế mà tập cho quen.
Sau khi nàng chó đã vào qua cái lỗ nhỏ, thì các
chàng chó “ga lăng” khác cũng lần lượt thò đầu
vào theo qua cái lỗ nhỏ ấy. Thế nhưng, vào
được chàng nào thì lập tức bị thộp cổ chàng ấy.
Quả là tuyệt vời và hết ý.
MỤC LỤC

Hồi trước năm 1975, có lần gã được theo chân


mấy chàng cảnh sát đi kiếm…mồi. Tối hôm đó,
không hiểu tại sao ai cũng thèm nhậu. Thế là cả
toán liền đồng ý và nhất trí cử vài người lên xe
díp, trực chỉ bãi rác vào đêm khuya. Muốn xơi
con chó nào, thì chỉ cần…đoàng một phát, chờ
cho chảy hết máu, rồi nhét vào bao bố đem về
bót mần thịt. Vì thế, trong những đêm giới
nghiêm, Sàigòn yên giấc, bỗng nghe tiếng súng
nổ xa xa, gã liền nghĩ ngay tới mấy chàng cảnh
sát bắn chó đem về nhậu.
Còn rất nhiều những độc chiêu khác nữa mà gã
nhớ không ra và nếu có nhớ ra thì cũng không
thể kể cho hết.
Trong những năm gần đây, giới báo chí tại Việt
Nam đã phệu ra hai từ “chôm chỉa” để ám chỉ
hành động trộm cắp. Hai từ này xem ra có vẻ
nhẹ nhàng hơn, thanh lịch hơn, nhưng lại bao
MỤC LỤC

gồm một lãnh vực rộng rãi hơn, bởi vì không


phải chỉ lấy đi của thiên hạ tiền bạc, đồ dùng và
những thứ vàng bạc đá quí, mà còn lấy đi âm
nhạc, thơ văn, hội họa….xơi luôn cái tác quyền
mà chẳng tốn một đồng xu cắc bạc nào cả.
Nếu so sánh nghề trộm cắp ngày xưa với nghề
chôm chỉa hôm nay, gã nhận thấy nghề trộm cắp
ngày xưa vừa vất vả, vừa nguy hiểm mà lợi
nhuận chẳng được bao nhiêu. Còn nghề chôm
chỉa hôm nay ấy hả, vừa nhàn nhã, lại vừa
phong lưu, có khi cứ việc ngồi trong phòng gắn
máy lạnh, phì phèo điếu thuốc lá mà vẫn ung
dung chôm chỉa được của thiên hạ, còn lợi
nhuận thì nhiều lúc đếm không kể xiết. Gã xin kể
ra một vài trường hợp điển hình mà thôi.
Trước hết là chôm chỉa của nhà nước.
Chẳng hạn khi mua bán cho nhà nước, ta cứ
việc bắt tay với chủ tiệm, tự động nâng giá vật
MỤC LỤC

liệu lên rồi ghi vào hóa đơn, mà xơi khoản tiền
chênh lệch.
Chẳng hạn nhà nước có một dự án xây dựng và
đem đấu thầu công khai. Theo luật giang hồ thì
ai bỏ giá rẻ thì sẽ trúng. Vậy thì ta cứ việc bỏ giá
thật rẻ mạt. Khi dự án đã về tay ta, hoặc ta bán
lại cho công ty khác để kiếm tí tiền cò, hoặc là ta
bắt đầu thực hiện, nhưng rút bớt vật liệu, rồi cưa
đôi số tiền bớt xén ấy cho những vị có nhiệm vụ
giám sát công trình. Và như vậy là huề cả làng,
hai bên cùng có lợi. Chính vì thế mà những công
trình này vừa mới khánh thành thì đã vội sụp
lún. Nhưng không sao cả. Sụp lún thì nhà nước
lại sửa chữa và ta lại có cơ hội chia nhau đớp
hít.
Tiếp đến là chôm chỉa của tư nhân.
Chẳng hạn chôm chỉa những sáng chế của
người khác. Một mặt hàng, sau nhiều ngày đầu
MỤC LỤC

tư công sức, mới được tung ra thị trường, thì lập


tức liền bị chôm chỉa mẫu mã. Và chỉ trong một
thời gian rất ngắn, khắp nơi đều thấy bày bán
những thứ hàng “nhái”, giống y chang hàng
thiệt, mà giá lại rẻ. Và thế là có người vỡ mặt và
sập tiệm.
Hồi trước năm 1975, ai cũng biết Bata là một
hãng giày vải nổi tiếng tại Việt Nam. Thấy Bata
làm ăn có lời, thiên hạ bèn ăn cắp mẫu mã và để
đánh lận con đen, rồi gắn cho hàng nhái này một
tên mới là Bala. Dân hai lúa miệt vườn làm sao
nhận ra cái nào là Bata, còn cái nào là Bala.
Cũng như bây giờ, khi Biti’s đang làm mưa làm
gió trên thị trường giày dép tại Việt Nam thì bỗng
thấy xuất hiện những mẫu mã giống hệt, nhưng
là của Bita’s. Quả là đến quỷ thần cũng không
phân biệt nổi.
MỤC LỤC

Đặc biệt trong lãnh vực văn hóa và nghệ thuật.


Do những phương tiện sao chép và in ấn qúa dễ
dàng, nạn chôm chỉa tác quyền lại càng lộng
hành hơn bao giờ hết.
Một cuốn phim vừa mới ra lò ở bên Mỹ, thì liền
sau đó đã thấy những dĩa xuất hiện tại Việt
Nam. Hồi năm ngoái khi chương trình XP của
Microsoft chưa được trình làng, thế mà tại Việt
Nam người ta đã cài đặt và sử dụng nó một
cách anh dũng.
Một người bạn của gã bỏ ra bốn năm trăm triệu
đồng để thực hiện một dĩa VCD nhạc đạo. Thiếu
tiền phải đi vay mượn thiên hạ. Thế nhưng dĩa
nhạc chính hiệu con nai vàng tiêu thụ chưa
được bao nhiêu thì đã thấy bày bán tận hang
cùng ngõ hẻm những đĩa sao chép với giá thật
rẻ. Và để gỡ lại vốn, thì chỉ có nước vác mang
sang Mỹ mà bán.
MỤC LỤC

Có lần một anh bạn điện thoại cho gã và bảo :


- Chắc kỳ này mi làm ăn khấm khớ lắm, bởi vì ta
thấy sách của mi bày bán tại Hà Nội, nhưng sao
thời buổi này mà in ấn lại có phần lem luốc quá.
Và thế là gã mới “ngộ” ra rằng sách của mình đã
bị thiên hạ vô tư “mần thịt”, đem đi phôtô cóppy
rồi bán, mà chẳng được một lời…cám ơn!!!
Ấy là gã chưa bàn đến những vụ chôm chỉa lẻ
tẻ, chẳng hạn như chôm một đoạn văn của
người khác cho vào bài của mình mà không đề
xuất xứ, hay chôm hẳn một bài của báo này thảy
lên báo kia mà lại lỡ quên không ghi tên tác
giả…
Để kết luận, gã xin ghi lại một mẩu chuyện cũng
được trích trong sách “Cổ học tinh hoa”. Mẩu
chuyện mang tên “Cũng là ăn trộm”.
MỤC LỤC

Họ Quốc ở nước Tề rất giàu. Họ Hướng ở nước


Tống rất nghèo. Hướng bèn sang Tề hỏi Quốc
cách làm giàu. Quốc bảo :
- Ta chỉ khéo ăn trộm thôi. Thoạt đầu ta ăn trộm
một năm thì đủ dùng, hai năm thì thừa ăn, ba
năm thì giàu to. Từ đó trở đi, tài sản ta có đến cả
làng, cả tỉnh.
Hướng nghe nói mừng lắm, nhưng khốn nỗi chỉ
hiểu được câu chuyện ăn trộm chứ không hiểu
cái lối ăn trộm ra sao.
Lúc về, bèn trèo tường, khoét ngạch, phàm cái
gì trông thấy, tay cầm được là cũng lấy tất.
Hướng đi ăn trộm chưa được bao lâu, bị bắt quả
tang, thành phải tội, cả bao nhiêu của cải lúc
trước khó nhọc kiếm ra cũng bị tịch thu hết.
Bấy giờ Hướng cho Quốc là đánh lừa mình, đến
tận nơi trách. Quốc hỏi :
- Anh ăn trộm như thế nào chứ ?
MỤC LỤC

Hướng bèn thuật lại cung cách ăn trộm cho


Quốc nghe. Nghe xong, Quốc nói :
- Chết thật ! Cái lối của anh ăn trộm sai lầm đến
thế kia ư ! Này, để tôi bảo rõ cho mà biết. Trời
có thời tiết, đất có hoa lợi. Ta ăn trộm thời của
trời, lợi của đất, sự thuận hòa của mưa gió,
những sản vật của non sông, để ta cấy lúa trồng
cây, xây tường, làm nhà, trên cạn thì ta ăn trộm
giống chim muông, dưới nước thì ta ăn trộm
giống loài tôm cá. Nầy lúa mạ, đất cát, cây cối,
chim muông, cá mú, ba ba đều là của ăn trời
sinh ra cả há có phải của ta đâu. Song ta ăn
trộm của trời, nên không có tai vạ gì. Còn như
vàng, ngọc, châu, báu, thóc, lúa, của cải đều là
người ta làm kiếm ra mới có, há có phải là của
trời đâu. Nên anh ăn trộm những của ấy mà phải
chịu tội là phải lắm, anh còn trách gì ai nữa…
MỤC LỤC

Kể xong câu chuyện này, người làm sách góp ý


bàn thêm :
“Cách làm giàu không phải ở sự bon chen tranh
cướp nhỏ nhen những cái người ta làm ra,
nhưng ở sự lợi dụng những vật trời đất sinh ra.
Chiếm của riêng của người đã kiếm được mà
làm giàu cho mình, thế là không chánh đáng, thế
tức là ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, có luật pháp
trừng trị, có công lý bắt phải bồi thường lại. Chứ
lấy của chung của trời đất, biết lợi dụng những
sản vật thiên nhiên, tuy không phải của mình mà
lấy thì khác gì ăn trộm, nhưng trộm cái kho vô
tận của tạo hóa, chẳng những không ai buộc
được tội, mà người ta lại còn phải phục, phải
chịu là tài giỏi biết khéo lấy nữa. Muôn vật ở đời
không phải là của riêng một ai, hay một loài nào,
nhưng của công của cả mọi người, ai khôn thì
biết lợi dụng, ai hèn thì chịu bó tay…”
MỤC LỤC

Quả là ý vị lắm thay !!!


Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

SỐ CÔ...

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nơi gã hiện đang cắm dùi, đó là một nơi khỉ ho
cò gáy. Vì muốn có tí ánh sáng văn minh, nên
dân chúng đã phải móc hào bao, đóng tiền,
dựng cột, kéo dây để đem điện về.
Mang tiếng là “nhà nước và nhân dân cùng làm”
nhưng thực chất dân chúng đã phải đầu tư từ A
đến Z để mua điện của nhà nước, giống như gã
sắm thùng, sắm lu để mua nước vậy. Thế mà
điện thì cứ bữa đực bữa cái, bữa sáng bữa tắt.
Những hôm bị cúp điện, chỉ còn việc ngồi chơi
xơi nước, hay đọc báo đến mờ cả mắt.
Cũng nhờ ơn điện cúp và đọc báo, mà hôm vừa
rồi gã mới chớp được một mẩu tin ngăn ngắn
của báo Công An thành phố đại khái như sau :
Ông Nguyễn Chuyên, 49 tuổi, ngụ tại thị trấn
Bồng Sơn, tỉnh Bình Định, vốn chẳng có tí máu
MỤC LỤC

“dế mèn phiêu lưu ký”, nhưng lại khao khát


được “trời” cho không, biếu không một kho báu.
Biết được ước mơ thầm kín của ông, Nguyễn
Công Triều cấu kết với Trịnh Văn Xanh tìm cách
lừa gạt. Chúng dụ ông Chuyên đến dự một cuộc
lên đồng. Tên Xanh giả làm thần “Bạch Hổ”
nhập xác, báo tin mừng rằng :
- Ông sẽ được tặng một chiếc chuông đồng 800
tuổi cực kỳ đắt giá, nhưng phải “bồi dưỡng” 40
chiếc vòng vàng để 40 tên giữ chuông làm
ngơ…
Và thế là chúng đã ẵm của ông Chuyên 150 chỉ
vàng. Sợ bị bể mánh, tên Xanh bèn “nhả” lại 10
chỉ, đúc thành hai cục vàng chôn xuống đất cho
ông Chuyên đào gặp để bớt hồ nghi. Nhưng
lòng tham không đáy của tên Triều lại quá mạnh,
y đã tráo những cục chì để lấy luôn vàng. Đào
mãi chỉ thấy…chì là chì, nên ông Chuyên phẫn
MỤC LỤC

uất. Vụ lừa đảo bị đổ bể và hai tên gian manh


phải ngồi tù đếm lịch.
Từ câu chuyện trên gã đi tới một kết luận : mê
tín cũng chết, và lợi dụng óc dị đoan của thiên
hạ cũng chết. Thế nhưng nguyên do bởi đâu mà
tệ trạng mê tín dị đoan lại xuất hiện trên mặt đất
này ?
Theo các nhà “ngâm kíu” thì vào một thuở rất xa
xưa, khi con người còn man di mọi rợ, còn ăn
sống nuốt tươi, còn ở hang ở hốc…họ đã run sợ
khiếp hãi trước bất kỳ một sức mạnh nào vượt
ra khỏi tầm kiểm soát của họ. Do đó, họ đã quì
gối thờ lạy đủ thứ thần linh nhảm nhí, hầu mong
sao cho cuộc sống được bảo đảm và an toàn.
Như đeo vào mắt cặp kính màu xám, họ nhìn
chỗ nào cũng thấy những dấu ấn của thần linh,
như tục ngữ đã diễn tả :
- Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề.
MỤC LỤC

- Đất có thổ công, sông có hà bá.


Thần linh của họ có thể là một hiện tượng thiên
nhiên như sấm sét, giông bão…cũng có thể là
một con vật như con bò, con hổ, con rắn…hay
một người mà theo họ đã “thăng” vào giờ linh,
như thằng đánh dậm bị chết rét trong ngày mùa
đông… Thôi thì thượng vàng hạ cám, hầm bà
làng xáng cấu.
Chính vì thế, mấy xếp nhiễm nặng chủ nghĩa vô
thần đã đánh lận con đen, khi đồng hóa niềm tin
tôn giáo với óc mê tín dị đoan, nên lớn tiếng quả
quyết :
- Ánh sáng khoa học chiếu đến đâu, thì tôn giáo
lùi bước đến đó.
Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại lời quả
quyết trên : chỉ có chủ nghĩa vô thần là tiêu tùng,
chứ còn niềm tin tôn giáo vẫn vươn lên, vươn
lên mãi, bởi vì nó đáp ứng những khát vọng sâu
MỤC LỤC

xa nhất của con người. Đây cũng là điều dễ


hiểu, vì :
- Người là một con vật có tôn giáo. Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy ngàn đời
vẫn không thay đổi.
Theo ngu ý của gã thì mê tín dị đoan là một tình
tình trạng trong đó niềm tin tôn giáo đã bị sa
đọa, đã bị lệch lạc. Hay nói một cách khác, đó là
những tình cảm tôn giáo sai quấy. Nó không
phải chỉ tồn tại nơi các bộ lạc bán khai, mà còn
tồn tại ngay cả nơi những dân tộc vốn vỗ ngực
tự hào là văn minh, tiên tiến. Tại bất cứ thành
phố lớn nào trên thế giới, như Paris, Nữu ước…
con số những người hành nghề thày bói sờ mu
rùa cũng rất đông đảo và họ kiếm được một lợi
nhuận không nhỏ.
Sự thật trên như muốn nói rằng : Nếu đóng cửa
chính không cho Thiên Chúa bước vào, thì ma
MỤC LỤC

quỉ sẽ tiến tới bằng những khung cửa sổ. Hay


nếu xóa bỏ kinh tin kính, thì lập tức hàng ngàn
vạn điều điên khùng khác sẽ thay thế. Sở dĩ như
vậy vì tâm hồn con người vốn khao khát và
hướng tới Thiên Chúa, nếu gạt bỏ Ngài ra bên
rìa cuộc sống, thì những tình cảm tôn giáo sẽ rơi
vào tình trạng lệch pha mang màu sắc mê tín dị
đoan.
Làm sao có thể bàn cho hết những việc làm mê
tín dị đoan, chúng mọc lên nhiều như nấm sau
cơn mưa, biến ảo thiên hình vạn trạng. Vì thế,
gã chỉ xin nói tới một vài hành động quen thuộc
chúng ta thường gặp thấy mà thôi, còn những
độc chiêu hay quái chiêu khác thì gã xin…hạ hồi
phân giải, đành phải hẹn một dịp khác vậy.
Trước hết là những việc cần phải tránh, cần phải
kiêng để không rước họa vào thân
Người bình dân vốn quan niệm :
MỤC LỤC

- Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.


Hay :
- Linh tại ngã, bất linh tại ngã, có nghĩa là linh
thiêng tại ta, mà không linh thiêng cũng tại ta.
Nhìn vào bất cứ xã hội nào, đông cũng như tây,
tiến bộ cũng như mọi rợ, tất cả đều có những
việc kiêng cữ, những việc không được làm…hết
sức vô lý và nhảm nhí, chẳng có lấy một tí “lô-
gích” vững chắc nào sốt, cốt để không bị sao
quả tạ chiếu tướng.
Chẳng hạn người tây phương thì kiêng con số
mười ba. Hẳn chúng ta đã biết bữa tiệc ly là bữa
tiệc sau cùng của Chúa Giêsu gồm có Ngài và
mười hai tông đồ. Tổng cộng vị chi là mười
ba.Và người ta đã gán con số mười ba này cho
Giuđa, người môn đệ phản Thày và đã treo cổ
trên cây mà chết. Họ tin rằng con số này đem lại
những xui xẻo.
MỤC LỤC

Vì thế, thiên hạ không dám ngồi vào bàn ăn có


mười ba người. Thiên hạ cũng không xuất hành
hay lên đường vào ngày mười ba. Có những
bệnh viện và khách sạn không có phòng mười
ba, bởi vì phòng này chẳng được ai thuê mướn
bao giờ.
Cũng theo ngu ý của gã, thì con số mười ba chỉ
là một con số vô hồn, như những con số khác,
chẳng có một ảnh hưởng chi tới công việc cũng
như tương lai hậu vận của mỗi người.
Trong khi đó, người Việt Nam lại lưu ý và tránh
xa những ngày đặc biệt xúi quẩy, như ca dao tục
ngữ diễn tả :
-Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
Dù ai buôn bán cũng là về không.
- Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
Lấy vợ thì tránh, làm nhà thì kiêng.
- Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
MỤC LỤC

Đi chơi cũng thiệt, lọ là đi buôn.


- Mồng năm, mười bốn, hăm ba,
là ngày nguyệt kỵ chớ ra xuất hành.
Riêng khi lấy vợ lấy chồng, người ta phải tính
xem tuổi tác có hạp với nhau hay không :
- Thìn, tuất, sửu, mùi, tứ hành xung.
Thí dụ anh chàng tuổi hợi cầm tinh con lợn thì
không bao giờ được cưới chị nàng tuổi dần cầm
tinh con cọp, bởi vì lợn sẽ bị cọp xơi tái, anh
chàng chắc chắn sẽ bị chị nàng…mầm thịt.
Tiếp đến là những việc người ta cần phải làm vì
tin rằng nó sẽ đem lại may mắn. Chẳng hạn như
đeo móng lừa, đeo ngà voi…hay tin vào đất đai
mồ mả như tục ngữ diễn tả :
- Sống vì mồ mả,
Chứ không ai sống vì cả bát cơm.
Nếu ông cố bà kỵ được chôn táng vào cái hàm
rồng, thì thế nào con cháu sau này sẽ phất lên,
MỤC LỤC

không làm ông bí thư thì cũng làm bà chủ tịch.


Vì thế, người ta cũng thường bảo :
- Có đất làm quan, có đất đỗ cụ.
Thiết tưởng những quan niệm trên đều bất ổn.
Bởi vì thành công hay thất bại, phần lớn do bản
thân chúng ta. Nếu không cho con cái ăn học
đến nơi đến chốn, mới tí tuổi đầu đã lêu lổng
chơi bời, thì làm sao có thể nên vương nên
tướng sau này.
Hơn thế nữa, nếu đất đai mồ mả mà linh thiêng
như thế thì tại sao mấy thày địa lý lại không mày
mò tìm kiếm cho ông bà, cha mẹ và gia đình
mình những phần đất tuyệt vời nhất, để con
cháu sau này được phát tài to.
Rồi chẳng nhẽ bây giờ người ta hỏa táng, đem
xác đi thiêu, chỉ giữ lại một nắm tro tàn, thì hậu
duệ sẽ muôn đời mang kiếp con rệp, chẳng bao
giờ ngóc đầu lên nổi hay sao.
MỤC LỤC

Bởi những lẽ ấy, mà người xưa đã rút kinh


nghiệm :
- Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thày địa lý cái răng không còn.
Như vậy, tin vào đất đai mồ mả chỉ là chuyện
nhảm nhí, phần lớn do các thày địa lý bày đặt ra
để kiếm tí tiền còm. Thành thử nhiều khi tiền mất
tật mang :
- Mồ cha không khóc, khóc đống mối.
Mồ mẹ không khóc, không bối bòng bong.
Chọn đất đai mồ mả cho người chết đã đành,
mà còn phải chọn ngày lành tháng tốt cho kẻ
sống.. Hễ làm việc gì quan trọng một tí, thì liền
mở lịch “Tam thông miếu” ra để tính toán và
chọn lựa. Chẳng hạn phải chọn ngày nào giờ
nào để làm đám cưới…Có khi phải rước dâu
vào chính nửa đêm hay lúc mới tờ mờ sáng, cực
khổ cho mọi người mà vợ chồng thì vẫn cứ lục
MỤC LỤC

đục, thiếu điều muốn thượng cẳng chân hạ cẳng


tay với nhau như cơm bữa.
Gã đã thấy có những đám cưới chấm hết ngày
nọ đến ngày kia. Cữ ngày lẻ không hên, kiêng
ngày xui phải tránh, cuối cùng chọn được ngày
lành cả hai họ cùng ưng. Thế nhưng chính trong
ngày lành ấy, trời nổi cơn bão, gió thổi mạnh và
mưa dầm dề, nên chi khách khứa thưa thớt ,
nhà đám lỗ chổng vó!!!
Cũng lại theo ngu ý của gã : thời gian là của
Thượng đế, nên ngày giờ nào cũng tốt, cũng
trọng. Điều cần thiết là phải biết sử dụng thời
gian cho đúng đắn, đồng thời phải biết cố gắng
và cộng tác với nhau thì mới có thể mở được
cánh cửa hạnh phúc.
Ngoài ra, người ta còn tin vào những điều nhảm
nhí như sách “Giáo lý Công Giáo” đã đề cập tới,
MỤC LỤC

như tin vào tiếng chim kêu, tiếng gà gáy cùng


với biết bao nhiêu điều lỉnh kỉnh khác nữa.
Người ta bảo :
- Chim heo kêu là điềm dữ, thế nào cũng có
người chết.
Theo gã nghĩ :
- Chim kêu là chuyện thường, nó không kêu mới
là chuyện lạ.
Nhiều khi chim heo kéo nhau về làm tổ trên tháp
chuông nhà thờ. Chúng kêu suốt đêm và kéo dài
cả tháng, thế mà cũng chẳng có ai chết. Trái lại,
có những tháng không một cặp chim heo nào
làm tổ và kêu lên một tiếng, thế mà người bệnh
thì vẫn cứ chết, thậm chí có khi đang khỏe mạnh
mà cũng lăn đùng ra chết.
Ngày xửa ngày xưa, có người hối hả chạy đến
nói với ông Cato rằng :
- Chuột cắn giày là điềm xui.
MỤC LỤC

Ông Cato bèn cười ruồi một phát và trả lời cách
dí dỏm :
- Chuột gặm giày là chuyện thường, chứ bao giờ
giày gặm chuột mới là điều đáng nói.
Gã xin liệt kê ra đây một số những tin tưởng
nhảm nhí, không có chút căn bản nào cả.
Chẳng hạn :
- Mèo đến nhà thì khó,
Chó đến nhà thì sang.
Theo gã, thì dù mèo hay chó mà lạc bước vào
nhà mấy ông bợm nhậu, thì đều tốt , đều vui vẻ
cả làng bởi vì các tay bợm ấy sẽ có được mồi
màng thật “bén”, không chừng chén chú chén
bác tới lúc ngoắc cần câu vẫn chưa thôi.
Chẳng hạn :
- Chuột chù rúc, nhà phát tài.
Chuột cống rúc, nhà có việc.
MỤC LỤC

Ở nông thôn, đêm nào chuột chù, chuột nhắt mà


chẳng kêu chí chóe, còn chuột cống thì hơi
hiếm, thế mà quanh năm suốt tháng vẫn khố
rách áo ôm, chỉ biết bầu bạn với…bà cả đọi mà
thôi.
Chẳng hạn :
- Ra ngõ gặp gái, mọi cái mọi xui.
Ra ngõ gặp trai, vừa may vừa mắn.
Thời buổi bây giờ, xe cộ như nước, nên chi ra
phố bất luận gặp giai hay gặp gái, mà nếu cứ
phóng nhanh vượt ẩu,thì cầm chắc là sẽ bị đo
đường và không chừng sẽ phải đi tàu suốt sang
thế giới bên kia để chầu Diêm vương.
Rồi những điềm xui như :
- Chó lê trôn, gà gáy gở.
- Nhện đen sa thì sang,
Nhện vàng phải mắng,
Nhện trắng ăn đòn.
MỤC LỤC

- Đổ đèn, đổ muối thì kiêng,


Đổ mắm, đổ muối cũng nên dè chừng.
Nếu cứ kê đơn hoàn tán theo kiểu này, thì
không biết đến bao giờ mới hết. Gã bèn “xì tốp”,
để chuyển sang một mục khác, mà phần lớn quí
bà quí cô đều…thích, đó là coi bói.
Báo Công An Thành phố số ra ngày 14.10.1990
có một mẩu tin với tựa đề : “Thày bói hại ba
mạng người” như sau :
Đúng vào đêm rằm tháng tám âm lịch, chiếc xe
Kamaz có trọng tải 18 tấn chở đá của công ty
cầu đường 72 bò lên dốc cầu sắt Phán Tề,
thuộc phường 18, thị xã Cà Mau thì cầu bị sập.
Cả chiếc xe và khối lượng đá ập xuống đè bẹp
căn nhà dưới chân cầu, khiến cho anh Quắn 31
tuổi, cùng với hai con, một đứa 14 tuổi và một
đứa 12 tuổi bị thiệt mạng. Riêng mẹ và vợ anh
thì bị thương nặng.
MỤC LỤC

Trước đó chính quyền địa phương biết chiếc cầu


này xuống cấp nghiêm trọng, nên đã động viên
gia đình anh Quắn dọn đi nơi khác. Nhưng vì
anh Quắn và gia đình lại tin lời một tên thày bói
nói rằng :
- Không được dời nhà, phải chờ tới ngày 19
tháng 8 mới là ngày tốt.
Và tai nạn thương tâm đã xảy ra.
Trong sinh hoạt thường ngày, có nhiều người,
nhất là đờn bà con gái, vốn tin vào bói toán. Sở
dĩ như vậy vì đờn bà con gái rất hay tò mò,
muốn biết về tương lai hậu vận, nhất là đường
tình duyên của mình có chi trắc trở.
Nhà cửa không chịu trông coi, máy móc cứ vứt
lỏng chỏng ngoài hè ngoài ngõ, đến khi bị mất
trộm, liền chạy đi thỉnh ý ông thày bói, để rồi về
nhà, của mất không tìm thấy, lại thêm cái tội
nghi ngờ người này người nọ.
MỤC LỤC

Trong gia đình có người đau ốm, không lo chạy


chữa thuốc men, nhưng lại vội đi tìm ông thày
bói đề xem có bị ma làm, quỉ ám hay có bị ai trù
ếm gì không.
Gã quen với một đôi vợ chồng nọ. Người chồng
rất chí thú mần ăn. Còn bà vợ cứ hai năm một
lứa, lần lượt trình làng 5 cô con gái. Người thì an
ủi :
- Ngũ long công chúa đấy ông ạ.
Kẻ thì châm chọc :
- Nhà ông chỉ toàn vịt giời là vịt giời.
Giữa lúc đang thất vọng ấy, thì bà vợ cho ra lò
một cậu con giai kháu khỉnh. Làm sao diễn tả
hết nỗi vui mừng của hai vợ chồng. Vì sinh vào
ngày Chúa nhật lễ lá, nên mọi người trong gia
đình đều gọi cậu ấm bằng một cái tên thân
thương :
- Cu Lá.
MỤC LỤC

Nghe lời chị vợ, anh chồng bèn đi tìm thày,


chấm cho cậu ấm một lá số tử vi trọn đời. Lá số
tử vi này phán rằng :
- Cậu ấm mai ngày sẽ thành công, làm lớn và
gia đình được nhờ vả rất nhiều.
Và cũng kể từ đó, hai vợ chồng ra sức chiều
chuộng cu Lá, đúng với nhãn hiệu “quí tử” và
đẳng cấp “cậu ấm”. Họ cưng cu Lá như cưng
trứng, hứng như hứng hoa. Cu Lá đòi gì được
nấy. Nhất là cu Lá được mẹ bênh chằm chặp dù
việc cu Lá làm rất sai trái.
Ngày nọ, không hiểu vì quậy phá trong lớp thế
nào, mà cu Lá bị thày cho ăn mấy cái bợp tai.
Nghe tin ấy, bà mẹ đã mắng vốn ông thày như
sau :
- Nó không đẻ, nó không đau, nó dám đánh con
người ta như thế à.
MỤC LỤC

Cu Lá được gửi lên Saigon học, nhưng vì quen


thói được muông chiều, chẳng chịu học hành,
nhưng lại đua đòi theo bè bạn, cũng xì ke ma túy
và bị công an rờ gáy. Tới lúc này, hai vợ chồng
mới “ngộ” ra thì e rằng đã quá muộn…
Xét theo kinh nghiệm bình thường, thì hầu hết
những lời thày bói nói là những lời phỏng đoán
chung chung, không lấy gì làm chắc chắn đáng
cho chúng ta tin tưởng. Chẳng thế mà ca dao đã
đề cao cảnh giác :
- Thày bói nói dựa.
Bói kiểu này, thì ai mà chẳng bói được :
- Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ba mươi tết có thịt heo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
MỤC LỤC

Hay như :
- Nhà này có quái có ma,
Có con chó mực cắn ra đàng mồm.
Bởi đó cho nên :
- Bói ra ma, quét nhà ra rác.
Hậu quả của việc coi bói, đó là tương lai thì vẫn
bấp bênh, hậu vận thì vẫn mù mờ, mà còn bỗng
dưng khoác thêm một nỗi lo :
- Tay cầm tiền quí bo bo,
Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình.
- Thừa tiền thì đem mà cho,
Đừng có xem bói, đem lo vào mình.
- Tiền buộc dải yếm bo bo,
Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình.
- Ốm đau chạy chữa thuốc thang,
Đừng đi xem bói mua vàng cúng ma.
- Thày bói, thày số, thày đồng,
Nghe ba thày ấy cái lông chẳng còn.
MỤC LỤC

Tới đây, gã xin mượn đỡ câu chuyện “Hà Bá lấy


vợ” trong sách “Cổ học tinh hoa” để kết luận về
thói mê tín dị đoan.
Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua
một người con gái ném xuống sông để lấy vợ
cho Hà Bá. Sự mê tín ấy đã có lâu ngày, không
ai phá nổi.
Lúc ông Tây Môn Báo đến làm quan ở đấy, ông
thân hành đứng ra làm chủ lễ cưới vợ cho hà
Bá. Trước mắt đông đủ cả bô lão, hào trưởng,
ông cho gọi người con gái đến. Ông xem mặt
xong, chê rằng :
- Người con gái này không được đẹp! Ta nhờ
bọn ông đồng xuống nói với Hà Bá xin hoãn lại
hôm khác để tìm người đẹp hơn.
Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng
xuống sông.
Một lúc sau, ông nói :
MỤC LỤC

- Sao lâu thế này!


Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ. Lập tức
sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông.
Một lúc sau, ông nói :
- Sao không thấy tin tức gì cả. Chừng lũ đồng
cốt xuống nói không nên lời. Dám phiền các cụ
bô lão đi giúp cho.
Lại lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông.
Một lúc sau, ông nói :
- Sao mãi không thấy về thế này! Bọn đồng cốt,
bô lão dễ đi cũng không được việc. Phải nhờ
đến bậc hào trưởng mới xong.
Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt
lại, van lạy xin thôi. Tây Môn Báo nói :
- Để thong thả ta xem đã.
Mọi người run như cầy sấy. Một chốc ông mới
bảo :
MỤC LỤC

- Thôi tha cho. Thế là Hà Bá không lấy vợ nữa


rồi.
Thành thử từ đấy dân đất Nghiệp không ai dám
nhắc đến chuyện Hà Bá lấy vợ nữa.
Và tác giả sách “Cổ học tinh hoa” đã góp thêm
lời bàn :
- Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát
nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NĂM QUÍ MÙI NÓI CHUYỆN... DÊ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Cho đến bây giờ gã vẫn chưa có dịp tìm hiểu tại
sao người Á đông chúng ta, dưới ảnh hưởng
của mấy chú ba Tàu, lại chia vòng thời gian
thành từng chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài mười hai
năm và được gọi là một can hay một con giáp.
Chẳng hạn khi nói :
- Vợ nó hơn nó một con giáp.
Câu nói này nghĩa là :
- Nó kém vợ nó những mười hai tuổi. Đúng theo
cái mốt “vợ già chồng trẻ là duyên con…bò”.
Tất cả có mười can, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh,
Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quí.
Mỗi năm trong một can hay trong một con giáp
được gọi là chi. Tất cả có mười hai chi, đó là Tý,
Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu,
MỤC LỤC

Tuất và Hợi. Mỗi chi lại được biểu tượng bằng


một con vật nào đó.
Thí dụ năm nay là năm Quí Mùi. Quí là can chót,
can thứ mười. Còn Mùi là vị thứ tám trong mười
hai chi và thuộc về con Dê. Năm tới 2004, sẽ trở
lại can đầu là Giáp và chi thứ chín là Thân. Như
thế năm 2004 sẽ được gọi là năm Giáp Thân,
cầm tinh con khỉ.
Theo tục lệ tốt lành vốn có từ lâu trong nghề viết
lách, hôm nay gã xin bàn rộng bàn dài, tán hươu
tán vượn về con dê, để bàn dân thiên hạ được
xả hơi trong những ngày đầu năm, mà quên đi
những căng thẳng của công ăn việc làm và
những khủng bố đang xảy ra khắp đó đây trên
cả và trái đất.
Sách “ Cổ Học Tinh Hoa” kể lại như sau :
MỤC LỤC

Người láng giềng nhà Dương Chu mất một con


dê, bèn sai hết cả nhà đi tìm, lại sang nói với
Dương Chu cho mượn một người đi tìm hộ.
Dương Chu nói :
- Ôi ! Sao mất có một con dê mà cho những bao
nhiêu người đi tìm.
Người láng giềng đáp :
- Vì đường có lắm ngã ba.
Khi các người tìm dê đã về, Dương Chu hỏi :
- Có tìm thấy dê không ?
Người láng giềng nói :
- Không.
- Sao lại không tìm thấy ?
- Tại đường đã lắm ngã ba, theo các ngã ba đi
một chốc lại có nhiều ngã ba khác. Thành thử
không biết đi vào đường nào để tìm thấy dê,
phải chịu về không cả.
MỤC LỤC

Ấy đường cái chỉ vì lắm ngã ba mà dê mất


không tìm thấy. Người đi học cũng vậy, chỉ vì
mê muội mà mất cả lương tâm.
Theo “Việt Nam Tự điển” của Lê Văn Đức, thì :
“Dê là loài thú có sừng, có râu, lông nhiều và
hôi, bốn móng thon nhọn, thích chồm phá để
kiếm cỏ và dây leo để ăn.”
Khi con dê đực mang nặng tuổi đời và trở về già,
lúc bấy giờ râu cằm dài, lông nhiều và mùi hôi
thật đậm đặc, người ta gọi nó là dê…xồm.
Riêng những kẻ muốn bắt chước dê, để một
chòm râu ở cằm, thì bộ râu ấy liền được bàn
dân thiên hạ tặng phong cho danh hiệu là bộ râu
dê.
Trong chữ Tàu, dê được gọi là dương. Chẳng
hạn cao dương là dê con, sơn dương là dê núi.
Tại Việt Nam có một thời người ta đua nhau nuôi
dê để lấy sữa bởi vì theo các nhà phân tích, thì
MỤC LỤC

sữa dê có nhiều chất bổ dưỡng. Thậm chí các


cụ già thường xuyên uống sữa dê thì sẽ trẻ ra
vài chục tuổi, còn quí bà quí cô ấy hở, nếu
thường xuyên tắm sữa dê, thì da dẻ lúc nào
cũng cứ trắng nuốt như trứng gà bóc vậy !!!
Xem ra các chú ba Tàu, cũng như dân bợm
nhậu rất khoái món thịt dê, bộ phận nào của dê
cũng được liệt vào hàng quí hiếm và được chiếu
cố tận tình, chẳng hạn như : dương trường là
ruột dê, dương can là gan dê, dương huyết là
máu dê, dương nhục là thịt dê, dương thận là
thận dê…Mỗi thứ này được tẩm liệm và chế
biến theo một cách thức riêng để trở thành món
đặc sản của những nhà hàng tại Chợ Lớn.
Những người chuyên nghiệp làm dê, tức là mần
thịt dê, cho hay :
- Để khử cái mùi hoi của dê, người ta thường
phải đuổi cho dê chạy thật lâu, hay cho dê uống
MỤC LỤC

rượu cốt để cho dê say đến toát cả mồ hôi hột,


rồi sau đó mới chọc tiết. Thịt sẽ không còn hoi
nữa.
Có một thời ở Saigon, dân bợm nhậu rất ghiền
cái món lẩu dê, đi tới chỗ nào cũng thấy những
bảng hiệu quảng cáo và mời gọi cho lẩu dê.
Thậm chí cả một dẫy phố, nhà nhà đều trở
thành quán nhậu với món lẩu dê. Sau thời đại
của lẩu dê, tới thời đại của lẩu mắm. Còn bây
giờ tại các đám tiệc, cái “mốt” lẩu tươi sống
đang rất được thịnh hành.
Ngày nọ, gã về Saigon và được mấy tên bạn
cùng lớp rủ đi nhậu lẩu dê. Quán nhậu chỉ gồm
vỏn vẹn mấy chiếc bàn và một ít ghế thấp lè tè
được bày ngay trên lề đường vào ban tối. Khi
món nhậu được bưng ra, gã nhận thấy có một
cái niêu đựng thịt dê đã được nấu sẵn với chao,
đặt trên bếp than và đang sôi sùng sục. Đi kèm
MỤC LỤC

với nó là hai đĩa mì vắt và hai đĩa cải đắng. Mì


và cải đắng được nhúng vào lẩu trước khi ăn.
Dân nhậu chính hiệu con nai vàng, khi xơi lẩu
dê, thì phải uống rượu huyết dê, nghĩa là rượu
đế được pha với máu dê. Uống chừng dăm cốc
thì bầu khí bỗng trở nên vui vẻ, ai cũng thích nói
to và nói dài. Dường như mình là người duy
nhất nắm được chân lý trên đời.
Riêng phần gã, dù bị dị ứng với mùi tanh của
máu, cũng phải nhắm mắt nhắm mũi làm vài cốc
cho vui lòng bè bạn. Ăn miếng thịt dê mà vẫn cứ
phân vân không biết dê hay chó, bởi vì dê đâu
mà lắm thế !
Nhậu lẩu dê là một hình thức nhậu bình dân và
rẻ tiền nhất. Chẳng thế mà quán lẩu dê nào
cũng đông khách. Mấy anh tài xế xe ôm, mấy
bác đạp xích lô, sau một ngày lao động cực
nhọc, ban tối rủ nhau làm một cái lẩu dê với vài
MỤC LỤC

xị rượu huyết dê là sẽ quên tuốt những vất vả và


khốn khổ của mình.
Nhiều khi không có thịt dê, dần ghiền bèn phệu
ra món “giả dê”, tương tự như món “giả cầy” để
được tưởng nhớ mùi hương. Người ta dùng
chân giò heo, nướng lên rồi thái nhỏ và bóp với
riềng. Khi thưởng thức, miệng thì ăn nhưng lòng
thì phải mường tượng ra đó là thịt dê chính gốc.
Có một điều gã ghi nhận được khi suy gẫm về
loài dê, đó là từ đông sang tây, từ cổ chí kim,
người ta đều nhìn dê bằng một cặp mắt khinh bỉ,
gán cho dê những thói hư tật xấu và đồng hóa
dê với tội lỗi. Chẳng hiểu có oan cho dê lắm
không ?
Thực vậy, sách Lêvi của Cựu ước đã mô tả về
nghi thức của ngày lễ xá tội như sau :
Người ta dẫn tới trước mặt Aaron một con dê
đực còn sống. Ông ta sẽ đặt hai tay lên đầu nó
MỤC LỤC

mà xưng thú hết mọi sai lầm, hết mọi phản


nghịch, nghĩa là hết mọi tội lỗi của con dân
Israel, như thể trút tất tật lên đầu nó, rồi dùng tay
một người đang chờ sẵn mà đuổi nó vào sa
mạc. Ở đó chẳng có sự hiện diện đầy yêu
thương của Đức Giavê, mà chỉ có sự hiện diện
của ma quỉ độc dữ mà thôi.
Con dê này được người Do thái gọi là “oan
dương”, con dê gánh tội, con vật hy sinh.
Trong Tân ước, gã lại còn thấy rõ điều ấy hơn
nữa.
Thực vậy, hoạt cảnh vể ngày phán xét chung đã
được Kinh thánh mô tả như sau :
Bấy giờ các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước
mặt Ngài, và Ngài sẽ tách biệt họ ra, như mục tử
tách biệt chiên với dê. Ngài sẽ cho chiên đứng
bên phải, còn dê thì ở bên trái.
MỤC LỤC

Như thế, dê là biểu tượng cho những kẻ đứng


bên trái, tức là những kẻ tội lỗi, những kẻ sẽ bị
trừng phạt đời đời kiếp kiếp chẳng cùng. Thật là
đại họa và vô phúc cho chúng ta nếu như trong
ngày định mệnh ấy chúng ta bị đứng ở bên trái
và lầm lũi bước theo dấu chân dê mà đi xuống
hỏa ngục.
Chẳng biết có phải vì dê tượng trưng cho tội lỗi
và ngoại diện của nó không được bắt mắt cho
lắm mà người ta rất ngại vẽ dê.
Năm ngoái cầm tinh con ngựa, thì hình ảnh về
ngựa thật là ê hề, từ hình chụp đến hình vẽ, từ
ngựa đực đến ngựa cái, từ ngựa mẹ đến ngưa
con, thậm chí có cả ngựa đang mang bầu.
Còn năm nay cầm tinh con dê, gã đã phải chạy
đôn chay đáo, chạy ngược chạy xuôi, thậm chí
còn vắt cả giò lên cổ mà chạy để tìm cho ra một
tấm lịch có hình con dê, hầu làm thiệp đón mừng
MỤC LỤC

xuân mới, gửi cho bè bạn khắp bốn phương trời,


thế nhưng bạc mắt tìm mà cũng chẳng thấy.
Riêng đối với người Việt Nam, nết xấu nổi bật
nhất nơi con dê đực, chính là cái “tính thích đờn
bà con gái”, chính là cái “thói ve vãn, chọc ghẹo
đờn bà con gái”.
Cái tính và cái thói này nhiều khi nằm sẵn trong
huyết quản vì thế những kẻ mắc phải cái tính và
cái thói này thường được gọi là kẻ có…máu dê,
hay máu băm nhăm.
Khi cái tính và cái thói này liên tục phát triển và
lên tới tột đỉnh của nó, thì kẻ ấy nghiễm nhiên
được bàn dân thiên hạ phong cho cái chức…”dê
xồm”, tức là kẻ cả gan dám dê một cách trắng
trợn, ngay cả giữa ban ngày ban mặt, giữa
thanh thiên bạch nhật, chẳng kể gì đến những
lời bàn ra tán vào. Kẻ ấy giống như “dê cỏn
MỤC LỤC

buồn sừng húc dậu thưa”, mà Hồ Xuân Hương


đã diễn tả.
Ngày xửa ngày xưa, vua Tấn Võ Đế có rất nhiều
cung phi mỹ nữ. Ban đêm, nhà vua ngồi trên
chiếc xe khảm vàng khảm ngọc, do một đàn dê
kéo đi khắp trong cung, tự ý dê muốn đi đâu tùy
thích. Xe dừng ở nơi nào, nhà vua sẽ nghỉ đêm
tại đó.
Vì thế, các cung phi liền lấy lá dâu treo ở ngoài
cửa và dùng nước muối rắc, để cho dê thấy lá
dâu và ngửi mùi nước muối thì thèm ăn, mà kéo
xe đi vào cửa cung.
Chẳng hiểu có phải vì vậy mà dê bị gán cho cái
tác phong “thiếu đứng đắn” khi giao tiếp với “phe
địch” hay không ? Nếu chỉ vì thèm ăn nắm lá
dâu mà dê bị kết tội dê, tức là “táy máy với đờn
bà con gái”, thì thật hơi oan cho dê một tí.
MỤC LỤC

Cái tội dê này, báo chí phương tây hiện giờ đã


mặc cho nó một danh xưng nhẹ nhàng và mỹ
miều hơn, đó là cái tội “quấy rối tình dục”. Và
theo những nhà tâm lý, thì từ “quấy rối tình dục”
đến “lạm dụng tình dục” chỉ cách nhau có một
đốt ngón tay. Mấy ông quan tòa bên đó đã dành
cho những kẻ quấy rối tình dục những bản án
nặng nề, nhưng chẳng biết có “sì tốp” được cái
tính và cái thói dê ấy chút xíu nào hay không ?
Trong ngôn ngữ, gã ghi nhận được một vài câu
tục ngữ, nói lên tính cách giả dối của người đời
liên quan tới dê.
Trước hết các cụ đồ sính chữ nho hay những
người thuộc vào hàng nho chùm vốn thường
bảo :
- Dương chất hổ bì.
Câu này có nghĩa là :
- Cốt là cốt dê, mà da lại là da cọp.
MỤC LỤC

Từ đó ám chỉ những kẻ dùng thế lực giả tạo bên


ngoài để lòe bịp hay hù dọa thiên hạ.
Họ là những kẻ :
- Mượn đầu heo nấu cháo.
Hay :
- Mượn hoa cúng Phật.
Họ giống như :
- Cáo mượn oai hùm.
Chứ thực chất bên trong của họ chẳng đáng giá
một đồng xu cắc bạc nào cả.
Chuyện xưa kể rằng :
Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Còn Chiêu
Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi của Tuyên
Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe thấy
nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kính sợ. Vua lấy
làm lạ, một hôm hỏi quần thần vì cớ làm sao ?
Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa
được rằng :
MỤC LỤC

- Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một


hôm bắt được một con cáo. Cáo bảo : Liệu đó!
Chớ đụng chạm đến ta mà chết ngay bây giờ.
Ta là trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách
thú. Ngươi ăn thịt ta, là ngươi trái mệnh trời, hại
đến thân tức khắc… Không tin, thử để ta đi
trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào
trông thấy ta mà lại không sợ hãi tìm đường trốn
mau hay không ? Hổ cho là cáo nói thật, bèn đi
theo cáo. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ
mà chạy cả. Hổ vẫn không biết bách thú sợ
mình mà chạy, cứ tưởng là sợ cáo. Nay nhà vua
nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền
thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ
Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua, cũng như
bách thú sợ hổ vậy.
Câu chuyện trên ám chỉ kẻ dưới thích mượn
quyền thế “bề trên” để hống hách và dọa nạt.
MỤC LỤC

Nếu không biết, người ta còn sợ, chứ khi “lừa đã


thò tai” thì chẳng những người ta đem lòng
khinh bỉ, mà còn làm đê nhục để cho bõ ghét.
Tiếp đến, người bình dân trong ngôn ngữ
thường ngày vốn thường hay nói :
- Treo đầu dê, bán thịt chó.
Cửa hàng treo bảng hiệu bán thịt dê, nhưng
thực chất bên trong chỉ toàn chó với chó.
Cũng giống như gã đã trình bày ở trên : khi ngồi
nhậu lẩu dê với bè bạn mà lòng cứ thắc thỏm
không hiểu là thịt dê hay thịt chó, bởi vì dê đâu
mà nhiều thế.
Câu tục ngữ ngắn gọn này cũng đủ diễn tả tác
phong của kẻ giả hình, họ nói vậy mà không
phải vậy, họ nói một đàng nhưng làm quàng một
nẻo.
Kinh thánh đã bảo :
MỤC LỤC

- Họ giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi


trắng xóa, nhưng bên trong thì đầy dòi bọ cùng
mọi thứ xú khí.
Tục ngữ Việt Nam đã liệt họ vào hạng :
- Khẩu Phật, tâm xà.
- Miệng na mô, bụng bồ dao băm.
- Ngoài thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Như thế, họ không làm đã đành, mà thậm chí
còn làm ngược lại những gì họ đã nói :
- Na mô, một bồ dao găm,
Một trăm dao mác,
Một vác dao bầu,
Một xâu thịt chó.
- Na mô, một bồ dao găm,
Một trăm con chó,
Một lọ mắm tôm,
Một ôm rau húng,
MỤC LỤC

Một thúng rau răm.


Bàn về hạng người giả nhân giả nghĩa ấy, thiết
tưởng còn nhiều điều phải nói. Tuy nhiên để kết
thúc những sự việc lỉnh kỉnh về con dê, gã xin
mượn một mẩu chuyện trong sách “Cổ Học Tinh
Hoa”. Mẩu chuyện ấy mang tựa đề là “Người
bán thịt dê” :
Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải
bỏ chạy. Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng
chạy theo vua.
Thời gian sau, vua Chiêu Vương trở về, lấy lại
được nước. Vua bèn thưởng cho những người
chạy theo mình khi trước, trong số đó có cả
người bán thịt dê nữa.
Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người
bán thịt dê từ chối và nói :
- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt
dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt
MỤC LỤC

dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn


đâu dám mong thưởng.
Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng :
- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi
không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước,
không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh
thưởng.
Vua bảo :
- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người bán thịt dê nói :
- Theo phép nước Sở, phàm người nào có công
to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay
tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước,
dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc
vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo
nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu !
Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà
tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
MỤC LỤC

Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử


Kỳ rằng :
- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà
giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế
nào mời được người ấy ra nhận chức tam công
cho ta.
Người bán thịt dê nghe thế bèn nói :
- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng
bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi
bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc
mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải
nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ
lấy nghề bàn thịt dê.
Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.
Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời
bàn như sau :
“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí
mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo
MỤC LỤC

mình là người ta có lòng trung thành với mình.


Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái
nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán
gì.”
“Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng
nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là
kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng
phạt ở đời chẳng là công minh lắn ru ! Thực
đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm
sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố
cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ
để lòe đời vậy.”
Theo ý gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà không
tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ tạn
tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã phất
lên từ lâu.
Và trước khi giã từ để…ăn tết, gã xin :
MỤC LỤC

Long trọng…kính chúc…Quí vị…năm con…dê


nhiều…may mắn !!!
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

GHEN GHÉT

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Không hiểu tại sao mấy bữa nay đầu óc của gã
cứ lởn vởn những ý nghĩ đen tối về chuyện
người đời thay trắng đổi đen, sát phạt nhau đến
nổ cả đom đóm mắt và phun cả máu đầu. Đâu
còn cảnh thiên hạ thái bình, con nít đùa giỡn với
hổ báo, mà chỉ còn người với người là chó sói
với nhau.
Nghĩ tới đây gã bèn nhớ tới một câu chuyện
trong sách “Cổ học tinh hoa” như sau :
Tại lầu sách kia có một con hồ tinh không hiện
hình ra bao giờ, nhưng lại thường hay trò
chuyện rất lý thú, ai nghe cũng phải phục.
Một hôm tân khách họp đông, có cả con hát mời
rượu. Khi men rượu đã bừng bừng, họ hẹn ước
với nhau rằng :
MỤC LỤC

- Ai sợ gì thì phải nói, mà nói vô lý thì bị phạt


rượu.
Bấy giờ, cử tọa lần lượt phát biểu : nào sợ
người học rộng, nào sợ người nhà giàu, nào sợ
người quan to, nào sợ người nịnh giỏi, nào sợ
người khiêm tốn quá, nào sợ người lễ phép câu
nệ quá, nào sợ người thận trọng ít nói, nào sợ
người hay nói nửa chừng…
Sau cùng hỏi đến hồ tinh, thì hồ tinh đáp :
- Ta chỉ sợ hồ tinh.
Ai nấy đều cười, bảo rằng :
- Người ta sợ hồ tinh mới phải, anh là đồng loại
can gì mà sợ ? Phạt anh một chén rượu.
Hồ tinh cười và nói :
- Thiên hạ duy có đồng loại là sợ nhau. Con
cùng cha mới tranh gia sản; gái cùng chồng mới
hay ghen tuông; kẻ tranh quyền nhau, tất là
quan lại đồng triều; kẻ tranh lợi nhau tất là lái
MỤC LỤC

buôn một chỗ. Bức nhau thì trở ngại nhau, trở
ngại nhau thì làm nghiêng đổ nhau. Người bắn
trĩ thì dùng con trĩ làm mồi, chứ không dùng con
gà, con ngỗng; người săn hươu thì dùng con
hươu làm mồi, chứ không dùng con dê, con lợn.
Phàm những việc hại nhau đều dùng đồng loại
cả. Cứ thế mà suy thì hồ sợ hồ là thậm chí lý.
Cử tọa đều cho câu nói của hồ tinh là xác đáng.
Từ câu chuyện trên, gã xin bàn đến chuyện
ghen và ghét. Trước hết, chúng ta cần phải
phân biệt ganh đua với ghen ghét. Thực vậy,
ganh đua là cố gắng để được bằng người hay
hơn người. Đây là một đức tính thúc đẩy người
ta liên tục phát triển và tiến lên không ngừng.
Nếu ai cũng bằng lòng với số phận của mình, thì
làm gì có được những sáng kiến và cả “tối kiến”
điểm tô cho cuộc đời như cành đào đầu xuân
với trăm hoa đua nở.
MỤC LỤC

Trong khi đó ghen là bực bội tức tối khi thấy


người khác hơn mình. Nó xuất phát từ tính ích
kỷ, háo thắng, hẹp hòi và thiển cận. Như vậy,
giữa ghen ghét và ganh đua có một sự cách
biệt, như sự cách biệt giữa tật xấu và nhân đức.
Nếu đưa mắt nhìn chung quanh, hẳn chúng ta
sẽ thấy sự ghen ghét đã len lỏi và có mặt trong
mọi lãnh vực, trong mọi phạm vi.
Là con nhà có đạo, đọc lại Cựu ước, gã thấy cái
ghen xuất hiện rất sớm. Trước hết là cái ghen
của ma quỉ. Thấy loài người được Thiên Chúa
sủng ái, được hạnh phúc trong tình yêu thương
của Ngài nơi vườn địa đàng, ma quỉ đã đem
lòng ghen và ghét, nên mới bày mưu thâm
chước độc cám dỗ để rồi ông bà nguyên tổ đã
sa ngã và phải cúi đầu lãnh nhận bản án của
đau khổ và chết chóc.
MỤC LỤC

Tiếp đến là cái ghen của Cain. Thấy lễ vật của


Abel được Thiên Chúa chấp nhận, Cain đã bực
bội để rồi cuối cùng đã rắp tâm thực hiện ý đồ
đen tối, giết em mình ngoài đồng vắng.
Ngoài ra, còn phải kể tới cái ghen của anh em tổ
phụ Giuse. Thực vậy, Giuse là con út của
Giacóp, nên được cha cưng chiều và yêu
thương hơn. Thấy vậy, nhưng người anh đã tỏ
ra tức tối, nhất là từ lúc Giuse kể lại giấc mơ về
những bó lúa của các anh đã cúi rạp xuống như
phục lạy bó lúa của mình. Rồi mặt trời, mặt trăng
và mười một ngôi sao đã xoay quanh mình như
muốn chúc tụng ngợi khen…Và để thỏa mãn
cho sự ghen tức, họ đã ném Giuse xuống giếng
cạn, rồi lại kéo lên mà bán Giuse cho phường lái
buôn đang trên đường đi xuống Ai Cập.
Trong Tân ước, chúng ta cũng thấy cái ghen đã
xuất hiện. Trước hết, các môn đệ đã thực sự tức
MỤC LỤC

tối khi thấy hai anh em con ông Giêbêđê đòi ngồi
bên tả và bên hữu Chúa, khiến Ngài phải lên
tiếng can thiệp và phá tan cái đầu óc xôi thịt của
các ông;
- Ai muốn làm lớn thì phải trở nên rốt hết và ai
muốn cầm đầu thì phải phục vụ anh em.
Chính Chúa cũng đã từng là nạn nhân của sụ
ghen ghét. Đúng thế, trước những lời giảng dạy
đầy khôn ngoan và những việc kỳ diệu Chúa đã
làm…Hay nói cách khác, trước những thành quả
to lớn Ngài đã gặt hái được, bọn biệt phái đã
đem lòng ghen tức. Thậm chí, có lần họ đã kháo
láo với nhau :
- Kìa xem bàn dân thiên hạ đã theo ông ấy hết
cả rồi.
Sau cùng, chính lòng ghen ghét này đã thúc đẩy
họ bỏ vạ cáo gian khiến Chúa Giêsu đã bị kết án
tử hình thập giá.
MỤC LỤC

Rời bỏ Kinh thánh để bước vào đời thường, gã


thấy cái ghen đã có mặt ở mọi nơi và trong mọi
lúc, cũng như trong mọi lãnh vực.
Trước hết là trong lãnh vực gia đình. Không ít thì
nhiều con cái đều kêu trách cha mẹ ăn ở thiên
vị, không công bằng, con yêu con ghét. Đứa
được nhiều, đứa được ít. Rồi từ đó sinh ra
ngang bướng, giận hờn và thù oán. Không giận
được cha mẹ, thì trút nỗi giận lên đầu đứa em.
Mà đứa em thì có tội tình gì để phải lãnh nhận
hậu qủa của sự ghen ghét ấy.
Thực ra, không nên trách móc cha mẹ mà nên
trách móc chính bản thân. Bởi vì chắc hẳn cha
mẹ sẽ yêu thương đứa con siêng năng hơn đứa
con lười biếng, đứa con đau yếu hơn đứa con
khỏe mạnh, đứa con ngoan ngoãn hơn đứa con
xấc láo…
MỤC LỤC

Đặc biệt hơn cả là trong lãnh vực tình yêu vợ


chồng. Thực vậy, trong lãnh vực này, cái ghen
thường được định nghĩa là như thái độ bực bội
khi thấy tình yêu của mình bị đánh cắp, hay nói
cách khác, đó là thái độ tức tối khi thấy kẻ khác
phỗng tay trên tình yêu của mình.
Người ta thường bảo :
- Có yêu thì mới ghen.
Và như vậy, cái ghen đều luồn lách vào trong
máu huyết của những người đang yêu, bất kể
đờn ông hay đờn bà, con giai hay con gái. Tuy
nhiên, nơi đờn bà con gái, cái ghen thường
mang một sắc thái đặc biệt hơn, chẳng thế mà
ca dao đã từng nói :
- Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
MỤC LỤC

Trong ngôn ngữ Việt Nam có rất nhiều danh từ


để chỉ những mức độ khác nhau của cái ghen.
Chẳng hạn như :
Ghen bóng ghen gió, đó là một cái ghen vu vơ,
một cái ghen không có bằng cớ rõ rệt, một cái
ghen có tính cách phủ đầu như muốn răn đe
người mình thương rằng :
- Chớ có lạng quạng, xớ rớ vô là….chết với bà.
Còn ghen hờn, ghen tủi, đó là là một cái ghen
chất chứa trong lòng mà chẳng dám nói ra, cũng
như chẳng có một hành động nào bên ngoài, cứ
âm thần gậm nhấm nỗi giận hờn và tủi phận,
khiến cho tê tái cả tâm hồn, tan nát cả con tim,
héo hắt cả cuộc đời và quay quắt cả con
người…
Trong khi đó ghen thầm là một cái ghen để ở
trong bụng, nhưng bên ngoài thì vẫn vui vẻ, coi
như “nơ pa”, chẳng có sự gì xảy ra cả, để rồi
MỤC LỤC

lẳng lặng theo dõi và đưa ra những biện pháp


vừa sâu lại vừa cay. Đây là cái ghen của những
bậc cao thủ võ lâm, với bản lãnh đĩnh đạc, đáng
cho thiên hạ phải kiêng nể.
Gã có thể nhận ra cái ghen ấy nơi Hoạn Thư
trong truyện Kiều. Hoạn Thư là vợ của Thúc
Sinh và là người đàn bà có cái ghen độc đáo.
Nàng ghen nhưng biết giữ thể diện cho chồng,
tìm mưu hại tình địch là Thúy Kiều. Hoạn Thư
bắt Kiều phải gảy đàn và hầu rượu cho nàng và
chồng dự tiệc, khiến Thúc sinh dở khóc dở cười,
muốn độn thổ biến đi mà cũng chẳng được.
Dù biết chồng có vợ lẽ, nàng vẫn làm ra vẻ thản
nhiên cười nói như không, mà trong bụng máu
ghen sôi lên sùng sục. Dù biết chồng giấu mình
về việc cưới vợ lẽ, nàng vẫn rắp tâm thi hành
độc kế, vừa không để thiên hạ gán cho mình là
ghen xằng ghen bậy, vừa đày đọa Thúy Kiều và
MỤC LỤC

Thúc Sinh chẳng nhìn được nhau và cũng chẳng


cất đầu lên nổi, bấy giờ nàng mới hả dạ. Một cái
ghen vừa khoa học lại vừa tế nhị. Chính nàng
sau này đã thú nhận :
- Rằng tôi chút phận đàn bà,
Ghen tương thì cũng người ta thường tình.
Ngoài khuôn mặt của Hoạn Thư, gã còn tìm thấy
một khuôn mặt khác, không kém phần hiểm độc.
Đó là khuôn mặt của Trịnh Tụ. Chuyện rằng :
Vua Ngụy đem một người con gái đẹp dâng cho
vua Kinh. Vua Kinh lấy làm thích chí và yêu
thương nhiều lắm. Phu nhân vua Kinh là Trịnh
Tụ biết thế. Chính nàng cũng mến chuộng người
con gái ấy, có khi lại còn mến chuộng hơn cả
nhà vua nữa. Người con gái ấy muốn ăn mặc,
chơi bời gì, phu nhân cũng đều sắm sửa cho đủ
cả.
Vua khen :
MỤC LỤC

- Phu nhân biết ta yêu mến tân nhân mà cũng


đem lòng yêu mến còn hơn ta nữa, thật có khác
nào như người con có hiếu thờ cha mẹ, như
người tôi trung thờ vua vậy.
Phu nhân đã chắc bụng vua không ngờ mình là
người ghen, nhân dịp mới bảo tân nhân rằng :
- Vua yêu mến ngươi lắm, nhưng ghét cái mũi
ngươi. Giá từ nay, hễ ngươi trông thấy vua,
ngươi cứ che lấy cái mũi ấy đi, thì vua yêu mến
được mãi đấy.
Tân nhân nghe theo lời, từ đó mỗi khi trông thấy
vua là che ngay mũi lại. Vua thấy thế bảo với
phu nhân rằng :
- Tân nhân trông thấy ta mà cứ che mũi là ý làm
sao ?
Phu nhân thưa :
- Tôi không được rõ.
Đợi vua hỏi mãi, mới thưa rằng :
MỤC LỤC

- Tôi nghe đâu như tân nhân có nói hơi vua khí
nặng, lấy làm khó chịu.
Vua tức giận bảo :
- À nếu thế thì xẻo ngay cái mũi ấy đi.
Vua vừa nói đoạn, thì một viên quan hầu cầm
dao ra, xẻo ngay cái mũi của ân nhân. Vì phu
nhân đã dặn viên quan ấy hễ thấy vua phán gì
thì làm ngay tức khắc.
Quả là thâm sâu và hiểm độc.
Và sau cùng, ghen lồng ghen lộn, đó là cái ghen
của người có dòng máu nóng, khi đã máu ghen
đã bốc lên thì đứng ngồi không yên, phải tìm
cách bộc lộ ra bên ngoài bằng những hành động
và thường là những hành động khốc liệt và tàn
bạo như cuồng phong vũ bão, nào là chặn
đường đánh cho một trận te tua, nào là dùng
dao lam rạch mặt cảnh cáo, nào là tạt acid cho
đi đoong cả con người…cốt ý sát hại tình địch
MỤC LỤC

hầu lưu lại cho tình địch một dấu ấn và một bài
học để đời.
Gã rất lấy làm tâm phục và khẩu phục cha ông
chúng ta trong việc ghép và dùng chữ. Chẳng
hạn như học hành, đã học thì phải đem ra mà thi
hành. Chẳng hạn như nhịn nhục, đã nhịn người
ta thì phải cúi đầu chấp nhận bị nhục nhã.
Chẳng hạn như khôn ngoan, đã khôn thì cũng
cần phải ngoan nữa, bằng không thì đó sẽ là
một tai họa cho cả và thiên hạ.
Cũng vậy, người ta thường nói ghen ghét, một
khi đã ghen với người nào, thì chắc chắn cũng
sẽ ghét người ấy, nghĩa là có ác cảm với người
ấy. Giống như cái ghen, cái ghét cũng có những
mức độ đậm đặc khác nhau.
Trước hết là ghét ngọt ghét bùi, bên trong thì
ghét nhưng bên ngoài vẫn làm bộ vui vẻ, dịu
ngọt. Đây là cái ghét của người có bản lãnh sâu
MỤC LỤC

sắc và hiểm độc. Tiếp đến là ghét bỏ, nghĩa là


vừa có ác cảm lại vừa muốn ruồng bỏ. Và sau
cùng là ghét cay ghét đắng, thậm chí còn ghét
vào tận tim, cho dù tới chết vẫn không thèm nhìn
mặt nhau.
Câu chuyện sau đây xảy ra bên Mỹ cách đây
mấy chục năm nhưng gần đây người ta mới biết.
Số là có một người đàn bà kia, khi gần chết,
không muốn được chôn trong nghĩa địa vì ở đó
có những kẻ bà ghét cay ghét đắng bởi vì khi bà
còn sống họ đã gây gổ và làm khổ bà. Con gái
bà đã thi hành theo ý đó. Cô đem bỏ xác bà vào
trong một tủ sắt kín. Mãi mười lăm năm sau,
người ta mới phát giác ra và bắt đem đi chôn
trong nghĩa địa.
Từ ghen tới ghét, khoảng cách không bao xa.
Rồi từ ghét tới những hành động tàn ác với chủ
MỤC LỤC

đích hãm hại người khác, khoảng cách cũng gần


lắm, như chúng ta đã thấy ở trên.
Thực vậy, người ta thường bảo :
- Yêu nên tốt, ghét nên xấu.
Ngày trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà.
Phép nước Vệ là ai đi trộm xe của vua thì bị tội
phải chặt chân. Mẹ Di Tử Hà ốm nặng. Đêm
khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy
xe của vua ra đi. Vua nghe thấy liền khen rằng :
- Có hiếu thật, vì hết lòng với mẹ mà quên cả tội
chặt chân.
Ngày kia, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài
vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt, còn một nửa
bèn đưa cho vua. Vua khen :
- Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để
nhường ta.
Về sau, vua không còn yêu Di Tử Hà như trước
nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng :
MỤC LỤC

- Di Tử Hà trước dám liều lấy xe của ta mà đi, lại


còn cho ta ăn quả đào thừa. Thực mang tội với
ta đã lâu ngày.
Nói xong đem Di Tử Hà ra trị tội.
Câu chuyện trên như muốn chứng minh rằng :
một khi đã ghét thì thế nào cũng có những hành
động hãm hại kẻ mình không ưa thích.
Đúng thế, nếu phân tích về thái độ ghen ghét,
chúng ta thấy nó chẳng mang lại lợi lộc gì, mà
hơn thế nữa, chỉ đem lại những hậu quả tai hại
mà thôi.
Thực vậy, sự ghen ghét của chúng ta không thể
nào vo tròn và bóp méo, thay trắng và đổi đen.
Người ta giàu thì đã giàu. Người ta thi đỗ thì đã
đỗ…Lời nói gièm pha của chúng ta không thể
thay đổi được sự thật.
Đồng thời sự ghen ghét còn đem lại những hậu
quả tai hại cho chính bản thân, bởi vì người
MỤC LỤC

ghen ghét từ đày đọa, tự làm khổ mình. Cái hơn


của người khác làm cho mình bực bội đến mất
ăn mất ngủ. Và như vậy, cuộc đời cứ mỗi lúc
một thêm héo hắt và quay quắt.
Còn nếu cứ để cho sự ghen ghét mặc sức bành
trướng, chắc chắn nó sẽ thúc đẩy chúng ta đi tới
chỗ liều lĩnh bỏ vạ cáo gian, nói hành nói xấu và
những hành động dã man khác nữa để hả lòng,
hả dạ.
Vậy sự ghen ghét xuất phát bởi đâu ?
Trước hết sự ghen ghét xuất phát từ tính kiêu
căng của mình. Thực vậy, kẻ kiêu căng bao giờ
cũng muốn mình phải là nhất, phải là trung tâm
của thế giới, phải là cái rốn của vũ trụ. Thấy ai
phê bình chỉ trích, liền nổi giận đùng đùng. Thấy
ai hơn mình thì hậm hực và tìm cách gièm pha,
hạ nhục cho bõ ghét. Thái độ này hoàn toàn trái
ngược với lời Chúa dạy trong Tin mừng :
MỤC LỤC

- Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ


mình xuống sẽ được nâng lên.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo :
- Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta. Còn ai
chê ta mà chê phải, ấy là thày ta.
Tiếp đến, sự ghen ghét xuất phát từ bụng dạ
hẹp hòi của mình. Thực vậy, thấy người khác tài
giỏi hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn, chúng ta
phải mừng thì mới đáng mặt quân tử, như lời
thánh Phaolô đã xác quyết :
- Hãy vui cùng người vui và hãy khóc cùng kẻ
khóc.
Một xã hội cần phải có những phần tử ưu tú, thì
mới hòng tiến triển được, chứ nếu tất cả chỉ
xoàng xĩnh, hay thường thường bậc trung, thì có
lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ chen vai sát cánh
được với bàn dân thiên hạ.
MỤC LỤC

Sau cùng, sự ghen ghét còn xuất phát từ sự


thiếu sáng suốt của mình. Thực vậy, đứng trước
những thành công của người khác, chúng ta cần
phải tự vấn lương tâm, cần phải xét mình và đặt
ra những câu hỏi để rút tỉa lấy những bài học cụ
thể, nhờ đó mà làm đẹp cho bản thân, cũng như
làm giàu cho cuộc sống.
Tại sao người ta lại giàu có ? Vì người ta đã chí
thú trong việc làm ăn, cần kiệm trong việc chi
tiêu, chứ không vung tay qúa trán. Còn chúng ta
thì luôn ươn lười và trễ nải, có làm thì cũng chỉ
là làm…biếng, hay làm ít mà xài nhiều theo kiểu
“bóc ngắn cắn dài”, thậm chí lại còn xài sang
nữa, theo kiểu “con nhà lính tính nhà quan”, thì
làm sao có thể khấm khớ và phất lên cho được.
Tại sao người ta tài giỏi ? Vì người ta chăm chỉ
học tập, siêng năng tìm hiểu. Còn chúng ta thì
chơi bời lêu lồng. Đi thi thì dựa vào nghệ thuật
MỤC LỤC

“quay cóp”. Nếu không quay cóp được, thì nắm


chắc phần rớt trong tay.
Tóm lại, đứng trước những thành công của
người khác, chúng ta đừng vội chõ mõm vào mà
phê bình chỉ trích. Trái lại, hãy bình tĩnh tìm hiểu
nguyên nhân để rút tỉa được những kinh nghiệm
quí giá.
Còn đứng trước những thất bại của bản thân,
chúng ta đừng vội chạy tội mà đổ lỗi cho người
khác, nhưng hãy tìm hiểu lý do tại sao mình lại
thất bại, để rồi ra sức uốn nắn sửa đổi lại những
khuyết điểm ấy.
Điều cần thiết là phải đấm ngực mình mà rằng :
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng :
- Lỗi tại anh, lỗi tại chị, lỗi tại hoành cảnh…mọi
đàng.
Nguyên tắc trong mọi hành động, đó là :
MỤC LỤC

- Đừng nghiêm khắc với người khác mà khoan


dung cho bản thân mình. Trái lại, hãy khoan
dung cho người khác mà nghiêm khắc với chính
bản thân mình.
Để kết luân, gã xin ghi lại mẩu chuyện sau đây :
Ngày nọ, Cú mèo gặp chim gáy. Chim gáy bèn
hỏi :
- Bác sắp đi đâu đấy.
Cú mèo trả lời :
- Tôi sắp sang ở bên phương đông.
- Tại sao lại đi như thế ?
- Vì ở đây, nghe tôi kêu, người ta ghét, cho nên
tôi phải dời đi chỗ khác.
Chim gáy góp ý :
- Bác phải đổi tiếng kêu mới được, chứ nếu
không đổi tiếng kêu, thì dù sang tới phương
đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác mà
thôi, vì nhân tình đâu mà chẳng thế. Cứ như ý
MỤC LỤC

tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh
suốt đời, đừng kêu nữa là hơn.
Đừng ghen và cũng đừng ghét người khác. Trái
lại, hãy sửa đổi những sai lỗi, những khuyết
điểm nơi con người mình, bởi vì tiêu chuẩn cần
phải thực hiện, đó là :
- Muốn được thương, thì bản thân phải là người
thương được.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TỰ ÁI

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Ngày nay, mỗi khi nói tới hai chữ “thất tình”, gã
liền nghĩ ngay đến khuôn mặt buồn so của một
anh chàng đã đánh mất tình yêu, không còn
được thương nữa, hay nói một cách khác anh
chàng ấy đang “đứng ngẩn trông vời” tình yêu
chấp cánh bay đi mất tiêu…Thành thử cứ phải
kéo lê những bước chân âm thầm và thinh lặng
gậm nhấm nỗi cô đơn héo hắt của mình.
Thế nhưng, ngày xưa hai chữ “thất tình” còn có
một ý nghĩa khác nữa, đó là bảy giai điệu tình
cảm luôn rung lên phừng phực trong “lái tim” con
người, hay bảy thứ tình cảm luôn chiếm ngự cõi
lòng chúng ta. Bảy giai điệu ấy là : hỉ, nộ, ai, cụ,
ái, ố và dục. Có nghĩa là mừng, giận, buồn, vui,
yêu, ghét và muốn. Bảy thứ tình cảm này luôn tả
đột hữu xung và làm cho chúng ta nhiều cơn
MỤC LỤC

xính vính, Vì thế Nguyễn Gia Thiều trong “Cung


Oán Ngâm Khúc” đã muốn tẩy trừ tận gốc rễ :
- Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Trong bảy thứ tình cảm này, theo thiển ý của gã,
thì yêu là hoạt động quan trọng nhất, chi phối
toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Chả thế mà
các cụ ta đã từng nói :
- Cái tình là cái chi chi,
Dù chi chi, cũng chi chi với tình.
- Tương tư không biết nói làm sao,
Muốn vẽ mà chơi, vẽ thế nào,
Khi đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh lúc chiêm bao…
Như vậy, cái tình lúc nào nó cũng canh cánh
bên lòng và chữ yêu lúc nào cũng bàng bạc ở
mọi nơi và trong mọi lúc, có khác nhau là khác ở
nồng độ đậm nhạt mà thôi.
Vậy phải yêu những gì ?
MỤC LỤC

Gã xin thưa đối tượng của tình yêu quả thực là


hầm bà lằng, thôi thì thượng vàng hạ cám, đủ
mọi thứ, chẳng thiếu thứ chi. Trước hết là yêu
mình, tiếp đến là yêu người, rồi tới yêu đời và
những thứ lỉnh kỉnh khác nữa, như yêu tiền, yêu
quyền, vân vân và vân vân.
Hôm nay, gã chỉ xin bàn đến cái phạm trù thứ
nhất, đó là yêu mình. Nếu diễn tả hành động yêu
mình bằng chữ nho, thì phải dùng hai chữ…“tự
ái”.
Theo “Hán Việt Tân Từ Điển” của Nguyễn Quốc
Hùng, thì tự ái có nghĩa là lòng yêu chính mình,
cho mình là hay là tốt. Còn theo “Việt Nam Tự
Điển” của Lê Văn Đức, thì tự ái có nghĩa là
thương mình, quá nghĩ về mình rồi sanh hờn
mát mỗi khi bị đụng chạm đến. Trong thực tế,
người bình dân thường hiểu tự ái là đùng đùng
MỤC LỤC

nổi giận khi bị…chạm nọc, chứ không phải chỉ là


hờn mát mà thôi đâu.
Nếu phân tích kỹ lưỡng hơn, gã thấy yêu mình
chính là một bản năng thông thường mà
Thượng đế đã phú ban cho con người ta. Ai mà
lại chẳng yêu mình. Nào có ai nỡ ghét mình bao
giờ đâu. Họa chăng chỉ có những vị thánh sống,
đường nhân đức cao vòi vọi, thì mới cảm thấy
mình thật vô duyên tệ, để rồi…ghét mình mà
thôi. Còn hầu như tất tật bàn dân thiên hạ đều…
yêu mình tuốt luốt hết.
Một khi đã yêu mình, thì đều muốn vơ vét về cho
mình những cái hay, những cái tốt, những cái
lợi…Và hễ kẻ nào đụng chạm đến, thì lập tức
lòng tự ái hay thói yêu mình nổi lên đùng đùng,
cùng với cơn giận phừng phừng, kèm theo
những phản ứng khó mà lường nổi, cốt ý dạy
cho những kẻ “hỗn láo” kia một bài học. Vì tự ái,
MỤC LỤC

vì yêu mình, nên chúng ta không thể bỏ qua một


sự khinh bỉ nào của kẻ khác. Và hơn thế nữa,
khi lòng tự ái đã bị sỉ nhục, thì người ta khó có
thể tha thứ.
Lòng tự ái và thói yêu mình theo chúng ta như
hình với bóng và cùng đi với chúng ta trong suốt
cả cuộc đời, như danh ngôn đông tây đã xác
quyết :
“Càng thêm tuổi, các đam mê càng lụi tàn,
nhưng lòng tự ái thì khác, nó sẽ chẳng bao giờ
chết.”
“Người ta chỉ có thể làm tổn thương lòng tự ái,
chứ không giết chết được nó.”
“Lòng tự ái là một con thú kỳ dị, nó có thể ngủ
yên trong cơ thể của những kẻ tàn bạo nhất,
nhưng một khi đã thức tỉnh dậy, nó sẽ đả
thương cho đến chết chỉ vì một trầy trụa nho
nhỏ.”
MỤC LỤC

Tuy nhiên, ở một mức độ trung bình và vừa phải


thì tự ái chính là ổ khóa của trái tim, đóng lại và
không cho phép mình làm những điều xằng bậy,
bởi vì chính mình cũng phải tự trọng, nghĩa là
phải biết tôn trọng chính mình, cũng như phải
biết bảo vệ danh dự của mình. Trong khi đó, sự
nịnh bợ là như một chiếc chìa để mở tung ổ
khóa này và sự tâng bốc là như một thứ thuốc
nổ phá tan rào cản này.
Thực vậy, nếu không còn tự ái, người ta sẽ trở
nên một thứ mặt mo, mặt thớt hay một thứ mặt
dày mày dạn, trơ trơ như đá, không còn nhạy
cảm trước những lời phê bình hay góp ý, để rồi
mặc sức lặn ngụp trong bùn nhơ tội lỗi, sẵn
sàng làm những hành động tồi tệ nhất, mà
chẳng cảm thấy một chút hổ thẹn hay áy náy gì
sốt.
MỤC LỤC

Thế nhưng, để được gọi là một nhân đức, bao


giờ cũng phải ở vào cái thế trung dung, bởi vì
thái quá thì bất cập, phàm cái gì quá đà, đều gây
nên những bất ổn.
Biết tự trọng và bảo vệ danh dự của mình, đó là
điều tốt. Tuy nhiên, vì “tự ái hão” mà bảo vệ cái
“danh dự ảo”, cái danh dự mình tưởng là có,
nhưng thực sự lại chẳng có, hay vì “tự ái vặt”,
bởi những lý do nhỏ mọn không đâu, cũng đùng
đùng nổi giận, la hét, quát tháo, đánh đập người
ta, thì rất rất cần phải xét lại.
Đời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên
là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to lớn
mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giày mới,
đeo thanh gươm, tự dưng vào tận nhà mắng
mỏ, rồi nhổ vào mặt.
MỤC LỤC

Chàng ta giật mình sực tỉnh dậy, tuy biết là


chuyện chiêm bao, nhưng chàng ta vẫn tức, rồi
suốt đêm lấy làm bực dọc khó chịu lắm.
Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn
thân đến và nói rằng :
- Bác ơi ! Từ thuở bé đến giờ, tôi vẫn là người
thích dùng sức mạnh, tới nay đã sáu mươi tuổi,
chưa hề bị đứa nào làm cho mất mặt bao giờ.
Thế mà đêm hôm qua phải một đứa nó làm
nhục. Tôi định tìm kỳ được đứa ấy để báo thù
mới thỏa. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, còn nếu
không tìm thấy thì tôi chết mất.
Rồi từ hôm đó cứ sáng nào chàng ta cũng cùng
người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình.
Rình đã ba ngày mà không thấy đâu, chàng ta
về nhà uất lên mà chết.
Bình luận về câu chuyện trên, tác giả viết như
sau :
MỤC LỤC

“Xem chuyện này không cho là phải được, vì tức


ai, chứ tức một người gặp trong lúc chiêm bao
mơ ngủ, là tức hão huyền, tức cái không đáng
tức. Nhưng tựu trung, câu chuyện lại có một
điều thật rất đáng khâm phục là chính thâm ý
câu chuyện muốn nâng cao cái lòng biết nhục,
biết lấy liêm sỉ làm trọng. Ôi ! trong giấc ngủ mơ
màng, bị người làm nhục, còn không chịu được,
thì trong khi thật tỉnh táo rõ ràng mà bị làm nhục,
thì đáng như thế nào ? Thế mà lạ thay, ở đời có
lắm kẻ hoặc ham mê danh lợi, hoặc quen thói tôi
đòi, chôn hết cả liêm sỉ, chịu hết mọi nỗi nhục
nhằn đè nén, không bút nào tả cho xiết được mà
vẫn hớn hở như không. Đối với những hạng
không biết nhục, Tân Ti Tụ thực đáng là một cái
gương soi sáng sâu vào đến tâm não họ vậy.”
Đúng như một kinh nghiệm sống…sượng mà
người đời thường diễn tả :
MỤC LỤC

- Thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt,


Len lỏi, lợi lộc, lại lên lương.
Hay :
- Lươn lẹo, luồn lách, lắm lợi lộc.
Nhưng hơn thế nữa, vì tự ái, cho dù là chính
đáng, để rồi từ đó có những hành động, có
những phản ứng quá mạnh, làm tổn thương và
gây thiệt hại cho kẻ “lỡ” xúc phạm đến chúng ta,
thì e rằng chúng ta cần phải “xì tốp” lại, kẻo mà :
- Chửa đánh được người, mặt đỏ như vang,
Đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.
- Chửa đánh được người, mày xanh, mắt tía,
Đánh được người rồi, hồn vía lên mây.
Qua những hành vi bạo động kiểu này, ắt hẳn
thiên hạ sẽ tôn phong chúng ta lên hạng anh
hùng, nhưng lại là một thứ anh hùng…dổm, anh
hùng…rơm :
- Anh hùng gì ? Anh hùng rơm,
MỤC LỤC

Tôi cho nắm lửa, hết cơn anh hùng.


Chúng ta đã xác quyết :
- Phàm đã là người thì ai cũng có tự ái và lòng
tự ái ấy luôn theo chúng ta trong suốt cả cuộc
đời.
Hơn thế nữa, hình như càng làm lớn, tự ái lại
càng to. Nếu không biết kiềm chế, thì với quyền
lực trong tay, họ sẽ có những hành động tàn bạo
đến quỷ thần cũng không lường nổi.
Hán Vũ Đế ngày kia sai đại tướng Lý Lăng đem
quân đi đánh Hung Nô. Trong thời gian đầu, Lý
Lăng thắng lớn, tin chiến thắng báo về triều
đình, Hán Vũ Đế rất hài lòng. Các quan đại thần
đua nhau ca tụng Vũ Đế là minh quân, biết chọn
tướng tài, khen Lý Lăng là anh hùng.
Thế rồi Lý Lăng tiến quá sâu vào nội địa Hung
Nô, bị quân Hung Nô bao vây. Vũ Đế sai cận
thần Lý Quảng Lợi đem binh vào đất Hung Nô
MỤC LỤC

tiếp viện cho Lý Lăng. Nhưng Lý Quảng Lợi bất


tài, khiếp nhược, bị quân Hung Nô đánh tan
tành, đành phải rút về. Lý Lăng bị bao vây cho
đến lúc lương tận, hết cả tên bắn, phải đầu hàng
Hung Nô.
Tin Lý Lăng đầu hàng Hung Nô về tới triều đình.
Vũ Đế nổi giận. Các quan đại thần chê Lý Lăng
bất trung, kết Lý Lăng vào tội phản quốc. Riêng
có quan thái sử Tư Mã Thiên, trước mặt Hán Vũ
Đế, đã lên tiêng bênh vực Lý Lăng. Tư Mã Thiên
nói :
- Đại tướng Lý Lăng không bất tài, không bất
trung và cũng không có tội. Lý Lăng sở dĩ phải
đầu hàng vì lương hết, võ khí thiếu và quân tiếp
viện đáng lý phải đến đã không đến. Lý Lăng chỉ
còn có năm ngàn quân, nhưng đã anh dũng
đánh trận cuối cùng giết cả năm mươi ngàn
MỤC LỤC

quân Hung Nô. Như vậy, xét ra Lý Lăng vẫn có


công chứ không có tội…
Lời biện hộ cho Lý Lăng của tư Mã Thiên thật
khẳng khái và công bình, nhưng Hán Vũ Đế cho
rằng Tư Mã Thiên có ý chê trách mình sai lầm
trong việc dùng Lý Quảng Lời cầm quân đi tiếp
viện. Bị chạm tự ái, Vũ Đế bèn nổi giận, ghép Tư
Mã Thiên vào tội khi quân,ra lệnh tống ngục và
sau đó bắt Tư Mã thiên chịu cái tội tàn tệ nhất
thời đó đối với những người trí thức, đó là tội “hủ
hình”, tức là tội bị…thiến.
Năm ấy Tư Mã Thiên mới khoảng bốn mươi
tuổi. Bị hoạn, ông quyết định tự tử, nhưng sau
đó đã nghĩ lại :
- Mình có chết đi cũng chẳng ai thương tiếc,
mình chẳng là cái thớ gì hết trong xã hội này,
mạng sống của mình có mất đi cũng chỉ như
“chín con trâu bị mất một sợi lông” mà thôi.
MỤC LỤC

Rồi ông nhủ thầm :


- Mình chết thực là vô ích, chi bằng cố sống
những năm cuối cùng của cuộc đời mà làm một
công trình để lại cho hậu thế.
Nghĩ như thế, Tư Mã thiên bỏ ý định tự vận, ông
phấn phát tinh thần và dẹp hết buồn rầu, tủi hận
sang một bên để chuyên tâm vào việc biên soạn
bộ Sử Ký. Ông hoàn thành bộ Sử vĩ đại này
trước khi chết. Bộ Sử của ông hiện nay được gọi
là Sử Ký Tư Mã Thiên, bộ Sử vĩ đại nhất, giá trị
nhất của Trung Hoa mà cho tới nay vẫn chưa có
bộ Sử mới nào hơn được.
Không phải chỉ những vị tai to mặt lớn, mà nhiều
khi cả một dân tộc cũng dễ dàng bị lôi cuốn vào
vòng xoáy của lòng tự ái.
Thực vậy, trong những năm vừa qua, chúng ta
đã chứng kiến những cuộc biểu tình của Trung
Quốc, của Hàn Quốc nhằm phản đối con cháu
MỤC LỤC

đất Phù Tang vì những lệch lạc về lịch sử được


ghi lại trong sách giáo khoa, cũng như vì những
hành động bạo tàn mà những người lính Nhật
Bản đã làm trong cuộc thế chiến lần thứ hai. Với
niềm tự ái dân tộc, họ đã đòi Nhật Bản phải
chính thức xin lỗi và bồi thường.
Và gần đây hơn, vì một câu nói hớ hênh của một
ca sĩ nào đó, đại khái cho rằng khu đền Angkor-
Vat là do người Thái Lan xây và thuộc về người
Thái Lan. Thế là dân “Cam bốt” nổi giận đùng
đùng, đã xuống đường, nổi lửa đốt tòa đại sứ
Thái Lan tại Nam Vang và cách đây không lâu,
lại còn định đóng cửa biên giới nữa, khiến cho
mối bang giao giữa hai quốc gia trở nên căng
thẳng và ngột ngạt.
Nhưng những va chạm tự ái thường xảy ra hơn
hết là trong mối liên hệ hằng ngày, chẳng hạn
MỤC LỤC

như giữa bè bạn với nhau. Gã xin đưa ra một thí


dụ điển hình :
Mấy tên bợm nhậu ngồi lai rai với nhau trong
một bàn tiệc. Khi rượu đã thấm, thì sự phấn khởi
bèn nở rộ trên từng khuôn mặt đỏ gay. Họ gặp
ai cũng kết làm bạn để chén thù chén tạc và
nhìn bất cứ cái gì cũng thấy là đẹp. Rồi người
này nâng cốc mời người kia một ly.
Rủi thay, người kia hôm ấy “long thể bất an”,
nên đã từ chối. Và thế là bị chạm nọc, người này
cho rằng nó khinh mình, nó coi mình chẳng có tí
“gờ ram” nào cả, bèn hất cả ly rượu vào cái tên
dám hỗn láo, đã coi thường mình. Không chừng
người này còn lật đổ cả bàn ghế, hất tung cả
chén bát và nện cho người kia một trận rách
cằm, xẻ tai và phun máu đầu, với dụng ý dạy
cho người kia một bài học để biết được rằng thế
nào là…lễ độ.
MỤC LỤC

Nhất là trong phạm vi đời sống gia đình, những


va chạm ấy thường xảy ra như cơm bữa giữa
vợ chồng với nhau. Đúng vậy, đối đấu với thực
tế, người ta thấy “đời không như là mơ”. Và hơn
nữa, “có ở trong chăn mới biết chăn có rận”,
sống gần nhau, người ta mới khám phá ra
những khuyết điểm của nhau. Chính những
khuyết điểm này đã châm ngòi cho những bất
đồng bùng nổ.
Gã xin mượn tạm những lượm lặt của tác giả
Ánh Ngọc trong một bài viết mang tựa đề “Thách
thức”, được đăng trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật”,
đại khái như sau :
Anh dẫn xe ra khỏi cửa rồi mà chị vẫn còn chạy
theo níu áo : Nè, có “ngon” thì đánh tui đi ! Đánh
đi ! Chớ đừng có nói rồi không dám làm ! Và thế
là “bốp ! Bốp !...Chị bị hai bạt tai in dấu trên gò
má một cách…ngon ơ ! Trong khi anh đã cố
MỤC LỤC

nhịn bằng cách lấy xe đi khỏi nhà để dằn cơn


nóng giận trong một trận cãi vã. Trước khi đi anh
nói thòng một câu cho đỡ quê : “Cô mà nói nữa
là coi chừng ăn đòn !”. Bị chạm tự ái vì câu hăm
dọa ấy, chị đã chạy theo và thách thức, đẩy anh
vào cái thế phải “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”
với vợ mình.
Sự thực thì nhiều ông chồng đánh vợ chỉ vì bất
đắc dĩ mà thôi, chứ họ cũng ý thức : “Mình là
đàn ông, có sức khỏe, giỏi thì đánh với mấy tay
ngang cơ ! Chứ còn đánh đàn bà chân yếu tay
mềm thì hèn lắm…Vợ chồng nào mà chẳng có
chuyện cãi nhau. Tức quá thì mình dọa cho mấy
bả ngán. Ai dè mấy bả thách lại mình và còn
nhấn mạnh “nói mà không làm là kẻ…tiểu
nhân !”. Thế là vì tự ái đầy mình, nên chồng mới
quyết giữ thể diện bằng cách chứng tỏ “quân tử
nhất ngôn”. Vậy là nhiều bà bị ăn đòn lãng xẹt !
MỤC LỤC

Có khi vừa bị nện cho một trận tơi bời khói lửa,
lại còn bị “tiền mất tật mang” như câu chuyện
này : Anh là người hay uống rượu và mỗi lần
say lại có tật chửi đổng. Mỗi lần anh chửi, thì chị
lại bảo : Ổng hổng chửi tui thì chửi ai. Hai người
cứ lời qua tiếng lại, nên chuyện nhỏ hóa chuyện
to. Anh đòi chị đưa tiền đi uống rượu tiếp nên
dọa : Không đưa thì chết với tao. Nghe vậy chị
bèn hét lên : Dám làm gì thì làm đi. Anh xô mạnh
chị ngã và bị trặc tay, phải bó thuốc cả tháng.
Tức quá, chị thảy hết số tiền vừa bán bắp hơn
ba triệu cho anh và nói : có ngon thì đi mà nhậu
hết. Anh nghe vợ thách, bèn ôm tiền đi tuốt. Hai
ngày sau mới về, trong túi không còn một đồng.
Không phải chỉ có những ông chồng, mà ngay
cả những bà vợ, khi bị chạm tự ái, thì cơn giận
cũng nổi lên đùng đùng.
MỤC LỤC

Liên tiếp hai tuần rồi, ngày nào anh cũng phải
ghé quán đầu ngõ để ăn cơm bụi, bởi vì chị
đang hạ quyết tâm thực hiện đúng lời “thách lẫy”
của anh, khi anh chị cãi nhau tuần trước, chỉ vì
chị lỡ nấu cháy món bao tử phá lấu, là món ruột
của anh : Làm đàn bà có bi nhiêu chuyện đó mà
làm hổng xong nữa thì còn làm cái giống gì ?
Dẹp luôn cái bếp này, đi ăn cơm tiệm luôn. Chị
kể : Hở ra là biểu dẹp bà đi ! Vứt hết đi ! Còn
không thì bà đi đâu cho khuất mắt tui, hỏi ai mà
không tự ái ? Bị ổng nói nhiều lần rồi, nay tôi
mới làm theo cho…biết thân. Biết thân ai không
thấy, chỉ thấy tháng đó cả nhà bị thâm thủng
ngân sách trầm trọng vì toàn đi…ăn cơm tiệm.
Nhưng “lớn gan” hơn phải là câu chuyện sau :
giận chồng không cho đi coi cải lương, cãi nhau
một hồi anh bèn thách : Có đi thì coi thằng kép
hát nào mà theo nó luôn…Chị đi luôn thiệt,
MỤC LỤC

nhưng không phải theo kép hát, mà là đến ở nhà


thằng em, mua vé cải lương coi liền nửa tháng
cho bõ ghét ! Đáng lẽ chị cũng chưa chịu “hồi
cung”, nhưng vì thằng con trai lớn qua kiếm chị
và “mật báo” : Ở nhà, ba đem xe đạp, tivi đi bán
rồi. Chị mới hốt hoảng trở về.
Nếu cứ kể ra như thế, thì không biết đến thuở
nào mới hết. Để kết thúc, gã xin đưa ra mấy việc
cần làm ngay để chữa trị cái chứng tự ái hão, tự
ái vặt, như đã trình bày ở trên.
Việc thứ nhất đó là hãy tự biết mình.
Người Tây thì khuyên :
- Connais-toi, toi-même. Này bạn, bạn hãy biết
chính mình bạn.
Còn người Tàu thì nói :
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết mình
biết người, trăm trận đều thắng.
MỤC LỤC

Tại một thung lũng hoang vu, có chú chim cú.


Cú ta ngày thì ru rú trong hang, đêm đến mới có
thể bay đi kiếm ăn. Sở dĩ cú làm thế vì mắt cú
quáng gà, chỉ có thể nhìn thấy ban đêm. Ngày
kia, cú thầm nghĩ :
- Quái lạ, tại sao ta cũng là loại chim quí hiếm,
diện mạo ta oai hùng, mỗi lần ta xuất hiện,
muông thú đều chạy trốn, tiếng ta kêu rùng rợn
trong đêm. Thế mà ta thua loài phượng hoàng,
cái anh chàng trông dễ ghét nhưng lại có thể
bay cao tận mây xanh, hiên ngang lượn cánh
dưới ánh mặt trời, làm như thể hắn là vua loài
chim vậy.
Rồi cú tự nhủ :
- Được rồi, ngày mai khi hừng đông, ta sẽ bay
khỏi hang sâu, tung mình vút tận mây xanh, cho
phượng hoàng khiếp vía, muông chim nể vì.
MỤC LỤC

Hôm sau, khi mặt trời lên cao, cú ta vận sức bay
ra, bay lên cao, cao mãi…Nhưng bỗng cú chạm
phải vật gì cứng. Cú lóa mắt, không còn nhìn
thấy gì. Rồi rầm một tiếng, cú lao vào thành núi
và rớt xuống tan xương.
Việc thứ hai, đó là khi bị chạm tự ái và cơn giận
bốc lên, thì hãy án binh bất động, hoãn binh chi
kế, đừng vội có bất cứ hành động nào sốt, vì
giận quá thì mất khôn.
Nhà hiền triết Atenodoro đã khuyên vua
Augustô, vốn là người có tính dễ nóng mỗi khi bị
xúc phạm, như sau :
- Khi vua cảm thấy mình tức giận, hãy nhẩm đọc
hai mươi bốn chữ cái.
Nhà vua áp dụng lời khuyên này và tránh đi
được những hành động đáng tiếc.
Một cha xứ già đã nhắc nhở các đôi tân hôn như
sau :
MỤC LỤC

- Khi các con sắp sửa cãi vã hoặc gây gổ với


nhau, các con hãy nhủ thầm : để sáng mai rồi
hãy tính. Và sáng hôm sau, các con sẽ thấy việc
hôm qua thật nhỏ nhoi, chẳng đáng gì.
Có một cặp vợ chồng già, thường xuyên cãi vã
với nhau. Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý :
- Vị ẩn sĩ sống trên núi chế biến được một thứ
thuốc rất linh, giúp cho nhiều gia đình được êm
ấm.
Bà vợ nghe lời người hàng xóm, lên núi tìm vị ẩn
sĩ. Sau khi nghe trình bày, vị ẩn sĩ bèn trao cho
bà một chai thuốc khá to và nói :
- Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu
nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần uống
một ngụm, ngậm trong miệng, không được nuốt
và cũng chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông
không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn
thỏa.
MỤC LỤC

Bà vừa về tới nhà, thì ông liền quát tháo. Nghe


vậy, bà liền hớp một ngụm thuốc, giữ trong
miệng, đúng như lời căn dặn của vị ẩn sĩ. Thấy
vợ không đáp lời, một lúc sau ông cũng thinh
lặng. Bà vợ hết sức vui mừng :
- Đúng là một loại thuốc gia truyền. Linh thật…
Và cứ thế, cứ thế…Từ đó hai ông bà dần dần
trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của thời
còn trẻ. Thứ thuốc gia truyền ấy, chẳng có gì
khác hơn là nước lã mà thôi.
Đừng tự ái hão và cũng đừng nóng giận, nhất là
đừng vội có những hành động trả đũa rước
những lời bình phẩm có tính cách xúc phạm, bởi
vì ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta, còn ai
chê ta mà chê phải, ấy là thày ta vậy.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NGHỀ NGHIỆP

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Ngày xưa còn bé, trong thời gian tiểu học, mài
đũng quần trên ghế nhà trường, thế nào cũng có
lần thày cô bắt làm một bài luận với đề tài :
- Lớn lên em sẽ làm gì ?
Thế là bọn nhóc chúng tôi cắm cúi viết. Đứa thì
mơ làm bác sĩ, đứa thì mơ làm kỹ sư, đứa thì
mơ làm thương gia…Và thậm chí, có đứa cả
gan dám mơ làm ông tổng thống nữa. Ôi !
những giấc mơ chưa bị ô nhiễm mới đẹp làm
sao !
Còn bây giờ, gặp nhau sau bao nhiêu năm dài
xa cách và nhìn lại quãng đường mình đã đi qua
với những vật lộn và bươn chải , nhất là sau
những bầm giập của cuộc sống, hay nói cách
khác, sau những lần bị đời đá lên đá xuống như
một trái bóng, đứa thì cười ha hả với những
MỤC LỤC

thành công rực rỡ, đứa thì ngậm ngùi với những
thất bại đắng cay.
Có nhiều yếu tố tạo nên thành công hay thất bại
trên đường đời.
Thứ nhất là cơ may, gặp thời gặp vận. Có
những đứa chỉ với chút tiền còm, đầu tư vào
lãnh vực nhà đất, thậm chí có đứa chẳng bỏ ra
đồng bạc nào, chỉ cần làm cò, làm môi giới mua
đi bán lại, nhưng trúng phóc vào lúc nhà đất
đang lên cơn sốt. Và thế là chỉ trong một thời
gian ngắn, phất lên trông thấy. Đúng là :
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Làm bởi
ngươi, nhưng ban bởi Ta.
Thứ hai là cố gắng và chắt bóp, vừa chí thú làm
ăn lại vừa tiết kiệm trong chi tiêu, theo kiểu “kiến
tha lâu cũng đầy tổ”, để rồi cuối cùng cũng khấm
khớ, như thiên hạ đã diễn tả :
- Trông lên thì chẳng bằng ai,
MỤC LỤC

Trông xuống thì cũng chẳng ai bằng mình.


Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải có một nghề
trong tay. Thực vậy, sống trong bối cảnh của
nền kinh tế thị trường, người ta lại càng cần phải
có một nghề chuyên môn, bằng không thì chắc
chắn sẽ rơi vào tình trạng thất nghiệp. Mà đã
thất nghiệp, thì chỉ còn cách nằm ở nhà, ăn
lương vợ và làm….báo đời.
Chính vì thế, người xưa đã bảo :
- Không có tiền bạc chưa phải là nghèo, nhưng
không có nghề nghiệp mới thực sự là nghèo.
Tiền bạc như núi, nhưng tiêu mãi tiêu hoài, có
ngày cũng sẽ hết. Và khi hết tiền, hết bạc, chắc
chắn chúng ta sẽ lâm cảnh túng thiếu. Chàng
trai phung phá ôm cả một gia tài đi ăn chơi vung
vít, phá gia chi tử. Miết rồi cũng rơi vào tình
trạng đói khổ, phải đi chăn heo. Trong cảnh cơ
MỤC LỤC

cực ấy, chàng muốn tọng cám heo cho đầy bụng
mà cũng chẳng ai cho.
Trong khi đó, nghề nghiệp sẽ đẻ ra tiền, thì còn
lo gì túng thiếu. Bởi đó, tục ngữ Việt Nam đã
bảo :
- Trâu ruộng bề bề, không bằng nghề trong tay.
Còn người Tàu cũng đã nói :
- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
Hay như một câu danh ngôn đã xác quyết :
- Ruộng đất thẳng băng, chẳng bằng một nghề
trong tay.
Vì thế, điều quan trọng là phải chọn cho mình
một nghề, rồi ra sức trau dồi, học hỏi nghề mình
đã chọn để có được một chất lượng cao, cũng
như để có được một tay nghề vững.
Vì thế, người ta cũng thường diễn tả :
- Toàn bộ cuộc đời chúng ta tùy thuộc vào một
vài quyết định trong tuổi thanh xuân.
MỤC LỤC

Đúng thế, vào lúc đầu còn xanh và sức sống còn
đang phơi phới, có những quyết định làm xoay
chuyển hẳn hướng đi và ảnh hưởng mãi cho
đến khi về già.
Quyết định thứ nhất, đó là chọn cho mình một
bậc sống : Lập gia đình hay ở độc thân. Nếu lập
gia đình thì chọn cho mình một người bạn trăm
năm khả dĩ cùng đi với mình cho đủ ba vạn sáu
ngàn ngày. Còn ở độc thân, thì độc thân giữa
đời hay vào nấp bóng trong một dòng tu…
Quyết định thứ hai, đó là chọn cho mình một
nghề, để rồi đầu tư công sức vào đó. Nghề đã
chọn sẽ theo mình trong suốt cả cuộc đời. Nếu
có đổi thay chăng nữa thì cũng thật long đong,
vất cả mà nhiều lúc cũng chẳng nên cơm cháo
gì.
Chuyện rằng : Nước Trịnh có người học nghề
làm dù che mưa, ba năm mới thành nghề. Trời
MỤC LỤC

hạn hán, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ


nghề làm dù, đi học nghề làm gầu tát nước. Lại
học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời
mưa mãi không ai dùng đến gầu.
Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như
trước. Không bao lâu, trong nước có giặc, dân
gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung
phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề
đúc bình khí thì đã già quách mất rồi.
Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng :
- Than ôi ! Bác chẳng đã già đời rồi ư ! Già hay
trẻ không phải là tự người, mà là tự trời, điều ấy
đã cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay bại,
dù lỡ thời hay không gặp dịp, cũng chẳng nên
đổ cả cho trời, tất có mình ở trong.
Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng,
cấy lúa chiêm ba năm đều thất vì lụt cả. Có
người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy lúa
MỤC LỤC

mùa. Anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như


trước. Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm,
vụ chiêm nào cũng trúng, thành ra anh ta kéo lại,
chẳng những hòa mấy năm mất mùa trước, mà
còn trở nên giàu có. Cho nên thiên hạ mới bảo
rằng :
- Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền. Trời nồng
nực, nghĩ đến sắm áo bông.
Đó là một câu thiên hạ nói rất phải.
Tuy nhiên, có một nghề trong tay không quan
trọng cho bằng cách chúng ta hành nghề. Bởi vì
có những cách hành nghề nhằm bóc lột người
khác, làm nghèo quê hương và phá hoại đất
nước. Nhưng cũng có những cách hành nghề
giúp ích cho người khác, làm giàu cho quê
hương và góp phần xây dựng đất nước, như
một câu danh ngôn đã bảo :
MỤC LỤC

- Giá trị của một nghề không bằng giá trị của
cách hành nghề.
Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể để minh
chứng cho điều vừa mới trình bày.
Chẳng hạn những người sản xuất thuốc, giúp
cho bàn dân thiên hạ trị bệnh, thế nhưng vì lòng
tham đã chế biến những thứ thuốc dổm, làm cho
người đau yếu tiền mất tật mang, bệnh vẫn hoàn
bệnh và không chừng vì để lâu, còn mỗi ngày
một trở nên trầm trọng hơn.
Chẳng hạn những người bán hàng, giúp cho
bàn dân thiên hạ giải quyết được những nhu cầu
cần thiết cho bản thân và gia đình, thế nhưng vì
lòng tham, đã chế tạo ra những chiếc thước
thiếu, những chiếc cân non, để móc túi người
mua mà người mua chẳng hề hay biết.
Mới đây tại Việt Nam, có một anh chàng đi mua
lúa tại tỉnh Kiên Giang, đã mày mò chế tạo ra
MỤC LỤC

một chiếc cân với bộ phận điều khiển từ xa. Anh


ta chỉ cần đứng ở đâu đó và nhấn nút một phát
là chiếc cân tăng giảm theo ý muốn của mình.
Quả là quỉ khóc thần sầu.
Chẳng hạn những người thầu khoán, giúp cho
bàn dân thiên hạ xây dựng nhà cửa để có một
nơi cư trú vừa ấm cúng lại vừa khang trang đẹp
mắt, thế nhưng cũng vì lòng tham, nên đã bớt
cừ trong lúc đóng móng, đã bớt sắt trong lúc đổ
đà…khiến cho ngôi nhà chưa hoàn tất đã bị
nghiêng đổ, hay mới sử dụng được ít ngày, đã bị
sụp lún và nứt nẻ tùm lum khiến cho khổ chủ
mặt mũi buồn xo !
Hầu như trong bất cứ ngành nghề nào, người ta
cũng đều có thể lươn lẹo và luồn lách, gian dối
và xảo trá để vơ vét về cho đầy lòng tham của
mình. Nhưng khốn nỗi, lòng tham của người ta
MỤC LỤC

lại thường vô đáy, nên biết thế nào mà lấp cho


đầy.
Có người nước Sở làm nghề vừa bán mộc, lại
vừa bán giáo. Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe :
- Mộc này thật chắc, không gì đâm thủng.
Còn ai hỏi mua giáo, thì anh ta to miệng quảng
cáo :
- Giáo này thật sắc, đâm cái gì cũng thủng.
Nghe vậy, người ta bèn hỏi :
- Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào mộc của
bác thì sao ?
Và thế là anh ta tịt ngòi.
Tác giả sách Cổ Học Tinh Hoa bèn góp lời bàn
như sau :
“Chẳng qua vì mối lợi mà thành ra nói dối. Thế
nhưng khi bị người ta hỏi đến lẽ, thì liền không
đối đáp được nữa.
MỤC LỤC

Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán và khoe


rằng :
- Ai mua tượng về nhà thì được giàu sang.
Đến lúc có người bắt bẻ :
- Sao bác không để ở nhà cho được giàu sang,
mà lại mang ra chợ bán làm gì ?
Lập tức tắt khẩu, mà đành vác tượng ra về”.
Vắt tay lên trán mà suy gẫm chuyện đời, lắm
người đã phải dài hơi than thở cả tiếng :
- Có những nghề thấp đã nuôi dưỡng những
nhân cách lớn và ngược lại nhiều nhân cách tồi
lại ngự trị trong những nghề cao.
Nghe xong lời phát biểu trên, gã bèn vỗ đùi đánh
đét một cái và nói :
- Thật là tuyệt vời, tuyệt vời !
Rất nhiều lần khi đọc những bài phóng sự về
những phu hốt rác, những phu quét đường, hay
những người thông ống cống thành phố…gã đã
MỤC LỤC

phải khẩu phục tâm phục những người phu,


những người thợ này. Nghề của họ thật khiêm
tốn, nhưng nhân cách của họ lại thật cao. Họ
chẳng gian tham, chẳng mánh mung, nhưng âm
thầm làm việc khi mọi người đang ngủ yên, hay
chui rúc dưới những đường cống tăm tối và hôi
thối, cốt để phục vụ dân phố và đem lại những
thoải mái cho mọi người.
Trái lại, thực là vô phúc và đại họa khi những kẻ
có nhân cách tồi lại chễm chệ ngự trị trong
những nghề cao.
Chẳng hạn như những ông tổng thống, những
ông bộ trưởng, những ông giám đốc…Nhãn hiệu
trình tòa của họ thật là đẹp, nhưng nhân cách
của họ lại tồi vì bị lòng tham lôi kéo và thúc đẩy,
khiến họ đã nuốt trửng hàng trăm, hàng ngàn tỷ
đồng mà vẫn cứ phây phây, làm cho đất nước
đã nghèo lại càng nghèo hơn.
MỤC LỤC

Vì thế, yếu tố con người bao giờ cũng vẫn là yếu


tố căn bản và đi hàng đầu. Nếu con người mà
đã hỏng, thì mọi lãnh vực khác cũng sẽ bị sụm
bà chè.
Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy :
- Chẳng có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn.
Ở Hàng Châu có người bán các thứ trái cây,
khéo để dành cam, lâu mà không ủng, vỏ vẫn đỏ
hồng, trông đẹp như vàng, như ngọc đem ra chợ
bán giá đắt, mà người ta tranh nhau mua. Ta
cũng mua một quả. Đem về bóc ra, hơi xông lên
mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ
hỏi người bán cam :
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ,
đãi khách khứa hay là chỉ làm cho choáng bề
ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ! Anh giả
dối lắm.
Người bán cam cười và nói :
MỤC LỤC

- Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi


thân, Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ
có ông kêu ca ! Thiên hạ giả dối nhiều chẳng
phải một mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ
đến nơi…Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi
da hổ, hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm, kỳ
thực không biết có giỏi được như Tôn Tẩn, Ngô
Khởi không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài,
đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm,
nhưng kỳ thực không biết có giỏi được như Y
Doãn, Cao Dao không ? Giặc nổi không biết
dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham
nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát
không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương, không
biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe
ngựa, uống rượu ngon, ăn của quí, oai vệ, hách
dịch vô cùng ! Đó bề ngoài chẳng như vàng, như
ngọc, mà bề trong chẳng như bông nát là gì ?
MỤC LỤC

Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi


xét quả cam của tôi !
Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm
sao. Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ
chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường
thế tục mới thác ra truyện bán cam để dạy người
đời chăng ?
Qua truyện trên, tác giả muốn lấy quả cam đẹp
vỏ, thối ruột mà châm chích cái hách dịch, cái
oai vệ bề ngoài của những bậc quan lớn một đời
suy đốn, để phơi bày cái thực chất bất tài, bất
trí, bất dũng ở bên trong.
Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không nên tin bề
ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói : Cái
thùng không, bông lúa lép, hay những câu ca
dao :
- Trông em, anh ngỡ sao mai,
Biết rằng trong có như ngoài hay không ?
MỤC LỤC

- Nhác trông ngỡ tượng tô vàng,


Nhìn ra mới biết chẩu chàng ngày mưa.
Không có nghề hèn, mà chỉ có kẻ hèn. Chính kẻ
hèn đã bôi tro trát trấu vào nghề nghiệp và làm
cho nghề nghiệp cũng trở nên hèn, như một câu
danh ngôn đã bảo :
- Không phải nghề nghiệp làm danh giá cho con
người, mà chính con người làm danh giá cho
nghề nghiệp.
Viết tới đây, gã xin mượn lại một lần nữa mẩu
chuyện trong sách “Cổ Học Tinh Hoa”. Mẩu
chuyện ấy mang tựa đề là “Người bán thịt dê” :
Vua Chiêu Vương nước Sở bị mất nước, phải
bỏ chạy. Có người bán thịt dê tên là Duyệt, cũng
chạy theo vua.
Thời gian sau, vua Chiêu Vương trở về, lấy lại
được nước. Vua bèn thưởng cho những người
MỤC LỤC

chạy theo mình khi trước, trong số đó có cả


người bán thịt dê nữa.
Ai cũng nhận phần thưởng, chỉ một mình người
bán thịt dê từ chối và nói :
- Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt
dê. Nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt
dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn
đâu dám mong thưởng.
Vua cố ép. Người bán thịt dê thưa rằng :
- Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi
không dám liều chết. Nhà vua lấy lại được nước,
không phải do công tôi, nên tôi không dám lĩnh
thưởng.
Vua bảo :
- Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người bán thịt dê nói :
- Theo phép nước Sở, phàm người nào có công
to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay
MỤC LỤC

tôi xét mình tôi mưu trí không đủ giữ được nước,
dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc
vào trong nước, tôi chạy đi lánh nạn, phải theo
nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu !
Nay nhà vua muốn bỏ phép nước đến chơi nhà
tôi, e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Tử
Kỳ rằng :
- Người bán thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà
giãi bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế
nào mời được người ấy ra nhận chức tam công
cho ta.
Người bán thịt dê nghe thế bèn nói :
- Tôi biết chức tam công là quí hơn cửa hàng
bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi
bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc
mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải
MỤC LỤC

nghĩa. Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ


lấy nghề bàn thịt dê.
Nói đoạn, người ấy lùi ra ngay.
Tác giả sách “Cổ Học Tinh Hoa” đã góp thêm lời
bàn như sau :
“Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khí
mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo
mình là người ta có lòng trung thành với mình.
Người bán thịt dê không nhận thưởng là lấy cái
nghĩa không đáng nhận, vì không có công cán
gì.
Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quí trọng
nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là
kẻ ham mê phú quí, quyền thế và sự thưởng
phạt ở đời chẳng là công minh lắm ru ! Thực
đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm
sỉ, tài năng công đức chẳng có gì mà cũng cố
MỤC LỤC

cày cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vụ


để lòe đời vậy.”
Theo thiển ý của gã, nếu các vị tai to mặt lớn mà
không tham sân si, tiền của, bổng lộc, để cho tệ
nạn tham nhũng lộng lành, thì đất nước này đã
phất lên từ lâu.
Như vậy, chính lòng liêm khiết và tự trọng của
người chủ quán đã mang lại vinh quang cho
nghề bán thịt dê, một nghề xem ra rất tầm
thường trong bất cứ xã hội nào. Phải chăng câu
chuyện này đã củng cố phần nào cho ý tưởng
gã đã trình bày ở trên, đó là không có nghề hèn,
mà chỉ có kẻ hèn.
Một câu chuyện khác cũng đáng cho chúng ta
suy nghĩ, đó là câu chuyện về Alfred Nobel.
Vào một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel,
người phát mình ra chất nổ và đang hái ra tiền
như nước, đã thức giấc trong sự bàng hoàng và
MỤC LỤC

sửng sốt : tất cả báo chí trong ngày đều nói đến
cái chết của ông vua chất nổ.
Thực ra, đây chỉ là sự lầm lẫn của một ký giả
nào đó, bởi vì không phải Alfred Nobel qua đời,
mà là người anh của ông. Thế nhưng, dù sao
đây cũng là dịp để ông đọc được cảm nghĩ của
người khác đang có đối với ông.
Trên môi miệng mọi người, ông chỉ là ông vua
chất nổ, là người làm giàu trên cái chết của
không biết bao nhiêu sinh mạng. Người ta không
hề nhắc tới những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ
những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và
các ý thức hệ. Không một ai đã nhắc đến những
kiến tạo hòa bình của ông cả.
Alfred Nobel buồn vô cùng vì hình ảnh của một
nhà kinh doanh trên sự chết chóc mà thiên hạ
đang nghĩ về mình. Ông quyết định làm cho cả
thế giới biết lẽ sống đích thực của ông. Với
MỤC LỤC

quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm việc và


viết tờ chúc thư, trong đó ông đã dành tất cả tài
sản của mình để thiết lập nên một trong những
giải thưởng có giá trị nhất thế giới, đó là giải
Nobel hòa bình, nhằm tưởng thưởng cho tất cả
những ai có công góp phần vào việc xây dựng
hòa bình trên thế giới.
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn
là vua chất nổ nữa, mà là vua hòa bình.
Và như vậy, không phải nghề nghiệp đã làm
danh giá cho con người, mà chính con người đã
làm danh giá cho nghề nghiệp.
Vì thế, chúng ta cần phải trao cho con cái một
nghề để nó có thể tự mình kiếm sống, bởi vì :
- Tay làm hàm nhai,
Tay quai miệng trễ.
- Có làm thời mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, việc quan trọng hơn vẫn là phải đào


luyện chính con người của chúng, vì yếu tố con
người là yếu tố quyết định trong mọi lãnh vực.
Chẳng thế mà người xưa đã từng xác quyết :
- Nhất niên chi kế, thụ cốc.
Thập niên chi kế, thụ mộc.
Bách niên chi kế, thụ nhân.
Có nghĩa là :
- Kế trăm năm không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm không gì bằng trồng cây.
Kế trăm năm không gì bằng trồng người.
Bởi vì :
- Đẻ con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Vậy thử hỏi chúng ta đã đầu tư thế nào cho sứ
mạng trồng người này ?
MỤC LỤC

Trong phạm vi xã hội, ngân sách nhà nước dành


bao nhiêu phần trăm cho chi phí quốc phòng và
bao nhiêu phần trăm cho công việc giáo dục ?
Khi con người đã rệu rạo thì chắc chắn xã hội sẽ
tuột dốc, bất ổn sẽ xảy ra và người ta sẽ lại đổ
tiền nhiều hơn nữa để ổn định trật tự, cũng như
tái lập hòa bình. Quả là một cái vòng luẩn quẩn
chết người, vì đã không chịu “chữa tận căn”.
Con người là gốc rễ. Gốc rễ đã thối, thì dù có
bón bao nhiêu phân, xịt bao nhiêu thuốc dưỡng,
cũng chỉ là vô ích mà thôi.
Trong phạm vi gia đình, chúng ta đã thực sự
quan tâm và bắt tay vào việc giáo dục con cái
chưa ? Hay là chúng ta lại chủ trương trao phó
cho ông trời, như tục ngữ đã nói :
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính.
MỤC LỤC

Và cứ để mặc con cái lớn lên như một loài cỏ


dại.
Để kết thúc, gã xin chia sẻ như thế này :
- Đối với con cái,
Để lại tiền của không bằng để lại kiến thức.
Để lại kiến thức không bằng để lại nghề nghiệp.
Để lại nghề nghiệp không bằng để lại đức độ.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

BÀN VỀ CHỮ DANH

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Trong số trước, gã đã bàn đến nghề nghiệp và
để cho đủ món ăn chơi, trong số này gã xin nói
tới công danh, như một hậu quả tất nhiên của
việc mình đã hùng hục kéo cày, mình đã bươm
chải ngược xuôi, mình đã vất vả kiếm sống.
Mở bất cứ cuốn tự điển Việt Nam nào, gã cũng
thấy được hai ý nghĩa của chữ danh. Nghĩa thứ
nhất, đó là tên. Nghĩa thứ hai, đó là tiếng tăm.
Gã sẽ từ từ mổ xẻ hai ý nghĩa này.
Trước hết, danh có nghĩa là tên. Kể từ khi cất
tiếng khóc oe oe đi vào cuộc sống, chúng ta
được cha mẹ đặt cho một cái tên, nhờ đó thiên
hạ có thể phân biệt chúng ta với người này
người nọ.
Phép đặt tên của người Việt Nam cũng khá
nhiêu khê và rắc rối. Gã chỉ xin ghi lại những
MỤC LỤC

điểm chính đã được Toan Ánh trình bày trong


cuốn “Con người Việt Nam”, rồi sau đó thêm
mắm thêm muối cho đậm đà hơn một tí.
Theo tác giả, ngày xưa nước ta không có hộ tịch
hộ khẩu, thành thử đứa bé mở mắt chào đời
không phải làm giấy khai sinh, người ta có thói
quen gọi nó là thằng cu, cái đĩ, thằng tý, con
đỏ…tùy theo nó là con giai hay con gái.
Riêng với những gia đình hiếm muộn, thường
gọi con cái bằng một cái tên rất xấu, như thằng
Tèo, cái Tủn…vì sợ rằng tên đẹp quá, thì sẽ bị
ông “ngáo ộp” vồ mất, hay sẽ bị cô hồn các đẳng
rước đi. Và cứ thế, cứ thế cho đến lúc khôn lớn.
Lắm khi sắp sửa lấy vợ lấy chồng, con cái mới
được cha mẹ chính thức đặt tên cho.
Còn ngày nay thì khác, vợ vừa mới có “cứt
gián”, chồng đã hý hửng chọn tên cho con. Hay
vừa mới siêu âm về, biết được con mình là giai
MỤC LỤC

hay là gái, cha mẹ đã vội xì xầm bàn tán chuyện


đặt tên cho con.
Và khi đặt tên cho con, cha mẹ phải lưu ý không
được trùng tên với vua quan, hay chú bác, ông
cụ bà kỵ của mình cũng như của lối xóm, bằng
không thì rắc rối to.
Gã đã từng chứng kiến cảnh hai vợ chồng trẻ có
được đứa con đầu lòng, hớn hở đặt tên và làm
giấy khai sinh cho con. Nhưng vừa về tới nhà,
liền bị người bà con xa lắc xa lơ đến mắng cho
một chặp :
- Bộ hết tên rồi sao mà đặt tên ấy cho nó. Chúng
mày có biết không tên ấy là tên cụ cố sinh ra
ông ngoại của thím tao.
Và thế là trong giấy tờ đứa bé có một tên, còn
trong đời thường thì nó lại được gọi bằng một
tên khác.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, nhiều người khi oán ghét một ai, lại
cố tình lấy tên kẻ ấy mà đặt cho con của mình
và coi đó như một cách…trả thù dân tộc vậy!!!
Hầu như dân tộc nào cũng thế, người ta rất thận
trọng trong khi đặt tên, bởi vì tên gọi ít ra cũng
phải nói lên ước vọng của cha mẹ đối với con
cái.
Chẳng hạn trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời
hẳn đã đặt tên cho người đờn ông đầu tiên là
Adong và Adong vừa có nghĩa là bùn đất vừa có
nghĩa là con người. Sau đó, Adong, người đờn
ông đầu tiên ấy đã chớp chớp đôi mắt khi gặp
người đờn bà đầu tiên và ông đặt tên cho nàng
là Eva, có nghĩa là mẹ của chúng sinh. Đức
Giavê đã đổi tên cho Abram thành Abraham, có
nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Còn Đức Kitô đã
cải tên cho ông Simon thành Phêrô, có nghĩa là
đá tảng.
MỤC LỤC

Người Việt Nam cũng thế, cha mẹ thường gửi


gấm những ước vọng thầm kín của mình vào
tên gọi của con cái. Chẳng hạn cụ thân sinh ông
Cao Bá Quát đặt tên cho hai con của mình là Bá
Đạt và Bá Quát, bởi vì đời nhà Chu bên Tàu có
tám vị hiền sĩ , đó là Bá Quát và Bá Đạt, Trọng
Đột và Trọng Hốt, Thúc Dạ và Thúc Quý, Quý
Quỳ và Quý Đa. Đặt tên cho hai con là Bá Đạt
và Bá Quát, cụ thân sinh ra các ông đã muốn
cho các con mình sau này cũng sẽ trở nên
những bậc hiền sĩ.
Một tên đầy đủ thường gồm có ba phần, đó là
họ, chữ đệm và tên.
Trước hết là họ. Họ từ tổ tiên truyền xuống, đời
này qua đời khác. Thường thì con lấy họ của bố,
nhưng cũng có trường hợp theo họ mẹ, chẳng
hạn khi người mẹ không có anh em trai, thì một
trong những người con sẽ lấy họ mẹ để lo việc
MỤC LỤC

phụng thờ ngoại tộc, hay khi người mẹ sinh con


ra mà không có bố…
Tiếp đến là chữ đệm. Đờn bà con gái thường
dùng chữ Thị. Còn đờn ông con giai thường
dùng mấy chữ như Văn, Đình, Hữu, Duy…Ngày
nay chữ đệm đã thay đổi nhiều. Đờn bà con gái
lắm người không thích chữ Thị, vì xem ra có vẻ
bị lép vế, nên dùng những chữ khác cho thêm
phần mộng mơ, lãng mạn và âm vang leng
keng, như chữ Mộng, Lệ, Thùy…
Viết tới đây, gã rất lấy làm “tâm phục khẩu phục”
các bậc phụ mẫu thời trước. Tuy hoàn cảnh lúc
bấy giờ chưa sáng, những quí cụ ông, quí cụ bà
đã từng đặt những cái tên thật kêu và thật đẹp
cho con cái mình, chẳng hạn như Mộng Xuân,
Lệ Thu, Thúy Lam, Diễm Quỳnh…Quả là hết xảy
và trên cả tuyệt vời nữa!
MỤC LỤC

Sau cùng là tên. Đây là phần cuối, nhưng lại là


phần chính. Như đã nói ở trên, tên được chọn
để nói lên sở nguyện của cha mẹ, của kẻ mang
tên, hay ít ra cũng phải có một ý nghĩa nào đó.
Đối với con gái, người ta ưa chọn tên các loài
hoa như Lan, Huệ, Cúc, Mai, Đào, Liễu, Liên…
hay tên bốn mùa như Xuân, Hạ, Thu, Đông…Đối
với con giai, người ta thích những tên có tính
cách hùng mạnh, nói lên bổn tính của phái nam,
như Nhân, Trí, Dũng, Tín, Trực…hay đôi khi
giản tiện, người ta lấy ngay năm sinh để đặt cho
con, như Tý, Sửu, Dần, Mão…
Cũng giống như dân Do Thái, người Việt Nam ta
có tục kiêng tên. Khi có con đầu lòng, thì người
ta dùng tên con để gọi bố mẹ nó, dù tên nó lúc
bấy giờ mới chỉ là một tên tạm bợ, như tên Tí,
tên Tẹo. Người ta gọi bố mẹ nó là bác Tí giai và
bác Tí gái, hay bác Tẹo giai và bác Tẹo gái.
MỤC LỤC

Chính vì sự kiêng tên, mà nhiều chữ phải đọc


chệch sang chữ khác, chẳng hạn như Hoàng đổi
thành Huỳnh, Vũ đổi thành Võ, Long đổi thành
Luông…
Khi có tí chức, tí quyền hay tí tiếng tăm, có khi
người ta dùng họ để gọi thay tên, chẳng hạn
như Nguyễn tiên sinh, bác Hồ, bác Tôn…Có khi
người ta dùng chức tước văn bằng để gọi,
chẳng hạn như ông Huyện Đặng, cụ Cử Vũ…có
khi người ta dùng tên làng, tên xã để gọi, chẳng
hạn như Ông tú Vị Xuyên, cụ Tam nguyên Yên
Đổ.
Bình thường, chỉ những kẻ bạch đinh, vai nặng
chân trơn, mới phải dùng tên để gọi, vì thế tại
các làng xã, người ta cố dành dụm chút tiền còm
để mua cho mình tí chức như chân nhiêu, chân
xã hầu được bàn dân thiên hạ gọi là ông nhiêu
MỤC LỤC

và bà nhiêu, ông xã và bà xã thay cho tên của


mình.
Đặc biệt khi vác lều chõng đi thi, thì phải biết
kiêng húy, có nghĩa là trong bài văn, thí sinh
không được dùng những chữ dính dáng đến tên
của nhà vua và các vị tôn tộc trực hệ. Nếu
chẳng may phạm húy, thì dù bài văn có tuyệt vời
đến đâu, cũng sẽ bị sổ toẹt và nhiều khi còn
mang lấy vạ vào thân.
Tuy nhiên, đã có danh thì cũng cần phải có
tiếng, nghĩa là cái tên của mình phải được nhiều
người biết đến. Hơn thế nữa, người ta vốn
không ưa những sự quá đơn giản, mà lại thích
những sự rườm rà hoa lá cành. Trần xì cái tên
cha mẹ đặt cho như Tí, Tèo, Tẹo…mà thôi chưa
đủ, cần phải phụ đề vào đó chút ít, như ông
giám đốc Tí, bà bác sĩ Tèo, bác chủ tịch Tẹo…
Chính những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh này làm cho
MỤC LỤC

người ta nở mày nở mũi và nghênh ngang với


đời.
Vì thế, chữ danh, ngoài cái ý nghĩa là tên gọi,
còn mang một ý nghĩa khác nữa, đó là tiếng
tăm.
Đứng trước cái danh này, gã nhận thấy bàn dân
thiên hạ được chia làm hai phe : tiêu cực và tích
cực.
Phe thứ nhất mang tính cách tiêu cực, coi tiếng
tăm chỉ là sự giả trá thế gian, hay như một thứ
phân bón, nên không màng chi đến. Chẳng hạn
như tục ngữ đã bảo :
- Công danh bánh vẽ, giàu sang chiêm bao.
Hay như Tản Đà cũng đã viết :
- Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
Bởi đó, người ta rất e dè và ngần ngại :
- Cây cao thì gió càng lay,
MỤC LỤC

Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.


- Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Điều quan trọng là phải chí thú làm ăn, ra sức
gầy dựng sự nghiệp, rồi tiếng tăm ắt sẽ tới, mà
lỡ nó không tới cũng chẳng sao cả, vì rốt cuộc ta
vẫn là ta kia mà, như lời Hoàng Đạo trong “Mười
điều tâm niệm” đã khuyên giới trẻ :
- Cần sự nghiệp, chứ không cần công danh.
Hay như ca dao cũng đã nhắc nhở :
- Công danh đeo đuổi mà chi,
Sao bằng chăm chỉ giữ nghề canh nông.
Thậm chí có người còn phớt lờ cái danh, xóa tên
nó trong sổ nhân sinh và đặt nó ra bên rìa cuộc
đời mình :
- Chen chúc lợi danh đà chán ngắt,
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao.
MỤC LỤC

Phe thứ hai mang tính cách tích cực, phải hăm
hở lăn xả và nhập cuộc để kiếm chút cháo. Đại
diện cho phe chịu chơi, phe diều hâu, chủ chiến
này chính là Nguyễn Công Trứ. Rải rắc trong
thơ văn, ông luôn hô hào :
- Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ lần.
Đường đường là một kẻ trượng phu, một đấng
tu mi nam tử mà chẳng có một tí công danh thì
thà chết quách đi cho rồi :
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Vì thế, phải dứt khóat lập trường, phải ra sức
tạo lập cho mình một tiếng tăm cho thiên hạ biết
mặt cũng như cho đời biết tên :
- Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
MỤC LỤC

Chữ danh thường đi đôi với chữ lợi. Có tiếng


tăm thì cũng thường có nhiều bổng lộc vật chất,
nói chung là có nhiều tiền. Danh và lợi vốn tỷ lệ
thuận với nhau. Người ta thường hay lợi dụng
cái danh của mình để vơ vét về cho thật nhiều.
Đồng thời cái lợi chính là một chất kích thích làm
cho người ta phấn khởi và hồ hởi leo lên cao,
lên cao hơn nữa, cho dù có phải luồn, phải lách,
hay phải cúi gập người xuống.
Nhìn thấy cái lợi, hay cụ thể hơn, nhìn thấy tiền,
mắt ai mà chẳng sáng lên như đèn ô tô. Từ đứa
con nít cho chí tới ông già, nghĩa là tất tật nam
phụ lão ấu đều thấu triệt giá trị của đồng tiền,
như một câu ca dao hôm nay đã sánh ví :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
MỤC LỤC

Là cái lọng để che thân,


Là cán cân của công lý.
Tự bổn chất, có danh có tiếng là chuyện bình
thường, vô thưởng vô phạt, nhưng xem ra lại rất
thích hợp với bản tính con người. Bởi vì ông
chính trị gia nào cũng mong được người đời sau
biết đến tên tuổi của mình. Anh nhà văn nhà thơ
nào cũng muốn được chui tọt vào trong văn học
sử và lưu lại ở đó dù chỉ một vài dòng ngăn
ngắn.
Tuy nhiên, vấn đề trở nên nhiêu khê và rắc rối ở
chỗ là phải leo lên đài danh vọng bằng cách nào
? Phải làm sao để mà “có danh gì với núi
sông” ?
Trước hết, gã thấy có những kẻ nhờ vợ hay nhờ
nhà vợ mà leo lên :
Chẳng hạn như một anh chàng sinh viên vừa
mới mãn đại học, đang thất nghiệp dài dài, vớ
MỤC LỤC

ngay được cô vợ, con ông giám đốc, thế là chỉ


một thời gian ngắn, sau khi rước “cô nàng về
dinh’, anh ta nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế
“trợ lý giám đốc” và từ đó việc làm ăn phất lên
như diều gặp gió. Đường công danh mở toang,
anh ta chẳng thèm thênh thang cử bộ, mà lái ô
tô con phom phom đi vào.
Đúng là :
- Có người nhờ vợ nên ông,
Lắm người vì vợ mất không cơ đồ.
Tiếp đến, gã thấy có những kẻ nhờ thế giá hay
nhờ sự phò trợ của bè bạn mà leo lên, theo kiểu
“phe ta thổi phồng phe mình”.
Chẳng hạn như một anh thợ hát, giọng ca đặc
sệt mùi thuốc lào, nhưng được mấy tay bạn, vốn
nghề ký giả, nhà báo thổi lên và phong làm “siêu
sao”, làm “quái kiệt”…khiến cho bàn dân thiên
hạ cứ phải ngẩn tò te, lò mò muốn biết.
MỤC LỤC

Sau cùng, gã thấy có những kẻ nhờ công sức


của mình mà leo lên. Tuy nhiên, công sức ở đây
lại được rẽ vào nhiều ngả khác nhau, giống như
chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ,
Thứ ba tu…nhà dòng.
Đúng thế, có những kẻ ra công gian giảo, ra sức
dối trá để kiếm cho mình tí danh.
Chẳng hạn mấy cô cậu học trò, hay mấy anh chị
sinh viên đã khều cho mình mảnh bằng tú tài và
cử nhân qua việc quay cóp trong các cuộc thi.
Theo sự nhận xét của gã, đa số các thí sinh tại
Việt Nam, không ít thì nhiều, cũng đã gian lận
trong lúc làm bài thi. Như vậy, một khi đã “ra lò”,
không hiểu họ sẽ dẫn đất nước này đi về đâu ?
Quay cóp mà thôi chưa đủ, mấy ông cán bộ và
công chức còn sử dụng quái chiêu độc địa hơn
MỤC LỤC

nữa. Số là nhà nước muốn nâng cấp phe ta, đòi


buộc các quan lớn cũng như các quan nhỏ phải
có văn bằng nọ, văn bằng kia. Bởi đó, thay vì đi
học hàm thụ, để cập nhật hóa trình độ của mình,
mấy ông quan này chỉ việc ngồi ở nhà rung đùi,
rồi tung tiền ra, mua bằng giả để giữ cho được
cái ghế mình đang ngồi.
Nếu cụ Tam Nguyên Yên Đổ đội mồ mà sống
dậy, nhìn thấy các quan, chắc chắn cũng phải
kêu trời, như ngày xưa cụ đã từng than thở cả
tiếng về những ông tiến sĩ giấy :
- Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Gã biết một tên nọ, học mãi học hoài mà vẫn
chẳng được “tốt nghiệp trường làng”, nghĩa là
vẫn chưa vượt qua được ngưỡng cửa cấp một.
MỤC LỤC

Thế nhưng, khi lớn lên và bước chân xuống


cuộc đời, xét về phương diện mánh khóe và xảo
quyệt, thì chẳng ai bằng hắn cả.
Lúc nào trong chiếc “cạc táp”, hắn cũng có
những tấm danh thiếp với rất nhiều học vị và
chức vụ khác nhau, để lòe bịp thiên hạ. Rồi sau
đó, tùy hoàn cảnh hắn sẽ sử dụng những tấm
danh thiếp ấy để hạ gục nhanh con mồi.
Chẳng khi hạn đến với mấy ông quan vốn mắc
bệnh tham nhũng mãn tính, hắn xùy ngay ra tấm
danh thiếp tự xưng mình là phóng viên báo này,
ký giả báo kia, hầu đòi buộc vị quan ấy phải xùy
tiền mua sự yên lặng của hắn, bằng không hắn
sẽ huỵch toẹt cho bàn dân thiên hạ được biết sự
thật. Và thế là, dù tức như bị bò đá, ông quan
kia cũng vẫn phải vui vẻ bất đắc dĩ chi tiền cho
hắn.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, trong cái xã hội đảo điên, vàng thau


lẫn lộn, cũng không thiếu những người đã đứng
lên bằng chính đôi chân của mình, đã tạo dựng
sự nghiệp bằng chính công sức của mình. Và
nếu có tí danh vọng đính kèm, thì danh vọng ấy
cũng xuất phát bởi những cố gắng liên tục của
bản thân.
Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật có kể lại câu chuyện
“Chị em xe rác và ước mơ tiến sĩ” như sau :
Ở Cần Thơ, có ba chị em gái sinh ra trong một
gia đình đình mẹ hốt rác. Từ 4-5 tuồi, họ đã theo
mẹ đẩy xe rác lang thang khắp hang cùng ngõ
hẻm. Người dân khu vực Xuân Khánh, Cần Thơ,
quen gọi họ là “chị em xe hốt rác”, nhưng ít ai
biết ba chị em đang âm thầm trui rèn tương lai
của mình trên giảng đường đại học…
Cô chị tích cóp tiền thu gom phế liệu, giấy vụn,
vỏ lon bia…để có 480.000 đồng trả học phí bảng
MỤC LỤC

A Anh văn, 550.000 đồng đóng bằng B, 700.000


đồng đóng bằng C. Sau khi cô chị đạt bằng C,
tội nghiệp bà mẹ quá lo lắng không biết còn
bằng D, bằng E, bằng F gì nữa không ?
Nêu sự kiện trên, tác giả đã chua thêm vào đó
chút suy tư vụn vặt của mình như sau :
Thiết nghĩ, các bằng cấp mà ba chị em gái này
có được là do thực học, do quyết tâm vượt qua
danh phận của mình một cách danh dự và
chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng ước mơ của
ba chị em có cơ sở để đạt được bằng thực học.
Nghĩ lại cảnh quay cóp, ném phao…của các
cuộc thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, bác
sĩ chính, giảng viên chính mà cảm thấy ngậm
ngùi cho cái “đạo học” ngày nay.
Có danh một cách đường đường chính chính đã
là chuyện khó, nhưng gìn giữ và duy trì cái danh
ấy khỏi hoen ố, khỏi bị mai một cũng không phải
MỤC LỤC

là chuyện dễ, bởi vì nhiều khi đã phải đầu tư biết


bao nhiêu công sức mới có được một tí danh,
thế mà bỗng chốc đùng một phát, tất cả đều đi
đoong, đều tiêu tan thành mây khói, thân thì bại,
danh thì liệt, như người xưa đã bảo :
- Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.
- Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.
Đêm nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ sự đời,
gã nhận thấy có hai nguyên nhân chính khiến
người ta thường bị thân bại danh liệt, đó là tình
và tiền.
Có kẻ vì tình, hay nói toạc móng heo ra, vì tình
cảm lem nhem, dính dấp đến chuyện đờn bà
con gái mà đi đoong sự nghiệp. Lịch sử đã để lại
quá nhiều bằng chứng về vần đề này :
Ngày xưa vua Kiệt vì say mê nàng Muội Hỷ, bỏ
bê việc triều chính, ăn chơi trác táng, nên bị vua
Thành Thang cướp mất nước. Vua Trụ vì say
MỤC LỤC

mê nàng Đắc Kỷ, giết hại công thần, hoang dâm


vô độ, khiến cho sự nghiệp bị tan tành. Ngô Phù
Sai, vì say mê nhan sắc của Tây Thi, cô gái ở
thôn Trữ La do Việt Câu Tiễn hiến cống, đã
phung phí của chung, đày ải các tôi trung, khiến
lòng dân oán thán. Lợi dụng cơ hội ấy, Câu Tiễn
liền cử binh sang đánh chiếm nước Ngô, tàn
phá Cô Tô đài, nơi vua Phù Sai cùng Tây Thi
đêm ngày vui vẻ “mí nhau”. Phù Sai phải bỏ kinh
thành chạy trốn và cuối cùng đã tự sát để khỏi bị
rơi vào tay Việt Vương Câu Tiễn.
Còn ngày nay cũng không thiếu những tấm
gương để đời. Chẳng hạn hình như vào thập
niên sáu mươi, ông bộ trưởng chiến tranh của
dân Ăng lê tên là Profuno, vì lẹo tẹo với cô gái
điếm Christine Keller, khiến cho toàn bộ nội
nước Anh lúc bấy giờ phải từ chức, còn bản
thân ông bộ trưởng cũng tiêu tùng luôn. Sở dĩ
MỤC LỤC

như vậy vì cô gái điếm này là một điệp viên của


Liên Xô, được cài vào để lấy những tin tức tối
mật.
Và mới đây, tổng thống Bill Clinton nước Huê kỳ
cũng suýt đi tong sự nghiệp cũng chỉ vì đã
nhăng nhít với cô tập sự viên Nhà Trắng tên là
Monica Lewinsky.
Ngoài ra, cũng có kẻ vì tiền mà mất toi cơ đồ.
Thực vậy, thấy tiền ai mà chẳng ham, chẳng
thích, chẳng mê, để rồi tìm mọi cách kiếm cho
được thật nhiều. Kiếm tiền bằng công sức lao
động chân chính thì chẳng nói làm chi, nhưng
kiếm tiền bằng cách gian giảo trong khi buôn
bán, tham nhũng hối lộ trong khi thi hành chức
vụ, bỏ nhầm công quĩ vào túi để xài riêng…Thôi
thì thiên hình vạn trạng đến quỉ thần cũng không
lường nổi. Đây cũng chính là một con đường
ngắn nhất dẫn những kẻ tham lam vào vòng tù
MỤC LỤC

tội, còn sự nghiệp thì cũng tan vỡ thành mảnh


vụn.
Có người đã leo lên tới tột đỉnh danh vọng rồi,
chẳng hạn như ông tổng thống của nước Đại
Hàn, quê hương của những củ sâm Cao Ly,
song cũng vì cái túi tham không đáy của mình,
đã vô tư xơi những khoản tiền “bồi dưỡng” của
mấy công ty lớn, nên đã bị tòa án sờ vào gáy.
Quả là chua xót và đắng cay như lời Kinh Thánh
:
- Phù hoa trên mọi phù hoa, trần gian tất cả chỉ
là phù hoa.
Để kết luận, gã xin mượn lại mấy tư tưởng sau
đây, đã được tác giả Diệp Văn Sơn, ghi lại trên
báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật.
Dân Trung quốc có câu :
MỤC LỤC

- Người biết đạo, tất không khoe. Người biết


nghĩa, tất không tham. Người biết đức, tất không
thích tiếng tăm lừng lẫy.
Hay như :
- Người đi không cầu cho có bóng mà bóng tự
nhiên theo. Người kêu không cầu cho có tiếng
dội mà tiếng dội vẫn vang. Vì thế, người quân tử
chỉ cần làm nên công rồi danh ắt sẽ đến.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

ĐẠO VÀ ĐỨC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Trong những năm gần đây, nhiều người đã lớn
tiếng than ngắn thở dài về tình trạng đạo đức bị
xuống cấp một cách trầm trọng, không phải chỉ
ở Việt Nam mà thôi, mà còn ở nhiều nơi trên
khắp thế giới.
Đối với những người đã có tí tuổi, thì cứ việc lấy
nhau, rồi lôi nhau ra tòa ly dị, bỏ nhau cái một.
Người ta thay đổi vợ chồng như thay đổi áo
quần, khiến cho gia đình bị lung lay tận gốc rễ,
không còn là một tổ ấm, mà chỉ còn là một nơi
đày đọa và đay nghiến lẫn nhau. Vì thế, anh đi
đường anh, tôi đi đường tôi, sớm ngày nào hay
ngày ấy, mặc cho con cái sất bất xang bang,
long đong vất vưởng.
Không phải chỉ bỏ nhau một cách thoải mái, mà
còn bỏ cả con cái một cách vô tư. Người ta loan
MỤC LỤC

truyền những cách thức ngừa thai và phá thai,


người ta vẽ ra một tương lai ảm đạm cho những
gia đình đông con, khiến cho các đôi vợ chồng
cảm thấy con cái là như một gánh nặng, chứ
không còn là một hồng ân. Đã là gánh nặng thì
cứ việc tìm cách để loại trừ, hơi đâu mà quàng
vào cổ cho thêm phần cực nhọc, lo âu suốt bao
nhiêu ngày tháng.
Ấy là trong gia đình, còn ngoài xã hội thì hỡi ôi,
hễ có tí chức tí quyền thì vội vã lợi dụng mà vơ
vét về cho đầy túi tham của mình, mặc cho đất
nước tan hoang, quê hương xiêu đổ…Lớn thì
xơi miếng to, nhỏ thì đớp miếng bé. Có tiền thì
phải tiêu tiền. Vì thế, bèn tung tiền vào những vụ
ăn chơi vung vít, đèo bòng bồ nhí…cho đến lúc
khuynh gia bại sản, thân bại danh liệt, mới mở
con mắt dậy bỗng thấy mình tay không, nằm
trong nhà tù mà đếm lịch từng ngày.
MỤC LỤC

Còn đối với xấp nhỏ, lắm khi miệng còn hoi mùi
sữa, đã thích chơi trò bạo lực, xách súng đến
trường bắn xối xả vào bè bạn, cũng như thượng
cẳng chân hạ cẳng tay mà hỏi thăm sức khỏe
thày cô, còn đâu nữa truyền thống “tôn sư trọng
đạo” của người xưa.
Lớn hơn một chút thì đã vội vã nếm mùi đời
bằng cách chơi xì ke ma túy, hay vướng vào cái
vòng tình ái cong cong. Chẳng thế mà con số
những “đấng” vị thành niên tìm cách phá thai,
giải quyết sốt sột cái “bầu tâm sự” của riêng
mình vì đã trót lỡ dại, mỗi ngày một gia tăng…
Còn nhiều nữa, nhưng nếu viết ra, thì gã sẽ bị
kê tủ đứng là một kẻ “cả tiếng lại dài hơi” mà
than van oán trách. Trong khi đó, việc cần làm
ngay, là phải tìm ra một giải pháp tích cực để
cứu vãn tình thế. Suy nghĩ về vấn đề này, gã
MỤC LỤC

bèn nhớ tới một câu danh ngôn, đại khái như
sau :
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó
mà rủa xả bóng đêm.
Một nhà hùng biện được mời tới sân vận động
để nói chuyện với bàn dân thiên hạ. Ông đã bắt
đầu bài thuyết trình của mình bằng cách tắt hết
mọi đèn đóm, khiến sân vận động tối thui, thậm
chí ngồi bên cạnh mà cũng chẳng nhìn thấy
khuôn mặt của nhau.
Sau đó, ông bật một que diêm, giơ lên cao và
hỏi :
- Quí vị có nhìn thấy không ?
Mọi người đều trả lời :
- Thấy…Thấy.
Khi mọi người đã yên lặng, ông liền yêu cầu :
- Bây giờ, ai mang theo diêm hay quẹt, thì vui
lòng bật lên.
MỤC LỤC

Chỉ trong giây lát, sân vận động như bừng sáng
với ánh lửa của những que diêm và những chiếc
quẹt, khiến mọi người nhìn rõ khuôn mặt của
nhau. Rồi ông bắt đầu “Giô…đề” :
- Quí vị thấy đấy, nếu mỗi người chúng ta cố
gắng làm những công việc tốt, cho dù là nhỏ bé
và tầm thường, thì những công việc tốt ấy cũng
sẽ dư sức đẩy lui bóng tối.
Mẩu chuyện và câu danh ngôn trên khiến gã
phải giật mình, bởi vì rất có thể bản thân đã
chẳng thắp nổi một ngọn nến, đã chẳng đánh
nổi một que diêm hay đã chẳng bật nổi một hộp
quẹt, nên đêm vốn dĩ đã tối lại càng tối hơn.
Đang miên man suy nghĩ, bỗng tình cờ gã đọc
được mấy hàng chữ sau đây trong một bài viết :
“Có biết bao nhiêu người rất trung thành với
những biểu dương tôn giáo, nhưng lại hoàn toàn
sống xa lạ với những đòi hỏi của tôn giáo. Có
MỤC LỤC

biết bao nhiêu người có đạo mà không có


đức…”
Lời nhận xét này lại càng làm cho gã thêm bối
rối đến toát cả mồ hôi hột khi tự hỏi :
- Mình là dân có đạo, nếu xét kỹ lý lịch, không
chừng còn là dân đạo dòng, đạo gốc…thế
nhưng, liệu mình đã thực sự có đức hay chưa ?
Như có lần đã thú nhận với bàn dân thiên hạ
rằng gã rất lấy làm tâm phục khẩu phục cha ông
thuở trước vì cách chơi chữ và ghép chữ, hầu
như chẳng một dân tộc nào trên trái đất này
sánh nổi. Chẳng hạn : đã nhường thì phải nhịn,
đã nhịn thì phải nhục, đã khôn thì phải ngoan, đã
học thì phải hành…Và hôm nay, đã có đạo thì
cũng phải có đức.
Và thế là gã bắt đầu tìm hiểu thế nào là đạo và
thế nào là đức. Đâu là mối liên hệ giữa đạo và
đức ?
MỤC LỤC

Đạo có nghĩa là đường. Đường được mở ra với


mục đích dẫn tới một địa điểm nào đó. Tuy
nhiên, muốn đến nơi định đến, chúng ta phải
biết chọn đúng con đường và phải cố gắng bước
đi trên con đường ấy. Bằng không, thà rằng ngồi
chơi xơi nước ở nhà cho khỏe vẫn hơn.
Từ đó, người ta đã đưa ra những định nghĩa
khác nữa về đạo, tùy theo phạm vi của nó rộng
hay hẹp. Trước hết, theo nghĩa rộng, đạo là lề
lối phải theo, là lẽ phải mọi người đều tuân giữ.
Nếu trong thực tế, chúng ta thấy có nhiều loại
đường khác nhau : Đường bộ, đường thủy,
đường hàng không. Nguyên đường bộ mà thôi
cũng đã có biết bao nhiêu thứ : đường mòn,
đường hẻm, đường đất, đường đá, đường bê
tông, đường trải nhựa, đường cao tốc…thì đối
với đạo cũng vậy. Đạo theo nghĩa rộng cũng có
nhiều thứ, nhiều loại khác nhau.
MỤC LỤC

Chẳng hạn đạo làm quan là phải biết thương


dân và hành sử theo sự liêm chính.
Dương Chấn được bổ làm thái thú quận Đông
Lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương Ấp. Quan
huyện ở đấy là Vương Mật, trước được ông đề
bạt cho, vào yết kiến. Rồi đợi đêm khuya, đem
vàng đến lễ.
Dương Chấn bảo :
- Trước tôi biết ông là người khá mới cử ông lên,
thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem
vàng đến cho tôi ư ?
Vương Mật cố nài, thưa rằng :
- Xin ngài cứ nhận cho. Bây giờ đêm khuya
không ai biết.
Dương Chấn nói :
- Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo
là không ai biết ?
MỤC LỤC

Vương Mật nghe nói, xấu hổ lui ra. Dương Chấn


thật là một ông quan thanh liêm, chỉ biết chăm lo
việc dân việc nước, không tham nhũng, không
làm giàu cho mình. Ông thường nói :
- Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch
cho con cháu, chẳng quí hơn là để lại tiền của,
ruộng nương cho chúng ư ?
Chẳng hạn đạo làm con là phải hiếu thảo, vâng
lời cha mẹ.
Thày Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng :
- Đội nặng đi đường xa, thì tiện đâu nghỉ đấy,
không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo,
cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy,
không đợi khi có quyền cao chức trọng mới chịu
làm. Ngày trước Lộ này, lúc song thân còn, cơm
thường dưa muối, đường xa trăm dặm, phải đội
gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm
quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương
MỤC LỤC

bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc


những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại
muốn dưa muối, đội gạo nuôi các ngài như
trước, thì không sao được nữa. Cha mẹ tuổi già
như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió
chẳng đừng. Con muốn nuôi mà cha mẹ không
còn sống.
Đức Khổng Tử nói :
- Nhà ngươi cư xử với song thân như thế là rất
phải. Lúc các ngài còn, thì hết lòng phụng
dưỡng. Lúc các ngài mất thì hết lòng thương
tiếc.
Chẳng hạn đạo làm vợ, làm chồng thì phải trung
thành cùng nhau trong suốt cả cuộc đời, bất kể
trẻ hay già, đẹp hay xấu, lên voi hay xuống chó.
Vua Cảnh Công có cô con gái yêu muốn gả cho
Án Tử. Một hôm đến ăn tiệc tại nhà Án Tử, thấy
vợ của Án Tử, vua bèn hỏi :
MỤC LỤC

- Phu nhân đấy phải không ?


Án Tử thưa :
- Vâng, phải đấy.
Vua nói :
- Ôi ! Phu nhân người trông sao vừa già lại vừa
xấu ! Trẫm có đứa con gái đẹp muốn cho về
hầu, khanh nghĩ sao ?
Án Tử đứng dậy thưa rằng :
- Vợ tôi thật vừa già lại vừa xấu, nhưng lấy tôi và
cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp.
Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy
lúc già, lúc đẹp lấy cốt để cậy nhờ lúc xấu. Vợ
tôi thường nhờ cậy tôi, mà tôi cũng đã nhận sự
nhờ cậy ấy. Nay nhà vua, tuy muốn ban ơn,
chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với
những điều vợ tôi đã nhờ cậy bấy lâu nay.
Nói đoạn, Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy.
MỤC LỤC

Mỗi đấng, mỗi bậc đều có cái đạo của mình, đều
có cái lề lối phải tuân giữ, cho ra môn ra khoai,
cho ra trên ra dưới, cho tôn ti trật tự hẳn hoi,
chứ không hầm bà lằng, cá mè một lứa.
Thế nhưng, suy cho cùng cái đạo quan trọng
nhất, theo gã nghĩ, đó là cái đạo làm người. Đây
chính là cái gốc, gốc có mạnh thì cành lá mới
phát triển sum xuê. Đây chính là cái nền, cái
móng, nền móng có vững thì mới xây được tòa
nhà cao cao.
Phải làm người trước đã, rồi sau đó mới thêm
vào những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh như : người
cha, người mẹ, người vợ, người chồng, người
con, người thày, người thợ…
Cái đạo làm người hệ tại việc biết sống với mình
bằng cách tự lập và biết sống với người khác
bằng yêu thương hòa thuận.
Thày Nhan Uyên hỏi đức Khổng Tử :
MỤC LỤC

- Hồi này nghèo mà cũng được như giàu, hèn


mà cũng được như sang, không phải khỏe là có
oai, chơi với người ta suốt đời không lo sợ gì,
muốn như vậy có nên không ?
Đức Khổng Tử nói :
- Ngươi hỏi thế phải lắm. Nghèo mà cũng muốn
được như giàu, thế là biết bằng lòng với số
phận, không ham mê gì. Hèn mà cũng muốn
được như sang, thế là biết nhún nhường và có
lễ độ. Không khỏe mà cũng muốn có oai, thế là
biết thận trọng, cung kính, không lầm lỗi gì. Chơi
với mọi người mà muốn suốt đời không lo sợ,
thế là biết chọn lời rồi mới nói.
Tác giả “Cổ học tinh hoa” đã thêm lời bàn như
sau : Không cần công danh phú quí, thế là biết
giữ thiên tước hơn nhân tước. Không để ai
khinh lờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình.
Không muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ
MỤC LỤC

thân không phiền lụy ai. Ở đời mà giữ trọn vẹn


được mấy điều như thế, thiết tưởng thật là một
cách vui thú rất cao thượng vậy.
Theo nghĩa thông thường, đạo được đồng hóa
với tôn giáo, là con đường tu dưỡng dựa theo
một thần quyền, có một giáo lý rõ rệt để tin theo,
cũng như có một tổ chức chặt chẽ, luôn khuyên
nhủ làm lành tránh dữ để đạt tới cõi phúc mai
sau.
Hiểu theo nghĩa này, thì từ đông sang tây, từ cổ
chí kim đã xuất hiện trên mặt đất này nhiều đạo
khác nhau, chẳng hạn như đạo Phật, đạo Bà La
Môn, đạo Hồi, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo, Đạo
Thiên Chúa, đạo Tin Lành…Mục đích của các
đạo là thúc đẩy con người ăn ngay ở lành, xây
dựng xã hội mỗi ngày một tốt đẹp, để rồi nhờ đó
được siêu thoát, được bước vào cõi phúc
trường sinh.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, có một điều làm gã ngạc nhiên không


ít, đó là trong một nghĩa hẹp, không biết từ đời
thưở nhà nào, người bình dân Việt Nam vốn đã
dùng chữ đạo để ám chỉ Công giáo. Vì thế,
người ta thường nói :
Bên lương bên giáo. Bên lương là người thờ
cúng ông bà, còn bên giáo là người theo Công
giáo. Người có đạo chính là người theo Công
giáo. Cố đạo là linh mục. Làm phép đạo là cử
hành theo nghi thức Công giáo. Đạo dòng là
theo đạo Công giáo từ đời ông bà.
Sau khi đã bàn về chuyện đạo, bây giờ gã xin
bàn đến chuyện đức.
Ngày nay, tại Việt Nam mọi đồng tiền lớn nhỏ
người ta đều in hình bác Hồ. Vì thế, bàn dân
thiên hạ thường bảo :
- Có bác là có tất cả. Với bác thì chỗ nào cháu
chui cũng lọt.
MỤC LỤC

Câu nói này có nghĩa là :


- Có tiền là có mọi sự, từ chức tước uy quyền
cho đến những tiện nghi vật chất như nhà lầu xe
hơi. Có tiền thì việc khó mấy cũng xong.
Nhưng trước năm 1975, gã còn nhớ mang máng
đồng tiền 500 hay 1000 chi đó được in hình đức
thánh Trần Hưng Đạo, Vì thế, bàn dân thiên hạ
cũng hay nói :
- Vấn đề đầu tiên là phải có đức.
Câu nói này được diễn giải như sau :
- Vấn đề đầu tiên, có nghĩa là vấn đề tiền đâu ?
Phải có đức, hiểu ngầm đức thánh Trần, có
nghĩa là phải có tiền.
Tuy nhiên, đây không phải cái nghĩa gã muốn
bàn tới. Gã cũng không đề cập đến đức như là
cái quả về sau của những công việc từ thiện đã
làm, như tục ngữ ca dao đã khuyên nhủ :
- Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
MỤC LỤC

- Người trồng cây hạnh người chơi,


Ta tu lấy đức để đời cho con.
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho nhiều người
vay mượn. Một hôm sau Phùng Huyên sang đất
Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi :
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ?
Mạnh Thường Quân nói :
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì
mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại
bảo rằng :
- Các ngươi công nợ bao nhiêu. Thường Quân
đều cho cả.
Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng
Huyên thưa với Mạnh Thường Quân :
- Nhà Tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa
đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn
MỤC LỤC

thiếu thứ gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “đức”, tôi
trộm phép vì Tướng công đã mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không
hỏi gì đến tiền nữa. Sau Mạnh Thường Quân bị
bãi quan về ở đất Tiết, dân đất Tiết nhớ đến ơn
xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường
Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên
rằng :
- Trước tiên sinh vì tôi mua “đức”, đức ấy hôm
nay tôi mới trông thấy.
Gã cũng không muốn nói tới đức như danh
xưng dành cho các bậc đáng tôn kính, như khi
chúng ta nói :
- Đức Chúa, Đức Mẹ, Đức Bà, Đức Trinh Nữ,
Đức Thánh Cha, Đức Giám mục, Đức Ông…
Theo gã, đức là toàn bộ cách ăn ở hiền lành,
hợp với đạo lý, hay nói cách khác, đức là tất cả
MỤC LỤC

những điều tốt đẹp mìnnh đạt được nhờ sự tu


dưỡng tính tình.
Hiểu như vậy, thì giữa đạo và đức có một mối
liên hệ chặt chẽ và gắn bó cùng nhau : cái đạo
sẽ giúp thực hiện cái đức, còn cái đức sẽ làm
sáng cái đạo.
Trước hết, cái đạo sẽ giúp thực hiện cái đức.
Thực vậy, chúng ta thường nói :
- Niềm tin thắp sáng cuộc đời.
Trong những hoàn cảnh đen tối, hay trong
những lúc gặp phải gian nan thử thách, nhiều
khi chúng ta chán nản, muốn buông xuôi, mặc
cho “con tạo xoay vần đến đâu”, thì niềm tin tôn
giáo sẽ thổi vào tâm hồn tuyệt vọng của chúng
ta một nguồn sinh lực mới, khiến chúng ta có đủ
can đảm vượt qua mọi khó khăn chồng chất.
Hơn thế nữa, tôn giáo nào cũng dạy chúng ta ăn
ngay ở lành, khuyên nhủ chúng ta làm lành
MỤC LỤC

tránh dữ. Tất cả những điều ấy có ý nghĩa gì,


nếu không phải là thôi thúc chúng ta tập luyện
các nhân đức.
Đồng thời tôn giáo còn cung cấp cho chúng ta
những phương tiện để thực hiện mục đích tốt
đẹp ấy, chẳng hạn như giảng dạy, khích lệ, nhắc
bảo…Ấy là gã chưa nói tới những phương tiện
siêu nhiên, những nâng đỡ của ơn thánh, khiến
chúng ta dễ dàng cất bước trên con đường trọn
lành.
Vì thế, đã có đạo thì cũng phải có đức, hay ít
nữa đã có đạo thì cũng phải cố gắng tập luyện
cho mình những nhân đức để trở thành một
người tốt lành, trước khi trở thành người con cái
Chúa, như niềm tin hằng mong mỏi.
Đồng thời trong khi tập luyện các nhân đức,
chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho
MỤC LỤC

niềm tin. Và như vậy, cái đức sẽ làm sáng cho


cái đạo.
Trên một chuyến xe đò, gã đang thiu thiu ngủ,
thì bỗng nghe thấy mấy bà ngồi phía sau tranh
luận một cách sôi nổi.
Bà thì nói :
- Thật chán chết chồng với con, hở một tí là bồ
nhí với bia ôm.
Bà thì bảo :
- Thật tức đến hộc cả máu, mà đành phải cắn
răng chịu vậy, bởi vì nói ra thì tan hoang cửa
nhà.
Bà thì phê bình :
- Mà cái con gà móng đỏ ấy có hơn gì mình
đâu ?
Cuối cùng một bà lên tiếng :
- Chỉ có mấy bà bên đạo là sướng. Đạo của họ
chỉ cho phép một vợ một chồng và phải trung
MỤC LỤC

thành với nhau cho đến chết, nên mấy ông bên
đạo hết dám tơ tưởng, léng phéng gì ráo trọi. Tôi
ấy à, hễ có con gái là tôi cứ nhè mấy anh bên
đạo mà gả phứt đi cho rồi.
Tôi bỗng mỉm cười. Thì ra cái đức chung thủy
của mấy ông chồng đã làm cho đạo Công giáo
thêm phần sáng giá.
Tư tưởng thì trừu tượng khó mà kiểm chứng.
Lời nói thì lắm lúc trở thành bôi bác giả hình,
theo kiểu :
- Khẩu Phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Chỉ những hành động cụ thể mới có sức hấp
dẫn, làm sáng tỏ cho niềm tin. Chẳng thế mà,
đức thánh “Pha Pha” đã có lần phát biểu :
- Thế giới ngày nay rất cần đến những chứng tá,
hơn là cần đến những thày dạy.
Hay như tục ngữ cũng bảo :
MỤC LỤC

- Lời nói như gió lung lay,


Việc làm như tay lôi kéo.
Hãy biến xác tín thành hành động. Hãy biến
niềm tin thành việc làm. Bởi vì niềm tin không có
việc làm thì chỉ là một niềm tin đã chết. Chính
hành động, chính việc làm, chính cuộc sống
gương mẫu mới là một bài giảng hùng hồn có
sức lôi cuốn người khác. Biết bao nhiêu người
đã trở lại chỉ vì đã thực sự xúc động trước một
hành động bác ái yêu thương nào đó của một
người có đạo.
Như trên gã đã nói :
- Đã có đạo thì cũng cần phải có đức. Và cái
đức sẽ làm sáng cho cái đạo.
Thế nhưng, thực tế lại không đơn giản chút nào,
bởi vì rất nhiều người có đạo mà lại chẳng có
đức. Họ nói về đạo rất hay. Họ thuộc lòng mọi
kinh sách. Nhưng cuộc sống của họ lại ngập
MỤC LỤC

tràn những bê bối. Họ chỉ sống đạo trong nhà


thờ, chứ không hề sống đạo giữa lòng cuộc đời.
Phải, trong nhà thờ, họ là những con chiên
ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời, họ liền hóa
kiếp thành một loài lang sói. Trong nhà thờ, họ
ăn năn sụt sùi đến vãi cả nước mắt, nhưng
bước xuống cuộc đời, họ lại vội vã gian tham,
vội vã thù oán, vội vã ghen tị…
Người ngoài nhìn vào họ đã phải lắc đầu ngao
ngán :
- Có đạo mà cũng như vậy à ?
Và rồi những người ấy đã kết luận một cách
chua chát :
- Tin đạo, nhưng đừng tin kẻ có đạo.
Bổn phận của chúng ta, những người có đạo, là
phải đảo ngược lại câu kết luận ấy, đó là :
MỤC LỤC

- Chúng ta phải sống cho có đức, để rồi qua bản


thân chúng ta, những kẻ có đạo, người ngoài sẽ
tin vào đạo.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CHỤP MŨ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Ngày xửa ngày xưa, hồi còn bé tẹo bé teo, gã
đã được thày giáo trường làng dạy cho biết :
- Thân thể con người ta được chia làm ba phần :
đầu, mình và tay chân.
Tất cả ba phần này đều được bảo vệ kỹ càng để
chống lại với những khắc nghiệt của thời tiết.
Chẳng hạn để bảo vệ cái đầu, người ta đã sáng
chế ra biết bao nhiêu thứ ô dù, mũ mão. Chẳng
hạn để bảo vệ cái mình, người ta đã tung ra thị
trường biết bao nhiêu thứ áo quần. Chẳng hạn
để bảo vệ tay chân, người ta đã bày bán biết
bao nhiêu thứ giày dép, găng vớ…
Thế nhưng, người là một con vật có trí khôn, là
một cây sậy biết suy tư. Chính nhờ những suy
tư của trí khôn mà con người không ngừng cải
tiến và phát triển trên mọi lãnh vực, chẳng hạn
MỤC LỤC

từ chỗ ăn cho no đến chỗ ăn cho ngon, từ chỗ


mặc cho ấm đến chỗ mặc cho đẹp…Chính vì lẽ
ấy mà các thứ mẫu mã thời trang thi nhau chào
đời như nấm mọc ào ào sau cơn mưa.
Hơn thế nữa, trên mỗi phần của thân thể lại có
những bộ phận khác nhau và mỗi bộ phận cũng
đều có nhu cầu cần được bảo vệ và làm đẹp.
Chẳng hạn trên cái đầu thì có tóc, tai, mắt, mũi,
môi…
Về cái tóc, chúng ta thấy các thứ kiểu cọ từ đầu
trọc, đầu húi cua ba phân đều đến đầu bù xù và
các thứ đầu quái đản khác. Nhất là đối với quí
bà quí cô, thì các kiểu tóc, các màu tóc lại còn
thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không
lường nổi.
Về cái tai, chúng tha thấy lủng lẳng các thứ vòng
to vòng nhỏ, hình nọ hình kia, thậm chí đến cả
cây thập giá cũng đã được treo toòng teng lúc
MỤC LỤC

lắc trên những đôi tai mỹ miều và dễ thương.


Đúng thực “cái tai cái tóc là góc người”.
Ngày nay, đối với dân chơi, không phải chỉ đờn
bà con gái mới xỏ, mà đờn ông con giai cũng xỏ.
Không phải chỉ xỏ lỗ tai, mà còn xỏ cả lỗ mũi, lỗ
rốn cũng như xỏ cả cái lưỡi của mình nữa, mà
đôi khi gã được rùng mình chiêm ngưỡng trên
phim ảnh.
Về cái mắt, chúng ta thấy nào là cạo hàng lông
mày có từ lúc cha sinh mẹ đẻ để tô vẽ lên đó
theo đúng ý của mình, “lông mày lá liễu đáng
trăm quan tiền”. Hay xâm lên đó để có hàng
“lông mày vĩnh cửu”, từ nay khỏi mất công mất
giờ điểm trang, vì “thời giờ vốn dĩ là vàng bạc”.
Còn lông mi ấy hả, nào là cấy thêm cho nó dày
đặc. Còn ví như không có tiền đi mỹ viện để cấy
thêm, thì sẽ phải chịu khó đeo lông mi giả, để
MỤC LỤC

mỗi khi đôi mắt chơm chớp, sẽ tăng thêm phần


đơn sơ “con nai vàng ngơ ngác”.
Về cái môi, cái miệng, cái cằm…người ta cũng
rất chịu khó thẻo bớt chỗ này, vá thêm chỗ kia
để được hoàn toàn như ý. Nguyên son tô môi
mà thôi cũng có biết bao nhiêu thứ với biết bao
nhiêu “tông” màu khác nhau, từ tái nhợt như
miếng thịt trâu ươn cho đến đỏ chói như máu gà
trống…
Bàn về những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh ấy, chả biết
đến bao giờ mới hết. Hôm nay gã chỉ xin nói về
những thứ được dùng để bảo vệ cho cái đầu mà
thôi.
Tất cả những thứ được đội để bảo vệ và làm
đẹp cho cái đầu đều được gọi là mũ hay nón.
Tuy nhiên, đâu là điểm phân biệt giữa mũ và
nón, thì gã xin chịu, chưa thể đưa ra lời giải đáp
thỏa đáng. Rất có thể vì thói quen, người ta gọi
MỤC LỤC

cái này là mũ, còn cái kia là nón. Hay do thiết kế


mẫu mã của nó, chẳng hạn nón thì thường to
hơn mũ.
Người Việt Nam chúng ta có một loại nón đặc
biệt, đó là chiếc nón lá. Chiếc nón lá được trang
điểm thêm thành chiếc nón bài thơ cho các cô
gái Huế và chiếc nón quai thao cho các cô gái
Bắc Ninh hát hò quan họ. Chiếc nón lá được các
cô gái Việt Nam đội trên đầu, đi theo với chiếc
áo dài hay áo bà ba thì quả là tuyệt vời. Những
lúc cần tỏ ra e ấp thẹn thùng thì chỉ cần lấy chiếc
nón lá che khuất nửa khuôn mặt là…ăn tiền.
- Trời mưa thì mặc trời mưa,
Tôi không có nón, trời chừa tôi ra.
Tuy nhiên, có một loại nón gã rất thích, đó là
chiếc nón sắt của mấy anh lính. Chiếc nón này
thật đa dụng. Có thể dùng làm ghế để ngồi, có
thể dùng làm thùng để múc nước, có thể dùng
MỤC LỤC

làm nồi để nấu cơm và nhất là có thể dùng làm


cối để giã cua, vừa nhẹ lại vừa gọn. Đứa con nít
bị mẹ bảo giã cua, giã xong lại còn phải mang
cối đi cọ rửa. Sức con nít làm sao có thể bưng
nổi cái cối đá, không khéo nó rớt vào chân thì
thật…rách việc.
Trở lại với chủ đề chiếc mũ. Trải qua dòng thời
gian chiếc mũ cũng được biến đổi tùy theo vật
liệu, tùy theo hình dáng và tùy theo chức vụ…
Chẳng hạn về vật liệu, chúng ta thấy mũ dạ là
loại mũ làm bằng len để đội cho ấm khi mùa
đông trở về, mũ rơm là cái vòng bện bằng rơm
có quấn vải trắng để con trai và cháu nội người
chết đội mà chịu tang, như ca dao đã diễn tả :
- Một mai bóng xế cội tùng,
Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang.
Chẳng hạn về hình dáng, chúng ta thấy mũ nồi
hay mũ bê rê là loại mũ tròn giống như cái nồi
MỤC LỤC

úp lên đầu, mũ trái bí là loại mũ có khía giống


như trái bí, mũ lưỡi trai là loại mũ có vành giống
như con sò, con hến, con trai để che mắt cho
bớt nắng, mũ chào mào là loại mũ giống như
đầu con chim chào mào…
Chẳng hạn về chức vụ, chúng ta thấy mũ cử
nhân hay mũ tiến sĩ là loại mũ hình vuông, có
tua phủ xuống, mà những người thi đỗ thường
đội khi lãnh nhận văn bằng. Trong ngày tốt
nghiệp, những cô cậu hay ông bà cử nhân và
tiến sĩ đều đi thuê áo mão để chụp cho mình
những bức hình làm kỷ niệm lúc ra trường với
bè bạn và những người thân yêu. Đây quả thực
là một dịp tốt để các bác phó nhòm…hốt bạc.
Riêng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta thấy bên
Phật giáo có mũ ni là loại mũ dành cho các vị sư
sãi :
- Nào mũ ni, nào áo thâm,
MỤC LỤC

Đi đâu chẳng đội, để ong châm.


Bên Công giáo có mũ gàu hay mũ cà cuống là
loại mũ dành cho các giám mục khi cử hành
thánh lễ “đại trào”. Ngoài ra, ngày xưa còn có
thêm mũ ba khía là loại mũ vuông, phía trên có
ba cái khía, chẳng biết có phải là để kính Đức
Chúa Trời Ba Ngôi hay không ? Mũ này vốn
được các linh mục đội khi cử hành thánh lễ.
Trong những năm gần đây tại Việt Nam, nhà
nước đã qui định đòi buộc tất cả những người
cưỡi xe máy, phóng phom phom trên đường,
phải đội mũ an toàn. Đây cũng là một dịp hốt
bạc cho những tay chế tạo mũ giả cũng như cho
các tay lái buôn. Có những lúc chiếc mũ an toàn
lên cơn sốt vì giá cả tăng vùn vụt. Nhưng rồi ba
bảy hai mươi mốt ngày, qui định trên lại chìm
vào quên lãng, như hòn đá chìm xuống đáy hồ.
Ai đội thì cứ đội, ai không đội thì vẫn không đội.
MỤC LỤC

Công an cảnh sát cũng nhắm mắt làm ngơ, mặc


dù dọc theo bên đường, không thiếu những tấm
bảng ghi :
- Đoạn đường buộc phải đội mũ an toàn.
Vô phúc cho những ai không đội mũ an toàn vào
những ngày nhà nước phát động chiến dịch, hay
vào những ngày anh công an cảnh sát buồn tình
và ngứa tay muốn biên phạt mà chớ.
Trong ngôn ngữ hằng ngày, người ta cũng
thường dùng chữ mão và chữ miện để chỉ về
mũ.
Chẳng hạn mão bình thiên là loại mũ phía trên
thẳng được nhà vua đội khi cúng tế, mão cánh
chuồn là loại mũ có hai tai dài như cánh con
chuồn chuồn được các quan văn đội, mão tì lư
là loại mũ dành cho các vị hòa thượng.
Còn miện được dùng để chỉ chung các loại mũ
được đội trong những lúc hành lễ, như gia miện,
MỤC LỤC

quan miện, triều miện…Riêng hai chữ vương


miện, gã không biết có phải là loại mũ của nhà
vua hay không, nhưng ngày nay nó là một món
đồ trang sức được cài lên đầu cô hoa hậu trong
những cuộc thi sắc đẹp.
Thực vậy, để đoạt được cái vương miện, các cô
gái đã phải trải qua nhiều phen sất bất xang
bang, lo đến toát cả mồ hôi hột, bởi vì trong
những cuộc thi sắc đẹp ngày nay trên cả và thế
giới, người ta không phải chỉ chú trọng đến
ngoại hình, mà còn chú trọng cả đến kiến thức
và cách ứng xử nữa. Thành thử, mặc dù có
điểm cao với trang phục áo tắm, hay có những
vòng số một, số hai và số ba thật lý tưởng, thì
cũng chưa ăn chắc cho lắm, bởi vì còn phải trả
lời những câu hỏi ấm ớ hội tề của ban giam
khảo, để trắc nghiệm về kiến thức và cách ứng
xử.
MỤC LỤC

Cũng trong phần thi trắc nghiệm này mà nhiều


chuyện vừa buồn lại vừa cười khiến vãi cả nước
mắt đã xảy ra trong các cuộc thi sắc đẹp tại Việt
Nam, bởi vì có những câu trả lời thật ngây ngô
ngốc nghếc không thể chấp nhận được của
những người vốn đã đẹp.
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Trưng Trắc, Trưng Nhị là ai ?
Thí sinh đã trả lời :
- Đó là hai tài tử ăn khách của Hồng Kông !!!
Chẳng hạn ban giám khảo hỏi :
- Nếu đạt danh hiệu hoa hậu, em sẽ làm gì ?
Đây là một câu hỏi mà hầu như các “lò luyện thi
hoa hậu” nào cũng đều cài đặt sẵn cho những
con gà của mình. Vì thế, khi được hỏi, thì hầu
như các thí sinh đều có một câu trả lời giống hệt
nhau :
MỤC LỤC

- Em sẽ dành một số tiền để giúp đỡ những nạn


nhân chất độc màu da cam. Rồi sau đó, em sẽ
hiến đời mình để phục vụ những con người bất
hạnh…
Và thực tế đã cho thấy nói vậy mà không phải
vậy đâu, hay nói để mà nói, còn làm lại là
chuyện khác. Ta cứ nói vung nói vít để ăn điểm
của ban giám khảo cái đã, rồi mọi sự sau đó
sẽ…hạ hồi phân giải. Bởi vì trong đời thường
không thiếu gì những cô hoa hậu, những cô
người mẫu lợi dụng sắc đẹp và tên tuổi của
mình để làm những việc não lòng như đi buôn
lậu, hay đi làm…gái gọi !!!
Xét về lợi ích, như đã trình bày ở trên, chiếc mũ
được dùng để bảo vệ cho cái đầu, nó giúp
chúng ta che nắng che mưa…Đồng thời còn
được dùng để làm đẹp nữa, vì thế đã có biết
bao nhiêu kiểu cọ và mẫu mã xuất hiện, nhất là
MỤC LỤC

những thứ mũ được dành cho đờn bà con gái.


Có chiếc mũ được hình thành như một một bông
hoa, có chiếc mũ được hình thành như một tổ
quạ, có chiếc mũ được hình thành như một cái
đuôi con công…Thôi thì thiên hình vạn trạng làm
sao kể ra cho xiết !!!
Ngoài ra, chúng ta còn có thể ghi nhận được
những lợi ích khác nữa của chiếc mũ, tùy theo
quan niệm của từng dân tộc.
Chẳng hạn người Việt Nam chúng ta thường
bảo :
- Mũ ni che tai.
Chiếc mũ ni dành cho các vị sư sãi, thường
được đan bằng len, nếu kéo xuống có thể phủ
kín cả đôi tai, để rồi chẳng còn nghe thấy gì nữa.
Cử chỉ này muốn nói lên thái độ “phớt tỉnh ăng
lê”, an phận thủ thừa trước những đổi thay và
MỤC LỤC

thăng trầm của cuộc sống. Ta chui vào cái vỏ ốc


của ta. Ta ngủ yên trong tháp ngà của ta :
- Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện đời
lên xuống anh hỏi làm chi cho mệt.
Chảng hạn đối với người Pháp, trong một cuốn
tự điển thành ngữ, gã đọc được hai câu xin ghi
lại đây để cùng suy nghĩ xem đúng hay sai.
Câu thứ nhất :
- Ngồi trên ngai và đội mũ, người ta sẽ tỏ lộ
được nhiều tác phong của mình.
Theo ngu ý của gã thì câu này ý muốn nói lên
rằng hoàn cảnh bên ngoài cũng giúp chúng ta
thể hiện được phần nào con người của mình.
Câu thứ hai :
- Người ta sẽ đi xa với chiếc mũ cầm trên tay
hơn là với chiếc mũ đội trên đầu.
MỤC LỤC

Cũng theo ngu ý của gã, thì với phép lịch sự,
người ta sẽ chiếm được nhiều cảm tình của
những người chung quanh.
Chả hiểu có đúng như vậy không ?
Sau khi đã xét về lợi ích của chiếc mũ, bây giờ
gã xin nói đến việc người ta đã dùng chiếc mũ
như thế nào ?
Vì chiếc mũ là một đồ dùng để bảo vệ và làm
đẹp cho cái đầu, nên mỗi khi ra đường người ta
vốn thường đội mũ. Đây là một hành động tự ý.
Do đó, người ta cũng có nhiều cách đội mũ.
Có người thích đội mũ thật ngay thật thẳng. Có
người thích đội mũ lệch sang một bên. Và thậm
chí có người thích đội mũ ngược, đằng trước lộn
ra đằng sau. Chẳng hạn như chiếc mũ lưỡi trai,
bình thường cái lưỡi trai ở phía trước để che bớt
cho cặp mắt, nhưng bây giờ người ta lại thích
đội ngược, nghĩa là cho cái lưỡi trai về phía
MỤC LỤC

đằng sau để bảo vệ cái ót, cái gáy của mình. Đội
ngược như vậy đôi khi cũng lợi, nhất là khi cần
phải cầm máy để chụp hình…
Vì chiếc mũ có liên quan tới địa vị và chức tước,
nên người ta rất lấy làm vinh dự khi lãnh nhận
nó cùng với những thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác
nữa. Chẳng hạn khi được bổ nhiệm làm quan,
hẳn đương sự sẽ vô cùng hãnh diện khi lãnh
nhận “áo mão” vua ban. Chẳng hạn khi được tấn
phong làm “vít vồ” tức là làm giám mục, bậc
đáng kính nom cũng oai phong lẫm liệt ra phết
khi tiến lên lãnh nhận…”mũ gậy”.
Tuy nhiên có một hành động xem ra chẳng mấy
ai ưa thích, đó là bị thiên hạ…chụp mũ. Vậy
chụp mũ là gì ?
Theo gã nghĩ, bị chụp mũ là bị bó buộc đội phải
một chiếc mũ trên đầu, từ đó suy ra là bị gán
cho một nhãn hiệu, một tội trạng nào đó trước
MỤC LỤC

mặt bàn dân thiên hạ. Còn theo “Việt Nam Tự


Điển” của Lê Văn Đức, thì chụp mũ là tròng mũ
lên đầu người ta, từ đó suy ra là vu khống, gán
ghép cho người ta một việc làm phi pháp tưởng
tượng, với dụng ý làm hại người ta, khiến người
ta, nếu không thân bại danh liệt, thì cũng mất toi
cái danh dự và uy tín vốn dĩ là những thí quí
hiếm trên đời.
Nếu chịu khó “ngâm kíu” một tí, chúng ta sẽ thấy
thói chụp mũ đã được thịnh hành từ một thời rất
xa xưa.
Chẳng hạn như tổ phụ Giuse của dân Do Thái,
sau khi bị bán sang Ai Cập, đã phải đi ở đợ cho
nhà quan Putiphar. Nhân lúc quan ông đi vắng,
quan bà bèn dụ dỗ tổ phụ ăn ở với mình, nhưng
tổ phụ đã thẳng thừng từ chối. Bực bội và tức
tối, quan bà bèn chụp cho tổ phụ chiếc mũ
cưỡng bức và tổ phụ liền bị tống ngục.
MỤC LỤC

Chẳng hạn như bà Suzana bị hai lão già giở trò


hãm hiếp, nhưng bà một mực cự tuyệt. Thấy ý
đồ đen tối của mình không thành, hai lão già bèn
chụp cho bà chiếc mũ ngoại tình để rồi kết án
ném đá bà cho chết. Nhưng may thay, bà đã
được cậu bé Daniel cứu thoát.
Và nhất là Đức Kitô, có lẽ Ngài là người đã bị
chụp mũ nhiều nhất. Nào là chiếc mũ lộng ngôn
phạm thượng dám xưng mình bằng Thiên Chúa.
Nào là chiếc mũ phá hoại lề thói tổ tiên vì không
tuân giữ ngày nghỉ lễ. Nào là chiếc mũ phản
loạn vì tự xưng là vua và xúi dân đừng nộp
thuế…Cuối cùng Ngài đã bị đóng đinh vào thập
giá như một tử tội.
Chụp mũ cho cá nhân đã đành, nhiều khi người
ta còn chụp mũ cho cả một tập thể, cả một tổ
chức. Và Giáo hội Công giáo đã trở thành nạn
nhân số một trong lãnh vực này.
MỤC LỤC

Thực vậy, suốt ba thế kỷ đầu, Giáo hội đã bị


chụp cho chiếc mũ là nguyên nhân gây ra những
tai ương hoạn nạn để rồi các vua chúa giáng
xuống những chiếu chỉ bắt bớ và cấm cách. Bạo
vương Nêrôn, chẳng hiểu vì muốn chỉnh trang
lại thành phố Rôma hay vì muốn lấy hứng làm
thơ, bèn ngầm sai người phóng hỏa đốt cháy
kinh thành, rồi chụp cho người công giáo chiếc
mũ là thủ phạm rồi ra tay tàn sát đẫm máu.
Tại Việt Nam cũng thế, các ông vua nhà Nguyễn
như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đã
chụp cho người công giáo chiếc mũ theo tây,
chiếc mũ phản quốc, chiếc mũ phá hoại truyền
thống…rồi ra lệnh truy nã.
Trong phạm vi cá nhân, hằng ngày chúng ta
cũng đã được nghe biết hay chứng kiến bao
nhiêu trường hợp đau buồn đã xảy ra. Cách đây
không lâu, một nữ sinh trẻ đẹp đã nhảy xuống
MỤC LỤC

sông tự tử, làm xôn xao dư luận trong nước. Lý


do thật đơn giản. Số là có một chàng thanh niên
hàng xóm thầm yêu trộm nhớ cô ta, nhưng đã bị
cô ta lờ tít và chối từ. Giận cá chém thớt. Không
được ăn thì đạp đổ. Anh chàng này đã tung tin,
phao đồn rằng cô ta là đã từng ăn cơm trước
kẻng, đã từng quan hệ trên mức tình cảm cho
phép với anh ta. Và thế là cô nữ sinh trẻ đẹp liền
bị mọi người nhìn bằng cặp mắt khinh bỉ. Chịu
không nổi sự khinh bỉ ấy, cô ta đã mượn dòng
nước để minh chứng cho cõi lòng trong trắng
của mình.
Xem ra nạn chụp mũ ngày càng gia tăng với cấp
số nhân. Gã còn nhớ sau ngày 30 tháng 4 năm
1975, hình như nhà nước Việt Nam rất khoái
dùng biện pháp chụp mũ để thực hiện những
mưu toan của mình.
MỤC LỤC

Thực vậy, hầu như tất cả các văn nghệ sĩ của


chế độ cũ đều bị chụp cho một trong hai chiếc
mũ, nếu không đồi trụy thì cũng phản động, để
rồi cấm tiệt việc lưu hành các tác phẩm cũng
như cấm tiệt mọi hoạt động của giới này.
Muốn tịch thu một cơ sở nào đó, thì chỉ cần nhờ
kẻ lạ dấu vào đó một vài khẩu súng, rồi ra lệnh
lục soát và thế là cơ sở ấy lập tức bị đi đoong.
Muốt bắt một người nào đó, thì chỉ cần ném vào
nhà người ấy một vài tờ truyền đơn rồi chụp cho
chiếc mũ phản động, thế là người ấy bèn tiêu
tùng, đi đời nhà ma.
Có một hồi, người ta bảo Giáo Hoàng Học Viện
tại Đalat do các cha dòng Tên điều khiển là cơ
sở đào tạo nhân viên CIA, còn cất giấu nhiều vũ
khí, làm cho những người sống trong đó cứ
phập phồng lo âu.
MỤC LỤC

Bản thân gã cũng vậy. Vì cắm dùi tại một vùng


sâu vùng xa, thư từ thường bị thất lạc, nên gã
đã phải mượn địa chỉ của một người bạn trên
tỉnh. Chẳng hiểu sao mấy ông công an biết
được, bèn mời gã tới làm việc. Họ nói :
- Chúng tôi biết anh là xịa được gài lại để quấy
phá.
- Thưa cán bộ, tôi chẳng hiểu xịa là gì thì sao
làm xịa được.
- Nếu anh không phải là xịa thì tại sao anh lại có
một hòm thư bí mật trên tỉnh để liên hệ với
những người nước ngoài.
- Thưa cán bộ, nếu tôi là xịa, thì ngu gì tôi liên
hệ với người nước ngoài bằng thư từ qua bưu
điện, vì chắc chắn thế nào cũng bị kiểm soát.
Như vậy chẳng khác chi thưa ông tôi ở bụi này.
Hơn nữa, bọn xịa chẳng nhẽ lại không trang bị
cho nhân viên của mình những phương tiện hiện
MỤC LỤC

đại để liên hệ một cách mau chóng, chứ ngồi đó


mà chờ bưu điện chuyển theo vận tốc rùa bò thì
tới bao giờ mới nhận được và còn đâu tính cách
nóng sốt của nó nữa.
Thế là tịt ngòi.
Và hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin qua
việc nối mạng “internet”, người ta lại càng chịu
khó chụp mũ cho nhau một cách ồn ào. Thực
vậy, nếu nói theo ngôn ngữ của Phúc Âm, thì
bây giờ không còn là thời buổi người ta lấm lét
xì xầm với nhau dưới gậm giường nữa, mà là
thời buổi người ta công bố trên mái nhà. Không
những chỉ công bố trên mái nhà mà còn người
ta loan truyền cho cả và thiên hạ cùng biết.
Chỉ cần ngồi nhà, bấm“con-néc” một phát, tức
khắc người ta có thể xem mọi hình ảnh và đọc
mọi thứ, từ tin tức đến những chuyện giải
buồn…Nhiều khi lượng thông tin ào ạt đổ xuống,
MỤC LỤC

đến tối tăm mắt mũi, không kịp thở để mà coi


nữa.
Đôi lúc, gã cũng lang thang trên mạng, hay nhận
được những cái “meo”, trong đó người ta chửi
nhau búa xua và chụp cho nhau đủ các thứ mũ.
Qua những tài liệu ê hề ấy, gã ghi nhận một vài
điều như sau :
Điều thứ nhất, những kẻ thích chửi bới thường
thường tự phong cho mình là thông minh uyên
bác vào bậc nhất trong thiên hạ. Thế nhưng, sự
thông minh uyên bác của họ cũng chỉ là sự
thông minh uyên bác của một con ếch ngồi đáy
giếng coi trời bằng vung mà thôi.
Điều thứ hai, một khi tự cảm thấy mình thông
minh uyên bác, họ liền cho rằng mọi ý nghĩ của
mình đều là “sáng kiến” còn những ý nghĩ của
người khác chỉ là “tối kiến”. Mình luôn luôn đúng,
còn người khác luôn luôn sai. Vì thế, mặc sức
MỤC LỤC

mà chửi bới vung vít, như vung gươm giữa cảnh


nhà hoang vườn trống.
Điều thứ ba, đối với những kẻ cùng một lập
trường, họ không ngần ngại bốc thơm và nâng
lên tới tận trời xanh, còn đối với những người
không cùng một đường lối, họ sẵn sàng bốc thối
và dìm xuống tận đất đen, bằng cách chụp mũ,
nào là thân cộng, nào là phản bội quê hương,
vân vân và vân vân…
Điều thứ bốn, người ta thường dùng đao to búa
lớn mà phang nhau. Ngày xưa, gã thường rất dị
ứng khi nghe đài Hà Nội gọi thằng Ngụy, thằng
Mỹ, thằng Thiệu, thằng Nixon, thằng nọ và thằng
kia…Bây giờ, họ cũng dùng thứ ngôn ngữ hàng
cá hàng thịt, lái trâu lái bò mà chửi nhau như
vậy. Theo gã nghĩ, dù chửi nhau thì cũng phải
chửi cho có…văn hóa, bởi vì người Việt Nam
MỤC LỤC

mình vốn thường tự hào là có những bốn ngàn


văn hiến kia mờ.
Sau cùng điều thứ năm, một khi đã không ưa
nhau, họ sẵn sàng vạch áo cho người xem lưng,
bới móc nhau từ chuyện chính chị chính em đến
chuyện đời tư, chẳng kiêng nể gì sốt. Mà chuyện
đời tư với những mảnh tình lem nhem mới câu
khách và hấp dẫn người đọc. Nếu không có,
người ta cũng dư sức tưởng tượng mà phệu
ra…cho thêm phần giật gân và lâm ly bi đát.
Thậm chí, gã có anh bạn tính làm sui với người
kia, nhưng chuyện không thành. Thế là anh bạn
ấy bèn nhảy vào trang “web” mà hạch sách,
mắng mỏ cho người kia một trận te tua.
Cái gì, chứ bắn lên mạng, tung lên “net”…bây
giờ quả là việc dễ dàng như trở bàn tay, mà hậu
quả lại to lớn khôn lường vì bàn dân thiên hạ
đều biết đến.
MỤC LỤC

Viết tới đây bỗng gã thở dài thườn thượt. Nếu là


kẻ bi quan, gã liền sắm cho mình một chiếc mũ
ni che khuất hai lỗ tai và hai con mắt, để trở
thành người không không thấy và không không
nghe, như điệp viên không không bảy vậy.
Còn nếu là người yêu đời, gã sẽ tặc lưỡi mà lẩm
bẩm :
- Kệ bà nó. Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta,
còn ai chửi ta mà chửi phải ấy là thày ta. Chiếc
mũ đâu có làm nên ông cử hay ông tú.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

TÌNH TẶC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Ai cũng phải công nhận rằng : xã hội ảnh hưởng
đến con người và ngược lại con người cũng ảnh
hưởng đến xã hội. Chẳng hạn sống trong một xã
hội khép kín, nghèo túng và nhất là sống trong
một xã hội được cai trị bằng công an và sức
mạnh, con người vì nhu cầu sống còn, cần phải
luồn lách và lươn lẹo. Miết rồi sự luồn lách và
lươn lẹo được coi như chuẩn mực để đánh giá.
Càng giỏi lươn lẹo và luồn lách thì càng được
coi là khôn ngoan. Còn dốt luơn lẹo và luồn lách
thì bị coi là dại khờ. Người ta phe lờ những giá
trị đạo đức, người ta sẵn sàng chà đạp lên
những nguyên tắc công bằng miễn sao vơ vét
về cho đầy túi tham mà không bị nhà nước sờ
vào gáy.
MỤC LỤC

Nhìn vào xã hội Việt Nam hôm nay, nhiều người


đã phải than vắn thở dài rằng luân thường đạo lý
đang xuống dốc không phanh. Xó góc nào cũng
chỉ thấy gian tham và lường gạt, tham nhũng và
hối lộ.
Mấy bữa nay thiên hạ đang bàn tán xôn xao về
việc một tiểu bang bên Mỹ đã trục xuất hai tấm
bia ghi khắc mười điều răn Đức Chúa Trời ra
khỏi tòa nhà tối cao pháp viện, để đi tới chỗ
khác mà ngồi chơi xơi nước. Cũng vậy nhiều
người Việt Nam hôm nay cũng chẳng còn lưu
giữ được một ý niệm nào về giới răn thứ bảy :
chớ lấy của người, bởi vì người ta chủ trương
rằng xơi được bao nhiêu hay bấy nhiêu, xơi
càng nhiều thì lại càng tốt, nhất là xơi của chùa,
tức là của nhà nước.
Để tôn trọng đức công bằng, một trong những
điều giới răn thứ bảy đã cấm chỉ, đó là chớ lấy
MỤC LỤC

của người. Về việc lấy của người, thì gã xin tóm


gọn lại thành mấy thứ “ăn” mang tính cách bất
hợp pháp và có nhiều cơ may được nằm tù,
chẳng hạn như : ăn trộm, ăn cắp, ăn cướp, ăn
gian, ăn lời, ăn hối lộ…Gã thử phân tích những
thứ ăn này xem chúng ra làm sao.
Trước hết ăn trộm và ăn cắp là lấy của người ta
một cách kín đáo bằng tài khéo của mình. Tuy
nhiên ăn trộm thường nhấn mạnh đến khía cạnh
chủ đi vắng hay là ngủ mê mà không biết, chẳng
hạn như ban đêm lẻn vào nhà người ta chôm
chỉa đồ đạc và tiền bạc, con gà và con heo…
Còn ăn cắp thì thường được thực hiện ngay
trước mắt chủ mà chủ cũng không hay, chẳng
hạn như lợi dụng lúc chen lấn trên xe mà lấy cắp
chiếc ví hay rạch túi xách mà lấy tiền bạc và
quần áo của người ta.
MỤC LỤC

Tiếp đến ăn cướp là dùng vũ lực, dùng sức


mạnh để uy hiếp hầu cưỡng đoạt và chiếm lấy
của người ta một cách công khai. Chẳng hạn
như ban tối trên một đoạn đường vắng, bọn đạo
tặc dùng dao chặn đường và lấy mất của gã
chiếc đồng hồ, hay ban đêm chúng xông vào
nhà lấy đi tiền bạc và những đồ dùng quí giá.
Sau cùng, ăn gian là dùng mưu mô tính toán để
lường gạt hầu lấy đi của người ta. Chẳng hạn
như buôn bán mà cân đo không sòng phẳng.
Cân thì cân thiếu, đo thì thước hụt để ăn bớt, ăn
chặn của khách hàng, hay đánh tráo đồ xấu, đồ
giả, đồ dổm để bán cho mắc, hay như đày tớ bớt
xén tiền chợ, con cái dối gạt cha mẹ để lấy tiền
xài chơi…
Bàn về những hành động sai lỗi đức công bằng,
gã thấy người Tàu cũng đưa ra một quan niệm
MỤC LỤC

tương tự như thế, họ có hai chữ để diễn tả hành


động này đó là đạo tặc, trộm cướp.
Đạo là ăn trộm ăn cắp, lấy của người ta một
cách lén lút, chẳng hạn như đạo văn là “thuổng”
câu văn của người khác làm của mình, hay “bê
nguyên xi” câu văn của họ vào tác phẩm của
mình mà không ghi rõ tác giả và xuất xứ của nó,
theo kiểu đánh lận con đen.
Viết tới đây, gã cảm thấy hơi bực bội và tức tối,
bởi vì mỗi năm vào dịp khai giảng năm học mới,
mấy ông cán bộ ngành giáo dục thường cả tiếng
lại dài hơi, oang oang trên loa phóng thanh lời
bác Hồ dạy :
- Kế trăm năm không gì bằng trồng người.
Thế nhưng, câu nói trên đâu có phải chính hiệu
con nai vàng là của bác Hồ, mà bác Hồ cũng chỉ
mượn tạm ý tưởng của người xưa, bởi vì chính
người xưa đã từng nói :
MỤC LỤC

- Nhất niên chi kế, thụ cốc.


Thập niên chi kế, thụ mộc.
Bách niên chi kết, thụ nhân.
Có nghĩa là :
- Kế một năm không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm không gì bằng trồng cây.
Kế trăm năm không gì bằng trồng người.
Chẳng thế mà ngày xưa Viện Đại Học Công
Giáo tại Đalat đã lấy cho mình cái nhãn hiệu
trình tòa hẳn hoi là : Thụ nhân, trồng người.
Còn tặc là ăn cướp, tức là dùng sức mạnh, dùng
bạo lực để lấy của người ta. Hôm nay, gã xin
bàn rộng và tán dài thêm một tí về cái chữ “tặc”
này.

Thứ nhất là lâm tặc.


MỤC LỤC

Lâm tặc có nghĩa là bọn cướp rừng. Đây không


phải là hạng “lục lâm thảo khấu”, tức là bọn
cướp ẩn náu ở trong rừng, chờ cơ hội xuất phát
để cướp bóc những người qua lại hay những
thôn làng mà chúng nhắm tới.
Hoạt động chính yếu của bọn lâm tặc là đốn cây,
phá rừng để lấy gỗ, bất chấp phép tắc của nhà
nước. Họ thường tổ chức thành băng đảng,
được trang bị bằng xe cộ để chở gỗ, cũng như
bằng vũ khí để chống lại những nhân viên kiểm
lâm, những người có trách nhiệm kiểm soát
rừng. Họ tung tiền mua đứt những nhân viên
này và sẵn sàng liều mạng khi phải vượt qua
trạm kiểm soát, miễn sao đưa gỗ về thành phố
an toàn để bán cho những tiệm mộc hay những
nhà máy cưa.
Hoạt động của bọn lâm tặc đã để lại những hậu
quả trầm trọng và dấu ấn tàn phá của họ đã in
MỤC LỤC

đậm trên khắp các vùng đồi núi. Thực vậy, rất
nhiều lần có dịp đi ngang dọc những nẻo đường
đất nước, tới đâu gã cũng thấy những khoảng
đồi trọc với cây cối xác xơ, thậm chí đến cả
những gốc cây cũng được chiếu cố tận tình, bị
đào bới tới tận rễ con và rễ cái.
Bọn lâm tặc càng lộng hành hơn nữa, vì những
sếp lớn, một khi đã xơi tiền hối lộ, thì cũng phải
ra sức bao che. Thành thử những cố gắng trồng
rừng trong những năm qua đã không thể theo
kịp với mức độ phá rừng của bọn lâm tặc.
Và qui luật của muôn đời đã được áp dụng : nếu
con người tàn phá thiên nhiên, thì thiên nhiên
cũng sẽ quay lại mà tàn phá con người. Kết quả
là môi trường sinh thái bị hủy diệt, khí hậu thay
đổi thất thường và nhất là khi mưa bão xảy đến,
không còn cây cối cản bớt dòng nước đổ xuống,
đã liên tục tạo thành những cơn lũ khủng khiếp
MỤC LỤC

cuốn trôi nhà cửa, tài sản của nhiều người, ngay
cả tính mạng cũng không được bảo đảm an
toàn.
Ăn theo với nạn phá rừng là nạn săn bắn trái
phép. Mặc dù đã có lệnh cấm, nhưng thiên hạ
vẫn vô rừng đặt bẫy và vô tư vây bắt những con
thú quí hiếm. Chẳng thế mà thành phố nào cũng
không thiếu những quầy bán thịt rừng, những
quán ăn và những nhà hàng đặc sản, từ hươu
nai đến trăn rắn…không thứ gì mà không có,
miễn là trong túi rủng rỉnh những đồng tiền.
Thiên hạ đã lên tiếng báo động rằng có những
loài thú sẽ bị tuyệt chủng, nếu không được bảo
vệ và duy trì…Thế nhưng, báo động thì cứ báo
động, bởi vì đó là bổn phận của giới hữu trách.
Còn ta, có tiền thì ta vẫn cứ chịu khó lùng sục,
ngon miệng thì ta vẫn cứ quẳng tiền ra mà xơi.
Chết chóc mặc ai, tiền thày bỏ túi. Suy cho cùng
MỤC LỤC

thì mọi sự đều phục vụ cho cái bao tử của con


người mà chớ.

Thứ hai là hải tặc.

Hải tặc còn được gọi là hải khấu, hải phỉ, có


nghĩa là bọn cướp biển. Chúng cũng kết thành
băng đảng, sống trên đất liền hay ẩn náu tại
những hoang đảo, được trang bị bằng tàu
thuyền và vũ khí để cướp bóc những tàu thuyền
đi lại ngoài biển, hay những xóm nhà gần bờ
biển.
Là người Việt Nam, hẳn ai cũng đã từng hơn
một lần được nghe nói về những hoạt động của
bọn hải tặc, nhất là vào thời điểm nhiều người
bỏ nước ra đi tìm tự do, đã tạo thành một phong
trào khiến cho cả thế giới phải chú ý đến và trợ
giúp, đó là phong trào vượt biên.
MỤC LỤC

Làm sao mô tả cho hết những hiểm nguy và cay


đắng mà những người Việt Nam đã phải chịu
đựng trên những con thuyền nhỏ bé, tròng trành
như chiếc vỏ trứng. Giông bão đã nhận chìm và
chôn vùi biết bao nhiêu người dưới lòng đại
dương. Nhưng tàn ác hơn cả có lẽ phải kể đến
nạn hải tặc.
Những bọn hải tặc này gồm nhiều quốc tịch
khác nhau, có thể là người Thái, người Miên,
người Mã, hay người Indô…Chúng tấn công ghe
thuyền của đồng bào tị nạn, sẵn sàng giết chết
những ai chống đối để lấy tiền của cũng như
vàng bạc. Có những bọn đã nổ súng vào cánh
đàn ông con trai, còn phe đàn bà con gái thì bị
chúng hãm hiếp và mang đi bán cho những nhà
chứa. Thậm chí có những bọn sau khi cướp của
và thực hiện những hành động dã man nhất, đã
bắn chìm ghe thuyền để không một ai được
MỤC LỤC

sống sót. Thế giới cũng đã bức xúc trước nạn


hải tặc, nên đã tổ chức những toán tuần tiễu trên
biển bằng tàu thủy cũng như trên không bằng
tàu bay để phát hiện và ngăn chặn phần nào
những hành động của bọn hải tặc.
Mới đây một người mẹ đã tâm sự với gã : con
gái bà vượt biên đã mười mấy năm rồi mà
chẳng có tin tức gì cả. Chuyến đi định mệnh này
chẳng may gặp phải hải tặc. Phe đàn ông thì bị
giết. Còn phe đàn bà thì bị chúng bắt đi. Chỉ duy
nhất một người còn sống sót, đó là người đàn
bà đang mang bầu. Bọn cướp chắc sợ xui nên
đã để bà lại trên con thuyền vượt biên. Sau mấy
ngày đơn độc một mình vật lộn với sóng biển
trong con thuyền rách nát, cuối cùng bà đã được
một tàu Mỹ cứu thoát.
Chính người đàn bà này đã cho người mẹ hay
con bà đã bị bọn hải tặc bắt đi. Người mẹ đã cầu
MỤC LỤC

nguyện cũng như đã…coi bói. Và cho đến bây


giờ, người mẹ đau khổ ấy vẫn tin tưởng chắc
chắn rằng con gái mình vẫn còn sống. Rất có
thể bọn hải tặc đã ném cô và những người cùng
cảnh ngộ vào một hoang đảo nào đó, nên không
liên lạc được với gia đình. Và người mẹ vẫn cứ
tiếp tục hy vọng.

Thứ ba là không tặc.

Không tặc có nghĩa là bọn cướp trên không


trung, hay nói một cách cụ thể hơn là bọn cướp
máy bay. Điểm đặc biệt của bọn không tặc là
gọn nhẹ, bởi vì có gọn nhẹ thì mới qua mắt
được công an hải quan và các nhân viên phi
trường. Chúng thường gồm một, hai, hay ba
người là cùng. Vũ khí trang bị chỉ là một khẩu
súng hay một trái lựu đạn.
MỤC LỤC

Hành động của chúng thường nhằm tới hai mục


đích. Trước hết là mục đích tài chánh bạc tiền :
chúng uy hiếp hành khách, lấy đi tiền bạc, nữ
trang và những đồ quí giá của họ. Nhất là chúng
đòi hãng máy bay hay chính phủ liên hệ phải trả
cho chúng một số tiền chuộc khá lớn, nếu muốn
cho tính mạng của những hành khách mà chúng
bắt giữ làm con tin được an toàn.
Tiếp đến là mục đích chính chị chính em : chúng
cầm giữ con tin và yêu cầu chính phủ liên hệ
phải thả một số người cùng đảng phái, cùng phe
cánh với chúng đang bị bắt làm tù binh, bằng
không thì họ sẽ giết chết các con tin, tức là
những hành khách trên máy bay.
Qua truyền hình, gã thấy có những vụ không tặc
trong đó con tin được giải thoát một cách nhanh
gọn bởi những toán biệt khích, thế nhưng cũng
có những vụ không tặc đã kết thúc một cách
MỤC LỤC

thương đau : con tin thì bị giết, còn máy bay thì
bị nổ tung. Thành thử những người yếu bóng vía
cũng ngại đi máy bay phần nào!!!
Như trên gã đã xác quyết : tặc có nghĩa là cướp.
Mà đã cướp thì thường phải dùng đến sức
mạnh, đến bạo lực. Đó là luật chung, nhưng luật
chung nào mà chẳng có luật trừ. Vì thế, gã xin
trình bày hai loại tặc mà trong đó người ta ít
dùng tới sức mạnh và bạo lực.

Trước hết, đó là tin tặc.

Từ khi máy vi tính được phổ biến khắp nơi, thì


lập tức qua báo chí cũng như qua truyền thanh
và truyền hình, gã thấy xuất hiện những bọn tin
tặc. Vì không chuyên môn, nên gã khó có thể
đưa ra một định nghĩa thế nào là tin tặc. Tuy
nhiên, sau khi đã tham khảo ý kiến của một vài
MỤC LỤC

vị lão luyện trong nghề, gã xin kể ra một vài hoạt


động mà bọn tin tặc đã thực hiện đó đây trên
khắp cả và thế giới.
Trước hết, bằng những mánh khóe nhà nghề,
bọn tin tặc ăn cắp số tài khoản để rồi rút tiền
thiên hạ gửi tại ngân hàng mà xài chơi. Thực
vậy, tại các nước văn minh hiện nay, người ta lai
rai đặt những máy rút tiền ở chỗ này chỗ nọ. Khi
cần tiền, khách hàng không phải tới ngân hàng,
mà chỉ phải tới bên chiếc máy, bấm số tài khoản
và thế là tiền cứ từ từ…chui ra. Với hành động
này, bọn tin tặc khỏe re, chẳng phải lao động
cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mà tiền bạc
lúc nào cũng rủng rỉnh.
Tiếp đến, cũng bằng những mánh khóe nhà
nghề, bọn tin tặc ăn cắp mật khẩu để rồi truy
nhập internet “chùa” mà chẳng tốn đồng xu cắc
MỤC LỤC

bạc nào cả. Cách đây không lâu, bản thân gã đã


bị bọn này xơi tái như vậy.
Số là vào một buổi sáng đẹp trời gã đang ngồi
làm việc thì có điện thoại báo cho biết :
- Trong tháng vừa qua có những số điện thoại
lạ, dùng mật khẩu của ông để truy nhập. Vậy
ông hãy rà soát lại xem những số điện thoại ấy
có phải là của ông hay không ?
Sau đó, gã cũng nhận được một cái “meo” với
cùng một nội dung như thế. Truy tìm thủ phạm,
thì gặp được năm số điện thoại xuất phát từ Hà
Nội, hằng đêm mượn đỡ mật khẩu của gã mà
chui vào “internet”. Tổng đài chỉ dẫn cho gã một
số việc cần phải làm ngay như sau :
- Một là phải quét “virus”, hai là phải thay đổi mật
khẩu, ba là giới hạn số điện thoại truy nhập nếu
không phải là dân áp phe, áp chảo, luôn đi đây
đi đó. Bốn là có thể làm đơn khiếu nại.
MỤC LỤC

Tháng đó gã tốn thêm gần một trăm đô la, trả


cho những lần truy nhập chui của bọn tin tặc “ác
ôn côn đồ” này. Làm đơn khiếu nại, thì được
bưu điện nhận đơn và trả lời :
- Hãy đợi đấy, chừng nào ngoài Hà Nội thu hồi
được số tiền trên thì sẽ hoàn trả lại cho ông.
Thế nhưng, cho tới ngày hôm nay đã gần hai
năm rồi mà bưu điện vẫn cứ êm ru bà rù. Nếu
hỏi tới thì lần nào cũng nhận được một câu trả
lời như nhau :
- Chưa thấy ngoài ấy nói gì. Hãy đợi đấy thêm
một thời gian nữa.
Đúng là :
- Con kiến mà kiện củ khoai,
Nhọc nhằn chẳng được một ai đoái hoài.
Thôi thì mặc cho bọn chúng được đời này. Một
trăm đô có là bao. Chỉ là chuyện nhỏ thôi mà.
MỤC LỤC

Hơn thế nữa, bọn tin tặc còn “ngâm kíu” và tìm
cách tung “virus” vào để phá những mạng lưới
của những đại gia như Microsoft…để làm giảm
uy tín của những đại gia này. Thế nhưng, chẳng
hiểu những đại gia này có hề hấn sứt mẻ gì
không, chứ riêng người tiêu dùng, nếu chẳng
may bị sao quả tạ chiếu tướng, máng vào những
thứ “virus” ấy là lãnh thẹo, lại phải thêm một
phen sất bất xang bang, tìm thày chạy chữa cho
máy được hoạt động bình thường và cho những
tài liệu mình chắt chiu viết ra hay tốn công thâu
lượm không bị bay hơi theo mây khói.
Ngoài ra, chúng còn thả “virus” vào để làm tê liệt
các máy vi tính, sau đó tung ra thị trường những
phần mềm để diệt “virus” ấy. Và thế là chúng cứ
việc ung dung ngồi nhà mà hốt bạc của thiên hạ.
Tuy nhiên, chúng khó mà lấy được đồng tiền
của dân Việt Nam, bởi vì nạn sao chép lung tung
MỤC LỤC

rất thịnh hành ở đất nước này. Coi tác quyền


như pha. Chẳng thế mà khi đại gia Microsoft
chưa chính thức tung ra thị trường chương trình
XP, thì tại Việt Nam đã thấy xuất hiện ê hề, thiên
hạ mặc sức sử dụng, mà chẳng tốn kém bao
nhiêu.
Cũng vì những con “virus” có thể làm tê liệt các
máy vi tính, nên trong vụ mất điện vừa qua ở
một số tiểu bang vùng đông bắc nước Mỹ, người
ta đưa ra giả thuyết cho rằng bọn khủng bố tấn
công vào các máy tính điều hành, khiến cho lưới
điện không còn hoạt động được nữa. Nếu như
một ngày nào đó, bọn tin tặc làm tê liệt toàn bộ
các máy tính trên thế giới, thì nhân loại chắc
chắn sẽ điên cái đầu mất thôi. Khởi đầu thì máy
móc lệ thuộc vào con người, nhưng rồi sẽ tới lúc
người lệ thuộc vào máy móc!!!
MỤC LỤC

Hơn thế nữa bọn tin tặc, giống như những tình
báo, những điệp viên kiểu 007, đột nhập vào
những mạng lưới quan trọng, chẳng hạn bộ
Quốc phòng, bộ Kinh tế, dinh Tổng thống, phòng
thí nghiệm hay các xí nghiệp để ăn cắp những
thông tin về quân sự và kinh tế…Sau đó, chúng
bán những thông tin quí giá và tối mật này để
kiếm lời, nhưng lại gây nên những hậu quả
nghiêm trọng cho nền an ninh và phát triển của
quốc gia.

Sau cùng là tình tặc.

Tình tặc là ăn cướp tình yêu. Tình tặc thường


chỉ có một người và không mấy khi dùng tới sức
mạnh và bạo lực.
Thực vậy, ngày hôm nay người ta đang sống
trong thời đại văn minh vi tính, đâu còn cái cảnh
MỤC LỤC

chặn đường bắt cóc cô dâu đem về nhà mình,


bất kể cô dâu ấy có yêu thương mình hay không
miễn sao mình thương yêu cô ấy là đủ rồi.
Ngày hôm nay người ta đang sống trong thời đại
“tự do luyến ái”, chuyện ăn cơm trước kẻng chỉ
là chuyện thường ngày ở huyện, lắm lúc chưa
lấy nhau mà “con ong đã tỏ đường đi lối về”, đâu
còn cái cảnh tới ngày cưới mà chú rể vẫn chưa
biết mặt cô dâu, vì đạo nghĩa các cụ đã dạy
“nam nữ thọ thọ bất tương thân”, để rồi nhà gái
đánh tráo cô chị làm cô em mà anh dũng tiến lên
làm vợ cho chú rể.
Không dùng bạo lực và sức mạnh đã đành, mà
hơn thế nữa, những đòn phép của tên tình tặc
nhiều lúc lại còn ngọt ngào và quyến rũ.
Chẳng hạn chàng và nàng ngồi “chat” với nhau
trên mạng. Lúc đầu chỉ là trò chuyện bâng quơ,
nhưng rồi dần dần chàng vẽ nên những hình
MỤC LỤC

ảnh tuyệt vời về mình nào là đẹp giai, học giỏi,


con nhà giàu, kèm theo một tương lai tươi sáng
đang chờ đón…khiến cho nàng mê tít thò lò. Và
thế là cá đã cắn câu, họ hẹn gặp nhau, rồi yêu
nhau và tiến tới hôn nhân, vì mục đích của
chàng là phải làm thế nào chớp được cái tình
của nàng. Khi đã lấy nhau, thì bộ mặt thật của
chàng mới tỏ lộ. Rõ ràng là một tên lừa đảo. Bản
thân của chàng chỉ là hạng khố rách áo ôm. Lúc
bấy giờ nàng mới mở mắt ra, hối hận thì cũng
đã quá muộn mất rồi.
Chẳng hạn trước những lời hứa hẹn đầy hấp
dẫn, nhiều cô gái Việt Nam đã ôm mộng lấy
chồng nước ngoài, theo kiểu “tấp tểnh người đi
tớ cũng đi”. Người chồng nước ngoài ấy có thể
là một ông Đài Loan, một ông Đại Hàn, hay một
ông Việt kiều nào đó…Nhưng rồi đời không như
là mơ, nên đời thường giết chết mộng mơ. Đối
MỤC LỤC

mặt với sự thật phũ phàng, nhiều cô đã phải cay


đắng chấp nhận thực tế bẽ bàng, bởi vì trót đâm
lao thì phải theo lao mà thôi. Những cô gái mộng
vỡ đáng thương ấy đâu có ngờ mình đã bị ăn
trộm tình yêu lúc nào cũng chẳng hay.
Để kết thúc, gã xin ghi lại nơi đây mẩu tin đã
được đăng trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí
Minh, số 1149, ra ngày thứ ba 10.6.2003, về một
tên đã thực hiện 14 vụ “trộm tình” như sau :
Hắn tên là Trương Minh Hoàng, sinh năm 1983,
ở Hợp Tác Xã kinh 7A, xã Thạnh Đông A, huyện
Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, đã thực hiện 14 vụ
trộm tình đối với các phụ nữ địa phương.
Thủ đoạn của tên Hoàng là lợi dụng lúc đêm
khuya, nhà nào có phụ nữ, nhưng ngủ không
đóng cửa là y lẻn vào. Khi vào nhà, tên Hoàng
xem người phụ nữ đó đang nằm ngủ với ai, rồi
đến tắt hết đèn trong nhà. Sau đó tên trộm chui
MỤC LỤC

vào mùng của người phụ nữ, rón rén đến nằm
gần họ và làm những việc mà người chồng
thường làm với bà vợ trong lúc chăn gối.
Chính vì vậy, tên trộm chỉ thực hiện “trộm tình”
đối với các phụ nữ đã có chồng. Một số trường
hợp người vợ trong lúc ngủ say nghĩ kẻ trộm là
chồng mình nên cứ để hắn ta mặc tình.
Đến lần “trộm” thứ 14 đối với chị P.T.L. thì tên
Hoàng mới bị phát hiện và bị bắt giữ. Hôm đó,
hắn vào nhà chị L. lúc ấy đã hơn một giờ sáng.
Chị L cùng ngủ với hai con, chồng chị ngủ riêng
trong buồng. Tên Hoàng đã giở trò “yêu” chị L.
và trong lúc hắn đang ngây ngất thì bất ngờ bị
chị L. phát hiện ra là không phải chồng mình,
liền nắm tóc hắn và kêu cứu với chồng con. Tên
Hoàng nhanh chân bỏ chạy, nhưng những
người hàng xóm nghe tiếng kêu cứu của gia
đình chị L. đã vây bắt được hắn.
MỤC LỤC

Ngày 29.5 Tòa Án Nhân Dân tỉnh đã truyền phạt


bị cáo Trương Minh Hoàng 10 năm tù giam về
tội trạng này.
Hẳn là trên cõi đời này còn nhiều thứ tặc khác
nữa, rất mong được quí vị chỉ giáo.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

KHI CHỒNG GIẬN

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nhìn vào vũ trụ, hẳn ai cũng phải “tâm phục
khẩu phục” Đấng Tạo Hóa. Ngài quả là tuyệt
vời, bởi vì vạn vật do Ngài dựng nên rất giản
đơn, nhưng lại vô cùng phong phú.
Thực vậy, theo quan niệm của đông
phương, thì thuở ban đầu chỉ có âm và dương.
Hai thái cực này hoàn toàn khác biệt và trái
ngược nhau, nhưng lại luôn thu hút lẫn nhau để
nảy sinh vạn vật :
- Nhất âm, nhất dương chi vi đạo.
Cũng thế, theo quan niệm của Cựu ước,
Đấng Tạo hóa đã dựng nên một người nam và
một người nữ. Cả hai kết hiệp thành vợ chồng
mà sinh ra con đàn cháu đống, kéo dài dòng
giống con người trên mặt đất này cho đến tận
cùng thời gian.
MỤC LỤC

Còn nói theo kiểu tân cổ giao duyên, đông


tây hòa hợp, thì người nam mang tính dương,
còn người nữ mang tính âm. Nam nữ tuy khác
biệt nhưng lại hấp dẫn lẫn nhau, để tạo thành
một mái ấm gia đình.
Trong mái ấm này, cần phải có sự hài hòa
cân đối bởi vì nếu âm mà thịnh thì ắt dương phải
suy. Và ngược lại, nếu dương mà thịnh thì ắt âm
phải suy. Chồng mà hiền thì vợ thường….dữ.
Chồng mà gầy thì vợ thường…mập!!!
- Thế gian được vợ hỏng chồng,
Có đâu mà được tiên rồng cả đôi.
Tự bản chất, đờn ông với đờn bà vốn đã
khác biệt. Thế nhưng, những khác biệt này
không phải để đối kháng và hủy diệt lẫn nhau,
như nước với lửa, như bóng tối với ánh sáng,
nhưng là để bổ túc lẫn cho nhau. Chẳng hạn
người đờn bà vốn yếu đuối thì đã có cái sức
MỤC LỤC

mạnh của người đờn ông bổ túc. Người đờn ông


vốn nóng nảy thì đã có sự dịu hiền của người
đờn bà dập tắt.
Ngay cả giữa đờn ông với đờn ông và giữa
đờn bà với đờn bà cũng đã có những khác biệt,
bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một
tính tình riêng. Mỗi người là một mầu nhiệm,
chẳng ai giống ai.
Hơn thế nữa, nhân vô thập toàn, ai cũng có
những sai lỗi khuyết điểm của mình. Cái rắc rối,
đó là con người không thể sống cô độc lẻ loi
như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một
pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống
với người khác, nhất là với những người thân
yêu. Ngay từ ban đầu, Đấng Tạo hóa cũng đã tỏ
rõ điều ấy :
- Người đờn ông ở một mình không tốt, Ta
hãy dựng nên cho nó một người trợ giúp…
MỤC LỤC

Hai thực thể khác biệt từ bên trong đến bên


ngoài, hai con người chẳng giống nhau từ tâm
hồn đến thân xác, thế mà bây giờ lại được nhốt
chung trong cùng một mái nhà để làm nên một
gia đình, thì chắc hẳn sẽ không thể nào tránh đi
cho hết những va chạm, những bực bội, những
hiểu lầm, chả thế mà cha ông chúng ta ngày xưa
đã bảo :
- Chén bát trong rổ còn có lúc xô xát huống
lọ là vợ chồng với nhau.
Hay như bọn con nít ngoài đường vốn
thường nghêu ngao :
- Anh như con chó, em như con mèo, hai
con cắn nhau…
Vì thế, hôm nay gã thử phân tích xem khi
anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản ứng
như thế nào ? Tuy nhiên trước khi mổ xẻ vấn
đề, chúng ta cùng nhau chiêm ngưỡng dung
MỤC LỤC

nhan anh chồng cái đã. Vậy bàn dân thiên hạ đã


nhìn anh chồng ra sao ? Và đã thế nào là một
anh chồng ?
Thiên hạ vốn cho rằng anh chồng là người
đờn ông chung sống với người đờn bà sau khi
đã cưới hỏi theo phong tục và làm giá thú theo
luật định, hoặc có khi lờ tít, cứ việc ăn ở với
nhau mà chẳng cần cưới hỏi, hay giá thú giá
thiếc nào sốt. Đó là cái định nghĩa chung chung
về anh chồng. Tuy nhiên, nếu đi vào lãnh vực
chuyên môn, gã nhận thấy những bậc chuyên
gia mỗi vị lại hiểu anh chồng một cách khác
nhau theo sự méo mó nghề nghiệp của mình.
Đối với nhà khảo cổ, thì anh chồng là một
thứ đồ cổ ít có giá trị đối với chị vợ, nhưng biết
đâu lại vô giá đối với kẻ khác. Chính vì thế mà
sơ hở một tí là có thể mất chồng như chơi.
Người ta cho rằng trên đời này có ba thứ càng
MỤC LỤC

cũ lại càng quí, đó là rượu cũ, sách cũ và bạn


cũ. Nhưng mà anh chồng, dưới mắt chị vợ sau
nhiều năm chung sống, không chừng lại bị ngán
tới cần cổ, như ngán cơm nếp nát vậy. Thế
nhưng, khi thò chân bước ra ngoài xã hội, anh
chồng ấy, nếu được trang bị bằng một tí tiền và
một tí quyền, thị lại trở thành vô giá, thiên hạ sẵn
sàng nhào tới ăn có, như mèo mù vớ cá rán,
ngủ gật gặp được chiếu manh.
Đối với ông bác sĩ, thì anh chồng là một thứ
vi khuẩn đã nhờn thuốc nên rất khó trị. Đúng
thế, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì chị vợ
nói gì anh chồng cũng phải nghe, chỉ cần một
liều thuốc nhẹ cũng chữa chạy được. Đúng là :
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
- Vợ muốn là trời muốn.
MỤC LỤC

Thậm chí có anh chồng còn cảm thấy


lương tâm áy náy và cắn rứt khi cãi lời vợ, vì thế
đã vào tòa giải tội mà xưng thú :
- Thưa cha, con đã trót dại không vâng lời
vợ con phỏng là mười lần.
Còn lâu ngày sau khi cưới, loại vi khuẩn
này đã quen với thuốc nên không còn phương
thức trị liệu. Nói năng cứ như dùi đục chấm
nước mắn, rồi lại còn chủ trương : nhất lý, nhì lì,
tam ì, tứ ẩu nữa mới đáng ghét không cơ chứ.
Đối với nhân viên ngân hàng, thì anh chồng
là kẻ chuyên môn vay nóng, nhưng lại không có
khả năng chi trả. Đúng thế, khi cần tiền thì cái
miệng anh ta dẻo quẹo, nhưng khi đòi lại thì cứ
khất lần khất lượt, từ từ cái đã, chẳng hiểu đến
đời ông Bành Tổ nào mới trả cho xong.
Đối với nhà ngôn ngữ thì trước khi cưới,
anh chồng là người rất “chịu khó” nhưng sau khi
MỤC LỤC

cưới anh ta trở thành một người rất…”khó chịu”.


Thực vậy, trước khi cưới anh chồng rất ư là ga
lăng, từ lời ăn tiếng nói đến cung cách chiều
chuộng…tất tật đều dễ thương chi lạ. Tuy nhiên
hãy đợi đấy, sau ngày cưới anh ta mới để lộ
chân tướng vũ phu chi cục mịch của mình. Có
những anh chồng, trước khi cưới qua nhà vợ,
hiền lành như con gái, rượu chẳng biết uống,
thuốc chẳng biết hút…Thế mà sau khi cưới anh
ta hóa kiếp thành dân bợm nhậu, uống rượu
như hũ chìm. Có những anh chồng, trước khi
cưới qua nhà vợ, việc gì cũng lăn xả vào làm,
còn sau khi cưới ấy hở, lười chảy thây, chẳng
muốn động ngón tay lay thử một ly, một tí nào
sốt. Quả thực trước khi cưới anh ta rất chịu khó,
còn sau khi cưới anh ta lại là người rất khó chịu.
MỤC LỤC

Đối với bác nông dân, thì anh chồng là loại


thóc giống, nếu không tranh thủ “xạ” gấp, thì có
nguy cơ bị hàng xóm vay mất.
Dĩ nhiên còn rất nhiều định nghĩa khác nữa,
tùy theo góc độ của từng người. Tuy nhiên,
bằng đó mà thôi cũng đủ để cho thấy anh chồng
là một thực thể rất ư phức tạp. Nhưng xét cho
cùng, đôi khi anh ta cũng là kẻ đáng thương và
tội nghiệp lắm lắm.
Cái đáng thương và tội nghiệp thứ nhất, đó
là anh ta phải lo lắng cho ngày mai, như một câu
danh ngôn đã bảo :
- Người đờn bà chỉ lo lắng về tương lai cho
đến khi chị ta lấy được anh chồng. Còn người
đờn ông thì ngược lại, anh ta chẳng bao giờ lo
lắng về tương lai cho đến khi anh ta lấy được chị
vợ.
MỤC LỤC

Điều đó có nghĩa là một khi đã lấy vợ, anh


chồng phải chí thú làm ăn, nai lưng ra mà xây
đắp tương lai. Đối với những anh thanh niên
choai choai, hay phá làng phá xóm, các cụ già
thường khuyên cha mẹ chúng như sau :
- Cứ cưới vợ cho nó là xong tuốt luốt.. Vợ
nó sẽ dạy nó. Và nó chẳng còn quậy phá nữa.
Lo lắng về tương lai, thì cũng có nghĩa anh
chồng phải lao động đầu tắt mặt tối, đổ mồ hôi
sôi nước mắt để kiếm cho được nhiều tiền. Hay
nói cách khác : cơm áo gạo tiền chính là cái
đáng thương và tội nghiệp thứ hai cho các anh
chồng.
Với tiêu chuẩn tiền bạc, anh chồng bị đánh
giá như sau :
- Anh chồng thành công là anh chồng kiếm
được số tiền lớn hơn số tiền chị vợ tiêu xài.
MỤC LỤC

Cũng vì luôn bị tương lai ám ảnh và tiền


bạc xâu xé, nên anh chồng thường có những
cơn giận chẳng đâu vào với đâu, hay chẳng có
lấy một lý do chính đáng nào sốt. Cũng giống
như cơn giận của anh chàng voi đực đối với chị
voi cái trong câu chuyện sau đây.
Có hai vợ chồng nhà voi đang sống yên ổn
và hạnh phúc trong một sở thú tại Nữu Ước.
Thế rồi một buổi sáng đẹp trời nọ, chú chuột
nhắt bỗng xuất hiện. Nhìn thấy chú chuột nhắt,
chị voi cái bèn hoảng sợ, chạy tới chạy lui và
rống lên từng hồi. Anh voi đực tức giận trước
cảnh tượng ấy, nên đưa mắt nhìn trừng trừng.
Cuối cùng, như không cầm nổi cơn bực bội của
mình, anh voi đực đã xông thẳng vào chị voi cái
và dùng cặp ngà của mình mà hất tung chị voi
cái xuống một cái hố bên cạnh đó, khiến cho
mấy chục người phải vất vả, dùng ván và xe mới
MỤC LỤC

trục được chị voi cái lên khỏi miệng hố. Lúc bấy
giờ, anh voi đực có vẻ hối hận, đứng nhìn mà
cặp mắt lại ươn ướt.
Chỉ vì một chú chuột nhắt mà gia đình nhà
voi suýt đi tới chỗ tan vỡ. Cũng vậy trong đời
sống vợ chồng, lắm khi chỉ vì những mâu thuẫn,
những bất đồng nho nhỏ, mà nếu không biết cư
xử một cách khôn khéo, sẽ dẫn tới những hậu
quả nghiêm trọng.
Vậy mỗi khi anh chồng mà giận, thì chị vợ
thường phản ứng như thế nào ?

Phản ứng thứ nhất :


Chồng giận thì vợ làm lơ,
Mặc cho bực bội, phe lờ như không.

Có thể nói được rằng đây là phản ứng của


những chị vợ vừa ngây thơ lại vừa vô tư, hay nói
MỤC LỤC

một cách khác, đây là phản ứng của những chị


vợ “trẻ con”, chưa muốn làm người lớn. Anh
chồng bực bội tức tối cũng mặc kệ, chị vợ vẫn
cứ tỉnh bơ, vô tư cười nói, vô tư ca hát, vô tư ăn
hàng, làm như chẳng có gì xảy ra dưới mái nhà
thân yêu. Lúc nào chị vợ cũng tỏ ra ngây thơ
như con nai vàng ngơ ngác. Cho dù nhà hàng
xóm có cháy, thì chị vợ vẫn cứ bình chân như
vại.
Những chứng từ trong bài này, gã trích dẫn
ở báo “Phụ nữ Chủ nhật” để làm cho rõ những
phản ứng sẽ được trình bày.
“Anh H, một công chức, vốn là người trầm
tính, thường khi gặp phải điều gì phật ý, anh ít
nói ra. Không nói ra, nhưng vẻ bực dọc lại lộ rõ
trên khuôn mặt và cử chỉ của anh. Ngặt nỗi, cô
vợ anh lại chẳng hề để ý cũng chẳng nói chẳng
rằng, cứ kiểu chồng giận thì vợ…làm lơ.
MỤC LỤC

Vậy là mặc chồng, chồng giận, mặc vợ,


vợ…cứ tỉnh bơ. Chồng không thố lộ, vợ chẳng
chịu hỏi han, khiến gia đình như có chiến tranh
lạnh, không khí nặng nề kéo dài dăm bữa, nửa
tháng là thường, cho đến khi cả hai chịu hết xiết
mới nhân một cớ nào đó mà lẳng lặng…giảng
hòa.
Qua những lần giận nhau như thế, cả hai
vẫn chưa xác định được ai là người phải xuống
nước…trước ai. Đôi khi anh H lẩn thẩn nghĩ :
- Quái ! Bực dọc điều gì, sao mình không
chịu nói phứt ra cho nhẹ gánh ?
Cô vợ của H đôi lúc cũng bần thần :
- Ừ, phải chi bữa đó mình chịu quan tâm
hỏi ảnh giận gì, thì đâu phải chịu cảnh lạnh lùng,
rồi trách ảnh…giận dai !”

Phản ứng thứ hai :


MỤC LỤC

Chồng giận thì vợ lầm lì,


Chẳng cần lý sự, cứ ì là xong.

Có thể nói được rằng đây là phản ứng của


hàng cao thủ võ lâm, hay của những chị vợ dày
dạn kinh nghiệm trận mạc. Nó không còn vô tư
đơn sơ và vô tư ngây thơ nữa, nhưng là cả một
chiến lược rất tinh vi, rất nặng đô khiến cho phe
địch bị sập bẫy, phải tự ý cầu hòa. Ấy là chưa
nói tới nhiều khi còn phải năn nỉ ỉ ôi tới gẫy cả
lưỡi nữa là đàng khác.
Anh chồng mà giận ấy hở, chị vợ bèn lầm
lì, chẳng nói chẳng rằng, sa sầm nét mặt và ủ
dột như chiếc bánh bao chiều, hay sưng thành,
một cục, một đống. Cậy miệng cũng chẳng nói
được một chữ. Bất bạo động, nhưng cũng bất
hợp tác.
MỤC LỤC

Có một chị vợ kia đã thẳng thừng nói với


anh chồng đang khoa chân múa tay, la hét om
xòm, như sau :
- Để xem mèo nào thắng mèo nào. Liệu có
chịu nổi sự được lạnh lùng của tôi thì hãy giận,
bằng không thì….biến đi cho rồi.
“Người ta thường được nghe chị X kể lại
một cách đầy kiêu hãnh là anh chồng chị lúc nào
cũng phải chịu lép vế trước sự “kiên cường” của
vợ. Dù đúng dù sai, mà sai thường nhiều hơn
đúng, hễ chồng “lỡ giận”, là chị…đổ lì, đổ bê
tông bằng khuôn mặt lạnh dưới 0oC và thái độ
dấm dẳng chua lè, bất hợp tác trong mọi lãnh
vực của đời sống vợ chồng. Và để phục hồi cái
không khí đầm ấm cho gia đình, anh X thường
phải xuống nước trước một cách thành khẩn,
mới được vợ tha cho.
MỤC LỤC

Chị X luôn tự hào về loại vũ khí hiệu


nghiệm của mình, đâu biết rằng anh X chồng chị
lâu dần như người bị dồn vào bước đường cùng,
có lần thẩn thờ tâm sự :
- Không thể nào và hình như không còn
cách nào góp ý vớ bả được, từ chuyện lớn đến
chuyện nhỏ. Tình trạng này cứ kéo dài, không
biết rồi…sẽ dẫn tới đâu.”

Phản ứng thứ ba :


Chồng giận thì vợ nổi xung,
Đổ dầu vào lửa, đùng đùng…uỵch nhau.

Nếu hai phản ứng trên được gọi là phản


ứng ngầm và lạnh, thì phản ứng thứ ba này phải
được coi là phản ứng nổ và nóng. Chồng cũng
ghê mà vợ cũng gớm. Quả là xứng đôi vừa lứa.
MỤC LỤC

Nếu chồng nóng như Trương Phi, thì vợ


cũng dữ chẳng kém gì sư tử Hà Đông. Nếu
chồng nói một, thì lập tức vợ cũng trả đũa, phản
pháo lại gấp hai. Nếu chồng quẳng nồi niêu, thì
lập tức vợ cũng ném bát đĩa. Nếu chồng mày với
tao, thì lập tức vợ cũng tao với mày. Nếu chồng
đấm với đá, thì lập tức vợ cũng cào với cấu. Nếu
chồng thượng cẳng chân, thì lập tức vợ cũng hạ
cẳng tay.
Nếu chồng hét, thì lập tức vợ cũng gào và
hậu quả đương nhiên sẽ xảy ra, đó là láng giềng
phải nghe. Cả hai đều hành động theo đúng
cung cách mà ngày xưa các cụ đã diễn tả :
- Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng.
“Chuyện của vợ chồng anh Bảy thợ hồ là
một điển hình về chiến tranh nóng, chiến tranh…
tóe lửa giữa các vì sao, trong những gia đình mà
hễ chồng giận thì vợ cũng…nổi xung. Anh Bảy
MỤC LỤC

tính vốn nóng như lửa, ngặt nỗi chị Bảy, vợ anh,
cũng chẳng vừa, nên nhà họ thường xuyên nổ
ra chiến sự, khiến mấy đứa con bị văng miểng,
mà hàng xóm cũng bị vạ lây.
Chuyện đĩa bay, chén bể, nồi móp giữa họ
là chuyện bình thường, xảy ra như cơm bữa.
Chồng một tiếng, thì vợ…ba tiếng. Chồng văng
tục, thì vợ…tục văng, đốp chát trả theo không
kém cạnh.
Công bằng mà nói thì lắm lúc nội vụ chỉ do
anh Bảy vô cớ mắng chửi lãng òm, thế là chị
Bảy bụp lại ngay, đáp trả dữ dội bằng những lời
lẽ nặng nề. Cả hai đã phải mấy lần vác đơn ra
tòa xin ly dị, rồi được hòa giải, rồi lại…
Anh Bảy khi được hỏi thường tìm cớ lảng
tránh, còn chị Bảy thì thở ra :
- Tánh tui nó vậy, nhiều lúc nghĩ cũng bậy,
nhưng…sửa hổng đặng, biết sao bây giờ.
MỤC LỤC

Có người bảo :
- Gẫm ra cũng chí lý.
Biết sai, thì phải biết sửa. Sửa gấp không
đặng, thì sửa từ từ, mỗi lần một chút. Vợ sửa
trước, mới mong chồng có cơ hội phục thiện để
cùng nhau vun vén hạnh phúc gia đình.”

Phản ứng thứ tư :


Chồng giận thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở, rằng anh giận gì ?

Có thể nói được rằng đây là loại phản ứng


mang tính cách xây dựng hơn cả, khả dĩ hóa
giải được cơn giận của anh chồng.
Như trên chúng ta đã trình bày : va chạm,
xích mích, bất đồng là chuyện đương nhiên của
cuộc sống vợ chồng. Không va chạm, không
MỤC LỤC

xích mích, không bất đồng mới là chuyện bất


bình thường, cần phải xét lại.
Tuy nhiên điều quan trọng, đó là phản ứng
của chị vợ trong lúc “hữu sự”. Nếu biết cư xử
một cách tế nhị và khéo léo, thì sau cơn mưa
trời lại sáng, sau cơn giận, anh chồng sẽ yêu
thương nhiều hơn. Thật đúng với chiến thuật :
- Lùi một bước để tiến tới hai bước.
Trong lúc anh chồng bị tẩu hỏa nhập
ma, cơn giận bốc lên đùng đùng, thì việc chị
vợ cần phải làm ngay, đó là hãy tiết kiệm lời nói,
như người xưa đã từng dạy :
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, một đời chẳng khê.
Thực vậy, đạn bắn xuống bùn, chẳng công
phá được chi. Trước sự yên lặng của chị vợ,
anh chồng la hét mãi, quát tháo mãi cũng sẽ mỏi
mồm, tới một lúc sẽ tự động tắt đài, êm ru bà rù.
MỤC LỤC

Sự yên lặng của chị vợ trong hoàn cảnh


này, quả là quí hơn vàng, hơn bạc. Bởi vì nếu
không yên lặng, thì chắc chắn hậu quả sẽ khó
mà lường nổi. Sau cơn giận, gia đình chỉ còn là
một bãi chiến trường với những đổ vỡ và tan
hoang. Bởi vì :
- Bên thẳng thì bên phải chùng,
Hai bên đều thẳng, thì cùng đứt dây.
Tuy nhiên, yên lặng không có nghĩa là cam
lòng chịu vậy. Trái lại, trong những lúc thuận
tiện, chị vợ nên dùng những lời nói ôn tồn và
thành thực để nhắc bảo. Lúc bấy giờ, những lời
nói êm dịu của chị vợ như rót vào tai, khiến anh
chồng dễ dàng chấp nhận, nhờ đó giúp nhau
thăng tiến bản thân, mà vẫn giữ được bàu khí
hòa thuận cho gia đình. Bởi vì :
- Mật ngọt thì chết ruồi.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã bảo :
MỤC LỤC

- Người ta bắt được nhiều ruồi chỉ bằng


một giọt mật, còn hơn là bằng cả một thùng
giấm chua.
“Hạnh phúc biết bao cho những ai được
tắm mình giữa bàu khí gia đình trong ấm ngoài
êm. Và đó cũng là phần thưởng quí giá cho
những người vợ biết khéo léo, mềm mỏng và
thông minh trước những cơn giận, dù đôi khi…
kỳ cục của chồng mình.
Ai đó đã từng nói rằng : nụ cười của phụ nữ
có thể làm thay đổi cả thế giới, huống hồ là đối
với…anh chồng bẳn tính của mình. Nhưng nói
thế không có nghĩa người vợ phải luôn lép vế,
khuất phục trước chồng bởi bất cứ lý do nào. Vì
theo các chuyên gia về tình yêu hôn nhân và gia
đình, đồng thời cũng theo kinh nghiệm của các
người chị, người mẹ có một mái ấm tuyệt vời, thì
MỤC LỤC

cái sự làm lành cũng chính là thứ vũ khí quan


trọng để bảo vệ và tôn tạo hạnh phúc gia đình.”
Để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện
như sau :
Có hai vợ chồng nọ, hồi còn trẻ họ sống rất
yêu thương và hạnh phúc, nhưng khi đã về già,
thì lại thường xuyên lục đục và cãi vã nhau suốt
ngày. Ông nói một thì bà nói hai. Ông nói hai thì
bà nói ba. Và ông nói ba thì bà nói tới bảy, tám,
chín, mười…Cuối cùng, chẳng ai chịu nhận
mình là kẻ có lỗi.
Người hàng xóm thấy vậy bèn góp ý :
- Trên núi kia có một vị sư bào chế được
một thứ thuốc giúp cho nhiều gia đình được êm
ấm thuận hòa.
Bà nghe lời, bèn đi lên núi tìm gặp vị sư.
Sau khi nghe trình bày, vị sư liền trao cho bà
một chai thuốc và nói :
MỤC LỤC

- Đây là một loại thuốc gia truyền rất hiệu


nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ cần
ngậm một ngụm ở trong miệng, không được
nuốt và cũng chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông
không còn nói nữa, rồi mọi chuyện sẽ được ổn
thỏa và tốt đẹp.
Bà hăm hở xuống núi. Thế nhưng vừa về
tới đầu ngõ, thì ông từ trong nhà vội chạy ra, nét
mặt hầm hầm và nói như quát :
- Bà rúc ở cái xó xỉnh nào mà giờ này mới
vác xác về. Đi mà lo cơm nước, không thì liệu
hồn đấy.
Nghe vậy, bà liền tợp một ngụm thuốc,
ngập ở trong miệng đúng như lời căn dặn của vị
sư. Thấy bà chẳng đáp lời, một lúc sau ông
cũng lặng thinh.
Bà hết sức vui mừng và thầm nghĩ :
MỤC LỤC

- Đây quả là một thứ nước thần rất hiệu


nghiệm.
Khi bà bắt đầu vo gạo để thổi cơm, thì ông
lại la :
- Làm gì mà chậm như rùa vậy.
Bà toan cãi lại, nhưng nhớ tới lời căn dặn
của vị sư, bèn tợp một ngụm thuốc trong miệng.
Thấy bà không cãi lại, ông đành phải im luôn. Từ
đó hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm
và hạnh phúc của hồi còn trẻ. Thứ nước thần
hay thuốc gia truyền ấy, chẳng qua chỉ là nước
lã mà thôi.
Kinh nghiệm ngàn đời cho chúng ta thấy :
- Một sự nhịn là chín sự lành.
Trong cuộc sống vợ chồng, nhiều lúc phải
nhường. Mà đã nhường thì nhiều lúc cũng phải
nhịn. Mà đã nhịn thì nhiều lúc cũng phải cắn
MỤC LỤC

răng chịu nhục, nhưng đó lại là chiếc chìa khóa


để mở ra cánh cửa hạnh phúc.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

NĂM GIÁP THÂN, BÀN VỀ CON KHỈ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nằm vắt tay lên trán mà suy gẫm sự đời, gã
nhận thấy việc lên voi xuống chó, âu cũng chỉ là
việc rất thường tình. Mới hôm nào, năm Quí Mùi
trở về với sự lên ngôi của loài dê, còn bây giờ
loài dê bị đá văng xuống làm…phó thường dân,
nhường chỗ cho loài khỉ đăng quang khi năm
Giáp Thân đang tiến tới. Vì thế, gã bèn xin được
hầu chuyện về con…khỉ.
Theo “Việt Nam Tự Điển” của Lê Văn Đức, thì
khỉ là một loài động vật có vú, bốn chân có bàn
trũng và ngón dài khả dĩ nắm được, trèo giỏi,
sống bằng trái cây và ngũ cốc…
Gã quen một anh bạn tên là Bảy. Anh Bảy là
người rất tốt bụng, nhưng chẳng may bị trời phú
cho một khuôn mặt hơi bị giống với khỉ. Vì thế,
thiên hạ thường gọi anh ta là anh Bảy Khỉ. Tuy
MỤC LỤC

nhiên, thiên hạ cũng chỉ dám gọi lén sau lưng


mà thôi, chứ đường đường mặt đối mặt mà gọi
như thế, chắc chắn sẽ bị anh ta đấm cho vỡ…
mỏ, khi tự ái nổi lên đùng đùng. Và cũng thật
trùng hợp, anh Bảy lại có tài leo trèo. Ngọn tháp
nhà thờ thật cao, mà anh ta cứ phom phom bò
lên, chẳng cần dây đai an toàn chi cả, hai tay và
hai chân cứ dính chặt vào tường vách như con
thạch sùng. Gã đứng dưới đất ngước nhìn mà
còn chóng cả mặt. Thấy vậy, thiên hạ bèn ưu ái
phong cho anh ta một tên gọi đậm đà khác nữa,
đó là anh Bảy Tổ Tông.
Bốn chữ “Anh Bảy Tổ Tông” làm cho gã nhớ lại
gần ba mươi năm về trước, hồi đất nước mình
mới được giải phóng, bất kể giai hay gái, già hay
trẻ, tất cả nam phụ lão ấu, từ thành thị cho đến
thôn quê, đều được học tập về thuyết tiến hóa.
MỤC LỤC

Dựa vào những mẩu xương được tìm thấy, cũng


như dựa vào những di tích của ngành khảo cổ,
một số nhà khoa học đã đưa ra cái giả thuyết :
người bởi khỉ mà ra và loài khỉ chính là tổ tiên
của con người.
Mục đích của việc phổ biến thuyết tiến hóa
nhằm đả phá tôn giáo, để rồi đi tới kết luận : vật
chất đẻ ra vật chất, chẳng có Thiên Chúa hay
thần thánh nào cả.
Thế nhưng, theo gã nghĩ : cho dù vật chất có đẻ
ra vật chất và con người có bởi khỉ mà ra chăng
nữa, thì bàn dân thiên hạ vẫn phải công nhận :
cái vật chất đầu tiên ấy do đâu mà có nếu không
phải là đã được dựng nên bởi một Đấng tạo
hóa, hơn thế nữa giữa người và khỉ luôn luôn có
một sự khác biệt, để người luôn luôn là người và
khỉ vẫn luôn luôn là khỉ.
MỤC LỤC

Cũng trong chiều hướng ấy, Teilhard de Chadin


đã đưa ra ý niệm về một cú nhảy vọt. Trong cú
nhảy vọt ngoạn mục và tuyệt vời này phải có sự
can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa, để trao ban
cho con người một linh hồn, nhờ vậy người mãi
mãi là người và khỉ vẫn mãi mãi là khỉ.
Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa
học Mỹ, cấu trúc AND của người và khỉ giống
nhau đến…99,4%, thế nhưng giữa người và khỉ
lại khác nhau một trời một vực. Và trong một bài
viết trên báo “Kiến thức ngày nay”, thiên hạ đã
liệt kê một số những khác biệt căn bản như sau :
Thứ nhất, đó là loài khỉ không biết nói. Rất có
thể loài khỉ cũng đưa ra những yêu cầu đơn giản
nhưng không có khả năng gợi lên những gì tai
không nghe, mắt không thấy hay những gì sắp
xảy ra và càng không thể nào trao đổi tư tưởng
như con người. Vì vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là
MỤC LỤC

một đặc điểm của người và chúng ta có thể xác


quyết : người là một con vật có ngôn ngữ, có
tiếng nói nhờ đó mà xích lại gần nhau và cảm
thông với nhau hơn.
Thứ hai, đó là loài khỉ không biết cười. Rất có
thể khi gặp điều gì vui thú, loài khỉ cũng…khúc
khích. Thế nhưng, tiếng cười của loài khỉ khác
hẳn tiếng cười của con người. Thực vậy, loài khỉ
chỉ biết khúc khích khi vui chơi, nhưng lại chẳng
biết sử dụng tiếng cười để nổi giận, để châm
biếm, để bỡn cợt. Và như vậy chúng ta cũng có
thể xác quyết : người là một con vật duy nhất
biết…cười.
Thứ ba, đó là loài khỉ không biết cái chết là cái
chi chi. Rất có thể khỉ mẹ vẫn tiếp tục chăm sóc
cho những chú khỉ con chết yểu, nhưng chưa
bao giờ người ta thấy loài khỉ chôn cất đồng loại
hay làm nghi lễ an táng cho kẻ đã khuất.
MỤC LỤC

Thứ tư, đó là loài khỉ chẳng có khái niệm về luân


lý và đạo đức. Rất có thể loài khỉ cũng biết chia
ngọt sẻ bùi, bảo vệ những kẻ yếu thế trong
những cuộc xung đột, giúp đỡ kẻ tàn tật và tránh
chuyện loạn luân! Tuy nhiên chúng ta cũng đừng
vội kết luận là loài khỉ cũng có luân lý và đạo
đức riêng của mình. Thực ra chúng chẳng phải
là những con vật hiền lành. Để bảo vệ lãnh thổ,
chúng sẵn sàng tấn công, thậm chí giết chết
thành viên của bầy đàn bên cạnh, kể cả những
chú khỉ con chúng cũng không tha.
Thứ năm, đó là loài khỉ không biết chế tạo dụng
cụ. Rất có thể loài khỉ cũng dùng được một vài
dụng cụ đơn giản như cành cây, búa, đe…
nhưng chúng không có khả năng thực hiện
những công việc khó khăn, cũng như không có
khả năng học thêm những điều mới.
MỤC LỤC

Sau cùng, đó là loài khỉ không biết…nói dối. Rất


có thể loài khỉ cũng dấu giếm thức ăn vừa kiếm
được để xơi một mình, nhưng chẳng qua chỉ là
một cách che dấu mà thôi, chứ còn nói dối, tức
là đưa ra những thông tin sai nhằm đánh lạc
hướng và lừa gạt đối phương, thì loài khỉ hoàn
toàn không thể thực hiện nổi.
Khỉ có nhiều loại và có những loại được kê tên
trong sách đỏ, được liệt vào hàng quí hiếm, cần
phải bảo vệ cho khỏi nguy cơ bị tuyệt chủng.
Bình thường gã thấy có khỉ đột là loại khỉ to. Còn
khỉ giả nhân hay đười ươi cũng là loại khỉ to, đi
bằng hai chân giống như người, vì thế Cao Bá
Quát đã có câu đối :
- Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó
cái.
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa
đười ươi.
MỤC LỤC

Trong khi đó vượn lại là một loại khỉ có đuôi và


chân rất dài. Chuyện rằng : ngày xưa vua nước
Sở có một con vượn rất đẹp, chẳng may nó bị
xổng chuồng và chạy vào rừng. Nhà vua bèn
truyền cho quan quân vô rừng tìm, nhưng tìm
mãi tìm hoài cũng chẳng thấy. Cuối cùng nhà
vua ra lệnh đốt rừng, để con vượn phải chạy ra.
Và thế là chỉ vì một con vượn mà cả cánh rừng
rộng lớn bị thiêu rụi.
Bây giờ, gã xin điểm qua một vài đặc tính của
khỉ.
Trước hết khỉ là một loài vật tương đối có chỉ số
thông minh khá cao. Vì thế, chúng ta đã thấy, khỉ
có thể sử dụng một vài đồ dùng thô thiển như
cành cây…để tự vệ cũng như để tìm mồi. Nếu
gã không lầm thì vào năm 1959, phi thuyền
Jupiter đã đưa hai con khỉ gốc Á Châu, thuộc nòi
“Macaca”, tên là “Aybơn” và “Baikơ” lên không
MỤC LỤC

gian, bay chung quanh trái đất với độ cao 450 ki


lô mét. Sau khi trở về được hai ngày thì con
“Aybơn” lăn đùng ra chết, còn con “Baikơ” sống
thêm được một thời gian nữa.
Tuy nhiên sự thông minh của khỉ chỉ là một sự
thông minh “vốn sẵn tính trời”, được di truyền từ
đời khỉ ông tổ xì hơi cho đến đời khỉ con cháu
chút chít, có bao nhiêu xài bấy nhiêu, chứ chẳng
được cập nhật hóa và phát triển thêm chút nào.
Thành thử họ hàng nhà khỉ hôm nay vẫn cứ…
ngu như tổ tông chúng hàng ngàn năm về trước.
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng, đến
dưới một gốc cây cổ thụ. Bên cạnh gốc cây cổ
thụ lại có một cái giếng. Nước trong giếng phản
chiếu ánh trăng vàng. Chú khỉ đầu đàn nhìn
thấy, liền vội vã nói với đồng bạn :
- Mặt trăng đã bị rơi xuống giếng rồi kìa, chúng
ta hãy cùng nhau kéo nó lên. Thế này nhé, tôi sẽ
MỤC LỤC

bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các


anh từng người một bám vào đuôi nhau mà trèo
xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng.
Bầy khỉ mặt đỏ từng con và từng con liên tục
treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu
nữa thì đụng mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ
vượt quá sức chịu đựng của cành cây. Một tiếng
“rắc” vang lên, cành cây bị gẫy và bầy khỉ mặt
đỏ rơi xuống giếng, giẫy giụa mãi không thôi.
Còn mặt trăng trong giếng cũng “mất tích” luôn.
Một câu chuyện khác chứng tỏ khỉ cũng…ngu,
chứ chẳng khôn ngoan gì cho lắm. Ở nước
Tống có người khéo nuôi khỉ, sống bằng nghề
dạy khỉ làm trò. Thầy dạy khỉ hiểu tâm lý loài khỉ
và những con khỉ được ông nuôi dạy cũng hiểu
được tiếng nói và cử chỉ của ông.
Thầy dạy khỉ vẫn nuôi khỉ bằng hạt giẻ. Hạt giẻ
bên Tàu rất lớn, có hạt lớn bằng cái chén uống
MỤC LỤC

nước chứ không nhỏ như hạt dẻ bên ta. Mỗi


bữa ông phát cho mỗi chú khỉ bốn hạt giẻ. Ngày
hai bữa như thế. Gặp hồi thầy dạy hết tiền mà
giá hạt giẻ lại leo thang, nên ông thầy thấy cần
phải giảm bớt số hạt giẻ cấp phát mỗi bữa cho
lũ khỉ, ông liền nói với chúng :
- Từ nay ta phát cho chúng mày mỗi con bữa
sáng ba hạt giẻ, bữa tối bốn hạt giẻ.
Lũ khỉ trước đó vẫn quen được phát mỗi bữa
bốn hạt, nay bớt đi một hạt, đều phản đối, kêu la
chí chóe, nhất định không chịu. Ông thầy dạy khỉ
bèn sửa lại :
- Nếu vậy, từ nay ta phát cho mỗi con bữa sáng
bốn hạt, bữa chiều ba hạt. Chịu không ?
Lũ khỉ nghe nói bữa sáng đổi thành bốn hạt như
cũ đều hài lòng, không còn la ó phản đối nữa.
MỤC LỤC

Nhiều người trong chúng ta cũng hành động


giống như khỉ, nghĩa là họ tham cái lợi nhỏ trước
mắt, mà quên mất tiêu cái hại lớn sau lưng :
- Khỉ thật.
Tiếp đến, khỉ là một loài vật có tính tò mò và hay
bắt chước. Thấy người ta làm gì, thì khỉ cũng bắt
chước mà làm theo. Người ta nhăn mặt thì khỉ
cũng nhăn mặt. Người ta gãi sườn, thì khỉ cũng
gãi sườn. Người ta toét miệng cười, thì khỉ cũng
toét miệng cười.
Biết tính khỉ là như thế, bọn thợ săn bèn bày
mưu rượu uống, rồi cùng nhau đi guốc. Sau đó
bỏ rượu và guốc dưới gốc cây rồi nấp vào một
chỗ mà rình. Lũ khỉ kéo nhau ra, thấy guốc và
rượu. Con đầu đàn tinh khôn, cho rằng người ta
gài bẫy, nên giục những con khác hãy mau mau
đi khỏi. Cả bầy cất bước, nhưng vẫn cứ ngoảnh
lại. Cuối cùng chúng bảo nhau :
MỤC LỤC

- Ta hãy nếm thử xem sao ?


Và thế là chúng tay chấm miệng mút, bén mùi
làm mãi, cho tới khi say tít thò lò, quên cả lời
nhắc bảo của con đầu đàn. Chếnh choáng
nghiêng ngả, nói nói cười cười, chân đưa vào
guốc và bước đi cà lơ thất thểu.
Bọn thợ săn bấy giờ mới xông tới. Bầy khỉ lảo
đảo chạy, con ngã nghiêng, con ngã ngửa, bị
bắt sạch, không sót một con nào.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động
giống khỉ, nghĩa là họ nhắm mắt bắt chước thiên
hạ, không phân biệt cái tốt hay cái xấu, cái đúng
hay cái sai. Thậm chí cái tốt và cái đúng thì
không theo mà chỉ theo cái xấu và cái sai.
Thấy cầu thủ bóng đá David Beckham húi trọc,
thế là a-lê-hấp, để trở nên giống thần tượng của
mình, họ cũng phó thác cái đầu bù xù của mình
cho bác phó cạo trọc lóc. Thấy các ca sĩ nữ khi
MỤC LỤC

trình diễn mặc áo váy thiếu trước hở sau, thế là


“a-la-mốt” mỗi khi ra đường họ cũng khoác vào
mình những bộ váy áo mát mẻ và nghèo nàn, rất
ư là chướng tai gai mắt, chỉ còn nước lẩm bẩm :
- Khỉ thật.
Ngoài ra, khỉ còn là một loài vật có tính láu cá và
hay quậy phá. Thực vậy, biết bao nhiêu phen
người nông dân trồng rẫy ven rừng đã phải khốn
đốn vì lũ khỉ. Trồng được mấy trăm gốc bắp, sắp
sửa đến ngày thu hoạch, thì chỉ một đêm bị lũ
khỉ kéo đến phá cho một trận te tua, thành thử
phải ca bài :
- Xôi hỏng bỏng không,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Vì thế, người ta cũng hay la mắng những kẻ phá
phách :
- Rõ khỉ.
MỤC LỤC

Ngày kia, con hổ tát chết hai con trâu và xé tan


xác một con lạc đà. Hổ lấy làm kiêu hãnh rằng
mình dũng cảm, bèn lên một mỏm đá nằm lăn
ra, khoái chí và lớn tiếng khoe khoang :
- Không có con vật nào có thể đọ sức cùng ta
được. Ngay cả đến voi cũng phải cúp đuôi chạy
mất, nếu gặp ta và bị ta tát cho vài tát. Trời đã
sinh ta như vậy. Chẳng thèm cầu cạnh nhờ vả
ai.
Bỗng nhiên, một phiến đá nhọn lở ra rơi từ đỉnh
núi xuống, trúng lưng hổ làm hổ bị thương.
Nhưng hổ vẫn không tỉnh ngộ. Lát sau, hổ trở
dậy, đi ra suối uống nước và nằm trên bờ ngủ
thiếp đi lúc nào không hay. Cạnh đấy có một tổ
kiến lửa. Kiến bò ra, leo lên, chui vào vết thương
của hổ và ra sức đốt. Hổ đau quá, chồm dậy,
lồng lộn và gầm vang chuyển cả đồi núi. Cạnh
MỤC LỤC

đấy có một chú khỉ ngồi trên cây. Chú khỉ thấy
hổ quay cuồng bèn phá lên cười và nói :
- Ê chàng dũng sĩ kia! Lòng can đảm và sức lực
của ngươi bỏ đâu mất rồi ? Ngươi vừa mới khoe
khoang là chẳng có con vật nào địch nổi sức
mạnh của ngươi cơ mà. Tại sao bây giờ ngươi
lại hoảng hốt giãy giụa lên như thế. Rõ thật là
bêu chưa ?
Hổ nghe nói rất lấy làm xấu hổ, liền năn nỉ :
- Tôi lạy anh, xin anh làm phúc phủi kiến ra khỏi
vết thương hộ tôi. Ơn này suốt đời tôi thề sẽ
chẳng bao giờ quên.
Một câu chuyện nữa chứng minh cho tính láu cá
của khỉ. Ngày nọ, khỉ đang lang thang thì gặp
bác bò đang cày ruộng. Khỉ nói :
- Tôi rất thích cày ruộng, bác để tôi giúp cho
nhé.
Cày được mấy luống, khỉ nói :
MỤC LỤC

- Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi


cần phải đi ngay đây.
Đi được một quãng, khỉ gặp thím chim ưng đang
làm tổ. Khỉ vội nói :
- Làm tổ là nghề của tôi, thím để tôi giúp cho
nhé.
Nhặt được mấy cọng cỏ khô, khỉ nói :
- Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi
cần phải đi ngay đây.
Đi được một quãng, khỉ gặp chú thỏ đang đào
hang. Khỉ nói :
- Tôi rất rành nghề đào hang, chú để tôi giúp cho
nhé.
Gãi đất được mấy cái, khỉ nói :
- Ấy chết, tôi quên mất một việc quan trọng, tôi
cần phải đi ngay đây.
MỤC LỤC

Thời gian trôi qua, khỉ trở về vào mùa lúa chín.
Thấy mọi người ca tụng bác bò vì thửa ruộng
bác cày thật trúng, khỉ vội nói :
- Ấy ấy, tôi cày ruộng đấy chứ.
Thấy mọi người khen ngợi thím chim ưng vì
chiếc tổ thím làm thật bền chắc, khỉ vội nói :
- Ấy ấy, tôi làm đấy chứ.
Thấy mọi người chúc mùng chú thỏ vì chiếc
hang chú đào thật ấm áp, khỉ vội nói :
- Ấy ấy, tôi đào đấy chứ.
Nghe thấy vậy, nhiều người ấm ức trong bụng
và đã phát ngôn thành lời :
- Có cái khỉ mốc gì đâu.
Nhiều người trong chúng ta cũng hành động
giống như khỉ, nghĩa là họ nói thì nhiều mà làm
chẳng được bao nhiêu, họ nói thì hay mà làm lại
chẳng hay chút nào. Họ thích làm giám…đốc,
MỤC LỤC

giám…xúi, chứ chẳng muốn giơ ngón tay lay thử


một ly ông cụ nào sốt.
- Khỉ thật.
Tuy nhiên, có một nét nổi bật của loài khỉ
thường các cụ ta ngày xưa nhắc đến qua văn
chương chữ nghĩa, đó là một tình thương chan
hòa và lai láng.
Hẳn rằng khi học truyện Kiều của Nguyễn Du,
chúng ta đều thuộc lòng câu thơ bất hủ :
- Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Hai chữ “đoạn trường” ở đây có nghĩa là đứt
ruột, để chỉ những sự việc thảm thương đến
cùng độ, khiến cho người ta nghe qua cảm thấy
như đứt từng đoạn ruột, tan nát cả cõi lòng.
Theo sách “Sưu Thần Hậu Ký” thì có một người
thợ săn bắt được một con khỉ con, đem về làm
thịt. Khỉ mẹ trông thấy, cứ ở trên cây kêu la thảm
thiết mãi, rồi buông tay té xuống đất mà chết.
MỤC LỤC

Đến khi mổ bụng ra, người thợ săn thấy ruột của
khỉ mẹ đứt ra từng khúc.
Tương truyền rằng : Ở đất Vũ Bình có giống
vượn, lông đỏ như vang, nõn như tơ, trông xa
lấp lánh rất là đẹp mắt. Hai mẹ con nhà vượn,
mẹ thì khôn ngoan và tai quái, còn con thì ngây
ngô và nhẹ dạ, nhưng lúc nào cũng đi liền bên
mẹ.
Người thợ săn không thể nào nhử mồi, đánh bẫy
được, mới lấy thuốc độc xát đầu mũi tên, rình
lúc vượn mẹ vô ý, thì bắn ngay. Vượn mẹ bị
bắn, biết mình không thể sống được, vắt sữa
xuống cỏ cho con uống, xong rồi lăn ra mà chết.
Người thợ săn quay về phía vượn con, cầm roi
quật vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy thế, kêu
gào thương xót, chạy ngay lại gần và người thợ
săn bắt sống được.
MỤC LỤC

Lúc về nhà, cứ đêm đêm vượn con nằm phục


bên xác mẹ, thì mới yên. Một đôi khi lại ôm lấy
kêu gào, vật vã rất thảm thiết. Không được mấy
hôm vượn con cũng chết.
Than ôi! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ,
huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên
mẹ, phụ lòng mẹ ư ?
Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại hành
động thua kém cả loài khỉ. Cha mẹ thì đay
nghiến và đánh đập con cái, còn con cái thì hất
hủi và bạc bẽo với cha mẹ.
Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật số
ra ngày 29.6.2003 thì tại Thành phố Hồ Chí Minh
đã xảy ra một vụ án đau lòng. Vụ án đau lòng
này rất đáng cho chúng ta dừng lại và suy gẫm.
Một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con
gái, người mẫu Võ Thị Thu Trâm, trước ngày cô
lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục
MỤC LỤC

địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi


sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua
bán ve chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi
bắt đầu nổi tiếng, cô cũng mặc cảm về thân
phận người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà
và nhất là đã đối xử tệ bạc..
Bài báo còn đưa ra những trường hợp điển hình
khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày trước, một phụ
nữ ở huyện Bình Chánh trong khi cãi cọ với
chồng, đã bị chồng đạp vỡ lá lách phải đi cấp
cứu ở bệnh viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa
tuyên án tử hình Trần Văn Nam, do ham chơi và
đua đòi đã giết bà nội để lấy năm chỉ vàng và
bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong
những cơn say triền miên thường hay quậy phá,
gây sự với cha mẹ già và đã ra tay giết người
cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao…
MỤC LỤC

Đọc những mẩu tin trên, ai mà chẳng phải lắc


đầu ngao ngán cho “cái tình đời lạnh lẽo và cái
tình người bạc bẽo” :
- Khỉ thật.
Để kết thúc những chuyện lỉnh kỉnh về khỉ, gã
xin giới thiệu một món đặc sản cho dân bợm
nhậu trong những ngày đầu xuân, đó là món óc
khỉ.
Tương truyền rằng khi bà Từ Hi Thái Hậu bên
Tàu mở tiệc thết đãi các quan chức chính gốc
Ăng Lê, thì trong thực đơn có món tuyệt chiêu
này. Tuy là tuyệt chiêu, nhưng lại thật đơn giản.
Phía dưới bàn ăn, người ta đóng những chiếc
hộc nhỏ. Trong mỗi chiếc hộc nhỏ, người ta nhốt
một con khỉ. Phía trên bàn ăn, người ta khoét lỗ
để cái chỏm đầu của con khỉ được nhô lên.
Tới lúc các quan chức dùng, thì người hầu bàn
mang dao tới, rồi phụt một cú, cái chỏm đầu của
MỤC LỤC

con khỉ bị cắt ngang, để lộ ra bộ óc còn nguyên


vẹn và…đỏ hỏn. Bấy giờ các quan chức chỉ cần
vắt chanh, nêm muối tiêu, rồi lấy thìa xúc mà ăn.
Ăn vào, thập phần bổ béo, còn đầu óc thì trở
nên minh mẫn và thông suốt.
Không hiểu các quan chức lúc bấy giờ cảm
nhận như thế nào, chứ riêng gã khi nhìn thấy
người ta làm thịt khỉ thì đã rùng mình khiếp sợ.
Con khỉ bị cạo lông trông giống y chang một đứa
con nít…làm sao mà nuốt cho nổi.
Riêng những ai mình mẩy đau nhức, mắt mũi
kèm nhèm thì trong năm mới này, hãy tìm mua
cho được một lạng cao khỉ, đem về ngâm với
rượu mà uống. Uống vào, mình mẩy sẽ khỏe
khoắn. Ngoài ra, cao khỉ còn có tác dụng tuyệt
vời, đó là làm sáng mắt mình mà tối mắt thiên
hạ.
- Khỉ thật.
MỤC LỤC

CHẠY...

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Đêm. Ánh trăng vàng đổ xuống ê hề trên một
khoảng sân rộng. Gió thổi mơn man. Xấp nhỏ
đang chơi trò “Vân Tiên”. Chúng chia thành hai
phe, đối đáp nhau bằng những vần thơ thật dễ
thương, một phe vần a, còn một phe vần ô, để
xem phe nào nhanh trí, còn phe nào bí lối thì liền
bị thua. Bị thua thì phải cõng phe kia chạy một
vòng quanh sân.
Một người xướng :
- Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,
Phe a :
- Đụng phải bà giàø, cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,
Phe ô :
- Đụng phải nhỏ bồ, cõng mẹ chạy ra.
Vân Tiên cõng mẹ chạy ra,
MỤC LỤC

Phe a :
- Đụng phải…đờn bà, cõng mẹ chạy vô.
Vân Tiên cõng mẹ chạy vô,
Phe ô :
- Đụng phải thầy đồ, cõng mẹ chạy ra.
Cứ thế và cứ thế…Những tiếng cười lanh lảnh,
trong suốt như pha lê, không hề chất chứa một tí
ti ý đồ đen tối nào cả vang lên giữa đêm khuya
thôn dã…
Còn gã, đang ngồi căng mắt để đọc cho hết một
chồng báo mới mua. Nói theo kiểu con nhà có
đạo thì :
- Đã trót ăn cơm Chúa, thì phải múa tối ngày.
Còn nói theo kiểu mấy ông cán bộ nhà nước
thì :
- Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm.
Tiếng dế quyện lẫn với tiếng muỗi vo ve tạo
thành một bản hợp xướng tuyệt vời mà dân
MỤC LỤC

thành thị bây giờ có nằm mơ cũng chẳng thấy.


Bất ngờ gã liếc qua một bài viết ngăn ngắn có
tựa đề : “Chạy + Y = ?” của tiến sĩ Phạm Văn
Tình, đăng trên tờ “Tuổi trẻ Chủ Nhật” số 44-03,
ra ngày 02 tháng 11 năm 2003. Càng đọc, gã lại
càng cảm thấy “tâm đầu ý hợp” với tác giả, nên
đã tự thưởng cho mình, bằng cách vỗ đùi đánh
đét một phát, rồi bắn một điếu thuốc lào ba số
tám và lẩm bẩm :
- Tuyệt…Thật là tuyệt cú mèo!
Vì thế, hôm nay gã xin mượn đỡ một vài ý tưởng
của bài viết ấy, để tán dài tán rộng hơn một chút
xíu về động tác…chạy.
Động từ chạy trong ngôn ngữ Việt Nam mang
rất nhiều nghĩa, và có những nghĩa chẳng liên
quan gì tới chân, tới cẳng. Chẳng hạn :
Chạy có nghĩa là kéo dài ra, như khi chúng ta
nói :
MỤC LỤC

- Dãy núi này chạy dài từ Châu Đốc tới Tịnh


Biên.
Chạy có nghĩa là chịu thua, như khi chúng ta
bảo :
- Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Chạy có nghĩa là lưu loát, thông suốt, không vấp
váp và cũng không ế ẩm, như khi chúng ta xác
quyết :
- Anh ấy nói chạy tiếng Ăng Lê quá.
- Cô ta bán hàng chạy đấy chứ.
Tuy nhiên, những nghĩa trên đây chỉ là những
nghĩa phụ thuộc, những nghĩa lẻ tẻ mà thôi. Gã
sẽ bàn đến những ý nghĩa chính yếu của động
tác…chạy.
Trước hết, chạy có nghĩa là di chuyển thân thể
với những sải bước nhanh, chân này chưa kịp
động tới đất thì chân kia đã giơ lên :
- Đường dài ngựa chạy cát bay,
MỤC LỤC

Ngỡi nhân thăm thẳm, một ngày một xa.


Hồi còn bé, gã được học trong sách “Quốc Âm
Giáo Khoa Thư” về một câu đố như sau :
- Con gì ban sáng nó đi bốn chân, ban trưa nó đi
hai chân, còn ban chiều nó đi ba chân.
Xin thưa rằng :
- Đó là con người. Ban sáng có nghĩa là khi mới
sinh ra, chúng ta bò bằng cả hai tay lẫn hai
chân, như vậy vị chi là bốn chân. Ban trưa có
nghĩa là khi trưởng thành, chúng ta đứng thẳng
và đi bằng hai chân. Còn ban chiều có nghĩa là
khi đã về già, chúng ta phải chống thêm một
chiếc gậy, như vậy vị chi là ba chân.
Nếu dựa vào câu đố này, thì chạy phải là một
đặc tính của người trẻ. Trẻ về phần xác cũng
như trẻ về phần hồn, bởi vì trên thế gian này có
nhiều người “nhân lão, tâm bất lão”, hình dong
bên ngoài thì già, nhưng cõi lòng bên trong thì
MỤC LỤC

vẫn trẻ măng và phơi phới. Con nít mới bảy


tháng biết bò, thì không thể nào mà chạy. Còn
các cụ mang nặng tuổi đời, phải chống gậy mà
đi, thì cũng chẳng thể chạy nổi.
Tùy theo vận tốc, mà người ta có những kiểu
chạy khác nhau, chẳng hạn bon bon, chạy như
bay, chạy có cờ, chạy lút ga…Tùy theo hình hài
vóc dáng, người ta có những cách chạy chẳng
giống ai, thí dụ chạy cong đuôi, chạy cắm đầu,
chạy đôn chạy đáo, chạy ngược chạy xuôi, chạy
sấp chạy ngửa, chạy dọc chạy ngang…Riêng
trong phạm vi máy móc, tùy theo nhiên liệu,
người ta cũng có những hình thức chạy riêng
biệt, chẳng hạn chạy hơi nước, chạy dầu, chạy
điện…
Trên lãnh vực thể dục và thể thao, ngày xưa
cũng như hôm nay, chạy bộ đã trở thành một
môn có tên trong những cuộc thi đấu quốc tế. Và
MỤC LỤC

người ta cũng có nhiều kiểu chạy, nhiều cách


chạy và nhiều hình thức chạy. Chẳng hạn trong
lễ khai mạc thì có chạy đuốc. Trong thi đấu, thì
có chạy tiếp sức, chạy nhảy rào… Tùy theo
khoảng cách, thì có chạy 500 mét, chạy 1000
mét…Đối với phong trào quần chúng, thì có
chạy “việt dã”, tức là chạy trong địa hình tự
nhiên như chạy băng đồng hay băng rừng. Còn
chạy “marathon”, tức là chạy đường dài, những
người thi đấu phải chạy một khoảng đường dài
chừng 42km195.
Ngoài ra, người ta còn tham dự những cuộc
chạy bộ với những lý do khác nhau, chẳng hạn
chạy bộ vì hòa bình và phản đối chiến tranh,
chạy bộ vì bệnh Aid và cổ võ cho một nếp sống
lành mạnh.
Trong những thập niên gần đây, thỉnh thoảng lại
xuất hiện trên báo chí và truyền hình, lác đác
MỤC LỤC

một vài “độc chiêu” của việc chạy, đó là “truồng


chạy”, nghĩa là người ta cởi truồng tô hô mà
chạy khơi khơi ngoài đường phố cốt để phản đối
một chuyện gì đó.
Chẳng hạn cách đây mấy năm ở bên Nhật mười
mấy người cũng đã truồng chạy để phản đối
việc thiên hạ mặc áo da thú, bởi vì để được mặc
như vậy, người ta đã phải giết chết biết bao
nhiêu nhiêu con vật đáng thương và vô tội, lấy
da mới may thành một chiếc áo…
Nếu chỉ có vậy mà thôi, thì chạy vẫn còn là một
việc làm lành mạnh và đem lại nhiều lợi ích cho
sức khỏe. Các bác sĩ vốn thường khuyên những
người đã lỡ mang nặng “tí tuổi” đời, cũng như
những người vốn mắc phải một chứng bệnh nan
y nào đó, chẳng hạn như cao huyết áp, tiểu
đường, sạn thận…phải vận động bằng cách mỗi
MỤC LỤC

ngày chạy bộ hay đi bộ ít phút cho máu huyết


được lưu thông.
Tuy nhiên, chỉ có một chút vẩn đục trong phạm
vi này, đó là mấy chị vận động viên hay mấy anh
lực sĩ vì cá nhân quá ham thích những chiếc huy
chương vàng, hay vì màu cờ sắc áo, vì tự ái dân
tộc thúc đẩy, mới dại dột xơi “doping”, dùng chất
kích thích để tăng thêm sức lực, hầu đạt tới mục
đích mong muốn, nhưng họ cũng khó mà vượt
qua được những xét nghiệm trước khi thi đấu.
Kinh nghiệm cho thấy cuộc đời không đơn giản
và trong suốt như pha lê. Trái lại, luôn có những
chữ “nhưng”, chữ “tại”, chữ “bởi vì”, chữ “ví
như”…làm cho trở nên thật nhiêu khê và rắc rối.
Nếu chỉ cắm đầu cắm cổ chạy thẳng một lèo, thì
đâu còn chi phải nói, đằng này người ta có thể
chạy vòng vo tam quốc, thành thử người ta cũng
phát minh ra những kiểu chạy…trời ơi đất hỡi!!!
MỤC LỤC

Với trò chơi của xấp nhỏ trong đêm trăng sáng,
gã thấy được hai nhóm chạy :
- Nhóm thứ nhất là chạy ra, nhóm thứ hai là
chạy vô.
Còn trong việc giao tiếp hằng ngày, gã cũng
nhận ra hai nhóm chạy :
- Nhóm thứ nhất là chạy lui, nhóm thứ hai là
chạy tới.
Theo sự phân tích của tiến sĩ Phạm Văn Tình,
thì :
“Ở nhóm thứ nhất, người ta “chạy” là để tránh xa
một sự thể đang nói tới, như chạy giặc có nghĩa
là tránh xa vùng giặc giã, nguy hiểm…Còn ở
nhóm thứ hai, thì ngược lại, người ta “chạy” là
để mong có được cái đang nói tới, như chạy
việc có nghĩa là lo liệu tìm được việc làm như
lòng mong muốn…”
MỤC LỤC

Từ đó, chúng ta có thể quả quyết : nhóm một


chạy là để tránh xa hay thoát khỏi, còn nhóm hai
chạy là để có được hay xáp vô. Gã xin dừng lại,
bàn ngang tán dọc về hai nhóm này một chút.
Trước hết, nhóm thứ nhất chạy là để tránh xa
hay thoát khỏi. Gã xin đưa ra những trường hợp
điển hình.
Thí dụ thứ nhất, đó là chạy mưa. Đang đi khơi
khơi trên đường phố vào một buổi chiều nhàn
nhã, bỗng dưng trời đổ mưa. Một cơn ngoài dự
tính, như người ta vốn thường diễn tả :
- Trời Saigon, chợt mưa và chợt nắng.
Và thế là phải ba chân bốn cẳng mà “chạy mưa”,
tìm một chỗ nào đó để trú cho khỏi bị ướt.
Tương tự như vậy là chạy lụt, chạy bão…Gã
nhớ hồi còn nhỏ, có một năm đồng bằng sông
Cửu Long bị lụt lớn, nước dâng cao ngập đường
đi, cũng như ngập nền nhà. Mọi sự đều bị nhận
MỤC LỤC

chìm trong biển nước bao la, cộng thêm vào đó,
một cơn bão thổi tới, tạo thành những con sóng
“bạc đầu” giữa chốn đồng không mông quạnh.
Và để an toàn, cả nhà gã lập tức được di tản lên
thành phố, ở trọ nhà một người quen, chờ cho
tới khi nước rút mới trở về. Chỉ riêng một mình
bố của gã là bám trụ ở lại để trông coi nhà cửa,
vật dụng cùng những thứ kỉnh kỉnh khác nữa.
Thí dụ thứ hai, đó là chạy loạn. Chuyện này thì
gã đã hơn một lần kinh nghiệm. Gã còn nhớ rất
rõ, khoảng đầu năm 1975, gã đang sống yên ổn
tại Đalạt, một thành phố thơ mộng và xinh đẹp
nhất Việt Nam. Rồi bỗng dưng, con những ông
lớn được gửi học tại đây, dần dần được di tản
“chiến thuật” về Saigon. Thế là dân chúng lập
tức ăn theo, cũng tìm cách chạy loạn, rút khỏi
thành phố này một cách êm ru bà rù, không kèn
không trống. Tới khoảng giữa tháng ba, thì
MỤC LỤC

thành phố này như đã trở nên một thành phố


chết. Xe cộ không còn. Người ngợm thưa thớt.
Đến ngày 20 tháng 3, thì một tin đồn được tung
ra :
- Việt Cộng sẽ chiếm Đalạt nội trong đêm nay.
Lập tức một đợt di tản cuối cùng được hình
thành. Người ta hối hả chạy loạn, ra khỏi thành
phố này bằng bất cứ phương tiện nào, tạo nên
một chuỗi dài hàng cây số đủ thứ xe cộ, bò
xuống đèo Ngoạn Mục, miễn sao mình phải
“biến” trước khi màn đêm buông rơi. Riêng gã
thì ngồi chung cùng với nhiều người khác trên
một chếc xe “ben”, thứ xe được dùng để chở
cây rừng. Rất may tối hôm đó cũng tới được
Phan Rang và thở phào nhẹ nhõm. Rồi từ Phan
Rang tìm đường vô Phan Thiết. Rồi từ Phan
Thiết, kiếm ghe chạy vô Vũng Tàu.
MỤC LỤC

Thí dụ thứ ba, đó là chạy tội hay chạy án. Một


công dân rất mực lương thiện, nhưng chẳng
may bị ma dẫn lối quỉ đưa đường, nghe theo
những lời dụ dỗ đường mật, khiến cho lòng
tham nổi lên đùng đừng, phạm vào một trọng tội,
như cướp của, giết người, tham nhũng hối lộ
hay biển thủ công quĩ…Những tội này, chiếu
theo luật pháp, sẽ bị tử hình, hay ít nữa cũng
vào nằm nhà đá mà đếm lịch mệt nghỉ. Và thế là
bèn vội vã chạy tội hay chạy án, nghĩa là tìm
cách làm sao cho thoát tội hay được giảm án
phạt, bằng cách thuê luật sư giỏi, gân cổ cãi cho
mình, biến đen thành trắng, hay mua đứt quí vị
quan tòa, từ chánh án cho đến anh long tong
chạy giấy.
Tiếp đến, nhóm thứ hai, đi ngược lại với nhóm
thứ nhất. Trong nhóm này, người ta chạy là để
MỤC LỤC

có được hay sáp vô. Gã cũng xin đưa ra những


trường hợp điển hình.
Thí dụ thứ nhất, đó là chạy gạo hay hạy tiền. Gia
đình lâm vào cơn túng quẫn, thì vấn đề nổi cộm
hiện ra trước mắt chính là vấn đề “cơm áo gạo
tiền”. Vì thế, bụng đói thì đầu gối phải bò, nghĩa
là phải vắt giò lên cổ, chạy gạo từng ngày, làm
sao có được những hạt cơm lấp đầy những cửa
miệng, dường như lúc nào cũng sẵn sàng ngoác
tới tận mang tai để kêu đói như tàu…há mồm. Vì
thế, người xưa đã bảo :
- Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Giải quyết được chuyện bao tử cũng chưa đủ,
bởi vì muốn làm bất cứ việc gì, thì vấn đề đầu
tiên bao giờ cũng vẫn là vấn đề tiền đâu. Không
có tiền, thì cái khó bó cái khôn, đành phải thúc
thủi chịu vậy mà thôi. Có bột mới gột nên hồ. Có
MỤC LỤC

tiền thì mới có cơ may phất lên. Vì thế, cũng


phải vắt giò lên cổ mà chạy tiền, làm sao để có
được tiền, càng nhiều càng tốt, mới cảm thấy
được bảo đảm an toàn.
Thí dụ thứ hai là chạy thày chạy thuốc. Phàm đã
là người, thì ai cũng ham sống và không muốn
chết, vì thế chẳng may bị đau yếu hay bệnh
hoạn, thì lập tức phải chạy thày chạy thuốc, để
chóng được bình phục trở về với cuộc sống
thường ngày.
Thí dụ thứ ba là chạy điểm, chạy trường. Muốn
cho con em mình được lên lớp, thì phải lo chạy
điểm, nghĩa là phải biết điều với thày cô để con
em mình có đủ số điểm cần thiết, không bị lưu
lại lớp cho năm học tới. Rồi trước ngày khai
giảng, muốn cho con em mình được học ở
những trường nổi tiếng, bảo đảm chất lượng
giảng dạy, thì phải lo…chạy trường, bằng cách
MỤC LỤC

ký sổ vàng, đóng góp kha khá cho ban giám


hiệu thì mới hy vọng con em mình được nhận.
Thứ tư là chạy việc. Hiện thời tại Việt Nam, biết
bao nhiêu sinh viên tốt nghiệp với bằng cấp rủng
rỉnh, thế mà vẫn cứ bị thất nghiệp, vẫn cứ bị sao
quả tạ chiếu tướng và vẫn cứ bị bà cả đọi viếng
thăm dài dài. Vì thế, trước khi thò chân bước
xuống cuộc đời, phải biết lo chạy việc, nghĩa là
tìm cho mình một việc làm phù hợp với khả
năng, và hơn thế nữa một việc làm đem lại tiền
lương hậu hĩnh, khả dĩ nuôi sống bản thân và
những người trong gia đình…
Thứ năm là chạy lên lương hay lên chức. Thực
vậy, khi đã có việc làm ổn định, thì phải lo chạy
để lên lương hầu có thể rủng rỉnh chi tiêu, mua
sắm và trang bị cho mình những tiện nghi hiện
đại, đỡ tốn sức lao động và bớt phần nhọc nhằn
cho cái thân thể gầy còm ốm yếu. Trong khi đó
MỤC LỤC

nhiều người lại cắm đầu cắm cổ chạy để được


thăng chức, mà nghênh ngang với đời, chứ làm
phó thường dân, “vai nặng chân trơn” mãi cũng
chán, đã đến lúc phải có danh gì với núi sông,
phải có một cái nhãn hiệu trình tòa, một cái lon,
cái chức nào đó gắn vào cái tên cúng cơm của
mình thì mới…oai và mới được thiên hạ kiêng
nể!
Gã biết một thầy sáu, được bề trên gọi tiến
chức. Khi làm đơn nộp cho nhà nước xét duyệt,
thầy tự vấn lương tâm, thấy mình chẳng có tí
công trạng nào. Và thế là những người thân
quen với thầy bèn làm một màn chạy thật đẹp
mắt, đó là chạy…bằng khen.
Ai quen cơ quan nào, thì cố gắng khều cho thầy
một bằng khen. Và cuối cùng thầy đã có được
một bề dày thành tích đáng kể đối với…cách
mạng. Những tấm bằng khen được nộp kèm
MỤC LỤC

theo đơn xin, tạo thành một tập hồ sơ nạêng ký.


Từ bằng khen nuôi lợn, nuôi cá, đến bằng khen
cấy lúa, trồng cây. Từ bằng khen xóa đói giảm
nghèo đến bằng khen xóa nạn mù chữ. Thầy
anh dũng bước đi với những bằng khen che
phía trước, chắn phía sau để tiến tới chức thầy
cả!!!
Nói tóm lại trên cõi đời này, cái gì người ta cũng
có thể chạy, hay nói cách khác, người ta lao đầu
vào chạy đủ thứ, chạy tuốt luốt, chạy từ cái
trường mẫu giáo cho con em đi học, chạy ngay
cả đến cái ghế tổng thống cho cá nhân được
vinh thân phì gia, nở mày nở mặt với bàn dân
thiên hạ…tất tật đều có thể thực hiện được bằng
cách…chạy.
Qua sự phân tích trên, gã thấy nguyên việc chạy
mà thôi cũng đã gây nên biết bao nhiêu điều rắc
rối. Và nói theo kiểu dự báo thời tiết thì :
MỤC LỤC

- Diễn biến còn nhiều phức tạp, quí vị cần theo


dõi.
Trong cả hai nhóm chạy, nhóm chạy ra cũng
như nhóm chạy vô, nhóm chạy lui cũng như
nhóm chạy tới, nhóm chạy để mong tránh khỏi
cũng như nhóm chạy để mong có được, đều
xuất hiện những kiểu chạy chẳng liên quan gì tới
chân, tới cẳng, bởi vì người ta chạy bằng những
phương tiện khác nhau.
Chẳng hạn người ta chạy bằng…ô dù, nghĩa là
lợi dụng tình nghĩa thân quen, hay chức quyền
để tránh khỏi điều xấu và đạt được điều tốt.
Một ông bố quyền cao chức trọng, chạy tội cho
cậu ấm vì đã phóng xe vượt ẩu, gây tai nạn chết
người. Một bà mẹ làm lớn chạy việc cho cô
chiêu để có được một ghế ngồi vững chắc với
lương tháng hậu hĩnh trong công ty. Thật đúng
như người xưa đã diễn tả :
MỤC LỤC

- Con vua thì lại làm vua,


Con nhà kẻ khó, bắt cua tối ngày.
- Con vua thì lại làm vua,
Con nhà thầy chùa, lại quét lá đa.
Chẳng hạn người ta chạy bằng…bao thư, bằng
phong bì, nghĩa là dùng tiền bạc để thực hiện
điều mình mong muốn. Đưa bệnh nhân tới nhà
thương cũng phải sắp sẵn bao thư hay phong
bì, dĩ nhiên trong đó phải có nhân, có ruột, nghĩa
là phải…có tiền. Tiền này được gọi là tiền “bồi
dưỡng” cho y tá, cho bác sĩ để bệnh nhân được
chăm sóc đến nơi đến chốn.
Muốn chạy tội và trắng án, cũng phải lo lót bao
thư hay phong bì cho chánh án, cho thẩm phán.
Muốn con em có được một nơi học tốt, cũng xùy
bao thư hay phong bì ra cho ban giám hiệu.
MỤC LỤC

Thời buổi bây giờ, bao thư hay phong bì đang


nở rộ, như hoa đào khoe sắc vào mỗi độ xuân
về. Thật đúng như người xưa đã nói :
- Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
- Có tiền việc ấy mà xong nhỉ.
Người ta còn có thể chạy bằng những phương
tiện “âm u” khác nữa, như chạy bằng bửu, bằng
sắc, nghĩa là giải quyết công việc bằng tiệc nhậu
hay bằng đờn bà con gái…Những cách chạy
này, gã xin được “nô-tế-bồn”, nghĩa là xin được
miễn bàn tới ở đây, mong bàn dân thiên hạ
thông cảm cho gã.
Một khi đồng tiền đi trước và chức quyền theo
sau, người ta chẳng cần phải tốn sức lao động
mà chạy tới chạy lui, chạy ra chạy vô, chẳng cần
phải giơ chân nhấc cẳng bước một bước nào
sốt, cứ việc ung dung ngồi chơi xơi nước ở nhà,
chỉ cần nói một lời nói êm dịu, nhắc một cú
MỤC LỤC

“phôn” ngắn ngủi là xong. Khỏe re! Thế nhưng,


khỏe cho bản thân mình, nhưng lại phá vỡ các
tiêu chuẩn đạo đức và làm cho xã hội bị băng
hoại.
Để kết luận, gã xin kể lại hai mẩu chuyện tiêu
biểu cho hai kiểu… chạy đáng chạy vì chúng
mang tích cách xây dựng.
Mẩu chuyện thứ nhất, đó là cuộc chạy đua giữa
rùa và thỏ.
Vào một buổi sáng đẹp trời, thỏ rủ rùa ra đường
chạy đua xem ai tới đích trước. Ỷ vào tài chạy
nhanh của mình, thỏ nằm dưới gốc cây cổ thụ.
Gió thổi hiu hiu đưa thỏ vào giấc ngủ. Trong khi
đó, rùa chậm chạp bò lê từng bước, từng bước
một. Khi thỏ chợt tỉnh, dụi mắt nhìn thì thấy rùa
đã gần tới đích. Bấy giờ thỏ mới ba chân bốn
cẳng, chạy vắt giò lên cổ thế mà cũng chẳng
đuổi kịp, bèn thúc thủi chịu thua.
MỤC LỤC

Chuyện này khuyên chúng phải kiên nhẫn, bởi vì


sự kiên nhẫn sẽ dẫn tới thành công :
- Nước chảy đá mòn.
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Có công mài sắt, có ngày nên kim.
Mẩu chuyện thứ hai, đó là chạy nhân chạy
nghĩa.
Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn
nhiều. Một hôm sai Phùng Huyền sang đất Tiết
đòi nợ. Lúc sắp đi, Phụng Huyền hỏi :
- Tiền nợ thu được, có định mua gì về không ?
Mạnh Thường Quân nói :
- Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì thì
mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyền cho gọi dân lại,
bảo rằng :
- Các ngươi còn nợ bao nhiêu, Mạnh Thường
Quân đều tha cho cả.
MỤC LỤC

Rồi đem văn tự ra đốt sạch.


Lúc về, Phùng Huyền thưa với Mạnh Thường
Quân rằng :
- Nhà tướng công châu báu đầy kho, chó ngựa
đầy chuồng, người đẹp đầy buồng, không còn
thiếu sự gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”
mà thôi, nên tôi trộm phép vì tướng công đã
mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không
hỏi han gì đến tiền bạc nữa.
Sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, phải về ở
đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón
rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ
mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyền rằng :
- Trước tiên sinh vì tôi mua nghĩa, nghĩa ấy ngày
nay tôi mới trông thấy.
Đúng là Phùng Huyền đã mua nhân mua nghĩa,
hay nói cách khác, đã “chạy nhân chạy nghĩa”
MỤC LỤC

cho Mạnh Thường Quân. Thế nhưng, ngày hôm


nay có được bao nhiêu người cũng biết “chạy
nhân chạy nghĩa” cho mình như vậy ?
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

CÓ TIỀN

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Năm nay tết đến hơi sớm, vỏn vẹn sau Giáng
sinh có một tháng, thành thử gây nên nhiều nỗi
truân chuyên, bất tiện cho gã.
Chuyện là trong số báo trước, gã đã long trọng
cầu chúc quí vị một năm mới đầy hạnh phúc.
Thế là yên chí “nhớn” mà nhởn nhơ phè phỡn
theo kiểu “hưởng xuân kẻo hết xuân đi”.
Ai dè trong lúc thả hồn theo điếu thuốc lào mà
mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây, thì cụ chủ
nhiệm ra lệnh qua điện thoại :
- Số tháng hai, chú mày phải tán hiêu tán vượn
cho một bài nữa mang hơi hướm tết đấy.
Gã bèn gân cổ cãi lại, thì cụ ấy bèn cà kê dê
ngỗng :
MỤC LỤC

- Này nhé, báo đề số tháng hai thì phải ra lò và


trình làng vào cuối tháng giêng tây, tức là còn ở
“trong mùng” ta đứt đuôi con nòng nọc rồi chứ
gì. Hơn thế nữa các cụ ta vốn thường bảo :
tháng giêng là tháng ăn chơi kia mà.
Rồi cụ bồi thêm một màn năn nỉ ỉ ôi và một cú
đắc nhân tâm nữa làm gã ngọng luôn.
Cụ bảo :
- Thôi mờ, chịu khó viết đi nhé. Bài của chú mày
bắt khứa lắm đấy.
Thế là gã bèn tịt ngòi, thầm “khẩu phục tâm
phục” cụ chủ nhiệm thật là…quá đáng.
Mà đúng thế, đang khi thiên hạ ăn tết, thì có lẽ
cụ chủ nhiệm lại hò hét, đốc thúc những người
cộng tác với mình ráo riết lên khuôn và xuất
xưởng số Mục vụ tháng hai theo khẩu hiệu :
MỤC LỤC

- Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm…Xong


xuôi rồi mình ăn tết muộn, có chết thằng tây đen
nào đâu.
Giống như vua Quang Trung ngày xưa, thần tốc
hành quân, đi ngày đi đêm, hẹn thề với binh
tướng sẽ ăn tết vào ngày mồng năm tại đất
Thăng long.
Và quả thực, đúng ngày mồng năm tết năm Kỷ
dậu 1789, vua Quang trung cùng với binh tướng
của mình, đã chiến thắng quân nhà Thanh sang
lấn chiếm nước ta lấy cớ phù Lê. Tướng nhà
Thanh là Sầm nghi Đống phải thắt cổ mà chết.
Tết năm nay là tết Tân tỵ, cầm tinh con rắn.
Đáng lý ra theo thói quen vốn có từ lâu trong
nghề làm báo và viết lách, gã phải xông đất vào
hang ổ và làm một bài về loài rắn, mới đúng
điệu.
MỤC LỤC

Vì thế, gã cố công tích lũy được một mớ những


sự việc liên quan tới loài rắn.
Trước hết là trong Kinh thánh. Ma quỉ đội lốt con
rắn để mà cám dỗ ông bà nguyên tổ. Rồi nạn
rắn độc đã giết hại dân Do thái trong sa mạc. Có
lẽ vì thế mà người ta thâm thù loài rắn. Hễ thấy
rắn là phải đập liền tù tì .
Thế nhưng, vâng lệnh Đức Chúa Trời, Mai sen
đã đúc con rắn đồng và treo lên cao nơi hoang
địa, để những ai bị rắn độc cắn, chỉ cần nhìn lên
con rắn đồng là bèn được khỏi. Có lẽ vì thế mà
ngành dược đã lấy cho mình biểu tượng con
rắn.
Tiếp đến là trong ngôn ngữ bình dân. Tục ngữ
Việt Nam đã để lại khá nhiều câu nói về loài
rắn :
Chẳng hạn : rắn đến nhà, chẳng đánh thời quái.
Nghĩa là gặp rắn đâu là phải phang ngay lập tức.
MỤC LỤC

Chẳng hạn : cõng rắn cắn gà nhà. Nghĩa là


mượn tay người ngoài mà giết hại anh em, đồng
bào của mình.
Chẳng hạn : Rắn già rắn lột, người già người
chui tọt vào săng. Nghĩa là rắn già có thể nhờ lột
mà trẻ lại, còn người già thì chỉ có nước mặc
cho mình chiếc “chemise gỗ” mà thôi.
Chẳng hạn : Rắn rết bò vào, cóc nhái bò rai.
Nghĩa là bọn hung dữ đi tới đâu, thì người hiền
lành yếu kém phải lo mà chạy cho xa.
Còn nhiều nhiều nữa những câu tục ngữ nói về
loài rắn.
Và sau cùng là trong đời thường. Phải, trong đời
thường thì tại Việt Nam rắn là món nhậu đặc sản
thật quí hiếm. Người ta không bỏ đi cái gì của
rắn cả.
MỤC LỤC

Này nhé, da rắn mà nướng lên xơi cũng dòn


dòn. Bằng không thì lột ra để mà làm bóp, làm ví
cho mấy bà mấy cô.
Nọc rắn tuy có thể làm chết người, nhưng lại là
một dược liệu có giá trị. Người ta thường nuôi
rắn độc để lấy nọc và nọc rắn còn đắt hơn cả
vàng ròng.
Máu rắn có sức tăng cường sinh lực, chống đau
lưng nhức mỏi. Vì thế, dân bợm nhậu thường
hay treo rắn lên, chặt cái đuôi và kê mồm vào
mút lấy mút để, uống lấy từng giọt máu của nó,
hay cho nhỏ xuống cốc rượu mà…tu.
Thịt rắn thì làm món nhậu. Phải có tiền nhiều thì
mới dám bước chân vô nhà hàng đặc sản mà
kêu món rắn.
Riêng các cụ có tí tuổi thì thường khoái món
“tửu xà” nghĩa là rượu ngâm rắn, hay rắn ngâm
rượu. Phải có đủ bảy hay chín loại rắn độc ngâm
MỤC LỤC

trong keo rượu thì mới đúng là “tửu xà” thứ


thiệc. Uống vào dãn gân dãn cốt, không bổ
ngang thì cũng bổ dọc. Không bổ nháo bổ nhào
thì cũng bổ chẩng.
Theo thiên hạ cho hay :
- Rắn càng độc thì càng quí, càng đắt và càng
có hậu quả bổ dưỡng cao.
Tuy nhiên, người Việt Nam ta ở nước ngoài lâu
ngày lây nhiễm thói tục phương tây. Rất hiếm
người còn khoái món thịt chó.
Vì thế, nếu gã có trình bày về những món rắn,
thì e rằng quí bà quí cô, con cháu Evà sẽ kêu
lên oang oác :
- Eo ơi, đồ ma đồ quỉ.
Vì thế, gã xin chuyển hệ qua một đề tài khác vui
vẻ hơn và tươi mát hơn trong lúc trà dư tửu hậu
của mấy ngày tết. Đó là đề tài “Có tiền”.
MỤC LỤC

Trước hết, gã xin cầu chúc bàn dân thiên hạ


trong năm con rắn này , nếu là thương gia thì
được buôn may bán đắt và tiền chất đầy nhà,
còn nếu là viên chức hay lao động thì vớ được
một cái “job”, một công việc với đồng lương
khấm khớ một chút.
Hay như Tú Xương đã long trọng :
- Nó lại mừng nhau cái sự giàu,
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu ?
Phen nay ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Thế nhưng, có tiền nên buồn hay nên vui ?
Trước câu hỏi này, chắc chắn nhiều người cho
rằng gã là kẻ khù khờ, bởi vì chỉ những kẻ khù
khờ mới hỏi như vậy mà thôi. Còn những người
khôn ngoan sành đời, hẳn phải mừng húm khi
đồng tiền rủng rỉnh trong túi.
MỤC LỤC

Cách đây không lâu, gã nhận được một cái


“meo” của đứa cháu gái bên Mỹ. Chẳng hiểu nó
thuổng ở đâu cái câu “ranh ngôn” thuộc phái
thực dung như sau :
- Thiên đàng là lãnh lương Mỹ, ở nhà Anh, đi xe
Đức, ăn món Tàu và lấy vợ Việt.
- Còn hỏa ngục là đi xe Mỹ, lấy vợ Anh, ăn món
Đức, ở nhà Tàu và lãnh lương Việt.
Xem như thế, lấy được một cô vợ Việt quả là
hạnh phúc bảy mươi đời, bởi vì người đàn bà
Việt nam vốn dịu hiền, chung thủy, biết dạy con
và…chiều chồng. Được khen như thế, hẳn quí
bà quí cô sẽ rất lấy làm hãnh diện, phổng cả cái
lỗ mũi lên ấy. Chứ còn lạnh lùng và phớt tỉnh
như đờn bà Ăng lê thì ai mà thèm ham.
Còn lương Mỹ thì khỏi phải chê vừa nhiều lại
vừa được tính bằng đô la, thấy mà ham. Đem
cái lương Mỹ ấy về Việt nam thì tha hồ mà ăn
MỤC LỤC

tiêu vung vít. Chứ còn “bèo” như lương Việt, thì
chỉ có nước chết đói.
Nhìn vào cuộc sống, mọi người bất kể già trẻ lớn
bé, nam phụ lão ấu và ngay cả người mù cũng
vẫn hiểu được giá trị của đồng tiền, ngay cả
người điếc cũng vẫn nghe được âm thanh của
bản nhạc chỉ có hai nốt đô và la.
Về vấn đề này, gã xin “no table”, nghĩa là “không
bàn” đến vì có một lần gã đã nói tới, và hơn thế
nữa nó lại quá rõ ràng và minh bạch, như hai với
hai là bốn. Gã chỉ xin ghi lại nơi đây một vài tư
tưởng lẩm cẩm được đăng rải rắc trên các báo
tại Việt Nam :
- Tiền trước tiên tôn ta thành thần, thành tiên,
thành thánh…Tiền tạo thành tích. Tiền trong túi,
ta trở thành tiên tiến, ta trở thành tài trí, thân thế
ta tăng trưởng, tên tuổi ta thăng tiến, thình
thương ta thêm thắm thiết, tất thảy trân trọng ta.
MỤC LỤC

Tay thủ tập tiền, tôn ti trật tự tiêu tán. Tù tội tiêu
tan, tội thì thành trong trắng, tù thì tha thứ. Thua
thành thắng. Thất thu thành thành tựu. Thấy
tiền, ta tựa thấy tiên, thấy trước tất thảy. Tiền trợ
thủ ta trên tất tật.
Túng tiền, tư tưởng tinh thần tiêu tùng. Trên
thiếu tin, thắng thành thua, tài tình thành tai
tiếng. Túng tiền, tất thua thiệt. Tình thương tan
tác. Trong trắng thành tối tăm. Thiếu tiền, thân
thế tựa tre tàn. Tủi thân, trở thành ti tiện. Tham
thì thâm thủng tiền tỷ, tiến tới tù tội, tư tưởng
thiếu tự tin, tìm thang thuốc tự tử. Thôi, túng
thiếu tiền thì tiêu tan, tiêu tán, tiêu tùng tất tật.
Thật thảm thiết.
Một tác giả khác thì viết :
- Đồng tiền mạnh mẽ xiết bao,
Bẻ cong chân lý, lật nhào công minh.
“Vàng”, “Lầu”, “Đô”, “Xế”…hiển linh.
MỤC LỤC

Có bây, “ pháp luật nghiêm ninh” trò đùa.


Buồn thay ! “Vật chất” làm vua.
“Đức”, “Trí”, “Lễ”, “Nghĩa” phải thua đồng tiền.
Còn trên báo Tuổi trẻ Cười, số “Xuân Canh Ngọ”
gã đọc được :
- Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn !
Tiền nhiều, mặc kệ…vẫn hơn.
Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề,
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo.
Phất tay một cái, nhằm nhè gì ông.
Hay như thiên hạ bây giờ thường bảo :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
MỤC LỤC

Ý thức được giá trị tuyệt vời như vậy của tiền
bạc, cho nên thiên hạ ai cũng tham tiền tham
bạc. Hình như cái con “virus tham tiền” đã tiềm
ẩn trong mạch máu, trong tim gan phèo phổi,
trong lục phủ ngũ tạng của mọi người, đờn ông
cũng như đờn bà, từ lúc cha sinh mẹ đẻ tới lúc
nhắm mắt buông tay thở hơi cuối cùng.
Chuyện xảy ra bên nước Đức cách đây vài chục
năm.
Số là hôm ấy các đội banh quốc tế đang tranh
giải vô địch. Sân vận động chặt ních như nêm.
Kẻ hèn có, người sang có. Các vị tai to mặt lớn
lại càng nhiều.
Khi tan cuộc, mọi người hối hả kéo nhau ra về,
thì bỗng thấy ở ngay giữa lối ra vào có rải rắc
nhiều tờ giấy bạc năm trăm của một hay nhiều
khán giả hớ hênh nào đó đánh rơi.
MỤC LỤC

Ai cũng lấm la lấm lét, ngó trước nhìn sau…Thế


rồi, kẻ trước người sau, tất cả đoàn người đều
lần lượt cúi xuống…sửa giày. Có kẻ sửa giày
nhiều lần.
Người sang cũng như kẻ hèn. Thượng lưu cũng
như hạ cấp. Không ai trao đổi với ai một tiếng,
nhưng ai cũng cảm thấy vui như mở cờ trong
bụng. Đi xem đấu bóng lần này không ngờ mà
được thần tài đưa đón.
Về đến nhà, xoa tay cho sạch, bẻ ngón tay cho
mềm, thò vào túi, rút xấp bạc ra, sung sướng, hí
hửng.
Thế nhưng, dưới ánh đèn sáng, nhìn kỹ lại thì ôi
thôi, khóc vì hổ ngươi, cười ra nước mắt. Vừa
tức lại vừa nhục. Tức cho ai mà cũng nhục cho
ai. Các ngài đã bị sập bẫy trong một cuộc chơi
trắc nghiệm của một tổ chức oái oăm nào đó.
Thì ra toàn là tiền giả, toàn là bạc dổm.
MỤC LỤC

Ý thức được giá trị tuyệt vời như vậy của tiền
bạc, cho nên thiên hạ lao mình vào việc tìm tiền
kiếm bạc, như con thiêu thân lao mình vào lửa,
bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi
thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên
người khác bằng những phương thế bóc lột và
bất công, miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham
của mình.
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến
mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới
hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi
chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi :
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám đoạt
vàng của kẻ khác như thế ?
Anh ta trả lời :
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung
quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
MỤC LỤC

Nhất là những kẻ có tí chức tí quyền, nếu để cho


lòng tham thao túng, thì quan lớn đớp miếng to,
quan nhỏ xơi miếng bé, chẳng trừ một miếng
nào cả, khiến cho bọn dân đen, khố rách áo ôm
nhiều phen phải lao đao, xất bất xang bang.
Đang lúc gã ngồi hý hoáy viết những hàng chữ
này, thì đài truyền hình loan tin về vụ Tổng thống
Phi luật tân, ông Estrada, bị tố giác tội danh
tham nhũng, nếu không khéo thì sẽ đi đoong, bị
mất chức như chơi.
Cách đây mấy năm, tuần báo Newsweek đã
dành những trang chính để đăng tải hồ sơ tham
nhũng của cựu tổng thống Nam hàn Ro Te Wu,
người trước đó đã công khai thú tội đã nhận tiền
hối lộ của nhiều công ty.
Các biện lý đã thẩm vấn 36 nhà doanh nghiệp
hàng đầu trong nước có dính líu tới vụ tham
nhũng này. Kết quả điều tra, người ta thấy đa số
MỤC LỤC

các công ty lớn nhất của Nam hàn đều ít nhiều


đã bỏ tiền ra mua chuộc ông tổng thống này,
chẳng hạn công ty Huyndai, công ty
Samsung...Tổng cộng trong 5 năm làm tổng
thống, ông Ro Te Wu đã nhận tất cả 307 triệu đô
la tiền hối lộ của 30 nhà doanh nghiệp.
Rồi tạp chí Time, số ra ngày 25 tháng 3 năm
1999, cũng đã cho công bố một tài liệu, theo đó
tổng thống Suharto và gia đình ông đã vơ vét
được 15 tỷ mỹ kim trong 32 năm cầm quyền của
ông tại Indonesia.
Tạp chí Time còn cho biết là ngay sau khi từ
chức, ông đã cho chuyển một số tiền là 9 tỳ mỹ
kim từ ngân hàng Thụy sĩ sang một ngân hàng
khác ít được biết đến tại Áo…
Còn những kẻ vai nặng chân trơn, trong tay
chẳng có tí chức tí quyền, thì sẽ phải hùng hục
kéo cày, làm ngày làm đêm miễn sao kiếm được
MỤC LỤC

một mớ tiền đem về nuôi vợ nuôi con. Thậm chí


có kẻ mê kiếm tiền đến nỗi quên cả vợ, bỏ cả
con, không ngó ngàng chi tới gia đình, khiến vợ
tủi thân đi tìm an ủi nơi vòng tay người khác, còn
con cái thì ngán ngẩm với bầu khí lạnh nhạt của
gia đình nên tìm lãng quên trong xì ke ma túy,
lang thang đi bụi đời.
Một khi đã có tiền, người ta liền nghĩ ngay tới
chuyện “mua tiên”, bởi vì như các cụ ta thường
nói :
- Có tiền mua tiên cũng được.
Thế nhưng, chính cái chuyện “mua tiên” này mới
thực là nhiêu khê, rắc rối và gây nên lắm nỗi
thương đau.
Thực vậy, có những ông chồng thừa tiền về Việt
Nam ăn chơi phè phỡn, lại còn kiếm thêm tí tình
còm vắt vai bằng cách tung tiền ra đổi lấy một
“cô tiên bé bỏng”. Vừa đỡ hao tốn, lại vừa bảo
MỤC LỤC

đảm an toàn trước sida, cơn bệnh thảm khốc


của thế kỷ.
Còn ở Việt Nam, mấy ông quan thừa tiền nhưng
hay rửng mỡ, thường tìm đến những quán bia
ôm, cà phê ôm, thậm chí có cả…thịt chó ôm để
mà du hí. Tới lúc bị những “con gà móng đỏ”
chém đẹp, thì chỉ còn nước ngửa mặt lên mà
than thở cả tiếng :
- Bắc thang lên hỏi ông trời,
Đem tiền cho gái có đòi được không ?
Những chuyện tình còm trên đây mà đổ bể, thì
bảo đảm ”chăm phần chăm”, chắc ăn như bắp là
nhà tan cửa nát.
Có những ông thừa tiền, bèn đi tìm “nàng tiên
nâu” để giải sầu. Lúc đầu thì hút, hít. Lúc sau thì
chích choác. Chỉ một thời gian là thân tàn ma
dại vì bị “nàng tiên nâu” là xì ke, ma túy, bạch
MỤC LỤC

phiến nó vật đến xùi cả bòn bọt mép, lòi cả


xương sống xương sườn phơi ra.
Có những ông vác tiền về Việt Nam đầu tư, bởi
vì lòng tham của con người thì không đáy.
Không thì muốn cho có. Có ít thì muốn cho có
nhiều. Có nhiều thì muốn có nhiều hơn nữa.
Chẳng biết đàng nào mà mò.
Đầu tư vào công chuyện nghiêm chỉnh chưa
chắc đã ăn ai, lại còn đầu tư vào những chuyện
lem nhem mờ ám khiến cho tiền mất tật mang,
thân bại danh liệt. Đô la vàng bạc thì bị ông nhà
nước tịch thu, còn bản thân thì bị chiếu cố ngồi
tù. Chẳng cái dại nào bằng cái dại này.
Nếu hai chữ “mua tiên” ở đây được hiểu theo
nghĩa rộng, là mua lấy những phương tiện để
hưởng thụ, thì quả là bao la, khó mà xác định
cho được, có viết mãi viết hoài cũng chẳng bao
giờ hết.
MỤC LỤC

Kinh nghiệm đời thường cho thấy tiền bạc có thể


mua được nhiều thứ, nhưng cũng có nhiều thứ
tiền bạc chẳng thể nào mua được. Bởi đó, H.
Ibsen đã viết như sau :
- Tiền bạc có thể cho ta lớp vỏ bên ngoài của
thân xác, chứ không thể cho ta thực chất bên
trong của tâm hồn. Tiền bạc có thể mua cho ta
nhiều đồ ăn, nhưng không thể mua cho ta sự
ngon miệng. Tiền bạc có thể đem lại cho ta
nhiều quen biết, nhưng không thể đem lại cho ta
tình thân. Tiền bạc có thể mướn cho ta nhiều kẻ
hầu hạ, nhưng không thể mướn cho ta những
người trung thành. Tiền bạc có thể tạo nên cho
ta nhiều cuộc vui, nhưng không thể tạo nên cho
ta hạnh phúc.
Chính vì thế mà trên cõi đời này, không phải chỉ
kẻ nghèo mới khổ và mới khóc, bởi vì không
thiếu những người giàu cũng khổ và cũng khóc.
MỤC LỤC

Thực vậy, Paul Getty là chủ một hãng dầu lớn


nhất tại Anh quốc. Cơ sở của ông rộng trên bốn
mươi mẫu tây. Mỗi năm thu nhập hàng tỷ mỹ
kim. Thế nhưng, ông phải làm việc rất vất vả và
cực nhọc từ ba giờ sáng tới tận khuya. Chung
quanh ông có đến mười thám tử hộ vệ, bởi vì
ông thường xuyên nhận được những bức thư
tống tiền và hăm dọa.
Ông than :
- Tôi là người chẳng bao giờ biết hạnh phúc là gì
cả.
Và cay đắng hơn nữa là khi giờ chết đến, chúng
ta chẳng mang được tiền bạc đã chắt chiu kiếm
tìm sang thế giới bên kia để mà hưởng dùng,
đúng như tục ngữ đã bảo :
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì.
MỤC LỤC

Tiền bạc ấy sẽ bị chia năm xẻ bảy cho con cho


cháu, lắm khi chúng ta chưa chết mà chúng nó
đã cãi nhau chí chóe và hạch sách nhau về chúc
thư chúc thiếc.
Tiền bạc ấy có khi lại rơi vào tay nhà nước hay
những kẻ xa lạ. Quả là :
- Dạ tràng xe cát bể Đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cái gì.
Ở bên Mỹ có một bà lão ăn mày. Bà ta quanh
năm vất vả rảo qua các lối ngõ để ăn xin. Không
kể chi tiết đông giá lạnh, bà ta chỉ mặc phong
phanh một manh áo rách, vá trên vá dưới, vá
chằng vá đụp. Bà van xin thảm thiết, kể lể cảnh
túng cực của mình. Người thương tình bố thí, kẻ
quen mặt xua đuổi, nhưng bà vẫn kiên tâm.
Tối đến, bà trở về túp lều gỗ che bằng những
thùng giấy. Bà chỉ ăn những mẩu bánh thừa
người ta bố thí cho. Khi đau yếu, bà cũng chẳng
MỤC LỤC

dám uống thuốc. Vì sống quá kham khổ như


vậy, bà ngã bệnh và chết.
Nhà chức trách thuộc sở vệ sinh được tin liền tới
nơi. Chui vào căn lều nhỏ, người ta thấy bà ta
nằm chết cứng đơ, nhưng tay vẫn chỉ vào góc
nhà. Theo hướng tay của bà, người ta đào bới
góc nhà ấy và đã tìm thấy một cái hộp, trong đó
đựng 127.000 đô la, tính ra gần hai tỷ đồng Việt
Nam bây giờ. Thật là một món tiền khổng lồ
những lại vô ích cho chủ nó.
Để kết luận, gã xin mượn tạm nơi đây một tư
tưởng thật độc đáo, mà gã cũng chẳng rõ xuất
xứ từ đâu :
- Tiền có thể mua được một ngôi nhà, nhưng
không mua được một mái ấm.
Tiền có thể mua được một cái giường êm ấm,
nhưng không mua được một giấc ngủ ngon
lành.
MỤC LỤC

Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ,


nhưng không mua được thời gian.
Tiền có thể mua được một cuốn sách, nhưng
không mua được kiến thức.
Tiền có thể mua được một địa vị, nhưng không
mua được lòng trọng kính.
Tiền có thể mua được thuốc men, nhưng không
mua được sức khỏe.
Tiền có thể mua được mua được máu, nhưng
không mua được sự sống.
Tiền có thể mua được tình dục, nhưng không
mua được tình yêu.
Bạn thấy đấy, tiền bạc chẳng phải là tất cả. Nó
không những vô nghĩa mà còn mang lại cho con
người đủ loại thống khổ.
Gã nói với bạn tất cả những điều này, bởi vì gã
là bạn của bạn.
MỤC LỤC

Và vì là bạn của bạn, gã muốn mang lấy nỗi đớn


đau và thống khổ của bạn.
Vì thế, bạn hãy gửi hết tiền của bạn cho gã và
gã sẽ gánh chịu nỗi khổ đau thay cho bạn.
Bạn sẽ không bao giờ tìm được một người bạn
nào đúng nghĩa hơn gã.
Tái bút : phải tiền mặt đấy.
Tác giả Gã Siêu
MỤC LỤC

THÂN PHẬN ĐỜN ÔNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Việt Nam vừa mới trải qua cơn đại dịch cúm
gà. Không phải chỉ có gà mà thôi đâu nhé,
nhưng còn có cả những loại gia cầm khác, như
vịt, ngan, ngỗng…Hơn thế nữa, không phải chỉ
có gia cầm mà thôi đâu nhé, nhưng còn có cả
những loại chim chóc sống trên rừng cũng như
sống trong lồng. Ở đâu dịch bệnh xuất hiện, thì
ở đó lập tức mọi gà vịt…đều bị thu gom đem
chôn hay đem đốt trong đường bán kính ba cây
số.
Thiệt hại do dịch bệnh này gây nên lên tới
hàng mấy chục triệu đô la, ấy là chưa kể tới gần
hai chục mạng người phiêu diêu miền cực lạc vì
bị lây nhiễm.
MỤC LỤC

Ngoài ra, dịch bệnh này còn tạo nên những


tình huống giở khóc giở cười, giở mếu máo, gã
xin ghi lại để nhỡ lần sau gặp phải thì còn biết
đường che chắn, chứ đừng kín trước, hở sau.
Thứ nhất, thật tội nghiệp cho những gia
đình nghèo. Vợ chồng và con cái làm lụng quần
quật, chắt chiu bao nhiêu năm tháng mới gầy
được một đàn vịt đẻ. Vào một buổi sáng đẹp
trời, đàn vịt đẻ đang tung tăng bơi lội dưới ao,
thì bỗng cán bộ thú y đến và phán :
- Vùng này mắc…dịch.
Và thế là a-lê-hấp, tóm cổ toàn bộ đàn vịt
đẻ, cho vào bao tải mà đem đi chôn. Mặc cho
đàn vịt đẻ giãy giụa kêu la :
- Cạc, cạc, cạc…
Vợ chồng và con cái chỉ còn biết đứng há
hốc miệng mà trông theo đến độ ứa cả nước
MỤC LỤC

mắt. Không biết ngày mai sẽ ra sao, nếu không


còn những đồng tiền bán trứng.
Thứ hai, thật tội nghiệp cho những người
nuôi chim kiểng. Khi lệnh đã được ban ra, thì tất
cả những loài chim quí hiếm này cũng đều phải
chịu chung một số phận như gà với vịt mà thôi.
Báo “Tuổi Trẻ Chủ Nhật” số 1065 ra ngày
08.02.2004 có đăng một mẩu chuyện ngắn
mang tựa đề “Tiếng gọi của con chim sáo” của
tác giả Bích Ngân, đại khái như thế này :
Sau nhiều năm tháng vừa học vừa làm, hai
vợ chồng trẻ dốc toàn bộ vốn liếng mới thành
lập được một trại gà nho nhỏ. Khi trại gà vừa
mới ra lò thì anh chồng đột ngột qua đời. Trại gà
liên tục phát triển vừa đúng một năm thì xảy ra
dịch cúm. Thế là toàn bộ số gà nuôi trong trại
đều bị cán bộ đến bắt và mang đi chôn, chỉ còn
lại một con chim sáo.
MỤC LỤC

Hôm nay, chị vợ tổ chức lễ giỗ đầy năm cho


anh chồng và cũng để nhớ tới đàn gà thân
thương của mình đã bị…ngỏm củ tỏi. Đang lúc
thắp nén nhang tưởng niệm, thì chị vợ bỗng giật
mình vì nghe thấy tiếng nói quen thuộc :
- Hằng ơi, anh yêu em lắm.
Đó là tiếng nói của con chim sáo. Tiếng nói
ấy khiến chị vợ cảm thấy như hồn anh chồng đã
nhập vào nó. Thế nhưng cùng lúc đó, anh cán
bộ thú y xuất hiện và bảo cho chị hay :
- Cả chim sáo cũng phải hủy diệt.
Suốt đêm, chị vợ trằn trọc không tài nào
ngủ nổi. Cuối cùng, chị vợ quyết định mở lồng
trả tự do cho con chim sáo. Và khi anh cán bộ
đến, chị nói :
- Đêm hôm qua, con chim sáo nhà tôi đã bị
mèo vồ mất rồi.
Chị vừa dứt lời, thì một giọng nói vang lên :
MỤC LỤC

- Hằng ơi, anh yêu em lắm.


Thì ra đó vẫn là giọng nói của con chim sáo.
Mặc dù được tự do, nhưng con chim sáo không
nỡ rời xa chủ, nó bay vào kẹt tủ. Và bây giờ nó
lên tiếng nói. Tiếng nói của nó là như một lời tố
giác :
- Lạy ông tôi ở bụi này.
Và anh cán bộ thú y chỉ cần thò tay ra, chụp
lấy và nhét vào bao. Còn chị vợ đứng nhìn.
Những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên gò má
lúc nào cũng chẳng hay.
Và để an ủi cho những khổ chủ, cũng như
bù lỗ phần nào những thiệt hại, nhà nước đã qui
định như sau :
- Gia cầm đẻ, mười lăm ngàn đồng một
con.
- Gia cầm thịt, năm ngàn đồng một con.
- Trứng, hai trăm đồng một quả.
MỤC LỤC

- Thức ăn gia cầm, ba ngàn đồng một ký.


Có một anh chàng cắm dùi tại Vĩnh Long,
chuyên nghề gây gà nòi để mang đi đá. Sau
nhiều năm lăn lộn trong nghề, anh ta đã huấn
luyện được một chú gà nòi, bách chiến bách
thắng. Đá đâu thắng đó. Đá nhớn thắng nhớn,
đá nhỏ thắng nhỏ, càng đá càng thắng. Có thể
nói được rằng chú gà nòi của anh ta thuộc hàng
bất khả chiến bại, nổi tiếng khắp vùng đồng
bằng sông Cửu Long.
Một ông phú hộ ở tận Lâm Đồng, cũng là
dân mê đá gà, đã chấp nhận mua chú gà nòi
của anh ta với gía hai mươi triệu đồng. Mặc dù
tiếc đứt ruột, nhưng anh ta vẫn chấp nhận mang
chú gà nòi đi bán, vì gia đình đang gặp phải
nhiều khó khăn về tiền bạc.
Sáng hôm ấy, anh ta hí hửng ôm chú gà nòi
đem trao cho chủ mới. Thế nhưng, khi xe vừa
MỤC LỤC

mới qua khỏi Long An, thì liền bị công an ách lại,
tịch thu chú gà nòi vì đã có lệnh cấm di chuyển
và mua bán gia cầm. Thế là anh ta phải trở về
nhà với hai bàn tay trắng, rồi sau đó phát khùng,
phát điên.
Nhìn vào bảng giá bù lỗ, gã bỗng cảm thấy
tủi phận bởi vì gia cầm đẻ giá những mười lăm
ngàn, còn gia cầm thịt giá có năm ngàn. Như
vậy có nghĩa là một chị gà mái giá mười
lăm ngàn, còn một anh gà trống chỉ có năm
ngàn mà thôi. Mái gấp ba lần trống. Từ đó, nhân
rộng ra trong xã hội hôm nay, quả thực đờn bà
quí giá hơn đờn ông, không phải chỉ gấp ba, mà
còn gấp bốn, gấy bảy và gấp…bội lần.
Viết tới đây, gã bèn nhớ tới một câu “ranh
ngôn” xác định bậc thang giá trị ở phương tây,
vốn thường được quí ông thở dài não nuột mà
MỤC LỤC

nhắc tới như để ý thức về thân phận bèo bọt và


răn đe cho chính mình :
- Thứ nhất là trẻ nít,
Thứ hai là đờn bà,
Thứ ba là chó con,
Rồi thứ bốn mới tới đờn ông.
Như vậy, phe đờn ông con giai từ xưa vốn
đã vỗ ngực tự hào mình là “bậc tu mi nam tử”,
thì bây giờ hãy cúi đầu xuống như muông chim,
bởi vì mình chỉ nằm vào hàng bét giem, hàng
chót hết của bậc thang giá trị mà thôi, thua cả
chó con. Đúng như các cụ ta đã cay cú :
- Ba đồng một mớ đờn ông,
Đem về mà bỏ vào lồng cho kiến nó tha.
Ba trăm một mụ đờn bà,
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.
Thân phận cánh đờn ông con giai vốn dĩ đã
đen như mõm chó. Thế nhưng, để sống cho
MỤC LỤC

đúng cái thân phận bẽ bàng của mình lại càng


khó hơn, nhất là đối với những anh chàng đã trót
dại kéo theo một cái “rờ mọc” là bà xã dấu yêu,
sở dĩ như vậy bởi vì đờn bà con gái mãi mãi vẫn
là một mầu nhiệm, mãi mãi vẫn là một nghịch lý,
mãi mãi vẫn là một sự ngược đời và tréo cẳng
ngỗng. Gã xin đưa ra những trường hợp cụ thể,
trong đó những anh chồng ở vào cái thế việt vị,
bất nhóc nhách, tiến thoái lưỡng nan.
Trường hợp thứ nhất, đó là có những anh
đờn ông luôn chăm chú việc nhà, làm tất tật mọi
sự mà chẳng hề quản ngại, hay nề hà chi cả, từ
sửa chiếc ghế gãy đến thổi cơm và may vá,
đúng như tục ngữ đã nói :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ : bẩm bà…em đây.
Thế nhưng, xem ra các chị đờn bà lại không
ưa týp đờn ông mềm nhũn này là mấy, bởi vì
MỤC LỤC

phần lớn các chị thường mơ ước người yêu lý


tưởng của mình phải là người có quyền có thế,
phải là người xốc vác, dám đương đầu với mọi
cơn gian nan thử thách, cũng như dám gánh vác
những công việc lớn lao ngoài xã hội, trở thành
một điểm tựa vững chắc cho mình nương nhờ.
Người yêu lý tưởng ấy đã được tục ngữ mô tả :
- Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên.
- Làm trai quyết chí tang bồng,
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
Tuy nhiên, quyền thế không phải là một quà
tặng từ trời rơi xuống, không phải là một thứ tình
cho không biếu không, nhưng là kết quả của biết
bao nhiêu phấn đấu, của biết bao nhiêu bon
chen, thậm chí của cả biết bao nhiêu luồn lách
mới leo lên được ghế nọ ghế kia.
MỤC LỤC

Trong khi phấn đấu, bon chen, luồn lách


như vậy, anh đờn ông thường tất bật ngược
xuôi, bận rộn với hàng đống công việc, thành
thử chẳng còn thời giờ dành cho vợ cho con.
Điều này thì chẳng chị đờn bà nào ưa cả, bởi vì
anh chồng phải là của riêng mình, trọn vẹn
“chăm phần chăm”, không được chia sớt một ly
ông cụ nào cả.
Cũng trong chiều hướng đó, các cụ ta ngày
xưa thường bảo :
- Nhàn cư vi bất thiện. Sự nhàn rỗi vốn là
nguyên nhân sinh ra những thói hư tật xấu.
Vì nhàn rỗi, nên mấy anh đờn ông mới tụ
họp đàn đúm rồi tổ chức ăn nhậu với nhau.
Nhậu đến độ ngoắc cả cần câu, nhậu đến độ
quên cả đường về. Nhậu đến độ sáng xỉn, chiều
say và cả tối lăn cũng quay.
MỤC LỤC

Vì nhàn rỗi, nên mấy anh đờn ông mới tụ


họp, gây sòng đỏ đen với nhau. Ngày xưa thì tổ
tôm, xóc đĩa. Ngày nay thì xì phé, sập xám, cá
độ bóng đá…nhiều khi mất toi cả cơ đồ, sản
nghiệp :
- Cờ bạc là bác thằng bần,
Áo quần bán hết, ngồi trần tô hô.
- Cờ bạc là bác thằng bần,
Ruộng nương bán hết, chôn chân vào cùm.
Dưới mắt các chị đờn bà thì những anh đờn
ông nào quá rảnh rỗi, hay nói đúng hơn, những
anh đờn ông nào quá lười biếng, chẳng dám
động tay vào bất cứ công việc gì, chỉ thích làm
dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm, những
anh đờn ông nào trói gà không chặt, dài lưng tốn
vải ăn no lại nằm….tất cả chỉ là hạng vô tích sự
mà thôi.
MỤC LỤC

Các chị thích ngắm nhìn những anh đờn


ông bận rộn và say mê với công việc. Tuy nhiên,
nếu bận rộn và say mê đến độ quên cả vợ lẫn
con, thì các chị lại chẳng thích tí nào. Ngoài ra,
còn trở nên một mối nguy hiểm đe dọa sự ổn
định và tồn tại của gia đình.
Kinh nghiệm cho thấy : Thượng đế đã dựng
nên người đờn bà để yêu và để được yêu. Nơi
họ, trái tim nắm giữ địa vị ưu tiên, cũng như
chiếm lấy vai trò số một. Họ không thể nào chấp
nhận bị quên lãng.
Không ít chị vợ đã hậm hực tức tối khi thấy
anh chồng mê bóng đá hơn mê chính mình. Một
chị vợ đã tâm sự như sau :
- Vào những ngày nghỉ cuối tuần, mình chỉ
mong anh ấy ở nhà để chia sẻ tâm sự và sống
riêng với nhau, thế mà anh ấy vẫn cứ đi biệt,
mất tăm mất tích. Không lao vào công việc thì
MỤC LỤC

cũng ngồi xòe hay ăn nhậu với các chiến hữu,


tới tận sáng thứ hai mới vác xác về thì làm sao
mà chịu nổi. Mình chỉ mong tìm lấy một bờ vai
để tựa đầu mà cũng chẳng có.
Rất nhiều cuốn phim đã mổ xẻ về đề tài này
và thường dẫn tới một kết quả không mấy sáng
sủa, đó là đổ vỡ tan tành.
Chẳng hạn anh chồng là một bác sĩ, ban
ngày thì miệt mài làm việc trong phòng thí
nghiệm, ban tối về tới nhà lại chăm chú đọc
sách, hết ngâm kíu này tới ngâm kíu khác. Mặc
cho chị vợ đi vào giấc ngủ cô đơn. Và thế là chị
vợ bèn tìm cách trả thù bằng cách tìm một anh
bồ nhí, để giải khuây và lấp đầy những khoảng
trống cho bõ ghét.
Chẳng hạn anh chồng là một cảnh sát tận
tụy với nghề nghiệp của mình. Ngày nghỉ có
lệnh, cũng đi. Giữa đêm có điện thoại, cũng lập
MỤC LỤC

tức lên đường xuất phát. Mặc cho chị vợ luôn


sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Và cuối cùng
chị vợ đành phải ca bản anh đi đường anh, tôi đi
đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi.
Trường hợp thứ hai, đó là có những anh
đờn ông vui vẻ chấp nhận chung sống cùng cái
nghèo theo kiểu :
- Người quân tử ăn chẳng cầu no, mặc
chẳng cầu ấm.
Hình như không bao giờ có được một đồng
xu dính túi :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Dưới mắt các chị đờn bà, những anh đờn
ông loại này cũng chỉ là hạng vô tích sự, thậm
chí còn được phong làm chuyên viên “bám váy
vợ”. Các chị thường thích những anh đờn ông
giỏi kiếm tiền. Trong những lúc riêng tư, các chị
MỤC LỤC

vốn hay chì chiết, đay nghiến và day dứt những


anh chồng dốt kiếm tiền như sau :
- Khốn khổ thân tôi lấy phải thằng chồng
ngu ơi là ngu. Chồng người ta kiếm tiền như
nước đem về nuôi vợ nuôi con. Còn anh thật là
vô công rồi nghề. Sản nghiệp này đều do một
mình tôi mà có. Rời cái tay tôi ra ấy hả, lập tức
cái nhà này tiêu tùng liền.
Kinh nghiệm cũng cho thấy : người ta
thường lấy tiền để nhử đờn bà, người ta thường
lấy đờn bà để nhử đờn ông và người ta thường
lấy đờn ông để nhử…ra tiền. Đúng là một cái
vòng lẩn quẩn.
Thế nhưng, tiền nhiều bạc lắm lại nảy sinh
ra những hệ lụy mà chẳng chị đờn bà nào muốn.
Đúng vậy, khi còn hàn vi, anh đờn ông thường
chí thú mần ăn, trung thành với vợ và chăm chỉ
với con. Thế nhưng, khi tiền bạc đã rủng rỉnh thì
MỤC LỤC

lại thường hay “rửng mỡ”. Và cái thói rửng mỡ


này thiên biến vạn hóa đến quỉ thần cũng không
lường nổi.
Có anh thì sau một ngày làm việc, thân thể
bãi hoải, bèn phải đi tắm hơi một phát hay đi tìm
mấy em vừa xoa lại vừa bóp, vừa mát xa lại vừa
mát gần, nói một cách văn vẻ là đi “vật lý trị liệu”.
Có anh khi nhậu thì hay ngứa tay ngứa
chân, bèn phải gác nhờ lên bờ vai hay cặp đùi
của các em. Thậm chí còn táy máy chỗ này chỗ
nọ.
Có anh lại cứ đinh ninh :
- Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.
Thế nên bèn kết mô đen với một cô bồ nhí
theo kiểu chán cơm nhà thì vác tù và mà đi ăn
phở.
Hơn thế nữa, như trên gã đã trình bày :
người ta thường lấy tiền để nhử đờn bà. Những
MỤC LỤC

anh đờn ông rủnh rỉnh tiền bạc sẽ trở thành như
một đốm lửa, khiến cho nhiều bà nhiều cô nhòm
ngó và đeo bám, sẵn sàng hóa kiếp thành
những con thiêu thân lao mình vào lửa. Chẳng
thế mà bây giờ, mấy anh Việt kiều hay mấy ông
Đài Loan xếnh xáng bỗng trở nên có giá trên thị
trường hôn nhân. Điều này hẳn quí bà quí cô
ghét cay ghét đắng ghét vào tận lái tim!!!
Trường hợp thứ ba, đó là có những anh
đờn ông thích sống lặng lẽ như một chiếc bóng.
Không hào quang. Không tỏa sáng. Sẵn sàng
đếm từng bước chân âm thầm của mình trên
những sỏi đá cuộc đời.
Dưới mắt các chị đờn bà hạng đờn ông này
chỉ là như một thứ cơm nếp nhão, khiến họ ngán
đến tận cần cổ. Các chị thích ông xã của mình
phải có tiếng có tăm, khiến cả và thiên hạ phải
MỤC LỤC

tâm phục khẩu phục và các chị cũng được thơm


lây.
Đúng thế, làm đờn bà con gái thế mà
sướng. Hôm qua mình chỉ là cái Tèo, cái Mít.
Thậm chí còn mang thân phận “ô-sin”, phải đi ở
đợ làm đầy tớ cho thiên hạ…nửa chữ cắn đôi sợ
cũng chưa thông, thế mà hôm nay bỗng nghiễm
nhiên trở thành bà bác sĩ, bà kỹ sư…mà chẳng
cần phải chăm chỉ học hành hay vất vả bon chen
chi cho mệt.
Thế nhưng, tiếng tăm của anh đờn ông đôi
lúc khiến các chị vợ cũng phải thất điên bát đảo,
mất ăn mất ngủ, bởi vì một khi được ngưỡng
mộ, anh đờn ông sẽ trở nên như một thỏi nam
châm thu hút được sự chú ý nhiều người phụ nữ
khác, khiến họ mê tít thò lò, hay ít nữa anh ta
cũng trở thành người của quần chúng, chứ
không còn là riêng của chị vợ nữa. Những điểm
MỤC LỤC

này các chị vợ muốn tống khứ đi càng sớm càng


tốt.
Và sau cùng, trường hợp thứ tư, đó là có
những anh đờn ông cù lần cù lèo, như chàng hai
lúa miền quê.
Loại đờn ông này xem ra không đủ sức làm
cho các chị vợ nở mày mở mặt cùng bá quan
văn võ. Các chị thường ưa thích những anh
chồng vừa đẹp trai, lại vừa hào hoa phong nhã.
Thế nhưng sự hào hoa phong nhã này lại
thường là đầu mối gây nên khổ đau.
Thực vậy, làm sao các chị có thể chịu đựng
nổi anh chồng lúc nào cũng mỉm cười mần
duyên hay liếc mắt đưa tình với những cô gái
khác.
Có lẽ phe đờn ông con giai nên ghi tâm
khắc cốt và phải thuộc nằm lòng cái nguyên tắc
căn bản này, đó là ở mọi nơi và trong mọi lúc,
MỤC LỤC

nếu có ga lăng thì chỉ được phép ga lăng với


một mình bà xã mà thôi. Bằng không, thì tẩu hỏa
nhập ma, cơn giận bốc lên đùng đùng…lúc đó
bà xã sẽ biến thành bà chằng, hay bà chi chi
nữa, thì chỉ có trời mới biết.
Tóm lại, thân phận anh đờn ông con giai
vốn dĩ đã rẻ như bèo, thế mà sống đúng cái thân
phận bèo bọt ấy lại chẳng dễ tí nào, bởi vì :
- Bằng lòng với số phận phó thường dân,
trên răng dưới cát tút cũng chẳng xong, mà có
quyền có thế cũng chẳng ổn.
- Hàn vi không một đồng xu dính túi cũng
chẳng xong, mà có tiền có bạc cũng chẳng ổn.
- Vô danh tiểu tốt cũng chẳng xong, mà có
tiếng có tăm cũng chẳng ổn.
- Cù lần cù lèo theo kiểu hai lúa cũng chẳng
xong, mà hào hoa phong nhã cũng chẳng ổn.
MỤC LỤC

Làm đờn ông con giai quả là khó lắm vậy


thay. Vì thế, gã bèn thầm thĩ nguyện cầu cho
phe ta :
- Kiếp sau xin chớ làm chồng,
Làm cây thông đứng mà trông….qưới bà!!!
MỤC LỤC

ĐỨC ÔNG ...CHỒNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Nếu có người nào mở miệng mà bảo :


- Đờn bà con gái khổ ơi là khổ.
Gã sẽ phùng má trợn mắt cực lực phản đối
cho tới cùng, bởi vì :
- Ai bảo đờn bà con gái là khổ, đờn bà con
gái sướng lắm chứ. Chỉ cánh đờn ông con giai
mới thực sự khổ mà thôi.
Trước hết, gã xin kể lể qua quít về nỗi
sướng của phe đờn bà con gái.
Trong những năm gần đây, một số những
ngày lễ của Tây phương đã được du nhập vào
Việt Nam và phần lớn những ngày lễ này chỉ làm
lợi cho phe đờn bà con gái và tôn vinh hình ảnh
của người phụ nữ. Còn cánh đờn ông con giai
MỤC LỤC

ấy hả ? Vào những ngày húy kỵ và hú…vía ấy,


thì hãy cúi đầu xuống như…muông chim.
Thứ nhất là ngày mười bốn tháng hai, tục
gọi là ngày lễ tình yêu, ngày hội tình nhân, tiếng
Ăng lê gọi đó là “St Valentine’s day”, ngày kính
ông thánh Valentinô. Còn giới trẻ thì gọi một
cách ngắn gọn là ngày Valentine.
Mở sách vở ra “ngâm kíu”, gã ghi nhận có
tới ba ông thánh Valentinô được mừng kính vào
ngày mười bốn tháng hai. Ông thánh Valentinô,
linh mục tử đạo tại Rôma vào năm 270. Ông
thánh Valentinô, giám mục Terni, tử đạo vào
năm 273. Ông thánh Valentinô giám mục, vị tông
đồ miền Tyrol, qua đời vào năm 74. Chẳng biết
vị thánh nào đã phò trợ cho những người đang
yêu, chỉ biết rằng trong ngày đáng nhớ này,
những anh con giai nào trót có bồ, thì liền phải
MỤC LỤC

ba chân bốn cẳng chạy vội đi mua lấy ít nhất


một bông hồng mà tặng cho người yêu bé bỏng.
Và nếu trong ví còn rủng rỉnh tí tiền còm thì
cũng hãy nổi máu ga lăng, xin phép thầy bu đưa
em đi bát phố, ăn cơm tối ở nhà hàng, xơi chè
chổm hổm ở quán đầu ngõ, hay mần một tô…
phở nhé, cả hai cùng húp sùm sụp. Ớt cay xè,
chảy cả nước mũi và nước mắt. Tình phải biết !
Ngày thứ hai là ngày mồng tám tháng ba,
được gọi là ngày quốc tế phụ nữ. Theo lịch sử,
thì đó là ngày đờn bà con gái đấu tranh, hay nói
một cách nôm na, thì đó là ngày phụ nữ vùng
lên đòi quyền sống cũng như đòi quyền…
sướng.
Trong ngày ảm đạm và u ám này, những
anh chồng phải tỏ ra mềm nhũn trước bà xã của
mình. Nào là phải đi chợ đi búa, rồi lại còn phải
nấu với nướng, giặt với giũ, dọn với dẹp từ trong
MỤC LỤC

nhà cho ra đến tận ngoài ngõ… cho đúng với cốt
cách :
- Làm trai, rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà…em đây.
Sở dĩ có cảnh tréo cẳng ngỗng như vậy vì
trong ngày lịch sử này bà xã không phải chỉ là
nội tướng trong gia đình, mà còn lên ngôi nữ
hoàng thống trị, khiến ông chồng chỉ là…một
con dân đáng thương.
Ngày thứ ba là Chúa nhật thứ hai trong
tháng năm, tiếng Ăng lê gọi là “Mother’s day”,
tiếng Phú lãng sa gọi là “Fête des mères”, ngày
lễ của các bà mẹ, nhằm tôn vinh công đức của
giới hiền mẫu.
Trong ngày êm ả này, con cái thường quây
quần bên người mẹ hiền, chúc mừng và dâng
quà để tỏ lòng hiếu kính đối với người đã vất vả
MỤC LỤC

nhọc nhằn trong việc sinh thành cũng như


dưỡng dục nên mình.
Nhiều nơi vẫn giữ tục lệ này, đó là những
người mà mẹ già còn sống, khi ra đường
thường cài một bông hồng trắng trên áo, để ám
chỉ rằng người ấy vẫn còn có được một diễm
phúc tuyệt vời trên đời. Chẳng thế mà Thượng
tọa Thích Nhất Hạnh đã viết một cuốn sách nhỏ
trong mùa Vu lan báo hiếu. Cuốn sách mang tựa
đề “Bông Hồng Cài Áo”.
Giữa lúc phe đờn bà con gái rôm rả và tưng
bừng với những ngày lễ hội của mình : cười
cười nói nói, ấy là chưa kể tới thái độ vênh vênh
váo váo nữa là đàng khác, thì cánh đờn ông con
giai cứ phải nín khe, chẳng giành lấy được một
ngày để tôn vinh giọt mồi hôi và nỗi khổ cực của
những anh chồng, của những ông bố.
MỤC LỤC

Nghe đâu thiên hạ cũng định chọn ngày


mồng ba tháng tám để đối chọi lại với ngày
mồng tám tháng ba, nhưng xem ra ý đồ đen tối
này đã bị thất bại ngay từ trong trứng nước, vì
chẳng ma dại nào nhớ tới cái ngày chết tiệt ấy.
Về phương diện xã hội phe đờn bà con gái
vốn đã được bàn dân thiên hạ ưu đãi như vậy,
còn ca thán nỗi chi. Riêng về phương diện cá
nhân, bản tính của người phụ nữ cũng đã được
Thượng đế cưng chiều và gã có thể nói được
rằng :
- Họ sướng từ trong bụng sướng ra.
Để diễn tả cái sự sướng ấy, một tác giả nào
đó đã đưa ra ba trường hợp điển hình, gã xin
“copy” lại như sau :
Trước hết, vừa mới sinh ra, họ liền được
xếp ngay vào “phái đẹp”, mà chẳng cần chờ ban
giám khảo các cuộc thi hoa hậu cân đo, săm soi
MỤC LỤC

gì hết. Rõ sướng ! Họ khoái sắm đồ đẹp, thích đi


mỹ viện, sửa đi, sửa lại : độn cái này vô, lấy cái
kia ra cũng được cho qua, bởi vì họ là phái đẹp.
Còn đờn ông con giai ấy hả ? Nếu làm như vậy
thì thiên hạ lập tức xì xào :
- Rõ là đồ bóng, đồ pêđê, đồ lại cái…
Tiếp đến, thử hỏi ở phòng khám béo phì có
bao nhiều bà bụng to cỡ “thùng nước lèo’, và
bao nhiêu cô hông bự cỡ “võ sĩ sumô”, kết mô
đen : vòng tròn biết đi, thùng phi di động ? Ấy
vậy mà nếu đờn ông con giai lỡ có bụng to đi
chữa mập, thì liền bị các bà các cô nhòm nhòm,
ngó ngó, rồi ghé vào tai nhau phê cho một câu :
- Bụng bia, uống bia cho đẫy vào rồi mới
vậy.
Sau cùng, họ được phép quyến rũ ta, tức
cánh đờn ông con giai, bằng các độc chiêu như
ánh mắt, nụ cười, giọng nói, thôi thì lườm lườm
MỤC LỤC

nguýt nguýt, nhõng nhà nhõng nhẽo…khiến bọn


mày râu vốn được gọi là phái mạnh, phái khỏe,
bỗng trở nên yếu xìu : răm rắp làm theo ý muốn
của họ, cho dù có phải vào nhà đá mà nằm bóc
lịch. Thế mà dư luận lại còn lên tiếng chê bai ta
là mất đạo đức, làm bại hoại gia phong, làm tan
nát cửa nhà.
Ngoài ra, họ lại còn rất tinh khôn, đó là
thích được người khác ôm, chứ nhất định không
chịu bỏ tiền ra để mà “ôm” ai bao giờ cả !!!
Với những so sánh khập khiễng kể trên, gã
bèn nghiệm ra rằng đờn bà con gái sướng ơi là
sướng, còn đờn ông con giai khổ ơi là khổ. Thân
phận phái mày râu vốn dĩ rẻ như bèo, đã thế lại
còn khó mà thực hiện được cho trọn vẹn vai trò
của mình.
MỤC LỤC

Càng nghĩ gã càng cảm thấy tủi cho cánh


đờn ông con giai. Đành phải thở dài thườn thượt
mà ngán với ngẩm :
- Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ.
Rồi giơ tay lên trời, lớn tiếng phân bua :
- Chúng ta sinh ra đời dưới một ngôi sao
xấu.
Và cuối cùng, dứt khoát thề với đầu gối
mình mà rằng :
- Kiếp sau xin chớ làm chồng,
Làm cây thông đứng mà trông…đờn bà.
Bây giờ, gã xin bàn đến nỗi đoạn trường
đầy cơ cực, đầy cay đắng của cánh đờn ông con
giai, nhất là của những anh chồng trong cuộc
đời bất hạnh của họ.
Mỗi khi có dịp gặp gỡ, trong câu chuyện
trao đổi, mấy cha dòng thường hay chê mấy cha
triều như sau :
MỤC LỤC

- Các cha cứ việc xây rồi cất.


Cũng giống như mấy ông cán bộ nhà
nước :
- Có làm thời mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Càng vẽ ra làm nhiều thì lại càng có ăn, bởi
vì mỗi dự án được thực hiện, thì mấy ông cán
bộ cũng bỏ vào túi riêng của mình chí ít là 30%.
Trong khi đó, mấy cha triều lại trách mấy
cha dòng như sau :
- Các cha cứ việc khấn hứa cho lắm vào,
rồi để tụi này phải giữ. Mặc dù bản thân các cha
chẳng có gì cả, nhưng khi cần thì lại có tất tật.
Chẳng hạn các cha không có xe riêng, nhưng
nếu đi đâu, cần xe hai bánh thì có xe hai bánh,
cần xe bốn bánh thì có xe bốn bánh. Hơn thế
nữa, tiền xăng dầu khỏi phải lo vì đã có nhà
MỤC LỤC

dòng “bao cấp”, trang trải từ A đến Z. Sống như


vậy, thì quả thực cũng “khó…mà nghèo”.
Trong khoảng thời gian gần đây, thiên hạ
thường hay nói đến hai chữ “linh đạo” tức là con
đường tu đức, con đường nên thánh. Có linh
đạo dành cho đời tu, thì cũng có linh đạo dành
cho đời thường. Có linh đạo dành cho các cha
dòng thì cũng có linh đạo dành cho những ông
bố. Có linh đạo dành cho các sư huynh, thì cũng
có linh đạo dành cho những anh chồng. Có linh
đạo các bà phước thì cũng có linh đạo dành cho
các bà mẹ. Có linh đạo dành cho các ma xơ thì
cũng có linh đạo dành cho các chị vợ. Thôi thì
trăm hoa đua nở, đúng như người Việt Nam
chúng ta đã diễn tả :
- Chữ tu kia cũng có dăm bảy đường :
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu…dòng.
MỤC LỤC

Ngồi nghĩ vẩn nghĩ vơ, gã thử so sánh đời


sống của các thầy dòng với đời sống của những
anh chồng, gã bỗng nghiệm ra rằng đời sống
của mấy anh chồng gian nan hơn gấp bội so với
đời sống của các thầy dòng. Mặc dù chẳng phải
khấn với hứa, thề với thốt về ba lời khuyên Phúc
âm, thế mà những anh chồng sống giữa đời,
bên vợ bên con, bên xã hội bên gia đình, đã
phải tuân giữ một cách “nghiêm văn chỉnh”
những lời khuyên quí giá ấy, bởi vì nếu buông
lơi đi một tí, thì sẽ kéo theo những hậu quả trầm
trọng, đến nỗi quỉ thần cũng không lường nổi.

Thứ nhất là lời khấn khó nghèo.

Nhìn vào thực tế, gã nhận thấy vấn đề “đầu


tiên” bao giờ cũng vẫn là vấn đề “tiền đâu”. Nỗi
ưu tư số một của nhiều người là gì nếu không
MỤC LỤC

phải là nỗi ưu tư về “cơm áo gạo tiền”. Tiêu


chuẩn để đánh giá sự thành đạt của một người,
ngày nay thiên hạ không còn dựa vào nhân đức
hay kiến thức, mà dựa vào lương bổng người ấy
nhận được. Càng kiếm được nhiều tiền, thì càng
được coi là thành công.
Và tiền bạc đã chi phối mọi lãnh vực, từ
bản thân đến gia đình, từ tình cảm cá nhân đến
chức tước ngoài xã hội, đúng như bàn dân thiên
hạ đã diễn tả :
- Tiền là tiên là Phật,
Là sức bật của người già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Như có lần gã đã nói tới chiếc vòng luẩn
quẩn :
MỤC LỤC

- Người ta lấy tiền để nhử đờn bà. Người ta


lấy đờn bà để nhử đờn ông. Và người ta lấy đờn
ông để…nhử ra tiền.
Đúng thế, tự bản chất Thượng đế đã phú
bẩm cho anh con giai một thân thể “cốt xì tô”,
một thân thể cường tráng. Vì thế, anh con giai
có bổn phận phải dùng nó để lao động sản xuất,
hầu đảm bảo một cuộc sống ấm no cho bản
thân cũng như cho vợ con. Tắt một lời, cánh
đờn ông có bổn phận, có nghĩa vụ phải kiếm
ra…tiền!
Mặc dù không khấn khó nghèo, nhưng thực
sự phần lớn các anh chồng đều phải giữ đức
khó nghèo một cách triệt để, thậm chí còn phải
giao nộp cho tới đồng xu cuối cùng.
Nếu các thầy dòng không được phép giữ
tiền riêng cũng như không được phép tự do
hưởng dùng thoải mái những của cải vật chất,
MỤC LỤC

thì những anh chồng cũng rứa và còn hơn thế


nữa.
Đúng vậy, suốt năm suốt tháng, anh chồng
phải lao động cực nhọc, đổ mồ hôi sôi
nước mắt, mới kiếm được tí tiền còm. Thế
nhưng với số tiền còm này, anh chồng đừng
hòng tơ tưởng mà trích ra một phần nhỏ để làm
quĩ riêng hay để nhậu nhẹt đàn đúm với bầu bạn
bốn phương. Trái lại, phải mau mắn đem về nộp
cả cho chị vợ, không thiếu một đồng, không hụt
một xu.
Cái “đài” của chị vợ suốt ngày ca đi ca lại
bản nhạc vật giá leo thang, gạo châu củi quế :
tiền chợ tiền búa, tiền điện tiền nước, tiền mắm
tiền muối, tiền thuốc tiền thang, tiền học tiền
phí…thôi thì trăm thứ lỉnh kỉnh, khiến anh chồng
chẳng còn dám “của chung ai khéo vẫy vùng
thành riêng”, bằng cách ăn bớt, ăn xén…
MỤC LỤC

Mà chị vợ thì lại rất giống kho bạc của nhà


nước. Giao tiền thì hồ hởi, còn lấy tiền thì nhăn
nhó. Nộp tiền dễ dàng, còn rút tiền thì nhiêu khê.
Nghĩa là có đầu vào mà chẳng có đầu ra. Thậm
chí ngay cả đến những nhu cầu chính đáng như
tiền cà phê, tiền xăng dầu…anh chồng cũng
phải gãi đầu gãi tai bẩm báo và xin xỏ với bà xã.
Và thế là đi đoong tất cả, ta mất luôn chủ quyền
trên cái ta đã chắt chiu…mần ra.

Thứ hai là lời khấn trong sạch và khiết


tịnh.

Chuyện rằng : Có một cậu bé được vị ẩn


sĩ đưa lên núi từ thưở nhỏ. Ngày ngày tu hành
học đạo, xa tránh cuộc sống trần gian. Cho đến
ngày kia, cậu bé trở thành một thanh niên khỏe
MỤC LỤC

mạnh và cường tráng. Vị ẩn sĩ mới quyết định


đem cậu ta xuống núi để thử thách.
Cuộc sống phàm tục có nhiều điều mới lạ
khiến cậu ta hết sức ngạc nhiên và thích thú.
Gặp bất cứ điều gì, cậu ta cũng ngắm nghía và
hỏi han thầy mình.
Trên đường về, gặp mấy cô gái vừa cấy lúa
vừa cất tiếng cười trong trẻo, cậu ta liền hỏi :
- Thưa thầy, cái gì thế ?
Vị ẩn sĩ ngước nhìn và thấy mấy chiếc nón
các cô đang đội, liền ôn tồn trả lời :
- Ồ, đó chỉ là mấy chiếc nón mà thôi con ạ.
Về đến núi, tự nhiên cậu ta đâm ra ngẩn
ngơ như người mất hồn. Thấy vậy, vị ẩn sĩ mới
hỏi :
- Con đau bệnh hay sao ?
Cậu ta buồn bã trả lời :
MỤC LỤC

- Chẳng biết tại sao con nhớ mấy chiếc nón


ấy quá, con thương mấy chiếc nón ấy lắm.
Câu chuyện dí dỏm này muốn nói lên một
sự thật, đó là nam và nữ, trai và gái thường lôi
cuốn và hấp dẫn lẫn nhau. Đó là điều hết sức tự
nhiên và bình thường, như tục ngữ vốn diễn tả :
- Trai thấy gái lạ, như quạ thấy gà con.
Mặc dù không khấn trong sạch, nhưng phần
lớn các anh chồng đều phải giữ đức trong sạch
đến từng ly từng tí. Hai chữ “trong sạch” ở đây
không được hiểu theo nghĩa hẹp, nói tới việc giữ
phép vệ sinh nơi thân xác, chẳng hạn mỗi buổi
sáng khi thức dậy phải lấy nước đánh răng và
rửa mặt, mỗi ngày phải tắm rửa và kỳ cọ cho
sạch sẽ, râu tóc phải cho tươm tất và áo quần
phải cho gọn ghẽ :
- Đói cho sạch, rách cho thơm…
MỤC LỤC

Cũng không được hiểu theo nghĩa rộng, nói


tới tình trạng tâm hồn không vướng mắc tội lỗi.
Trái lại, phải được hiểu theo một nghĩa đặc
biệt. Với nghĩa đặc biệt này thì trong sạch là
nhân đức giúp chúng ta xa tránh những vui thú
thể xác bất chính, không được phép. Cao điểm
của đức trong sạch chính là đức khiết tịnh, hoàn
toàn xa tránh những vui thú xác thịt, kể cả
những vui thú chính đáng và được phép, bằng
việc tự nguyện khước từ hôn nhân. Cao điểm
này được dành cho bậc tu trì.
Vì dây hôn phối đòi buộc phải chung thủy,
vì hạnh phúc của bản thân và sự bền vững của
gia đình, kể từ khi đưa nàng về…dinh, thì anh
chồng lập tức phải chấm hết những mối liên hệ
bất chính, chớ có mà lơ tơ mơ hay mèo chuột
linh tinh thì có lúc phải…chết với bà.
MỤC LỤC

Về khoản nào gã không biết, chứ về khoản


này thì các chị vợ rất ư là nhạy bén. Hở ra một
tí, thì cũng đủ tiêu tùng. Ấy là chưa nói tới khi sự
thật bé tẻo teo như con cóc, lại được các chị vợ
phóng đại tô màu thành to như con bò.
Ngoài ra, các chị vợ còn được hỗ trợ bởi
những “vệ tinh do thám”, những quan sát viên
quốc tế, như cô em, cô chị, bà thím, bà bác…
Nhất cử nhất động đều được tường trình và báo
cáo. Nên chớ có mà dại dột.
Một tác giả nào đó đã giãi bày tâm sự…
buồn về việc làm chồng của mình bằng cách
than ngắn thở dài như sau :
- Chiều chiều bìm bịp kêu chiều,
Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi.
Ban ngày làm việc tả tơi,
Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường.
Nằm chung thì bảo…chật giường,
MỤC LỤC

Nằm riêng thì bảo…tơ vương con nào.


Lãng mạn thì bảo…tào lao,
Nghiêm trang lại bảo…người sao hững hờ.
Khù khờ thì bảo…giai tơ,
Khôn lanh thì bảo…hái mơ bao lần.
Cả đời cứ mãi phân vân,
Tơ lòng bà xã biết mần sao đây.
Tính ghen của chị vợ là như một thứ rào
cản, khiến cho anh chồng bất nhóc nhách. Xem
ti vi thì đừng có mở mồm khen ca sĩ này đẹp, ca
sĩ kia tươi mát. Ra đường thì đừng có láo liên
con mắt, nhìn bên nọ ngó bên kia, nhưng phải
cúi xuống, bước đều thẳng tắp một mạch. Gã
xin ghi lại nơi đây “lời vợ dặn” để phe ta cùng
suy gẫm :
- Lái xe ra khỏi cổng nhà,
Vợ kêu giật ngược, diết da dặn rằng :
Một đừng mơ mộng thơ trăng,
MỤC LỤC

Đụng xe thi sĩ gẫy răng u đầu.


Hai đừng giữ ống nghe lâu,
Gái tơ õng ẹo ghẹo đầu dây kia.
Ba đừng ghé quán rượu bia,
Bốc men tơ tưởng nọ kia khó lường.
Bốn đừng mua báo dọc đường,
Bìa in hoa hậu soi gương liếc cười.
Năm đừng liến láo con ngươi,
Đồng nghiệp váy ngắn ẹo người đi qua.
Sáu đừng hoang phí thời gian,
Ngồi lâu trộm nghía cô hàng cà phê.
Bảy đừng thấy phở mà mê,
Bột ngọt loét dạ lại chê cơm nhà.
Tám đừng hò hát lang thang,
Tiếp viên ca sĩ giả ma hớp hồn.
Chín đừng dạo bước hoàng hôn,
Công viên hóa lá cô hồn rủ rê.
Mười đừng ghé rạp xi nê,
MỤC LỤC

Ti vi nhà sẵn, lẹ về coi phim.


Rõ chưa, vợ hét đứng tim,
Đừng hòng tưởng bở như chim sổ lồng.
Nhắc đi nhắc lại cho thông,
Nếu không…tui quyết nhốt ông ở nhà.

Thứ ba là lời khấn vâng lời.

Người ta hỏi một em nhỏ :


- Cháu muốn gì bây giờ ?
Em nhỏ trả lời ngay :
- Cháu muốn làm người lớn ?
Người ta hỏi tiếp :
- Tại sao cháu lại muốn làm người lớn ?
Em nhỏ đơn sơ nói :
- Cháu muốn làm người lớn để được thoải
mái nằm ngủ nướng mà không bị gọi dậy đi lễ,
MỤC LỤC

để được vô tư chửi tục mà không bị la mắng,


như…bố cháu ấy!
Câu trả lời của em nhỏ, tuy ngây ngô,
nhưng cũng phản ảnh được phần nào ước vọng
của con người, đó là muốn có tí chức, tí quyền
để được ra lệnh và không phải vâng lời.
Phải chăng đây cũng chính là một cơn cám
dỗ mà con người thường gặp phải ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Ngày xưa nơi vườn địa đàng, ông
bà nguyên tổ đã bị cám đỗ muốn được trở nên
ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã không vâng
lời Ngài, giơ tay hái trái cấm mà ăn, để rồi phải
cúi đầu lãnh nhận án phạt của đau khổ và chết
chóc.
Khi khấn giữ đức vâng lời, thầy dòng tự
nguyện từ bỏ ý riêng để chu toàn ý Chúa. Ý
Chúa ấy một phần nào đó được biểu lộ qua
những lệnh truyền của bề trên.
MỤC LỤC

Cũng thế, bước vào đời sống hôn nhân anh


chồng tuy không khấn vâng lời, nhưng đã thực
sự giữ đức vâng lời một cách tối mặt ở mọi
nơi, trong mọi lúc và qua bất kỳ công việc gì,
nhớn cũng như nhỏ, to cũng như bé. Gã có thể
suy diễn về đức vâng lời của anh chồng như sau
:
- Ta từ bỏ ý riêng, để chu toàn ý trời. Ý trời
ấy một phần nào được biểu lộ qua những lệnh
truyền của vợ ta.
Đây không phải là một điều chi mới lạ do gã
bịa ra, nhưng là một sự thật ngàn đời, đã được
cha ông chúng ta tôi luyện bằng những kinh
nghiệm xương máu, khi phát biểu :
- Nhất vợ nhì trời.
- Vợ muốn là trời muốn.
- Lệnh vua thua lệnh bà.
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
MỤC LỤC

Nếu ngày xưa : trai thời trung hiếu làm đầu,


thì hôm nay anh chồng cũng phải trung với vợ
và hiếu với bố mẹ. Nếu ngày xưa : quân xử thần
tử, thần bất tử bất trung, có nghĩa là vua xử bày
tôi phải chết, mà nếu bày tôi không chết, thì đó
là bầy tôi bất trung. Còn hôm nay, dù chị vợ có
bảo anh chồng phải chết, thì anh chồng cũng rất
hoan hỉ vâng lời chị vợ mà ngạo nghễ đi vào
chỗ…tiêu tán đường !
Chẳng thế mà không thiếu gì những vị tai to
mặt lớn, vì chiều theo ý vợ cũng như vì vâng lời
vợ, mà mở rộng vòng tay đón nhận quà cáp, sẵn
sàng tham nhũng, vô tư xơi hối hộ, để rồi cuối
cùng thân bại danh liệt, nằm vắt tay lên trán mà
ngẫm nghĩ chuyện đời ở trong chốn lao tù.
Như thế mới biết đức vâng lời của những
anh chồng quả là cao vòi vọi :
- Lời nàng dạy phải lắng nghe,
MỤC LỤC

Mai sau khôn lớn mà khoe mọi người.


- Vợ mình, mình sợ mới khôn,
Vợ người mà sợ có hôm què giò.
Vợ ta, ta sợ chẳng lo,
Vợ người mà sợ, đồ bò đồ trâu.
Thật tội nghiệp cho những ông chồng,
không tu ở nhà dòng nhưng lúc nào cũng tu ở
nhà mình. Không thề không hứa, nhưng lúc nào
cũng phải tuân phải giũ ba lời khấn : khó nghèo,
trong sạch và vâng lời. Quả là những vị thánh
giữa đời thường.
Riêng gã, gã rất tâm phục khẩu phục cuộc
sống đầy cam go thử thách của họ, nên xin
được tôn phong họ lên làm “Đức ông…chồng”.
MỤC LỤC

LẤY VỢ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Ngày kia, một tên bạn bật mí cho gã hay về


lần hắn đi xưng tội mùa chay. Hắn bảo sau khi
đã kể hết mọi lỗi lầm, cha ngồi tòa bèn hỏi hắn
mấy câu thật lãng xẹt :
- Năm nay con bao nhiêu tuổi rồi.
- Dạ băm mốt.
- Con đã lập gia đình chưa ?
- Dạ thưa cha chưa ạ.
- Băm mốt rồi mà tại sao lại chưa lập gia
đình ?
Thế là hắn bèn phải cúi đầu thú nhận :
- Thưa cha, con đi…tu ạ.
Rồi hắn oang oang cái miệng thuyết minh
cho gã hiểu :
MỤC LỤC

- Đối với vị linh mục này, anh đờn ông con


giai ở vào tuổi băm, một là phải lấy vợ, hai là
phải đi tu, chứ còn ở vậy thì quả thực là có vấn
đề đấy con ạ.
Các cụ ta ngày xưa vốn thường dạy :
- Tam thập nhi lập.
Đối với anh đờn ông con giai, thì tuổi ba
mươi là tuổi lập thân, lập gia đình và lập nên
công danh sự nghiệp.
Riêng trong lãnh vực hôn nhân, kinh
nghiệm cho thấy, hễ ngoài tuổi “băm” này anh
đờn ông con giai chưa rước được một cô nàng
về dinh để làm vợ, thường rơi vào trạng thái
“lừng khừng”, và hay “ngãng ra” mỗi khi thầy bu
tính toán cho việc lứa đôi.
Sở dĩ anh đờn ông con giai ở vào lứa tuổi
này, thường hay lừng khừng và ngãng ra cũng
có những lý do riêng của hắn. Vì không phải là
MỤC LỤC

một chuyên gia về tâm lý, nên gã xin mượn tạm


một mẩu viết trên báo Phụ Nữ Chủ nhật với tựa
đề “ Tầm thê ở tuổi băm”, để phần nào hiểu
được những lý do thầm kín ấy.
Người ta bảo : trai ba mươi tuổi đang
xoan…Song câu nói này giờ đây dường như
không còn hợp thời nữa. Nhiều chàng “đang
xoan” đã phải giật thót người khi chợt nhận ra
mình đã chìm quá sâu vào nỗi cô đơn không lối
thoát. Phải chăng những chàng trai này “ế vợ”
do nghèo, xấu trai, không có địa vị xã hội ?
Hoàn toàn không. Họ có đầy đủ những ưu thế
để có thể dễ dàng tạo dựng cho mình một mái
ấm hạnh phúc. Bi kịch ở chỗ họ đã tự xây cho
mình một đỉnh cô đơn quá cao đến nỗi khó lòng
leo xuống.
Bài báo đã đưa ra một ngàn lẻ một lý do
khiến những chàng trai này phải sống “cu ky một
MỤC LỤC

mình”, gậm nhấm nỗi cô đơn và lẻ loi đếm từng


bước chân âm thầm, để rồi đêm đêm “tôi lặng lẽ
nhìn tôi trên vách”.
Thực tế cho thấy số người độc thân trong
độ tuổi ba mươi ở Việt Nam thời gian gần đây
ngày càng gia tăng. Điều này có thể thấy ở
cả nữ giới lẫn nam giới, Khác với phụ nữ thường
lo lắng ra mặt khi đã đến tuổi băm mà vẫn còn
chiếc bóng, các chàng trai thường tỏ vẻ phớt lờ.
Ai dám bảo các chàng không lo…ế ? Thật ra các
chàng giả bộ mặt lạnh thế thôi, chứ trong ruột
bắt đầu rối như tơ vò. Nhất là khi song thân ở
nhà luôn thôi thúc để có cháu nội bồng bế trước
khi nhắm mắt xuôi tay. Song đối với các “của
quý hiếm” tuổi băm này, thì chuyện lấy vợ không
hề đơn giản chút nào.
Chỉ xin đơn cử vấn đề tuổi tác. Lấy cô vợ
ngoài hai mươi thì trẻ quá, sợ cách biệt tuổi tác
MỤC LỤC

không hiểu nhau, lại còn phải chiều chuộng.


Chọn cô vợ ngoài băm như mình thì phù hợp,
nhưng lại sợ mất gía với bạn bè, bị chê là lấy
vợ…già! Thế mới khổ. Chưa kể tới ngàn lẻ một
lý do khác trong thời buổi công nghiệp hóa đến
chóng mặt này, như tôn giáo, nhà cửa, việc
làm…khiến cho cái sự lấy vợ càng phức tạp khó
khăn bội phần.
Bài báo đã kể lại những trường hợp cụ thể,
chứng minh cho sự thật trên.
Ở vào địa vị như Nguyễn Văn B, không ai
có thể nghĩ anh lại lâm vào tình cảnh “muộn vợ”.
Đẹp trai, cao ráo, giám đốc một công ty có tầm
cỡ. Tháng nào cũng bận rộn với những chuyến
đi bất tận, khi thì lên các tỉnh miền núi phía Bắc,
khi thì lặn lội về đồng bằng sông Cửu Long, lúc
lại công du tuốt ở Anh, Mỹ. Anh bộc bạch :
“Mình cũng từng có một chuyện tình đẹp. Cô ấy
MỤC LỤC

là công nhân cùng phân xưởng. Do hiểu lầm,


mẹ mình đã ngăn cấm mình đi đến hôn nhân với
cô ấy. Ngày nàng chuẩn bị về nhà chồng, mình
đã đưa nàng dạo chợ Bến Thành sắm…áo cưới.
Từ đó, mình chỉ còn lấy sự học làm vui để có
được sự nghiệp như ngày nay. Nàng bây giờ đã
có con lớn, còn mình thì vẫn cảm thấy hết sức
cù….lần mỗi khi đứng trước phụ nữ, mặc dù tuổi
đã sắp quá băm”.
Đàn ông ở cái lứa tuổi ba mươi, nếu không
quá bận rộn vì công việc như trường hợp chàng
B, thì cũng chạy trốn vào công việc do quá mệt
mỏi với chuyện yêu đương.
Tôi có anh bạn là thư ký tòa soạn một tờ
báo khá lớn ở Hà Nội. Suốt ngày chỉ cắm đầu lo
bài ở tòa soạn, anh thú nhận là chẳng còn thời
gian nào cho cái trò hò hẹn, mặc dù anh đã ba
mươi tám cái xuân xanh. Một lần do bạn bè hối
MỤC LỤC

“uống rượu” quá, anh đã tự đăng tên mình trên


mục câu lạc bộ làm quen của “báo nhà” với cái
mác phóng viên. Thư từ các nơi đổ về hàng trăm
lá. Nhưng chỉ sau vài cuộc hò hẹn, anh đâm
chán : các cô chỉ thích cài mã nhà báo thôi, chứ
khó lòng thông cảm với cái nghề đi đây đi đó.
Thế là anh lại quay về với “người tình muôn
thuở” là công việc, lấy đêm làm ngày và tự an ủi
mình : thế mà lại hay. “Nàng” chẳng bao giờ
phản bội mình.
Ngạc nhiên nhất có lẽ là câu chuyện của H,
một anh bạn học cũ của tôi. Bẵng đi hơn chục
năm không gặp, cứ ngỡ H đã yên bề gia thất rồi.
Hóa ra, H càng đạt được đỉnh cao trong sự
nghiệp bao nhiêu, lại càng thất bại trong tình
trường bấy nhiêu. Đẹp trai không thua gì…tài tử
xi nê, có một căn hộ xinh xắn đầy đủ tiện nghi ở
một quận trung tâm thành phố,, công việc thu
MỤC LỤC

nhập cao và ổn đỉnh tại một công ty liên doanh


với nước ngoài. Vậy mà H vẫn độc thân ở tuổi
ba mươi lăm. Hỏi ra mới biết H đã từng có khá
nhiều người yêu, song các cô đều chê anh
chàng…có máu lạnh, khô khan tình cảm. Quả
thật, khuôn mặt đẹp như tượng của H trông lạnh
như băng, hiếm hoi mới có nụ cười. Nhưng đó
không phải là lý do chính đáng khiến H muộn
vợ. Xuất thân từ miền Trung, H thuộc loại người
kỹ tính. Tất nhiên, anh đòi hỏi khá cao ở người
bạn đời về các tiêu chuẩn công, dung, ngôn,
hạnh. Thế là những cuộc tình chợt đến, chợt đi,
dù rằng đã từng có người đến với anh thật lòng.
C, một anh chàng điển trai và thành đạt, ba
mươi sáu tuổi, cao một mét bảy mươi lăm, là
một nha sĩ có cả “chân trong” lẫn “chân ngoài” :
ban ngày làm việc trong một bệnh viện lớn của
nhà nước, chiều về phòng mạch tư, khách đông
MỤC LỤC

nườm nượp, khiến chàng…nhổ răng mỏi tay.


Phòng mạch tư của C thường mở cửa đến hơn
20 giờ mỗi ngày. Nhiều cô gái đã phải ngậm
ngùi ra đi sau nhiều lần bị chàng cho “leo cây”
bởi lời hẹn : “Nếu cứ hơn 8 giờ tối mà không
thấy anh đến, em cứ việc về nhé”. Nhờ chịu khó
làm ăn, đến nay C đã tậu được căn nhà rộng rãi
trong một con hẻm yên tĩnh gần khu trung tâm.
Cứ chủ nhật rảnh, chàng lại rủ đám bạn trai đi
đánh billart ăn độ nhậu cho hết ngày để trốn
những giờ phút chỉ “ta với ta”, không biết làm gì
trong căn nhà quạnh quẽ. Và thế là vô tình
chàng lại càng xây cao thêm tháp ngà cô đơn.
Ngoài những lý do được bài báo trình bày,
gã xin nêu thêm một lý do khác nữa : sở dĩ
những anh đờn ông con giai ở vào tuổi băm mà
chưa lấy được vợ là vì họ chẳng biết đến những
lợi ích to tát do việc lấy vợ đem lại.
MỤC LỤC

Chẳng thế mà trong sách “Guiness”, người


ta đã ào ào tạo lập thành tích, hùng hổ lập nên
những kỷ lục về…yêu. Gã xin trích ra như sau :
- Thời gian đính hôn dài nhất, đó là thời
gian đính hôn giữa Octavio Guillen và Adriana
Martinez, người Mexico. Cuối cùng họ đã kết
hôn vào tháng 6 năm 1969, sau 67 năm thề non
hẹn biển. Cả hai người đều được 82 tuổi lúc lên
xe hoa.
- Cô dâu nhiều tuổi nhất, đó là cụ bà Minnie
Munro, cỡ tuổi 102, vẫn còn hăng hái lên xe hoa
với chú rể Dudley Reid, kém bà cụ tới 19 tuổi.
Hôn lễ được tổ chức tại Point Clara, Australia,
ngày 31.5.1991.
- Chú rể già nhất, đó là cụ Harry Steven mới
quyết định làm lễ cưới với bà lão Thelma Lucas,
84 tuổi, tại nhà riêng ở bang Wisconsin, nước
Mỹ, ngày 03 tháng 12 năm 1984.
MỤC LỤC

- Cặp vợ chồng trẻ nhất, đó là vào năm


1986, có tin một bé trai 11 tháng tuổi đã cưới
một bé gái 3 tháng tuổi tại Aminpur, nước
Bangladesh. Lễ vu quy được hai gia đình sắp
xếp nhằm chấm dứt mối thù hằn kéo dài 20 năm
giữa hai bên.
- Cuộc hôn nhân bền chặt nhất, đó là cuộc
hôn nhân giữa ông Temulji Bhicaji và bà Lady
Nariman được gia đình đôi bên tổ chức lễ cưới
khi họ mới năm tuổi vào năm 1853. Cuộc hôn
nhân của đôi vợ chồng người Ấn Độ này kéo dài
86 năm, cho tới tháng 11 năm 1940, khi ông
Temulji qua đời, thọ 91 tuổi.
- Nhiều cặp hôn nhau cùng một lúc, đó là
ngày 14.02.1996 có tới 1420 cặp tình nhân tụ về
đại học Maine, nước Mỹ, để lập kỷ lục thế giới
mới về số đôi hôn nhau tại một nơi và trong một
lúc.
MỤC LỤC

- Nụ hôn dài nhất, đó là nụ hôn của đôi tình


nhân Karmit Tzubera và Dror Orpaz. Ngày 5
tháng 4 năm 1999, họ đã đứng hôn nhau trong
30 giờ 45 phút không ngưng nghỉ. Và họ dành
chức vô địch cuộc thi được tổ chức tại quảng
trường Rabin, thành phố Tel Aviv, nước Israel,
với giải thường là một chuyến đi vòng quanh thế
giới và 2.500 đô la. Cả hai sau đó đã phải nhập
viện vì kiệt sức.
Vậy thì việc lấy vợ đem lại những lợi ích to
tát nào ?
Mỗi khi trà dư tửu hậu, hoặc chén thù chén
tạc với nhau, cánh đờn ông con giai thường hay
nói xấu bà xã của mình, bởi vì dưới mắt họ, trên
trần gian này chỉ vợ người mới đẹp và chỉ văn
mình mới hay :
- Vợ ta thì nạt thì đe,
Vợ người thì cứ lăm le…nhìn hoài.
MỤC LỤC

Vợ ta thì chẳng đoái hoài,


Vợ người khen đẹp dài dài quanh năm.
Vợ ta chê mắt lá răm,
Vợ người trông tựa trăng rằm tiên nga.
Thế nhưng, gã có một anh bạn rất…ngược
đời. Cứ mỗi lúc xỉn xỉn, anh ta chẳng hề hé môi
phê bình chỉ trích bà xã, trái lại luôn mở miệng
ngợi khen, ca tụng bà xã hết lời :
- Nhà tôi đã nhiều đêm từng khóc mà
khuyên tôi rằng…Nhà tôi nói với tôi thế này…
Nhà tôi làm cho tôi thế nọ…
Dựa vào những lời anh ta phát ngôn trong
những lúc xừng xừng như thế, gã có cảm tưởng
rằng người vợ hiền đã thế chỗ cho người mẹ
hiền của anh ta đã qua đời từ lâu. Vì thế, anh ta
cũng có lý phần nào khi bảo :
- Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa…vợ như nước trong nguồn chảy ra.
MỤC LỤC

Một lòng thờ…vợ, kính cha.


Cho tròn tình nghĩa, mới là…đờn ông.
Và anh ta còn bạo phổi quả quyết :
- Cha sinh không bằng…vợ dưỡng.
Sở dĩ như vậy, vì người vợ ấy không ngừng
khuyên răn, nhủ bảo và giáo dục anh ta đêm
ngày.
Ngay chính dân bợm nhậu cũng đã phải
khẩu phục tâm phục và cúi đầu thú nhận :
- Vợ ta không có công sinh ra ta, nhưng có
công nuôi dưỡng và dạy dỗ ta nên người.
Như vậy, lấy vợ thì sẽ được muôn vàn lợi
ích. Tuy nhiên, cái lợi ích to tát nhất mà gã muốn
bàn đến hôm nay, đó là vợ đã dạy dỗ ta nên
người.
Trước hết về cách thức dạy dỗ. Ông trời đã
phú bẩm cho người phụ nữ thiên chức làm mẹ
MỤC LỤC

và làm vợ. Vì thế, tự bản chất họ có nhiều năng


khiếu về sư phạm, về nghệ thuật dạy dỗ.
Có khi họ tỉ tê năn nỉ ỉ ôi, khiến anh đờn ông
con giai dù cứng như đá, cũng phải mềm nhũn
như con chi chi. Có khi họ nói dài nói dẻo nói
dai, miết rồi như giọt mưa cũng thấm dần xuống
đất. Có khi họ dùng tới biện pháp mạnh, độc ác
như bà La Sát, nghiệt ngã như bà chằn và hung
dữ như sư tử Hà Đông, khiến anh đờn ông con
giai phải rụng rời tay chân, hồn xiêu phách lạc.
Chẳng thế mà đa số những ông chồng đều
mắc phải một thói tật rất dễ thương, đó là thói
tật…sợ vợ :
- Vợ mình, mình sợ mới khôn,
Vợ người mà sợ có hôm què giò.
Vợ ta, ta sợ chẳng lo.
Vợ người mà sợ, đồ bò đồ trâu.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là


những bài học vợ dạy cho ta, nhờ đó ta mới mở
mắt ra và mới được như ngày hôm nay.
Trước hết, vợ dạy ta nên một người…
thứ thiệc “chăm phần chăm”.
Thực vậy, mục đích thứ nhất việc dạy dỗ
nhắm tới, đó là đào tạo nên những con người
thứ thiệc “một chăm phần chăm” khả dĩ có thể
sống tự lập và sống với người khác. Trước khi là
người cha hay người chồng, trước khi là người
Phật tử hay người Kitô hữu, thì tiên vàn phải là
người đúng nghĩa của nó, chứ đừng có “nửa
người, nửa ngợm, nửa đười ươi”.
Công việc này được các nhà chuyên môn
gọi là “giáo dục nhân bản”, “giáo dục đầu tiên”,
tiếng “Phăng xe” gọi là “première éducation”. Tại
Việt Nam, xem ra công việc giáo dục này còn
thiếu sót trầm trọng. Chẳng thế mà đường phố
MỤC LỤC

thì nhếch nhác bẩn thỉu, xe cộ thì chen lấn gây


ùn tắc giao thông, hàng quán thì khạc nhổ tùm
lum, chẳng ai thèm giữ phép vệ sinh công cộng.
Thế nhưng, chính nhờ vợ mà ta được hấp
thụ một nền giáo dục nhân bản, để ta trở thành
một con người đường đường chính chính.
Phải, nhờ vợ mà ta biết phép lịch sự.
Ngày xưa, ta la hét quát tháo là chuyện
nhỏ, ta mày tao chi tớ cũng chỉ là chuyện xoàng.
Còn bây giờ, ta phải ăn nói nhỏ nhẹ, khi đi thì
thưa, khi về thì trình, khi gọi thì dạ, khi bảo thì
vâng :
- Làm trai rửa bát quét nhà,
Vợ gọi thì dạ bẩm bà em đây.
Chẳng thế mà thiên hạ vốn thường bảo :
- Lịch sự là bông hoa thơm của nhân loại, là
món tiền càng tiêu càng lời, là chiếc chìa khóa
MỤC LỤC

bằng vàng khả dĩ mở được mọi khung cửa, kể


cả khung cửa những con tim chai đá nhất.
Phải, nhờ vợ mà ta biết tế nhị, chẳng bao
giờ hé môi chê bai ai, nhưng luôn mở mồm
mở miệng để cám ơn và khen ngợi.

Ngày xưa, ta mặc sức phê bình chỉ trích và


sẵn sàng kê tủ đứng vào mặt kẻ nào dám phản
đối ta. Còn bây giờ, ví dù cơm có khê, ta vẫn cứ
hùng hục mà ăn. Ví dù canh có mặn, ta vẫn cứ
anh dũng mà húp chùn chụt, rồi khen lấy khen
để :
- Ôi chao, mình nấu nướng mới tuyệt vời
làm sao!!!
Chẳng thế mà :
- Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.
Phải, nhờ vợ mà ta biết phục thiện.
MỤC LỤC

Ngày xưa, ta vốn thường hay cãi chày cãi


cối, đã ngang như cua, lại còn ngoác miệng ra
mà bảo :
- Ta ngang, nhưng là ngang phải, ngang có
lý.
Thiên hạ tức anh ách, như bị bò đá mà vẫn
miệng vẫn cứ phải ngậm tăm :
- Một thằng ngang, cả làng phải chịu.
Ấy là chưa kể những anh chàng mang thói
quan liêu và gia trưởng, sai bét bè be mà vẫn cứ
cho rằng mình đúng, Dùng áp lực theo kiểu cả
vú lấp miệng em, bắt người khác, nhất là vợ
con, phải chấp nhận sự thật của mình. Cứ
tưởng rằng : lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng và
chân lý luôn ở về phía những kẻ…vũ phu.
Thế nhưng bây giờ, rất may vợ dạy ta biết
nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi, ngay cả khi ta chẳng
thấy mình có lỗi chi. Thôi thì cứ nhận bừa, cứ ký
MỤC LỤC

đại cho êm cửa êm nhà. Dĩ hòa vi quí. Một sự


nhịn là chín sự lành kia mà. Thà rằng mình chịu
thua một tí, còn hơn là để cho vợ phải thiệt.
Ngoài ra, ta làm sao mà chịu nổi sự lạnh lùng và
“cấm vận” của vợ ta cơ chứ.
Chẳng thế mà người xưa đã bảo :
- Tri bỉ tri kỷ, bách chiến bách thắng. Biết
người biết mình trăm trận đều thắng.
Và ông thánh Âu Cơ Tinh luôn cầu nguyện
cho được biết mình :
- Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin
cho con biết con…
Phải, nhờ vợ mà ta biết kiên nhẫn, luôn
chờ đợi mà chẳng thấy mệt mỏi.
Ngày xưa, từ lúc quen nàng rồi yêu nàng,
biết bao nhiêu lần nàng hẹn sẽ gặp ta vào giờ
ấy, nhưng mãi cả bốn mươi lăm phút sau, nàng
mới lững thững bước tới. Thời gian chờ đợi
MỤC LỤC

khiến ta đứng ngồi không yên, như bị cả trăm


con kiến lửa cắn vào chân. Nếu có cà phê thì
phải xơi tới vài ba cái phin đen. Hay như một
ông thi sĩ nào đó đã diễn tả :
- Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé,
Để lòng sầu, anh dạo gót quanh sân,
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lui dần.
Anh khẽ bảo : gớm sao mà nhớ thế.
Thế nhưng khi nàng vừa xuất hiện, ta liền
quên béng mất sự bực tức khi trước, bèn nhoẻn
miệng cười toe toét. Nàng ậm ừ hỏi ta :
- Anh chờ có lâu không.
Ta phản xạ trả lời :
- Anh cũng vừa mới tới à.
Bây giờ, nàng đã là vợ và ta lại càng có
nhiều dịp thực hành đức kiên nhẫn. Chẳng hạn
mỗi khi vợ chồng phải đi dự tiệc, mà giờ thì đã
cận kề, thế mà nàng cứ vô tư tô chỗ này, vô tư
MỤC LỤC

thoa chỗ khác và vô tư kẻ chỗ kia. Rồi lại còn vô


tư ướm chiếc áo này, vô tư thử chiếc áo kia. Ta
đành phải tự an ủi mình :
- Vợ ta mà không làm đẹp, thì hẳn không
còn phải là đờn bà con gái nữa.
Rồi mỗi khi vợ chồng đi “shop”, ta âm thầm
như một chiếc bóng theo hầu, để tay xách nách
mang những sự lỉnh kỉnh nàng dúi cho. Món nào
nàng cũng muốn ngắm và thứ nào nàng cũng
muốn mua. Vài ba tiếng đồng hồ trôi qua vèo
vèo như một cơn mộng dữ. Dù chiếc ví có lép
kèm kẹp, thì bản mặt ta cũng vẫn phải tươi cười
khi nàng chỉ trỏ cái nọ cái kia.
Chẳng thế mà người xưa đã khuyên ta :
- Hãy cho bền chí câu cua,
Dù ai câu trạch, câu rùa mặc ai.
Phải, nhờ vợ mà ta biết hào phóng với
người và tiết kiệm với mình.
MỤC LỤC

Thực vậy, ngày xưa khi còn độc thân vui


tánh, làm được đồng nào, ta liền xào đồng nấy.
Nhiều khi lại còn bóc ngắn cắn dài, con nhà lính
tính nhà quan. Ta luôn rộng rãi với bản thân, để
rồi keo kiệt và nghiệt ngã với người khác.
Còn bây giờ ấy hả. Làm được đồng nào ta
liền mang về dâng hết cho vợ, để lập thành tích
và mong nàng ban phát cho ta một nụ cười ruồi,
mát ruột mát gan. Ta luôn hào phóng với nàng,
để rồi bất đắc dĩ phải keo kiệt và nghiệt ngã với
bản thân, vì còn tiền nữa đâu mà ga với lăng.
Nhiều lúc ta phải gãi đầu gãi tai xin nàng bố thí
cho kẻ bần cùng túng thiếu vài đồng bạc lẻ để
cà phê cà pháo với bè bạn.
Phải, nhờ vợ mà ta biết trật tự ngăn nắp.
Thực vậy, xưa kia ta bạ đâu quăng đấy.
Trật tự của ta chính là sự vô trật tự. Tuy nhiên,
hễ cần cái gì là ta liền tìm thấy ngay.
MỤC LỤC

Thế nhưng, từ ngày vợ ta quản lý căn hộ,


sáng nào nàng cũng quét dọn, cũng lau chùi,
cũng xếp đặt. Phá vỡ cái vô trật tự, cái vô tổ
chức của ta. Rõ ràng chiếc bật lửa ta vừa quẳng
trên bàn, bây giờ thèm thuốc, chẳng biết nó biến
nơi mô ? Bước chân vô nhà, ta phải để giày, để
dép ở bên ngoài, miết rồi ta không còn làm chủ
nữa, mà làm nô lệ cho chính ngôi nhà của ta.
Phải, nhờ vợ mà ta biết chấp
nhận nghịch cảnh.
Ngày xưa ta thường nhe răng cười, khi thấy
thiên hạ phát biểu :
- Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời
nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Có ở
trong chăn, mới biết chăn có rận. Đoạn trường ai
có qua cầu mới hay.
Còn bây giờ, ta đã là kẻ nhảy tõm vào lòng
cuộc đời, ta đã là kẻ đang nằm ở trong chăn và
MỤC LỤC

ta đã là kẻ qua cầu. Cuộc đời ấy có nàng ở bên


cạnh. Tấm chăn ấy có nàng cùng đắp chung. Và
nhịp cầu ấy có nàng sánh bước. Ta chẳng còn
cách nào khác, đành phải cúi đầu xin vâng, chấp
nhận mọi gai nhọn, chấp nhận mọi đắng cay,
chấp nhận mọi chấy rận, chấp nhận mọi đớn
đau đứt ruột. Có lẽ ta đang tiến mau, tiến mạnh
và tiến vững chắc trên con đường nhân đức…
vâng lời chịu vậy.
Phải, nhờ vợ mà ta biết được giá trị của
hai chữ tự do.
Ngày xưa, ta muốn nói gì thì nói, muốn làm
gì thì làm, muốn ăn gì thì ăn. Còn bây giờ vợ ta
khép ta vào kỷ luật, đặt ta nằm vào cái thế gọng
kìm, đúng như người xưa đã bảo : trai có vợ
như rợ buộc chân.
MỤC LỤC

Ta giống như chú hổ của Thế Lữ, ngồi


chổm hổm trong chiếc lồng vững chắc mà nhớ
tới chốn rừng xanh :
- Gậm mối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài nghe ngày tháng dần trôi.
Bây giờ ta mới thấy thấm thía câu nói :
- Không có gì quí hơn độc lập và tự do.
Bây giờ ta mới thấy quí sự tự do. Ta hối tiếc
vì đã để nó như cánh chim vuột khỏi bàn tay ta.
Và mọi sự đã trở thành quá muộn vì ta đâu còn
tự do nữa. Nhưng ta vẫn vui vẻ tự an ủi mình :
- Kỷ luật do vợ ta áp đặt trên ta sẽ tạo cho
ta sức mạnh và giúp ta nên người.
Phải, nhờ vợ ta mới có được một sức
khỏe dẻo dai.
Ngày xưa, ta lười biếng, cẩu thả và nhếch
nhác. Ngày thì ước những ngày mưa, đêm thì
ước những đêm thừa trống canh. Ta phung phí
MỤC LỤC

sức khỏe cho những trận đá bóng về sáng, cho


những cuộc nhậu thâu đêm. Ta giống như hạng
thư sinh, trói gà không chặt, dài lưng tốn vải ăn
no lại nằm.
Thế nhưng, bây giờ vợ ta sẽ đem lại cho ta
một sức khỏe, nếu không mạnh mẽ như “Hẹc
quin”, thì cũng dẻo dai như bất kỳ vận động viên
nào.
Thực vậy, theo các bác sĩ. Muốn được khỏe
mạnh thì cần phải hoạt động và ăn uống chừng
mực. Vợ ta, dù không phải là bác sĩ, nhưng đã
áp dụng hai tuyệt chiêu ấy cho ta từ lâu.
Trước hết, nàng bắt ta phải lao động tay
chân : nào là thổi cơm và giặt giũ, nào là rửa bát
và quét nhà, nào là cắt cỏ và làm vườn, nào là
mang và vác mỗi khi theo nàng đi “shop”…Lao
động tay chân khiến ta nhìn thấy vinh quang và
đem lại cho ta một sức khỏe dồi dào.
MỤC LỤC

Thứ đến, về chế độ ăn uống, nàng ra sức


ngăn cản ta không được hút thuốc, thuốc lào
cũng như thuốc lá, không được uống rượu, rượu
mạnh cũng như rượu bia, tối tối không được
thức khuya mà phải lên giường đi ngủ sớm…Ta
chỉ khác ông thày tu có chút xíu!!!
Có lẽ ta cũng nên theo chương trình “huấn
nhục” như thế của vợ ta, bởi vì :
- Một thằng ăn mày khỏe mạnh còn sung
sướng hơn một ông vua đau yếu.
Sau khi đã dạy ta nên một người thứ
thiệt “chăm phần chăm”, vợ còn dạy ta thành
một người cha gương mẫu và một người
chồng chung thủy.
Trước hết là một người cha gương mẫu.
Đúng thế, khi vợ ta rụch rịch “cắn ổ”, ta lo toát cả
mồ hôi hột. Ta kiểm kê mọi thứ phụ tùng lỉnh
kỉnh. Rồi lỡ dại khi nàng đau yếu, ta phải thay
MỤC LỤC

nàng nuôi con. Ta bao thầu mọi việc từ việc thay


tã đến việc tắm rửa cho con, từ việc cho con bú
đến việc ru con ngủ. Nếu có dự thi, nhất định ta
sẽ ẵm chiếc huy chương vàng của ông bố
gương mẫu, vì đã nuôi con khỏe, dạy con
ngoan.
Tiếp đến là một người chồng chung thủy.
Đúng thế, đêm đêm nằm ngủ bên nàng, ta đừng
ú ớ mơ mà kêu tên những loài hoa, như Hồng,
Mai, Lan, Cúc…Ngày ngày khi ra phố với nàng,
ta cứ thẳng một đường mà đi, chớ có liếc ngang
liếc dọc, nhất là đừng dại dột mở miệng khen
bất cứ một cô gái nào trước mặt nàng, bằng
không thì giông tố sẽ nổi lên và…phải “chít” với
bà.
Qua những điều vừa trình bày, gã thấy lợi
ích của việc lấy vợ quả thật là vô thiên lủng và
MỤC LỤC

khôn xiết kể. Chẳng tin thì cứ thử một lần, ắt sẽ


biết.
Và để kết luận gã xin kể lại một chuyện có
thật như sau : Bên cạnh nhà gã có một anh đờn
ông con giai, thuộc vào hàng “phá gia chi tử”, tệ
trạng nào hắn cũng có mặt, từ ăn nhậu đến
đánh đấm và đã từng nhiều lần được công an
hỏi thăm.
Bố mẹ hắn rất rầu rĩ. Cứ mỗi lần xảy ra sự
cố, thì một cụ già hàng xóm đều khuyên bố mẹ
hắn như sau :
- Cứ cưới ngay cho nó một con vợ. Thế là
xong. Chỉ có con vợ nó mới dạy được nó mà
thôi.
Xin khẩu phục tâm phục kinh nghiệm của cụ già
hàng xóm !!!
MỤC LỤC

CỤ XỨ BÊN TA

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Nếu gã nhớ không lầm, thì trước ngày ba
mươi tháng tư năm bảy mươi lăm, tại Đại Chủng
Viện Thánh Giuse Saigon các thầy phó tế, hay
nói nôm na là các cụ sáu, được lãnh nhận chức
vụ linh mục vào cuối tháng tư, trước khi ra
trường; còn tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô
X Đàlạt, thì vào tháng mười hai, trước lễ Giáng
Sinh. Thành thử trong năm có những đợt truyền
chức, được gọi là những mùa hồng ân,
Vào những mùa và những đợt này, bàn dân
thiên hạ lại được nghe trình bày về linh mục.
Các vị giảng thuyết cả tiếng lại dài hơi, ca tụng
vẻ cao đẹp tuyệt vời của thiên chức ấy. Chẳng
hạn linh mục là trung gian giữa trời và đất, là
gạch nối giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nghe cứ
như rót vào tai.
MỤC LỤC

Có vị trích dẫn mẩu đối thoại hình, hình


như của cha thánh Gioan Maria Vianney, để
biện minh cho những lời ca tụng của mình.
Thánh nhân phát biểu như sau :
- Nếu một ngày nào đó, tôi gặp một thiên
thần và một linh mục ở giữa đường, thì tôi sẽ cúi
đầu chào linh mục trước, bởi vì linh mục đã đem
Chúa đến cho tôi, còn thiên thần thì…không.
Có vị còn xác quyết mạnh mẽ hơn thế nữa,
khi nói :
- Mẹ Maria chỉ sinh Chúa có một lần, còn
linh mục thì không ngừng sinh Chúa mỗi ngày!
Chỉ sợ rằng các cha mới cứ được nghe
miết những lời “khoái cả lỗ nhĩ” này, mà lim dim
ngủ trên những hào quang của mình. Cứ ngỡ
mình là ông Bụt cao sang, mà quên mất thân
phận hòn đất thấp kém, bởi vì từ hòn đất, các
ngài đã được cất nên ông Bụt.
MỤC LỤC

Có một anh bạn là linh mục, ngày kia đã


tâm sự với gã như thế này :
- Hồi còn bé, mình thích đi tu lắm, ông có
biết tại sao không ? Này nhé, đi tu làm cha thì
được ở nhà tây, được mang giày tây, được ăn
bánh tây. Ra ngoài đường, bất luận già trẻ lớn
bé, nam phụ lão ấu đều khoanh tay cúi đầu chào
: Con xin phép lạy cha ạ. Lạy cha mà còn cần
phải xin phép nữa, thì quả là hết ý. Hồi ấy, mình
cũng giống như anh em ông Giacôbê và Gioan,
mang nặng đầu óc xôi thịt, theo Chúa với mục
đích vinh thân phì gia, mong được ngồi bên tả
và bên hữu Chúa, có nghĩa là tìm lấy cho mình
ghế nọ ghế kia, chức này chức khác. Tóm lại là
được làm lớn trong vương quốc của Ngài. Thế
rồi những tháng năm dài ở chủng viện đã dần
dần thanh luyện cái ý hướng của mình, nhờ đó
mình không còn mang ảo tưởng nữa. Chức linh
MỤC LỤC

mục là để phục vụ Chúa và người khác, chứ


không phải là để phục vụ cho bản thân. Và đời
linh mục chẳng phải là một xa lộ an toàn, nhưng
cũng chất đầy những chông gai và sỏi đá…
Cũng vị linh mục này, trong một buổi chia
sẻ kinh nghiệm sống, đã được mấy bà hiền mẫu
góp ý…nhẹ nhàng như sau :
- Đi tu như các cha, các thầy, các dì thế mà
sướng, chứ còn đèo bòng như tụi con, khổ lắm
cha ơi.
Có bà còn mạnh miệng phán một cách rất
quyết liệt và quá khích :
- Khi gặp gỡ và trao đổi với những đôi hôn
nhân, cha hãy bảo chúng nó đừng lấy nhau nữa,
khổ lắm cha ơi.
Nghe vậy, gã bèn hỏi :
- Vậy cha đã giải tỏa cho họ như thế nào ?
Ngài trả lời :
MỤC LỤC

- Mình cũng chỉ biết nhún vai, nhếch mép…


mần duyên mà nói với họ rằng : Có ở trong chăn
mới biết chăn có rận và đoạn trường ai có qua
cầu mới hay. Các bà cứ thử đi tu làm…cha mà
coi xem có nổ đom đóm mắt và toát mồ hôi hột
ra không ?
Đúng thế, bông hồng nào mà chẳng có gai,
cuộc đời nào mà chẳng có những đắng cay của
nó. Định luật này được áp dụng cho mọi người,
ở mọi nơi và trong mọi lúc, chẳng miễn trừ cho
một ai, kể cả linh mục và tu sĩ.
Vì thế, hôm nay gã xin hầu chuyện về nỗi
đoạn trường và những cay đắng bẽ bàng của
các linh mục, đặc biệt các cụ xứ, các cha sở bên
ta, tức là bên Việt Nam. Hy vọng có người nào
đó sẽ viết tiếp về nỗi đoạn trường và những cay
đắng bẽ bàng của các cụ xứ, các cha sở bên
tây.
MỤC LỤC

Nhìn thoáng qua con người và cuộc đời, gã


thấy linh mục được phủ đầy hào quang, thậm
chí có kẻ xấu bụng còn liệt các ngài vào hàng :
- Ngồi nhà mát, mà ăn bát vàng.
- Muốn nói ngoa, thì làm cha mà nói.
Hằng ngày chẳng phải bon chen, bươn chải
hay khắc khoải với vấn đề cơm áo gạo tiền. Rồi
lại còn được bàn dân thiên hạ trọng kính. Thấy
vậy ai mà chẳng ham.
Tuy nhiên, nếu vào sâu hơn một chút, thì
con người và cuộc đời linh mục cũng không
thiếu những gian nan và thử thách. Yếu tố căn
bản tạo nên tấm bi kịch của thân phận linh mục,
theo gã nghĩ, đó chính là những mâu thuẫn
chồng chéo. Có những mâu thuẫn từ bên ngoài,
do hoàn cảnh mang tới. Nhưng cũng có những
mâu thuẫn từ bên trong, phát sinh do bản chất,
do căn tính của linh mục.
MỤC LỤC

Trước hết là những mâu thuẫn từ bên


ngoài.
Ngày xưa việc huấn luyện và đào tạo linh
mục được chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất ở tiểu chủng viện. Các
chủng sinh được gọi là các chú. Ngoài những
sinh hoạt đạo đức, các chú còn được học một
chương trình giống như các thanh thiếu niên
ngoài đời, cho đến lúc mãn tràng, hết lớp đệ
nhất hay lớp mười hai.
Giai đoạn thứ hai ở đại chủng viện. Các
chủng sinh bây giờ được gọi là các thầy. Ngoài
những sinh hoạt đạo đức, các thầy còn được
trau dồi về triết học và thần học, nghĩa là được
tìm hiểu về những sự cao siêu trên trời.
Sau khi lãnh nhận chức linh mục và bước
chân xuống cuộc đời, nhất là trong trách nhiệm
và bổn phận của một cụ xứ, thì những sự cao
MỤC LỤC

siêu trên trời ấy bỗng biến đi đâu mất tiêu, để rồi


phải đối đầu với những việc cụ thể dưới đất.
Dĩ nhiên, cái chất đạo đức được tôi luyện
trong bao nhiêu năm tháng, không nhiều thì ít,
cũng đã thấm được phần nào vào con người linh
mục. Nhưng rồi những chi phối của thế gian
nhiều lúc cũng đã làm cho cái chất đạo đức ấy bị
phai nhạt dần.
Ngày xưa, cụ xứ chỉ được học qua quít
về…nghệ thuật hùng biện, thế mà bây giờ, giảng
dạy lại trở nên một trong những hoạt động chính
yếu của ngài. Nếu ngài giảng về những sự cao
siêu trên trời, giáo dân sẽ ngáp lên ngáp xuống.
Họ đòi hỏi bài giảng của ngài phải cụ thể và xúc
tích, nghĩa là phải xuất phát từ đời thường, để
rồi lại được áp dụng vào chính cuộc sống hằng
ngày. Vậy phải làm thế nào để đào cho ra cái
chất sống ấy ?
MỤC LỤC

Là người luôn đứng trên bục mà dạy thiên


hạ, thế nhưng nếu không khéo thì chính ngài lại
trở thành kẻ…mất dạy. Hai chữ mất dạy ở đây
không có nghĩa là ngỗ nghịch, hỗn láo mà chỉ xin
được hiểu là không còn được dạy bảo, như lời
một bà mẹ đã nói với người con của mình vừa
mới được thụ phong linh mục như sau :
- Con ơi, kể từ ngày hôm nay, nếu không ý
tứ, thì con sẽ trở nên một kẻ mất dạy, vì với
chức linh mục, con sẽ không còn được ai dạy
bảo nữa.
Đúng thế, nếu không kết hiệp mật thiết với
Chúa qua những tâm tình cầu nguyện, thì cụ xứ
không còn được Chúa dạy bảo. Hay nói đúng
hơn, cụ xứ không còn sẵn sàng đón nhận sự soi
dẫn của Chúa.
Đồng thời, với những thành công gặt hái
được và những trọng kính người ta dành cho
MỤC LỤC

mình, cụ xứ dễ mang ảo tưởng cho rằng mình là


một bậc thầy lỗi lạc, ý kiến của mình luôn đúng,
cho nên dễ dàng gạt bỏ thẳng thừng những ý
kiến đóng góp, những đề nghị xây dựng của
người khác. Từ đó, cụ xứ sẽ rơi vào thái độ cực
đoan, độc tài và độc đoán, không còn biết lắng
nghe. Như thế phải chăng là sẽ làm cho mình
dần dần trở nên mất dạy.
Cụ xứ bên ta được sánh ví như một chiếc
chìa khóa vạn năng, ổ nào cũng phải mở được,
hay nói một cách khác, đụng đâu thì phải làm
đó, mà việc nào xem ra cũng phải được xếp vào
bậc thầy, bậc sư phụ, bởi vì ngài là…thầy cả cơ
mà.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về kiến
trúc, thế mà bây giờ ngài phải nhúng tay vào hết
mọi công trình, xây từ nhà thờ cho đến nhà bếp,
xây từ nhà xứ cho đến nhà sinh hoạt, thậm chí
MỤC LỤC

đến cả chuồng heo, chuồng gà. Thế nhưng,


những kẻ không hiểu thì chép miệng phê bình :
- Cha xây, rồi cha lại cất. Xây nhiều thì cất
cũng nhiều.
Trái lại, nếu không xây, thiên hạ bảo cha cù
lần :
- Bao nhiêu năm cha ở với chúng con mà
chẳng để lại được một công trình nào cả. Cha
chẳng lo xây, nhưng chỉ lo cất mà thôi.
Rất lơ mơ về nghề xây dựng, nhưng vì là cụ
xứ có toàn quyền, nên đôi lúc ngài cũng đã ngẫu
hứng thò tay điều chỉnh bản vẽ, thêm cái này,
bớt cái kia, thành thử kết cấu cứ thay đổi luôn
xoành xoạch, đến độ quỷ thần cũng không
lường nổi.
Ngày xưa, cụ xứ đâu có được học về việc
cấy lúa thần nông, làm đường giao thông, hay
đào ao thả cá…thế mà bây giờ, ngài cũng phải
MỤC LỤC

lăn xả vào những ngành nghề này, ít nữa là đưa


ra những ý kiến mang nặng tính cách khoa học
và kỹ thuật, để dân chúng noi theo mà nâng cao
đời sống.
Và còn rất nhiều lãnh vực khác nữa, mặc
dù hiểu biết còn rất lơ mơ và kinh nghiệm tích
lũy chẳng bao nhiêu, thế mà ngài vẫn cứ phải
dấn thân. Thôi thì cha sở đi trước, làng nước
theo sau. Hay nói cách khác :
- Đã ăn cơm Chúa thì phải múa tối ngày mà
thôi.
Một khó khăn nữa cũng đến từ bên ngoài,
đó là cách cư xử của cụ xứ. Ngài phải làm sao
để dung hòa được những nghĩa vụ, những hoạt
động của mình, luôn đứng ở giữa, không
nghiêng bên nọ, cũng không ngả bên kia, bởi vì
thái quá thì bất cập.
MỤC LỤC

Trong một bài báo với tựa đề : “Làm cụ xứ


thời nay dễ hay khó ?”, một tác giả đã đưa ra
những nhận xét của mình như sau :
“Nếu cha giảng lâu quá mười phút – Cha lại
nói thao thao bất tuyệt !
Nếu cha mời mọi người chiêm niệm về Thiên
Chúa – Ôi, cha chỉ toàn là nói chuyện trên mây
trên gió !
Nếu cha đề cập hơi nhiều đến các vấn đề
xã hội – Rõ ràng là cha lại khuynh tả rồi !
Nếu cha chỉ cư ngụ trong khuôn viên Giáo
Xứ – Cha đã tự ý cắt đứt liên hệ với thế gian !
Nếu cha cứ cả ngày ở trong Nhà Chung –
Cha chẳng chịu đi gặp gỡ tiếp xúc với ai cả !
Nếu cha thường xuyên đi thăm người này
người kia – Cha chẳng chịu bao giờ ở Nhà Xứ !
MỤC LỤC

Nếu cha sẵn sàng làm Phép Rửa Tội và


chứng Hôn Phối cho bất cứ ai đến xin – Đúng là
cha đã bán tống bán tháo các Bí Tích !
Nếu cha đòi hỏi cao hơn và nhiều hơn –
Cha chỉ muốn Giáo Hội gồm toàn những người
trọn hảo !
Nếu cha thành công với thiếu nhi – Đạo
của cha là đạo ấu trĩ !
Nếu cha năng thăm viếng các bệnh nhân –
Cha chỉ phí thời giờ, và không đi sát với các vấn đề
của thời đại !
Nếu cha sửa sang Nhà Thờ – Cha lại ném
tiền qua cửa sổ mất rồi !
Nếu cha không tu bổ gì – Cha đã bỏ bê
mọi sự !
Nếu cha cộng tác chặt chẽ với Hội Đồng
Giáo Xứ – Cha lại để cho người ta xỏ mũi cha
rồi !
MỤC LỤC

Nếu cha không lập Hội Đồng Giáo Xứ –


Cha độc tài quá đi mất !
Nếu cha hay mỉm cười – Cha quá dễ dãi !
Nếu vì đãng trí hay quá bận tâm một
chuyện gì đó nên cha không nhìn thấy một người
nào đó – Cha khinh người vừa vừa chứ !
Nếu cha hay bực bội vì một sai sót nào đó
của người khác – Cha thiếu sự độ lượng nhân từ
rồi đấy !
Nếu cha hiền hòa nhẫn nhục – Cha thiếu
nghị lực quả quyết !
Nếu cha còn trẻ – Đúng là cha còn thiếu
kinh nghiệm trường đời !
Nếu cha đã có tuổi – Xin mời cha nghỉ hưu
đi là vừa !
Vậy thì, kính thưa cha sở, xin cha cứ can
đảm lên nhé !”
MỤC LỤC

Qua những cuộc tiếp xúc, gã cũng nhận


thấy tương tự như vậy : một cha sở, nếu vui tính
thì bị hiểu là quá dễ dãi và thân mật, còn nếu
nghiêm nghị ít nói thì bị mang tiếng là khó tính,
nếu bình dân ăn nói như mọi người thì bị chê là
không có tác phong đứng đắn, nếu áo quần tề
chỉnh và ít đi lại thì bị khép vào hạng người kiêu
kỳ quan liêu và cách biệt, nếu hăng hái lao động
thì bị kêu là kẻ ham của cải vật chất, còn nếu ít
làm việc tay chân thì bị trách là con nhà trưởng
giả…
Thật đúng như cha ông chúng ta đã nói :
- Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi
ra.
MỤC LỤC

Nếu muốn làm vừa lòng mọi người, thì cụ


xứ sẽ chẳng làm vừa lòng được một ai, hay cụ
xứ phải là người khôn ngoan như Salomon,
bằng không thì sẽ điên cái đầu. Mà dù có khôn
ngoan như Salomon chăng nữa, biết đâu lại
chẳng có kẻ chê là thủ cựu, là dè đặt, là bảo
hoàng hơn vua…Cho nên, cụ xứ vừa phải khôn
ngoan như con rắn, lại vừa phải đơn sơ như
chim bồ câu, vừa phải cứng như thép, lại vừa
phải dịu như nước. Ôi quả thực là nhiêu khê và
rắc rối quá đi thôi!
Sau khi đã rảo qua một vài mâu thuẫn từ
bên ngoài, bây giờ gã xin trình bày những mâu
thuẫn từ bên trong, phát sinh bởi bản chất hay
căn tính của linh mục.
Thứ nhất, con người linh mục thì yếu đuối,
nhưng lại mang lấy một chức vụ cao cả, chức vụ
trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Nói
MỤC LỤC

theo kiểu thánh Phaolô thì chức vụ ấy chính là


một kho tàng quý giá. Thế nhưng, kho tàng quý
giá này lại được đựng trong một chiếc bình sành
dễ vỡ là thân xác linh mục. Gìn giữ chiếc bình
này sao cho không bị bể vỡ cũng là chuyện rất
cam go trong suốt cả cuộc đời linh mục.
Ngày xưa, gã có quen một anh bạn bổn
đạo mới, tên là Minh. Trong chỗ bạn bè thân mật
với nhau, chúng tôi thường gọi anh là…”Minh
Tốc”. Chắc hẳn anh đã được nghe thuyết giảng
nhiều về sự cao cả của thiên chức linh mục, nên
luôn xác tín rằng : Linh mục là người không thể
nào sa ngã bởi vì luôn được Chúa yêu thương,
nâng đỡ và chở che. Chúng tôi có cắt nghĩa thế
nào chăng nữa, anh cũng không chấp nhận.
Chúng tôi có đưa ra những bằng chứng cụ thể,
chẳng hạn linh mục này đã sa ngã, linh mục kia
cởi bỏ chiếc áo chùng thâm để trở về làm…phó
MỤC LỤC

giáo dân ngoài đời, anh cũng chẳng chịu nghe.


Lập trường của anh trước sau như một :
- Linh mục là người thánh, không thể nào
phạm tội!!!
Là trung gian giữa Thiên Chúa và nhân
loại, nên linh mục vừa phải gắn bó với Thiên
Chúa, nhưng đồng thời cũng phải gắn bó với
con người. Vừa nắm chặt lấy bàn tay Thiên
Chúa, nhưng đồng thời cũng phải nắm chặt lấy
bàn tay con người. Vừa là tôi tớ của Thiên
Chúa, nhưng đồng thời cũng phải là tôi tớ của
con người. Dung hòa được hai điều này không
phải là chuyện dễ dàng chút nào.
Vì thế, trong khi thi hành bổn phận, cụ xứ
càng dấn thân vào đời bao nhiêu, thì lại càng
phải siêu thoát đối với đời bấy nhiêu, chứ không
được quyến luyến với đời. Dưới mắt ngài, cuộc
đời chỉ là quán trọ trong hành trình tiến về Nước
MỤC LỤC

Trời vì chỉ Nước Trời mới là quê hương đích


thực mà thôi. Hay như người ta thường bảo :
- Thân xác là bụi tro, danh vọng là mây
khói và tiền bạc là phân bón.
Ý thức mình chỉ là một con người yếu đuối,
trong tay không có những phương tiện chính trị,
những nguồn tài chánh, hay những vũ khí quân
sự, thế nhưng linh mục lại chất chứa một sức
mạnh vô song, sức mạnh của tình yêu và thập
giá, hay nói đúng hơn là sức mạnh của chính
Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã viết :
- Chính lúc tôi yếu lại là lúc tôi mạnh.
Những kẻ muốn tẩy trừ Giáo hội ra khỏi thế
giới đã biết rõ điều ấy. Bởi vì với biết bao nhiêu
quyền lực và sức mạnh, họ cũng vẫn không thể
nào đè bẹp nổi linh mục và làm cho Giáo hội bị
sụp đổ.
MỤC LỤC

Linh mục không phải chỉ là một con người


vừa yếu lại vừa mạnh, nhưng còn là một con
người vừa được yêu lại vừa bị ghét.
Như trên, chúng ta đã thấy người giáo dân
Việt Nam đã dành cho linh mục những yêu
thương và trọng kính. Trong khi đó, linh mục
cũng lại là người bị thù oán, bị chỉ trích nhiều
hơn cả. Cũng như Đức Kitô, cụ xứ trở nên bia
cho người ta chống đối.
Bernanos, một nhà văn công giáo, đã có lý
khi thốt lên :
- Phải bị ghét bỏ mới chính là linh mục đích
thực của Đức Kitô.
Linh mục bị những kẻ thù của Giáo hội hạ
nhục, bôi nhọ và vu khống vốn dĩ chỉ là
chuyện…thường ngày ở huyện. Thế nhưng, linh
mục còn bị chính con cái mình, những kẻ được
ngài dẫn dắt, quay lưng chống lại và phản bội.
MỤC LỤC

Bằng chứng là những đơn kiện cáo các


linh mục nơi phần đời cũng như nơi phần đạo tại
Việt Nam hình như mỗi ngày một gia tăng và nổi
cộm. Thậm chí, có linh mục đã phải ngậm đắng
nuốt cay mà than thở cả tiếng, khi đời mình đã
ngả bóng về chiều :
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Sau cùng, trong khi thi hành chức vụ, linh
mục và nhất là cụ xứ thường gặp phải một loại
mâu thuẫn khác nữa, đó là mâu thuẫn giữa
nhiều và chẳng có chi.
Đúng thế, đôi khi cụ xứ cầm trong tay cả
một đống tiền, thế mà nếp sống vẫn cứ đơn
giản, vẫn cứ đạm bạc, bởi vì đống tiền ấy chẳng
phải là của riêng mình, nhưng là của chung và
được tiêu dùng cho những công việc đem lại lợi
ích cho mọi người, thật đúng với cốt cách : có
cũng như không.
MỤC LỤC

Đặc biệt trong lãnh vực tình cảm, cụ xứ


cũng như linh mục phải có một trái tim rộng mở
để chia sẻ và cảm thông với hết mọi người, từ
những đứa con nít cho đến những ông già bà
cả, từ những kẻ giàu nứt khố đổ vách đến
những người nghèo túng khố rách áo ôm.
Tình yêu của ngài phải là một tình yêu
không biên giới, không loại trừ, không phân
cách. Tình yêu ấy phải được trải dài, trải rộng
trên mọi người, nhưng lại không được phép
đóng lại trên ai cả. Ngài chẳng phải là của riêng
một ai và chẳng một ai là của riêng mình ngài.
Ngài yêu rất nhiều, nhưng cuối cùng lại chẳng
được bao nhiêu. Ngài là bạn của mọi người,
nhưng rốt cục lại là người cô đơn nhất. Cô đơn
trong trách nhiệm và bổn phận. Cô đơn trong
khó khăn và thử thách. Cô đơn trong đau yếu và
tuổi già.
MỤC LỤC

Gã xin đưa ra một thí dụ điển hình : buổi


chiều Chúa nhật, thánh lễ thật đông vui làm sao.
Tiếp nối là giờ sinh hoạt của giới thiếu nhi :
những tiếng hát hồn nhiên và những nụ cười
ngây thơ của lứa tuổi thiên thần mới rộn rã làm
sao…Nhưng rồi sau đó, mọi người ra về và
cánh cổng nhà thờ khép lại. Cụ xứ lầm lũi và âm
thầm bước vào căn phòng nhỏ hẹp của mình.
Có nói thì cũng chỉ nói với chính mình. Có nhìn
thì cũng chỉ nhìn hình bóng mình in trên tường
vách. May mà ngài còn có Chúa. Chúa đã cứu
ngài một bàn thua trông thấy, bằng không thì chỉ
còn nước phá sản và vỡ nợ mà thôi!!!
Để kết luận, gã xin ghi lại ý kiến sau đây
của cha Chevrier. Ngài nói :
- Xin hãy giúp tôi xây dựng một ngôi thánh
đường. Chỉ có ngôi thánh đường này mới cứu
được thế giới.
MỤC LỤC

Người ta ngạc nhiên bèn hỏi :


- Ngôi thánh đường nào vậy ?
Ngài nói tiếp :
- Tôi muốn làm hết sức để xây một ngôi
thánh đường mà nền móng là những linh mục
thánh thiện, các cột đỡ cũng là những linh mục
thánh thiện, nhà tạm cũng là những linh mục
thánh thiện, tòa giảng cũng là những linh mục
thánh thiện và bàn thờ cũng là những linh mục
thánh thiện. Chỉ có ngôi thánh đường này mới
cần thiết cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi
lúc.
Sở dĩ như vậy vì đời sống đạo đức của
người giáo dân lệ thuộc khá nhiều vào sự thánh
thiện của các linh mục và các…cụ xứ!!!
MỤC LỤC

TAM VÒNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Buổi tối, mấy đứa con nít ngồi cãi nhau chí
chóe về vấn đề đờn bà và đờn ông. Một đứa lên
tiếng hỏi :
- Đờn bà bởi đâu mà có ?
- Thì bởi đờn ông chứ còn bởi ai ?
- Thế đờn ông bởi đâu mà có ?
- Thì bởi đờn bà chứ còn bởi ai ? Nếu
không có đờn bà, thì lấy ai sinh ra đờn ông,
không khéo đờn ông đã tiêu tùng từ lâu.
Và thế là bọn con nít rơi vào một chiếc
vòng luẩn quẩn giữa đờn ông và đờn bà, giữa
đờn bà và đờn ông. Cuối cùng một đứa xem ra
có vẻ thông thái đã cất tiếng nói :
- Đức Chúa Trời đã dựng nên người đờn
ông thứ nhất, rồi từ đó sinh ra người đờn bà thứ
MỤC LỤC

nhất và cứ thế, cứ thế….liên tục phát triển cho


đến ngày hôm nay.
Thực vậy, theo sách Sáng Thế Ký thì thưở
ban đầu, Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn, rồi
thổi hơi vào lỗ mũi mà làm thành người đàn ông
đầu tiên, mang tên gọi là Adong. Sau đó, Ngài
thấy Adong sống cô độc lẻ loi và cu ky một mình
thì động lòng thương, bèn chờ lúc Adong ngủ
say, lấy một chiếc xương sườn của chàng mà
dựng nên người đờn bà đầu tiên. Ngài dẫn
người đờn bà này tới giới thiệu với Adong. Vừa
nhìn thấy, cặp mắt Adong đã sáng lên long lanh,
còn đôi môi thì hớn hở mừng rỡ mà kêu lên hai
tiếng :
- Mình ơi !
Rồi Adong đã đặt tên cho người đờn bà
này là Eva, bởi lẽ nàng là mẹ của chúng sinh.
Theo quan niệm của sách Sáng Thế Ký, thì đờn
MỤC LỤC

ông và đờn bà đều được Đức Chúa Trời dựng


nên, bình đẳng với nhau về trách nhiệm cũng
như bổn phận, mặc dù mỗi người đều có một
lãnh vực riêng của mình. Vì thế, một vị thánh
nào đó đã diễn tả :
- Đức Chúa Trời đã không lấy xương sọ
mà dựng nên Eva, vì thế bà không được chỉ huy
ông. Ngài cũng không lấy xương gót chân mà
dựng nên Eva, vì thế ông không được đày đọa
bà. Nhưng Ngài đã lấy chiếc xương sườn ở
cạnh lái tim mà dựng nên Eva, vì thế ông phải
yêu thương bà và bà phải yêu thương ông.
Ngoài ra, còn rất nhiều truyền thuyết khác
nữa nói về nguồn gốc của người đờn bà. Gã xin
kể ra đây hai truyền thuyết mà thôi.
Truyền thuyết thứ nhất kể lại rằng :
Thưở ban đầu, người đờn ông sống trơ
trụi một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền.
MỤC LỤC

Thượng đế lấy làm tội nghiệp. Ngài bèn dùng


một chút dịu dàng của hoa lan, một chút xinh
đẹp của hoa hồng và một chút tinh khiết của hoa
huệ. Tất cả được trộn lẫn với nhau, nhưng chưa
đủ. Ngài còn hòa vào đó một chút tinh ranh của
con khỉ già, một chút độc ác của con rắn hổ
mang và một chút hung dữ của con sư tử. Tất
cả được quyện lẫn với nhau mà làm nên người
đờn bà. Thượng đế trao người đờn bà ấy cho
người đờn ông. Kể từ đó, người đờn ông không
còn trơ trụi một mình nữa.
Nhưng rồi vào một buổi sáng u ám, người
đờn ông bỗng cảm thấy không còn chịu đựng
nổi sự tinh ranh, độc ác và hung dữ của người
đờn bà, nên đã trả nàng lại cho Thượng đế. Thế
nhưng, cuộc ly hôn đầu tiên này diễn ra chưa
được một tuần trăng, thì người đờn ông bỗng
cảm thấy nhớ day nhớ dứt vẻ dịu dàng, xinh đẹp
MỤC LỤC

và tinh khiết của người đờn bà, nên đã xin


Thượng đế cho mình được lấy lại. Và từ đó, họ
sống hạnh phúc với nhau.
Truyền thuyết thứ hai kể lại rằng :
Sau khi dựng nên núi đồi và biển cả, cây
cối và muông thú, cuối cùng Thượng đế mới
hoàn tất tác phẩm tuyệt vời của mình, đó là là
người đờn ông với tên gọi là Adong. Bấy giờ,
Adong đi lang thang hết chỗ này đến chỗ kia,
nhưng luôn cảm thấy trống vắng. Một buổi sáng,
Adong dừng chân bên hồ, chàng mừng rỡ khi
nhận ra bóng mình in trên mặt nước. Và thế là
chàng bèn nhảy xuống để ôm lấy chiếc bóng
mình trong vòng tay, nhưng không thể được.
Chàng buồn bã ngồi thinh lặng dưới gốc cây và
than thở cùng Thượng đế về sự trống vắng.
Thượng đế liền trả lời :
- Thôi được, hãy dẫn Ta tới hồ nước.
MỤC LỤC

Thượng đế nắm lấy chiếc bóng của Adong


trong lòng bàn tay, thổi vào đó một luồng sinh
khí. Và thế là một người đàn bà đẹp hết ý mang
tên gọi là Eva bỗng xuất hiện. Nàng chớp chớp
đôi mắt và khẽ nói :
- Tôi hiện hữu hay không hiện hữu ?
Thượng đế mỉm cười và bảo :
- Đây là quy luật của muôn đời : khi con ở
cạnh người đờn ông, thì con hiện hữu. Trái lại,
khi vắng bóng chàng, con sẽ không còn hiện
hữu nữa.
Từ những truyền thuyết trên, gã nhận thấy
bàn dân thiên hạ cũng đã dành cho người đờn
bà một sự trân trọng đáng kính nào đó và nàng
trở thành một con người không thể thiếu vắng
cho phe đờn ông con giai. Thế nhưng, trải qua
dòng thời gian, phe đờn ông con giai đã lờ tít và
cố tình quên đi sự trân trọng đáng kính ấy, để rồi
MỤC LỤC

ỷ vào sức mạnh trời cho, mà đày đọa cánh đờn


bà con gái. Từ đông sang tây, cũng như từ cổ
chí kim, họ đã nhìn cánh đờn bà con gái bằng
nửa con mắt.
Thực vậy, ở phương tây có những kẻ
muốn trút tất cả mọi tội lỗi lên đầu cánh đờn bà
con gái. Theo họ : khi cánh đờn bà con gái chưa
xuất hiện trên mặt đất này, thì phe đờn ông con
trai sống rất ư là thoải mái, vui vẻ và đầm ấm.
Thế nhưng, khi cánh đờn bà con gái vừa xuất
hiện, thì lập tức có ghen ghét và vu cáo, bạo
loạn và chiến tranh. Và cũng theo họ : lòng dạ
đờn bà con gái thì vô cùng hiểm độc và nhan
sắc của họ dễ làm cho phe mày râu chìm đắm.
Các triết gia như Anaxilas thì khẳng định :
hùm beo, rắn độc, quái vật, sư tử…bao nhiêu
thứ ấy là cái quái gì chứ ? Chẳng là cái thá gì cả
trước đờn bà con gái. Phutarque thì nhẹ nhàng
MỤC LỤC

hơn, nhưng cũng đầy khinh bỉ : Khi các ngọn


nến được thổi tắt, thì tất cả đờn bà con gái đều
xinh đẹp cả.
Các nhà văn, chẳng hạn như Somerset
Maugham đã lập luận như sau :
- Vì cớ làm sao những người đờn bà xinh
đẹp đều lấy những người đàn ông tầm thường ?
Xin thưa rằng những người đàn ông thông minh
sẽ chẳng bao giờ chịu lấy những người đờn bà
xinh đẹp cả.
Georges Courteline thì than thở :
- Những gì mình làm cho đờn bà con gái
thì họ quên rất mau, còn những gì mình không
làm cho họ thì họ lại nhớ mãi nhớ hoài. (Kiến
thức ngày nay số 43).
Ý thức được sự bất công và địa vị yếu
kém của mình, cánh đờn bà con gái đã đoàn kết
lại để đấu tranh, thiết lập những phong trào, nào
MỤC LỤC

là phụ nữ đòi bình đẳng, nào là phụ nữ đòi


quyền sống và ngay cả phụ nữ đòi quyền…
sướng nữa. Thế nhưng, xem ra tình trạng mới
chỉ sáng hơn được một chút xíu mà thôi.
Ông Nguyễn Thanh Long, trong một bài
viết trên báo “Công giáo và Dân tộc” đã cho biết
những nét đại cương như sau :
Hiện nay, đờn bà con gái chiếm ít nhất
50% dân số nhân loại. Theo một cuộc điều tra
của Liên Hiệp Quốc được công bố năm 1999, thì
chẳng có quốc gia nào đối xử với nữ giới bình
đẳng với nam giới. Trên trái đất, có 1,3 tỷ người
sống trong tình trạng cực kỳ nghèo đói, thì đờn
bà con gái chiếm tới 70%. Tổng trị giá của
những công việc đờn bà con gái phải làm mà
không có lương được ước tính khoảng 11.000 tỷ
đô la Mỹ mỗi năm. Số lượng đờn bà con gái đi
làm có lương chỉ là 1/3 so với đờn ông con giai.
MỤC LỤC

Số tiền lương họ được lãnh chỉ bằng 10% tổng


quỹ lương. 50% nhân loại ấy chỉ đứng tên sở
hữu 1% tài sản trên thế giời!
Trong lãnh vực chính trị, sự hiện diện của
đờn bà con gái lại còn quá thấp. Tại Pháp, quốc
hội hiện nay chỉ có khoảng 60 nữ trên tổng số
577 đại biểu, tỷ lệ 10,2%. Mỗi khi một nhân vật
nữ được bàu vào một chức vụ cao, thì đó là một
“sự lạ cả thể” và được bàn dân thiên hạ nhìn
bằng một cặp mắt nghi ngờ.
Trong phạm vi tôn giáo, một vị thánh nổi
tiếng là Âu Cơ Tinh cũng đã khẳng định đờn bà
con gái thấp kém hơn đờn ông con trai. Vì thế,
họ không được tham gia vào những hoạt động
về xét xử hay giảng dạy trong Giáo hội. Thậm
chí theo truyền thuyết còn có cả một công đồng,
trong đó các nghị phụ đã tranh cãi về vấn đề
đờn bà con gái có linh hồn hay không ?
MỤC LỤC

Còn tại nước Đức, phe đờn ông con giai


đã gọi cánh đờn bà con gái là người của 3K :
Kinden tức là con nít, Kuchen tức là bếp núc và
Kirch tức là nhà thờ. (Công giáo và Dân tộc số
1447).
Trong kinh Coran, Đức Mahomet đã truyền
dạy các tín đồ đực rựa như sau : Đờn bà con gái
là một mảnh đất đã được cày sẵn, các con cứ
việc đến đấy, tha hồ mà trồng cấy.
Còn ở phương đông như tại Việt Nam, do
ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo, trải qua
nhiều thế kỷ chủ trương trọng nam khinh nữ tha
hồ mà tung hoành trong xã hội. Người ta cho
rằng :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Sinh
được một cậu con giai thì đã kể là có, trong khi
đó sinh được mười cô con gái, thì vẫn kể là
không.
MỤC LỤC

- Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên


chỉ có một chồng.
Chỉ người đờn ông mới là chủ gia đình và
được trọng kính. Thực vậy, trong nhà khi các bà
muốn đưa cho chồng cái gì thì cũng phải để trên
bàn chứ không đưa tận tay. Nam nữ thọ thọ bất
thân. Không thể có chuyện nắm tay hay bá vai
bá cổ. Lại càng không thể có chuyện vuốt ve
hôn hít nhau chùn chụt trước mặt bàn dân thiên
hạ. Đặc biệt trong xã hội ngày xưa, đờn bà con
gái còn phải giữ tam tòng tứ đức. Tam tòng, tức
là ba chữ tòng : tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha, lấy
chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục
tùng con. Còn tứ đức, tức là bốn nhân đức :
công dung ngôn hạnh. Khéo tay làm lụng, nét
mặt đoan trang, ăn nói lịch sự và tính tình nết
na.
MỤC LỤC

Theo linh mục Thiện Cẩm : Ngày nay, thế


gian bỗng tự nhiên ra khác, ngay ở nước ta,
nam nữ cũng trở nên thọ thọ…rất thân, nắm tay,
ôm eo, tựa vai, bá cổ. Có người bảo phụ nữ
ngày nay chỉ nghĩ đến “tam vòng tứ sắc”. Tam
vòng là vòng ngực, vòng eo và vòng mông. Tứ
sắc là nét đẹp của khuôn mặt, của bộ ngực, của
áo quần và của cặp giò. Còn chuyện tam tòng tứ
đức là chuyện đã quá “đát” từ lâu.
Hôm nay, gã xin mượn những gợi ý trên
để bàn rộng và tán dài về chuyện tam tòng cũng
như tam…vòng!
Trước hết là chuyện tam tòng mà ngày
xưa, cánh đờn bà con gái phải tuyệt đối tuân
giữ.
Thứ nhất, tại gia tòng phụ, có nghĩa là khi
còn sống ở nhà thì phải phục tùng và vâng lời
người cha, bởi vì người cha là cột trụ của gia
MỤC LỤC

đình. Đây là điều dễ hiểu và dễ chấp nhận, bởi


vì cha mẹ có bổn phải phải giáo dục con cái và
con cái có bổn phận phải vâng lời cha mẹ :
- Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con
khôn.
- Cá không ăn muối cá ươn,
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư.
Thứ hai, xuất giá tòng phu, đi lấy chồng thì
phải phục tùng và vâng lời chồng. Đây là một
quan niệm cần phải xét lại, bởi vì nó đã làm nảy
sinh ra những lạm dụng khó mà chấp nhận.
Thực vậy, người chồng trong xã hội phong kiến
thường được coi như là một ông chủ. Vì thế, hễ
ông ta mở miệng phán ra điều gì, thì vợ con
trong nhà đều phải cúi đầu răm rắp nghe theo,
chẳng được phép ý kiến ý cò gì sốt.
Phu xướng phụ tùy. Từ đó, ông ta sẽ thừa
thắng xông lên mà đi tới chỗ độc tài, độc đoán
MỤC LỤC

và cả…độc ác nữa. Ông ta sẽ mang lấy đầu óc


“gia trưởng” và đối xử theo kiểu “chồng chúa vợ
tôi”. Lời nói của ông ta cộc lốc như dùi đục chấm
mắm tôm : Tiên sư cái con mẹ mày. Hành động
của ông ta mang nặng tính cách vũ phu và bạo
lực. Ông ta không ngần ngại “thượng cẳng chân
hạ cẳng tay”. Như cầu thủ ghi bàn thắng, ông ta
hăng tiết vịt sút một phát cho bà vợ lọt thỏm vào
tủ áo mỗi khi cần ưu ái dạy bảo điều gì, như trái
banh lọt thỏm vào khung thành, hay cầu môn chi
đó.
Gã đã từng thấy có những ông chồng đòi
hỏi bà vợ phải phục dịch cơm bưng nước rót
cho mình. Thậm chí đến bữa ăn, mình ông ngồi
chễm chệ một mâm. Tội nghiệp cho bà vợ suốt
ngày phải tần tảo buôn thúng bán mẹt, nhặt từng
cọng rau muống đem ra chợ với hy vọng kiếm
được tí tiền còn, mua lấy một xị rượu và một
MỤC LỤC

chút thịt lợn mà cung phụng cho đức ông chồng


của mình được thập phần béo tốt.
Thứ ba, phu tử tòng tử, khi chồng chết thì
theo con. Đây cũng là điều tương đối dễ hiểu và
dễ chấp nhận, bởi vì người đờn bà lúc bấy giờ
nghiễm nhiên đã trở thành một người mẹ, và
không chừng cũng đã mang nặng tí tuổi đời. Một
khi chồng chết thì biết theo ai nếu không phải là
theo những người con mình đã mang nặng đẻ
đau, đã chắt chiu nuôi dưỡng. Hơn thế nữa,
chính những người con này cũng có bổn phận
phải thảo hiếu đối với người mẹ của mình.
Cái sự phu tử tòng tử ở đây xem ra còn có
vẻ nhẹ nhàng và nhân đạo hơn tập tục tại nhiều
nơi trên thế giới. Chẳng hạn, nếu gã nhớ không
lầm, trong cuốn “Vòng quanh thế giới 80 ngày”,
Jules Verne cho hay tại một vài nơi bên Ấn Độ,
khi người chồng qua đời thì các bà vợ sẽ bị
MỤC LỤC

thiêu sống để được theo hầu đức phu quân của


mình nơi chín suối!!!
Tuy nhiên, theo lời của linh mục Thiện
Cẩm thì : Ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra
khác, chuyện tam tòng là chuyện quá “đát” từ
lâu, xưa rồi Diễm ơi!
Thực vậy, trong tương quan với cha mẹ :
con cái bây giờ thuộc vào thế hệ vi tính, nên cha
mẹ khó mà dạy bảo. Nếu có răn đe điều gì, thì
liền bị chúng kê tủ đứng :
- Mấy ông mấy bà…già rồi, rõ thật lẩm
cẩm, thời bây giờ mà còn như vậy ư ?
Và cha mẹ cũng đành phải bó tay. Chẳng
hạn như việc hôn nhân : Ngày xưa thì cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy, còn bây giờ thì con cái đặt
đâu thì cha mẹ xin vui lòng…ngồi đấy. Chẳng
hạn việc giao tiếp : Ngày xưa thì nam nữ thọ thọ
bất thân, còn bây giờ thì nam nữ thọ thọ…rất
MỤC LỤC

thân, để rồi đi tới chỗ nam nữ cọ cọ rất ư


là….giật gân.
Trong tương quan vợ chồng : đờn bà con
gái bây giờ đang lăm le nhảy vào lãnh vực xã
hội, thành thử gã phải đổi lại câu thơ của Tú
Xương. Thay vì :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó.
Thì bây giờ sẽ phải là :
- Việc nhà phó mặc cho bố nó.
Và theo định luật về thị trường, anh nào có
tiền, thì anh ấy sẽ nắm quyền. Chữ tiền liền với
chữ quyền một vần. Khi chị vợ đã làm ra tiền,
nắm hào bao và quyết định ngân sách, thì sẽ chi
phối mọi sinh hoạt trong gia đình. Lúc bấy giờ,
sẽ có một cuộc thay ngôi đổi chủ. Anh chồng chỉ
còn nước âm thầm vào bếp, như chó cụp đưôi,
làm bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế
rách mà thôi.
MỤC LỤC

Một khi tam tòng của Nho giáo đã bị xếp


vào ngăn kéo dĩ vãng vì quá “đát’ và xưa rồi
Diễm ơi, thì cũng theo như lời diễn tả trên, đờn
bà con gái bây giờ lại chăm chăm chú chú mà lo
cho cái khoản “tam vòng”, tức là ba cái vòng trên
cơ thể mình.
Viết đến đây, gã bỗng nảy ra một “théc
méc”, đó là không biết từ bao giờ cái ông khỉ gió
nào đó đã có sáng kiến công bố cho bàn dân
thiên hạ được biết số đo ba vòng của những thí
sinh trong các cuộc thi hoa hậu. Coi đó như một
trong những chuẩn mực để phán xét về sắc đẹp,
khiến cho cánh đờn bà con gái phải lao đao vất
vả, xấc bấc xang bang, tốn phí không biết biết
bao nhiêu tiền bạc và công sức, để cái thì được
phình ra, còn cái thì được tóp lại, theo đúng tiêu
chuẩn quốc tế ISO, cũng chỉ vì muốn làm người
đẹp mà thôi.
MỤC LỤC

Vòng số một, tức là vòng ngực. Thực vậy,


Thượng đế trao ban cho cánh đờn bà con gái bộ
ngực là để cung cấp sữa mà nuôi con, như các
cụ ngày xưa đã bảo :
- Đờn ông không râu bất nghì,
Đờn bà không vú, lấy gì nuôi con.
Bộ râu làm nên nét oai phong của người
đờn ông thế nào, thì bộ ngực cũng làm nên vẻ
quyến rủ của người đờn bà như vậy. Vì thế,
ngày nay nhiều bà nhiều cô đã phe lờ cái nhiệm
vụ cung cấp sữa để nuôi con, mà chỉ chuyên trị
làm đẹp cho bộ ngực của mình.
Thực vậy, mặc dù các bác sĩ và các nhà
chuyên môn luôn quảng bá sữa mẹ là một thức
ăn không thể thiếu cho con trẻ, nào là đề kháng
được nhiều chứng bệnh, nào là có đủ chất dinh
dưỡng…Thế nhưng, chỉ vì không muốn cho bộ
ngực của mình bị xệ xuống, nên không thiếu
MỤC LỤC

những bà mẹ chả chịu cho con bú, cứ việc ra


ngoài chợ, lôi về đủ mọi thứ sữa, từ sữa tươi
cho đến sữa đặc có đường, từ sữa bột cho đến
sữa hộp, từ sữa cô gái Hà Lan đến sữa ông già,
từ sữa có nhãn hiệu trình tòa đến những loại
sữa chui và trôi nổi…thôi thì thiên hình vạn
trạng, đến quỷ thần cũng chẳng đếm nổi trên thị
trường hiện nay có bao nhiêu thứ sữa. Có
những người đã bị đi tàu suốt về chầu Diêm
Vương, chỉ vì ham rẻ mà dùng những loại sữa
chui và trôi nổi ấy.
Vì vòng số một là nơi cần phải làm phình
ra, nên khoa giải phẫu thẩm mỹ đã nhảy vào
vòng chiến, cứu một bàn thua trông thấy cho
những bà những cô chẳng may có bộ ngực lép
xẹp. Người ta mổ ngang, xẻ dọc rồi đặt vào
trong đó chất “silicone”, làm cho bộ ngực phình
to ra bao nhiêu cũng được. Miễn là đạt mục
MỤC LỤC

đích, sau này lỡ có bị ung thư, thì cũng…hạ hồi


phân giải.
Nếu ngại giải phẫu, người ta có thể nhờ
trang phục trợ giúp, nào là những chiếc yếm
hững hờ, nào là những chiếc nịt ngực, những
chiếc “cọc xê” được độn được lót cách này hay
cách khác để che lấp cái kích thước bé tẻo bé
teo của bộ ngực mình.
Tiếp đến, vòng số ba tức là vòng mông.
Đây cũng là nơi cần phải làm cho phình ra như
vòng số một, nên gã xin miễn bàn tới để được
tiếp nối ngay bằng vòng số hai tức là vòng eo.
Với cơn bệnh béo phì ngày càng liên tục
phát triển, thì vòng eo đã trở nên một nỗi ám
ảnh cho nhiều người. Báo Le Monde số 2884
cho hay : Trung tâm dự phòng bệnh tật Mỹ cảnh
báo bệnh béo phí sắp dành ngôi vị giết người
hàng đầu, vượt qua thuốc lá. Mỹ ước tính có
MỤC LỤC

130 triệu có thể trọng vượt mức, trong đó có 59


triệu béo phì. Trung Quốc hiện có 300 triệu
người quá mập, trong đó có 30 triệu bép phì. Khi
vòng eo tăng trưởng vượt vòng ngực và vòng
mông, thì nguy cơ bị tiểu đường và tim mạch
cũng gia tăng. Vòng eo nam giới vượt quá
1,00m và nữ giới vượt quá 0,80m là dấu hiệu
béo phì, cũng như là dấu chỉ phát tướng vòng
eo. (CGVDT số 1449).
Trái với vòng số một và vòng số ba là
những nơi cần phải làm cho phình ra, thì vòng
số hai lại là địa điểm cần phải làm cho tóp lại. Lý
tưởng của vòng số hai chính là cái eo của con
ong. Thế nhưng, đối với nhiều bà nhiều cô, nó
lại cứ phình ra mới chết không cơ chứ. Lý do
phình ra như thế, có thể do chứng béo phì và
cũng có thể do…trục trặc kỹ thuật ngoài ý muốn.
MỤC LỤC

Trước hết, để thực hiện cái lý tưởng “eo


con ong”, cũng như để chống lại tình trạng phát
tướng do sự béo phì gây nên, người ta đã phải
dùng tới nhiều biện pháp. Nào là tập thể dục
như đi bộ, đi xe đạp, hay bơi lội mỗi ngày, nghĩa
là thân thể phải vận động. Nào là kiêng ăn kiêng
uống, áp dụng một chế độ ẩm thực vô cùng
nghiêm khắc. Những biện pháp này đòi hỏi phải
kiên nhẫn nhiều lắm, bằng không thì chỗ cần
phình thì lại tóp, còn chỗ cần tóp thì lại phình.
Thật là tréo cẳng ngỗng.
Ngoài ra, người ta cũng có thể nhờ trang
phục trợ giúp phần nào. Nếu gã không lầm thì
“mô đen” áo dài Việt Nam vào thập niên sáu
mươi : cổ phải cao có khi hơn một tấc, eo phải
thắt ngẫng như eo con ong. Vì thế, người ta đã
khéo léo luồn vào phía trong áo một sợi dây nhỏ
cùng màu và sau khi mặc, người ta sẽ thắt chặt
MỤC LỤC

sợi dây ấy để tạo nên một cái eo rất là….ấn


tượng, trên cả tuyệt vời.
Tiếp đến, có những trường hợp vòng số
hai bỗng dưng phình ra, một cách bất đắc dĩ và
ngoài ý muốn, hoàn toàn không phải do chứng
béo phì, nhưng do một trục trặc kỹ thuật nào đó.
Chẳng hạn như cái tật ăn cơm trước kẻng, anh
chị vụng trộm với nhau hay thử cho biết vị ngọt
đắng của tình yêu, để rồi một buổi sáng bỗng
thấy vòng eo phình ra và những ngày sau đó lại
liên tục phình ra một cách vô tổ chức, vượt
ngoài chỉ tiêu. Lúc ấy chỉ còn biết mếu máo và
khóc lên, như người ta hay phịa ra mà hát :
- Anh ơi, nếu bụng em…phình thì sao ?
Nhưng đừng dại đột :
- Đi mua thuốc chuột uống cho rồi đời!!!
Bởi đó, đừng “khôn ba năm dại một giờ”,
vì vui sướng của tình yêu có thể chỉ kéo dài
MỤC LỤC

trong thoáng chốc, nhưng khổ đau của nó sẽ


kéo dài bằng cả cuộc đời :
- Đờn ông bụng…bự thì sang,
Đờn bà bụng…bự tan hoang cuộc đời.
Chỉ có ba cái vòng, mà sao lại nhiêu khê
rắc rối quá vậy. Gã cũng đành bó tay chào thua.
MỤC LỤC

TỨ…SẮC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Trong số trước, gã đã trình bày hình ảnh về


đờn bà con gái xưa và nay, bằng cách mượn
kiểu diễn tả của Linh mục Thiện Cẩm, đó là sự
tiến hóa từ tam tòng nhảy vọt sang tam…vòng.
Cùng một thể thức ấy, hôm nay gã xin đề cập
đến sự chuyển biến từ tứ đức bỗng chốc trở
thành tứ…sắc nơi đờn bà con gái thời xưa và
thời nay.
Khi được hỏi thế nào là cái đẹp, có người
đã đưa ra một câu định nghĩa xanh dờn như thế
này :
- Đẹp, đó chính là con cóc cái dưới mắt con
cóc đực.
Câu định nghĩa méo mó này muốn nói lên
rằng : ở thế gian, chẳng bao giờ có được một
MỤC LỤC

cái đẹp khách quan, mà chỉ toàn là những cái


đẹp chủ quan mà thôi. Chủ quan của từng
người, cũng như chủ quan của từng thời.
Tại sao anh chàng “bô…giai” nọ lại vớ ngay
phải cô vợ xấu ơi là xấu ? Thế nhưng, xấu là
xấu dưới mắt bàn dân thiên hạ, chứ còn dưới
mắt anh chàng “bô giai” nọ, nhất là khi đã chịu
đèn và say tình, thì cô nàng vẫn là người đẹp
nhất trên đời :
- Mũi em mười tám gánh lông,
Chồng yêu, chồng bảo : râu rồng trời cho.
Đêm nằm thì ngáy o o,
Chồng yêu, chồng bảo : ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thì hay ăn quà,
Chồng yêu, chồng bảo : về nhà đỡ cơm.
Trên đầu những rác cùng rơm,
Chồng yêu, chồng bảo : hoa thơm rắc đầu.
MỤC LỤC

Cũng thế, tại sao cô nàng thuộc vào hàng


“lá ngọc cành vàng” lại quơ ngay phải một anh
chàng thuộc hàng “nông nãi, vũ phi chi cục
mịch” ? Thế nhưng, nông nãi và vũ phu chi cục
mịch là đối với người ngoài, chứ còn đối với cô
nàng, thì anh chàng vẫn mãi mãi là…hoàng tử
của lòng em :
- Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm, xông hương mặc
người.
Không phải chỉ mỗi người, mà hơn thế nữa,
mỗi thời cũng đều có những tiêu chuẩn riêng để
xác định cái đẹp. Ca dao đã diễn tả về người
con gái đẹp ngày xưa như sau :
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
MỤC LỤC

Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém


thua.
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan.
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh.
Chín thương cô ở một mình,
Mười thương con mắt có tình với ai.
Từ bài ca dao trên, gã thấy phảng phất và
bàng bạc tinh thần của Nho giáo. Thực vậy, xã
hội Việt Nam thời xưa đã mang nặng dấu ấn của
Nho giáo. Người ta lấy những lời giảng dạy của
Khổng Tử làm khuôn vàng thước ngọc cho cách
cư xử, cũng như làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho
cuộc sống của mình.
Đối với cánh đờn ông con giai, ngoài
việc tuân giữ “tam cương”, ba rường cột quan
trọng trong đạo làm người, ba mối dây liên hệ
MỤC LỤC

chính yếu trong xã hội, đó là quân thần, phụ tử


và phu phụ, đạo vua tôi, đạo cha con và đạo vợ
chồng, lại còn phải thực thi “ngũ thường”, năm
nhân đức quen thuộc của con người, đó là nhân
nghĩa lễ trí tín.
Riêng đối với phe đờn bà con gái, ngoài
việc tuân giữ “tam tòng”, ba sự tùng phục chính
yếu, đó là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử, khi còn ở nhà thì theo cha, khi đi
lấy chồng thì theo chồng và khi chồng chết thì
theo con, lại còn phải thực thi tứ đức, bốn nhân
đức đặc thù của người phụ nữ, đó là công,
dung, ngôn, hạnh.
- Phận gái tứ đức vẹn tuyền,
Công dung ngôn hạnh giữ gìn chớ sai.
Đức thứ nhất là công. Vậy công là gì ?
Xin thưa rằng :
MỤC LỤC

- Công là đủ mùi xôi thức bánh, giỏi giang


từ đường chỉ mũi kim, nói chung việc nhà phải
khéo léo.
Dường như Thượng đế đã ngấm ngầm
thỏa thuận và phân chia : đờn bà thì quán xuyến
việc nhà, còn đờn ông thì lo toan việc làng việc
nước. Hai chữ “việc nhà”, mới nghe qua, thấy nó
thật nhẹ nhõm và đơn giản, nhưng bước vào rồi,
mới thấy nó thật nhiêu khê và rắc rối, cũng vất
vả toát cả mồ hôi hột, chứ chẳng nhẹ nhõm và
đơn giản tí nào.
Trước hết, việc nhà chính là việc sắp đặt và
tổ chức trong gia đình.
Đúng thế, phải làm sao cho căn nhà được
sạch sẽ và đẹp đẽ, được thứ tự và ngăn nắp,
biến nó trở thành một tổ ấm dễ thương và dễ
mến, để rồi sau những giờ phút lao động mệt
mỏi, sau những bươn chải kiếm tìm chén cơm
MỤC LỤC

manh áo, thì ai cũng thầm mong sớm trở về, hầu
được nghỉ ngơi và thư giãn.
Thử tưởng tượng xem một anh chồng suốt
ngày quần quật trên ruộng đồng, đổ mồi hôi xôi
nước mắt, hay một ông xã ngồi nơi công sở, bị
cấp trên chèn ép, bị cấp ngang cạnh tranh và bị
cấp dưới chống đối…mang cái đầu óc căng
thẳng về nhà, chỉ mong sao được khuây khỏa.
Thế mà khi bước chân vào nhà, thì ôi thôi, cả
một bãi chiến trường ngổn ngang và bầy hầy
trước mặt. Áo quần vứt bừa vứt bãi, hay giăng
mắc lung tung. Thậm chí, có những thứ “nội y”
cần cất dấu, mà vẫn cứ được vô tư phơi bày ra
trước mắt bàn dân thiên hạ. Ly tách bẩn thỉu,
bàn ghế mỗi cái một nơi. Thẹn đỏ cả mặt, mỗi
khi có bè bạn hay khách khứa ghé thăm.
MỤC LỤC

Chính vì thế, thiên hạ thường gọi người vợ


là người nội trợ, tức là người trợ giúp những
việc trong nhà :
- Bề nội trợ việc trong xem xét,
Siêng năng thì trăm việc đều nên.
Nói là trợ giúp, chứ thực chất là quản lý và
điều hành tấr ráo cả mọi sự, như Tú Xương đã
từng xác quyết :
- Việc nhà phó mặc cho bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.
Cái uy quyền “nội thất” này, không oai
phong lẫm liệt, không hét ra lửa khiến cho nhiều
đầu gối phải run lập cập, để rồi chỉ còn nước cúi
gập mình xuống, hay uốn cong người lên mà
luồn lách lươn lẹo…nhưng âm thầm và kín đáo,
dầu vậy cũng vẫn có được một tác dụng ghê
gớm.
MỤC LỤC

Chính vì tác dụng ghê gớm này, mà thiên


hạ đã không ngần ngại phong cho các bà xã cái
hàm…nội tướng. Và khi vị nội tướng đã phán,
thì tất cả đều phải thi hành, hay khi vị nội tướng
đã ra tay, thì mọi người đều phải răm rắp vâng
theo, từ ông bố cho chí đến đứa con. Chả thế
mà người xưa đã bảo :
- Lệnh ông không bằng cồng bà.
Phân tích câu tục ngữ này, gã nhận thấy :
lệnh là thứ chiêng đồng loại nhỏ dùng để đánh
làm hiệu mà xuất quân, đồng thời cũng có nghĩa
là lời sai khiến. Còn cồng là thứ chiêng đồng loại
lớn dùng để đánh làm hiệu mà lui quân. Như vậy
khi cái lệnh của ông được đánh thì mọi người sẽ
vâng nghe mà ra đi. Nhưng nếu cái cồng của bà
cũng vang lên, hẳn sẽ át được tiếng lệnh của
ông, khiến mọi người phải nghe theo mà rút về.
Thậm chí nhiều lúc còn :
MỤC LỤC

- Lệnh vua thua lệnh bà.


Và như thế, trong phạm vi gia đình, quyền
bà thường lớn hơn quyền ông. Chả thế mà dân
mánh mung, cũng như dân áp phe áp chảo đã
triệt để khai thác đặc điểm trên.
Thực vậy, muốn cho công việc được thuận
buồm xuôi gió, nói với “tướng ông” xem ra có vẻ
bị khó, thế là họ bèn đi cửa sau, giãi bày tâm sự
với “tướng bà”. Một khi tướng bà đã gật đầu ô
kê, thì mọi việc đều xong tuốt luốt. Bởi vì, tướng
ông nỡ lòng nào mà từ chối những lời thỏ thẻ
ngọt như đường cát, mát như đường phèn của
tướng bà, dù có phải tra chân vào cùm và bị
thân bại danh liệt… cũng vẫn một lòng chịu
vậy !!!
Tiếp đến, việc nhà là việc bếp núc và nấu
nướng.
MỤC LỤC

Cánh đàn ông con giai, xem ra anh nào


cũng thích ăn ngon. Đối với họ, bao tử đi trước,
rồi việc làng việc nước mới theo sau. Thậm chí
những kẻ phàm ăn tục uống còn phát biểu :
- Tình yêu đến qua ngả đường của bao tử.
Ngay cả trong phạm vi tôn giáo, đằng sau
những việc đạo đức thiêng liêng cao cả, thì
dường như người ta đều thấy bóng dáng của
mâm cỗ, của dạ dày phảng phất :
- Trước là kính thánh, sau là…đánh chén.
- Có thực mới vực được đạo.
Chẳng thế mà họ đã từng giải quyết chuyện
quốc gia đại sự, hay những phi vụ làm ăn trị giá
bạc tỷ bên bàn tiệc đó sao. Còn nói theo kiểu
thánh Phaolô, thì đôi lúc họ đã trót lấy …cái
bụng của mình làm chúa.
MỤC LỤC

Vì thế, người vợ “ngon lành” cũng phải là


người vợ thành thạo việc bếp núc và nấu nướng
:
- Vắng đờn ông quạnh nhà,
Vắng đờn bà quạnh bếp.
- Xem trong bếp, biết nết đờn bà.
Nhiều bà mẹ đã khéo lo cho con gái, bằng
cách gửi con gái theo học một lớp cắt may và
một khóa nữ công gia chánh, là như một mớ
hành trang cần thiết cho chuyến đi về nhà…
chồng.
Sau cùng, việc nhà còn là việc giáo dục con
cái.
Thực vậy, ông bố thường bận bịu với
chuyện cơm áo gạo tiền, lắm lúc bất đắc dĩ phải
lấy “ngoài đường” làm nơi thường trú, còn “trong
nhà” chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Vì thế, người mẹ
là người sống gần gũi con cái hơn, hiểu biết con
MỤC LỤC

cái hơn và cũng được con cái yêu thương hơn,


nên cũng thường để lại nhiều dấu ấn sâu đậm
trên con cái. Chẳng vậy mà người xưa đã bảo :
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Việc giáo dục này cần phải được bắt đầu
ngay khi con cái còn là một bào thai và nhất là
khi chúng bắt đầu hiểu biết , bởi vì :
- Bé không vin, cả gẫy cành.
- Uốn cây thừ thưở còn non,
Dạy con từ thưở con còn đương thơ.
Một tên tướng cướp ngày kia trở về nhà
thăm mẹ già. Bà mẹ dẫn con ra một góc vườn,
rồi hai mẹ con cùng ngồi thủ thỉ và tâm sự với
nhau. Bà mẹ ra sức khuyên nhủ người con từ bỏ
con đường lầm lạc và làm lại đời mình. Nghe nói
thế, người con bèn chỉ vào một cây to và nói :
- Liệu mẹ có còn uốn được cây này nữa
không ? Chắc chắn là không. Vậy tại sao mẹ
MỤC LỤC

không dạy con từ lúc con còn nhỏ, bây giờ con
đã là một cây to, thì không thể uốn được nữa.
Nói xong, tên tướng cướp lặng lẽ bỏ đi.
Đức thứ hai là dung. Vậy dung là gì ?
Xin thưa rằng :
- Dung hay dong là hình dáng, tướng mạo
bên ngoài, như người đời thường bảo :
- Xem mặt mà bắt hình dong,
Con lợn có béo thì lòng mới ngon.
Dung ám chỉ sắc đẹp của người phụ nữ.
Sắc đẹp này, trước hết được chú trọng vào
khuôn mặt, vì thế người ta mới gọi nhan sắc là
vẻ đẹp của khuôn mặt nói riêng và vẻ đẹp của
toàn thân nói chung :
- Chồng em vừa xấu vừa đen,
Đã kém nhan sắc, lại hèn chân đi.
Người con gái đẹp là người con gái có nét
mặt tự nhiên, không tha thướt lả lơi. :
MỤC LỤC

- Cổ tay em trắng như ngà,


Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Sắc đẹp ấy không phải chỉ được thể hiện
trên khuôn mặt, mà còn được thể hiện nơi thân
hình :
- Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.
Thế nhưng, ngoài sắc đẹp trời ban cho,
người con gái còn phải biết kết hợp với việc ăn
mặc, sử dụng trang phục sao cho hài hòa, thích
hợp với từng người, theo từng tuổi, ở từng nơi
và trong từng lúc :
- Áo đen ai nhuộm cho mình,
Cho duyên mình đậm, cho tình anh
thương.
Đức thứ ba là ngôn. Vậy ngôn là gì ?
MỤC LỤC

Xin thưa rằng :


- Ngôn là biết trình thưa vâng dạ.
Lời nói vừa tế nhị lại vừa ôn tồn, vừa lễ độ
lại vừa khôn ngoan, biểu hiện được nhân cách
của người phụ nữ, đồng thời còn chứng tỏ mình
là một con người có giáo dục, có văn hóa :
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
Sau cùng, đức thứ tư là hạnh. Vậy hạnh là
gì ?
Xin thưa rằng :
- Hạnh là đường ngay thảo kính, nết na
đằm thắm.
Nói cách khác, hạnh chính là sự đạo đức,
nết na của người phụ nữ. Muốn được bàn dân
thiên hạ coi là đẹp, thì bản thân họ phải là con
ngoan, vợ hiền và dâu hiền, phải biết trung thực
và nhân hậu, kính trên và nhường dưới. Đây
MỤC LỤC

chính là yếu tố căn bản nhất tạo thành nét duyên


ngầm của người phụ nữ. Nét duyên ngầm này
sẽ không bị tàn phai với thời gian, trái lại ngày
càng thêm đậm đà, khiến cho mọi người phải cúi
đầu tâm phục khẩu phục :
- Cái nết đánh chết cái đẹp.
Nếu phải chọn lựa giữa nhan sắc và đức
hạnh, người xưa không ngần ngại chọn ngay
đức hạnh, bởi vì như vừa trình bày, đức hạnh
chính là nét duyên ngầm của đờn bà con gái,
không bị thời gian là cho nhạt nhòe :
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn,
Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người.
Sách “Cổ học tinh hoa” có kể lại một mẩu
chuyện như sau :
Dương Chu sang nước Tống, đến ở trọ một
nhà kia. Chủ nhà trọ có hai người thiếp : một
người đẹp, còn một người xấu. Dương Chu thấy
MỤC LỤC

trong nhà ai cũng quí mến người thiếp xấu mà


khinh chê người thiếp đẹp, lấy làm lạ bèn dò hỏi
một thằng nhỏ giúp việc, thì nó trả lời rằng :
- Người thiếp đẹp tự coi là đẹp, nên mất
đẹp. Còn người thiếp xấu, tự biết là xấu, nên
không còn xấu nữa.
Nghe vậy, Dương Chu bèn gọi học trò lại và
bảo :
- Các con hãy nhớ lấy câu này : người giỏi
mà bỏ được cái thói ”tự cho mình là giỏi”, thì đi
đến đâu ai mà chẳng trọng kính, ai mà chẳng
yêu mến.
Sau khi đã tìm hiểu về tứ đức của đờn bà
con gái thời xưa, bây giờ chúng ta hãy nhìn vào
xã hội hôm nay, để xem tứ đức ấy còn tồn tại,
hay chỉ là một kỷ niệm buồn của dĩ vãng, một
chuyện đã xưa rồi Diễm ơi mà thôi.
MỤC LỤC

Theo sự diễn tả của linh mục Thiện Cẩm,


thì ngày nay thế gian bỗng tự nhiên ra khác. Vậy
thế gian ra khác như thế nào, nhất là trong lãnh
vực đờn bà con gái ?
Theo các nhà tâm lý, hoàn cảnh bên ngoài
nhiều lúc đã ảnh hưởng sâu xa đến tâm tính bên
trong. Đờn bà con gái ngày nay, không còn bị
nhốt trong căn nhà bếp, suốt ngày bầu bạn với
nồi niêu xoong chảo, mà đã nhảy phóc ra ngoài
xã hội. Cũng lao động và sản xuất, cũng quản lý
và điều hành, cũng bươn chải và đôn đáo chạy
ngược chạy xuôi chẳng kém gì đờn ông con trai.
Nhiều bà nhiều cô đã gặt hái được những thành
quả sáng chói, làm tới giám đốc, bộ trưởng, thủ
tướng…chẳng kém gì, mà có khi còn vượt trội
hơn cả cánh đờn ông con giai với mức lương
thu nhập khá cao.
MỤC LỤC

Gã không phải là chuyên viên kinh tế,


nhưng kinh nghiệm đời thường cho gã thấy :
trong bất cứ tổ chức nào, từ gia đình cho đến xã
hội, ai nắm được tài chánh, thì người ấy cũng
nắm quyền chỉ huy, nghĩa là được quyền ra
lệnh, đồng thời chi phối mọi hoạt động của
người khác.
Vì cũng phải góp mặt với đời và hơn thế
nữa, không còn bị lệ thuộc vào đờn ông con giai
trong lãnh vực tiền bạc, nên đờn bà con gái
ngày nay bỗng trở thành một thứ bề trên, nên
đâu còn thời giờ lo toan chuyện tẹp nhẹp bếp
núc, thành thử lắm khi “việc nhà phó mặc cho bố
nó”. Như vậy, chữ “công” được tạm cất vào
ngăn kéo của dĩ vãng.
Thật tội nghiệp cho những đức ông chồng,
mặc dù đang sống phây phây giữa đời, thế mà
cứ như ông thầy dòng sống trong tu viện. Mặc
MỤC LỤC

dù chẳng khấn chẳng hứa, thế mà vẫn cứ phải


tuân giữ ba nhân đức khó nghèo, khiết tịnh và
vâng phục. Thứ nhất không được giữ tiền riêng,
vì đồng lương phải nộp cả cho vợ Thứ hai đừng
có dại mà tơ tưởng lung tung, hay mèo chuột
linh tinh vì phải tuyệt đối trung thành với vợ. Bà
mà biết được thì chết với bà. Thứ ba phải luôn
chiều ý vợ, thậm chí nếu phải tham nhũng hối lộ
vì vợ thì cũng hồ hởi thưa lên hai tiếng “xin
vâng”.
Ai nắm tiền bạc trong gia đình, thì người ấy
có quyền phán bảo. Và một khi đã quen với
cung cách phán bảo, thì cứ việc ăn to nói lớn,
chả cần phải để ý tới ai, vì lẽ phải và công lý
luôn nằm trong lòng bàn tay của mình. Nương
theo cái đà ấy, mấy cô em gái nho nhỏ dễ
thương mà tụ lại với nhau, thì cũng phát ngôn
theo kiểu đao to búa lớn, đủ mùi chanh chua. Họ
MỤC LỤC

sẵn sàng gọi người yêu của mình là cái lão ấy,
cũng như gọi cha mẹ của mình là cái ông ấy, cái
bà ấy. Hơn nữa, những đề tài được trao đổi,
người ngoài mà nghe thấy cũng phải toát cả mồ
hôi lạnh và quỉ thần cũng phải phát kinh, phát
khiếp lên ấy chứ. Như vậy, chữ “ngôn” cũng
được mời đi chỗ khác chơi.
Nếu ngày xưa người ta chủ trương : Cái nết
đánh chết cái đẹp, thì đờn bà con gái thời nay
nhiều người lại cho rằng :
- Cái đẹp đè bẹp cái nết.
Rất nhiều cô đã biết tận dụng cái vốn trời
cho này mà hốt bạc tỉ, hay leo lên đài danh
vọng, mà chẳng phải tốn đồng xu cắc bạc nào
cả, khiến cho phe đờn ông con giai phát thèm,
phát khát, có nằm mơ cũng chẳng thấy. Thành
thử chữ “hạnh” bị xếp vào hàng thứ yếu. Thậm
chí, người đạo đức nết na lắm khi còn bị liệt vào
MỤC LỤC

hàng “ngớ ngẩn ngây ngô khù khờ ngu ngơ”


nữa là khác.
Điều mà đờn bà con gái thời nay chú trọng
hơn hết, có lẽ là chữ “dung”, tức là nhan sắc,
tức là vẻ đẹp. Và thế là tứ đức của Nho giáo
nghiễm nhiên trở thành tứ…sắc. Sắc đẹp của
khuôn mặt, sắc đẹp của bộ ngực, sắc đẹp của
cặp giò và sắc đẹp của áo quần.
Để phục vụ cho nhu cầu làm đẹp này, các
thẩm mỹ viện mọc lên như nấm, ăn nên làm ra,
phất lên như diều gặp gió. Mấy ông bác sĩ giải
phẫu, cắt chỗ nọ vá chỗ kia, hút chỗ này bơm
chỗ khác, cứ ung dung ngồi hốt bạc vì phen này
ắt hẳn trúng mánh lớn. Thậm chí nhiều bà nhiều
cô lặn lội từ bên Mỹ về Việt Nam cốt chỉ để xẻ
cái cằm, xâm bờ môi hay cấy hàng lông mi…vì
tiền công ở Việt Nam rất rẻ.
MỤC LỤC

Rồi trên thị trường, từ các siêu thị hiện đại


cho đến các tiệm tạp hóa nơi hang cùng ngõ
hẻm, cũng đã bày bán biết bao nhiêu thứ mỹ
phẩm. Nguyên dầu gội đầu, phục vụ cho mái tóc
thì cũng đã có biết bao nhiêu loại, đến quỉ thần
cũng không thể nào nhớ cho hết. Nguyên kem
phục vụ cho làn da, thì cũng đã có biết bao
nhiêu thứ : kem dưỡng da, kem tẩy da, kem
trắng da, kem chống nắng, kem chống nhờn,
kem chống khô…vì nhất dáng nhì da cơ mà. Và
rồi còn biết bao nhiêu mặt hàng, biết bao nhiêu
đồ phụ tùng lỉnh kỉnh khác nữa, từ bên ngoài
cho đến bên trong, nhằm tăng thêm vẻ đẹp cho
quí bà quí cô. Gã đành phải bó tay, xin chào
thua.
Thế nhưng, qui luật của muôn đời cho
thấy :
MỤC LỤC

- Có tuổi trẻ nào mà không già, có nhan sắc


nào mà không bị tàn phai với thời gian.
Và khi nhan sắc đã tàn phai, thì hỡi ôi :
- Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
- Còn duyên kén những giai tơ,
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng.
Vì thế, trong khi điểm tô và làm đẹp cho cái
nhan sắc bên ngoài, cũng đừng quên điểm tô và
làm đẹp cho cái nhan sắc bên trong :
- Người xấu, duyên lặn vào trong.
Bao nhiêu người đẹp, duyên bong ra ngoài.
Để tạo được vẻ đẹp hài hòa như thế, không
bì bằng trở về với truyền thống dân tộc, bởi vì
bốn chữ “công dung ngôn hạnh” vừa tạo được
cái đẹp bên ngoài, mà cũng không sao lãng cái
đẹp của phẩm chất bên trong.
MỤC LỤC

Với chủ trương như vậy, chắc chắn gã sẽ bị


mấy cô gái choai choai bây giờ bĩu môi, trề
miệng ra mà phán :
– Rõ thật đồ cù lần cù lèo!!!
MỤC LỤC

THẬP GIÁ CỦA NHỮNG ÔNG CHỒNG

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Hình như trong cuốn “Tâm Hồn Cao


Thượng”, có một bài viết được bắt đầu bằng câu
:
- Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu.
Càng suy nghĩ về đờn ông con giai, gã
càng nghiệm thấy thân phận phe ta thật là hẩm
hiu, bẽ bàng và cay đắng. Chỉ nguyên những lễ
hội trong năm mà thôi, cũng đã đủ cho phe ta
tức hộc máu. Nào là ngày lễ tình nhân dành cho
những người đang yêu, nào là ngày quốc tế phụ
nữ vùng lên đòi quyền sống, nào là ngày tưởng
nhớ công ơn mẹ hiền. Ấy là chưa kể tới ở Việt
Nam còn có những ngày mừng kính những vị
anh hùng…liệt nữ, như ngày Hai Bà Trưng. Tất
cả những ngày này đều được tổ chức một cách
MỤC LỤC

long trọng và phe ta cứ việc móc hào bao, vui vẻ


mua quà tặng cho cánh đờn bà con gái.
Rất nhiều cố gắng đã được thực hiện để
bàn dân thiên hạ vực ngày tưởng nhớ công ơn
người cha lên để mừng vào trung tuần tháng
sáu, nhưng xem ra chẳng có ma nào hưởng
ứng, thành thử những cố gắng ấy chỉ là như một
tiếng kêu trong sa mạc mà thôi :
- Dạ tràng xe cát biển Đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Đã tới lúc phe ta phải gào lên :
- Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu.
Hay hợp lời với nhà thơ Thế Lữ mà hét
toáng :
- Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ!
Cám cảnh trước số mạng đen thủi đen thui
ấy, một tác giả nào đó trong ngày tưởng nhớ
công ơn người cha, tiếng Ăng Lê gọi là
MỤC LỤC

“Fathers’day”, đã viết một bài với tựa đề “Đền


tội”, như để góp thêm một tiếng lẻ loi và cô đơn.
Thế nhưng, khi đọc xong bài này, gã đã
phải vỗ đùi đánh đét một cái và rất lấy làm tâm
đồng ý hợp. Vì thế, gã xin mượn tạm một vài
hình ảnh của tác giả, làm chất liệu để suy gẫm
thêm về thập giá, về nỗi khổ đau của những ông
chồng trong hoàn cảnh hiện nay.
Có một câu chuyện vui kể lại rằng : Hôm đó
vào lúc năm giờ chiều, thánh Phêrô đang chuẩn
bị đóng cửa thiên đàng, thì bỗng từ xa nghe
văng vẳng những tiếng kêu la thất thanh :
- Lạy thánh cả, chờ con với, chờ con với.
Thánh Phêrô giật mình quay lại. Không phải
một người réo gọi, mà những hai người đang vội
vã chạy tới, mồ hôi mồ kê toát ra nhễ nhại. Thấy
vậy, thánh Phêrô bèn hỏi :
MỤC LỤC

- Hai anh đi đâu mà chạy cứ như Tào Tháo


rượt vậy ?
Cả hai vừa thở hổn hển, vừa trả lời :
- Dạ, xin cho chúng con được vào thiên
đàng.
Thánh Phêrô nhìn hai người, rồi lên giọng :
- Hai anh làm như thiên đàng là chỗ không
người, muốn vào lúc nào là vào phải không ?
Nói đoạn, thánh Phêrô quay lại nhìn chằm
chặp như dò xét, rồi chỉ tay thẳng vào người
đứng trước, tướng tá đẹp trai, vóc dáng hồng
hào khỏe mạnh và hỏi :
- Anh đã làm gì ở dưới thế ?
- Dạ, con là linh mục đã bốn mươi năm và
đang chuẩn bị mừng kim khánh.
Nghe vậy, thánh Phêrô bèn bảo :
MỤC LỤC

- Anh đứng qua một bên. Còn anh kia, anh


có gia đình, vợ con gì chưa ? Nếu có thì đã
được bao nhiêu năm rồi ?
- Dạ con đã có vợ được bốn mươi năm và
đèo thêm bốn đứa con nữa.
- Anh làm nghề gì ?
- Dạ con là dân biểu.
Vừa nghe nói tới hai chữ dân biểu, thánh
Phêrô liền đùng đùng nổi giận :
- Anh là đại diện dân mà không chịu khó
làm việc vì dân, chỉ lo quơ tiền, vơ vét về cho
đầy túi tham của mình, nên không xứng đáng
vào thiên đàng chút nào.
Anh ta vội vã giơ tay xin đính chính :
- Dạ con không phải là dân biểu, nghị sĩ gì
ráo cả. Con làm nghề đạp xe xích lô. Dân biểu
cho chở đi đâu, thì con chở đi tới đó, nên ở dưới
MỤC LỤC

trần thế, cánh nhà báo ăn hại đái nát gọi chúng
con là dân biểu.
Thánh Phêrô nhìn kỹ anh dân biểu, thấy
mặt mũi anh ta xanh lè, thân hình anh ta là một
bộ xương cách trí biết đi, gầy ốm đong đưa như
cây sậy, đứng ngồi không vững. Thánh cả bèn
dang rộng hai tay ra ôm lấy con người khốn khổ
ấy và nói :
- Ngày hôm nay, con sẽ ở nơi vui vẻ cùng
ta.
Sau đó, thánh cả quay sang anh linh mục
mà phán :
- Anh phải xuống luyện ngục đền tội bốn
mươi năm.
Anh linh mục nghe vậy lấy làm tức tối, bèn
khiếu nại :
- Tại sao ngài cư xử quá bất công như vậy.
Ở dưới đó, con đã thực hiện biết bao nhiêu công
MỤC LỤC

việc làm sáng danh Chúa và cứu vớt được biết


bao nhiêu linh hồn.
Không để cho anh linh mục nói hết, thánh
Phêrô đã xua tay và ngắt lời :
-Thôi. Biết rồi, khổ lắm nói mãi. Thế nhưng,
anh đâu có hay anh dân biểu này đã đền tội bốn
mươi năm rồi, còn anh thì chưa có đền tội một
ngày nào hết.
Nói xong, thánh cả dắt anh dân biểu vào
thiên đàng và đóng sập cửa lại, mặc cho anh
linh mục la lối om xòm.
Câu chuyện trên đây muốn nói lên rằng :
những anh đờn ông con giai nào đã lấy vợ và có
gia đình, đều là những người đang đền tội cả
đấy, nhưng mỗi người đền tội theo một cách
thức khác nhau.
Kinh nghiệm đời thường cho thấy : con
người không thể nào sống cô độc lẻ loi như một
MỤC LỤC

pháo đài biệt lập, hay như một hòn đảo giữa
biển khơi, nhưng sống là sống với người khác,
nhất là với những người thân yêu trong cùng
một gia đình.
Tuy nhiên, trong cuộc sống chung này,
chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những
va chạm, những bực bội và những buồn phiền,
bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một
tính tình riêng, hơn nữa nhân vô thập toàn, ai
cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình.
Do đó, mỗi gia đình đều có những thập giá
của mình. Con cái là thập giá của cha mẹ và cha
mẹ cũng là thập giá của con cái. Vợ là thập giá
của chồng và chồng cũng là thập giá của vợ.
Cho nên Kinh Thánh đã khuyên :
- Anh em hãy vác đỡ thập giá của nhau.
Ngôn ngữ Việt Nam quả thực là tài tình và
phong phú. Người phụ nữ khi còn là con gái thì
MỤC LỤC

dễ thương dễ mến làm sao. Sở dĩ như vậy bởi vì


cái âm “ái” có nghĩa là yêu. Từ lời nói dịu dàng
đến nhõng nhẽo, từ cử chỉ hiền hòa đến nũng
nịu, tất tật đều làm cho trái tim phe đờn ông con
giai bị lúc lắc.
Thế nhưng, cũng người phụ nữ ấy một khi
đã trở thành bà vợ, thì bỗng quay phắt 180 độ.
Xưa rồi Diễm ơi, đâu còn nữa :
- Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém
thua…
Sở dĩ như vậy bởi vì cái âm “ợ” nghe chẳng
êm tai chút nào, nó làn cho ta như nuốt chẳng
trôi, chỉ muốn đưa lên cổ họng,rồi ói ra ngoài mà
thôi.
MỤC LỤC

Đồng thời, cái âm “ợ” nhắc ta nhớ đến danh


từ rợ nghĩa là cái dây, cái xích :
- Trai có vợ như rợ buộc chân.
Hơn thế nữa, cái âm “ợ” còn khiến ta liên
tưởng tới danh từ nợ. Vợ là cái nợ phải mang và
phải trả trong suốt đời mình. Chẳng thế mà
người ta đã bảo :
- Anh đờn ông con giai đi lấy vợ là tự ý ký
vào bản án chung thân, bế mạc cuộc đời.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã nói :
- Trong đời anh đờn ông con giai có hai
ngày vui. Ngày vui thứ nhất là ngày cưới vợ, vì
lúc ấy anh ta ngu ngơ ngớ ngẩn. Còn ngày vui
thứ hai là ngày vợ chết, vì lúc ấy, anh ta được
thoát khỏi…cái của nợ.
Vậy đâu là những khổ đau âm thầm đã kết
thành cây thập giá đời thường cho những anh
chồng ? Dĩ nhiên là có nhiều, nhiều lắm. Nhưng
MỤC LỤC

trong khuôn khổ của bài viết, gã chỉ xin đưa ra


hai cái tật mà thôi.
Cái tật thứ nhất là nói dài, nói dẻo, nói
dai.
Tác giả bài “Đền tội” cho biết như sau :
Các nhà tâm lý nghiên cứu về đời sống lứa
đôi, đã đi tới kết luận như sau :
- Đờn bà sau khi có chồng, thì nói nhiều
hơn lúc chưa lấy chồng một trăm lần. Còn đờn
ông thì ngược lại, nói ít đi một trăm lần sau khi
có vợ.
Chúng ta thử tưởng tượng xem khi các bà
gặp nhau thì sẻ xảy ra những gì ?
Trước hết là một cái chợ được hình thành.
Tất cả những chuyện cà kê dê ngỗng đều được
đem ra bày bán, còn hơn hàng cá hàng thịt.
Hàng cá hàng thịt thì chỉ có một loại hay một
MỤC LỤC

món, có trả giá, có kỳ kèo. Còn đây thì không


phải chỉ có một thứ, mà là đủ thứ…hầm bà lằng.
Các nhà tâm lý còn cho biết : nơi nào có hai
bà ngồi nói chuyện với nhau, thì sẽ có một
người đờn ông bị đấu tố. Nhưng nơi nào có ba
bà ngồi nói chuyện với nhau, thì sẽ có một
người đờn ông bị đưa lên đoạn đầu đài, chết tức
tưởi không kịp ngáp.
Trong phạm vi gia đình, ngoài những tin tức
lượm lặt từ vỉa hè hay xó bếp hàng xóm, thì điệp
khúc buồn được phát đi phát lại nhiều lần trong
ngày, đó là điệp khúc “cơm áo gạo tiền”. Thôi thì
vật giá leo thang. Thôi thì học phí gia tăng. Thôi
thì xăng dầu lên giá. Còn tiền lương khiêm tốn
anh chồng đem về chỉ được có bằng ấy, làm sao
mà chi dùng cho đủ ? Khốn khổ cho anh chồng
làm thân trâu ngựa, hì hục kéo cày suốt năm
MỤC LỤC

suốt tháng, cốt tìm tiền kiếm bạc, mà đem về


nộp cả cho bà xã.
Tuy nhiên, không hiểu phe đờn ông con giai
ta có nên nghe theo tất cả những lời nói dài, nói
dẻo, nói dai ấy hay không ?
Ngày xưa, trong vườn địa đàng, Thiên
Chúa đã dựng nên ông Adong. Thấy ông buồn
sầu vì cứ phải lặng lẽ sống cu ki một mình và
âm thầm kéo lê những bước chân cô đơn, nên
đã dựng nên bà Eva để ông có bạn. Ngài muốn
Eva sẽ là người bạn đường đem lại nguồn vui
cho ông trong suốt cả cuộc đời.
Vì thế, Ngài đã ban tặng cho ông bà tất cả
những gì tốt đẹp nhất, đặt ông bà lên làm chủ cá
biển, chim trời cùng muôn loài muông thú. Ngài
chỉ cấm không được ăn trái cây biết lành biết dữ
mà thôi.
MỤC LỤC

Thế nhưng, bà Eva đã không vâng nghe lời


Thiên Chúa truyền, giơ tay ngắt trái cấm mà ăn,
lại còn xúi ông Adong cùng ăn. Từ đó, ông bà
mất đi tất cả.
Còn chúng ta là con cháu cũng đã bị lãnh
đủ hậu quả thảm khốc của tội tổ tông truyền :
sống một cuộc sống vất vả vì phải đổ mồ hôi sôi
nước mắt mới có cơm ăn, một cuộc sống khổ
đau vì đất đai đã trổ sinh gai góc và cuối cùng
kết thúc bằng cái chết vì là thân tro bụi, nên sẽ
phải trở về cùng bụi tro.
Giả như ông Adong phe lờ và bỏ ngoài tai
những lời dụ dỗ đường mật của bà Eva, nhất
định không thèm nếm thử trái cấm, thì chắc
chắn thân phận của phe đờn ông con giai cũng
như của toàn thể nhân loại đã sáng sủa và tốt
đẹp hơn nhiều.
MỤC LỤC

Kinh nghiệm của ông Adong đưa ra cho


chúng ta một vấn đề vừa cụ thể lại vừa nghiêm
trọng, mà gã cũng vừa mới nêu lên, đó là :
- Có nên nghe lời vợ hay không ?
Thiết tưởng phe đờn ông con giai ta cần
phải suy nghĩ thật kỹ càng và nghiêm chỉnh về
vấn đề này, bởi vì kinh nghiệm ông Adong vẫn
còn đó, sờ sờ trước mặt, rồi lịch sử cũng đã
minh chứng :
- Vua nghe vợ, mất nước.
Thế mà trong phạm vi gia đình, biết bao
nhiêu anh chồng vẫn còn mê muội cho rằng :
- Lệnh vua thua lệnh bà.
- Nhất vợ nhì giời.
- Vợ muốn là trời muốn.
Thành thử mèo vẫn hoàn mèo và chó đen
vẫn giữ mực, không khá lên được !!!
Cái tật thứ hai là vung tay quá trán.
MỤC LỤC

Lương ông xã thì ba cọc ba đồng, thu nhập


chả được bao nhiêu, mà bà vợ thì lại có đam mê
mua sắm, bóc ngắn mà lại cắn dài, con nhà lính
nhưng tính lại nhà quan, thành thử sự thiếu hụt
là như một căn bệnh mãn tính, khiến mọi người
đều phải bó tay.
Tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi trên
thế giới, các siêu thị hiện giờ mọc lên như nấm
sau cơn mưa và các “shop” liên tục phát triển vì
ăn nên làm ra. Họ đã tung vào thị trường biết
bao nhiêu “độc chiêu” để dụ dỗ các
thượng đế : Nào là mua hàng có thưởng, nào là
khuyến mãi giảm giá 50%, nào là mua trả góp…
khiến cho các bà các cô, cứ như con nai vàng
ngơ ngác, mê mẩn cả tâm thần và máu
“shopping” bốc lên đùng đùng. Thấy cái lợi trước
mắt mà quên mất cái hại sau lưng. Hiện tượng
MỤC LỤC

này phải chăng nên được gọi là “hội chứng


shopping”!!!
Thực vậy, tôi có một cô em thuộc loại ghiền
siêu thị. Vào những ngày nghỉ, thì chương trình
của cô nàng rất giản đơn : sáng đi siêu thị, chiều
đi siêu thị và tối cũng đi siêu thị. Nhiều khi đi chỉ
để mà ngắm các thứ hàng hiệu, rồi thèm rỏ rãi,
vì tiền đâu mà mua, có nằm mơ cũng chả thấy.
Có những bà vợ thuộc hàng chuyên viên,
luôn nghiên cứu và sưu tầm những cửa hàng
khuyến mãi. Hễ chỗ nào khuyến mãi là nhào vô
ăn có, bởi vì các bà ấy lý luận :
- Giá rẻ mạt, tội gì mà không mua.
Và thế là các bà ấy lôi về nhà đủ mọi thứ
lỉnh kỉnh. Thậm chí có thứ chẳng được xài tới
một lần. Chỉ tội cho các ông chồng, cứ phải xì
tiền ra, mà mặt thì nhăn như cái bị rách.
Chuyện rằng :
MỤC LỤC

Trong phiên tòa xử một ông chồng về tội


hành hung vợ. Quan tòa phán :
- Anh không được quyền…đá vợ, làm như
vậy là phạm tội. Tòa tuyên án anh ba tháng tù
treo và không được tới gần vợ 3 mét trong suốt
thời gian thụ án.
Ông chồng đau khổ xin được hỏi lại :
- Thưa quan tòa, nếu bà vợ trong gia đình
cứ xài tiền lương của chồng một cách xả láng.
Tối ngày shopping, tụ họp bài cào tứ sắc, chẳng
lo lắng gì đến con cái, đã vậy khi bảo ban
thì chẳng nghe, lại còn văng tục chửi thề. Trong
trường hợp như thế thì phải làm sao bây giờ ?
Quan tòa nghe nói, tức khí nổi xung, đập
bàn cái rụp và tuyên bố hách xì xằng :
- Đánh bỏ mẹ nó đi, cho chừa cái tật hỗn
láo.
MỤC LỤC

Nói vậy thôi, chứ đa số đờn ông con giai ta


đều hiền như ông…bụt, và nhất là mắc phải
chứng bệnh sợ vợ :
- Lời vợ dặn, phải lắng nghe,
Mai sau “khôn lớn” mà khoe mọi người.
Nói ra xin hãy chớ cười,
Vợ ta ta sợ ! Vợ người…còn lâu.
Chứng bệnh này dường như đã thấm sâu
vào máu huyết con tim, ám vào lục phủ ngũ tạng
nên không còn thuốc chữa. Thực vậy, rất nhiều
lần phe đờn ông con giai muốn vùng lên, thoát
khỏi cái “cồng” bà, mà liền thất bại ngay từ trong
ý đồ, ngay từ trong trứng nước.
Hôm ấy, trời đang nắng bỗng dưng có một
cụm mây đen kéo tới và bất ngờ đổ xuống
những giọt nước mưa, khiến cho áo quần đang
phơi, không kịp chạy đều bị ướt hết trơn hết trọi.
MỤC LỤC

Và thế là ông chồng liền bị bà vợ xài xể cho một


trận tơi bời hoa lá :
- Anh thật là phường vô tích sự, chỉ
mỗi việc chạy quần áo mà làm cũng không xong.
Còn ra cái thể thống gì nữa, sao không chết đi
cho rồi.
Nghe vậy anh hàng xóm bèn góp ý với ông
chồng :
- Tại sao anh cứ để cho bà ấy xài xể và lên
mặt như vậy. Phải tay tôi ấy à…
Vừa phát ngôn tới đây, anh hàng xóm liền
nghe thấy một giọng nói oang oang từ phía sau :
- Gớm thật, phải tay tôi ấy à…
Quay mặt lại, thấy bà xã đang hầm hầm tiến
tới. Và thế là anh hàng xóm bèn cười toe toét :
- Dạ thưa mình, phải tay tôi thì tôi đã chạy
quần áo từ trước khi có những đám mây đen.
MỤC LỤC

Phe đàn ông con giai của một làng kia bị


bàn dân thiên hạ chê là bọn sợ vợ. Nhân ngày
các bà đi chợ hết, họ mới ngấm ngầm thông báo
tổ chức đại hội. Phen này phe ta nhất định phải
rửa nhục. Một là để cho các bà ấy biết tay ta.
Hai là để những kẻ xấu bụng thối mồm làng
khác không còn dí mũi vào mà khinh bỉ ta nữa.
Họ đưa ra hết sáng kiến này tới tối kiến kia.
Nhưng trước câu hỏi ai sẽ thực hiện, thì xem ra
mọi người đều e dè sợ sệt. Cuối cùng, một vị
cũng đã can đảm giơ tay xin lãnh nhận nhiệm vụ
cao cả ấy. Anh ta nói :
- Phen này nhất định phải vùng lên, cho các
bà ấy lãnh đủ.
Giữa lúc đang hăng tiết vịt như vậy, thì các
bà đi chợ về. Nhìn thấy quang cảnh đại hội, các
bà bèn vứt quang, vứt thúng…chỉ còn mỗi cái
đòn gánh và xông vào chiến trận.
MỤC LỤC

Và thế là các ông bèn lỉnh mất tiêu, tìm chỗ


nấp để xem sự việc xảy ra làm sao. Chỉ còn mỗi
một anh tình nguyện là bám trụ ở lại để chống
cự. Các ông mừng thầm vì từ nay mình có một
nhà lãnh đạo thật xứng đáng.
Nhưng sao cứ thấy anh ta quì gối mãi ? Té
ra, khi các bà xông tới, anh ta liền bị nhồi máu
cơ tim và chết bất đắc kỳ tử trong tư thế quì gối
như vậy.
Giai làng nọ cũng mang tiếng là phường râu
quặp, nhưng họ lại có máu văn nghệ. Vì thế,
thay vì bạo động, họ vận dụng lời ca tiếng hát để
đấu tranh đòi quyền…sướng.
Vào một đêm trăng sáng, họ tụ lại với nhau,
rồi phệu lời ca và cùng nhau tập dượt :
- Ta không chê vợ người, ta không khen vợ
ta…
MỤC LỤC

Đang say mê với lời ca như vậy, bỗng có


mấy bà xuất hiện, thế là họ bèn đổi tông, trước
cứng như sắt, thì bây giờ lại mềm nhũn như con
chi chi :
- Nhưng dù sao đi nữa, ta về ta tắm ao ta,
dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.
Thế mà cũng đòi đấu với tranh, đấm với đá.
Một hãy cúi đầu xuống như muông chim cho rồi.
Mỗi khi gặp những người khổ đau, thiên hạ
thường chia sẻ và khuyên nhủ :
- Âu cũng là thập giá Chúa gửi đến, ráng
vác đời này để được thưởng đời sau.
Một người đờn ông mon men tới cửa thiên
đàng. Thánh Phêrô bèn hỏi :
- Trong cuộc sống nơi trần gian, anh đã làm
được những gì để xứng đáng lãnh nhận phần
thưởng Nước Trời.
MỤC LỤC

Anh đờn ông gãi đầu gãi tai mà chẳng thấy


mình làm được một việc gì tốt lành cả. Cuối
cùng, như sực nhớ ra điều gì, anh bèn nói :
- Thưa thánh cả, con có vợ ạ.
Nghe vậy, thánh cả Phêrô bèn vân vê chòm
râu bạc và nói :
- Ngươi cũng đã đau khổ và vác thập giá
như ta. Thôi hãy vào thiên đàng mau đi.
Và để kết luận, gã xin ghi lại mấy mấy câu
thơ như một an ủi cho phe ta :
- Mỗi lần em nổi tam bành,
Vào phòng đóng cửa mình anh nguyện
cầu.
Nhìn anh, Chúa cũng lắc đầu.
Thôi con ráng chịu, đời sau phúc lành.
MỤC LỤC

GIÁNG SINH BUỒN

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Mấy bữa nay, trời Saigon đổ lạnh. Một cái


lạnh họa hiếm và quí giá cho miền Nam oi bức.
Đây là cơ hội ngàn vàng, một năm mới có một
lần để cho phe đờn bà con gái trình làng các thứ
áo lạnh, từ áo gió cho tới áo len. Còn cánh đờn
ông con giai ngồi uống cà phê bên vỉa hè tha hồ
ngắm nghía và đưa ra những lời bình luận loạn
cào cào. Có tên đã dựa vào bao thuốc lá Salem
mà phát ngôn rông rổng :
- Sao áo len em mỏng.
Một tên khác, đọc ngược lại với cặp mắt lim
dim tuồng như đang mơ mộng :
- Mắt em là ánh sao.
MỤC LỤC

Riêng phần gã, mỗi khi xuống phố, hai tay


thọc vào túi quần, vừa đi vừa nghêu ngao nho
nhỏ bài tình ca thuở nào :
- Lại một Noel nữa.
Mấy mùa Giáng sinh buồn.
Anh ở miền biên giới,
Thương về một khung trời.
Chắc Đàlạt vui lắm.
Mimosa nở vàng.
Anh đào khoe sắc thắm.
Hương ngào ngạt không gian…
Mà lạ thật, cứ mỗi độ Noel về, gã lại nhớ tới
Đalạt một cách day dứt và quay quắt. Noel Đalat
ngày xưa như có một cái gì thật thơ mộng và
vấn vương, để lại trong đầu óc gã những kỷ
niệm chẳng bao giờ nhạt phai, nhất là với cái
lạnh.
MỤC LỤC

Đúng thế, thời tiết Saigon chẳng phù hợp


với bầu khí Noel tí nào. Có những năm trời nóng
toát cả mồ hôi hột : trong nhà thờ quạt máy thổi
vù vù, còn tại những vùng sâu vùng xa, ánh
sáng điện đóm chưa chiếu tới, thì quạt nan, quạt
giấy cứ phành phạch loạn cả lên…thế mà miệng
vẫn cứ phải hát to :
- Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời.
Oái oăm hơn nữa, có những năm vào chiều
ngày hai mươi bốn, ông trời bỗng giáng cho một
trận mưa. Và thế là bao nhiêu công trình trang trí
bỗng đi đoong. Lặng lẽ đứng nhìn những núi đá
bằng giấy ci măng “vỡ ra tan tác” mà bụng rầu
thối cả ruột.
Năm ấy, trời Đalat rét sớm. Chui vào khu
chợ mới, rảo qua các hàng quán, rồi từ tầng trệt
bước lên lầu, gã nhìn thấy một cô gái nhỏ người
người thượng, đang co ro nơi góc cầu thang tăm
MỤC LỤC

tối. Ánh mắt van xin. Đôi tay run rẩy giơ ra như
đợi chờ những đồng tiền lẻ bố thí.
Hình ảnh này khiến gã nhớ tới câu chuyện
“Cô bé bán diêm” của Andersen, mà gã đã say
mê đọc. Câu chuyện đại khái như thế này :
Buổi chiều ngày hai mươi bốn tháng mười
hai, trời thật lạnh. Cô bé lảo đảo bước đi trong
gió rét. Làm sao cô bé có thể bán hết những bao
diêm trong một buổi chiều mà mọi người đều
đang vội vã chuẩn bị cho một ngày lễ lớn.
Nhớ tới những bao diêm còn tồn đọng, cô bé
không dám trở về nhà vì sợ bà dì ghẻ đay
nghiến. Cô bé tìm một nơi ẩn khuất để ngồi nghỉ
chân. Từng cơn gió lạnh thổi qua. Cô bé thầm
nghĩ :
- Bây giờ mình thử quẹt một que diêm để
sưởi ấm tí chút đôi lòng bàn tay.
MỤC LỤC

Thế rồi, que diêm thứ nhất được quẹt lên. Cô


bé thấy mình đang ngồi trong một căn phòng
rộng lớn. Củi nơi lò sưởi cháy bừng bừng và tỏa
ra hơi ấm. Thế nhưng, chỉ thoáng chốc, que diên
lại vội tắt. Chung quanh cô bé chỉ là một màn
đêm dày đặc.
Với que diêm thứ hai, cô bé thấy mình đang
ngồi trước một bàn ăn thịnh soạn, được dọn sẵn
cho cô bé trong đêm Giáng sinh. Nhưng rồi que
diêm chợt tắt, trước mặt cô bé chỉ còn là băng
giá.
Que diêm thứ ba được quẹt lên, cô bé thấy
mình đang đứng trước một cây Noel với những
món quà xinh đẹp. Giữa lúc cô bé đưa tay ra để
ngắt lấy, thì que diêm lại tắt ngấm. Chỉ còn lại
đường phố tấp nập, kẻ đến người đi.
Và cô bé vẫn ngồi đấy, lập cập trước từng
cơn gió lạnh thổi tới. Một que diêm nữa, rồi lại
MỤC LỤC

một que diêm nữa. Bao nhiêu ước mơ êm đềm


nhất lần lượt xuất hiện, rồi lại tan biến theo ánh
lửa yếu ớt của que diêm.
Cuối cùng cô bé thấy mẹ đến bên mình và cô
bé đã van xin cho mình được đi theo mẹ. Hình
như mẹ đã mỉm cười với cô bé.
Sáng hôm sau, người ta nhận ra cô bé đã
chết vì giá lạnh giữa những que diêm đã cháy.
Người ta chép miệng thở dài và nói :
- Thật tội nghiệp. Hẳn là cô bé muốn sưởi ấm
cho mình đây, nhưng rồi lại chết, chết trong đêm
Giáng sinh.
Hình ảnh cô gái nhỏ người thượng và hình
cảnh cô bé bán diêm khiến gã liên tưởng tới lễ
Giáng sinh đầu tiên được diễn ra nơi máng
cỏ và gã thầm nghĩ :
- Đây hẳn phải là một lễ Giáng sinh nghèo,
thật nghèo.
MỤC LỤC

Đúng thế, Giuse và Maria, cặp vợ chồng trẻ


nhưng nghèo trở về Bêlem, quê hương bản
quán, để khai hộ khẩu theo chiếu chỉ của hoàng
đề Cêsar Augustô. Nhìn bộ dạng thiểu não và
túng quẫn, cộng thêm vào đó, Maria đang bụng
mang dạ chửa, sắp sửa tới ngày sinh nở, nên
chẳng hàng quán nào thèm tiếp nhận. Thành
thử hai vợ chồng phải dắt díu nhau ra ngoài
đồng vắng tìm chỗ trú chân.
Và Hài Nhi Giêsu đã được sinh ra trong cảnh
thiếu thốn như thế. Không nhung lụa êm ấm.
Không hoàng cung rực rỡ. Mẹ Maria đã phải lấy
tã bọc Hài Nhi Giêsu và đặt nằm trong máng cỏ.
Rồi những người khách đầu tiên đến viếng
thăm là ai ? Họ là những người chăn chiên,
hạng cùng đinh trong xã hội. cũng nghèo hèn và
cơ cực.
MỤC LỤC

Thực vậy, sau khi được thiên thần Chúa hiện


ra trên cánh đồng Bêlem với lời loan báo :
- Ta mang đến cho các ngươi một tin vui và
cũng là tin vui cho toàn thể dân Israel, hôm nay
Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi trong
thành vua Đavít.
Và thế là họ vội vã lên đường. Tuy nghèo về
tiền bạc, nhưng họ lại giàu về tình bác ái yêu
thương. Phải chăng chính tình bác ái yêu
thương này đã sưởi ấm cho Hài Nhi Giêsu ?
Hình ảnh cô gái nhỏ người thượng và hình
cảnh cô bé bán diêm, cũng như hình ảnh máng
cỏ tại Bêlem thật khác biệt với bầu khi Noel hôm
nay.
Đúng thế, hôm nay người ta đã đón mừng lễ
Giáng sinh một cách tưng bừng và lộng lẫy.
Người ta đã quốc tế hóa, thương mại hóa và tục
hóa ngày lễ thánh thiện này.
MỤC LỤC

Trước hết, người ta đã quốc tế hóa ngày lễ


thánh thiện này.
Thực vậy, Không phải chỉ người có đạo tin
theo Đức Kitô mới mừng, mà hầu như bàn dân
thiên hạ đều mừng. Từ người già cho đến người
trẻ, từ người phương tây cho đến người phương
đông, từ người dân ở thành thị cho đến người
dân ở hóc bà tó, đèo heo hút gió…Tất cả đều
mừng biến cố trọng đại Chúa sinh ra đời.
Cũng giống như cây thánh giá. Đúng thế,
ngày xưa cây thánh giá dấu chỉ của người có
đạo, còn hôm nay cây thánh giá đã trở thành
một thứ đồ trang sức. Những cô gái trẻ đeo
thánh giá toòng teng trên hai tai, mang thánh giá
lủng lẳng ở trước ngực và không chừng có cô
còn cột cả thánh giá ở hai mắt cá chân nữa. Gã
không biết nên cười hay nên khóc trước cảnh
tượng này.
MỤC LỤC

Tiếp đến, người ta đã thương mại hóa ngày


lễ thánh thiện này.
Thực vậy, ngay từ đầu tháng mười hai,
những cây thông Noel, những hang đá Noel và
những ông già Noel đã được dùng để trang trí
khắp nơi khắp chốn.
Rồi những cửa tiệm bán thiệp Giáng sinh,
bán đồ chơi cho trẻ em và bán quà tặng cho
người lớn được mọc lên như nấm, nhất là tại
các thành phố lớn. Đây là dịp để bàn dân thiên
hạ mua sắm sau một năm vất vả kéo cày và cực
nhọc lao động. Đây cũng là dịp béo bở để cho
con buôn hốt bạc. Mỗi năm mới có một lần, làm
sao mà chẳng mong chẳng đợi, còn hơn cả
người có đạo sống tâm tình mùa vọng vậy.
Và sau cùng, người ta đã tục hóa ngày lễ
thánh thiện này.
MỤC LỤC

Thực vậy, đối với nhiều người, Noel chỉ là


một dịp để gửi cho nhau những tấm thiệp với lời
mừng chúc : Một mùa Giáng sinh vui vẻ và một
năm mới bình an! A merry Christmas and a
happy new year! Un joyeux Noel et une
heureuse année!
Đối với nhiều người, Noel chỉ là một dịp để
trao cho nhau những món quà.
Cha mẹ tặng quà cho con cái để thưởng
công chúng đã ngoan ngoãn, chăm chỉ và vâng
lời đã đành, mà hơn thế nữa các nhân viên cấp
dưới còn có bổn phận biếu xén cho các xếp lớn
của mình, để cầu ơn mưa móc, để tạo được
những ấn tượng tốt cũng như để tránh không bị
trù dập. Chuyện đời là thế. Đồng tiền đi trước
đồng tiền khôn. Nếu không biết điều, thì hãy liệu
hồn đấy.
MỤC LỤC

Nói tới ông già Noel, nhiều người chẳng cần


tìm hiểu gốc gác, cội nguồn, để biết ông ta là
hiện thân của thánh Nicôlas, vị giám mục thành
Myre, sống vào đầu thế kỷ thứ tư.
Thánh nhân mở mắt chào đời tại Patara, xứ
Lycia, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Ngài luôn
giúp đỡ những người nghèo túng và bất hạnh.
Cuộc đời ngài được dệt bằng những huyền
thoại.
Chẳng hạn nhờ lời cầu nguyện, ngài đã
truyền cho sóng yên biển lặng trong cơn giông
bão, vì thế ngài được đặt làm bổn mạng các
thủy thủ.
Đặc biệt, ngài luôn yêu thương trẻ nhỏ :
Chính ngài đã làm cho ba em bé bị tên đồ tể giết
chết được sống lại và cũng chính ngài đã cứu
ba cô gái bị cha mẹ bắt đi làm điếm chỉ vì không
có của hồi môn để lấy chồng, vì thế, ngài cũng
MỤC LỤC

được đặt làm bổn mạng của giới thiếu nhi. Ngài
qua đời vào khoảng năm 350 và được mừng
kính vào ngầy 6 tháng 12.
Có lẽ vì lòng yêu thương tuổi thơ mà ngài
được dân gian gán cho công việc phát quà đêm
Giáng sinh. Các trẻ em bên phương tây, vào
ngày lễ Giáng sinh, trước khi ngủ, thường đặt
đôi vớ hay cặp ủng của mình ở đầu giường, hay
ở lò sưởi, cho ông già Noel để quà vào đó, vì
ông già Noel thường vào nhà qua ngả ống khói.
Phải, nói tới ông già Noel, hiện nay người ta
chỉ nghĩ ngay đến một ông già tốt bụng, râu tóc
bạc phơ, đội mũ đỏ và mặc áo đỏ, vai mang túi
vải, có nhiệm vụ đi phát quà cho các em thiếu
nhi trong đêm Giáng sinh. Hình ảnh này đã
được một họa sĩ Thụy Điển vẽ vào năm 1890.
Và đến năm 1931, được hãng Coca-Cola sử
dụng cho chiến dịch quảng cáo của mình.
MỤC LỤC

Đối với nhiều người, Noel chỉ là một lễ hội để


ăn nhậu và nhảy nhót, nhất là đối với giới trẻ.
Thực vậy, ngay từ chiều ngày hai mươi bốn,
người ta đã nhốn nháo đổ xuống đường phố,
không phải là để tới nhà thờ tham dự thánh lễ,
mà là để khoe khoang quần áo mốt miếc. Thiện
chí lắm là làm một vòng, rảo qua mấy ngôi nhà
thờ để ngó những kiểu cọ hang đá. Thấy người
ta đi thì mình cũng đi, mà chẳng biết đi để làm gì
?
Tại những ngôi nhà thờ, hang đá hôm nay
không còn phải là một hang hôi hám và tăm tối
cho chiên bò ngủ đêm, nhưng là một cảnh
tượng huy hoàng và rực rỡ với muôn ngàn bóng
điện màu chớp nhá. Thế nhưng, cõi lòng người
tin Chúa thì sao ? Có lẽ nó cũng hôi hám và tăm
tối như hang chiên bò ngày xưa ?
MỤC LỤC

Sau khi chen chúc ngoài đường phố, tạo nên


cảnh tượng kẹt cứng trên các trục lộ giao thông,
người ta kéo nhau về nhà mình hay đi tới những
nhà hàng để ăn nhậu nhậu. Nào là những chai
rượu đắt tiền đổ ra như nước lã. Nào là những
món ăn quí hiếm mắc mỏ thừa bứa. Khi đã sừng
sừng thì kéo nhau ra sàn gỗ để nhảy nhót và để
lắc tới lắc lui, tơi bời hoa lá, quay cuồng trong
tiếng nhạc xập xình. Nhảy nhót chán thì lại ăn
nhậu tiếp cho tới sáng, khiến nhiều chiến binh
đã phải gục ngã, cho chó ăn chè ngay tại bàn
nhậu.
Một số khác khi đã sừng sừng thì nhảy lên
xe, phóng bạt mạng như những hung thần ngoài
xa lộ, tạo nên những cái chết thật oan uổng và
đau đớn trong đêm cực thánh này.
Tất cả lễ Giáng sinh chỉ có vậy mà thôi : mua
sắm, ăn nhậu, nhảy nhót… Người ta chẳng cần
MỤC LỤC

biết đến giây phút trọng đại nhất của lịch sử loài
người. Giây phút Con Thiên Chúa xuống thế làm
người để giải thoát nhân loại đang ngồi trong
tăm tối và đang bị trói buộc dưới gông cùm tội
lỗi, giây phút giao hòa đất với trời. Thậm chí
người ta cũng chẳng biết đến Hài Nhi Giêsu là
ai.
Viết tới đây, gã nhớ tới một mẩu chuyện của
Gibran. Gã xin kể lại như một kết thúc. Mẩu
chuyện ấy như thế này :
Vào một đêm giáng sinh, đường phố ngập tràn
muôn ánh đèn màu và từng lớp người mừng vui
bước đi.
Tôi muốn lẩn tránh những âm thanh ồn ào,
tìm kiếm một vài phút giây thinh lặng để suy
tưởng về con người vĩ đại nhất mà thiên hạ
đang tôn kính.
MỤC LỤC

Con người ấy đã sinh ra làm thân trẻ nhỏ nơi


máng cỏ Bêlem, đã chết một cách ô nhục như
một tên tội phạm với khổ hình thập giá trên đỉnh
đồi Canvê.
Tôi dừng chân và ngồi trên chiếc ghế đá
công viên, để mặc cho những tâm tư trào dâng.
Một lúc thật lâu, tôi bỗng giật mình vì có một
người đã ngồi bên cạnh tôi từ lúc nào tôi cũng
chẳng hay biết. Người đó đang cầm một cành
cây khô và vạch những đường nét bâng quơ
trên đất. Tôi nghĩ rằng :
- Hẳn ông ta cũng là một kẻ cô đơn.
Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, người
ấy nói :
-Chào anh.
Tôi thận trọng đáp lễ :
-Dạ, xin chào ông.
Rồi tôi gợi chuyện :
MỤC LỤC

-Hẳn ông là một kẻ xa lạ trong thành phố này


?
Người ấy đáp :
-Phải, tôi chỉ là một kẻ xa lạ trong thành phố
này cũng như trong mọi thành phố khác.
Tôi hỏi tiếp :
-Chắc ông cũng cảm thấy vui trong bầu khí
tưng bừng của ngày lễ Giáng sinh hôm nay
chứ ?
Người ấy đáp :
-Vào những ngày như thế này, tôi lại càng
cảm thấy xa lạ và cô đơn hơn bao giờ hết.
Tôi nói tiếp :
-Dường như ông đang cần một sự giúp đỡ ?
Vậy xin ông vui lòng nhận lấy mấy đồng bạc
này.
Tôi mở bóp và đưa tiền. Thế nhưng, người
ấy vội xua tay, lắc đầu với nét mặt chán ngán :
MỤC LỤC

-Tôi rất cần một sự giúp đỡ, nhưng không


phải là tiền bạc.
Tôi đề nghị :
-Hay là ông về nhà tôi để chúng ta cùng nghỉ
ngơi ?
Người ấy đáp :
-Tôi cần một nơi để nghỉ ngơi, một chỗ để
tựa đầu, một mái nhà cho tâm tư chìm lắng. Tôi
đã cố gắng đến mọi lữ quán, đã gõ cửa mọi căn
nhà, nhưng tất cả đều chối từ. Tôi mệt mỏi
nhưng không thất vọng. Đúng ra tôi không tìm
một ngôi nhà, nhưng tìm một tâm hồn, tìm một
nơi nghỉ ngơi trong lòng người.
Tôi nhìn thấy một giọt nước mắt rơi xuống
trên gò má người ấy. Nói rồi, người ấy đứng lên,
giơ hai tay ra phía trước. Tôi bỗng nhìn thấy
những dấu đinh nơi lòng bàn tay.
Tôi bàng hoàng phủ phục và kêu lên :
MỤC LỤC

-Ôi! Lạy Chúa Giêsu.


Lúc bấy giờ Chúa nói tiếp :
-Mọi người đang tôn vinh Ta, đang thêu dệt
chung quanh Ta những huyền thoại, những hào
quang rực rỡ. Còn về phần Ta, Ta mãi mãi vẫn
chỉ là một kẻ xa lạ và cô đơn trên mặt đất này.
Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con
người không có lấy được một hòn đá để tựa
đầu.
Đúng thế, Hài nhi Giêsu vẫn còn cô đơn
trong chính ngày lễ bàn dân thiên hạ mừng kính
Ngài. Ngài vẫn còn âm thầm khổ đau giữa cảnh
tưng bừng của ngày Ngài giáng sinh. Ngài vẫn
còn xa lạ ngay cả đối với những người đã tin
nhận Ngài.
Và hơn thế nữa, nếu Ngài thực sự hiện diện
nơi người khác, thì chính Ngài cũng đang bị hắt
hủi nơi những cô gái nghèo hèn người thượng,
MỤC LỤC

Ngài cũng đang bị chết dần chết mòn nơi những


cô bé bán diêm túng thiếu, Ngài cũng đang bị
quằn quại trong đau đớn nơi những em nhỏ lây
nhiễm HIV ở Phi Châu, Ngài cũng đang bị vất ra
ngoài đường nơi những người lâm cảnh màn
trời chiếu đất tại những nơi đang xảy ra chiến
tranh.
Nếu những chủ quán ngày xưa tại Bêlem đã
không dành cho Ngài một chỗ cư ngụ, thì hôm
nay biết bao nhiêu người cũng đã đóng kín cõi
lòng và xua đuổi Ngài, để Ngài phải vất vưởng
cùng giá rét.
Và rồi một giọng hát quen thuộc với nhạc
phẩm “Bài thánh ca buồn” vang lên nơi tiện cà
phê của người hàng xóm :
- Bài thánh ca đó còn nhớ không em.
Noel năm nào chúng mình có nhau.
………………………………………
MỤC LỤC

Rồi những đêm thánh thường đón Noel,


Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.
Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối,
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn.
Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi.
MỤC LỤC

TẾT TÂY, BÀN VỀ TÂY VÀ TA

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Khi học về tâm lý, gã được biết nơi con


người có hai yếu tố luôn ảnh hưởng lẫn nhau,
đó là yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài.
Trước hết, yếu tố bên trong ảnh hưởng tới
bên ngoài. Chẳng hạn khi buồn, ta có cảm
tưởng như môi trường chung quanh cũng ảm
đạm và tê tái như muốn chia sớt nỗi buồn đang
đầy ứ trong cõi lòng của ta. Vì thế, Nguyễn Du
đã viết :
- Cảnh nào, cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ.
Tiếp đến, yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới
bên trong. Chẳng hạn vừa mới ngủ dậy mà bỗng
trời đổ mưa, ta liền cảm thấy một chút lười
biếng, chả muốn bắt tay làm bất cứ công việc gì,
MỤC LỤC

mà chỉ muốn nằm ngủ nướng trong chăn cho


đẫy con mắt. Chẳng hạn đang đi thất tha thất
thểu ngoài phố, bỗng nghe thấy một khúc quân
hành, ta liền cảm thấy phấn chấn hẳn lên, bước
đều bước theo điệu nhạc đong đưa.
Một trong những yếu tố bên ngoài khá quan
trọng đó là địa dư, hay nói một cách nôm na là
nơi ăn chốn ở. Yếu tố này cũng đã góp phần
không nhỏ vào việc hình thành con người chúng
ta. Thực vậy, nhìn vào bản đồ, gã thấy có bốn
hướng : đông tây nam bắc. Như thế, người bắc
khác với người nam và người phương đông
khác với người phương tây.
Thực vậy, tuy cùng là dân Việt mình với
nhau, nhưng người bắc có một số đặc điểm
khác với người nam. Gã chỉ xin đưa ra một thí
dụ nho nhỏ mà thôi.
MỤC LỤC

Chẳng hạn tại miền bắc đất đại thì ít, còn
sông Hồng Hà như bà già khó tính hay như cô
gái đỏng đảnh, gây nên lụt lội thất thường.
Chính vì phải đương đầu với một hoàn cảnh
nghiệt ngã như vậy, nên người bắc thường chí
thú làm ăn, tích lũy tiền của phòng khi tai ương
hoạn nạn xảy ra.
Trong khi đó, tại miền nam, ruộng đất thẳng
cánh cò bay, còn sông Cửu Long, như người mẹ
hiền hay như cô gái dịu dàng, lụt lội cứ đúng hẹn
lại lên, không có sức tàn phá dữ tợn, nhưng
mang lại phù sa cùng mọi thứ tôm cá. Đứng
trước môi trường được thiên nhiên ưu đãi như
thế, người miền nam thường sống một cách
nhàn hạ, chả cần phải ky cóp, nhưng làm ngày
nào xào ngày ấy.
Vào năm 1954, cả triệu người miền bắc di
cư xuống miền nam. Sau năm mươi năm chung
MỤC LỤC

sống, những người bắc 54 cũng đã mang lấy


không nhiều thì ít những đặc tính của người
miền nam. Thành thử bây giờ họ không còn cần
cù siêng năng mấy so với những người bắc 75,
tức là những người vào nam sau ngày thống
nhất đất nước.
Bây giờ gã xin so sánh người tây với ta.
Người tây dĩ nhiên là sống ở phương tây, còn ta
thì dĩ nhiên sống ở phương đông. Vị trí đông và
tây này cũng đã ảnh hưởng trên con người và
tạo nên những khác biệt.
Vì sống ở bắc bán cầu với khí hậu lạnh,
người tây thường to con, trắng trẻo và râu tóc
rậm rạp. Còn ta vì sống gần đường xích đạo,
nên có vóc dáng nhỏ hơn, da vàng và râu tóc
cũng thưa thớt hơn. Người tây dùng màu đen để
chỉ sự tang tóc, còn ta thì lại dùng màu trắng.
Người tây gọt từ dưới gọt lên, còn ta thì gọt từ
MỤC LỤC

trên gọt xuống. Người tây khi gọi thì ngửa tay ra
mà vẫy, còn ta khi gọi thì úp tay xuống mà vẫy.
Người tây không ăn thịt chó, còn ta thì lại coi thịt
chó là một món…khoái khẩu. Thành thử trong
những năm gần đây các thứ quán “cờ tây”, “nó
kìa”, “sống trên đời”…mọc lên như nấm, có mặt
trên khắp nẻo đường đất nước, từ thành thị cho
đến thôn quê.
Đó mới chỉ là những khác biệt lẻ tẻ, mà nếu
kể ra thì sẽ chẳng bao giờ cùng. Trong khuôn
khổ bài viết này, gã chỉ xin tập trung vào mấy
điểm khác biệt chính yếu mà thôi.
Trước hết là về phép tính ngày tháng năm.
Người tây căn cứ theo dương lịch. Còn ta căn
cứ theo âm lịch. Vậy thế nào là dương lịch và
thế nào là âm lịch ?
Dương lịch hay lịch tây là lịch tính theo mặt
trời. Thực vậy, trái đất xoay quanh mặt trời cứ
MỤC LỤC

365 ngày 6 giờ thì được một vòng. Vì thế, cứ


bốn năm lại có một năm nhuận. Và năm nhuận
được tính thêm một ngày vào tháng hai. Người
tây chắc hẳn là phải ăn tết tây, tức là mừng ngày
1 tháng 1, ngày đầu năm dương lịch.
Còn âm lịch, lịch ta hay lịch tàu là lịch căn
cứ vào sự vận hành của mặt trăng chung quanh
trái đất. Đối với âm lịch, năm nhuận là năm có
thêm hẳn một tháng. Theo Trung Quốc, âm lịch
có từ thời nhà Hạ và lấy tên mười hai chi mà đặt
cho mười hai tháng.
Ta chắc hẳn là phải ăn tết ta, hay còn được
gọi là tết Nguyên đán, mừng ngày 1 tháng 1,
ngày đầu năm âm lịch. Theo tác giả “Toan Ánh”
trong “Tín ngưỡng Việt Nam” thì “Nguyên là bắt
đầu, đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên đán là tết
đầu năm, mở màn cho một năm mới với mọi
cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang”.
MỤC LỤC

Ngày nay, qua sự giao lưu văn hóa, đông


và tây không còn cách biệt ngàn trùng nữa. Vì
thế, ta vẫn giữ lại một số lễ tết chính, chẳng hạn
tết Nguyên đán và tết Trung thu, đồng thời cũng
mở rộng cửa đón nhận một số lễ tết của người
phương tây, chẳng hạn tết Dương lịch. Và trong
những năm gần đây giới trẻ, nhất là tại các
thành phố lớn, cũng đã bắt đầu mừng những
ngày lễ khác, như ngày tình nhân, ngày mẹ hiền,
ngày phụ nữ, ngày quỷ dữ Halloween…Chẳng
khác gì một anh chàng, vừa có họ với cô dâu lại
vừa có họ với chú dể, nên khi được mời dự đám
cưới, đã hăng hái phát ngôn vung vít :
- Giai hay gái, tớ đều…xơi tuốt!
Nếu đưa mắt quan sát, gã ghi nhận được
hai đặc tính về con người và về xã hội. Hai đặc
tính này đã tạo nên những sự khác biệt giữa ta
và tây.
MỤC LỤC

Trước hết là về con người. Nếu so sánh, gã


thấy người tây vốn thường suy nghĩ bằng cái
đầu, còn ta vốn thường suy nghĩ bằng trái tim.
Nói cách khác, người tây sống bằng lý trí hơn
sống bằng tình cảm, còn ta thì sống bằng tình
cảm hơn sống bằng lý trí. Đối với người tây,
ngang bằng xổ thẳng, hai với hai phải là bốn,
chứ không được nghiêng bên nọ, ngả bên kia.
Còn ta thì khác, lắm khi nói vậy mà chẳng phải
đâu và trong cách cư xử thường uyển chuyển và
du di, bởi vì :
- Một trăm cái lý không bằng một tí cái tình.
Tiếp đến là về xã hội. Người tây vốn phát
triển về khoa học kỹ thuật nên đòi hỏi sự chính
xác. Còn ta vốn phát triển về nghề nông, nên cứ
thủng thẳng mà đi. Có thể nói được rằng từ thời
ông “Bành Tổ” và cho đến ngày hôm nay, xã hội
ta vốn dĩ đã là một xã hội nông nghiệp :
MỤC LỤC

- Nhất sĩ nhì nông,


Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ.
Người dân chủ yếu sống bằng nghề trồng
lúa. Mà đã trồng lúa, thì đòi hỏi nhiều lao động,
nhiều công sức, nhất là vào thời buổi “con trâu
đi trước, cái cày theo sau”, chưa được hiện đại
hóa bằng những thứ máy móc lỉnh kỉnh. Vì thế,
cần phải đông con nhiều cháu, để cùng nhau
chia sẻ và gánh vác những công việc nặng nhọc
trên ruộng đồng.
Từ hai đặc điểm này, gã xin đưa ra hai
điểm nổi bật, khiến cho ta hoàn toàn khác biệt
với tây.
Điểm nổi bật thứ nhất, đó là đời sống tình
cảm.
Như trên gã vừa mới trình bày : người tây
vốn suy nghĩ bằng cái đầu, lấy lý trí làm tiêu
MỤC LỤC

chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, nên


phàm bất cứ sự việc gì cũng phải hợp lý, cũng
phải có cái “lô gích” của nó. Chẳng phải chỉ
người Anh mới có thái độ “phớt tỉnh Ăng Lê”, mà
phần đông dân tây đều có thái độ ấy. Thí dụ như
dân Đức máu còn lạnh và phớt tỉnh còn bạo hơn
cả dân Ăng lê nữa.
Cũng từ đó, cá nhân chủ nghĩa được liên
tục phát triển nơi người tây, đặc biệt trong phạm
vi gia đình. Thực vậy, một gia đình của người
tây thường chỉ gồm có cha mẹ và con cái. Con
cái vừa mở mắt chào đời đã được đặt ngủ trong
nôi, chứ không được nằm ngủ chung với mẹ.
Lớn lên một tí thì ở trong phòng riêng, một vùng
cấm địa mà ngay cả cha mẹ cũng phải tôn trọng.
Còn cha mẹ khi đã về già, thường được gửi vào
những viện dưỡng lão, thỉnh thoảng trong những
MỤC LỤC

ngày lễ hay những ngày nghỉ cuối tuần, con


cháu mới tới thăm viếng.
Còn ta thì khác. Ta suy nghĩ bằng trái tim,
lấy tình cảm làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi
hành động. Và trái tim thì có những lý lẽ riêng
của nó. Thành thử ở mọi nơi và trong mọi lúc,
tình nghĩa lúc nào cũng lai láng và tràn đầy, nhất
là trong phạm vi gia đình.
Thực vậy, gia đình ta ngày xưa, nếu đi từ
người chủ, thì sẽ thấy hàng trên của người chủ
là cha mẹ, ông bà, cụ kỵ. Nhưng thường chỉ có
cha mẹ và ông bà, còn cụ kỵ nếu sống được thì
cũng rất hiếm. Hàng ngang của người chủ là
anh chị em. Còn hàng dưới của người chủ là vợ
con. Tất cả cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, con cái, anh
chị em đều là những người trong gia đình và
thuộc về họ nội. Riêng ông bà, cha mẹ, anh chị
em của người mẹ thì thuộc về họ ngoại, tuy
MỤC LỤC

không ở chung cùng một gia đình, nhưng vẫn là


những người trong thân quyến, có liên hệ mật
thiết với nhau.
Gia đình ta ngày xưa thường quy tụ tất cả
những thành phần kể trên và có thể được gọi là
một đại gia đình. Nếu năm đời ở cùng một nhà
với nhau, thì được gọi là ngũ đại đồng đường.
Đây là một trường hợp rất họa hiếm và dường
như không có, bởi vì tuổi thọ của các cụ ta ngày
xưa không được cao lắm. Bốn đời ở cùng một
nhà với nhau, thì được gọi là tứ đại đồng đường.
Trường hợp này cũng có, nhưng rất ít. Ba đời ở
cùng một nhà với nhau, thì được gọi là tam đại
đồng đường. Đây là trường hợp bình thường vì
chỉ gồm có ông bà, cha mẹ và con cháu. Nhiều
khi những thành phần của đại gia đình này quây
quần bên nhau trên một mảnh đất và làm thành
như một trại gia binh.
MỤC LỤC

Tình cảm mặn nồng ấy không phải chỉ gắn


bó những người trong cùng một nhà, mà còn
gắn bó những người trong cùng một dòng tộc.
Vì thế, mỗi khi có việc hệ trọng như cưới hỏi, ta
thường “nhóm họ” để bàn bạc, trao đổi ý kiến và
phân chia công tác.
Tình cảm mặn nồng ấy cũng không phải chỉ
gắn bó những người còn sống với nhau, mà còn
gắn bó cả với những người đã khuất. Ta vốn có
truyền thống biết ơn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây và
uống nước phải nhớ đến nguồn, nên ta đã dành
cho ông bà tổ tiên một chỗ đứng quan trọng
trong đời sống. Ta có một cái đạo rất phổ thông
được gọi là “đạo ông bà”, coi việc thảo kính ông
bà và cha mẹ khi còn sống cũng như khi đã qua
đời là một bổn phận thiêng liêng và hầu như gia
đình nào cũng có một bàn thờ tổ tiên đặt ngay
giữa nhà.
MỤC LỤC

Điểm nổi bật thứ hai, đó là lòng quí trọng


sự sống.
Người tây vốn sống theo cá nhân chủ
nghĩa, lấy sự hưởng thụ của mình làm gốc, vì
thế con cái nhiều khi trở thành một gánh nặng,
một thứ kỳ đà cản mũi, nên cần phải loại trừ,
hay ít nữa cũng phải hạn chế, “sì tốp” bớt đi cho
vừa. Đồng thời trước viễn tượng một tương lai
đen tối, người tăng nhưng đất đai lại chẳng tăng
và như vậy một mai sẽ lấy gì mà ăn, nên người
ta đã quảng bá cho mọi thứ phương pháp tránh
thai, ngừa thai và phá thai.
Còn ta thì khác. Câu chuyện Lạc Long
Quân lấy bà Âu Cơ, sinh được một trăm trái
trứng, nở thành một trăm người con. Năm mươi
người theo cha lên núi. Năm mươi người theo
mẹ xuống biển, phải chăng đã trở thành một
huyền sử dựng nước, mang tính cách tượng
MỤC LỤC

trưng cho một nền văn hóa quí trọng và phát


triển sự sống.
Hơn thế nữa, xã hội ta vốn là một xã hội
nông nghiệp, vì thế rất cần phải đông con nhiều
cháu, để cùng nhau san sẻ những công việc
đồng áng nặng nhọc. Đúng thế, ta ước mong có
nhiều con, nhiều cháu. Ước mong ấy được biểu
lộ bằng cách chào hỏi lẫn nhau mỗi khi gặp gỡ :
- Thế nào, được mấy cháu rồi.
Và trong dịp tết, ta thường cầu chúc cho
nhau :
- Đa tử, đa tôn, đa phú quí, có nghĩa là
đông con, nhiều cháu lắm tiền nhiều của.
Riêng với những anh chị mới lập gia đình
thì :
- Đầu năm sinh con trai và cuối năm sinh
con gái!!!
MỤC LỤC

Như vậy, gia đình ta là một chiếc nôi luôn


mở rộng đón nhận sự sống. Cha mẹ nào cũng
mong sớm có con có cháu để bồng ẵm cho vui
cửa vui nhà, cũng như để nối dõi tông đường.
Sinh con là một chuyện, còn dạy con lại là
một chuyện khác. Trong việc dạy con, ta có một
quan niệm rất tinh tế và chính xác, khiến cho
bàn dân thiên hạ phải “tâm phục khẩu phục”.
Thực vậy, người tây tính tuổi từ ngày đứa
con mở mắt chào đời, còn ta thì khác, ta tính
tuổi đứa con ngay từ khi nó còn là một bào thai
trong lòng mẹ. Vì thế, tuổi ta luôn trội hơn tuổi
tây một năm.
Cũng vì quan niệm đứa con đã là người, kể
từ lúc nó còn là một bào thai, nên ta chia việc
dạy con làm hai thời kỳ.
MỤC LỤC

Thời kỳ thứ nhất được gọi là thai giáo,


nghĩa là phải dạy con ngay từ lúc còn trong bụng
mẹ. Theo Toan Ánh :
“Vấn đề thai giáo cũng rất quan trọng một
phần vì sức khỏe của người mẹ, một phần vì
mọi tư tưởng và hành động của người mẹ trong
lúc mang thai đều có thể ảnh hưởng tới bào thai
trong bụng. Chính vì vậy, trong lúc mang thai,
người đàn bà phải bó buộc làm nhiều việc xưa
nay không làm, và phải kiêng nhiều điều xưa
nay không cần kiêng. Mọi người cho rằng sự ăn
không ngồi rồi hại cho sức khỏe của người
mang thai và do đó ảnh hưởng tới cả bào thai.
Trong lúc có thai, người đàn bà nên hoạt động
tay chân, bằng việc làm. Nhiều gia đình khá giả,
xưa nay người đàn bà không phải làm lụng
nhiều, thế nhưng trong lúc có thai cũng phải bày
MỤC LỤC

đặt ra công việc để cho tay chân cử động. Việc


kiêng cữ trong lúc mang thai rất nhiều :
Đầu tiên trong sự ăn uống phải tránh
những đồ quá bổ béo, e cái thai quá lớn khó
sinh. Ngoài ra, theo sự mê tín trong dân gian,
phải kiêng không được ăn cua để tránh sinh
ngang, không được ăn ngao sò ốc hến để tránh
con nhiều dãi dớt, không được ăn thịt thỏ để
tránh sinh con sứt môi, không được ăn những
quả sinh đôi để tránh sự đẻ song thai…Thường
người đàn bà có thai nên ăn nhiều trứng gà để
sinh con có da dẻ hồng hào. Trong vấn đề thai
giáo, người đàn bà có thai còn phải tránh mọi
cảnh tượng hãi hùng hay đau đớn, mọi ngôn
ngữ thô bỉ, mọi sự giận dữ, mọi tranh ảnh bất
chính…Đồng thời còn phải nói năng dịu dàng,
cử chỉ khoan thai, luôn tươi cười giữ cho tâm
hồn ngay thẳng, nhìn ngắm tranh ảnh các vị anh
MỤC LỤC

hùng, những phong cảnh thanh khiết để gây ảnh


hưởng tốt đẹp cho đứa con sau này”.
Tuy nhiên, đời không như là mơ, nên đôi
khi đã xảy ra những chuyện chéo cẳng ngỗng.
Một người mẹ trẻ trong thời kỳ mang thai đã
mong ước con mình sinh ra sẽ đẹp như hoa
hậu, hay ít nữa cũng đẹp như những người mẫu
chân dài và sẽ thông minh như Einstein hay ít
nữa cũng thông minh như một nhà bác học nào
đó. Vì thế, chị ta luôn ngắm nhìn hình ảnh của
những cô hoa hậu và những nhà bác học. Thế
nhưng, khi được sinh ra, đứa bé lại có khuôn
mặt xấu xí của Einstein và bộ óc đần độn của
những cô người mẫu!!!
Thời kỳ thứ hai là được gọi là giáo nhi, tức
là dạy trẻ. Cũng theo Toan Ánh :
“Kể từ khi đứa trẻ bắt đầu hiểu biết, thì cha
mẹ đã phải chăm sóc tới để nó tập giữ tính
MỤC LỤC

thành. Dạy con từ thuở còn thơ, có nghĩa là


ngay từ lúc còn nhỏ, đã phải tập cho nó những
điều hay, những điều tốt. Nhân chi sơ tính bản
thiện. Mỗi người sinh ra tính vốn tốt, cha mẹ
phải răn dạy con để giữ lấy tính tốt đó. Tục ngữ
có câu bé không vin cả gẫy ngành, có ý sánh ví
đứa trẻ như một cành cây, phải uốn ngay từ lúc
còn non, kẻo khi lớn lên, như một cành cây già,
uốn sẽ gẫy”.
Thế nhưng, ngày nay, với những phương
tiện thông tin hiện đại, đồng thời với xu hướng
toàn cầu hóa, ta và tây đang xích lại gần nhau
bằng những bước chân khổng lồ. Gã không hiểu
ta đã tạo được ảnh hưởng gì đối với tây, chứ tây
thì đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên ta,
khiến ta mất dần những nét đẹp truyền thống
của mình. Gã xin đưa ra những thí dụ cụ thể :
MỤC LỤC

Chẳng hạn về lòng quí trọng sự sống. Theo


một bài viết trên Ephata thì :
Vấn đề nạo phá thai của thanh thiếu niên
tại Việt Nam đang có khuynh hướng ngày một
tăng cao, con số nạo phá thai hàng năm xấp xỉ
với tổng số các cháu bé được sanh ra trên toàn
quốc. Năm 1997, tổng số sanh trên toàn quốc là
1.138.607 ca, thì con số nạo phá thai là 934.302
ca. Năm 1998, số sanh là 1.101.791 ca, thì nạo
phá thai là 861.353 ca. Riêng bệnh viện Từ Dũ
mỗi năm có trên 40.000 ca nạo phá thai. Các
nhà xã hội học ước tính số người nạo phá thai
trong cả nước hàng năm có thể từ 2 đến 3 triệu
người. Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và xếp
nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo
phá thai cao nhất thế giới.
MỤC LỤC

Chẳng hạn về sự chung thuy trong tình


nghĩa vợ chồng. Theo một bài viết của Nữ tu
Phạm Thị Oanh thì :
Trong xã hội Việt Nam ở mọi thời đại đều
thấy cảnh : lầu xanh, đa thê, tảo hôn, bán trinh
để báo hiếu cha mẹ, loạn luân, đồng tính ái, đặc
biệt là tệ nạn mãi dâm ngày nay đang xuất hiện
dưới nhiều dạng thức: nhà hàng, cà-phê,
Karaoke, xông hơi, xoa bóp, vũ trường, chat
group trên Internet...
Ngoài ra nhiều hình thức văn hóa phẩm
đen đã khiến nhiều bạn trẻ ngộ nhận cho rằng
tình yêu chỉ là sự cuốn hút của cảm xúc, chiếm
hữu, tình dục, tiền tài, thương hại. Tình trạng
yêu sớm, yêu thử, yêu ào ào theo phong trào,
yêu như điên, yêu hết mình xẩy ra nơi học sinh
cấp 2, 3, và trong giới sinh viên ngày một tăng.
Đó phải chăng là những nhân tố làm nên một
MỤC LỤC

dòng nhạc “vô cảm” và “não tình” mà dư luận


quần chúng trên báo chí gần đây đã đề cập đến
khá nhiều:
- Tình yêu đến em không mong đợi gì.
Tình yêu đi em không hề nuối tiếc.”
Tiếp đến là nhiều cặp sống chung không
đăng ký kết hôn, không muốn có con để tránh
trách nhiệm. Nhiều gia đình được hình thành
trong một cam kết hời hợt lợi dụng lẫn nhau. Tất
cả những vấn đề đó đã dẫn đến tỉ lệ ly dị ngày
một tăng. Theo thống kê của Tòa An Nhân Dân
Thành Phố Sài-gòn năm 2000, thì mỗi ngày
trung bình có 32 vụ ly hôn, vị chi một năm là
11680 chỉ nguyên tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn tình trạng bạo hành trong gia đình
về mặt thể chất, tinh thần và tình dục cũng rất
phổ biến trong nhiều gia đình ở thành phố cũng
như ở thôn quê.
MỤC LỤC

Chẳng hạn về tình nghĩa của những thành


viên trong gia đình. Theo một bài viết trên báo
Phụ nữ Chủ nhật số ra ngày 29.6.2003 thì tại
Thành phố Hồ Chí Minh đã xảy ra một vụ án đau
lòng :
Một người mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt
con gái, người mẫu Võ Thị Thu Tâm, trước ngày
cô lên đường tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục
địa” tại Đức. Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi
sát hại con, đó là bà đã có hai mươi năm mua
bán ve chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi
bắt đầu nổi tiếng, cô đã mặc cảm về thân phận
người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và đối
xử tệ bạc.
Bài báo còn đưa ra những trường hợp điển
hình khác nữa. Chẳng hạn mấy ngày trước, một
phụ nữ ở huyện Bình Chánh trong khi cãi cọ với
chồng, đã bị chồng đạp cho vỡ lá lách phải cấp
MỤC LỤC

cứu ở bệnh viện. Tòa án tỉnh Vĩnh phú vừa


tuyên án tử hình Trần Văn Nam, do ham chơi và
đua đòi đã giết bà nội để lấy năm chỉ vàng và
bảy trăm ngàn đồng. Một đứa con trai trong
những cơn say triền miên thường hay quậy phá,
gây sự với cha mẹ già và đã ra tay giết người
cha 74 tuổi bằng bốn nhát dao.
Bài báo kết luận : Từ những vụ việc trên,
không ít ý kiến cho rằng phải chăng những giá trị
gia đình, đạo lý làm người đang bị sút giảm
nghiêm trọng ? Tuy những vụ việc trên là cá
biệt, nhưng đó là những báo động đỏ, là những
bài học cảnh tỉnh sâu sắc cho những bậc cha
mẹ, cũng như cho những người con, đánh động
và thúc đẩy xã hội hướng sự quan tâm đến vấn
đề giáo dục trong gia đình, mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái.
MỤC LỤC

Cách đây ít bữa, gã đọc được một mẩu tin


như sau : Tại Hà Nội, có người đã bỏ ra bạc tỷ
để xây dựng một viện dưỡng lão, đầy đủ tiện
nghi và được phục vụ như ở một khách sạn năm
sao. Những “đại gia” và những người giàu sang
có thể gửi cha mẹ già của mình vào đó. Tuy
nhiên, người ta còn đang phân vân chưa biết đặt
tên cho dịch vụ này là gì ? Là báo hiếu thuê, báo
hiếu mướn hay là báo hiếu thay.
Không khéo thì ta chỉ hấp thụ được những cái
xấu, những cái cặn bã của người tây, để rồi
trắng tay, mất cả chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi.
Truyền thống cũ thì chẳng còn, mà cái mới thì lại
khập khà khập khiễng. Tây chẳng ra tây, ta cũng
chẳng ra ta. Đầu annamít, đít phăngxe mà thôi!!!
MỤC LỤC

NĂM ẤT DẬU NÓI VỀ…GÀ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.


Thời giờ thấm thoát thoi đưa, mới ngày nào
chú khỉ lên ngôi, thế mà hôm nay đã phải khăn
gói quả mướp về rừng, nhường chỗ cho họ
hàng nhà gà. Thế nhưng, xem ra dòng họ gà
cũng không mấy hồ hởi phấn khởi là mấy, vì
đang còn phải ngất ngư con tàu đi với cơn đại
dịch, được bàn dân thiên hạ gọi là…dịch cúm
gà.
Thực vậy, mới chỉ cách đây mấy tháng, cơn
dịch này đã làm cho Việt Nam thiệt hại hàng
mấy chục triệu đô la, ấy là chưa kể tới hơn hai
chục mạng người bị lây nhiễm, đã tháp tùng bày
gia súc của mình mà phiêu diêu miền cực lạc.
Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng ấy, bao nhiêu gà
vịt cũng như gia cầm gia súc trong vùng mắc
dịch đều bị các ông thú y thu gom, nhét vào bao
MỤC LỤC

tải và mang đi chôn, mặc cho chủ nhân của


chúng, những gia đình nghèo túng khố rách áo
ôm, năn nỉ ỉ ôi cũng chẳng ăn thua gì.
Như một cơn sốt lên tới đỉnh cao của nó,
thì nhiệt độ bắt đầu giảm dần. Sau một thời gian
tung hoành, dịch cúm gà chìm lắng, tưởng
chừng như đã lui vào dĩ vãng. Xưa rồi Diễm ơi!
Thế mà trong những ngày gần đây, nó lại tái
xuất giang hồ, từ Thái Lan cho đến mấy tỉnh
miền Tây, chưa biết hạ hồi phân giải sẽ ra sao.
Thôi thì của Caesar trả về cho Caesar, dịch cúm
gà xin trả về cho bộ Y tế cùng với những quan
chức nhà nước. Còn bây giờ, gã xin hầu chuyện
về dòng họ gà.
Trong khi dòng họ gà đang lao đao vất
vưởng, đang xất bất xang bang vì cơn dịch cúm,
dân số giảm đi trông thấy mà chẳng cần phải kế
hoạch hóa, thì có một loại gà khác vẫn cứ liên
MỤC LỤC

tục phát triển và gia tăng không ngừng, đó là là


loại gà móng đỏ, loại gà mắt xanh mỏ đỏ. Danh
từ này được cánh nhà báo Việt Nam dùng để
gọi những cô gái điếm, kiếm ăn bằng cái vốn tự
có, cái vốn trời cho.
Theo Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức,
thì gà là một loại súc vật có lông mao và cánh,
đẻ trứng và ấp. Riêng con trống, đầu có mồng
cao, dài và đỏ, chân có cựa dài và nhọn, lông
dài và đẹp, thuộc loài hiếu chiến, gáy tiếng to
vào giữa đêm và gần sáng.
Tùy theo “giới tính”, người ta phân biệt gà
trống tức là con đực và gà mái tức là con cái.
Riêng anh gà trống nào bị người ta lấy mất khả
năng truyền giống thì được gọi là gà trống…
thiến.
Tùy theo tuổi tác người ta phân biệt gà con
là gà mới nở và còn theo mẹ, tựa như các em
MỤC LỤC

nhỏ mới mở mắt chào đời và đang còn trong lứa


tuổi “babilac”. Gà giò là gà độ bốn năm tháng
tuổi, tựa như các em thiếu nhi và thiếu niên. Gà
mái tơ là gà mái mới lớn và sắp chịu trống, còn
gà trống choai là gà trống mới lớn và chưa đạp
mái, tựa như mấy anh chị em đang chuẩn bị hôn
nhân để bước chân vào cuộc sống lứa đôi. Gà
mẹ là gà mái đang trong thời kỳ chăn con. Và
sau cùng là gà mái…già, tức là gà mái đã…quá
“đát”.
Tùy theo vóc dáng và thể hình, người ta
phân biệt gà ác, gà ri là loại gà nhỏ con, lông
trắng và da den, thường được hầm với thuốc
bắc để xơi cho…khỏe người. Gà tre là loại gà
rừng lai gà nhà, nhỏ con và hiếu chiến. Gà cồ là
loại gà trống to, được dành để làm giống. Gà
chọi là loại gà trống khỏe mạnh, ít lông, được
nuôi để chọi cho dân mê cờ bạc ăn cá độ.
MỤC LỤC

Tùy theo nguồn gốc và địa dư, người ta


phân biệt gà ta, gà tàu, gà tây, gà mỹ, gà rừng.
Tùy theo sự khoái khẩu, dân bợm nhậu có
thể chế biến thịt gà thành nhiều món tuyệt vời
như gà luộc, gà xé phay, gà chiên, gà tiềm, gà
hầm, gà rút xương, gà nướng muối, gà xối mỡ,
gà rô ti, gà cà ri…thôi thì thiên hình vạn trạng
đến quỉ thần cũng không lường nổi. Ba bộ phận
được thiên chiếu cố nhiều nhất và đứng đầu
trong “top ten”, đó là đầu, phao câu và bầu
cánh :
- Đầu gà, má lợn.
- Thứ nhất phao câu, thứ nhì bầu cánh.
Tuy nhiên, có một món xem chừng không
mấy ai ưa thích, đó là món gân gà. Thực vậy,
khi đã xơi gân gà, thì thường hay bị giắt răng.
Khi đã bị giắt răng thì lấy ra chẳng được, nuốt
vào cũng chẳng trôi.
MỤC LỤC

Chuyện rằng :
Tào Tháo đem đại quân đi tiếp viện Hạ Hầu
Uyên, bị quân Thục của Lưu Bị vây khốn. Đang
buồn bực, bỗng người hậu cần bưng bát canh
lên dâng. Tào Tháo nhìn vào thấy miếng gân gà.
Vừa đúng lúc trời tối, Hạ Hầu Đôn bước vào xin
TàoTháo ban cho mật khẩu để đi tuần tra ban
đêm. Tào Tháo buột miệng nói hai tiếng :
- Gân gà, gân gà.
Hạ Hầu Đôn liền lui ra khỏi trướng, truyền
cho binh sĩ mật khẩu đêm nay là :
- Gân gà.
Bấy giờ, Dương Tu đang làm chức Hành
quân chủ bạ, nghe Hạ Hầu Đôn truyền mật khẩu
như vậy, liền bảo binh sĩ chuẩn bị lui quân. Hạ
Hầu Đôn lấy làm lạ, bèn hỏi duyên cớ. Dương
Tu đáp :
MỤC LỤC

- Chúa công đã cho mật khẩu là gân gà, ta


cứ suy ra thì biết. Vả chăng gân gà không có thịt
mà lại dai. Không có mùi vị, nhưng bỏ đi thì lại
tiếc. Hiện nay quân ta thua mấy trận lớn, muốn
tiến lên không được, rút về thì sợ quân Thục
cười cho. Ngụy Vương còn đang lưỡng lự,
nhưng tôi biết nội trong nay mai, thế nào cũng
có lệnh ban sư. Vậy ta sửa soạn đi là vừa.
Tào Tháo có lòng oán hận Dương Tu, đang
đêm đi tuần tiễu, biết được Dương Tu ra lệnh
chuẩn bị rút quân, liền truyền trói Dương Tu lại
và đem ra chém đầu vì tội phá rối quân ngũ, làm
loạn ba quân. Nhưng sau quả nhiên Tào Tháo
thấy ở lâu ngày không tiện, liền lui quân về Hứa
Đô. Bấy giờ mới phục Dương Tu đã dùng mật
khẩu gân gà mà biết trước mọi việc. Thế nhưng,
hiểu được như vậy thì đã qúa muộn. (Thành
MỤC LỤC

ngữ diễn tích danh nhân từ điển của Trịnh Văn


Thanh, trang 341).
Gà là một con vật được nuôi trong nhà, nên
rất thân thương và gần gũi với con người. Vì
thế, tục ngữ ca dao nói rất nhiều về gà, thận chí
nhiều lúc hình ảnh của nó còn được sử dụng để
ám chỉ con người.
Thực vậy, “Lục súc tranh công”, câu chuyện
về sáu con vật được nuôi trong nhà, gồm bò,
ngựa, dê, chó lợn và gà, thi nhau báo cáo thành
tích của mình trước đại hội đảng. Tác giả đã
dựa vào “Hàn thi ngoại truyện” mà đưa ra năm
nhân đức của anh gà trống. Năm nhân đức ấy
như sau :
Thứ nhất, có ăn thì gọi nhau lại, đó là nhân.
Thứ hai, có chí phấn đấu hăng hái, đó là
dũng.
Thứ ba, đêm gáy đúng giờ, đó là tín.
MỤC LỤC

Thứ tư, chân có cựa, đó là võ.


Thứ năm, đầu có mào, đó là văn. (Hán Việt
tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, trang 299).
Như vậy, nơi anh gà trống có đủ nhân dũng
tín võ văn, năm nhân đức này xem ra nơi con
người ngày càng bị hiếm.
Về những thói hư tật xấu của dòng họ gà,
người xưa đã đúc kết thành những câu tục ngữ,
như kinh nghiệm sống ngàn đời cho con người.
Gã chỉ xin đưa ra hai thói hư tật xấu mà thôi.
Thói hư tật xấu thứ nhất, đó là :
- Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm.
Với loài chim loài gà, con đực thường làm
duyên với con cái bằng cách khoe mẽ : Giang
cánh, xòe đuôi, múa may, nhảy nhót . Anh gà
trống khi muốn “gạ gẫm” chị gà mái, thường làm
điệu làm bộ : Chạy vòng quanh, xệ cánh, xòe
MỤC LỤC

đuôi có hình chiếc quạt hay giống như cái đuôi


con tôm :
- Lưng tôm tít,
Đít tôm càng,
Chân đi lắt lẻo hai hàng,
Được như lời ấy, lạng vàng cũng mua.
Cũng có người lại cho rằng : Vắng chủ nhà
gà vọc niêu tôm. Có nghĩa là khi chủ nhà đi
vắng, thì chú gà tha hồ thọc đầu vào niêu tôm
mà ăn vụng.
Thói hư tật xấu này muốn nói lên rằng :
Vắng người trên, thì kẻ dưới thường hay làm
bậy, làm bộ, làm phách, làm tàng và lên mặt ta
đây với mọi người. (Về cội nguồn của Lê Gia,
trang 352).
Thói hư tật xấu thứ hai, đó là :
- Gà què ăn quẩn cối xay.
MỤC LỤC

Một con gà bị què không thể đi kiếm ăn xa,


chỉ quanh quẩn bên cối xay để được hưởng
những hạt rơi hạt vãi. Thói hư tật xấu này có ý
nói rằng : kẻ bất tài, không thể kiếm được tiền
của thiên hạ, bèn quay về bòn rút, kiếm chác
những người thân yêu của mình.
Cũng trong chiều hướng ấy, người xưa còn
bảo :
- Gà cùng chuồng bôi mặt đá nhau.
Thực vậy, nhìn đàn gà con ríu rít chung
quanh gà mẹ, ai mà chẳng cảm thấy ngập tràn
yêu thương. Thế nhưng, hình ảnh đẹp đẽ này có
khi chẳng kéo dài được bao lâu, bởi vì mấy chú
gà con, hoặc vì tranh ăn, hoặc vì ghen tức đã
xúm vào đá nhau chí chóe, thậm chí đến cả
phun máu đầu. Vì thế, người xưa mới phải lên
tiếng khuyên can :
- Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
MỤC LỤC

Gà cùng một mẹ, chớ hoài đá nhau.


Kinh nghiệm này cũng giống như câu
chuyện về ba chú rận con.
Ngày xưa, có ba chú rận con, vì tranh nhau
hút máu một con lợn, nên đã phải vác đơn ra ba
tòa quan lớn để xin xét xử. Đang lúc đi đường,
ba chú rận con gặp một cụ rận già. Cụ hỏi :
- Ba cháu kiện nhau vì việc gì thế ?
Ba chú rận con đồng thanh đáp :
- Chúng cháu kiện nhau vì tranh giành một
thửa đất màu mỡ.
Cụ rận già bèn ôn tồn nói :
- Tôi tưởng các cháu không nên tranh giành
kiện tụng nhau làm chi. Chỉ nên lo con dao của
tên đồ tể giết lợn và gáo nước sôi mà hắn đổ
xuống để cạo lông con lợn mà thôi.
Ba chú rận con bèn “ngộ” ra, biết là mình
dại, kéo nhau về và cộng tác với nhau để làm
MỤC LỤC

ăn, no đói không bỏ nhau. Phần con lợn ngày


càng gầy, chủ không dám bán thịt, cứ để vậy mà
nuôi. Ba chú rận con nhờ đó mà được no đủ
mãi.
Từ đó, chúng ta thấy : anh em một nhà,
người cùng một đoàn thể hay dân cùng một
nước không được vì cái lợi trước mắt mà giành
giật nhau, để rồi quên mất cái hại sau lưng, hay
vì chút hư danh mà xâu xé, chém giết lẫn nhau,
chẳng kể gì đến tương lai về lâu về dài. Trái lại,
phải biết yêu thương đùm bọc lấy nhau :
- Lá lành đùm lá rách.
- Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau
cùng.
Như đàn gà con chỉ nên trêu chọc nhau
chút ít cho chóng lớn và vui cửa vui nhà mà
thôi :
MỤC LỤC

- Khôn ngoan đối đáp người trong,


Gà cùng một mẹ chỉ tròng nhau chơi.
Sau khi đã phác họa mấy nét chung chung
về dòng họ nhà gà, bây giờ gã xin đi sâu hơn
một tí về anh gà trống và chị gà mái.
Trước hết là anh gà trống.
Một trong những đặc điểm của anh gà trống
là tiếng gáy. Đối với con người, tiếng gáy của
anh gà trống có thể đem lại nhiều lợi ích. Ngày
xưa khi “văn minh đồng hồ” chưa được phổ
biến, người ta xác định giờ giấc ban ngày bằng
ánh nắng mặt trời, và ban đêm bằng tiếng gáy
của anh gà trống.
Tiếng gáy của anh gà trống là như lời mời
gọi mọi người hãy chỗi dậy để bắt tay vào công
việc lao động.
MỤC LỤC

Đây là lời của một bà hiền phi khuyên nhà


vua đăng triều cho sớm, để các quan khỏi phải
đợi chờ :
- Kê minh hỹ, kiều ký doanh hỹ. Có nghĩa là
gà đã gáy, triều đình đã đông người.
Đây cũng là lời của người vợ hiền thúc giục
chồng mình thức dậy để chú tâm vào công việc
đèn sách :
- Nửa đêm gà gáy o o,
Thôi anh đừng ngủ, còn lo học hành.
Có một câu chuyện mà vì lâu ngày, gã đã
quên mất tên những nhân vật chính, chỉ còn nhớ
mang máng như sau :
Một vị tướng nọ muốn trốn khỏi thành. Thế
nhưng, ban đêm cửa thành khóa chặt, tới gần
sáng mới được mở. Và thế là một thuộc hạ của
vị tướng này có biệt tài nhái tiếng gà bèn dài cổ
ra mà gáy. Viên quan canh cổng nghe tiếng nhái
MỤC LỤC

gà gáy, cứ tưởng là trời sắp sáng, vội vã đi mở


cổng và viên tướng thoát thân một cách êm ru
bà rù.
Như trên gã vừa nói đối với con người,
tiếng gà gáy có thể mang lại nhiều lợi ích, thế
nhưng đối với những anh gà trống khác, tiếng
gáy ấy lại là một lời thách thức rất đáng ghét và
thế nào chúng cũng tìm cách trả đũa.
Khi một con đã gáy, thì những con khác
cũng cất tiếng gáy theo. Hai bên cùng cố gáy
cho to, cho dài. Vì thế : gà thường tức nhau vì
tiếng gáy, để rồi cuối cùng sẽ chết vì tiếng gáy
của mình.
Điều đó muốn nói lên rằng : Những lời
khoe khoang phách lối thường làm cho người ta
ghét mình, và rồi chính những lời khoe khoang
phách lối ấy sẽ đem lại hậu quả tai hại cho bản
thân.
MỤC LỤC

Chẳng hạn ngồi vào bàn tiệc, một anh nào


đó vỗ ngực tự xưng mình là bậc…hoàng đế hay
đế vương, có nghĩa là vua rượu đế. Uống rượu
như uống nước. Và thế là bàn dân thiên hạ đều
xúm vào mời anh ta hết ly này tới ly khác. Cuối
cùng anh ta bèn gục chết tại trận. Thấy thế, mọi
người bèn chép miệng :
- Cho bõ ghét.
Đúng là anh ta chết vì cái mồm huênh
hoang của mình.
Tuy nhiên, nơi anh gà trống có một sự
ngược đời đáng suy nghĩ. Như trên chúng ta đã
phác họa về anh gà trống : đầu có mồng cao và
đỏ, lông dài và đẹp. Nhìn vào, chúng ta thấy anh
gà trống bắt mắt hơn chị gà mái bội phần.
Cũng vì thế, trong tiếng Pháp, người ta
dùng từ “coquetterie”, để chỉ tính ưa làm dáng,
làm đỏm. Từ này có nguồn gốc bởi chữ “coq” có
MỤC LỤC

nghĩa là anh gà trống. Như thế, anh gà trống


phải thuộc về phái đẹp. Hay nói cách khác, theo
nhãn quan dòng họ gà, thì phái đẹp phải là phái
nam.
Thế nhưng, sự đổi đời bất đắc dĩ này cũng
đã kéo theo những hệ lụy phức tạp của nó.
Hệ lụy thứ nhất đó là cảnh gà trống nuôi
con.
Chị gà mái vì cơn dịch cúm đã phải an nghỉ
nơi chín suối, để lại bầy con cho anh gà trống.
Giờ đây nhìn cảnh anh gà trống dẫn đàn con ra
ngoài vườn, bới đất tìm miếng ăn, ai mà lại
chẳng ngậm ngùi cảm động rơi cả nước mắt.
Cũng thế, chị vợ chẳng may chết sớm,
nhiều anh chồng lâm vào cảnh gà trống nuôi
con. Đến khổ. Nào là phải bươn chải tìm chén
cơm manh áo đem về nuôi xấp nhỏ. Nào là phải
lo toan đủ mọi chuyện lỉnh kỉnh, từ tề gia cho
MỤC LỤC

đến nội trợ, toát cả mồ hôi hột mà cũng chẳng


xong.
Thế nhưng, có những anh chồng, chị vợ
vẫn còn sống sờ sờ trước mặt, thế mà cũng vẫn
phải anh dũng sống cảnh gà trống nuôi con.
Sát vách nhà tôi có một chi vợ mơ làm ca
sĩ. Anh chồng vì nể và thương, nên cũng đã
đồng ý để chị vợ làm theo mơ ước của mình.
Bước thứ nhất chị vợ thực hiện, đó là chạy
ngay ra chợ mua sắm áo quần cùng mọi thứ phụ
tùng lỉnh kỉnh của đờn bà con gái, từ chiếc áo
dài quần trắng cho đến cái váy lấp la lấp lửng, từ
thỏi son bôi môi cho đến đôi giày cao gót “nâng
niu bàn chân Việt”. Tính tổng cộng cũng hết một
món kha khá, khiến cho anh chồng tê tái cả mặt
mày.
Bước thứ hai chị vợ thực hiện, đó là nhờ bè
bạn thân quen, chị vợ được một số tụ điểm văn
MỤC LỤC

nghệ quần chúng nhận vào chương trình “hát


với nhau” hay “hát cho nhau nghe” chi đó. Vì
giọng ca mới chỉ là bậc gần “sao”, chứ chưa
phải là bậc sao chính hiệu con nai vàng, nên chị
vợ phải chạy xô, mỗi tối hát vài ba nơi. Do đó,
ngay từ ban chiều, chị vợ đã phải ngồi vào bàn
trang điểm, bôi chỗ này, tô chỗ kia, rồi phóng xe
đi mất tiêu. Anh chồng bế con tựa cửa nhìn
theo, mà suýt nữa nước mắt rơi xuống đồm độp.
Ban tối, gã nghe anh chồng hát ru đưa con
vào giấc ngủ, sao mà não nùng và bi đát thế :
- Ầu ơ!
Đêm qua tát nước đầu đình.
Để quên cái nón trên cành hoa sen.
Ầu ơ! Ầu ơ!
Thế nhưng con bé nhất định không chịu
ngủ, nó cứ hỏi :
- Mẹ đâu rồi ? Mẹ đâu rồi ?
MỤC LỤC

Rồi sau đó lại òa lên khóc. Anh chồng bế


con bé chạy tới chạy lui, chạy từ trong nhà, chạy
ra ngoài ngõ. Thế mà con bé khóc vẫn hoàn
khóc, khóc cho tới khi mỏi miệng, khô cả nước
mắt và thiếp ngủ lúc nào cũng chẳng biết. Lúc
đó anh chồng mới được giải thoát, thở phào nhẹ
nhõm.
Bước thứ ba chị vợ thực hiện, đó là ngủ bù.
Đêm đã thức khuya, thì ngày phải ngủ bù. Về tới
nhà, chị vợ lăn quay ra ngủ, thậm chí còn nướng
khê nướng khét, nướng tới chín mười giờ sáng
mà vẫn chưa buồn dậy. Thành thử anh chồng lại
phải lo toan mọi việc : giặt giũ áo quần, quét nhà
quét cửa, tắm rửa cho con, lon ton đi chợ…
Chính anh chồng đã tâm sự với gã :
- Quả là tốn kém, nặng nề và mệt mỏi cho
cái giấc mơ làm ca sĩ. Có vợ ca sĩ còn tệ hơn
là…không có!
MỤC LỤC

Như thế là gã đã bắt đầu bàn về chị gà mái


rồi đó. Nhân vì sự anh gà trống trở thành phái
đẹp, mà nhiều chuyện tréo cẳng ngỗng bỗng xảy
ra, làm đảo lộn cái trật tự xã hội.
Và đây hệ lụy thứ hai đó là gà mái đá gà
cồ.
Thửa vườn sau nhà vốn được dùng để thả
gà thả vịt, gã thấy dòng họ gà sống thật bình an
hạnh phúc : đàn gà con ríu rít chung quanh gà
mẹ. Anh gà trống ga lăng ve vãn chị gà mái.
Nhưng rồi thỉnh thoảng cũng thấy một chị gà mái
đuổi anh gà trống. Anh gà trống cắm đầu cắm cổ
chạy te tua, chẳng còn hơi sức đâu mà gáy ò ó
o.
Trong cuộc sống cũng thế. Khi nói về nạn
khủng bố, trên bình diện quốc tế, người ta nghĩ
ngay đến những vụ đánh bom, những vụ bắt cóc
của phe Hồi giáo quá khích. Còn trong phạm vi
MỤC LỤC

gia đình, người ta nghĩ ngay đến những vụ bạo


hành, đánh đập của anh chồng đối với chị vợ.
Tuy nhiên, thực tế đôi lúc không phải là như
vậy, bởi vì chị vợ cũng có thể khủng bố anh
chồng. Khủng bố bằng lời nói : nói dài nói dẻo
nói dai làm cho đầu óc anh chồng lúc nào cũng
bị căng thẳng. Khủng bố bằng hành động :
thượng cẳng chân hạ cẳng tay, ăn thua đủ với
chồng. Và nhất là khủng bố bằng chính sách bất
bạo động : không cười, không nói, không làm,
không hợp tác, sẵn sàng khăn gói quả mướp về
với bu bất cứ lúc nào. Tới nước này thì liệu anh
chồng có thể chịu đựng nổi sự lạnh lùng của chị
vợ hay không ?
Cho đến bây giờ, gã vẫn chẳng hiểu tại sao
gà mái lại bị coi là dấu chỉ của những sự xui xẻo
và kém may mắn. Quan niệm này có lẽ xuất
phát từ điển xưa tích cũ.
MỤC LỤC

Thực vậy, ngày xưa thiên hạ coi việc người


đờn bà nắm chính quyền là một điều lạ lùng,
chẳng khác gì gà mái gáy. Đời nhà Hán có Lữ
Hậu, đời nhà Đường có Võ Hậu cả hai người
đàn bà này, khi nắm được quyền hành trong tay,
đã làm cho nước Tàu phải một phen thất điên
bát đảo, ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Vì thế,
thiên hạ mới nói :
- Ghê thay gà mái gáy càn,
Non sông nghiêng ngửa, giang san đổi đời.
Có lẽ cũng vì thế thiên hạ đã đồng hóa gà
mái với tai ương hoạn nạn, khi nói :
- Gà mái gáy gở, có nghĩa là báo điềm
chẳng lành.
- Gà bới thì khó, chó bới thì giàu. Đây là
cách coi bói theo chỉ tay. Nếu những vết chỉ trên
bàn tay mà nhiều, nhưng nhỏ, cạn và rối tung
như những vết gà bới thì là số nghèo. Còn nếu
MỤC LỤC

những vết chỉ ấy mà ít, nhưng lớn, sâu và rõ


như những vết chó bới thì là số giàu. (Về cội
nguồn 2 của Lê Gia, trang 348).
Còn rất nhiều vấn đề phải đá động tới dòng
họ gà, chẳng hạn như :
Tại sao gà đẻ gà cục tác, bác đẻ bác la
làng ?
Tại sao tiếng cục ta cục tác của gà mái đẻ,
lại bị phiên âm thành vừa đau vừa rát ?
Tại sao gà khôn lại giấu đầu và chim khôn
lại dấu mỏ ?
Tại sao người ta lại bảo “kê khẩu ngưu
hậu” có nghĩa là thà làm mỏ con gà chứ chẳng
chịu làm đít con trâu ?
Và còn nhiều tại sao khác nữa.
Để kết thúc, gã xin đưa ra hai sự kiện nho
nhỏ, để ngày xuân năm mới được vui vẻ cả
làng.
MỤC LỤC

Sự kiện thứ nhất, đó là việc con gà mái đẻ


trứng vàng.
Bác nông phu nọ có một con gà mái và mỗi
ngày nó đẻ cho bác một quả trứng vàng. Bác rất
mừng và nghĩ rằng trong bụng nó có một kho
vàng to lắm, nên vội vã làm thịt. Thế nhưng, khi
mổ con gà mái ra, thì nó cũng chỉ như mọi con
gà khác, bên trong chẳng có tí vàng bạc nào cả.
Câu chuyện này muốn nói rằng : đứng
trước mối lợi từ từ nhưng vô tận, như cá dưới
biển hay như cây trên rừng, chúng ta đừng vì
tham lam mà vơ vét về một lần.
Sự kiện thứ hai, đó là tiếng gà gáy giữa
đêm khuya.
Thực vậy, sau khi Phêrô chối Chúa ba lần
trong sân nhà Thầy cả Thượng phẩm, thì gà liền
gáy, đúng như lời Chúa đã tiên báo. Chính nhờ
tiếng gà gáy này, Phêrô đã thức tỉnh, đã sám hối
MỤC LỤC

ăn năn và đã xứng đáng được Chúa đặt làm đầu


Giáo hội.
Còn chúng ta, có bao giờ chúng ta đã lắng
nghe tiếng gà gáy âm thầm, vọng lên từ thẳm
sâu cõi lòng, đánh thức lương tâm chúng ta
hay chưa ?
MỤC LỤC

CHUYỆN GÀ NĂM DẬU

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Năm Ất Dậu cầm tinh con gà, vì thế mẩu


phiếm luận hôm nay gã xin được xoay quanh
chuyện con gà. Đó là một việc làm thật phải đạo
và chẳng có gì là quá đáng.
Không hiểu bên Ăng Lê thì thế nào, chứ
còn ở Việt Nam ấy hả, do dịch cúm đã đang và
sẽ còn tung hoành trong giới gia cầm gia súc,
thành thử dân số loài gà mỗi ngày một giảm sút
và những món đặc sản từ gà mỗi ngày một trở
nên khan hiếm.
Khan hiếm phần vì không còn thịt để mà
chế biến, phần vì bàn dân thiên hạ sợ chết
không dám ăn. Có nơi người ta đã tính đến việc
xóa tên gà trong sổ thực đơn. Chẳng hạn như
món phở. Phở bò thì sợ bệnh bò điên. Phở gà
MỤC LỤC

thì sợ bệnh gà cúm. Thành thử vạn bất đắc dĩ


phải cho ra lò và trình làng món phở vịt, phở
ngan…Và được gọi là món phở của những con
tương cận.
Chẳng cần phải nói thì ai trong chúng ta
cũng đã biết gà là một con vật rất gần gũi, rất
quen thuộc và cũng rất thân thương với con
người.
Ở miền quê, hầu như nhà nào cũng nuôi
một bầy gà để có thịt mà xơi vào những dịp tết
nhất và những ngày lễ lớn, hay mỗi khi bèn bạn
và khách khứa đột xuất tới chơi.
Tuy nhiên ở thành phố thì khác. Tấc đất tấc
vàng, nhất là vào thời buổi hiện nay, giá cả nhà
đất tăng lên vùn vụt đến tối tăm cả mặt mũi.
Kiếm được một chỗ cắm dùi cho gia đình đã là
điều khó khăn, trầy da tróc vẩy, thì đất cát đâu
mà nuôi gà nuôi vịt. Thậm chí có những người
MỤC LỤC

chỉ thấy được gà vịt ngoài chợ, trong sở thú hay


qua phim ảnh mà thôi.
Mấy anh bạn Việt kiều về thăm quê hương,
ghé vô vùng khỉ ho cò gáy nơi gã đang cư ngụ.
Ban đêm nghe tiếng động, họ vội vã chỗi dậy và
hỏi :
- Tiếng gì thế ?
Gã bèn trả lời :
- Tiếng chó sủa ấy mà.
Ban sáng nghe tiếng động, họ cũng hối hả
ngồi lên và hỏi :
- Tiếng gì thế ?
Gã vừa trả lời, vừa che miệng ngáp :
- Tiếng gà gáy ấy mà.
Và rồi họ liền thanh minh thanh nga :
- Đã lâu lắm rồi mình không được nghe
tiếng chó sủa ban đêm và tiếng gà gáy ban
sáng.
MỤC LỤC

Nghe xong câu trả lời này, vì trằn trọc


không thể ngủ tiếp, gã bèn vắt tay lên trán mà
suy gẫm, để rồi ngộ ra rằng : cuộc sống văn
minh và nhất là cuộc sống tại thành phố đã
cướp đi biết bao nhiêu cái đẹp trong thiên nhiên,
chẳng hạn như ánh trăng.
Đúng thế, phải ở nông thôn thì mới thưởng
thức được vẻ đẹp tuyệt vời của ánh trăng :
- Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Chứ còn ở thành phố thì chỉ thấy ánh nê
ông trắng bệch hay vàng khè từ hệ thống đèn
đường hắt xuống mà thôi.
Có rất nhiều chuyện lỉnh kỉnh để viết về gà,
nhưng trong phạm vi của một bài báo, gã chỉ xin
đề cập tới hai chuyện mà thôi.
Chuyện thứ nhất đó là tình thương của
chị gà mái.
MỤC LỤC

Hẳn rằng đã có lần chúng ta nhìn thấy một


chị gà mẹ dẫn đàn con của mình đi kiếm ăn. Chị
ta bới đất tìm mồi và khi tìm thấy được, chị ta
bèn gọi đàn con đến và nhường mồi cho đàn
con. Ban đêm chị ta ấp ủ đàn con dưới đôi cánh
của mình, để đàn con khỏi bị lạnh cóng. Và nhất
là khi diều hâu xuất hiện, chị ta không ngần ngại
nhảy bổ lên để chiến đấu hầu bảo vệ cho đàn
con.
Hình ảnh này khiến gã nhớ tới một câu thơ
của Nguyễn Du trong truyện Kiều :
- Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Hai chữ “đoạn trường” có nghĩa là đứt ruột,
ám chỉ một sự việc thảm thương đến tột độ,
khiến thiên hạ nghe qua, bèn cảm thấy như đứt
ruột và nát gan.
MỤC LỤC

Hai chữ này xuất phát từ một câu chuyện


trong sách “Sưu Thần Hậu Ký”. Câu chuyện ấy
đại khái như sau :
Có một người thợ săn bắt được một con
khỉ con, đem về làm thịt. Khỉ mẹ trông thấy cứ ở
trên cây kêu la thảm thiết mãi, rồi buông tay té
xuống đất mà chết. Đến khi mổ bụng ra, người
thợ săn trông thấy ruột của con khỉ mẹ đã đứt ra
từng khúc.
Hình ảnh gà mẹ cũng như hình ảnh khỉ mẹ
làm cho gã liên tưởng đến tình mẩu tử nơi con
người.
Thực vậy, mỗi khi nghĩ tới người mẹ, hay
mỗi khi nói tới người mẹ, ai trong chúng ta cũng
cảm thấy một cái gì dịu ngọt và đầm ấm. Sở dĩ
như vậy, vì người mẹ đã chấp nhận biết bao
nhiêu hy sinh và gian khổ cho những đứa con
của mình.
MỤC LỤC

Người ta kể lại rằng trong nạn đói vào năm


Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc, có một bà mẹ đã
cắn đứt ngón tay của mình để đứa con được bú
những giọt máu cuối cùng thay cho dòng sữa đã
cạn kiệt với hy vọng đứa con sẽ được cứu khỏi
cái chết. Hẳn rằng trong giây phút ấy, bà chỉ có
một ý nghĩ duy nhất, đó là phải làm tất cả mọi sự
miễn sao đứa con được sống.
Thế nhưng, ngày hôm nay tình mẫu tử ấy
xem ra như có vẻ đang bắt đầu nguội dần và
không còn đậm đà như xưa.
Cách đây không lâu, tại Saigon người ta đã
xôn xao bàn tán về một sự việc thật thương
tâm :
Theo một bài viết trên báo Phụ nữ Chủ nhật
số ra ngày 29.6.2003, thì tại Thành phố Hồ Chí
Minh đã xảy ra một vụ án đau lòng : một người
mẹ nhẫn tâm đổ dầu sôi vào mặt con gái, người
MỤC LỤC

mẫu Võ Thị Thu Tâm, trước ngày cô lên đường


tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa” tại Đức.
Lý do người mẹ ấy đưa ra sau khi sát hại
con, đó là bà đã có hai mươi năm mua bán ve
chai, vất vả nuôi con khôn lớn, để rồi khi bắt đầu
nổi tiếng, cô đã mang mặc cảm về thân phận
người mẹ, lẩn tránh sự kiểm soát của bà và đối
xử tệ bạc với bà.
Sự việc này đã làm cho gã phải cau mặt
suy nghĩ :
- Lỗi bởi ai ? Bởi người mẹ hay bởi người
con ?
Hầu như mọi người đều đồng ý cho rằng :
- Lỗi bởi cả hai, người mẹ cũng như người
con. Lỗi của người con vì đã cư xử tệ bạc với
người mẹ. Còn lỗi của người mẹ vì đã hành
động độc ác với người con.
MỤC LỤC

Câu chuyện thương tâm trên chỉ là một


trường hợp cá biệt mà thôi. Tuy nhiên còn một
sự việc khác, mà thiên hạ lại cứ lờ tít, lại cứ phớt
tỉnh Ăng lê, lại cứ coi như “nơ pa”, chẳng hề tiếc
xót, chẳng hề hối hận. Thậm chí lại còn cho là
hợp tình hợp lý và xứng đáng lãnh nhận bằng
khen vì đã tích cực thực thi chính sách và
đường lối của Nhà Nước . Đó là tình trạng nạo
thai, phá thai vốn đã xảy ra hằng ngày như cơm
bữa.
Thực vậy, theo một bài viết trên Ephata thì :
Vấn đề nạo phá thai của thanh thiếu niên tại Việt
Nam đang có khuynh hướng ngày một tăng cao.
Tăng cao đến đáng sợ. Con số nạo phá thai
hàng năm xấp xỉ với tổng số cháu bé được sanh
ra trên toàn quốc. Năm 1997, tổng số sanh trên
toàn quốc là 1.138.607 ca, thì con số nạo phá
MỤC LỤC

thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sanh là


1.101.791 ca, thì nạo phá thai là 861.353 ca.
Riêng bệnh viện Từ Dũ mỗi năm có trên
40.000 ca nạo phá thai. Các nhà xã hội học ước
tính số người nạo phá thai trong cả nước hàng
năm có thể từ 2 đến 3 triệu người.
Liên Hiệp Quốc cũng đã báo động và xếp
nước ta vào một trong năm nước có tỷ lệ nạo
phá thai lớn nhất thế giới.
Như vậy, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa
thực dụng và hưởng thụ, người ta chỉ yêu
thương con cái khi con cái là một phương tiện
cần thiết để thỏa mãn những nhu cầu của mình,
chẳng hạn nhu cầu tình cảm hay bất cứ một nhu
cầu nào khác.
Còn khi con cái trở nên một thứ “kỳ đà cản
mũi” cho những hưởng thụ, và nhất là khi con
cái trở nên một gánh nặng, một sự đầu tư phi lợi
MỤC LỤC

nhuận, chỉ có đầu ra mà không có đầu vào…thì


người ta sẵn sàng bỏ đi cái một không chút tiếc
thương.
Lâu nay gã đã từng nghe nói tại một vài
giáo xứ chẳng hạn như ở ngoài Huế, người ta
đã thành lập những nghĩa trang, được tạm gọi là
những nghĩa trang “Anh Hài” để chôn cất những
bào thai bị phế bỏ hay những thai nhi bị quẳng
đi. Làm như vậy, thì ít nữa là còn một chút gì để
nhớ và để thương!!!
Chuyện thứ hai đó là tiếng gáy của anh
gà trống.
Nếu bản tính của chị gà mái là yêu thương
đàn con, thì bản tính của anh gà trống là gáy.
Anh gà trống mà không gáy thì chỉ còn nước bỏ
vào nồi mà thôi.
Các cụ ta ngày xưa đã chia đêm thành năm
canh và ngày thành sáu khắc. Vì không có đồng
MỤC LỤC

hồ, nên các cụ ta tính canh tính khắc, tính giờ


tính giấc bằng cách dựa vào những hiện tượng
trong thiên nhiên.
Ban ngày thì dựa vào mặt trời : giờ ngọ là
lúc mặt trời nằm ở ngay chóc trên đỉnh đầu. Còn
ban đêm thì dựa vào mặt trăng, chẳng hạn ngày
hai mươi mốt âm lịch là ngày trăng mọc vào
giữa đêm :
- Hai mươi giấc tốt,
Hai mươi mốt nửa đêm.
Ngoài ra, ban đêm còn được dựa vào tiếng
gà gáy. Thực vậy, tiếng gà gáy cũng giống như
tiếng đồng hồ đổ, báo hiệu một ngày mới đang
đến, kéo chúng ta ra khỏi giấc ngủ đêm dài và
đánh thức chúng ta mau mắn chỗi dậy để bắt
đầu những công việc bổn phận của mình :
- Nửa đêm gà gáy o o,
Thôi anh đừng ngủ, còn lo học hành.
MỤC LỤC

Thế nhưng, mấy anh gà trống lại hay méo


mó nghề nghiệp, bẻ cong mục đích tốt đẹp của
tiếng gáy. Thay vì dùng tiếng gáy như phương
tiện để đánh thức bàn dân thiên hạ, thì lại dùng
tiếng gáy như phương tiện để khoe khoang và
phách lối.
Nửa đêm, giờ tí, canh ba, một anh gà trống
ngủ mê cất tiếng gáy ó ó o, thì lập tức những
anh gà trống khác cũng cất tiếng gáy theo. Tất
cả cùng dương cổ ra mà gáy cho thật to, cho
thật dài.
Thành thử người xưa mới bảo : con gà tức
nhau vì tiếng gáy để rồi cùng chết vì tiếng gáy là
như thế đó. Điều đó muốn nói lên rằng :
- Những lời khoe khoang, phách lối thường
làm cho người ta ghét và rồi chính những lời
khoe khoang phách lối ấy sẽ đem lại hậu quả tai
hại cho bản thân mình.
MỤC LỤC

Từ cái tật con gà tức nhau vì tiếng gáy, gã


quay sang cánh đờn ông con giai và nhận thấy
rằng một trong những chứng bệnh mà cánh đờn
ông con giai thường hay mắc phải, đó là chứng
bệnh sĩ hay còn được gọi là chứng bệnh nổ.
Theo sự chuẩn đoán của những bác sĩ
không chuyên, thì hai hiện tượng này có một liên
hệ mật thiết với nhau và cùng có một nguyên
nhân, đó là sự kiêu căng.
Thực vậy, trong xã hội ngày xưa kẻ sĩ là
người đã học sách thánh hiền, hiểu rộng biết
nhiều, tương tự như giới trí thức hôm nay, vì vậy
thường được bàn dân thiên hạ kính nể. Chẳng
thế mà Nguyễn Công Trứ đã viết :
- Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
Có nghĩa là :
MỤC LỤC

- Nơi triều đình có năm danh vị cao quí


được nhà vua phong, đó là công, hầu, bá, tử,
nam thì sĩ đã được liệt kê vào đó. Trong dân
gian có bốn hạng, đó là sĩ, nông, công, thương
thì sĩ đã chiếm ngay hàng đầu.
Vì được bàn dân thiên hạ kính nể, nên mới
xuất phát ra cái danh từ sĩ diện, tức là cái thể
diện, cái bộ mặt của con nhà có học, để rồi
mang một nghĩa bóng, một ám chỉ là cái danh
dự của mình.
Thế nhưng, khi nói tới chứng bệnh sĩ,
người ta hiểu rằng đó là thái độ vênh mặt lên,
nhìn đời bằng nửa con mắt, cố giữ lấy cái thể
diện hão, cái danh dự ảo, không có thực của
mình.
Chẳng hạn một anh chồng tự cho mình là
người có uy quyền trong gia đình, nên đã tỏ ra
phách lối, đánh vợ chửi con để thiên hạ nhìn vào
MỤC LỤC

thấy mình oai như cóc chết, chứ chẳng phải là


kẻ “vuốt râu nịnh vợ con bu nó.”
Cũng vì muốn bảo vệ cái thể diện hão và
cái danh dự ảo của mình, nên cần phải nổ, nổ
càng lớn càng tốt, theo kiểu thùng rỗng kêu to
cho bàn dân thiên hạ biết mặt biết tên mà khẩu
phục tâm phục sát đất.
Chẳng hạn mấy anh Việt kiều khi về nước
tha hồ tô vẽ về một xã hội phương tây, tha hồ
huênh hoang về nghề nghiệp của mình, dù chỉ là
một anh rửa chén rửa bát trong nhà hàng, hay
làm nghề xén cỏ công viên, thì vẫn nghiễm
nhiên trở thành một ông giám đốc, một ông chủ
tầm cỡ, rồi tung vãi những đồng đô la đi vay của
ngân hàng, cốt để bà con họ hàng phải kiêng nể,
cho dù sau đó là những ngày tháng kéo cày trả
nợ.
MỤC LỤC

Ấy là chưa nói tới những anh Việt kiều khi


về nước, vì đã mang sẵn những ý đồ đen tối,
nên đã nổ một cách tưng bừng hoa lá, đã nổ
một cách vô tội vạ, cốt để lừa cả tình, gạt cả lẫn
tiền của những cô gái nhẹ dạ và ngây thơ.
Bây giờ, gã xin trở lại với tiếng gà gáy.
Thực vậy, tiếng gà gáy không phải chỉ kéo
chúng ta ra khỏi giấc ngủ đêm dài và đánh thức
chúng ta mau mắn chỗi dậy để bắt đầu những
công việc của một ngày mới đang đến, mà hơn
thế nữa, tiếng gà gáy đôi lúc còn kéo chúng ta ra
khỏi tình trạng tội lỗi và đánh thức chúng ta mau
mắn chỗi dậy để bắt đầu một cuộc đời mới,
trong sáng hơn và tốt lành hơn.
Đó chính là trường hợp đã xảy ra cho ông
thánh Phêrô. Thực vậy, trong bữa tiệc ly Phêrô
đã “thề độc” với Chúa Giêsu rằng :
MỤC LỤC

- Cho dù mọi người có bỏ Thầy, nhưng con


sẽ chẳng bao giờ. Cho dù có phải chết cùng
Thầy, con vẫn luôn sẵn sàng.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã báo cho Phêrô
biết :
- Ngay trong đêm hôm nay, trước khi gà
gáy con đã chối Thầy ba lần.
Và sự việc đã xảy ra đúng y như vậy. Trong
sân nhà thầy cả thượng phẩm, Phêrô đã chối
Chúa ba lần chỉ vì một câu hỏi vu vơ của đứa nữ
tì, để rồi sau đó, Phêrô đã bỏ của chạy lấy
người, vội vã bước ra ngoài và lập tức gà liền
gáy. Nghe tiếng gà gáy, Phêrô đã đấm ngực ăn
năn khóc lóc về tội lỗi của mình.
Tiếng gà gáy ấy chính là tiếng nói của
lương tâm, rất nhiều lần đã vọng lên tự thẳm
sâu cõi lòng, trước hết là để thôi thúc chúng ta
làm lành tránh dữ, bảo cho chúng ta biết đâu là
MỤC LỤC

việc phải làm và đâu là việc phải tránh, rồi sau


đó là để dày vò, khiến chúng ta phải sám hối và
dốc lòng chừa.
Thế nhưng, rất tiếc là chúng ta đã không
chịu nghe theo lời cảnh báo, cũng như không
chịu nghe theo lời phán quyết của lương tâm.
Như con thiêu thân lao mình vào lửa, chúng ta
đã nhảy xả vào vòng tội lỗi và sau đó cũng
chẳng có lấy được một giây phút nào ăn năn và
hối tiếc.
Sau nhiều lần báo động và cắn rứt mà
chẳng “xi-nhê”, mà chẳng đem lại hậu quả,
thành thử lương tâm trở nên chai lỳ và tắt ngấm.
Cũng giống như ngày xưa gã khăn gói quả
mướp vô miền Thất Sơn để dạy học. Thiên hạ
bảo cho gã biết rằng :
- Ở đây xơi pháo kích là chuyện bình
thường. Tuần nào không bị pháo kích mới là
MỤC LỤC

chuyện lạ. Vì thế, mỗi khi nghe tiếng đạn rít xé


không gian, thì phải mau mắn ba chân bốn cẳng
chạy vào hầm trú ẩn.
Lần thứ nhất bị pháo kích, mắt nhắm mắt
mở gã đã vội vã chui ngay vô hầm trú ẩn. Lần
thứ hai bị pháo khích, gã không còn vội vã nữa,
mà cứ thủng thẳng bước vào hầm trú ẩn. Lần
thứ ba bị pháo kích, vì thấy rằng chẳng chết anh
Miên đen nào cả, bởi vì nếu chết thì đã chết rồi,
nên cứ ung dung nằm thẳng cẳng trên giường,
rồi lại còn kéo chăn che mặt như con đà điểu
cắm đầu xuống cát.
Cũng giống như ngày nay hai anh chị bị
tiếng sét ái tình giáng cho một cú trúng ngay tim
đen, tóa hỏa tam tinh, nên chi :
- Phút đầu gặp em, tinh tú quay cuồng.
Trong lúc ngồi bên nhau và tâm sự vụn, chỉ
cần cầm lấy bàn tay của nhau, thì đã run run
MỤC LỤC

như bị điện giật, hay theo ngôn ngữ của Hàn


Mặc Tử, thì đã “run run như thần tử thấy long
nhan”. Chỉ cần “thơm” nhẹ lên trán, thì đã “ôi
ngất ngây, ngất ngây”.
Miết rồi hóa nhàm, nghiệm ra rằng cái cử
chỉ cầm tay hay thơm nhẹ không phê, nên bèn
phải tăng đô, từ cái thơm đến cái hôn và từ cái
hôn đến việc “ăn cơm trước kẻng”, anh chị cũng
cho là chuyện nhỏ. Thậm chí ngay cả việc “lỡ
bụng em sình” thì cũng chẳng hề hấn chi, chỉ
cần đến bệnh viện giải quyết cái rụp là xong tuốt
luốt, rồi đâu lại vào đấy.
Cũng thế, từ tình trạng lương tâm chai lì và
xơ cứng đến tình trạng lương tâm táng tận và
phá sản, thì cũng chỉ cách nhau một bước ngắn.
Trong tình trạng lương tâm táng tận và phá
sản như thế, người ta không phải chỉ phạm tội
một cách dễ dàng như uống nước, hay như trở
MỤC LỤC

bàn tay, mà chẳng chút ân hận chi cả. Trái lại,


người ta lại còn cảm thấy hãnh diện vì đã phạm
tội, người ta coi hành vi tội phạm của mình là
một việc làm can đảm và anh hùng.
Càng phạm tội nhiều thì lại càng nghênh
ngang và lên mặt với đời, thì lại càng hợp thời
và đúng điệu dân chơi thứ thiệt “một chăm phần
chăm”, chứ còn ăn ngay ở lành, chân chỉ hạt
bột, thật thà như đếm, thì chỉ có ở trong truyện
cổ tích, xưa rồi diễm ơi.
Tới nước này, lương tâm không phải chỉ đã
tắt ngấm, mà còn là đã chết, đã chết thật rồi,
một cái chết đã được cảnh báo, một cái chết đã
được nói trước.
Với một lương tâm tán tận, một lương tâm
đã chết như thế, thì theo sự diễn tả hình như
của Đức Thánh Cha Piô XII :
MỤC LỤC

- Cái tội lớn nhất và nặng nhất của con


người thời nay, đó là cái tội không còn ý thức về
tội nữa.
Nghe thật xót xa, khiến gã phải ngậm ngùi
khẽ hát bài tình ca “Mùa thu chết” :
- Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo,
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi,
Mùa thu đã chết, em nhớ cho,
Mùa thu đã chết, em nhớ cho,
Mùa thu đã chết, đã chết rồi
Em nhớ cho…
MỤC LỤC

CHỌN LỰA

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Có thể nói được rằng : chúng ta đang sống


trong một thời buổi lạm phát những khẩu hiệu.
Này nhé, bước ra ngoài đường ngước mắt
nhìn lên trời, liền thấy ngay những tấm biểu ngữ
giăng ngang với những khẩu hiệu hô hào cho
chính sách của nhà nước.
Bước vô trường học là thấy ngay trên
tường vách những khẩu hiệu khuyến khích đám
học trò siêng năng và chăm chỉ, lễ phép và lịch
sự.
Chẳng hạn trước tình trạng xuống cấp về
phương diện đạo đức, trò dám thượng cẳng
chân hạ cẳng tay với thầy, người ta liền viết câu
tục ngữ của người xưa :
- Tiên học lễ, hậu học văn.
MỤC LỤC

Riêng với các thầy cô, nhiều người thầm


nghĩ trong bụng rằng :
- Tiên học võ, hậu dạy văn.
Chẳng hạn trước tình trạng chất lượng giáo
dục ngày một kém, người ta lo cải cách lên, cải
cách xuống, đồng thời để đám học trò giảm bớt
đi sự sa sút, người ta luôn nhắc nhở :
- Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời.
Chẳng hạn để mọi người ý thức tầm mức
quan trọng của việc giáo dục, người ta bèn “anh
dũng” trích lời bác Hồ :
- Kế trăm năm trồng người.
Sự thực thì bác Hồ cũng đã mượn đỡ tư
tưởng trên của Quản Trọng mà phát biểu cho
oai. Quản Trọng cũng gọi là Quản Tử, tên là Di
Ngô, sống đời Xuân Thu, làm đến chức Tể
tướng giúp Tề Hoàn Công lập nên nghiệp bá. Vì
MỤC LỤC

thế, được vua Tề tôn lên bậc Trượng phụ, coi


như cha. Quản Trọng đã từng bảo :
- Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc.
Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc.
Chung thân chi kế, mạc như thụ nhân.
Có nghĩa là :
- Kế một năm, không gì bằng trồng lúa.
Kế mười năm, không gì bằng trồng cây.
Kế trọn đời, không gì bằng trồng người.
Chính vì vậy, trước năm 1975, Viện Đại
Học Công Giáo Đalat đã chọn cho mình cái tên
là “Thụ Nhân”, “Trồng người”.
Về đến nhà, bật truyền hình lên xem, thi ôi
thôi đầy rẫy những khẩu hiệu. Thượng vàng hạ
cám, lãnh vực nào cũng có. Vậy khẩu hiệu là cái
chi chi ?
Trước hết, khẩu hiệu là lời hô to của đám
đông. Chẳng hạn mỗi khi xuống đường đi biểu
MỤC LỤC

tình, người ta không ngần ngại gân cổ lên mà hô


vang những khẩu hiệu, đại khái như :
- Hoan hô.
- Đả đảo.
Tiếp đến, khẩu hiệu là những câu viết ngắn
hay những lời nói gọn, nhưng hàm xúc, được
dùng để nhắc nhở và kích thích lòng người.
Như trên gã đã nói : khẩu hiệu dường như
đang bị lạm phát và có mặt ở mọi nơi và trong
mọi lúc, đặc biệt về phương diện nhà nước và
quảng cáo.
Thực vậy, nhà nước thường hay dùng
những khẩu hiệu để tuyên truyền cho đường lối
và chính sách của mình.
Chẳng hạn để dân chúng hiểu biết về chính
sách dân số mà…cai đẻ, người ta bèn viết :
- Dù gái hay trai, chỉ hai là đủ.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, nếu người ta triệt để áp dụng


khẩu hiệu này vào cuộc sống, thì đôi khi lại xảy
ra những tình huống…cười ra nước mắt.
Thí dụ như một số nước bên phương tây,
số người già mỗi ngày một nhiều, còn số người
trẻ mỗi ngày một ít và như vậy xã hội đang gặp
phải nguy cơ bị…”lão hóa”.
Thí dự như Trung quốc, số con trai thì
nhiều mà số con gái thì ít, nên không thiếu gì
những chú ba tàu, chịu khó lặn lội sang tận Việt
Nam để tìm…vợ, hay mua…vợ.
Chẳng hạn để dân chúng hiểu biết và
phòng ngừa về sự lây lan của cơn bệnh thế kỷ
HIV-AID, người ta cổ động :
- Hãy nói không với ma tuy và mãi dâm.
Và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hình
như đi tới đâu gã cũng thấy xuất hiện một khẩu
hiệu khuyến khích cho việc sản xuất :
MỤC LỤC

- Lao động là vinh quang.


Mấy tên bợm nhậu đóng chốt ở mấy quán
cóc bên vỉa hè, nhân lúc trà dư tửu hậu bèn
ngứa miệng mà bồi thêm vào cho đậm đà ý vị :
- Lang thang thì chết đói,
Hay nói thì ở tù,
Lù khù thì sống lâu.
Còn trong lãnh vực quảng cáo, khẩu hiệu
như gặp được một vùng đất màu mỡ và phì
nhiêu cho trăm hoa đua nở. Khi lên những mẫu
quảng cáo, bao giờ người ta cũng muốn đánh
mau, đánh mạnh vào đầu óc của kẻ tiêu dùng,
nên đã đưa ra những khẩu hiệu ngắn gọn, dễ
hiểu và dễ nhớ.
Nếu gã không lầm, thì hồi trước năm 1975,
nói tới thuốc bổ, người ta nghĩ ngay tới Activit,
thuốc bổ gan bò tươi Hòa Lan. Nói tới xe gắn
máy, người ta nghĩ ngay tới Suzuky an toan trên
MỤC LỤC

xa lộ, thanh lịch trên đường phố. Nói tới kem


đánh răng, người ta nghĩ ngay tới anh bảy chà
Hynos…
Bây giờ cũng thế, mỗi sản phẩm đều được
gán cho một khẩu hiệu để dễ dàng đi vào lòng
người. Gã chỉ xin đưa ra một vài khẩu hiệu điển
hình mà thôi :
- Nước giải khát 7 Up với khẩu hiệu : mở lối
đi riêng.
- Sữa Milo với khẩu hiệu : Cả ngày tràn đầy
năng lực.
- Cà phê Trung Nguyên với khẩu hiệu : khơi
nguồn sáng tạo.
-Dầu gội đầu Sunsilk với khẩu hiệu : Nuôi
tóc chắc khỏe.
Và có cả những khẩu hiệu đọc lên như
muốn nổi da gà và toát cả mồ hôi hột, như
MỤC LỤC

những khẩu hiệu quảng cáo cho băng vệ sinh


phụ nữ!!!
Trong cuộc sống thường này, gã cũng ghi
nhận được rất nhiêu những khẩu hiệu, đúc kết
từ biết bao nhiêu kinh nghiệm quí giá, được đưa
ra làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành
động, hay làm kim chỉ nam xác định đường đi
nước bước trong cuộc đời. Chẳng hạn :
- Sống là tranh đấu.
Đúng thế, sống trong cuộc đời chúng ta
giống như người bơi ngược dòng nước. Nếu
không cố gắng bơi, thì chắc chắn sẽ bị dòng
nước cuốn trôi. Không tiến tức là lùi. Trong khi
người khác đang hăm hở tiến lên, còn mình cứ
giậm chân tại chỗ, thì chắc chắn sẽ bị kể là bị
thụt lùi, bị tụt hậu, bị đẩy về phía sau mất rồi.
Ăn theo những mẫu quảng cáo trên, hôm
nay gã xin bàn đến một khẩu hiệu rất đơn giản,
MỤC LỤC

nhưng lại có một tầm mức khá quan trọng đối


với mỗi người chúng ta. Khẩu hiệu ấy như thế
này :
- Sống là chọn lựa.
Kể từ khi rời ghế nhà trường, để bước chân
xuống cuộc đời, những kiến thức thu lượm được
qua sách vở suốt những năm dài học tập, cứ
dần dần bị rơi rụng tả tơi. Nay một tí và mai một
tí, thành thử cho đến bây giờ chẳng còn đọng lại
được bao nhiêu. Thậm chí có những thứ ngày
xưa đã in đậm vào trong đầu óc, thế mà bây
giờ cũng đã bị quên béng đi mất từ hồi nào cũng
chẳng hay.
Hình như có một ông triết gia nào đó đã
trình làng một định đề của mình như sau :
- Tôi suy tư, tức là tôi hiện hữu.
Cùng một thể thức ấy, gã cũng có thể nói
được rằng :
MỤC LỤC

- Tôi chọn lựa, tức là tôi hiện hữu.


Thực vậy, con người được Thượng đế trao
ban cho sự tự do. Chính nhờ sự tự do mà con
người có thể chọn lựa. Và sự chọn lựa luôn theo
sát chúng ta từng giây từng phút, để rồi làm nên
nét đặc thù của con người.
Có một con trâu, sau một buổi lao động cật
lực trên đồng ruộng, về tới nhà thì mệt nhoài.
Vừa đói lại vừa khát. Ông chủ liền thưởng công,
ưu ái đem tới một bó cỏ non và một thau nước
mát. Con trâu định ăn miếng cỏ, nhưng rồi lại
đưa mắt nhìn thau nước. Định uống ngụm nước
nhưng rồi lại đưa mắt nhìn bó cỏ. Phân vân
không dám chọn lựa, đành phải chịu đói và chịu
khát, khi cỏ non và nước mát ở ngay trước
miệng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy, tự thẳm sâu cõi
lòng luôn vọng lên một tiếng nói tuy âm thầm
MỤC LỤC

nhưng quyết liệt, thôi thúc chúng ta làm việc tốt


và tránh việc xấu. Vì thế, trước mỗi hành động,
chúng ta đều phải chọn lựa : làm hay không làm.
Rồi nếu đã chọn làm, thì làm điều lành hay điều
dữ. Như vậy, cuộc đời chúng ta được dệt nên
bởi những chọn lựa không ngừng.
Tuy nhiên, có những chọn lựa không phải
chỉ ảnh hưởng tới một khoảng khắc nào đó, mà
còn ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc sống chúng ta
bởi vì đã vạch ra cho chúng ta một con đường
phải đi suốt dọc cuộc đời.
Chẳng thế mà một ông người Pháp đã xác
quyết một cách rất chí lý như sau :
- L’avenir d’un homme dépend de quelque
“oui” ou de quelque “non” prononcés de 16 à 20
ans.
Có nghĩa là :
MỤC LỤC

- Tương lai mỗi người tùy thuộc vào một vài


câu “có” hay một vài câu “không”, được thốt lên
ở lứa tuổi từ 16 đến 20.
Nói cách khác :
- Tương lai mỗi người tùy thuộc vào một vài
chọn lựa được thực hiện từ thời niên thiếu.
Gã chỉ xin nêu lên hai chọn lựa điển hình,
có tính cách định hướng, làm nên một lối đi cho
cuộc đời.
Chọn lựa thứ nhất, đó là chọn lựa cho mình
một bậc sống.
Đúng thế, trước ngưỡng cửa cuộc đời
chúng ta có hai ngã rẽ. Một là dấn thân vào nếp
sống tu trì, theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và
người khác. Hai là dấn thân vào nếp sống lứa
đôi, xây dựng một mái ấm gia đình.
MỤC LỤC

Nếu chọn nếp sống tu trì, thì cũng phải lựa


cho mình một hướng đi, đó là tu triều hay tu
dòng.
Nếu chọn tu dòng, thì cũng phải lựa cho
mình một linh đạo, hay nói một cách cụ thể hơn,
phải lựa cho mình một dòng tu để mà đầu tư
công sức vào đó.
Bởi vì trong lòng Giáo hội, có rất nhiều
dòng tu và mỗi dòng tu lại theo đuổi một lý
tưởng khác nhau, như một thửa vườn với muôn
hoa khoe sắc. Tuy cùng phục vụ Chúa và người
khác, nhưng mấy sư huynh Lasan lại chuyên về
dạy học, mấy thầy Gioan Thiên Chúa lại chuyên
về bệnh nhân, mấy cha Don Bosco lại chuyên về
giới trẻ…Và nhất là các dòng nữ.
Hỏi rằng trên thế gian này có bao nhiêu
dòng nữ ? Một người có óc khôi hài và cũng
được liệt vào hạng thích đùa, đã trả lời như sau :
MỤC LỤC

- Đức Chúa Trời là Đấng thông minh sáng


suốt vô cùng, thế mà Ngài cũng đành phải bó
tay, không biết đích xác được hiện nay trên thế
gian có bao nhiêu dòng nữ!!!
Còn nếu chọn nếp sống lứa đôi, thì cũng
phải lựa cho mình một anh chàng hay một chị
nàng nào đó, để mà yêu thương, kết tóc xe tơ,
thành vợ thành chồng và gắn chặt đời mình lại
với nhau.
Thực vậy, trong quá trình giao tiếp, một anh
chàng có lẽ đã gặp gỡ và làm quen với cô này
cô khác, chẳng hạn như cô Cam, cô Quít, cô
Mít, cô Bưởi…
Đây là lúc phải nhìn cho rõ chiếc xương
sườn cụt của mình. Đây là lúc phải nhận ra cái
“nửa kia của mình”.
Một khi đã chọn cô Mít, thì cũng phải có
can đảm khước từ cô Quít, cô Cam, cô Bưởi…
MỤC LỤC

chứ không được bắt cá hai tay, vơ đũa cả nắm,


hay đứng núi này trông núi nọ.
Chọn lựa thứ hai, đó là chọn lựa cho mình
một nghề nghiệp.
Thực vậy, nghề nghiệp sẽ theo mình trong
suốt cả cuộc sống, vì đó là một chiếc cần câu
cơm, đem lại ấm no cho bản thân và gia đình,
cũng như đóng góp cho xã hội.
Vì thế, phải lựa cho mình một nghề nghiệp
phù hợp với sở thích và khả năng. Chẳng có
nghề nghiệp nào xấu cả, mà chỉ có những con
người xấu, lạm dụng nghề nghiệp của mình để
làm những điều xằng bậy mà thôi.
Một khi đã có được sự chọn lựa, chúng ta
cần phải cố gắng thực hiện cho bằng được sự
chọn lựa ấy, có nghĩa là phải đầu tư công sức
của mình vào con đường đã chọn và đã lựa.
MỤC LỤC

Đúng thế, nếu chọn nếp sống tu trì, thì cần


phải ra sức tu học, chấp nhận mọi kỷ luật, nhờ
đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời, mỗi
ngày một trở nên đạo đức và thánh thiện hơn,
nhờ đó việc phục vụ sau này sẽ gặt hái
được những thành quả tốt đẹp.
Nếu chọn nếp sống lứa đôi, thì cần phải ra
sức làm cho tình yêu được phát triển mỗi ngày
một trở nên đằm thắm, bằng cách dám chấp
nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau, nhờ
đó gia đình sẽ trở thành một mái ấm ngập tràn
hạnh phúc.
Nếu chọn một nghề nào đó, thì cần phải ra
sức trau dồi để tay nghề được vững, bởi vì như
người xưa đã bảo :
- Trăm hay không bằng tay quen.
MỤC LỤC

- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Có nghĩa


là chuyên sâu một nghề cho giỏi, thì chắc chắn
bản thân sẽ được vinh quang và sung sướng.
Còn nếu nghề nào cũng biết tí ti, cũng biết
chút đỉnh, cũng biết qua quít…thì rồi sẽ chẳng
biết được một nghề nào cả. Nhất là thời buổi
hiện nay, một thời buổi đòi hỏi phải chuyên môn
trong mọi lãnh vực. Kiến thức lơ mơ, tay nghề
xoàng xĩnh, không sớm thì muộn cũng sẽ bị đào
thải.
Và cuối cùng, một điều không thể bỏ qua,
đó là phải trung thành với sự chọn lựa của mình.
Thực vậy, nếu chọn đời sống tu trì thì phải
trung thành với ơn gọi của mình. Dĩ nhiên, trong
phạm vi ơn gọi, Thiên Chúa đóng vai trò chủ
động, bởi vì như lời Ngài đã nói ngày xưa :
- Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng
chính Thầy đã chọn các con và sai các con đi.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải cộng tác


với ơn Chúa, bằng cách quảng đại đáp trả và
trung thành với ơn gọi Chúa đã dành cho mình.
Vốn biết rằng thân phận con người thì yếu
đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào.
Vì thế, cần phải cậy dựa vào sự nâng đỡ và trợ
giúp của Chúa. Đồng thời cũng phải làm hết sức
mình để gắn bó với Ngài. Chúa cũng đành bó
tay chịu vậy khi chúng ta quay lưng phản bội
Ngài.
Đây cũng là một hiện tượng đáng buồn vì
nhiều linh mục và tu sĩ giữa đường đứt gánh, cởi
bỏ chiếc áo nhà dòng và thiên chức của mình,
để trở về thế gian, làm một phó…giáo dân, bằng
không thì cũng kéo lê cuộc sống, bố đạo chẳng
ra bố đạo, mà bố đời cũng chẳng ra bố đời, láo
nháo như cháo với cơm.
MỤC LỤC

Còn nếu chọn đời sống lứa đôi, thì phải


trung thành với người bạn đường của mình.
Thực vậy, một khi đã tiến đến hôn nhân, chúng
ta chính thức công bố sự chọn lựa của mình. Mà
chọn lựa vừa có nghĩa là chấp nhận, lại vừa có
nghĩa là từ bỏ. Phải chấp nhận người mình yêu
với tất cả sở trường và sở đoản, với tất cả ưu
điểm và khuyết điểm. Khuyết điểm thì giúp nhau
khắc phục. Ưu điểm thì giúp nhau phát triển.
Đồng thời phải từ bỏ tất cả những gì khả dĩ làm
cho tình yêu bị sứt mẻ và rạn vỡ.
Rất nhiều người đã lên tiếng về cuộc khủng
hoảng gia đình hiện nay. Số các cặp vợ chồng
lôi nhau ra tòa để ly dị mỗi ngày một gia tăng
đến chóng cả mặt, làm cho gia đình bị đổ vỡ, vô
phương cứu chữa. Và một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng bi đát này, đó là người
ta đã không trung thành với nhau. Người ta đã
MỤC LỤC

chia sớt tình yêu của mình một cách thầm lén và
vụng trộm với một kẻ thứ ba. Người ta đã sống
theo kiểu : Ông ăn chả, thì bà cũng ăn nem. Chỉ
khổ đau và tội nghiệp cho những đứa con còn
nhỏ bé và thơ ngây mà thôi.
Sau cùng, nếu đã chọn cho mình một nghề
để sinh sống, thì cũng cần phải kiên nhẫn và
trung thành với nghề nghiệp ấy. Dù gặp phải khó
khăn hay gian nan thử thách cũng vẫn kiên
nhẫn, bởi vì lắm khi :
- Thất bại là mẹ thành công.
Nhờ thất bại mà chúng ta tích lũy được
những kinh nghiệm quí giá, hứa hẹn những kết
quả to lớn hơn :
- Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng thời mặc sóng, chèo cho có chừng.
Hầu hết những người thành công trên
đường đời đều là những người đã từng gặp phải
MỤC LỤC

những thất bại đắng cay, nhưng họ biết trung


thành và kiên nhẫn, vươn lên từ những thất bại
và đắng cay ấy. Vì thế người xưa đã từng
khuyên nhủ :
- Hữu chí sự cánh thành. Nghĩa là có chí thì
sự nghiệp được thành.
Sách “Cổ học tinh hoa” kể lại một mẩu
chuyện như sau :
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che
mưa, ba năm mới thành nghề. Trời đại hạn,
không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm
dù, đi học nghề làm gầu tát nước.
Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu,
thì trời mưa luôn mãi, không ai dùng đến gầu.
Bấy giờ anh ta lại quay về nghề làm dù như
trước.
Không bao lâu, trong nước có giặc, dân
gian nhiều người phải đi lính, mặc đồ nhung
MỤC LỤC

phục, không ai cần đến dù. Anh ta xoay ra nghề


đúc binh khí thì đã già quách rồi.
Úc Ly Tử thấy anh ta, thương tình mà nói
rằng :
- Than ôi ! Bác chẳng đã già mất rồi ư ! Già
hay trẻ không phải là tự người, mà là tự trời,
điều ấy cố nhiên. Nhưng nghề nghiệp thành hay
bại, dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên
đổ cả cho trời, tất có mình ở trong. Ngày xưa
nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa
chiêm ba năm đều hại vì lụt cả. Có người bảo
anh ta nên tháo nước mà cấy lúa mùa, anh ta
không nghe, cứ cấy chiêm như trước. Năm ấy
nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào
cũng được, thành ra anh ta kéo lại hòa cả mấy
năm mất mùa trước. Cho nên có câu rằng :
- Trời đại hạn, nghĩ đến sắm thuyền,
Trời nồng nực, nghĩ đến sắm áo bông.
MỤC LỤC

Đó là một câu thiên hạ nói rất phải.


Tác giả sách “Cổ học tinh hoa” cũng đã góp
thêm một lời bàn như sau :
Người ta làm nghề gì, ai chẳng muốn cho
nghề ấy được phát đạt, thịnh vượng. Song gặp
thời thì hay, lỡ thời hóa dở. Như thế thì cái thời
cũng quan hệ với nghề của mình lắm.
Khốn nỗi cái thời là tự ở đâu đâu, chớ
không tự mình gây lấy được, cho nên có lắm
người làm nghề, không thành nghề, thường nói
rằng :
- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Nghĩa là người chỉ mưu tính công việc, còn
công việc nên hay không nên, là do tại trời.
Song người có gan, dù cho lỡ thời cũng cứ vững
dạ mà giữ lấy nghề, vì nghề chắc đã thành, thì
tất cũng có chốn dụng, chẳng chóng thì chầy,
chẳng nhiều thì ít.
MỤC LỤC

Cứ nay làm nghề này, mai xoay nghề khác,


như hòn đá lăn mãi không bao giờ mọc rêu, thì
chỉ nhọc xác, già người mà vẫn không ăn thua gì
cả.
Cho tới lúc này, gã cảm thấy mỗi người
cũng cần phải kiểm điểm lại xem đã thực hiện
sự chọn lựa cho đời mình như thế nào ?
MỤC LỤC

CHẢ VÀ NEM

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Gã xin bắt đầu mẩu chuyện phiếm hôm nay


bằng cách tìm hiểu về nguồn gốc của Táo Quân.
Trước hết là bên Tàu : Người Trung Hoa có
một tập tục rất xa xưa, đó là cứ đến mùa hạ, thì
tổ chức lễ tế thần Táo. Chung quanh sự kiện
này, có rất nhiều giả thuyết và truyền thuyết
được lưu hành trong dân gian.
Theo Châu Lễ, Táo Quân tên thật là Chúc
Dung.
Sách Hoài Nam Tử lại chép vua Hoàng Đế
là người đầu tiên đặt ra việc nấu nướng, đến khi
mất hóa thành Táo Quân.
Ngũ Kinh Di Nghĩa lại chép : Thần Táo tên
là Tô Cát Lợi.
MỤC LỤC

Theo sách Dũ Dương tạp trở thì Thần Táo


tên là Ổi, có vẻ mặt xinh đẹp như con gái.
Tiếp đến là bên ta : Theo một truyền thuyết,
thì hai vợ chồng nhà nọ rất nghèo, phải phiêu
bạt mỗi người một nơi. Về sau, người vợ lấy
chồng khác. Một hôm có người ăn mày đến xin
sự bố thí. Khi người đàn bà đem cơm gạo ra
cho, thì mới hay người hành khất ấy chính là
chồng cũ của mình.
Sợ người chồng sau biết được, người vợ
liền đem dấu vào ổ rơm. Bất ngờ, người chồng
sau lại dùng ổ rơm để nướng con thú vừa mới
săn được. Người chồng trước sợ chui ra sẽ làm
cho người vợ xấu hổ với người chồng sau, liền
can tâm chịu chết thiêu.
Người vợ quá đỗi khổ đau, bèn nhảy vào
đống lửa mà chết theo chồng. Người chồng sau
MỤC LỤC

thấy vậy quá thương vợ, cũng nhảy vào cùng


chịu chết luôn.
Linh hồn của ba người này được Thượng
Đế thưởng công, truyền cho làm thần Táo. Vì
thế, trong ca dao Việt Nam mới có câu :
- Thế gian một vợ một chồng,
Nào như vua bếp, hai ông một bà.
Từ câu chuyện trên, gã rút ra được hai
điểm son đáng suy gẫm, đó là địa vị của chị đờn
bà trong xã hội và sự chung thủy trong tình yêu
vợ chồng. Hai điểm son nay thật là quí hiếm,
nếu không phát huy thì sẽ dần dần bị mai một.
Về địa vị của chị đờn bà trong xã hội, gã
nhận thấy từ đông sang tây, cũng như từ cổ chí
kim, hầu như cả và thiên hạ đều mang lấy một
quan niệm na ná giống nhau, đó là trọng nam
khinh nữ.
MỤC LỤC

Sách Sáng Thế ký của Kitô giáo viết rằng :


Thiên Chúa đã dựng nên Adong, tức là người
đờn ông đầu tiên, từ bùn đất, rồi phú bẩm cho
một sinh khí để ông được sống động.
Thấy ông cô đơn vò võ một mình, Thiên
Chúa động lòng trắc ẩn, bèn dựng nên cho ông
Eva, tức là người đờn bà đầu tiên, từ nửa chiếc
xương sườn của ông. Thoạt nhìn thấy Eva, cặp
mắt Adong đã sáng lên niềm vui, ông hớn hở nói
:
- Này đây xương bởi xương tôi và thịt bởi
thịt tôi.
Chẳng biết có phải vì Adong được dựng
nên trước, còn Eva được dựng nên sau, cũng
chẳng biết có phải vì Eva được dựng nên chỉ
bằng một nửa chiếc xương sườn của Adong hay
không mà trải qua dòng thời gian, đờn ông vẫn
được trọng kính và trọng dụng hơn đờn bà, mặc
MỤC LỤC

dù Giáo hội đã ghi công đầu trong việc giải


phóng và nâng cao địa vị của người phụ nữ.
Ngay như thánh Phaolô cũng đã viết :
- Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như
phục tùng Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng
như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh.
Trước khí thế đấu tranh đòi bình quyền và
bình đẳng giữa nam và nữ, trong những năm
gần đây ở bên Tây cũng như ở bên Mỹ đã dấy
lên một phong trào đòi cho phụ nữ, ít nữa là
các…ma sơ, được làm cha, làm linh mục !
Còn ở Việt Nam, lác đác trên báo Công
Giáo và Dân Tộc gã cũng đã thấy xuất hiện một
vài bài viết, đại khái các sơ than thở về thân
phận hẩm hiu của mình và mong sao được các
đấng các bậc trong Hội Thánh lưu ý, nâng đỡ và
trân trọng hơn một tí.
MỤC LỤC

Đồng thời, gã cũng thấy xuất hiện một vài


bài viết, đại khái so sánh địa vị “ông bà cố của
cha” với “ông bà cố của sơ”, để rồi nghiệm ra
rằng ông bà cố của cha nặng ký hơn nhiều vì
được bàn dân thiên hạ kính trọng. Còn ông bà
cố của sơ cũng được kính trọng đấy, nhưng còn
bị lép vế nhiều bề, cứ y như ngọc bị đá đè vậy !
Bên tây phương, thân phận chị đờn bà thật
rẻ rúng, họ bị liệt vào hàng nô lệ, bị coi như một
phương tiện cho cánh đờn ông con giai mua vui,
hay bị đồng hóa như một đồ vật để đổi chác.
Khi một bé gái mở mắt chào đời, thì ông bố
là người quyết đình sự tồn vong của nó. Ông
muốn nó sống thì nó được sống. Ông muốn nó
chết thì nó phải chết.
Còn bên đông phương, thân phận chị đờn
bà cũng chẳng sáng sủa gì hơn. Nền luân lý
MỤC LỤC

Khổng Mạnh đã thống trị toàn bộ những sinh


hoạt xã hội.
Thực vậy, người ta coi trọng con giai hơn
con gái :
- Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô. Nghĩa
là sinh một cậu con giai thì được kể như là có,
chứ còn sinh mười cô con gái, thì vẫn bị kể như
là không.
Rồi ba chữ tòng là như ba sợi dây bền chắc
đã cột chặt người con gái cũng như người đờn
bà vào với gia đình và chồng con :
- Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử. Ở nhà thì phục tùng cha. Đi lấy chồng
thì phục tùng chồng. Chồng chết thì phục tùng
con.
Thành thử, bà vợ chỉ còn là một chiếc bóng
mờ nhạt trong gia đình cũng như ngoài xã hội :
MỤC LỤC

- Phu xướng phụ tùy. Chồng phán điều chi,


thì vợ lập tức phải nghe theo.
Từ đó, ông chồng dễ mang lấy cung cách
xử sự theo kiểu “chồng chúa vợ tôi”, coi bà vợ
như một đầy tớ không công, hay như một chiếc
máy để đẻ con cho mình không hơn không kém.
Có những bà vợ đã hy sinh trót cả tuổi
thanh xuân, tần tảo nuôi ông chồng ăn học. Thế
nhưng khi vừa mới đỗ đạt, ông chồng bội bạc
bèn nhảy tót sang thuyền khác, kiếm lấy một cô
vợ vừa trẻ đẹp, vừa giàu sang, vừa con nhà
quan để làm bàn đạp tiến lên trên đường danh
vọng. Chỉ tội nghiệp cho bà vợ già, âm thầm và
lầm lũi khi tuổi đời xế bóng về chiều.
Tại một số nơi như Ấn Độ người ta còn thi
hành một tập tục dã man khác, đó là khi ông
chồng qua đời, thì bà vợ cũng phải chết để theo
hầu ông chồng nơi chín suối.
MỤC LỤC

Nhất là trong lãnh vực tình cảm, số phận


của bà vợ thật là bẽ bàng và cay đắng. Hai chữ
“tiết hạnh” được dành riêng cho người phụ nữ :
- Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Cũng vì hai chữ tiết hạnh này, khi ông
chồng còn sống, bà vợ chẳng bao giờ được
phép tơ tưởng linh tinh đã đành, mà ngay cả khi
ông chồng đã phiêu diêu miền cực lạc, bà vợ
cũng phải ở vậy thờ chồng và nuôi con. Chứ mà
bước thêm một bước nữa, ắt sẽ không thoát
khỏi búa rìu và sự cười chê của dư luận.
Trong khi đó, nền luân lý ấy lại tỏ ra lỏng
lẻo và dễ dãi đối với cánh đờn ông con giai :
- Trai năm thê bảy thiếp,
Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Anh con trai tha hồ mà vung vít. Năm thê
bảy thiếp là hệ biên chế, hệ trong luồng và hệ
MỤC LỤC

chính ngạch, có cưới có xin hẳn hoi. Còn những


cuộc tình qua đường, thầm lén vụng trộm thì chỉ
mình ông trời mới biết.
Ca dao cũng đã từng diễn tả :
- Dầu chàng năm thiếp bảy thê,
Thì chàng chẳng bỏ gái…sề này đâu.
Theo sử sách còn ghi lại thì một con người
chững chạc và đáng kính như Nguyễn Công Trứ
lại tỏ ra sành sỏi và phong lưu hết ý. Khi lên
chùa, ông cũng dắt theo mấy cô hầu non để
cùng “đăng sơn ngoạn cảnh” và ông đã diễu
cợt :
- Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Với một sinh lực dồi dào và cường tráng,
năm 73 tuổi ông vẫn còn cưới thêm nàng hầu và
có tất cả 14 bà vợ.
MỤC LỤC

Đêm tân hôn, giai nhân hỏi ông bao nhiêu


tuổi, (tân nhân dục vấn lang niên kỷ), ông đã
chẳng ngần ngại đáp :
- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam, nghĩa là
năm mươi năm về trước tôi mới 23 tuổi.
Anh đờn ông con giai được thả lỏng như
vậy, thì đâu có lỗi phạm gì khi chán cơm, mò đi
ăn phở. Vì thế, ngoại tình dường như chỉ là một
tội được dành riêng cho chị đờn bà con gái :
- Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian thiếu gì.
Nơi người Do Thái, gã cũng thấy như vậy.
Đã phạm tội ngoại tình, thì đương nhiên phải có
cả nam lẫn nữ. Thế mà khi bắt quả tang những
kẻ phạm tội này, bọn Biệt phái chỉ dẫn đến Chúa
Giêsu mỗi một cô nàng để Ngài xét xử, còn cậu
chàng thì được làm ngơ cho cao chạy xa bay.
MỤC LỤC

Riêng ông chồng, nếu không ưng vợ mình


ở điểm nào và muốn rãy bỏ, thì chỉ cần đưa cho
bà một tờ giấy chứng nhận thế là xong, đường
ai người ấy đi.
Trong khi ông chồng nhởn nhơ và phè
phỡn với những cuộc tình trong luồng cũng như
ngoài luồng, thì bà vợ sẽ lãnh đủ nếu lỡ dại đính
dấp vào tội danh này.
Thực vậy, nơi người Do Thái cũng như nơi
người Hồi giáo, bà vợ ngoại tình sẽ bị ném đá
cho chết. Còn nơi người Việt Nam, thì ngày xưa
có những nơi đã áp dụng những hình phạt cực
kỳ nghiêm khắc và nặng nề như cạo đầu bôi vôi,
cột bè trôi sông…cốt để cho mà tởm, nhưng
đồng thời cũng để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của
cánh đờn ông con giai.
Tuy nhiên, ngày hay hoàn cảnh đã đổi thay
và thế gian bỗng dưng đã ra khác. Những tháng
MỤC LỤC

năm về trước, khí thế đấu tranh và giải phóng


cho thân phận người phụ nữ bốc lên bừng
bừng. Người ta đòi hỏi cho đờn bà con gái phải
được bình đẳng và bình quyền với đờn ông con
giai.
Người phụ nữ dần dần giã từ vai trò “nội
tướng”, bầu bạn với nồi niêu xoong chảo, chổi
cùn rế rách, mà nhảy bổ ra ngoài xã hội, nắm
giữ những vai trò quan trọng và thu nhập cũng
chẳng kém gì phe mày râu. Có người làm tới thủ
tướng, bộ trưởng, nghị sĩ, giám đốc…Một khi đã
có tài khoản riêng, không còn bị lệ thuộc vào vấn
đề kinh tế và tài chánh, người phụ nữ vững
bước trên đôi chân của mình.
Thế là họ muốn được bình đẳng về mọi
phương diện. Sự gì anh đờn ông con giai làm
được, thì chị đờn bà con gái cũng sẽ làm được.
MỤC LỤC

Ngày xưa anh đờn ông con giai được ô dù


Khổng Mạnh bao che, nên chẳng tội vạ gì mỗi
khi vung vít tình cảm, còn chị đờn bà con gái
nào lỡ dại thì bị lãnh đủ.
Còn ngày nay thì khác, chị đờn bà được
pháp luật che chắn và bảo vệ. Nếu chẳng may
lôi nhau ra ba tòa quan lớn vì chuyện cơm
chẳng lành canh chẳng ngọt, thì ông chồng hãy
liệu hồn đấy, phải đề cao cảnh giác, bằng không
có khi mất cả chì lẫn chài, mất cả tình lẫn tiền.
Cũng vì sự đấu tranh đòi bình đẳng ấy mà
ngày nay, tội ngoại tình không còn là độc quyền
của phái nam hay phái nữ, mà dường như nó
liên tục được phát triển ở cả hai giới, đúng như
các cụ ta ngày xưa đã diễn tả :
- Ông ăn chả, bà ăn nem.
Chả là thức ăn bằng thịt, cá, tôm hay cua,
được quết nhuyễn, rồi đem lên hấp, chiên hay
MỤC LỤC

nướng. Còn nem là thức ăn bằng thịt, được quết


nhuyễn trộn với thính và gói chặt cho chua. Nói
chung cả hai đều là những món đặc sản cao cấp
và trong những bữa tiệc lớn, thì phải xuất hiện
đủ bộ sậu tứ quái : giò, nem, ninh, mọc. Còn
trong những yến tiệc của hàng vương đế, ít nhất
cũng phải có nem công, chả phượng…
Với câu tục ngữ “ông ăn chả, bà ăn nem”,
người ta muốn diễn tả việc vợ chồng phân bì
nhau, để rồi tranh nhau làm điều quấy quá, xằng
bậy như cờ bạc, trai gái với người khác.
Chẳng hạn ông binh sập xám, thì bà cũng
phải bài cào tứ sắc. Ông có bồ nhí, thì bà cũng
phải có kép nhỏ.
Trong một bài viết, tác giả Chu Tất Tiến đã
báo cáo về những cuộc tình còm ngoài luồng tại
Hoa Kỳ như sau :
MỤC LỤC

Có những điếu mà ta nghe thấy thì giật


mình, vì cứ theo trí tưởng tượng thì không đến
nỗi như vậy. Theo một thống kê ở xứ Mỹ năm
1993, thì có tới 25% đờn ông, tức là 19 triệu
người chồng ngoại tình và 17% đờn bà, tức là
12 triệu người vợ có tình ái lăng nhăng với người
không phải là chồng mình.
Chuyện anh đờn ông ăn chả hay ngoại tình
là chuyện thường ngày ở huyện, bởi vì bổn tính
của anh ta vốn háo sắc, nên hễ thấy bóng hồng
nào xinh xinh là chạy theo liền tù tì. Anh đờn
ông, nhiều phen chẳng hề nhìn thấy cái nết, mà
chỉ nhìn thấy cái đẹp của chị đờn bà, thành thử
thay vì cái nết đánh chết cái đẹp, thì cái đẹp đã
đè bẹp cái nết.
Người ta đã làm một cuộc trắc nghiệm như
sau :
MỤC LỤC

Một cụ già đứng bên đường vẫy xe xin đi


quá giang, thì hầu như bác tài nào cũng không
nhìn thấy và có nhìn thấy chăng nữa, cũng vẫn
chịu khó lờ tít. Thế nhưng một cô gái trẻ, nhất là
lại ăn mặc mát mẻ một tí mà đứng bên vệ
đường vẫy xe đi nhờ, thì hầu như bác tài nào
cũng rất sốt sắng…làm phước ! Quả thật, tình
yêu đã đi vào anh đờn ông con giai bắt đầu
bằng đôi mắt.
Vì thế, ở đây gã xin miễn bàn đến việc ông
ăn chả, mà chỉ nói tới việc bà ăn nem mà thôi.
Ngoại trừ một số rất ít chị đờn bà có tính
lẳng lơ và ham vui và thích của lạ, nên mới kết
mô đen với một anh kép nhỏ. Chứ phần đông
cánh phụ nữ, khi đã yêu thì đều yêu bằng tất cả
trái tim của mình. Vì thế, tình yêu của họ thường
bền vững và chung thủy :
- Yêu anh đến chết vẫn còn yêu anh.
MỤC LỤC

Nếu chẳng may tình yêu của họ bị phản bội


hay bị chia sớt, thì cơn ghen lập tức nhập vào
lục phủ ngũ tạng, khiến họ ăn không ngon và
ngủ không yên, cho tới khi nào dành lại được địa
vị tuyệt đối trong tình yêu hay là đã dạy cho tình
địch một bài học đích đáng :
- Ớt nào là ớt chẳng cay,
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
Vôi nào là vôi chẳng nồng,
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.
Hay như Thúy Kiều đã trả lời Hoạn Thư :
- Rằng tôi chút phận đàn bà,
Ghen tương thì cũng người ta thường tình.
Vậy đâu là lý do khiến bà vợ đi ăn nem hay
chia sẻ tình yêu với một kẻ thứ ba ?
Lý do thứ nhất là sự bất mãn về ông chồng
của mình.
MỤC LỤC

Ông chồng ấy có thể là một người độc tài,


độc đoán và đôi lúc cũng độc ác nữa, khiến cho
bà vợ chịu hết nổi. Tức nước thì phải vỡ bờ.
Trong hoàn cảnh ấy, nếu gặp được một anh đờn
ông ga lăng, biết chiều chuộng và mềm mỏng,
thì từ chỗ tình bạn để gửi gấm tâm sự đến chỗ
tình yêu, cách nhau chẳng bao xa và rồi bà đã
ăn nem lúc nào cũng chẳng hay.
Ông chồng ấy có thể là người mang trong
mình dòng máu đào hoa. Nay cô này, mai cô
khác. Hết cà phê đèn mờ đến quán xá bia ôm.
Cứ như vậy thì bà vợ chịu làm sao cho nổi. Nếu
không suy nghĩ chín chắn, hẳn rằng bà ấy sẽ trả
thù đời bằng cách đi ăn nem cho bõ ghét.
Ông chồng ấy có thể là người rất yêu vợ,
nhưng lại không kiếm ra tiền. Vì thế, trước
những nhu cầu tiêu dùng của bản thân và gia
đình, bà vợ cảm thấy như điên cái đầu. Giữa lúc
MỤC LỤC

đen tối ấy mà xuất hiện một “quới nhân” phò trợ,


sẵn sàng chi tiền để giúp đỡ, bà vợ sẽ mừng
húm như vớ được chiếc phao cứu mạng. Rồi từ
nghĩa dẫn đến tình và bà vợ sẽ sẵn sàng ăn
nem một cách êm ru bà rù, như một hành động
đền ơn đáp nghĩa. Ấy là chưa kể những anh đờn
ông hắc ám mang ý đồ đen tối, đã tính toán
cộng trừ nhân chia khi bỏ tiền ra giúp đỡ.
Ông chồng ấy có thể là một người rất gắn
bó với gia đình, nhưng cũng lại rất say mê với
một lý tưởng, hay tất bật trong công việc làm ăn,
nên không còn thời giờ dành cho vợ cho con. Bà
vợ cần một trái tim để chia sẻ, cần một bờ vai để
tựa đầu. Chờ miết mà không được, đợi mãi mà
không thấy, thì đành phải đi tìm một trái tim khác
để chia sẻ và một bờ vai khác để tựa đầu. Và
thế là rơi tõm vào cảnh ăn nem.
MỤC LỤC

Dĩ nhiên ông chồng ấy còn có thể mắc phải


những sai lỗi khác nữa, có những sai lỗi công
khai, có những sai lỗi thầm kín, nhưng bằng đó
mà thôi cũng đã đủ để kiểm điểm lại quãng đời
làm chồng của mình.
Lý do thứ hai là những hoàn cảnh bên
ngoài. Những hoàn cảnh ấy nhiều lúc đã ảnh
hưởng sâu đậm và làm cho chị đờn bà bị lung
lạc và chao đảo.
Chẳng hạn như bạn bè xấu. Hễ tụ tập lại
với nhau, nếu không nói xấu người vắng mặt, thì
cũng lại bàn về chuyện…ấy, chuyện ăn nem và
rất lấy làm hãnh diện như muốn khoe thành tích
vậy. Thậm chí đôi lúc còn rủ rê nhau nhập hội,
nhập băng, làm thử, chí ít cũng một lần, cho
biết…mùi đời.
Chẳng hạn như những phương tiện thông
tin hiện đại. Nào “chát”, nào “meo”, nào “mô bai”,
MỤC LỤC

tha hồ mà cởi mở cõi lòng, tha hồ mà tâm sự


bầu cua tôm cá, tha hồ mà hò hẹn một cách bí
mật chẳng ai biết đến.
Những hoàn cảnh ấy là như “ma dẫn lối,
quỉ đưa đường”, hay nói cách khác, những hoàn
cảnh ấy là những thế lực ngầm thúc đẩy chị vợ
đi tới chỗ…ăn nem.
Để kết thúc, gã xin đưa ra hai mẫu gương
nói về sự thành công trong đời sống gia đình
cũng như trong đời sống vợ chồng.
Mẫu gương thứ nhất là ông bà Curie.
Ông đã phải vất vả đeo đuổi và tấn công
suốt ba năm mới dành được tình yêu của bà. Bí
quyết sống của họ, đó là :
- Yêu nhau trong sự hợp tác.
Cùng học và cùng làm việc với nhau trong
phòng thí nghiệm. Về tài năng có thể nói được
rằng :
MỤC LỤC

- Ông tám lạng thì bà cũng nửa cân.


Cả hai đều biết kính nể nhau. Bằng chứng
là ghế giáo sư vật lý ở trường đại học đã được
dành cho người phụ nữ đầu tiên là bà, sau khi
ông mất. Lúc nhận việc, bà đã khiêm tốn nói :
- Tôi thử cố gắng dạy.
Quả nhiên, bà cũng đã thành công chẳng
thua kém gì ông.
Mẫu gương thứ hai là ông bà Nixon.
Sự nghiệp của ông tổng thống nước Mỹ
này phần lớn là do bà vợ. Bà luôn sát cánh với
chồng qua mọi việc, ở mọi nơi và trong mọi lúc,
để chia sẻ những nỗi cực nhọc thuở hàn vi,
cũng như làm phụ tá đắc lực cho ông trong việc
tranh cử, soạn diễn văn, thiết đãi quan khách…
Bà là người đầu tiên xứng đáng để cho ông giới
thiệu với các ký giả, lúc tuyên thệ nhận chức
tổng thống.
MỤC LỤC

Không biết những mẫu gương này có còn


được những cặp vợ chồng hôm nay noi theo và
bắt chước nữa hay không ?
MỤC LỤC

KÝ SINH

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Trên tuần báo Công giáo và Dân tộc, số


1429, gã đọc được một bài viết ngăn ngắn của
Khổng Thành Ngọc với tựa đề “Khúc bi ai của
người cầm bút”. Tác giả đã mô tả như sau :
“Trong số những người đến dự phiên tòa
phúc thẩm một vụ án lớn, có một phụ nữ trẻ, ăn
mặc rất mô-đen, thời thượng. Chồng chị vốn là
một nhà báo, nay đang âu sầu đứng trước vành
móng ngựa. Lạ một nỗi, chị vẫn tươi cười, không
một dấu hiệu trên gương mặt tỏ vẻ buồn phiền,
lo âu.
Bị-cáo-nhà-báo kia đang bị các nhân chứng
khai đã trắng trợn tống tiền họ, lợi dụng uy thế
báo chí ép buộc phải cống nạp. Tiền mãi-lộ
mua-đường nộp cho ông nhà báo mỗi lần vài
MỤC LỤC

chục triệu. Kẻ-bán-chữ cúi gầm mặt hổ thẹn


trước những lời tố cáo. Còn cô vợ ngồi nghe
những lời cáo buộc chồng mình, xem chừng
vẫn…vô tư. Có mấy người dự khán liếc nhìn chị,
lắc đầu ngao ngán. Có lẽ họ đau cho ông chồng
nhà báo đã phải bán rẻ lương tâm người cầm
bút, kiếm chác càng nhiều càng tốt, đặng cung
phụng cho cô vợ trẻ se xua.
Không ai, kể cả luật pháp động đến chị ta.
Bởi chị vô can. Cũng chẳng người nào có thể
lân la góp ý, khuyên can. Bởi chị ta là…chị ta.
Chị có quyền sống theo cách của mình. Nghe
đâu, chị đang rắp ranh mua xe hơi, đặng theo
kịp trào lưu những người có của. Thôi cũng
mặc…
Tác giả còn “thuyết giảng” một chặp nữa về
lương tâm của người cầm bút, đồng thời kêu gọi
MỤC LỤC

hãy đề cao cảnh giác trước những cơn cám dỗ


ngọt ngào.
Hồi trước năm 1975, gã đã từng được nghe
nói đến những anh nhà báo báo hại, chuyên
môn đi tống tiền thiên hạ một cách trắng trợn.
Những độc chiêu anh ta tung ra để thiên hạ chui
đầu vào rọ, không phải chỉ có tam thập lục kế,
ba mươi sáu kế mà thôi, nhưng nó còn thiên
biến vạn hóa, đến quỉ thần cũng không lường
nổi.
Đại khái, anh ta khéo ỡm ờ mở đầu loạt bài
phóng sự điều tra của mình bằng những chữ
viết tắt : Ở quận H, tỉnh N, có một nhân vật tên
K…Rồi sau đó, anh ta vòng vo tam quốc, tán
hươu tán vượn với mục đích rung cây và chờ
đợi.
Người bị ngòi bút của anh ta đụng chạm
tới, nếu quả thực trong dĩ vãng đã có những lem
MỤC LỤC

nhem về tình hay những thiếu trong sáng về


tiền, liền cảm thấy nhột nhạt. Và thế là lập tức
liên hệ với anh ta, để thương lượng và trả giá.
Nếu giá cả quá bèo, không đáp ứng với
lòng tham lam của anh ta, thì ngay trên số báo
sau, anh ta sẽ không ngần ngại loan báo cho
bàn dân thiên hạ được biết :
- Ngày ấy tháng ấy, ông K đã đưa cho tôi
số tiền là…với mục đích bịt miệng dư luận.
Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp, tôi nhất định
không chịu bẻ cong ngòi bút, nên vẫn cứ tiếp tục
phanh phui.
Còn nếu như giá cả hợp tình và hợp lý
đúng theo những tính toán cộng trừ nhân chia
của anh ta, thì loạt bài phóng sự điều tra ấy sẽ
được…chìm xuồng và chẳng bao giờ xuất hiện
nữa.
MỤC LỤC

Thế nhưng trong bài này, gã xin tạm gác


hình ảnh thảm hại của anh nhà báo qua một
bên, để chiêm ngưỡng dung nhan chị vợ. Chị ta
chẳng cần phải lao động, mà chỉ cần : khi thì
nhõng nhẽo, khi thì mè nheo, lúc thì hồ hởi, lúc
thì lạnh lùng đòi mua sắm đủ thứ…
Tới nước này, anh chồng tội nghiệp chỉ còn
biết gật đầu chiều theo. Rồi bằng mọi cách, dù là
bất chính, ra sức kiếm chác càng nhiều càng tốt,
hầu cung phụng cho chị ta. Mặc dầu đã biết
trước những hiểm nguy đang rình rập từng
bước, anh ta vẫn cắn răng đánh bài liều, thôi thì
cũng mặc :
- Một liều ba bảy cũng liều.
Hay như Nguyễn Du đã viết :
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần tới đâu ?
MỤC LỤC

Càng chiêm ngưỡng dung nhan chị vợ, gã


càng cảm thấy chị ta có những nét phảng phất
giống như một loài ký sinh, bám chặt lấy anh
chồng, khiến anh ta cứ chết dần chết mòn, thậm
chí còn chết…tươi đi lúc nào cũng chẳng biết.
Vì không phải là một chuyên viên thứ thiệc,
nên gã đành phải bật tự điển để “tra kíu” cũng
như…”ngâm kíu” tí chút và gã đã ghi nhận được
những định nghĩa như sau :
Ký có nghĩa là gửi, nhờ vả, ở đậu.
Sinh có nhiều nghĩa, và một trong những
nghĩa ấy là sống.
Như vậy ký sinh có nghĩa là sống bám,
sống gửi, sống nhờ…Về phương diện này,
người ta đã chia ký sinh ra làm hai loại, đó là
loại động vật và loại thực vật.
Thứ nhất, ký sinh thuộc loại động vật, trước
hết là những loài sống bám trên da thịt người
MỤC LỤC

hay vật khác, chẳng hạn như chấy, rận, bọ


chét…Môi trường hoạt động của chúng mới chỉ
ở phía bên ngoài mà thôi.
Gã còn nhớ hình ảnh ngày xưa về những
bà mẹ già ở miền Bắc. Thực vậy vào mùa đông
trời rét đậm, nhưng thỉnh thoảng cũng có những
ngày mặt trời ló dạng, chiếu tỏa những tia nắng
ấm. Vào những ngày nắng ấm họa hiếm ấy, các
bà thường đem chăn chiếu, mùng mền ra phơi.
Có bà ngồi bên ngưỡng cửa vừa chải tóc cho
con và vừa bắt chấy. Có bà vừa ngồi hong nắng,
vừa vạch những đường khâu trên áo quần để
bắt rận. Bắt được con chấy hay con rận nào thì
lấy móng tay ấn xuống cho chết, hay đưa lên
miệng mà cắn, nghe nổ đánh đét một cái.
Hồi xưa còn bé, sống trong lưu xá, nếu
phát hiện ra giường cu cậu nào có rệp, thì lập
tức sẽ có một ngày làm công tác tổng vệ sinh.
MỤC LỤC

Giường thì được phun thuốc DDT, còn chăn


chiếu mùng mền thì được đem giặt bằng nước
sôi, để tận diệt cho bằng hết loại ký sinh, chuyên
hút máu của những cậu bé dễ thương như…gã.
Cách đây không lâu, người ta cho gã một
con chó kiểng. Chú chó này thật xinh với bộ lông
xù. Thân hình nhỏ bé chỉ bằng cổ chân mà thôi.
Ngày nào cũng phải tắm gội cho chú bằng xà
bông. Ai nhìn cũng thích. Thậm chí mấy chị sinh
viên tới chơi đã đưa ra một “lời đề nghị khiếm
nhã” với gã, đó là cho mấy chị ấy mượn tạm chú
chó lông xù ít ngày để mang về làm vui cửa vui
nhà.
Thế rồi vì bận công việc, gã phải đi vắng
mất hai tuần lễ. Khi trở về mới thấy chú chó nhỏ
mới tang thương ngẫu lục làm sao. Trên thân
hình nhỏ bé và tiều tụy ấy, chỗ nào cũng thấy bọ
chét đủ loại. Có con thì to, sau khi hút máu cang
MỤC LỤC

phồng như đầu đũa. Có con thì nhỏ, mình đen


hay đỏ bóng, chân búng thật mạnh để thoát thân
mỗi khi gặp nạn. Chúng sinh sôi nảy nở thật
khủng khiếp, thậm chí còn bám đầy cả trên
tường vách nữa.
Thế là gã bèn phải mất toi mấy ngày để làm
vệ sinh cho chú chó nhỏ, mới cứu vãn được tình
thế. Gã dùng chiếc “panh” gắp từng con bọ chét,
cho vào lon sữa bò đựng dầu lửa. Lại còn phải
đem chú chó đi tắm gội và xịt thuốc lên tường
vách, sau đó môi trường mới dần dần trở lại cái
thế ổn định như trước.
Trong khi đau cả lưng, mỏi cả mắt vì ngồi
bắt bọ chét, gã mới nghiệm ra lời thiên hạ nói
ngày xưa là đúng :
- Trong cuộc sống có ba việc làm thật luống
công vô ích và phí phạm thời giờ : Thứ nhất là
MỤC LỤC

giảng cho các cha, thứ hai là giải tội cho các sơ
và thứ ba là bắt bọ cho chó.
Hai việc trên gã không biết thế nào, chứ
việc thứ ba xem ra có phần đúng, bởi vì hôm
nay mình bắt tưởng chừng như đã hết, ngày mai
vạch ra lại thấy có và còn có nhiều nữa mới chết
không cơ chứ.
Tiếp đến là những loài sống bám trong cơ
thể người hay vật khác, chẳng hạn như giun,
sán…Môi trường hoạt động của chúng là ở phía
bên trong, nơi lục phủ ngũ tạng và gây nên
những chứng bệnh đôi khi cũng rất trầm trọng.
Về giun sán, gã có một kỷ niệm nhớ đời
như sau :
Số là vào một ngày nọ, gã và một thằng
bạn rủ nhau đi phố. Trên con dốc về nhà, nó
bỗng cao hứng hát oang oang :
MỤC LỤC

- Trời hôm nay thanh thanh, gió đưa cành


mơn man tà áo…
Sau khi hát rông rổng mỏi cả miệng nó bèn
phán :
- Giả sử như lúc này có một đám giun sán
lúc nhúc trong bụng, bao nhiêu chất bổ béo ta
xơi vào, chúng liền tranh nhau đớp cho bằng
sạch. Thảo nào mà ta vẫn gầy còm, ốm yếu tong
teo như những kẻ suy dinh dưỡng. Phen này ta
phải diệt bằng hết lũ ký sinh khốn nạn ấy.
Đồng ý với những hậu quả tai hại, hai đứa
bèn nhất trí quay phắt ra chợ, ghé vô một tiệm
thuốc tây và hỏi :
- Ở đây có loại thuốc giun nào mới nhất và
mạnh nhất thì bán cho chúng tôi, mỗi đứa một
liều.
Cô bán thuốc bèn đưa cho mỗi đứa một lọ.
Về nhà, sau khi đọc kỹ tờ hướng dẫn, hai đứa
MỤC LỤC

liền nhắm mắt nhắm mũi uống đánh ực một cái.


Sáng hôm sau, cả hai đều mệt đứ đừ vì suốt
đêm bị Tào Tháo rượt mà chẳng thấy một con
giun hay một con sán nào cả.
Theo tờ hướng dẫn, nếu không thấy thì
phải mua ngay một ve thuốc xổ để uống thêm.
Gã hỏi thằng bạn :
- Mày dám chơi nữa không ?
Thằng bạn lắc đầu quầy quậy :
- Em chả giám đâu.
Thế là một mình gã, từng bước chân âm
thầm và xiêu vẹo, đi bộ ra chợ mua lấy một ve
thuốc sổ. Thuốc xổ vừa tanh lại vừa khó xơi. Nó
cứ như quyện lại thành một cục đóng ở cổ, nuốt
mãi chẳng chịu trôi. Sáng hôm sau, gã bị liệt
giường liệt chiếu, bất nhóc nhách, nhìn cái gì
cũng vàng vọt. Thằng bạn nhanh trí pha cho một
ly sữa, uống vào để cầm hơi, mãi tới trưa mới
MỤC LỤC

tỉnh hẳn. Và từ đó, gã đành phải “bái bai” cái


món thuốc giun.
Thứ hai, ký sinh thuộc loại thực vật là
những loài sống bám trên thân của một cây
khác, chẳng hạn lan, nấm, tầm gửi, dây tơ
hồng…
Nơi gã đang cắm dùi, dây tơ hồng không
ngừng được phát triển. Dĩ nhiên dây tơ hồng ở
đây không phải là sợi chỉ đỏ mà Nguyệt Lão
dùng để xe kết một anh chàng với một chị chàng
để nên duyên vợ chồng. Dây tơ hồng ở đây là
một thứ dây leo thân trơn, hoa trắng, cánh
mỏng, sống trên tàn cây cỏ khác, gốc không
chấm đất.
Trong vườn, gã trồng mấy cây tùng, hằng
tháng đều phải cắt tỉa, như mình đi hót tóc hay
cạo râu, để giữ lấy cái dáng vẻ như mình mong
muốn. Thế nhưng, không biết từ đâu, bỗng dưng
MỤC LỤC

dây tơ hồng rớt xuống, phát triển mau lẹ, chỉ


trong một thời gian ngắn đã gần phủ kín cả tàn
cây. Nếu không hủy diệt kịp thời, thì cây sẽ
bị chết …đứng.
Ngoài hai loại động vật và thực vật kể trên,
theo ý gã, còn một loại thứ ba nguy hiểm hơn,
đó là loài người. Ký sinh thuộc dạng người là
những kẻ chỉ biết sống bám vào người khác, mà
chẳng chịu lao động sản xuất, đóng góp cho gia
đình và xã hội. Gã xin đưa ra một vài thí dụ điển
hình.
Thí dụ thứ nhất, đó là chị vợ trong phiên tòa
xử anh nhà báo, mà gã đã đề cập ở trên, bây
giờ xin miễn bàn tới.
Thí dụ tứ hai, đó là là anh chồng vừa mang
đầu óc độc tài, độc đoán và cả độc ác nữa, mở
mồm mở miệng ra là phán thế này, phán thế nọ,
vừa dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, chẳng hề làm
MỤC LỤC

lụng nhưng lại đòi được cung phụng với chất


lượng cao, theo kiểu cơm bưng nước rót :
- Bố tôi hay tửu hay tăm,
Hay nghiện chè tàu, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
Gã đã từng chứng kiến một ông chồng
chẳng bao giờ đụng tay vào bất cứ công việc gì,
suốt ngày chỉ biết ăn và ngủ. Thời gian còn lại
thì tổ tôm xóc đĩa, hay đấu hót với bè bạn trong
xóm.
Còn bà vợ quần quật suốt ngày, buôn tần
bán tảo, buôn ngược bán xuôi, buôn thúng bán
mẹt…chăm sóc từng bó rau muống và từng quả
cà pháo, chắt chiu từng đồng xu và cắc bạc. Thế
mà mỗi bữa cơm, đều phải dọn cho ông chồng
một mâm riêng, trên đó có đủ thịt cá và cả một xị
MỤC LỤC

rượu nữa. Ông chồng dùng xong, bà vợ và con


cái mới được xơi.
Thí dụ thứ ba, đó là những cậu ấm cô chiêu
được cha mẹ gửi đi học nước ngoài, hay những
người con được cha mẹ gửi lên thành phố theo
đại học. Học thì chẳng bao nhiêu, mà đua đòi
theo bè bạn thì nhiều. Họ cố tình làm ngơ và
không hiểu rằng ở miền quê, cha mẹ đả phải vất
vả đổ mồ hôi sôi nước mắt trên ruộng đồng, thu
hoạch được ban nhiêu lúa thóc, liền đem bán
hết lấy tiền cung cấp cho con.
Mới đây trên báo Phụ Nữ Chủ Nhật, có một
bài mang tựa đề là “Tầm gửi”, trong đó tác giả
mô tả những kiểu sống bám của một phần giới
trẻ hôm nay.
Họ là những cô cử được dán “mác bởi tấm
“bằng đỏ” đàng hoàng. Họ cũng có thể là những
nữ sinh viên vẫn còn cắp sách đến trường, hay
MỤC LỤC

những nữ nhân viên trẻ trung, duyên dáng và


mẫn cán…Họ có sở thích shopping, sư tầm
hàng hiệu và thú vui “thay bồ như thay áo”.
Một điểm chung nữa là thay vì “còng lưng,
cật lực”bằng sức lao động của mình, để nuôi
sống bản thân, thì các cô gái này lại chấp nhận
làm thân “tầm gửi” cho những “đại gia” hoặc
“thiếu gia” lắm tật nhiều tiền…
Trong khi bạn bè cùng lớp một buổi đi học,
một buổi đi chạy bàn, dạy kèm, làm tiếp thị,
thậm chí giúp việc nhà để có tiền trang trải cuộc
sống, thì VH thong thả sắm vai một “nữ sinh quí
tộc” với sự “bảo trợ” của một cậu ấm hào hoa
đất Saigon.
Mọi thứ cô đã có người yêu lo từ A đến Z,
đi học cho có lệ, miễn sao lấy được tấm bằng.
Chuyện việc làm thì chàng hứa sẽ nhờ “ông già”
lo hộ.
MỤC LỤC

Nhiều người tỏ ra lo ngại :


- Chưa chắc bảo đảm, con trai thành phố
mà, một khi nó đã chán rồi thì…
Dẫu sao VH cũng bằng lòng được làm thân
“tầm gửi”, bởi theo cô :
- Được nhiều cái nhưng có mất gì đâu.
Hoặc có mất đi nữa thì cũng…đáng.
Không xinh đẹp như VH, nhưng nhờ có biệt
tài “ngoại giao”, giỏi ăn nói nên TV không mấy
khó khăn để thiết lập những “mối quan hệ cần
thiết” từ khi cô chưa tốt nghiệp khoa báo chí.
Cùng với quan niệm “có mất gì thì cũng đáng”,
TV sẵn sàng làm “người tình bé nhỏ” của các
“sếp”, những mong có được một cuộc sống an
nhàn, hay chí ít cũng làm một việc làm giữa cái
thời “việc ít, người nhiều”…
Còn một loại tầm gửi nữa mà người ta hay
gọi là một thứ “ký sinh hợp pháp”. Họ là đại diện
MỤC LỤC

của những người trẻ “vào đời không bằng đôi


chân của mình”. Đa phần loại tầm gửi này đều là
những cậu ấm cô chiêu được cưng chiều và
hoàn toàn yên tâm về một “tương lai tươi sáng”
dưới sự che chở của những “gốc” cỡ bự và chắc
chắn chính là bố mẹ của họ…
TB, một sinh viên đã từng tuyên bố như thế
này :
- Học cho lắm ra trường cũng thất nghiệp,
bè bạn tớ đã có bao nhiêu đứa như thế ! Thời
buổi này hoặc là phải có “gốc bự”, hoặc là phải
biết cách chi.
Những kiểu ký sinh như vừa kể ở trên chắc
chắn sẽ đem lại những thảm khốc cho bản thân
cũng như cho chính kẻ mình sống bám. Khi kẻ
ấy đi đoong thì những loại người ký sinh kia
cũng sẽ đi đoong theo.
MỤC LỤC

Sách Cổ Học Tinh Hoa có kể lại một mẩu


chuyện như sau :
Ba con rận hút máu một con lợn, tranh
nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác
gặp và hỏi :
- Ba anh kiện nhau về việc gì thế ?
Ba con rận đáp :
- Chúng tôi kiện nhau vì tranh một chỗ đất
màu mỡ.
Con rận kia nói :
- Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh nhau
làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của
người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của nồi nước sôi
cạo lợn mà thôi.
Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không
đi kện nữa, cùng nhau quần tụ, làm ăn với nhau,
dù no dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn
MỤC LỤC

thành mỗi ngày một gầy, người ta không làm thịt


cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no đủ mãi.
Người xưa đã từng bảo :
- Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời.
Tương lai đang chờ đón chúng ta. Vì thế,
phải biết kiên trì thu lượm những kiến thức làm
đẹp cho bản thân và làm giàu cho cuộc sống. Và
điều quan trọng là phải biết bước đi bằng chính
đôi thân của mình, có nghĩa là phải biết cứu lấy
mình trước đã, rồi trời sẽ cứu.
Văn Công nước Đằng hỏi thầy Mạnh Tử
rằng :
- Nước Đằng ta là một nước nhỏ ở vào
khoảng giữa nước Tề và nước Sở là hai nước
lớn.Kể phận thì phải chiều cả hai nước, nhưng
kể sức thì không thể chiều được cả. Chiều nước
Tề chăng ? Chiều nước Sở chăng ? Ta thực
MỤC LỤC

không biết nên nương tựa vào nước nào để cho


nước ta được yên ổn, thầy mưu tính hộ cho ta.
Thầy Mạnh Tử thưa :
- Phàm việc gì mà cứ trông cậy vào người
thì không thể chắc được. Chiều Tề thì Sở giận,
chiều Sở thì Tề giận. Mưu ấy chúng tôi không
thể nghĩ kịp. Xin nói một cách là tự giữ lấy nước,
đào hào cho sâu, đắp thành cho cao, cai trị một
cách cố kết lòng dân, cùng dân giữ nước. Hoặc
nhỡ có biến cố gì xảy ra, vua đã liều chết giữ
nước, thì chắc dân cũng liều chết giữ nước,
không nỡ bỏ vua. Thế là ta dùng cái lòng của
dân để giữ lấy nước. Tự cường mà lo tan lấy
việc nước. Còn chiều Tề hay chiều Sở, thì tôi
không thể quyết được.
Kinh nghiệm cuộc sống cũng cho gã thấy
như vậy. Tin tưởng vào Mỹ, cậy nhờ viện trợ
Mỹ, đến khi Mỹ quay phắt góc một trăm tám
MỤC LỤC

mươi độ, cắt viện trợ và bỏ ta. Thế là ta chao


đảo và tiêu tùng luôn.
Gã xin mượn tạm mấy lời sau đây của tác
giả Diệu Phi trong bài “Tầm gửi” như một kết
luận :
Sống như thế nào là quyền của mỗi người.
Dẫu sao vào đời bằng “đôi chân của chính mình”
vẫn thể hiện bản lĩnh, nghị lực sống của giới trẻ
hôm nay.
Tất nhiên “đôi chân” đó phải được hiểu là
những giá trị của bản thân, là tài năng, là
chuyên môn và những phẩm chất khác ở mỗi
người.
Đó không phải là cái “bệ phóng”, chiếc
chân giả dễ làm người ta hụt hẫng vấp ngã.
Càng không phải là thứ “vốn tự có” mà nhiều cô
gái trẻ khai thác triệt để, những mong được an
nhàn, dù phải làm thứ tầm gửi sống ký sinh !!!
MỤC LỤC

QUÊN VÀ NHỚ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Sách Liệt Tử có ghi lại một câu chuyện như


sau :
Nước Tống có một người đã đứng tuổi, tự
nhiên mắc phải chứng bệnh kỳ lạ, đó là bệnh
quên.
Buổi sáng lấy gì của ai, buổi chiều đã quên.
Hôm nay ai cho cái gì, ngày mai lại chẳng nhớ.
Ra đường quên cả đi, về nhà quên cả ngồi.
Trước đã làm gì, bây giờ quên hết. Và hiện nay
đang làm gì, sau này cũng chẳng nhớ. Cả nhà
rất lo lắng về bệnh tình của anh ta, bèn tìm thầy
chạy thuốc, chữa hết mọi cách mà cũng chẳng
khỏi.
Sau đó, có ông thầy đồ, người nước Lỗ, nói
rằng chữa được. Vợ của người bệnh hứa với
MỤC LỤC

ông thầy đồ là nếu chữa lành bệnh cho chồng,


thì sẽ chia cho ông phân nửa gia sản.
Trước hết, ông thầy đồ thử anh ta bằng
cách lột áo ra để cho bị rét lạnh, thì anh ta xin
áo. Bỏ đói không cho ăn, thì anh ta xin ăn. Sai
đem vào chỗ tối, thì anh ta xin ra chỗ sáng. Thấy
những phản ứng như vậy của người bệnh, ông
thầy đồ càng tin tưởng và nhận lời chữa bệnh.
Chẳng ai biết ông thầy đồ đã chữa như thế
nào mà sau bảy ngày, anh ta trở lại bình
thường. Tuy nhiên, khi tỉnh táo bình thường, anh
ta lại sinh nóng giận, chửi vợ đánh con, cầm dao
rượt ông thầy đồ đã chữa cho mình.
Những người chung quanh bắt giữ anh ta
lại và hỏi lý do tại sao lại làm như thế, thì được
anh ta trả lời như sau :
- Lúc trước tôi mắc bệnh quên, thì lòng tôi
thảnh thơi khoan khoái, trời đất có còn hay
MỤC LỤC

không, tôi chẳng cần biết. Nay hết bệnh, tôi nhớ
tất cả mọi sự, cả những chuyện của mấy mươi
năm về trước : chuyện vui và chuyện buồn,
chuyện yêu và chuyện ghét, chuyện thành công
và chuyện thất bại, nên lòng tôi trở nên rối bời,
ngổn ngang trăm mối. Chuyện buồn, chuyện
ghét và chuyện thất bại thì lại nhớ lâu và nhớ
sâu hơn. E rằng sau này những chuyện ấy sẽ
bám theo tôi mãi mãi, dù có muốn quên cũng
không quên được. Và nếu bị dày vò như vậy,
thử hỏi tôi có tức giận được hay không chứ ?
Nghe xong câu chuyện trên, hẳn có người
sẽ thầm nghĩ :
- Nếu trí nhớ mà như vậy, thì thà rằng mắc
bệnh quên còn hơn.
Tuy nhiên, nghĩ đi thì cũng cần phải nghĩ
lại, bởi vì người mắc bệnh quên cũng đau khổ
MỤC LỤC

lắm chứ. Gã xin đưa ra một vài trường hợp điển


hình.
Trường hợp thứ nhất, đó là bên cạnh nhà
gã có một bà cụ, hầu như suốt dọc cuộc đời, bà
cụ là một người rất khôn ngoan, ăn nói đâu ra
đấy, đúng bài bổn hẳn hoi, khiến mọi người đều
phải tâm phục khẩu phục bà cụ sát đất. Bà cụ
không những quán xuyến việc nhà một cách
tuyệt vời, mà còn tham gia những công tác xã
hội, thậm chí lại còn giúp đỡ ông chồng trong
những chức vụ mà bàn dân thiên hạ đã tín
nhiệm trao cho ông ta, theo kiểu :
- Gái ngoan làm quan thay chồng !
Thế nhưng, vào những tháng năm cuối
cùng, bà cụ bỗng dưng quên hết, quên sạch
sành sanh, không còn nhớ gì cả, ngay đến con
cháu trong nhà bà cụ cũng quên mất tiêu. Có thể
nói được rằng “ổ dĩa cứng” trong đầu óc bà cụ
MỤC LỤC

đã bị xóa tất tật, hoàn toàn trắng, chẳng còn lưu


giữ được bất kỳ một kỷ niệm nào của dĩ vãng và
hiện tại.
Bà cụ trở nên như một đứa con nít, ai cho
gì thì ăn nấy. Có lúc còn vầy vò cục phân của
mình như đứa nhỏ nhào nặn cục đất sét. Tới
nhà thờ, bà cụ chen lấn, tiến lên phía trước và
thượng cẳng chân hạ cẳng tay với những người
chung quanh. Đi tới đâu, hễ thấy guốc dép là bà
cụ lẳng lặng xách về nhà. Tội nghiệp cho mấy
đứa cháu phải mang đi trả lại cho khổ chủ.
Trường hợp thứ hai, đó là là một anh bạn
của gã. Sau thời gian học tập cải tạo, anh ta
được trả tự do, nhưng cũng từ đó anh ta mắc
phải chứng bệnh quên. Mấy lần anh ta suýt chết
vì tai nạn giao thông, bởi lẽ đang đi ngoài
đường, bỗng dưng anh ta quên tiệt, chẳng biết
mình đang làm gì, thành thử chiếc xe của anh ta
MỤC LỤC

cứ vô tư lao vào lề đường, ủi vô gốc cây, hay


hôn vào đít xe khác.
Lần nào đến thăm, anh ta cũng hỏi địa chỉ.
Gã thấy anh ta ghi vào sổ hẳn hoi. Thế nhưng,
chỉ năm phút sau trong câu chuyện, anh ta cũng
lại hỏi địa chỉ và cũng lại ghi vào sổ hẳn hoi. Và
lần đến thăm nào cũng vậy.
Trường hợp thứ ba, đó là là một anh bạn
khác, tên Khánh, người gốc Qui Nhơn. Anh bạn
này nổi bật về tính hay quên, nên được thiên hạ
ưu ái dành cho cái biệt hiệu rất dễ thương là
Khánh Siêu.
Có những lần đi tắm, nhưng anh chàng lại
hay quên, nên không mang theo quần áo thay,
thành thử khi tắm xong, cứ đứng trong phòng
mà la oai oái.
Thiên hạ thì mặc quần đùi trước, rồi mới
mặc quần dài sau. Thế nhưng anh chàng lại hay
MỤC LỤC

quên, nên mặc quần dài trước, rồi sau mới xỏ


quần đùi, thảo nào kéo mãi mà nó chẳng chịu
lên.
Sống trong lưu xá, thì giờ nào việc nấy,
nhưng anh chàng lại hay quên, nên thường lộn
giờ. Trong khi thiên hạ vô lớp học, thì anh chàng
lại ung dung xuống nhà cơm. Trong khi thiên hạ
xuống nhà cơm, thì anh chàng lại thong thả đến
nhà nguyện…Về những chuyện quên của anh
chàng, thì nói tới nói lui cũng chẳng bao giờ hết.
Đã bảo : Siêu mà !
Sau cùng, trường hợp thứ tư là chính bản
thân gã. Với tí tuổi đời đeo nặng trên vai, gã cảm
thấy trí nhớ mỗi ngày một cùn. Ngày xưa còn bé
thì học đâu nhớ đấy. Còn bây giờ thì học đâu
quên đấy.
Thậm chí có những chữ vừa mới bật tự
điển xong, thế mà chỉ một lúc sau bỗng dưng
MỤC LỤC

quên béng đi mất. Có những người rất thân


quen, thế mà bỗng dưng quên mất tên. Lắm lúc
phải mất vài ngày cái tên ấy mới “tái xuất giang
hồ” trong bộ nhớ của gã.
Tuy nhiên, gã cũng rất lấy làm an ủi, bởi vì
có một ông triết gia nào đó đã định nghĩa một
cách tối om như sau :
- Trí nhớ ấy hả ? Đó là một khả năng hay
quên.
Mà đúng như vậy. Nếu chúng ta nhớ hết
mọi chuyện, từ chuyện to cho chí chuyện nhỏ, từ
chuyện xảy ra hồi còn bé cho chí chuyện xảy ra
bây giờ trong ngày hôm nay, thì đầu óc chúng ta
sẽ nổ tung vì không đủ chỗ chứa, hay bản thân
chúng ta sẽ hóa điên mất thôi vì tình trạng…quá
tải.
MỤC LỤC

Trong những cuộc tiếp xúc, gã ghi nhận


được hai trạng thái quên : quên cố tình và quên
vô tình.
Trước hết là quên cố tình, khi chúng ta lạm
dụng cái quên để thủ lợi cho mình. Chẳng hạn đi
siêu thị, chúng ta quên không trả tiền, hay chúng
ta không nhớ gì lúc “cầm nhầm” hàng hóa cũng
như vật dụng của người khác.
Tiếp đến là quên vô tình, khi chúng ta quên
một cách vô tư mà không hề so đo tính toán.
Chẳng hạn một anh bạn nhậu ngoắc cần câu,
khi tỉnh lại, hỏi gì anh ta cũng chẳng nhớ :
- Tối hôm qua anh đã hứa với tụi này một
chầu bia.
Anh ta trả lời :
- Thế à.
Nếu nói tiếp :
MỤC LỤC

- Tối hôm qua, anh đã bảo rằng nhà anh đã


khóc với anh.
Anh ta cũng trả lời :
- Thế à.
Và nếu còn tiếp tục hỏi :
- Tối hôm qua, không hiểu tại sao anh đã
gục mặt xuống bàn mà chết tại trận, lại suýt nữa
còn cho chó ăn chè ?
Anh ta cũng chỉ trả lời :
- Thế à.
Nếu suy nghĩ sâu hơn một tí, gã nhận ra
rằng giữa quên và nhớ, chúng ta thường sống
theo một nghịch lý như sau :
- Đó là có những điều cần phải nhớ, thì
chúng ta lại quên. Trong khi ấy, có những điều
cần phải quên, thì chúng ta lại nhớ.
Chẳng hạn chúng ta cần phải nhớ công ơn
của cha mẹ, công ơn của thầy cô, cũng như
MỤC LỤC

công ơn của biết bao nhiêu vị ân nhân đã âm


thầm góp phần xây dựng cuộc đời, thì chúng ta
lại quên.
Trong khi đó, những hận thù, những oán
ghét, những lỗi phạm của kẻ khác cần phải
được quên đi, thì chúng ta lại nhớ mãi, nhớ hoài.
Nghịch lý này cũng giống như nghịch lý mà
một cô gái đôi khi đã gặp phải trong khi tập thể
dục thẩm mỹ, để có được một thân hình xinh
đẹp :
- Đó là có những chỗ cần phải tóp vào, thì
nó lại phình ra. Trong khi ấy có những chỗ cần
phải phình ra, thì nó lại tóp vào.
Thành thử thay vì ngực nở bụng thon, thì
cô gái kém may mắn này lại hóa ra…ngực thon
bụng nở.
Sở dĩ chúng ta luôn sống theo cái nghịch lý
giữa “quên và nhớ” như trên là vì trong cuộc
MỤC LỤC

sống chúng ta thường nhìn thấy những cái xấu,


mà ít khi nhìn thấy những cái đẹp của người
khác.
Gã xin đưa ra một thí dụ, chẳng hạn như
Giáo hội Công giáo. Trải qua dòng lịch sử, Giáo
hội đã làm được biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho
nhân loại, từ văn hóa và nghệ thuật đến luân lý
và đạo đức. Những điều tốt đẹp này ít khi được
nhắc đến.
Thế nhưng, lỡ có một sai phạm hay một “xì
căng đan” nào đó, thì lập tức người ta thổi
phồng, người ta la lối, người ta phản đối om
xòm…Người ta chỉ nhìn thấy cái rơm cái rác
trong mắt người khác, mà quên đi cái xà trong
mắt mình.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo :
- Một cây ngã đổ sẽ gây ồn ào hơn cả một
cánh rừng đang mọc.
MỤC LỤC

Cũng vậy, một tác giả đã viết như sau :


- Thông thường người ta hay chú ý tới vết
đen trên trang giấy trắng hơn là nhìn tờ giấy
trắng còn một vết đen. Hai cách nhìn, một chiều
tiêu cực và một chiều tích cực. Cách nhìn của
tiêu cực hướng người ta về vết đen, để rồi
không nhìn thấy trang giấy trắng. Cách nhìn tích
cực hướng người ta đến trang giấy trắng còn lại
một vết đen. Cách nhìn tiêu cực là cách nhìn tẩy
chay và phê phán. Còn cách nhìn tích cực là
cách nhìn khích lệ và xây dựng.
Có một câu chuyện kể lại rằng :
Vừa đặt chân tới một miền đất mới, các vị
sư phải tự tay kiến thiết mọi thứ. Một chú tiểu
được trao nhiệm vụ xây một bức tường. Chú tập
trung vào công việc, luôn kiểm tra xem những
viên gạch đã nằm đúng chỗ hay chưa và hàng
gạch có ngay ngắn hay không ?
MỤC LỤC

Công việc tiến triển khá chậm vì chú là một


người kỹ lưỡng. Tuy nhiên, chú không lấy đó
làm buồn, bởi vì chú biết rằng mình đang xây
một bức tường tuyệt đẹp lần đầu tiên trong đời.
Cuối cùng, chú cũng làm xong công việc
vào lúc hoàng hôn buông xuống.
Khi đứng lùi ra xa để nhìn ngắm công trình
lao động của mình, chú bỗng cảm thấy một cái
gì đó bất ổn đập vào mắt : mặc dù chú đã rất
cẩn thận khi xây bức tường, nhưng vẫn có hai
viên gạch bị nghiêng. Và điều tồi tệ nhất, đó là
hai viên gạch ấy lại nằm ngay chính giữa bức
tường. Chúng như đôi mắt đang trừng trừng
nhìn chú.
Kể từ đó, mỗi khi du khách đến thăm ngôi
chùa, chú đều dẫn họ đi khắp nơi, trừ nơi có bức
tường.
MỤC LỤC

Ngày kia, hai vị sư già đến tham quan ngôi


chùa. Chú đã cố lái họ sang hướng khác, nhưng
hai vị sư già vẫn nằng nặc đòi tới xem khu vực
có bức tường mà chú đã xây.
Một trong hai vị sư già, khi đứng trước công
trình ấy, đã phải thốt lên :
- Ôi bức tường gạch mới đẹp làm sao !
Chú hỏi lại với tất cả sự ngạc nhiên :
- Ngài nói thật chứ ? Ngài không thấy hai
viên gạch xấu xí ở ngay giữa bức tường đó
sao ?
Một vị sư già từ tốn trả lời :
- Có chứ, nhưng tôi cũng thấy 998 viên
gạch còn lại đã ghép thành một bức tường tuyệt
vời ra sao.
Nhiều lúc chúng ta đã quá nhạy cảm đối với
lầm lỗi của người khác. Khi bắt gặp ai phạm lỗi,
chúng ta nhớ kỹ từng chi tiết. Và hễ có ai nhắc
MỤC LỤC

đến tên người đó, chúng ta lại nhớ ngay tới lầm
lỗi của họ, mà quên bẵng đi mất những điều tốt
đẹp họ đã làm.
Người ta thường bảo :
- Dù là một tên tướng cướp, thì trong lồng
ngực của hắn cũng có được một mảnh tim vàng.
Thế nhưng, chúng ta chỉ nhìn thấy cái tội
cướp của giết người của hắn, mà chẳng bao giờ
chịu khám phá ra mảnh tim vàng đang ẩn dấu
trong lồng ngực của hắn.
Chúng ta giống như người đeo hai giỏ. Cái
giỏ phía trước đựng những sai lỗi của người
khác, còn cái giỏ phía sau lưng đựng những sai
lỗi của bản thân.
Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ và
nhớ rất kỹ những sai lỗi của người khác, để rồi
lên tiếng phê bình và chỉ trích một cách gắt gao.
MỤC LỤC

Còn những sai lỗi của bản thân, chúng ta


lại cố tình không nhìn thấy và nếu có nhìn thấy,
chúng ta cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do
để bào chữa, để bênh vực. Hay nói cách khác,
chúng ta cố tình lờ tít và quên đi những lầm lỗi
của bản thân.
Chúng ta thường cư xử khoan dung với
bản thân mà nghiêm khắc với người khác, đáng
lý ra chúng ta phải cư xử khoan dung với người
khác mà nghiêm khắc với chính bản thân mình.
Bây giờ gã xin áp dụng hai phạm trù “quên
và nhớ” vào đời sống gia đình, cũng như xã hội.
Trước hết, đó là trong đời sống gia đình.
Những người nhiều kinh nghiệm đã đưa ra
một lời khuyên như sau :
- Trước hôn nhân, hãy biết mở to đôi mắt.
Còn sau hôn nhân, hãy biết nhắm đôi mắt lại.
Gã thắc mắc và tự hỏi :
MỤC LỤC

- Tại sao lại như thế ?


Trước hôn nhân, đó là thời gian tìm hiểu,
chúng ta cần phải mở to đôi mắt, để ghi nhớ
những khó khăn, khám phá những khuyết điểm,
rồi suy nghĩ, đánh giá và quyết định.
Còn sau hôn nhân, đó là thời gian chung
sống, chúng ta cần phải nhắm đôi mắt lại, để
nhường nhịn và chịu đựng, để quên đi và tha
thứ những lầm lỗi của nhau, nhờ đó tạo được
một bầu khí hòa thuận và cảm thông, bởi vì :
- Một sự nhịn là chín sự lành.
Thế nhưng, chúng ta thường hành động trái
với lời khuyên quí giá trên, thành thử nhiều cuộc
hôn nhân đã thất bại, đã đổ vỡ ê chề.
Thực vậy, trước hôn nhân, vì những lời nói
yêu thương đường mật, vì những đam mê tình
nóng bỏng thúc đẩy, chúng ta đã nhắm đôi mắt
lại, thay vì phải mở to đôi mắt ra. Chúng ta
MỤC LỤC

không còn ghi nhớ được những khó khăn, không


còn khám phá ra những khuyết điểm và không
còn đánh giá đúng mức hoàn cảnh chúng ta
đang sống.
Và nếu có mở to đôi mắt, chúng ta cũng chỉ
nhìn thấy tình yêu và cuộc sống là một màu
hồng rực rỡ, để rồi chúng ta hăm hở bước vào
hôn nhân :
- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
Hay như một bài hát của Trịnh Công sơn :
- Tình yêu như trái phá con tim mù lòa.
Đúng như Thánh Vịnh cũng nói :
- Họ có mắt mà không nhìn, có nhìn thì
cũng chẳng thấy.
Còn sau hôn nhân, vì va chạm với thực tế
phũ phàng, chúng ta cảm thấy đời không như là
MỤC LỤC

mơ. Lúc bấy giờ, thay vì phải nhắm đôi mắt lại,
chúng ta lại mở to đôi mắt ra để lúc nào cũng ghi
nhận và nhớ kỹ những bất đồng và sai lỗi,
những bực bội và tức tối. Tình yêu đang ngả
dần sang một màu xám ảm đạm và bắt đầu tàn
lụi.
Để cứu vãn cái tình yêu đang bắt đầu tàn
lụi ấy, thiết tưởng chúng ta cần phải nhắm đôi
mắt lại, có nghĩa là chúng ta cần phải biết tha
thứ những lầm lỗi của người khác, cũng như
phải biết quên đi những bực bội và tức tối, để
cùng nhau xây dựng một cuộc đời chung, một
mái ấm gia đình chung.
Tiếp đến, đó là trong cuộc sống xã hội.
Thiết tưởng chúng ta cũng cần phải biết
“nhắm và mở”, cũng cần phải biết “quên và
nhớ”.
MỤC LỤC

Thực vậy, chúng ta cần phải biết nhắm đôi


mắt lại trước những oán thù và những sai lỗi của
người khác, có nghĩa là chúng ta cần phải biết
quên đi những oán thù và những sai lỗi ấy.
Có hai người thổ dân Nam Phi rất ghét
nhau. Ngày kia, một trong hai người gặp đứa
con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy
nổi sùng bắt cô bé, lấy dao chặt đứt hai ngón tay
rồi thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc. Bàn
tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa
đi vừa la lớn :
- Ta đã trả thù được rồi.
Mười mấy năm sau, ngày kia có một tên ăn
mày tới xin bố thí. Người đàn bà nhận ra đó
chính là kẻ đã chặt hai ngón tay của mình, vội
vàng trở vào nhà, bảo đầy tớ mang sữa bánh ra
cho hắn ăn. Khi hắn đã ăn no rồi, người đàn bà
liền dơ bàn tay cụt ra cho hắn coi và nói :
MỤC LỤC

- Tôi cũng đã trả thù được rồi.


Tên ăn mày xúc động và bật khóc. Như
vậy, người đàn bà đã biết quên đi nỗi oán thù
ngày xưa.
Đồng thời, chúng ta còn cần phải biết mở to
đôi mắt, có nghĩa là chúng ta phải biết khám phá
và ghi nhớ những điều tốt, những điều hay nơi
người khác, nhờ đó mà xích lại gần nhau hơn.
Bảo Thúc chết, Quản Trọng thương tiếc
khóc như mưa, ướt đẫm cả vạt áo.
Có người hỏi :
- Ông với Bảo Thúc không phải là họ hàng
thân thích gì, mà sao ông thương khóc quá như
vậy ?
Quản Trọng nói :
- Ngươi không rõ, để ta nói cho mà nghe.
Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với
Bảo Thúc, lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần
MỤC LỤC

hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là tham, biết ta


gặp cảnh quẫn bách bất đắc dĩ phải lấy thế. Ta
ở chỗ chợ búa thường bị lắm kẻ nạt dọa, Bảo
Thúc không cho ta là nhát, biết ta có lượng bao
dung. Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc
hỏng, Bảo Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc
may, lúc không may cho nên công việc có lúc
thành, lúc bại. Ta ba lần ra làm quan, ba lần bị
bãi, Bảo Thúc không cho ta là chẳng ra gì, biết
ta chưa gặp thời, chưa tìm được vua giỏi. Ta ba
lần đánh nhau thua cả ba, Bảo Thúc không cho
ta là bất tài, biết ta còn mẹ già phải phụng
dưỡng…Sinh ta ra là cha mẹ, biết được lòng ta
là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, thì
mình đem cả tính mệnh ra hiếu còn chưa cho là
quá, huống chi thương khóc thế này đã thấm
vào đâu.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, khám phá ra điều hay, điều tốt


nơi người khác rồi ghi nhớ cũng không phải là
điều dễ. Phải yêu thương họ, thì chúng ta mới
có thể làm được việc ấy, bởi vì khi yêu thương
ai, thì :
– Củ ấu cũng tròn và trái bồ hòn cũng
ngọt.
MỤC LỤC

CƠM VÀ PHỞ

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Trong một số báo gần đây, gã đã phân tích


lời các cụ ta ngày xưa đã bảo :
- Ông ăn chả, bà ăn nem.
Đại khái có nghĩa là :
- Nếu ông có bồ nhí, thì bà cũng phải có
kép nhỏ.
Nói như vậy, thì hơi bị oan cho quí bà quí
cô một tí, bởi vì người phụ nữ thường sống
bằng cả trái tim của mình và tình yêu đối với họ
bao giờ cũng chiếm địa vị số một. Do đó, họ
thừơng chung thủy và ít khi đi hoang trong tình
yêu.
Còn đờn ông con giai thì khác. Tục ngữ
cũng đã bảo :
- Đờn ông những tám lá gan.
MỤC LỤC

Lá ở cùng vợ, lá toan cùng người.


Vì thế, chuyện ăn nem của các ông
chồng xem chừng có vẻ như khí bị nhiều. Thực
vậy, khung cửa đầu tiên để cho tình yêu đi vào
người đờn ông thường là con mắt. Người đờn
ông dễ bị hớp hồn bởi vẻ đẹp bên ngoài. Chẳng
thế mà “ranh ngôn thời nay” đã bảo :
- Lập gia đình giống như đi ăn nhà hàng với
bạn bè. Bạn gọi món bạn muốn, nhưng khi nhìn
thấy những gì người khác gọi, bạn lại ước chi
mình đã gọi giống như vậy.
Câu ranh ngôn này thực đúng với kinh
nghiệm, với qui luật của muôn đời :
- Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.
Trong những năm gần đây, báo chí tại Việt
Nam không còn dùng cái phạm trù “chả và nem”
nữa, bởi vì nó đã xưa rồi Diễm ơi, nhưng lại
MỤC LỤC

thích dùng cái phạm trù “cơm và phở”. Cơm ám


chỉ bà xã, còn phở ám chỉ bồ nhí.
Gã xin ghi lại nơi đây những lời phát biểu
thật hăng tiết vịt trong cuộc đấu láo vung vít tại
một câu lạc bộ “bồ nhí”. Mấy ông to gan lại bạo
phổi, muốn thiết lập phòng nhì, đã vuốt chòm
râu dê của mình mà xuất khẩu thành thơ. Ông
thì ngâm nga :
- Vợ là địch,
Bồ bịch mới là ta.
Khi chiến sự xảy ra,
Ta buộc về với địch,
Nằm trong lòng địch,
Ta vẫn nhớ đến ta.
Có ông lại cười khà khà mà ví ví von von :
- Sáng :
Chở cơm (vợ) đi ăn phở.
Trưa :
MỤC LỤC

Chở phở (bồ) đi ăn cơm.


Chiều :
Cơm về nhà cơm,
Phở về nhà phở.
Tối :
Nằm với cơm,
Mà vẫn mong về phở.
Nói thế thì nói, nhưng vẫn phải luôn luôn đề
cao cảnh giác :
- Vợ là…”cơm nguội” của ta,
Nhưng là…”phở tái” của cha láng giềng!!!
Hôm nay, gã xin dựa vào một tài liệu bất
ngờ chộp được ở đâu đó để phân tích về những
cái lợi và những cái hại của cơm và của phở.
Nhận định thứ nhất, đó là cơm thường
được ăn khi đói, còn thường được ăn khi…
thích.
Thực vậy, thiên hạ thường bảo :
MỤC LỤC

- Con người ăn để mà sống, chứ không


sống để mà ăn.
Như một chiếc máy, muốn chạy tốt thì cần
phải nạp đủ nhiên liệu, con người cũng vậy,
chính khi ta ăn là lúc ta nạp nhiên liệu vào cho
cơ thể, nhờ đó cơ thể mới có thể lao động : ăn
để mà sống.
Như thế, ăn trở thành một sinh hoạt chính
yếu nơi con người. Ta phải vất vả, bới đất nhặt
cỏ, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới tìm được chén
cơm manh áo cho bản thân và gia đình.
Tuy nhiên, nếu nghĩ rằng : sống để mà ăn,
thì chuyện đời lại mang một ý nghĩa khác. Lúc
bấy giờ, người ta sẽ ăn cho khoái khẩu, hay ăn
cho thỏa mãn…nhục dục, như một số nhà đạo
đức đã lên tiếng chỉ trích. Và thánh Phaolô cũng
đã diễn tả :
- Họ lấy cái bụng của mình làm chúa.
MỤC LỤC

Bình thường, nếu đói thì phải ăn, bẵng


không, tay chân sẽ bủn rủn, thậm chí con ruồi
đậu vào mép cũng chẳng buồn xua. Lúc ấy,
bỗng cảm thấy mình là “người Việt mắt hoa”
chính hiệu con nai vàng ngơ ngác, hay lại cảm
thấy như có cả một sư đoàn kiến đang lổm
ngổm bò trong bụng.
Đối với người Việt Nam, thực phẩm được
nhồi nhét vào cái bao tử rỗng tuếch lúc bấy giờ
thường là cơm. Chín hột gạo mới được một hột
cơm :
- Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần.
Tóm lại, cơm thường được ăn khi đói, còn
phở thì khác. Phở thường được ăn khi…thích.
Cũng vậy, khi hứng tình nổi lên, nhất là trong túi
lại rủng rỉnh có một nắm tiền, anh chồng chán
cơm bèn đi tìm…phở để xơi cho đã thèm, hay
MỤC LỤC

nói cách khác, chán bà xã bèn đi tìm…bồ nhí để


mà hú hí nơi phòng khách sạn, nơi quán bia ôm
hay cà phê đèn mờ.
Nhận định thứ hai, đó là cơm thì thường
đơn giản, còn phở thì thường đa dạng.
Thực vậy, chỉ việc vo gạo và cho vào nồi,
rồi đổ nước và đun lên, thế là xong ngay một nồi
cơm. Đơn giản chỉ có vậy.
Hơn thế nữa, ngày nào ta cũng xơi cơm, ít
là hai lần, thành thử cơm trở thành một thứ thực
phẩm quá quen thuộc. Thậm chí, đôi lúc vì quá
quen thuộc mà hóa ra nhàm chán. Trong lúc
nhàm chán, “ngấy đến tận cần cổ”, thấy cơm mà
nuốt chẳng vô, người ta bỗng thèm phở.
Đi qua một tiệm phở, chỉ cần ngửi thấy cái
hương vị thơm tho bốc lên từ thùng nước lèo, là
nước miếng đã đầy tràn cả miệng. Phở thật
tuyệt vời và đa dạng.
MỤC LỤC

Trước hết, phở đa dạng về chủng loại.


Ở miền Nam gã thấy có phở gà, phở bò.
Riêng về phở bò, thì có phở tái và phở chín.
Nhưng ở miền Bắc, có lần đi chơi vịnh Hạ Long,
bất ngờ ghé vô một quán bên đường để ăn
sáng, gã còn thấy có cả phở vịt và phở ngan
nữa. Có lẽ vì sợ bị lây nhiễm bệnh cúm gà, mà
thiên hạ đã chế biến thành những thứ phở
“tương cận” chăng ?
Trước năm 1975, tại Saigon có những tiệm
phở thật nổi tiếng, đã từng…chui vào văn học
sử, vì được ngòi bút của mấy ông văn thi sĩ đá
động tới. Thậm chí báo Văn Học còn phát hành
cả một số đặc biệt, để chỉ nói về phở mà thôi.
Điểm qua những tiệm nổi tiếng, gã thấy
người ta ca tụng phở gà ở đường Hiền Vương,
phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ, phở Quyền
và phở 94 hình như ở đường Võ Tánh, Phú
MỤC LỤC

Nhuận…Tại những tiệm nổi tiếng này, người ta


phải xếp hàng và chờ đợi tới phiên của mình,
mới có được một tô phở nóng.
Tiếp đến, phở còn đa dạng về khẩu vị.
Bước vào một tiệm phở, ta có thể gọi tái
hay chín. Mà tái thì còn có thể là tái nạm gầu, rồi
cộng thêm với nước béo.
Trước một tô phở nóng hổi như đang bốc
khói, tùy sở thích ta có thể nêm tương đậu và
tương ớt, vắt thêm một vài miếng chanh, rồi lại
còn ngắt mấy cọng rau thơm mà bỏ vô. Quả
thực là đậm đà khó quên. Chẳng thế mà phở đã
trở thành một món ăn đặc sắc của người Việt
Nam ở trong nước cũng như ở ngòai nước. Và
ông Clinton, tổng thống nước Mỹ, khi sang thăm
Việt Nam, đã đi bát phố và cũng đã xơi một tô
phở.
MỤC LỤC

Từ Saigon ra Hà Nội, ban sáng ghé vô tiệm


phở mà cảm thấy tức anh ách, bởi vì phở Hà
Nội không có tương ớt và rau thơm, mà chỉ có
bột ngọt, nên nó có vẻ nhạt nhẽo vô duyên sao
ấy.
Chính vì những lý do trên, phở thường
thơm tho và hấp dẫn hơn cơm, ấy là gã chưa
nói tới những trường hợp gặp sự cố, nồi cơm bị
trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét…thật là
chán mớ đời.
Cũng thế, bà xã suốt ngày ở với ta, sáng tối
đụng đầu nhau theo kiểu :
- Đi ra chỉ mình với ta,
Đi vào thì cũng chỉ ta mới mình.
Miết rồi hóa nhàm hóa chán. Ấy là gã chưa
nói tới trường hợp có những bà vợ, một khi đã
“đưa chàng về dinh” thì không còn lo lắng tới
ngoại hình của mình nữa.
MỤC LỤC

Trước kia chải chuốt bao nhiêu, thì bây giờ


lại lôi thôi lếch thếch bấy nhiêu. Mặt mũi thì lem
luốc chẳng còn hình tượng người ta. Áo quần thì
xốc xếch ống cao ống thấp.
Trong khi đó, bồ nhí thì lại đa dạng về cách
thức ăn mặc và chiều chuộng, thành thử “cuốn
hút” hơn, khiến ông chồng cứ chết mê chết mệt,
chứ chẳng phải bùa mê thuốc lú nào cả.
Nhận định thứ ba, đó là cơm thường
được ăn ở nhà, còn phở thường được ăn ở
quán, mà bầu không khí ở quán thường thì
vui hơn ở nhà.
Thực vậy, bầu không khí ở nhà thường tẻ
nhạt, nhất là khi bà vợ mắc phải chứng bệnh…
than. Ông chồng suốt ngày vất vả làm việc để
kiếm tí tiền còm, như cánh chim tha mồi về tổ.
Và khi về tới tổ, thường mong muốn được nghỉ
ngơi, được chiều chuộng cho bõ công sức lao
MỤC LỤC

động của mình. Thế nhưng, vừa chui đầu vào


nhà là đã phải nghe những điệp khúc buồn. Nào
là thời buổi gạo châu củi quế. Nào là vật giá leo
thang. Nào là con cái ngang bướng ngỗ nghịch.
Nào là bệnh tật đau yếu…Thôi thì trăm thứ bà
giằng.
Bầu không khí tẻ nhạt đã đành, mà nhiều
lúc nó còn trở nên căng thẳng và ngột ngạt.
Chẳng hạn như khi người ta còn đang bất đồng
ý kiến với nhau về chuyện mua sắm hay về
chuyện dạy bảo con cái. Chẳng hạn như khi
người ta còn đang giận hờn với nhau về chuyện
ông xã đi phố với một bóng hồng lạ lẫm hay về
chuyện bà xã bị bể hụi, vay mượn tùm lum nên
nợ nần cứ giáng xuống trên đôi vai gầy.
Trong khi đó, ở quán người ta được tự do
ăn, tự do nói, tự do cười, nhất là khi gặp được
mấy tên bạn chí cốt nữa, tha hồ mà “xả sú bắp”,
MỤC LỤC

cộng thêm vào đó mấy cô chiêu đãi viên cứ lượn


qua lượn lại trong bộ áo quần quá nghèo đến độ
thừa da thiếu vải.
Còn cô bồ nhí thì lại sẵn sàng gắp giùm mồi
để bỏ vào miệng, sẵn sàng nâng hộ cốc để đổ
bia vào mồm, sẵn sàng cho mượn bờ vai để tựa
đầu, cũng như sẵn sàng cho mượn cặp đùi để
gếch chân, rồi lại còn khăn nóng khăn lạnh…
Thảo nào mấy ông xã cứ vắt óc đưa ra một
ngàn lẻ một lý do để dối gạt bà xã, nào hội họp,
nào chiêu đãi, nào tiếp khách…tha hồ mà ghé
quán.
Cho tới lúc này thì phở đang chiếm phần
ưu thế, dầu vậy cuộc đời bao giờ cũng có những
chữ “nhưng” chết tiệt của nó. Chính vì những
chữ nhưng chết tiệt này mà cơm dần dần lấy lại
được vị trí số một của mình.
MỤC LỤC

Nhận định thứ tư, đó là cơm thường


được bảo quản kỹ nên nguy cơ bị ngộ độc
thấp, còn phở thường không được bảo quản
kỹ nên nguy cơ bị ngộ độc cao.
Thực vậy, cơm được nấu chín và để trên
bếp, tới khi ăn mới bắc xuống, nên bữa ăn trong
gia đình bao giờ cơm cũng nóng và canh cũng
sốt, cho nên rất an toàn và bảo đảm cho sức
khỏe. Trong khi đó phở thì khác.
Cách đây không lâu, báo chí tại Việt Nam
đã phanh phui hầu hết những cơ sở làm bánh
phở, tại Hà Nội và Saigon, vì muốn cho bánh
phở được dẻo, dai và dòn, người ta đã dùng hàn
the và thậm chí còn dùng cả “phoọc môn” ướp
xác chết, mà cho vào bột gạo. Tất cả đều là
những chất độc hại cho cơ thể.
Thêm vào đó, thịt dư từ ngày hôm qua, bây
giờ được tái phối trí bằng cách mấu lại cho thực
MỤC LỤC

khách xơi. Hay thịt được thái ra, để khơi khơi


giữa trời và đất, mặc cho bụi bậm từ xe cộ và
những người qua lại trên đường được cơn gió
thổi tới mà bám vào.
Rồi trong tiệm, ngổn ngang trên sàn những
giấy lau bát, những giấy chùi miệng, những cọng
rau không còn lá và cả những nước miếng, đờm
rãi người ta khạc nhổ mà tương xuống.
Có lần gã quan sát thấy vì đông khách, nên
ông đầu bếp mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thậm chí có
cả những giọt mồ hôi vô tư rớt vào thùng nước
lèo hay vô tư rơi xuống đống thịt đã được thái
sẵn.
Sống trong gia đình với bà xã, ta không sợ
bị lây nhiễm bệnh tật, mà hơn thế nữa, còn
được o bế về sức khỏe một cách tận tình và chu
đáo :
- Dù không sinh đẻ ra ta,
MỤC LỤC

Nhưng công nuôi dưỡng thật là lớn lao.


Khi ta đau ốm xanh xao,
Vợ lo chăm sóc hồng hào khỏe ngay.
Chẳng thế mà để chống lại với những
chứng bệnh do tệ đoan xã hội gây nên, người ta
đang hô hào trở về nếp sống chung thủy, một vợ
một chồng. Chứ còn lang bang hết cô này tới cô
kia, không sớm thì muộn cũng sẽ rơi vào tình
trạng liệt kháng nặng nề và trầm trọng.
Ngày xưa người ta thường nói đến những
chứng bệnh nguy hiểm như phong tình, hoa liễu,
giang mai…Vi trùng “gồ nô”được phe chị em ta
trao ban cho ta, để rồi bây giờ ta lại đem về tặng
lại cho bà xã ta và gây nên hệ lụy đớn đau cho
con cho cháu ta.
Tuy nhiên, những chứng bệnh đã từng
vang bóng một thời, đã từng làm mưa làm gió
ấy, dường như đã chìm vào dĩ vãng, bởi vì hiện
MỤC LỤC

nay người ta đang ngán ngẩm trước cơn bệnh


thế kỷ, cơn bệnh Sida vốn chưa có thuốc chữa
và một trong những con đường lây nhiễm HIV,
đó là quan hệ tình dục một cách bừa bãi.
Nhận định thứ năm đó là khi ăn cơm, ta
muốn ăn bao nhiêu cũng được và lại đỡ tốn
tiền. Còn khi ăn phở, ta chỉ được ăn theo một
chế độ nào đó và luôn phải…xùy tiền ra.
Đúng thế, cuối tháng lĩnh lương, ta chỉ việc
hân hoan đem về giao nộp cho bà xã, còn mọi
sự lỉnh kỉnh khác như tính toán cộng trừ nhân
chia…bà xã sẽ phải lo tất tật.
Lúc bấy giờ ta có thể vểnh chòm râu cá
chốt lên mà phán :
- Thế sự thăng trầm quân mặc vấn. Chuyện
đời lên xuống anh hỏi làm gì.
Hay rít một điếu thuốc lào rồi “quắc mắt
khinh đời cái bộ anh”.
MỤC LỤC

Đến bữa, ta chỉ việc xơi, xơi bao nhiêu


cũng được. Thậm chí xơi cho đến độ căng rốn
cũng chẳng ai bảo sao.
Trong khi đó, lỡ đèo bòng bồ nhí ta phải lo
toan mọi sự từ A cho tới Z, từ nơi ăn cho tới
chốn ở, từ những nhu cầu chính yếu của kiếp
người cho tới cả những phụ tùng lỉnh kỉnh của
đờn bà con gái. Tất cả đều lệ thuộc vào cái vấn
đề “đầu tiên”. Nếu không có những thủ tục đầu
tiên này, thì e rằng ta sẽ bị bồ nhí đá văng cái
rụp. Và nếu ví ta yếu, thì đường ai người ấy đi,
bởi vì tình nghĩa đôi ta chỉ có thế mà thôi.
Tóm lại, khi không có tiền ta vẫn có thể về
nhà ăn cơm, chứ đừng dại dột vác cái bản mặt
tới tiệm phở. Hay nói cách khác, vì phở tốn tiền
hơn cơm, nên ta chỉ có thể ăn phở khi ví ta đã
căng phồng mà thôi.
MỤC LỤC

Phở làm cho ta tốn tiền hao bạc đã đành,


mà nhiều lúc phở còn làm cho ta thân bại danh
liệt. Không thiếu gì những ông tai to mặt lớn, chỉ
vì nghe theo những lời đường mật của bồ nhí,
hay chỉ vì không đủ khả năng cung phụng cho
những nhu cầu của bồ nhí, nên đã can đảm ăn
hối lộ, anh dũng biển thủ công quĩ, để rồi bây
giờ âm thầm nằm trong nhà đá bóc lịch, “vắt
chân lên trán” mà ngẫm nghĩ chuyện đời.
Và sau cùng, nhận định thứ sáu đó là
cơm thì ta phải ăn thường xuyên, còn phở thì
không nhất thiết phải là như thế.
Như trên gã đã xác quyết : Cơm chính là
thức ăn thường xuyên, mỗi ngày ta đều phải
dùng tới hai ba lần ở nhà. Còn phở thì khác,
xuân thu nhị kỳ ta mới đến tiệm. Thậm chí có
người cả đời vẫn chưa biết mùi phở là như thế
nào.
MỤC LỤC

Cũng thế, bà xã ở cạnh ta hai mươi bốn


trên hai mươi bốn, ngày cũng như đêm. Còn bồ
nhí thì khác, chỉ những lúc ta rửng mỡ và thừa
tiền, hay những lúc ta thất bại chua cay, bị đời
đá lên đá xuống, ta mới tìm chỗ giải khuây để
trút bầu tâm sự hay để trả thù cuộc đời đen bạc.
Chính vì thế, ta có thể kết luận một cách
mạnh mẽ như sau :
- Dù phở hấp dẫn hơn cơm, nhưng ta chỉ
có thể ăn cơm trừ phở, chứ chẳng thể nào ăn
phở trừ cơm.
Đúng thế, nếu thử ăn phở dăm bữa liền,
thế nào ta cũng cảm thấy xót ruột và nóng cả
người, nóng âm ỉ từ trong lục phủ ngũ tạng, để
rồi tìm về với cơm là món ăn truyền thống.
Cũng vậy, sau những bước chân đi hoang,
cặp kè với bồ nhí, thế nào cũng có lúc lương
tâm thức giấc, ta bỗng nhớ tới vợ tới con. Ấy là
MỤC LỤC

gã chưa nói tới tình huống ta bất đắc dĩ phải ở


ngoài vòng phủ sóng vì hết tiền, vì ốm đau hay
vì thân bại danh liệt…Không sớm thì muộn,
những ông chồng bạc bẽo ấy cũng sẽ ca bản :
- Tung cánh chim tìm về tổ ấm.
Chả biết lúc bấy giờ bà xã có còn đủ khoan
dung mà tha thứ cho hay không mà thôi.
Ý thức được những tình huống não nùng
và bi đát do phở gây nên, không chi bằng bây
giờ , hỡi những ông chồng “yêu rấu”, ta hãy
quyết tâm trở thành những ông xã….ngoan :
- Chồng em không thích ăn quà,
Đi đâu cũng thích về nhà ăn cơm.
Con bò trọn kiếp nhai rơm,
Chồng em trọn kiếp ăn cơm…ở nhà.
Tới đây gã xin mượn mấy dòng thơ…thẩn
của một tác giả tên là Linh Cơ, như một kết
luận :
MỤC LỤC

- Hạnh phúc thay đời ta có “cơm”,


Những người chồng tốt được danh thơm,
Đều nhờ “cơm” cả, yêu “cơm” lắm,
Đi đâu xa cũng nhớ về “cơm”.
Mấy ông hư chẳng thiết gì “cơm”,
“Ăn bánh trả tiền”, “phở” ngọt thơm,
Đã “quen mui thấy mùi ăn mãi”,
Đầy bụng về nhà chán bỏ “cơm”.
Mong ai cũng một dạ cùng “cơm”,
Ăn mãi ngon lành, mãi ngọt thơm,
“Cơm” tẻ no, “phở” cho chả thiết,
Đi đâu xa cũng nhớ về “cơm”.
MỤC LỤC

KHÓC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Đã là người thì ai cũng phải khóc.


Tiếng khóc xuất hiện ngay từ lúc ta mở mắt
chào đời :
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
- Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc, bưng đầu mà ra.
Đúng thế, mở mắt chào đời mà không
khóc, thì đó là một triệu chứng chẳng lành.
Trong trường hợp này, bà đỡ hay cô y tá thường
phải phát đánh đét cho vài cái để mà khóc, mới
được yên lòng yên chí.
Rồi suốt dọc cuộc sống, rất nhiều lần ta
cũng đã khóc, ta cũng đã giọt ngắn giọt dài và ta
MỤC LỤC

cũng đã có biết bao nhiêu nước mắt đầy vơi.


Chẳng thế mà thiên hạ đã bảo :
- Cuộc đời là một thung lũng nước mắt.
Nước mắt là một thứ nước hơi mằn mặn,
được sản xuất bởi hai tuyến nằm ở khóe mắt.
Mấy người hay mơ mộng như mấy ông thi sĩ đã
gọi chúng bằng một cái tên rất mỹ miều, đó là
những giọt lệ.
Sau hết, tiếng khóc cũng đã vang lên một
cách não nùng và bi đát, khi ta nhắm mắt, buông
tay, thở hơi cuối cùng và thiên hạ chôn vùi thân
xác ta vào lòng đất lạnh, tiễn đưa linh hồn ta lên
tàu suốt để sang thế giới bên kia.
Tự điển “Petit Laruosse” của Pháp đã định
nghĩa :
- Khóc là chảy nước mắt.
Còn “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức thì
xác quyết :
MỤC LỤC

- Khóc là mếu miệng, chảy nước mắt, có


tiếng hoặc không có tiếng, khi bị đau đớn ngoài
thân xác hay trong tâm hồn.
Nếu đem so sánh, gã thấy câu định nghĩa
của ông “Phăng xe” thì quá trống trải. Còn câu
định nghĩa của ông “An nam ta” thì có phần
chính xác hơn, nhưng cũng vẫn chưa đủ.
Thực vậy, rất nhiều lúc người ta khóc mà
đâu có mếu miệng, đâu có nước mắt, cũng như
đâu có phát thành tiếng. Cái khóc thầm trong
lòng xem ra còn đậm đặc và cay đắng hơn cả
cái khóc có mếu miệng, có nước mắt và có cả
những tiếng bù lu bù loa, nức nở hay thút thít.
Rất nhiều lúc người ta khóc mà đâu có phải
vì đau đớn ngoài thân xác hay trong tâm hồn,
nhưng còn khóc vì một niềm vui, vì một thành
công nào đó, chẳng hạn như khi ta đoạt huy
chương vàng ở Thế vận hội, nhìn quốc kỳ phấp
MỤC LỤC

phới tung bay, bỗng dưng nước mắt ta cứ trào


dâng, chẳng thể nào ngăn lại được.
Lúc đầu gã tưởng rằng khóc chỉ là một
hành động quá ư đơn giản, khiến cho thiên hạ
phải chép miệng mà kêu lên :
- Biết rồi khổ lắm nói mãi.
Thế nhưng, khi đi vào cụ thể, gã lại thấy
khóc chẳng giản đơn một tí nào cả, trái lại còn
rất ư là phức tạp. Với sự hiểu biết nông cạn, và
kinh nghiệm ít ỏi, gã bèn phải đánh bạo thử
“ngâm kíu” xem cái khóc là như thế nào và ai là
những người…hay khóc ?
Những người hay khóc tiên vàn phải kể
tới quí vị con nít.
Thực vậy, có lẽ không tuổi nào hay khóc
cho bằng tuổi con nít. Vì thế, ta có thể gọi tuổi
con nít là tuổi…khóc nhè. Có cả một ngàn lẻ một
lý do khiến cho qúi vị con nít khóc. Vui cũng
MỤC LỤC

khóc mà buồn thì cũng khóc. Có ngày khóc tới


dăm bảy lượt.
Lý do thứ nhất khiến qúi vị con nít khóc là vì
bị bắt ức. Chẳng hạn giờ chơi trong sân trường,
bị đứa bạn bắt nạt, đánh cho vài thoi. Chống cự
lại thì không nổi và thế là em òa lên mà khóc
nức nở.
Lý do thứ hai khiến quí vị con nít khóc là vì
bị ghen tức. Chẳng hạn khi mẹ đi chợ về mà
không dành được phần quà to, thế là em vùng
vằng đi xuống bếp mà khóc rưng rức.
Lý do thứ ba khiến quí vị con nít khóc là vì
bị oan ức. Chẳng hạn đang ngồi nghiêm trang
trong lớp, bỗng dưng bị thầy cô phạt nhầm, thế
là em cúi gầm mặt xuống mà khóc tấm tức.
Lý do thứ tư khiến quí vị con nít khóc là để
vòi vĩnh, đòi hỏi cái nọ cái kia. Và khi nhu cầu
được thỏa mãn, thì lập tức những giọt nước mắt
MỤC LỤC

biến đâu mất tiêu và được thay thế bằng những


nụ cười toe toét và mãn nguyện.
Nhưng lý do thường xuyên hơn cả khiến
quí vị con nít khóc là vì bị ăn đòn. Đúng thế, mỗi
khi sai lỗi điều gì, bị thầy mẹ đét cho vài roi, thì
bảo đảm chăm phần chăm thế nào em cũng
khóc.
Xem đó gã thấy cái khóc của quí vị con nít
cũng có dăm bảy kiểu khóc. Có những cái khóc
là do kết quả của một khổ tâm, của một đau đớn
hay của một mong ước chưa thành. Có những
cái khóc là do ích kỷ hay do ghen tương. Có
những cái khóc tốt vì đem lại lợi ích cho bản
thân, như khóc vì những lầm lỗi của mình. Có
những cái khóc xấu, chẳng hạn như khóc nhè,
động một tí là quác mồm ra, ai can cũng chẳng
nổi.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, không phải chỉ quí vị con nít


mới khóc, mà ngay cả người lớn cũng khóc.
Thực vậy, người lớn cũng có những niềm
vui, những nỗi buồn của mình. Và nhiều lúc đã
bật lên tiếng khóc trước những niềm vui và nỗi
buồn ấy, thậm chí đôi lúc khóc mà chẳng có lý
do nào sốt.
Thực vậy, người lớn khóc vì một niềm vui.
Người ta kể lại rằng :
Tại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè
năm 1984, một trong những giây phút cảm động
nhất đã bất ngờ xảy ra và đã được trình chiếu
trên truyền hình.
Số là võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ, sau khi
đánh bại võ sĩ Thomas Johansson của Thụy
Điển, để dành huy chương vàng về bộ môn đô
vật, anh ta đã không vui mừng nhảy lên nhảy
xuống, không vung cao nắm đấm, hay cúi chào
MỤC LỤC

đám đông cùng với một cái hôn gió, nhưng anh
ta chỉ đơn giản quì gối, làm dấu thánh giá, cúi
đầu cầu nguyện.
Khi máy thu hình tập trung vào khuôn mặt
của anh ta, thì hàng triệu khán giả đã nhìn thấy
những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má.
Anh ta có đủ lý do để khóc. Khóc vì đã đọat huy
chương vàng, mà trước đây nước Mỹ chưa bao
giờ đọat được. Khóc vì hai năm trước đây anh ta
đã bị ung thư và trước trận đấu mười tám tháng,
anh ta đã phải giải phẫu. Vậy mà giờ đây anh ta
đã đoạt được một chiến thắng lớn nhất trong đời
mình.
Phóng viên thể thao Bill Lyons đã bình luận
về những giọt nước mắt của anh ta như sau :
“ Một trong những điều đáng giá nhất của
Thế vận hội này là nó cho chúng ta thấy những
giọt nước mắt khóc vì những lý do cao thượng,
MỤC LỤC

có giá trị tẩy rửa và chữa lành…Khi các vận


động viên đoạt huy chương vàng bước lên đài
vinh quang, quay mặt về lá quốc kỳ và lắng nghe
bản quốc ca của đất nước họ, thì ngay lúc ấy
mắt họ bắt đầu nhòa lệ…Dầu có khéo léo, khỏe
mạnh hay nhanh nhẹn đến đâu chăng nữa, cũng
không ai ngăn chặn được những giọt nước mắt.
Và trong sự biểu lộ sự mềm lòng của bản tính
con người như vậy, họ càng trở nên hấp dẫn và
lôi cuốn.”
Người lớn khóc vì một nỗi buồn.
Đây là điều ta thường thấy hơn cả. Sau
trận chung kết bóng đá của một cái giải quan
trọng nào đó, ta thấy những cầu thủ bên thua
thường mang khuôn ủ rũ như treo cờ tang và
không ít anh chàng đã khóc lên cho màu cờ sắc
áo của mình.
Một tác giả đã viết như sau :
MỤC LỤC

“Sở dĩ người ta khóc là vì đã gặp phải


những đau khổ và cơ cực. Đau khổ của con
người được biểu lộ qua tiếng khóc và những giọt
nước mắt. Vì vậy, khóc là tiếng nói của con
người trong đau thương. Có bao nhiêu đau
thương thì có bấy nhiêu tiếng khóc : Tiếng khóc
của lo âu, tiếng khóc của nghèo đói, tiếng khóc
của phụ bạc, tiếng khóc của vô ơn, tiếng khóc
của cô đơn, tiếng khóc của mất mát, tiếng khóc
của chia ly, tiếng khóc của mệt mỏi chán
chường…Tiếng khóc có mặt ở mọi nơi, trong
mọi lúc và mang nhiều ý nghĩa khác nhau.
Chẳng hạn : Khi một người thân yêu chết,
chúng ta khóc thảm thiết hay ngậm ngùi vì
thương tiếc. Nhưng cũng có thể, trước cái chết
của người thân, chúng ta khóc, chưa hẳn vì
thương tiếc cố nhân. Nhưng có khi vì thương
chính mình, là kẻ còn lại, cô đơn, bơ vơ, không
MỤC LỤC

còn chỗ nương tựa, nên khóc để nỗi lòng nhẹ


vơi.
Tuy nhiên, rất nhiều ngươi chưa biết khóc
đúng lúc và đúng việc : Có người khóc khi mất
của cải, nhưng lại chẳng khóc khi mất Chúa…
Có người khóc đi khóc lại, mà chẳng sinh ích lợi
gì.
Chính vì thế, có người khóc mà kẻ khác lại
nói : Nước mắt của họ là nước mắt cá sấu. Trái
lại, có người khóc mà nước mắt của họ rất giá
trị, như nước mắt của những người mẹ. Chẳng
hạn những giọt nước mắt của thánh nữ Mônica
đã tuôn rơi để cầu cho người con trai là thánh
Âu tinh được ơn hóan cải”.
Sau cùng, người lớn khóc đôi khi chẳng có
một lý do chính đáng nào cả. Nếu như một ông
thi sĩ nào đó đã viết :
- Hôm nay trời nhẹ lên cao,
MỤC LỤC

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.


Có những lúc, nhất là vào đêm khuya thanh
vắng, bỗng dưng nước mắt cứ trào dâng, ướt cả
gò má, mà chẳng biết được lý do căn nguyên
của những giọt nước mắt rơi hoang, sai địa chỉ
ấy.
Thì gã cũng có thể nhái :
- Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Tôi…nhè, không hiểu vì sao tôi nhè.
Dĩ nhiên, không giống với câu Thánh Vịnh
mà cha An Sơn Vị đã dịch :
- Dòng châu lệ…tưới giường ướt đẵm,
Mỗi đêm trường thấm cả chiếu chăn.
Tiếp đến, những người hay khóc phải kể
tới qúi vị đờn bà con gái.
Đúng thế, khóc chính là nghề của…phe ta
ấy mà. Sở dĩ như vậy, vì phe ta có thể khóc một
cách vô tư và dễ dàng. Hình như phe ta luôn có
MỤC LỤC

sẵn cả một hồ nước mắt để xả đập cho tuôn rơi


bất cứ lúc nào. Ức một tí cũng khóc. Tủi một tí
cũng khóc. Nước mắt phe ta rớt rơi trên từng
cây số. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, bất cứ một
giao động nhỏ nhoi nào cũng đủ làm cho cặp
mắt phe ta đỏ hoe.
Có lần gã đã chứng kiến mấy bà đang ngồi
nói chuyện vui vẻ với nhau. Bỗng bà nọ nhắc tới
bà bạn mới chết :
- Bằng giờ năm ngoái bà ấy còn ngồi với
chúng mình, thế mà bây giờ…
Thế là cả đám bỗng khóc hu hu, như một
giàn hợp xướng.
Cũng như quí vị con nít, rất nhiều lần phe ta
đã dùng những giọt nước mắt để mà “mần
duyên”, để mà nhõng nhẽo với người tình hay
với những người thân yêu, hầu đạt được những
đòi hỏi, những nhu cầu riêng của mình.
MỤC LỤC

Vì thế, gã không lấy làm lạ khi thấy bàn dân


thiên hạ vốn thường gọi phe ta là…dân “mít
ướt”, hay như một câu danh ngôn đã bảo :
- Một giọt nước mắt đờn ông có thể pha
chế thành mười lít nước mắt đờn bà con gái.
Đồng thời, kinh nghiệm cũng xác quyết :
- Không gì mau khô cho bằng nước mắt
của đờn bà con gái.
Trước những giọt nước mắt của người tình
bé bỏng, thì dù trái tim có chai cứng như trái tim
sỏi đá của một tên tướng cướp, thì cũng sẽ trở
nên mềm nũn như con chi chi, chẳng thế mà
thiên hạ đã bảo :
- Lệ rơi thấm đá.
Vị mặn của nước mắt là như một chất acít,
làm cho sắt cứng cũng phải tiêu tan. Vì vậy,
nhiều ông chồng không cầm lòng nổi trước
những tiếng khóc ri rỉ ấy, đã nhắm mắt làm liều,
MỤC LỤC

lắm khi đi đoong cả cuộc đời. Vì thế, người đời


thường bảo :
- Nước mắt của đờn bà con gái là một
chiếc đập, nhưng cũng có thể là một cơn lũ giật
sập tất cả.
Đặc biệt là đối với người Việt Nam, bất cứ
đám tang nào cũng phải có tiếng khóc. Tiếng
khóc trở nên như một phương tiện để biểu lộ
tình cảm thương nhớ. Vì thế, những gia đình
quá neo đơn đã phải thuê người khác đến để
mà khóc, kẻo bị miệng thiên hạ cười chê là bất
hiếu.
Tiếng khóc trong một đám tang mang nhiều
cung giọng, cũng như mang nhiều ý đồ khác
nhau.
Thực vậy, có những tiếng khóc chỉ để mà
chào khách. Khi người thân mất đi, mấy bà mấy
MỤC LỤC

cô thường được phân công ngồi trong một góc


gần quan tài để…khóc.
Lúc đầu họ khóc với tất cả tình cảm thương
tiếc của mình. Nhưng khóc lắm thì cũng mỏi
miệng và còn nước mắt đâu nữa để mà tuôn ra.
Thế là tụm đầu đấu hót vung vít. Lắm khi còn
cười nói oang oang.
Thế nhưng khi vừa nghe thấy tiếng chó
sủa, hay có người nhà báo khách đến, lập tức
họ bèn xõa tóc, phủ khăn xô xuống và một, hai,
ba…chúng ta cùng khóc. Khi khách ra về, họ lại
tụm đầu đấu hót vung vít và cười nói oang oang.
Có những tiếng khóc để thương tiếc cho
người nằm xuống, nhưng cũng có những tiếng
khóc để thương tiếc cho chính thân phận mình
vì từ nay sẽ phải lạc lõng bơ vơ.
Nhà xứ họ đạo kia là tòa nhà gồm một trệt
và một lầu. Cha sở ở trên lầu, bà bếp già ở dưới
MỤC LỤC

trệt. Chẳng may cha sở bị trúng gió và qua đời.


Không biết vì thương tiếc cha sở hay vì thương
tiếc cho bản thân mình, mà bà bếp đã khóc nức
nở như sau :
- Cha ơi cha, khi còn sống thì cha ở trên
còn con ở dưới, bây giờ cha chết đi thì con ở với
ai. Ối cha ơi!
Nghe bà bếp khóc thế, ông chánh trương
vội quắc mắt và quát :
- Im đi, không thì người ta cười cho bây
giờ.
Và người ta thì đã cười mất rồi.
Có những tiếng khóc ghi nhớ công ơn của
người nằm xuống, nhưng cũng có những tiếng
khóc kể lể sự vất vả khổ cực của mình để chửi
xéo kẻ khác.
Chẳng hạn như tiếng khóc của người con
gái út trong gia đình :
MỤC LỤC

- Ba ơi ba, khi ba còn sống thì chẳng một ai


đoái hoài nhìn đến ba, chỉ một mình tay con đã
nuôi nấng phụng dưỡng. Thế mà bây giờ người
ta kéo nhau về chỉ để chia chác cái gia tài của
ba. Ba ơi là ba.
Có những tiếng khóc thật vu vơ, chẳng biết
người khóc muốn diễn tả tình cảm ở mức độ
nào.
Một đứa em trai bị đụng xe chết ngắc và bà
chị đã khóc như sau :
- Em ơi! Thế là hết thật rồi, em ơi! Thế là
hết thật rồi, em ơi!...
Chỉ có mỗi một câu “thế là hết thật rồi, em
ơi!” được lặp đi lặp lại trong tiếng nấc nghen
ngào, như một điệp khúc buồn ơi là buồn.
Tuy nhiên, không phải chỉ quí vị đờn bà
con gái mới khóc, mà ngay cả cánh đờn ông
con giai cũng khóc.
MỤC LỤC

Đờn ông con giai cũng có những niềm vui


và những nỗi buồn của mình, nên đôi lúc họ
cũng đã khóc. Cái khóc của họ thường là cái
khóc mà miệng không mếu, mắt không mờ lệ và
môi cũng chẳng phát ra thành tiếng. Đó là một
cái thầm trong bụng.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp họ
bỗng òa khóc , khóc nấc lên từng cơn, chẳng
khác chi quí vị con nít, nhất là khi đã say xỉn.
Đây chính là tiếng khóc của đám đệ tử Lưu Linh
đại…đế.
Chẳng hạn mấy tên bợm nhậu ngồi vào
bàn với nhau. Sau khi đã ngoắc cần câu, thì
bỗng dưng một tên cất tiếng khóc hu hu, ai can
cũng chẳng được, thật đúng với kinh nghiệm
được lưu truyền trong dân gian :
- Một xị thì mở mang trí hóa.
Hai xị thì giải bớt cơn sầu.
MỤC LỤC

Ba xị thì mũi chảy đầy râu.


Bốn xị thì ngồi đâu…khóc đó.
Nếu cứ phân tích theo kiểu này, gã còn khám
phá ra được nhiều loại người hay khóc nữa.
Chẳng hạn : Kẻ nghèo khóc đã đành, mà ngay
cả người giàu cũng khóc. Những bà vợ khóc đã
đành mà ngay cả những bà xơ cũng khóc….Gã
xin “xì tốp” tại đây để đụng tới những người
không khóc.
Thực vậy, trong cuộc sống có những
người chẳng còn biết khóc là gì nữa. Sở dĩ họ
không khóc được, vì trái tim họ đã trở nên băng
giá và cõi lòng họ đã hóa thành chai đá,
không còn biết xúc động trước những khổ đau
và những bất hạnh của kẻ khác.
Bản thân họ không khóc đã đành, mà hơn
thế nữa, chính họ lại còn làm cho người khác
MỤC LỤC

phải khóc, phải khổ vì những hành động bất


nhân của họ.
Chẳng hạn một ông chồng đam mê cờ bạc.
Ai cũng thấy rằng hòan cảnh kinh tế hiện nay
đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Làm không
đủ ăn, lo không đủ mặc. Thế nhưng, ông chồng
ấy vẫn cứ vô tư ném tiền vào sòng bạc. Không
có thì vay mượn. Vay mượn không được thì về
nhà đánh vợ chửi con và làm đủ mọi cách để
moi móc cho ra tiền, hầu tiếp tục cuộc chơi, để
ngoài tai những tiếng khóc nỉ non của vợ con.
Có một thời, đã lâu lắm rồi, gã say mê chụp
hình. Hôm đó, gã đã giơ tay tát cho đứa em nhỏ
một cái đau điếng, khiến nó phải khóc thét lên,
thế là gã vội vàng bấm máy, chộp ngay lúc nó
đang mếu máo. Bức hình rất đẹp, nhưng gã thì
hối hận mãi.
MỤC LỤC

Nhiều nhà đạo đức đã cho rằng những giọt


nước mắi cao đẹp và quí giá nhất chính là
những giọt mắt ăn năn sám hối, khóc cho quãng
đời tội lỗi của mình để được tha thứ, chẳng hạn
như những giọt nước mắt của Phêrô, của
Mađalêna…
Phêrô đã không nói gì với Chúa, khi Ngài
nhìn ông, ông chỉ biết đấm ngực ăn năn khóc lóc
mà thôi. Mađalêna cũng không nói gì với Chúa,
bà chỉ biết đổ những giọt nước mắt xuống đôi
bàn chân Chúa. Những giọt nước mắt này đã
nói lên tất cả. Những giọt nước mắt này đã làm
nhạt nhòe đôi mắt, nhưng lại làm rực sáng tâm
hồn.
Có một tên tướng cướp, sau khi đã tung
hoành ngang dọc, bỗng cảm thấy mệt mỏi,
muốn trút bỏ gánh nặng tội lỗi và làm lại cuộc
đời.
MỤC LỤC

Anh ta tìm đến với một vị linh mục để xưng


tội. Vị linh mục đã bảo anh ta làm một việc đền
tội khác thường, đó là hãy đi chôn cất tất cả
những người chết mà anh ta gặp, đồng thời hãy
khóc lóc như thể đó chính là những người thân
yêu của mình. Và để làm bằng chứng, vị linh
mục trao cho anh ta một cái chai nhỏ để hứng
những giọt nước mắt ấy.
Anh ta ra về và nghe bất cứ nơi nào có
đám tang, thì cũng tìm đến, nhưng mắt anh ta
luôn ráo hoảnh, chẳng nhỏ được một giọt nước
mắt nào. Cho tới một hôm, anh ta tình cờ đứng
trước cây thập giá, trên đó Chúa Giêsu chịu
đóng đinh. Anh ta liền than thở với Chúa về nỗi
khổ đau là anh ta không thể nào khóc được.
Thật là bất ngờ, anh ta nhìn thấy từ khóe
mắt Chúa có những giọt nước mắt long lanh
chảy xuống. Chính lúc ấy, tự nhiên nước mắt
MỤC LỤC

anh ta cũng trào dâng và rơi đầy cái chai nhỏ


mà vị linh mục đã trao cho anh ta.
Anh ta đã hiểu được thế nào là sám hối và
quyết tâm làm lại cuộc đời bằng cách ăn ngay ở
lành và sống lương thiện.
Để kết luận, gã xin ghi lại một lời khuyên
như sau :
– “Con ơi, ngày con mở mắt chào đời,
mọi người nhìn con mỉm cười còn con thì lại
khóc. Con hãy sống thế nào để trong ngày sau
hết, khi mọi người bật khóc, thì con lại thanh
thản mỉm cười ra đi.”
MỤC LỤC

TÚI TIỀN

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Ngày nọ Khổng Tử cùng học trò đi dạo,


thấy một đứa nhỏ lấy gạch vụn xây thành ở giữa
đường đi, bèn bảo :
- Cháu tránh chỗ cho xe ta qua.
Đứa nhỏ đáp :
- Từ xưa đến nay, xe phải tránh thành, chứ
thành nào phải tránh xe.
Khổng Tử nói :
- Cháu còn nhỏ, sao ăn nói quỷ quyệt thế ?
Đứa nhỏ đáp :
- Con thỏ sinh ra ba ngày thì biết chạy, con
cá ba ngày thì biết lội, con người ba tuổi thì có
trí khôn, sao ngài lại gọi tôi là quỷ quyệt ?
Khổng Tử hỏi :
- Cháu ở đâu, tên gì ?
MỤC LỤC

Đứa nhỏ đáp :


- Cháu ở nơi quê mùa, họ Hạng, tên Thác.
Khổng Tử nói :
- Ta muốn cùng cháu đi dạo chơi quanh
vùng, có được chăng ?
Đứa nhỏ đáp :
- Nhà cháu có cha nghiêm cần phải thờ, có
mẹ hiền cần phải nuôi, có anh lành cần theo, có
em nhỏ cần phải dạy, có thầy sáng cần phải
học, rảnh đâu mà đi rong chơi với ngài.
Khổng Tử nói :
- Vậy trên xe có sẵn bàn cờ, ta cùng cháu
đánh chơi vài bàn cho vui.
Đứa nhỏ đáp :
- Thưa ngài, nhà vua ham cờ bạc thì nước
loạn, chư hầu ham cờ bạc thì công việc bế tắc,
sĩ nho ham cờ bạc thì bỏ bê việc học, kẻ làm
ruộng ham cờ bạc thì nghỉ mất buổi cày…
MỤC LỤC

Khổng Tử nói :
- Ta muốn cùng cháu bàn chuyện bình
thiên hạ, cháu có vui lòng không ?
Đứa nhỏ đáp :
- Thiên hạ làm sao bình được mà ngài khéo
hỏi : hoặc vì có núi cao, hoặc vì có biển rộng,
hoặc vì có giai cấp. Bình núi cao thì chim chóc
còn chỗ đâu mà ở. Bình sông biển thì tôm cá
chết hết còn gì. Dứt hết giai cấp, thì lấy ai chỉ
huy, lấy ai sai khiến ?
Khổng Tử thấy đứa bé giỏi quá, bèn hỏi
thêm rất nhiều câu khó khăn gấp mấy mươi lần,
đứa nhỏ đều trả lời trôi chảy cả. Ông định lên xe
đi, đứa bé liền nói :
- Nãy giờ ngài hỏi cháu, nhất nhất câu gì
cháu đều trả lời đầy đủ. Giờ đây, xin ngài cho
cháu hỏi lại vài điều để mở rộng kiến thức. Cháu
nhờ ngài giải giùm : con ngỗng con vịt nhờ đâu
MỤC LỤC

mà nổi được, chim hồng chim nhạn nhờ đâu mà


kêu được, cây tùng cây bá nhờ đâu mà được
xanh tươi suốt bốn mùa ?
Khổng Tử đáp :
- Ngỗng vịt nổi được là nhờ chân vuông,
hồng nhạn kêu được là nhờ cổ dài, tùng bách
luôn xanh tươi là nhờ ruột chắc.
Đứa nhỏ không thỏa mãn, liền nói :
- Cháu e không phải vậy. Cá tôm đâu có
chân vuông sao cũng nổi, con muỗi nào có cổ
dài sao vẫn kêu, tre trúc bọng ruột sao vẫn xanh
tươi ? Thôi, xin ngài cho biết trên trời có mấy
ngôi sao ?
Khổng Tử xua tay bảo :
- Chúng ta hãy bàn chuyện dưới đất cho
dễ, cháu ạ.
Đứa nhỏ nói :
MỤC LỤC

- Được, cháu xin hỏi ngài dưới đất có bao


nhiêu nhà ?
Khổng Tử không trả lời, nhưng lại nói :
- Đấy là chuyện xa vời, cháu chỉ nên hỏi
những chuyện trước mặt mà thôi.
Đứa nhỏ hỏi :
- Lông mày có mấy sợi ?
Khổng Tử lật đật lên xe và nói với các học
trò :
- Hậu sinh khả úy.
Chữ “úy” trong câu nói của Khổng Tử vừa
có nghĩa là đáng kính, lại vừa có nghĩa là đáng
sợ. Như vậy, theo luật tiến hóa, nếu người sinh
sau mà giỏi hơn thì thật là đáng kính. Còn nếu
người sinh sau mà xảo quyệt hơn thì thật là
đáng sợ. Vì thế thiên hạ cũng hay nói : hậu sinh
khả…ố, có nghĩa là người sinh sau mà xằng bậy
hơn, thì thật là nhơ nhuốc và xấu xa.
MỤC LỤC

Xét theo một góc cạnh nào đó, thì quí vị


con nít hôm nay có nhiều mặt nổi hơn quí vị con
nít ngày xưa. Chẳng biết đó là điều đáng mừng
hay đáng lo. Gã xin đưa ra thí dụ một điển hình
mà gã mới đọc được trên báo Phụ nữ Chủ nhật,
số 15 ra ngày 24 tháng 4 năm 2005. Bài viết đưa
ra những trường hợp quí vị con nít hôm nay đã
kiếm tiền và tiêu tiền như thế nào.
Trường hợp thứ nhất :
Suốt một thời gian dài, để ý thấy cô con gái
đang học lớp bảy của mình lúc nào cũng rủng
rỉnh tiền và tự mua sắm cho mình được khá
nhiều thứ, từ dụng cụ học tập đến sách vở,
nhưng lại không hề mè nheo xin tiền bố mẹ,
gặng hỏi mãi thì cô bé mới thú nhận đó là số tiền
nó được bạn học cùng lớp “trả công” vì đã giúp
bạn làm bài.
MỤC LỤC

Vốn là một học sinh giỏi, cô bé được giáo


viên xếp ngồi giữa hai bạn có học lực trung bình
để nhắc nhở và động viên các bạn. Không bỏ lỡ
thời cơ, cô bé được các bạn gợi ý một thỏa
thuận “đôi bên cùng có lợi”. Những lúc làm bài
kiểm tra, cô bé cho các bạn chép bài, đổi lại với
những điểm 9 và 10 thì cô bé được mỗi bạn
thưởng cho 20.000 đồng, còn với những điểm 7
và 8, thì được từ 12 đến 15.000 đồng. Từ đó, cô
bé rủng rỉnh tiền trong túi, còn hai bạn cùng bàn
thì sức học có “tiến bộ” trông thấy và nhanh
chóng lọt vào danh sách “top” những học sinh
khá giỏi của lớp.
Trường hợp thứ hai :
Sau giờ học, đang trên đường về nhà, một
chú bé lớp chín vô cớ bị ba học sinh khác chặn
đường gây gỗ và đánh cho một trận tím bầm
mắt trái. Hôm sau đi học, nhận diện được các
MỤC LỤC

bạn đã chặn đường và đánh mình…chú bé vào


mách giám thị. Khi được mời xuống văn phòng
các bạn ấy đã thú nhận là đã đánh chú bé theo
“lời đặt hàng” của M. ban học cùng lớp, chứ
chẳng có xích mích gì với chú bé trước đó.
Theo lời các bạn. M vốn là con của một
giám đốc, nhà rất giàu, thường xuyên được ba
mẹ cho rất nhiều tiền khi đi học. M. lại tỏ ra khá
hào phóng với bạn bè, thường xuyên bao bạn
bè đi ăn uống, chơi trò chơi điện tử…thậm chí
có lần một bạn bị mất tiền đóng học phí, M. còn
tặng bạn luôn số tiền đó. Do vậy, khi M. có ý
đánh chú bé, thì các bạn sẵn sàng thực hiện mà
không cần hỏi lý do vì sợ M…giận.
Nhóc tì M. này chưa được tí tuổi đầu, thế
mà đã biết dùng tiền để mua lấy quyền và đã sử
dụng quyền để chi phối đàn em đúng tác phong
MỤC LỤC

của các đại ca hay những ông trùm, theo bài


bổn băng đảng, hay…Mafia trong xã hội đen.
Quí vị con nít hôm nay không phải chỉ sử
dụng đồng tiền để sai khiến bạn bè, mà còn sử
dụng đồng tiền để sai khiến cả người lớn, chẳng
hạn :
Việc các em nhờ người lái xe ôm, người
bán cà phê…vào họp phụ huynh với cương vị là
cô, chú, dì, cậu…với giá 10 đến 20.000 đồng
một buổi họp, giờ đã xưa, bởi “chiêu” này đã bị
nhà trường phát hiện.
Để đối phó, các em lại nghĩ ra cách “tinh vi’
hơn. Dẫu rất còn bé, các em đã biết “chọn mặt
gửi vàng”, tìm những bác tài xe ôm có vẻ ngoài
“sáng láng” hơn, rồi mang cà-vạt, thậm chí còn
mang cả áo quần của ba mình đến cho họ “đóng
bộ”, cải trang thành “ba”…Dĩ nhiên, yêu cầu cao
hơn, thì chi phí cũng phải cao hơn, các em sẵn
MỤC LỤC

sàng chi đến 50.000 đồng cho một “ca” cải trang
như thế.
Đọc xong những mẩu tin trên, gã mới giật
mình đánh thót một phát và “ngộ ra rằng ” quí vị
con nít ngày xưa mà so với quí vị con nít hôm
nay, thì chỉ là hạng “cù lần cù lèo” mà thôi. Xin
tâm phục khẩu phục sát đất.
Và như thế, ngay cả quí vị con nít cũng
hiểu được giá trị của đồng tiền. Có tiền là có tất
cả, huống lọ là dăm ba cái lẻ tẻ. Với tiền bạc,
người ta có thể mua được đủ thứ, từ bằng cấp
và địa vị, đến tình cảm và công lý.
Ai không có tiền, thì đành phải cúi đầu
xuống như muông chim và phải chấp nhận thân
phận tôi đòi, vai nặng chân trơn mà thôi.
Trái lại, ai nắm giữ túi tiền thì cũng nắm giữ
quyền bính trong tay, chịt cổ họng người khác
MỤC LỤC

dễ như trở bàn tay, bởi vì chữ tiền thì liền với
chữ quyền vì cùng chung một vần :
- Hạt tiêu nó bé nó cay,
Đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền.
Trong phạm vi thế giới, không nước nào
giàu cho bằng nước Mỹ. Vì thế, người Mỹ đã tự
phong cho mình làm “sen đầm quốc tế”, mặc
sức chỉ trích dân tộc này dân tộc kia không tôn
trọng nhân quyền, mặc sức can thiệp vào nội bộ
của các quốc gia và mang quân tiến vào nước
người ta như tiến vào chỗ không người.
Đúng là miệng anh nhà giàu như “có gang
có thép”.
Ta nói mà nhà ngươi không nghe, ta cắt
viện trợ cái rụp, hay ta cấm vận, phong tỏa nhà
ngươi về phương diện kinh tế, thế là nhà ngươi
lập tức mềm nhũn như con chi chi, sẵn sàng để
MỤC LỤC

ta sai bảo và mau chóng trở thành chư hầu của


ta.
Buồn thay cho cái thân phận nhược tiểu!!!
Nói chuyện thế giới xem ra có vẻ xa xôi
như ở trên mây trên gió, gã xin nói chuyện gia
đình cho nó gần gũi hơn.
Trong gia đình, khi bố mẹ còn khỏe mạnh
và nắm trong tay tiền bạc, lúc đó con cái xem ra
có vẻ dễ dàng vâng phục và trọng kính. Thế
nhưng, một khi cha mẹ đã già yếu và gia tài đã
được phân chia, nếu không giữ lại cho mình một
chút tiền còm, thì con cái rất dễ có thái độ “phớt
tỉnh Ăng Lê” : đói khát cũng mặc, thiếu thốn
cũng mặc, đau yếu cũng mặc. Thậm chí nhiều
lúc thà nhờ vả hàng xóm còn dễ hơn nhờ vả
người nhà.
Vì thế, nhiều bậc làm cha làm mẹ, vốn
thường khôn khéo giữ lấy cho mình một phần
MỤC LỤC

sản nghiệp, để không phải chìa tay ra xin xỏ con


cái. Bao giờ chết thì sẽ…hạ hồi phân giải.
Trong quan hệ vợ chồng cũng vậy. Nhìn
vào thực tế, chúng ta cũng thấy tiền bạc có một
giá trị to lớn và nắm giữ một then chốt quan
trọng trong đời sống gia đình.
Thực vậy, vì thiếu thốn tiền bạc, nhiều
người sẵn sàng bán rẻ lương tâm để rồi thực
hiện những hành vi bỉ ổi nhất như trộm cướp,
giết người, tham nhũng…như người ta thường
bảo :
- Lương tâm không bằng lương thực.
- Bần cùng sinh đạo tặc.
- Đói ăn vụng, túng làm càn.
Vì thiếu thốn tiền bạc, nhiều gia đình đã đi
đến chỗ đổ vỡ như chửi bới, cãi cọ và đánh đập
nhau từng ngày.
MỤC LỤC

Tuy nhiên, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy


tiền bạc tuy cần thiết nhưng không phải là yếu tố
quyết định bởi vì không thiếu những gia đình
nghèo túng mà vẫn hòa thuận yêu thương :
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Đồng thời cũng không ít những gia đình
giàu sang mà luôn có những sự xích mích bất
đồng. Vợ thì bài cào tứ sắc, chồng thì vợ nọ con
kia, tối ngày những mánh mung, bỏ mặc vợ con.
Hơn nữa, một chị nàng thích lấy chồng
giàu, thì sẽ bị người đời chê cười là ham của,
bên nhà chồng sẽ dễ coi thường và hất hủi. Trái
lại, một anh chàng thích lấy vợ giàu, thì cũng sẽ
bị người đời phong cho tước hiệu “kỹ sư đào
mỏ”, “chuột sa chĩnh gạo”, “đũa mốc mọc ở mâm
son”.
MỤC LỤC

Sự chênh lệch về nếp sống như vậy rất dễ


đem lại những mặc cảm tự ti và trở thành lý do
sâu sa của những cuộc cãi vã và đổ vỡ sau này.
Chính vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy
các cụ ngày xưa đã chủ trương môn đăng hộ
đối.
Quan niệm này nhiều lúc đã đi tới chỗ quá
quắt nên không còn hợp thời nữa, dầu vậy nó
vẫn có lý do và lợi ích của nó, bởi vì những
người cùng một cảnh ngộ, cùng một giai cấp thì
sẽ dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với
nhau hơn.
Đó mới chỉ là những ý kiến hướng dẫn cho
thời gian chập chững bước vào ngưỡng cửa
hôn nhân để đi đến một sự chọn lựa dứt khoát.
Còn bây giờ, một khi ván đã đóng thuyền, cá đã
cắn câu, nghĩa là đã trở thành vợ thành chồng
với nhau, thì chuyện tiền bạc bao giờ cũng
MỤC LỤC

chiếm địa vị số một, bởi vì vấn đề đầu tiên bao


giờ cũng vẫn là vấn đề tiền đâu.
Nếu anh chồng làm ra tiền, thì anh ta có thể
chi phối toàn bộ những sinh hoạt trong gia đình.
Lúc bấy giờ vợ con phải ra sức cung phụng anh
ta, cũng như phải ra sức vâng phục anh ta tối
mặt. Đi làm về, anh ta cứ việc ngồi vắt chân chữ
ngũ mà đọc báo, mà coi truyền hình. Đến bữa
thì đã có sẵn cơm bưng nước rót.
Còn nếu anh chồng chẳng may rơi vào tình
trạng thất nghiệp, chẳng còn lấy một đồng xu
dính túi. Trong hoàn cảnh này, nếu chị vợ ăn
nên làm ra, phất lên trông thấy, thì chắc chắn sẽ
đổi chủ thay ngôi.
Thực vậy, với thân phận ăn bám, thì làm
sao anh chồng dám ngước mặt nhìn đời, chỉ còn
nước lầm lũi vào bếp, thổi cơm nấu nướng mà
thôi. Thật đúng như Tú Xương đã diễn tả :
MỤC LỤC

- Làm trai rửa bát, quét nhà,


Vợ gọi thì dạ, bẩm bà…em đây.
Trước tình trạng thay ngôi đổi chủ này, anh
chồng dường như co cụm lại, âm thầm “gậm
nhấm” nỗi buồn vì đã mất toi cái quyền hành
trong tay. Nỗi buồn không được giải tỏa và cảm
thông sẽ kết đọng lại thành những cay cú và bực
tức ám vào lục phủ ngũ tạng. Nếu có cơ hội
thuận tiện, sẽ bộc phát ra những lời nói chì
chiết, những thái độ quát tháo cộc cằn.
Còn chị vợ, nếu không biết đối xử một cách
khéo léo và tế nhị, trái lại cứ vênh vang tự đắc,
coi anh chồng như là đồ bỏ, thì chắc chắn
những chuyện xào xáo và đổ vỡ sẽ xảy ra :
- Nhà kia lỗi đạo, con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng.
Nếu chẳng may ở vào một tình trạng chênh
lệch như thế, bên kiếm được nhiều tiền, còn bên
MỤC LỤC

chẳng tìm được một đồng xu cắc bạc, thì cũng


đừng vì thế mà lên mặt, hay cũng đừng vì thế
mà xấu hổ vì nào ai muốn mình bị thất nghiệp
bao giờ đâu.
Bởi vậy, hãy đối xử với nhau một cách tế
nhị và cảm thông thì mới bảo vệ được niềm
hạnh phúc trong gia đình.
Vậy phải quản lý cái túi tiền trong gia đình
như thế nào ?
Bình thường, anh chồng giao nộp tiền
lương của mình cho chị vợ quản lý, bởi vì chị
chính là người “tề gia nội trợ”. Tuy nhiên, có
những trường hợp chị vung tay quá trán khiến
ngân sách bị thâm thủng nặng nề :
Một hôm đi làm về nhà, ông Thành sửng
sốt khi nghe con trai đang học đại học bảo là
phải nghỉ học vì mẹ không cho tiền đóng học
phí. Ông không hiểu nổi vì sao lại đến mức như
MỤC LỤC

vậy…Ông tìm hiểu mới biết bao nhiêu tiền bà đồ


hết vào quần áo, mỹ phẩm. Những bộ áo váy
của bà toàn là hàng hiệu đắt tiền và bà lại còn
đổi mốt liên tục. Trên bàn trang điểm của bà lỉnh
kỉnh đủ loại mỹ phẩm, mà một lọ nhỏ xíu giá
cũng bạc triệu. Chưa hết, bà thường xuyên đến
mỹ viện và chi phí chăm sóc sắc đẹp hàng tháng
của bà cũng là con số làm ông chóng mặt!
(PNCN,14).
Trong khi đó, có những chị vợ lại quản lý
quá chặt chẽ, bóc lột cho tới đồng xu cuối cùng,
chẳng để cho anh chồng tí tiền còm để cà phê
cà pháo với bè bạn. Thành thử, chị vợ giống
như một thứ ngân hàng, đầu vào thì dễ mà đầu
ra thì khó. Trao tiền thì vui, còn xin tiền mặt nhăn
như bị và lại còn than thở cả tiếng.
Tuy nhiên thỉnh thoảng gã thấy có những
gia đình anh chồng quản lý túi tiền. Anh ta đích
MỤC LỤC

thân đi chợ và mua sắm. Hễ đụng tới tiền bạc,


thì chị vợ liền trả lời :
- Hãy cứ hỏi anh ấy.
Tuy nhiên, nếu những anh chồng có máu
đỏ đen, đam mê số đề hay cá độ bóng đá, nhất
là lại đèo bòng bồ nhí, thì có ngày nồi cơm của
vợ con cũng bị đập bể.
Cũng có những trường hợp anh chồng một
quĩ, chị vợ một quĩ và chúng ta góp gạo thổi
cơm chung, khiến nhiều lúc gia đình trở nên như
một quán trọ.
Ông Vĩnh và bà Thào chung sống đã nhiều
năm, nhưng lại không tin tưởng nhau về chuyện
tiền bạc.Cả hai đều có cơ sở kinh doanh riêng.
Không ai biết thu nhập của người kia là bao
nhiêu. Mỗi người có quĩ riêng. Trong phòng ngủ
có hai két sắt, một của ông và một của bà, chìa
khóa két sắt của ai thì người ấy giữ.
MỤC LỤC

Tất cả các khoản chi tiêu trong gia đình, họ


chia ra từng loại thanh toán : chi phí nuôi con,
học phí của con, chi tiêu và mua sắm vật dụng
trong nhà mỗi người một nửa, thuốc men bệnh
tật thì phần ai nấy lo, nếu con bệnh thì cha mẹ
chia đôi chi phí, tiếp đãi bạn bè của ai thì người
ấy chi. Phương châm của họ là rạch ròi, sòng
phẳng và bình đẳng. Thoạt nghe có lý, nhưng
ngẫm lại thì buồn thay cho tình cảm vợ chồng.
(PNCN, 14).
Tác giả bài viết đã chia sẻ :
Quỹ chung hay quỹ riêng ? Vợ giữ tiền hay
chồng giữ tiền ? Mỗi người có câu trả lời riêng,
tùy theo quan niệm cá nhân.
Dù sao thì quan hệ vợ chồng chỉ tốt đẹp khi
cả hai cùng có trách nhiệm trong việc quản lý và
chi tiêu tiền bạc trong gia đình.
MỤC LỤC

Kinh nghiệm cho hay, nếu mọi khoản thu


nhập của gia đình được tập trung về một mối, vợ
chồng cùng thống nhất về kế hoạch quản lý và
chi tiêu, đồng thời luôn tạo ra được sự thỏa
thuận về các dự kiến lớn, thì chẳng những mức
sống sẽ được ổn định và nâng cao, mà hạnh
phúc cũng luôn được bảo vệ, đồng thời mâu
thuẫn thuộc dạng này sẽ dần dần tự tan biến.
Để kết luận, gã xin kể lại một mẩu chuyện
như sau :
Ngày xưa, có một đôi nam nữ rất yêu
thương nhau. Nhưng vì hai gia đình không được
môn đăng hộ đối, nên họ đã phải trải qua nhiều
khó khăn mới lấy được nhau.
Đêm tân hôn, họ đã thề sẽ yêu thương
nhau suốt đời. Họ quy ước rằng cứ mỗi ngày
được sống hạnh phúc cùng nhau, họ sẽ bỏ vào
cái chum nhỏ một hạt gạo. Gạo càng nhiều thì
MỤC LỤC

hạnh phúc càng đầy và về già họ sẽ cùng nhau


đổ cái chum gạo ấy ra để nhìn lại hạnh phúc của
mình.
Thế nhưng, chỉ một thời gian ngắn, người
chồng bị bệnh nặng và qua đời. Người vợ rất
đau khổ. Nàng nhìn vào chum gạo và than khóc
rằng :
- Hạnh phúc không đong đầy chum.
Mong rằng các cặp vợ chồng cùng cộng tác
với nhau để bỏ vào chum những hạt gạo hạnh
phúc.
MỤC LỤC

TIỀN…BẠC

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Chuyện rằng :
Có một nhà thám hiểm lênh đênh trên sóng
nước. Trong những ngày tháng cô đơn ấy, anh
ta rất thèm được liên hệ với thế giới bên ngoài.
Thế nhưng, chỉ có một chú chim nhỏ sáng nào
cũng bay tới và đậu trên chiếc bè của anh ta.
Rồi một ngày kia, chú chim nhỏ ấy không còn
bay tới nữa và anh ta cảm thấy buồn bã như
mất đi một người bạn thân thương nhất.
Từ câu chuyện này, gã mới “ngộ” ra rằng
một trong những nỗi đớn đau nhất mà con người
thường gặp phải, đó là sự cô đơn.
Cũng vì sợ nỗi cô đơn với những bước
chân âm thầm, vò võ đi sớm về khuya một mình,
MỤC LỤC

mà những cô gái bước vào “tuổi băm” hằng


mong ước có được một mảnh tình vắt vai.
Cũng vì sợ nỗi cô đơn với những đau yếu
bệnh tật, mà những cụ già gần đất xa trời cũng
cố vớt vát cho mình một chút tình trong cảnh
hoàng hôn cuộc đời, bởi vì “con nuôi cha không
bằng bà nuôi ông”.
Kinh nghiệm cho thấy chúng ta không thể
nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa
biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái
lại, chúng ta sống là sống với người khác trong
một cộng đoàn hay trong một xã hội.
Trong cuộc sống chung này, chúng ta phải
nương tựa và cậy dựa vào nhau. Thực vậy, nơi
chính bản thân, chúng ta đã mang dấu ấn của
biết bao nhiêu người góp phần xây dựng. Suốt
dọc cuộc đời, chúng ta cũng đã nhận lãnh biết
bao nhiêu nâng đỡ và trợ giúp của những người
MỤC LỤC

chung quanh. Thiếu vắng người khác, e rằng


chúng ta khó có thể sống và tồn tại.
Đã sống chung cùng nhau, thì đương nhiên
là phải trao đổi, phải có qua có lại, bởi vì chẳng
ai dám vỗ ngực tự hào rằng mình đầy đủ mọi
sự, chẳng cần tới người khác. Sự trao đổi ở đây
được hiểu về phương diện tinh thần cũng như
vật chất. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của mục
chuyện phiếm hôm nay, gã chỉ bàn tới phương
diện vật chất mà thôi.
Trước hết, gã xin cả tiếng lại dài hơi mà
thanh minh thanh nga rằng gã chẳng phải là một
chuyên viên kinh tế, cũng như chưa bao giờ
“ngâm kíu” sâu xa về vấn đề này, nên những
điều được viết ra dưới đây, nếu có chi không
đúng thì cũng xin bàn dân thiên hạ…sửa giùm
và bổ túc thêm.
MỤC LỤC

Bây giờ, gã xin cài số de, lùi về thời đại ban


sơ. Lúc bấy giờ con người tụ họp thành những
bộ lạc du mục, nay đây mai đó. Họ sinh sống
bằng cách săn thú và hái trái cây trong rừng.
Như vậy, họ trao đổi cho nhau những gì mình đã
săn hay đã hái được. Chẳng hạn tôi trao cho
anh một con thỏ rừng, thì anh sẽ đổi lại cho tôi
một con gà rừng… Thế là vui vẻ, huề cả làng.
Tới một lúc nào đó trong giòng lịch sử, con
người từ bỏ kiếp sống du mục, để định cư thành
làng mạc, phát triển về nghề nông và trồng tỉa.
Lúc bấy giờ hiện vật được đem ra trao đổi là lúa
thóc và hoa trái, kết quả của biết bao nhiêu lao
công vất vả, cũng như của biết bao nhiêu giọt
mồ hôi và nước mắt đổ xuống trên ruộng đồng.
Chẳng hạn tôi trao cho anh một thúng lúa, thì
anh sẽ đổi lại cho tôi một thúng khoai…
MỤC LỤC

Cùng với thời gian, cuộc sống con người


không ngừng phát triển và người ta bỗng
nghiệm ra rằng trao đổi bằng hiện vật quả là bất
tiện vì nó cồng kềnh, khó mang và khó vác.
Chẳng hạn khi phải đổi hai ba trăm thúng lúa lấy
hay ba trăm thúng khoai. Thật là nhiêu khê và
phúc tạp. Vì thế, người ta đã chọn những hiện
vật quí hiếm làm phương tiện cho những cuộc
trao đổi ấy.
Những hiện vật quí hiếm này thường thay
đổi theo quan niệm của từng dân tộc. Chẳng
hạn có những nơi người ta dùng vỏ sò vỏ ốc làm
đồ trang sức, vì thế người ta đã chọn vỏ sò vỏ
ốc làm phương tiện trao đổi và qui định cứ bao
nhiêu chiếc vỏ sò và vỏ ốc thì sẽ đổi được một
thúng lúa. Tuy nhiên, hiện vật quí hiếm được
nhiều dân chọn lựa hơn cả đó là vàng và bạc.
MỤC LỤC

Cuộc sống định cư đã dần dần kiện toàn cơ


cấu và tổ chức của xã hội. Các thể chế chính trị
bắt đầu hình thành. Trong thời gian đầu, hầu hết
các dân tộc trên thế giới đều theo chế độ quân
chủ. Nhà vua là người đứng đầu và cai trị dân
chúng.
Khuôn mặt nhà nước cũng xuất hiện với
đầy đủ mọi quyền hành trong tay. Và thế là nhà
nước nhảy vào lãnh vực kinh tế và tài chánh để
ấn định và kiểm soát việc trao đổi cũng như
buôn bán, bằng cách độc quyền phát hành tiền
bạc, bởi vì ai nắm giữ tiền bạc là nắm giữ uy
quyền, khả dĩ ảnh hưởng và chi phối được
người khác. Chẳng thế mà kinh nghiệm cho thấy
:
- Chữ tiền liền với chữ quyền.
Hay như người Pháp đã bảo :
MỤC LỤC

- Kẻ không có tiền bạc giống như một con


chó sói không có răng.
Thuở ban đầu, tiền bạc thường được đúc
bằng kim loại như vàng, bạc, đồng hay một thứ
hợp chất nào đó. Nhưng rồi đồng tiền kim loại
xem ra cũng bất tiện vì trọng lượng của nó, mỗi
khi phải trao đổi nhiều, hay mỗi khi phải buôn
bán lớn và thế là người ta bèn cho lưu hành tiền
giấy, tiền “po-ly-me” như chúng ta thấy hiện nay.
Trên đây mới chỉ là những nét chấm phá
đại cương về lai lịch và gốc gác của tiền bạc,
chắc hẳn còn rất nhiều thiếu sót, mong được
bàn dân thiên hạ cảm thông vì sự hạn hẹp của
gã.
Tra cứu thêm một chút bằng cách mở tự
điển ra, gã thấy người ta đã định nghĩa như
sau :
MỤC LỤC

Tiền là vật được đúc bằng kim lọai hay in


trên giấy do nhà nước phát hành để dùng trong
việc mua bán.
Còn bạc là một thứ kim loại sắc trắng, lấy ở
núi, thường được dùng để làm đồ trang sức
cũng như thường được dùng để đúc tiền. Vì thế,
bạc cũng có nghĩa là tiền.
Và khi người ta ghép hai chữ tiền bạc lại
với nhau để cho mạnh nghĩa hơn, thì tiền bạc
được dùng để chỉ chung mọi thứ tiền.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đã hiểu
được giá trị của tiền bạc, bởi vì :
- Có tiền mua tiên cũng được.
Hay như một câu “ca dao thời đại mới” vốn
được cả và thiên hạ hiện nay loan truyền :
- Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
MỤC LỤC

Là cái đà của danh vọng,


Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Marcel Pagnol đã viết như sau :
“Tiền bạc vạn năng. Nó cho phép tất cả. Nó
cho tất cả. Nếu tôi muốn có được một ngôi nhà
tiện nghi hay một chiếc răng giả, nếu tôi muốn
được khen tặng trên báo chí hay có được một
người đàn bà trên giường…tôi có thể được tất
cả những thứ ấy không phải bằng lời cầu khẩn,
bằng thái độ siêng năng hay đạo đức. Chỉ cần
mở tủ ra và hỏi : “Bao nhiêu ?”
Một tác giả khác cũng đã viết trên báo Tuổi
Trẻ Cười như sau :
- Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều : mặc kệ…vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngả nghiêng tứ bề.
MỤC LỤC

Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,


Phất tay một cái nhằm nhè gì ông.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng cần đến
tiền, bởi vì kinh nghiệm cho thấy : đứng trước
mọi công việc, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng
vẫn là vấn đề…tiền đâu.
Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều thích
tiền. Đưa cho đứa bé một tờ giấy bạc và một tờ
giấy quảng cáo cho thuốc cao đơn hoàn tán,
cũng in hình người, cũng màu sắc rực rỡ chẳng
khác chi tờ giấy bạc, thế mà đứa bé vẫn cứ giơ
tay ra chộp vội lấy tờ giấy bạc.
Với các cụ già cũng thế, mỗi khi được ai
cho tiền, xem ra mắt các cụ sáng hơn và nụ cuời
các cụ tươi hơn. Chẳng thế mà người Trung
Quốc đã nói :
- Ngay cả thằng mù cũng thấy được tiền.
MỤC LỤC

Hẳn rằng ai trong chúng ta cũng đều phải


vất vả, bươn chải ngược xuôi để tìm tiền kiếm
bạc, đem về nuôi sống bản thân và gia đình.
Nhiều khi làm lụng đầu tắt mặt tối và vẫn thiếu
hụt, giật gấu vá vai, khiến gia đình lâm vào cảnh
nheo nhóc và bất ổn.
Thế nhưng, tiền bạc vẫn mãi mãi vẫn là một
con dao hai lưỡi, biết sử dụng thì đem lại lợi ích,
bằng không thì chỉ đem lại những hậu quả thảm
khốc, đúng như một câu danh ngôn đã bảo :
- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng lại là
một ông chủ hà khắc.
Thực vậy, nếu chúng ta tìm tiền kiếm bạc
một cách quang minh chính đại và tiêu dùng tiền
bạc một cách hợp tình hợp lý, thì tiền bạc giống
như một tên đầy tớ trung thành giúp chúng ta
trong nhiều công việc.
MỤC LỤC

Trái lại, nếu chúng ta quá quyến luyến với


tiền bạc và nhất là nếu chúng ta để cho nỗi đam
mê tiền bạc chi phối, lúc bấy giờ tiền bạc sẽ trở
thành một ông chủ hà khắc, giết chết những tình
cảm tốt đẹp của chúng ta đối với những người
chung quanh, bằng những hành động bất công :
nào hối lộ, nào trộm cắp, nào bóc lột sức lao
động của người khác…chúng ta sẵn sàng làm
mọi việc, kể cả đạp lên người khác, để vơ vét về
cho đầy túi tham của mình, nhưng làm sao nhét
cho đầy, bởi vì lòng tham chính là một cái túi
không đáy.
Chính vì thế, các cụ ta ngày xưa đã có lý
khi ghép chữ tiền vào với chữ bạc. Chữ bạc ở
đây không phải chỉ có nghĩa là tiền, mà còn có
nghĩa là mỏng, kém, ít, không có lòng, không
biết ơn. Chẳng hạn :
MỤC LỤC

Bạc bẽo là cách ăn ở với người thân không


ra gì.
Bạc nghĩa là kém nhân nghĩa, bội bạc,
phản lại người làm ơn cho mình.
Bạc tình là kém tình yêu, thiếu chung thủy,
không đoái hoài tới người yêu của mình nữa.
Và như vậy, tiền là một trong những
nguyên nhân làm cho bạc tình bạc nghĩa, hay
nói cách khác làm mất đi tình nghĩa giữa chúng
ta với những người chung quanh. Điều này hẳn
đã được chứng thực qua kinh nghiệm thương
đau của cuộc sống thường ngày với rất nhiều
những sự việc đầy cay đắng.
Trước hết là trong phạm vi gia đình.
Thứ nhất, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa
giữa cha mẹ và con cái.
Có một anh chàng ca sĩ nọ rất thành công
với tiếng đàn tiếng hát của mình. Anh ta kiếm
MỤC LỤC

được rất nhiều tiền và trở thành một “siêu sao”


trên bầu trời ca nhạc. Đi tới đâu anh ta cũng
được những người ái mộ vây quanh. Tiếng lành
đồn xa, vọng về tới tận thôn làng hẻo lánh nơi
cha mẹ anh đang sống âm thầm trong cảnh
nghèo túng. Hai ông bà dành dụm được một
chút tiền còm và quyết định làm một chuyến lên
thành phố để được chiêm ngắm đứa con mình
đã đứt ruột cưu mang và nuôi dưỡng.
Hai ông bà đứng chờ ngoài cổng rạp chờ
gặp đứa con sau giờ trình diễn. Khi đứa con đi
ngang qua, hai ông bà giang rộng đôi vòng tay
và nói :
- Ôi con tôi.
Thế nhưng anh ta đã lạnh lùng quay mặt đi
và nói :
- Ông bà mà là ba má của tôi sao ?
MỤC LỤC

Anh ta không muốn cho mọi người biết


được cái gốc gác “hai lúa” của mình. Thế
nhưng, nếu không có những hạt lúa mà cha mẹ
anh ta đã chắt chiu để gửi cho anh ta ăn học thì
làm sao anh ta có được như ngày nay.
Thứ hai, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa
giữa anh chị em ruột thịt với nhau.
Nguyên Huy, trong mục “truyện ngắn 100
chữ” kể lại mẩu tâm sự của một đứa cháu như
sau :
Bà mất sớm. Mẹ cháu nuôi cậu học xong
đại học mới lấy chồng. Cậu thành đạt, giỏi
giang. Mẹ cháu luôn tự hào về cậu.
Cậu đi nước ngoài về, quà cho đồng
nghiệp, cho cấp trên thật ê hề. Chỉ thiếu quà cho
mẹ con cháu.
Cháu không cần quà, rụt rè sang xin cậu
tiền học phí, sắp đến kỳ thi rồi. Tháng qua mẹ
MỤC LỤC

ốm, cháu không dạy kèm được, lại phải tiêu


nhiều.
Cậu khó chịu :
- Đến khổ với mẹ con mày. Cái thân cũng lo
không xong, cứ ám tao mãi thế này.
Cháu rơi nước mắt, nhớ lời ru xưa :
- Tò vò mà nuôi con nhện…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhiều
người ở thành phố vì sợ nhà nước giải tỏa, đã
trở về miền quê. Nhiều người ở miền quê có
nhiều ruộng cũng vì sợ nhà nước tịch thu, sẵn
sàng cho ruộng và để những người thân ở thành
phố sống trên phần đất của mình.
Sau một thời gian, tình hình trở nên lắng
dịu và không thấy nhà nước “đấu tố hạng phú
nông” như ở ngoài Bắc. Thêm vào đó, ruộng
vườn lại có giá. Thế là người ta liền nói bóng nói
gió, nói xa nói gần cốt ý đòi lại phần đất đã lỡ
MỤC LỤC

cho. Tới nước này thì tình nghĩa chẳng còn đẹp
đẽ và đầm ấm như hôm nào.
Trong những năm gần đây nhà cửa và đất
đai ở thành phố cũng như ở ngoại ô tăng giá ào
ào. Không phải tấc đất tấc vàng mà nhiều khi
còn hơn thế nữa. Một miếng đất nhỏ hay một
căn nhà lụp xụp ngày xưa chẳng đáng giá bao
nhiêu, thế mà bỗng dưng trở thành một gia tài to
lớn.
Cũng chính vì thế, trên báo chí gã đã từng
chứng kiến biết bao nhiêu vụ án. Anh em đâm
chém nhau chỉ vì miếng đất hay căn nhà. Cha
mẹ và con cái lôi nhau ra tòa cũng chỉ vì căn nhà
hay miếng đất. Miếng đất và căn nhà đã hủy diệt
tình nghĩa gia đình.
Thứ ba, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa vợ
chồng.
MỤC LỤC

Thực vậy, có tiền, anh chồng bắt đầu ăn


chơi sa đọa, đèo bồng bồ nhí. Có tiền chị vợ bắt
đầu khinh bỉ anh chồng, coi anh chồng chẳng
còn tì “gờ ram” nào cả. Đó là những chuyện vốn
thường xảy ra như cơm bữa trong xã hội hiện
nay. Gã xin đưa ra một trường hợp điển hình
được đăng tải trên báo “Phụ Nữ Chủ Nhật” :
Ngày anh Châu xách va li ra khỏi nhà, chị
Loan uất ức nói trong nước mắt :
- Để coi ổng ngon đến cỡ nào, nhiêu đó rồi
cũng ba bảy hai mươi mốt ngày thôi.
Anh Châu và chị Loan ngày xưa học cùng
lớp, lấy nhau được 15 năm, có hai mặt con. Vợ
chồng đều là công chức. Cuộc sống thay đổi làm
con người cũng thay đổi theo. Từ ngày nghỉ làm
công sở, theo bạn bè đi nuôi tôm, anh Châu bắt
đầu đổi khác.
MỤC LỤC

Trúng tôm, anh Châu bồ bịch, ăn chơi xả


láng. Khi mọi chuyện đến tai chị Loan thì anh
Châu đã sống như vợ chồng với một cô gái bán
bia ôm và họ sắp có con. Vợ chồng anh ra tòa ly
dị, chia đôi tài sản là căn nhà. Chị Loan dành
phần nuôi con. Đễ giữ lại căn nhà, chị Loan phải
vay mượn đưa cho anh Châu phân nửa tiền trị
giá căn nhà.
Ly dị xong, anh Châu dọn đến sống với cô
gái bán bia ôm. Một thời gian sau, chị Loan xin
được công việc làm khá hơn. Nếu việc làm của
chị thuận lợi bao nhiêu, thì anh Châu ngược lại.
Số tiền chia đôi căn nhà, anh Châu bung ra làm
ăn lớn. Không may cho anh, càng làm càng thua
lỗ. Vốn liếng chẳng những không còn mà nợ nần
chồng chất. Nhà cũng chẳng có, vợ chồng con
cái phải trú tạm trong trại tôm giữa đồng không
mông quạnh. Nhìn cuộc sống thảm hại của anh
MỤC LỤC

bây giờ và cuộc sống khá giả của chị Loan ai


cũng xót và tiếc cho anh.
Anh Châu mặc cảm chẳng dám về thăm
con, thậm chí ngày con thi đậu vào trường
chuyên anh cũng chẳng dám gọi điện thoại chúc
mừng, càng lúc anh càng thấy mình thấp kém so
với vợ cũ và mối quan hệ cha con ngày càng xa.
Lúc này chị Loan bắt đầu hả hê :
- Quả báo nhãn tiền, gieo nhân nào, gặt
quả ấy.
Mang tâm trạng của người chiến thắng
trước sự thất bại của người chồng cũ, gặp ai chị
Loan cũng kể lể với giọng điệu như trả thù được
người đã gieo cho mình nhiều đau khổ trong quá
khứ. Ngay cả với con cái, lúc nào chị cũng chì
chiết :
MỤC LỤC

- Ba chúng mày chắc sáng mắt ra rồi, vợ


đẹp con ngoan không chịu, đi theo cái đồ tào
lao, giờ chẳng ra sao, thật đáng kiếp.
Chị đâu có biết rằng dù anh Châu có phụ
rẫy chị đi chăng nữa, anh cũng vẫn là ba của
các cháu. Sự hả hê của chị làm cho các con đau
lòng.
Tiếp đến là trong phạm vị xã hội.
Thứ nhất, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa
thày trò.
Vì tiền, người ta sẵn sàng lừa thày. Một câu
chuyện quá quen thuộc mà nhiều người trong
chúng ta đã biết, đó là câu chuyện của Giuđa.
Giuđa là một người môn đệ được Đức Kitô
tuyển chọn, yêu thương và đặt vào trong nhóm
12 tông đồ, là những người thân cận với Ngài.
Thế nhưng, vì lòng đam mê tiền bạc, Giuđa đã
bán Ngài bới giá 30 đồng bạc, giá mua một tên
MỤC LỤC

nô lệ, để rồi Ngài đã bị đóng đanh vào thập giá


như một tên tội phạm.
Thứ hai, tiền đã làm bạc mất tình nghĩa bè
bạn.
Vì tiền, người ta sẵn sàng phản bạn. Đúng
thế, bạn bè một thời đã đồng lao cộng khổ, đã
nằm gai nếm mật để cùng nhau theo đuổi một lý
tưởng, một mục đích nào đó, thế nhưng chỉ vì
những quyền lợi riêng tư người ta sẵn sàng
quay lưng chống lại nhau. Hay chỉ vì chia chác
không đều những lợi nhuận, người ta cũng sẵn
sàng đấm đá và cấu xé lẫn nhau.
Nhất là khi người bạn sa cơ thất thế, người
ta bèn quay phắt 180o, biến bạn thành thù để
tránh đi những liên lụy, như ca dao đã diễn tả :
- Trong tay có sẵn đồng tiền,
Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
MỤC LỤC

Tiền bạc có uy lực riêng của nó. Tuy nhiên,


uy lực ấy không phải là vô song và tuyệt đối như
người ta vốn thường sánh ví :
Tiền bạc có thể mua được một ngôi nhà,
nhưng không mua được một mái ấm.
Tiền bạc có thể mua được một chiếc
giường êm ấm, nhưng không mua được giấc
ngủ ngon lành.
Tiền bạc có thể mua được chiếc đồng hồ,
nhưng không mua được thời gian.
Tiền bạc có thể mua được sách vở, nhưng
không mua được kiến thức.
Tiền bạc có thể mua được địa vị, nhưng
không mua được lòng tin phục.
Tiền bạc có thể mua được thuốc men,
nhưng không mua được sức khẻo.
Tiền bạc có thể mua được tình dục, nhưng
không mua được tình yêu….
MỤC LỤC

Và để kết luận, gã xin kể lại một mẩu


chuyện như sau.
Anh kia cho người bạn vay một số tiền. Tới
hẹn, người bạn không có khả năng chi trả, nên
tìm cách lẩn trốn. Ngày nọ anh ta bỗng nhìn thấy
người bạn đang đi trên hè phố. Anh ta vội chạy
tới, khiến người bạn không thể lánh mặt. Anh ta
nhìn người bạn và nói :
– Này bạn, tôi thà mất tiền còn hơn là
mất bạn.
MỤC LỤC

CƯỜI

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Nếu gã nhớ không lầm, thì hình như Phạm


Quỳnh có viết trên “Nam Phong Tạp Chí” như
sau :
- Dân An Nam ta cái gì cũng cuời. Vui cũng
cuời, mà buồn cũng cuời.
Ăn theo chiều hướng ấy, gã bèn suy ra
rằng :
- Dân An Nam ta cái gì cũng cười. Động
một tí là vén môi cuời tồ tồ.
Đây cũng có thể là một điểm khác biệt giữa
ta và tây.
Ngày nọ, có một linh mục người Canada
trịnh trọng thông báo cho đám học trò của mình
như sau :
MỤC LỤC

- Tôi rất lấy làm đau buồn báo tin cho các
anh hay, cha Bolumburu của chúng ta mới qua
đời…
Vừa nghe tới đây đám học trò bèn cười ồ
lên, khiến cho vị linh mục người Canada ấy giận
tới mức đỏ mặt tía tai, bỏ cái một về phòng của
mình :
- Tôi không hiểu được tại sao các anh lại vô
duyên đến thế. Trong khi tôi báo một tin buồn thì
các anh lại cười ồ.
Đám học trò bèn phải cả tiếng lại dài hơi
cắt nghĩa cho vị linh mục người Canada ấy hiểu
rằng :
- Chúng con cười, không phải vì tin buồn
được cha loan báo, nhưng chúng con cười chỉ vì
tên gọi Bolumburu nghe kỳ quá…
MỤC LỤC

Miết rồi vị linh mục người Canada ấy mới


hiểu và cảm thông cho cái cười của người An
Nam mình.
Mở tự điển tra cứu, gã ghi nhận được hai
nghĩa chính của động từ cuời :
Nghĩa thứ nhất theo “Việt Nam tự điển” của
Lê Văn Đức, thì cười là động tác nhích môi, hé
miệng, nhe răng, phát ra tiếng hay không phát ra
tiếng, để bày tỏ sự vui mừng hay một một ý tứ gì
đó. Tuy nhiên, hai chữ “nhe răng” ở đây xem ra
bất ổn vì còn đâu nữa vẻ đẹp của những nụ
cười mỉm chi, chẳng hạn như cái mỉm cười đầy
vẻ bí ẩn đã được Léonard de Vinci diễn tả qua
tác phẩm “La Joconde”. Gã thấy nàng Monna
Lisa đâu có…nhe răng.
Còn theo tự điển “Larousse” của Pháp, thì
cười là hành vi biểu lộ niềm vui bằng cách
chuyển động môi miệng và thường phát ra tiếng.
MỤC LỤC

Tiếng Việt Nam của chúng ta rất phong


phú, để diễn tả ý nghĩa thứ nhất này, gã đếm
được cả thảy 80 kiểu cuời khác nhau, như cười
duyên, cười giòn, cười khúc khích, cười chúm
chím, cười ruồi, cười toe toét, cười tủm tỉm, cười
xòa…
Nghĩa thứ hai cũng theo “Việt Nam tự điển”
của Lê Văn Đức, thì cười là chê bai, chế nhạo,
khinh khi, đe dọa, thái độ có khi tỏ ra bên ngoài
bằng tiếng cười và vẻ mặt, có khi lại dấu kín
trong lòng :
- Cười người chớ có cười lâu,
Cười người hôm trước, hôm sau người
cười.
Cũng trong ý nghĩa thứ hai này, gã đếm
được gần hai mươi kiểu cười khác nhau, như
cười gằn, cười khảy, cười mỉa, cười nhạo, cười
thầm…
MỤC LỤC

Trong khuôn khổ bài viết hôm nay, gã chỉ


xin bàn tới hành động cười với ý nghĩa thứ nhất
mà thôi.
Trong một bài viết mang tựa đề “Chuyện lạ
về cười” được đăng trên báo “Kiến thức ngày
nay”, tác giả cho biết :
Vào ngày 03 tháng 01 năm 1962, một dịch
cười kỳ lạ đã bộc phát trong một trường học do
các nhà truyền giáo phụ trách tại một ngôi làng
gần Bukoba, thuộc nước Tanzanie, gần hồ
Victoria.
Những triệu chứng đầu tiên là cười và khóc
xuất hiện ở những học sinh nam và nữ trong độ
tuổi thiếu niên. Bệnh phát ra đột ngột với những
tràng cười dài từ vài phút đến nhiều giờ, thậm
chí kéo dài đến 16 ngày, bị ngắt quãng bởi
những đợt lắng dịu tạm thời. Ngay cả khi không
cười, các bệnh nhân cũng tỏ ra kích động,
MỤC LỤC

không thể tập trung ý chí. Những tiếng cười


cuồng loạn gây xáo trộn đến độ trường học phải
đóng cửa vào cuối tháng sáu.
Khi trở về làng, các bệnh nhân nữ lây
truyền bệnh cười cho bạn bè và người thân.
Chỉ những người đàn ông trưởng thành và dân
làng có học vấn cao mới chống lại được sự lây
nhiễm này. Dù không làm chết người, căn bệnh
cười ấy lan tràn khắp vùng trong khoảng hai
năm rưỡi.
Do không tìm ra một triệu chứng nào thuộc
về thể xác, những viên chức thuộc cơ quan y tế
công cộng loại bỏ nguyên nhân nhiễm trùng và
đầu độc qua thực phẩm. Họ kết luận cơn bệnh
mang nguồn gốc tâm lý : có thể đây là trường
hợp cuồng loạn tập thể.
Những bệnh dịch tương tự từng bộc phát
vào thời trung cổ ở châu Âu. Liệu chúng ta có
MỤC LỤC

được miễn dịch chống lại sự lây nhiễm của tiếng


cười ? Hầu như không ai có thể nín cười trước
một màn trình diễn hài hước hay một vở kịch vui
trên truyền hình. Cái cười tước đi lớp vỏ bọc xã
hội và văn hóa, khiến chúng ta để lộ ra nền tảng
sinh học đầu tiên trong những họat động xã hội.
Những “dịch cười” như trên thật là họa
hiếm và rất ít khi xảy ra. Trong đời thường, hằng
ngày chúng ta vẫn cười và vẫn chiêm ngắm
những nụ cười của bàn dân thiên hạ. Vậy nụ
cười đem lại những hậu quả nào và chúng ta
phải cười ra làm sao ? Đó là những vấn đề gã
xin đề cập đến.
Trước hết, gã có thể xác quyết được rằng :
- Người là một con vật biết cười.
Hay như Rebelais đã nói :
- Cười là đặc tính của con người.
MỤC LỤC

Thực vậy, để biểu lộ những tình cảm, con


vật thường sủa, thường hót, thường gầm gừ,
thường vẫy đuôi hay thường…nhảy cẫng lên.
Chỉ con người mới biết biểu lộ tình cảm của
mình qua tiếng cười mà thôi.
Cũng trên báo “Kiến thức ngày nay”, thì
cách đây không lâu, Jaak Pansepp và Jeffrey
Burdorf, hai nhà tâm lý tại trường đại học
Bowling Green State, bang Ohio bên Mỹ, đã
dành phần lớn thời giờ để làm một công việc
khá ngộ nghĩnh, đó là gãi nhẹ lông các chú
chuột ở phòng thí nghiệm để làm cho chúng…
cười.
Họ đã sử dụng một máy khả dĩ ghi lại được
những âm thanh có tần số cao như của loài dơi
và họ sửng sốt khi thấy con chuột được “cù léc”
thoạt đầu phát ra một tiếng kêu la như khi bị kích
thích tình dục. Nhưng sau khi cù hàng trăm lần
MỤC LỤC

và ghi lại thì họ lại cho rằng đó là tiếng cuời khúc


khích vì khoái trá và vui thích. Sở dĩ như vậy vì
họ muốn chứng minh cho bàn dân thiên hạ thấy
rằng loài chuột cũng biết cười rúc rích.
Thế nhưng, báo chí và mọi người thì lại cho
đó là một trò đùa để cười cợt. Vì thế cho tới bây
giờ, nụ cười và tiếng cười vẫn là một nét đặc
sắc của con người, bởi vì chỉ con người mới biết
cười mà thôi.
Tiếp đến là giá trị của nụ cuời. Người xưa
đã bảo :
- Nhất tiếu thiên kim. Một nụ cuời đáng giá
ngàn vàng.
Câu nói này bắt nguồn từ một điển tích cũ
như sau :
U Vương đời nhà Châu là một ông vua
hoang dâm vô độ, lại rất say mê nhan sắc của
Bao Tự. Thế nhưng, Bao Tự suốt ngày buồn bã,
MỤC LỤC

chẳng bao giờ cười lên được một tiếng. Vì thế,


ông rất băn khoăn lo lắng, sẵn sàng làm đủ
mọi trò và mọi cách cốt sao đem lại cho Bao Tự
một nụ cười.
Nghe nói Bao Tự thích nghe tiếng lụa xé.
Thế là ông liền truyền cho nội thị mở kho và mỗi
ngày lấy ra hàng trăm tấm lụa mà xé cho Bao
Tự nghe, nhưng Bao Tự vẫn chẳng cười.
Thất bại nhưng không tuyệt vọng, ông
truyền cho bá quan văn võ trong triều, ai có cao
kiến chi làm cho Bao Tự cười, dù chỉ một lần mà
thôi, cũng sẽ được trọng thưởng ngàn vàng.
Quách Công bèn hiến kế : đốt lửa ở Ly Sơn và
nổi trống dối gạt các chư hầu, thế nào Bao Tự
cũng cười.
Số là để phòng ngừa giặc Hung nô và rợ
Khương Nhung ở phía bắc tràn xuống kinh
thành quấy nhiễu, các đời vua trước đã cho xây
MỤC LỤC

những phong hỏa đài ở Ly Sơn và đặt những cỗ


trống lớn. Mỗi khi thấy lửa ở phong hỏa đài đốt
lên và nghe tiếng trống nổi dậy, các chư hầu biết
đó là hiệu lệnh báo động ở kinh đô có loạn, phải
đến tiếp cứu.
Nghe theo lời Quách Công, U Vương đã
phế bỏ cả luật lệ của cha ông ngày trước, làm
nhục chư hầu, để cốt được tiếng cười của Bao
Tự, lại còn đem ngàn vàng thưởng ban cho
Quách Công, kẻ đã bày kế giúp cho Bao Tự
cười. Nhưng rồi sau này, khi bị rợ Khương
Nhung tấn công, U Vương truyền đốt lửa và nổi
trống ở Ly Sơn, nhưng chẳng chư hầu nào chịu
đến tiếp cứu. U Vương bị giết, còn Bao Tự thì bị
bắt.
Có lẽ rút ra từ chuyện trên mà người xưa
còn bảo :
- Nhất tiếu khuynh thành, tái khuynh quốc.
MỤC LỤC

Có nghĩa là cười…một phát thì nghiêng


thành, cười thêm…một phát nữa thì nghiêng
nước, để nói lên rằng đờn bà đẹp thường làm
cho hư nhà hại nước là thế !!!
Nói như vậy thì chắc chắn sẽ bị coi là tiêu
cực và bôi bác, nếu không muốn nói là sẽ bị kết
án là báng bổ phe đờn bà con gái.
Thế nhưng, kinh nghiệm cũng cho thấy nụ
cười có khi còn đáng giá hơn cả ngàn vàng. Vì
thế, người ta đã mở những trường lớp để dạy…
mỉm cười, để dạy…mần duyên.
Một thiếu nữ dự thi hoa hậu, nếu không có
được một nụ cuời tươi như nụ hồng thì khó mà
được lọt vào những cặp mắt cú vọ của ban giám
khảo. Một cô gái phục vụ tại siêu thị, mặt mũi lúc
nào cũng nhăn nhó, không biết chiêu đãi “các
thượng đế” bằng những nự cuời của mình, thì
làm sao bán được hàng. Một trong những lý do
MỤC LỤC

khiến Thái Lan hấp dẫn được du khách vì người


Thái nào cũng sẵn sàng mỉm cười trước những
người ngoại quốc và đất nước họ thường được
tuyên truyền và quảng cáo là “Xứ sở của những
nụ cười”.
Một kinh nghiệm khác cụ thể hơn đã được
cha ông chúng ta phát biểu như sau :
- Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
Kinh nghiệm này đã được giới y khoa từ cổ
chí kim, từ đông sang tây xác nhận. Thực vậy từ
thời cổ đại, nụ cười đã được coi như là một liệu
pháp, một phương pháp trị liệu. Hippocrate, ông
tổ của ngành tây y, đã dùng nụ cười để chữa trị
cho những cái đau của thể xác và tinh thần.
Vào thế kỷ thứ hai, danh y Galien đã nhận
xét :
- Những phụ nữ vui tính lành bệnh nhanh
hơn những phu nữ u sầu.
MỤC LỤC

Vào thời trung cổ Henri de Mandeville cũng


dùng nụ cười để chữa bệnh. Ông đánh giá nụ
cười làm tăng thêm sức khỏe cho cơ thể, trong
khi sự buồn phiền làm cho sức khỏe bị suy yếu.
Hiện nay, những nhà sinh lý học thừa nhận
một số tác dụng tích cực của tiếng cười như thư
giãn, xoa bóp nội tạng…Vì vậy, “liệu pháp cười”
có thể giúp các bệnh nhân tìm lại sức khỏe thể
chất và tinh thần.
Bác sĩ người Pháp Pierre Vachet dùng nụ
cười làm phương pháp chữa bệnh cho các thân
chủ của mình và ông nhận thấy họ mau khỏi
hơn những bệnh nhân khác. Thời xưa, những
anh hề thường chiếm một vị trí quan trọng bên
cạnh các vị vua. Vai trò của họ là mua vui cho
triều đình.
Gần đây, nhà báo Mỹ Norman Cousins,
tổng biên tập tờ Saturday Riview, khẳng định
MỤC LỤC

nhờ những màn hài hước. ông được chữa khỏi


bệnh viêm khớp đốt sống, một chứng bệnh
được coi như không chữa được. Ông nhận thấy
rằng 10 phút cười giòn mang lại cho ông 2 giờ
ngủ ngon không đau đớn và ông đã kết luận :
- Nụ cười là một liều thuốc mạnh tác động
tích cực đến tinh thần, thể xác và cảm xúc của
chúng ta.
Người ta cũng thừa nhận một cách khoa
học rằng nụ cười kích thích các endorphine, một
thứ morphine tự nhiên sinh ra từ hệ thần kinh
của chúng ta và có tác dụng chống đau nhờ vào
hậu quả gây tê…Ngoài ra, nụ cười còn ảnh
hưởng tới việc hô hấp, làm giãn nở phế nang,
kích thích sự tiêu hóa, trừ tiệt chứng táo bón. Nụ
cười làm phát sinh adrénaline, giúp chúng ta
nhanh nhẹn và nhạy cảm, chống lại chứng trầm
uất và mất ngủ…
MỤC LỤC

Ngày no, gã đi khám bệnh và phát hiện mỗi


trái thận đều có một cục sạn nhỏ. Gã bèn hỏi :
- Liệu có phải mổ để lấy ra hay không ?
Bác sĩ trả lời :
- Vì nó nhỏ, nên không cần phải mổ.
Gã hỏi thêm :
- Vậy tôi phải làm gì ?
Bác sĩ trả lời :
- Có ba việc cần phải làm ngay : Thứ nhất
là uống thuốc theo toa, thứ hai là uống nhiều
nước vì nước chảy đá mòn, thứ ba là đừng lo
nghĩ nhưng hãy…cười nhiều.
Chính vì thế có người đã nói :
- Một ngày không cười là một ngày vô ích
nhất.
Và :
- Người hay vui cười mới thực sự là người
hiền lành.
MỤC LỤC

Gã xin kể ra những lợi ích của nụ cười


bằng một sưu tầm như sau :
1- Cười là một thần dược trị được cả bệnh
thể xác lẫn bệnh tâm hồn.
2- Cười làm cho ta cởi mở bao dung và có
một tinh thần lạc quan yêu đời.
3- Cười làm tăng hồng huyết cầu và lá lách
hoạt động tích cực hơn.
4- Cười làm tăng sinh lực, khiến ta vui vẻ
lanh lợi và thêm lòng yêu thương.
5- Cười làm cánh cửa cảm thông rộng mở
thật dễ dàng với mọi người.
6- Cười mím, cười nụ, cười ra tiếng làm
khuôn mặt chúng ta dễ mến hơn.
7- Cười làm thư giãn các bắp thịt trên mặt,
tan biến những căng thẳng.
8- Cười làm toàn thân được nhẹ nhàng
thanh tịnh, thư thái và an lạc.
MỤC LỤC

9- Cười giúp ta tránh được tâm trạng cay


đắng khổ đau, phản ứng kịp thời.
10- Cười giúp cho tâm hồn lành mạnh và
thêm khả năng sáng tạo mọi việc.
11- Cười nhiều giúp ta biết tự kỷ có trách
nhiệm và thực tế hơn.
12- Cười nhiều tránh được buồn nản, dễ
thành công vì tiếng cười là trí tuệ.
13- Cười là khoảng cách ngắn nhất giữa
hai tâm hồn, là biết nghệ thuật sống.
14- Cười dễ vui theo cái vui của người
khác, hoan hỉ như mình thành đạt vậy.
15- Cười có thể làm tan di nỗi bực mình,
buồn phiền của người đối diện.
16- Cười giúp ta vui sống hiện tại, quên hết
quá khứ và lo lắng về tương lai.
17- Cười giúp ta trở về với chính mình, tức
là thực sự trở về đời sống mới.
MỤC LỤC

18- Cười có nhiều lợi ích cho ta về sức


khỏe, tinh thần và cảm xúc tâm linh.
19- Cười giúp hồn nhiên tươi sáng,có nhiều
khả năng chống lại bệnh tật.
20- Cười giúp các tế bào loại T trong máu
tăng lên, có sức đề kháng mạnh.
21- Cười làm giảm phong thấp, các khớp
xương đỡ bị sưng và chống sưng.
22- Cười làm giảm các chất hóc môn
(Cortisone) trong thận, sẽ sống khỏe hơn.
23- Cười tránh được nhức đầu, đau tim,
cao huyết áp và mỡ trong máu.
24- Cười giúp tống khứ các khí dơ, thêm
nhiều dưỡng khí cho bộ não thông minh.
25- Cười làm tăng máu, chống viêm khớp,
làm con người luôn tỉnh táo.
26- Cười tạo điều kiện cho ánh sáng nội
tâm thể hiện, thấu suốt mọi sự vật.
MỤC LỤC

27- Cười giúp những nét phiền muộn tan


biến, gương mặt trở nên tươi trẻ ra.
Cũng trong chiều hướng ấy mà rải rắc khắp
nơi trên thế giới, người ta đã bắt đầu tổ chức
những “festival cười”.
Tại Đan Mạch, cứ đến Chúa nhật thứ hai
của tháng giêng là mọi người lại tụ tập về quảng
trường Town Hall của thành phố Copenhagen
để…cười sảng khóai.
Câu lạc bộ cười lần đầu tiên được sáng lập
ở Bombay năm năm trước đây bởi bác sĩ tâm lý
Ấn Độ Madan Kataria. Tiếng tốt về câu lạc bộ
này đã nảy sinh ra một ý tưởng tương tự ở anh
công nhân quảng cáo thất nghiệp Đan Mạch,
Jan Thygesen Poulsen. Và anh ta đã trở thành
người khởi xướng câu lạc bộ cười ở đất nước
này.
MỤC LỤC

Tại Québec bên Canada, từ nhiều năm nay


đã xuất hiện “festival chỉ để cười”. Tại festival
này, mọi người đều có đủ thời giờ để lập cho
mình một kiểu cười chẳng giống ai. Tại Pháp
cũng rộ lên “Festival hóm hỉnh” ở Seine-et-
Marne. Và mới đây hồi cuối tháng 6 năm 2005
tại Hồng Kông, người ta cũng đã tổ chức đại
hội…cười.
Tuy nhiên, có một điều khác cũng không
kém phần quan trọng, đó là hãy đem lại cho
người khác những nụ cười lành mạnh, bởi vì
chính những nụ cười này sẽ đem lại cho họ
niềm an ủi trong những khi đau khổ và niềm
khích lệ trong những lúc tuyệt vọng.
Trong một trại phong nọ, các bệnh nhân
hầu như bị quên lãng. Họ sống lầm lũi trong đau
khổ cả thân xác lẫn tâm hồn. Những tháng ngày
còn lại trên trần gian chỉ là khoảng thời gian vô
MỤC LỤC

vọng, buồn tẻ và cô đơn. Duy chỉ có một người


đàn ông luôn mỉm cười vui tươi.
Vị nữ tu chăm sóc bệnh nhân hết sức ngạc
nhiên và cố tìm hiểu nguyên nhân. Cuối cùng vị
nữ tu này cũng khám phá ra được lý do, đó là
mỗi ngày đều có một phụ nữ thập thò ngoài
hàng rào chờ người đàn ông đến và bà nở một
nụ cười thân ái, trìu mến, đầy yêu thương dành
cho ông. Người đàn ông ngày ngày ra gần đó để
đón nhận nụ cười ban sức mạnh và tạo niềm hy
vọng như hoa xuân đón ánh mặt trời, như cây
cỏ hứng giọt sưong mai. Khi vị nữ tu đến gần,
người đàn ông nói :
- Vợ tôi đấy.
Sau một lúc yên lặng, ông ta nói tiếp :
- Trước khi vào đây, cô ấy đã cố chạy chữa
cho tôi. Một thầy lang đã cho tôi một loại dầu và
mỗi ngày cô ấy thoa lên mặt tôi. Cô ấy cũng
MỤC LỤC

không quên chừa lại một khoảng nhỏ để đặt vào


đó một nụ hôn. Nhưng rồi tất cả đều vô hiệu,
người ta đã đưa tôi vào đây. Cô ấy đã không bỏ
tôi đơn độc, trái lại mỗi ngày cô ấy đều đến để
mỉm cười với tôi, mang lại cho tôi sinh khí để
sống. Nhờ thấy cô ấy mỗi ngày mà tôi còn ham
sống và như sơ đã thấy đấy, tôi đã sống rất vui
tươi.
Để kết luận gã xin kể lại một mẩu chuyện
nho nhỏ :
Có một anh hề chết đi và được đưa lên
trước tòa Chúa để chịu phán xét. Chúa hỏi :
- Anh đã làm được những gì trong cuộc
sống ở trần gian.
Anh ta lo toát cả mồ hôi hột vì thấy mình
chẳng làm nên trò trống chi cả. Anh ta bèn thưa
lên :
MỤC LỤC

- Lạy Chúa, con chỉ làm cho người ta cười


mà thôi.
Chúa liền phán :
- Này con, hãy vào lãnh nhận phần thưởng
đã được sắm sẵn cho con, vì khi con làm cho
người ta cuời và vui sướng, thì đó là con đã làm
cho chính Ta cười và vui sương rồi đó.
Như vậy, muốn được hạnh phúc ở đời này
cũng như ở đời sau, chúng ta hãy cười…và
cười luôn mãi, đồng thời cũng đừng cố gắng
đem lại cho người khác những nụ cười trong
sáng.
MỤC LỤC

CHỬI -/-

Chuyện phiếm của Gã Siêu.

Cách đây không lâu, một anh bạn từ bên


Mỹ, chẳng biết sưu tầm được ở đâu, đã gửi cho
gã một mẩu chuyện, đọc xong gã chẳng biết nên
cười hay nên khóc. Mẩu chuyện ấy như thế
này :
Lần đầu tiên mới tới Hà Nội, tôi không khỏi
bỡ ngỡ khi tìm nhà của một người bạn, hiện làm
trưởng một khu phố văn hóa.
Thấy có mấy đứa trẻ đang nô đùa ngoài
đầu ngõ, tôi hỏi :
- Này các cháu, các cháu có biết nhà ông
trưởng khu phố văn hóa này ở đâu hay không ?
Một đứa bé trai, khoảng trên dưới mười
tuổi, ngước nhìn tôi bằng ánh mắt xấc láo và
ranh mãnh, rồi đáp gọn lỏn :
MỤC LỤC

- Biết nhưng…đéo chỉ.


Tôi lắc đầu, tiếp tục đi sâu vào con hẻm văn
hóa. Gặp một thanh niên, tôi liền hỏi :
- Anh ơi, anh có biết nhà ông trưởng khu
phố văn hóa này ở chỗ nào hay không ?
Gã trẻ tuổi chẳng thèm nhòm ngó gì đến tôi
và trả lời cộc lốc :
- Đéo biết.
Miết rồi cũng tìm thấy nhà ông trưởng khu
phố văn hóa. Khi gặp ông, tôi kể lại chuyện này
cho ông ta nghe với lời than thở :
- Anh ạ, các bậc cha mẹ ở đây không dạy
dỗ con em hay sao mà để chúng nó ăn nói với
những người khách lạ một cách thô bỉ và tục tĩu
đến thế hả anh ?
Chẳng cần suy nghĩ, ông trưởng khu phố
văn hóa đã thuận miệng trả lời tôi ngay :
MỤC LỤC

- Có dạy đấy chứ, nhưng chúng nó…đéo


nghe.
Lúc ấy người con gái của ông bạn tôi, hiện
là một cô giáo dạy môn văn, vừa từ nhà trường
trở về và tôi liền đem câu chuyện ấy ra mà kể.
Thay vì trả lời trực tiếp cho tôi, cô giáo xin
phép thuật lại một sự việc như sau :
Hôm ấy, cháu giảng bài văn, có đoạn trình
bày thành tích anh hùng và dũng cảm của nhân
dân ta đã đánh gục giặc Tây, đã đánh nhào giặc
Mỹ…Cuối cùng, cháu kêu một em trai lớn nhất
lớp và bảo :
- Em hãy định nghĩa xem hai chữ “dũng
cảm là gì ?”
Nó đứng lên, suy nghĩ một lúc rồi đáp gọn
lỏn :
- Thưa cô, nghĩa là…đéo sợ ạ.
MỤC LỤC

Sau đó, trong cuộc tiếp xúc với ông bộ


trưởng giáo dục và đào tạo, cháu liền đem câu
chuyện thằng bé học trò đã cắt nghĩa hai chữ
“dũng cảm” là…”đéo sợ” cho ông ta nghe.
Nghe xong, ông bộ trưởng tỏ vẻ đăm chiêu,
ra điều suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng, ông
nghiêm nghị nhìn tôi, rồi gật gù như một triết gia
uyên bác vừa mới khám phá ra một chân lý cao
siêu, ông ta chậm rãi đáp :
- Ừ, nó cắt nghĩa như thế thì cũng…đéo
sai.
Nghe vậy, tôi chua chát nghĩ thầm trong
bụng rằng :
- Giáo dục và đào tạo theo kiểu này thì đất
nước mình…đéo khá lên được.
Gã nghĩ rằng mẩu chuyện trên đây chỉ là
một giai thoại được “phệu ra” với một chủ đích…
châm chích chọc nào đó mà thôi. Nhưng câu
MỤC LỤC

chuyện dưới đây lại là một câu chuyện có thật


một chăm phần chăm, do một cha già khả kính
đã kể cho gã nghe.
Vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh, cha già
đạp xe từ nhà thờ xứ tới nhà thờ họ lẻ để ban lễ
vào lúc tám giờ. Cũng trong khoảng thời gian ấy,
có hai vợ chồng nhà kia chẳng hiểu lục đục với
nhau vì lý do gì, đã chửi bới nhau một cách
thậm tệ.
Thế nhưng, đang lúc hăng say dọn cho
nhau xơi những thứ cao lương mỹ vị, chị vợ
nhác thấy bóng cha già sắp đi qua bèn đề
nghị…đình chiến. Chị nói :
- Thôi, không cãi nhau nữa, cha đấy.
Anh chồng còn đang hậm hực và tức tối, từ
trong nhà chõ mõm ra ngoài ngõ và quát lớn :
- Cha thì ông cũng…đéo sợ.
MỤC LỤC

Ngay lúc đó, vị cha già khả kính của gã đạp


xe ngang qua và đã nghe thấy “nguyên văn” câu
nói ấy.
Như vậy, chẳng phải chỉ có người Hà Nội
mới chửi, mà người Saigon cũng chửi. Chẳng
phải chỉ có người miền Bắc mới chửi, mà người
miền Nam cũng chửi. Chẳng phải chỉ có đờn
ông mới chửi, mà đờn bà cũng chửi. Ngôn ngữ
chửi là ngôn ngữ chung của mọi người, ở mọi
nơi và trong mọi lúc, từ đông sang tây cũng như
từ cổ chí kim.
Và gần đây, gã thấy hiện tượng này xem ra
đã bùng nổ mãnh liệt và liên tục phát triển nơi
giới…nữ sinh. Cứ nhìn những cặp môi ngây thơ
và xinh đẹp ấy phát ngôn một cách bừa bãi, tuôn
ra rông rổng những lời chửi bới cộc cằn. Chẳng
khác gì các bà hàng cá, hàng tôm, hàng thịt…
Dường như đối với các em mới nhớn này phải
MỤC LỤC

biết chửi mới là dân chơi thứ thiệc, chính hiệu


con nai vàng ngơ ngác.
Tình cờ đi qua một đám nữ sinh đang chu
mỏ lại bình loạn về lão nọ, lão kia. Nhưng những
lão ấy là ai thế ? Gã xin thưa những lão ấy có
khi là cha mẹ của họ, có khi là thầy dạy của họ
và cũng có khi là…bồ bịch của họ nữa.
Nghe được những lời bình loạn này, hẳn
nhiều người sẽ phải sởn gai ốc, nổi da gà và
phát sốt phát rét lên ấy chứ. Nếu có sống lại,
Đức Khổng Tử cũng phải thở dài thườn thượt,
rồi sau đó lăn đùng ra mà chết, miệng vẫn còn
nói những lời sau cùng như muốn cảnh báo :
- Hỉ ôi! Hỉ ôi! Hậu sinh khả…ố. Tứ đức công
dung ngôn hạnh của ta biến sạch đằng nào cả
rồi ?
Như trên gã đã xác quyết bằng cả hai tay
lẫn hai chân rằng :
MỤC LỤC

- Ngôn ngữ chửi là ngôn ngữ chung của


mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, đã là người thì ai cũng có tình
cảm. Và theo sự phân tích của người xưa, thì có
bảy thứ tình cảm chi phối toàn bộ đời sống con
người và được gọi là thất tình.
Vì vậy, gã xin cả tiếng lại dài hơi thanh
minh thanh nga rằng : thất tình ở đây chẳng phải
là mất đi tình yêu để rồi phát buồn phát sầu mà
đi lang thang như người cõi trên. Trái lại, thất
tình là bảy thứ tình cảm chất chứa trong lòng
con người, đại khái như sau :
Thứ nhất hỉ là mừng.
Thứ hai nộ là giận.
Thứ ba ai là buồn.
Thứ tư cụ là sợ.
Thứ năm ái là yêu.
Thứ sáu ố là ghét.
MỤC LỤC

Thứ bảy dục là muốn.


Kinh nghiệm cho thấy khi cái sự “nộ” tức là
cái sự giận nổi lên đùng đùng, nó sẽ ám vào lục
phủ ngũ tạng khiến cho đương sự như bị tẩu
hỏa nhập ma, mặt đỏ tía tai và thế nào miệng
cũng phát ra những lời chửi bới độc địa.
Vậy thế nào là chửi ?
Theo gã nghĩ chửi là biểu lộ sự nóng giận
của mình bằng những lời lẽ thô lỗ, xúc phạm tới
ông bà cha mẹ người ta, gán cho người ta
những tên xấu xa của súc vật, hay cho người ta
ăn những của lạ…Như vậy, sự chửi bới thường
đi đôi với những lời nói tục tĩu.
Gã không phải là một nhà ngôn ngữ học,
nhưng xem ra cách chửi của dân An-nam-ta vừa
trầm lại vừa bổng, vừa đậm đà lại vừa ý vị, ăn
đứt những dân tộc khác trên trái đất này.
MỤC LỤC

Nếu coi việc chửi bới là như một chứng


bệnh, thì gã có thể phân chia thành hai loại.
Loại thứ nhất là chửi mãn tính.
Chửi mãn tính là thứ chửi thường xuyên.
Người mắc phải chứng bệnh này, hễ mở mồm
ra là phải chửi. Họ chửi một cách tự nhiên. Họ
chửi một cách vô tư, không tội vạ chi sốt. Nếu
không chửi thì xem ra họ sẽ bị nhạt miệng hay bị
ngứa ngáy khó chịu.
Bất cứ câu nói nào của họ cũng phải được
đệm theo một thứ tiếng lạ, như tiếng Đức hoặc
tiếng Congo... Tất cả tạo thành một thứ hợp âm
cho ngôn từ của họ được tròn trịa, được hài hòa
và cân đối.
Hồi còn bé sống trong nội trú, tên nào chửi
tục mà bị thầy giám thị vớ được, sẽ bị trừ điểm
kỷ luật và chiều thứ năm, thay vì được đi “bát
phố”, thì sẽ phải ở nhà để làm công tác. Vì thế,
MỤC LỤC

những tên “ghiền” chửi tục, đã bịa ra những từ


nhẹ nhàng và thanh tao hơn để mà chửi, cho dù
bản chất vẫn là thô tục.
Chẳng hạn như từ “điếu” :
- Ông điếu sợ…
Chẳng hạn như từ “bè mẹ” :
- Bè mẹ nó chứ, ông đánh cho vỡ mỏ ra
bây giờ.
Thanh thử, đám trẻ cứ thoải mái qua mặt
thầy giám thị cái vù, mà chẳng hề hấn chi.
Gã có một anh bạn mắc phải chứng bệnh
này một cách “thâm niên quân vụ”. Là miền
người Bắc, nhưng vì sống lâu năm với đám học
trò nhỏ người miền Nam, nên tiếng đệm của anh
ta cũng bị pha trộn.
Hầu như lúc nào trên môi miệng anh ta
cũng vang lên điệp khúc “đủ mẻ”. Vì thế, gã đã
MỤC LỤC

phong cho anh ta cái hỗn danh là “ông thầy Đủ


Mẻ”.
Ngày kia, anh ta đang lái xe phom phom đi
trên đường phố, nhưng có lẽ vì lơ đãng hay sao
ấy, anh ta đã va quẹt vào chiếc xe của một cô
gái. Thế là nhanh như chớp, anh ta xuống xe,
khoa chân múa tay mà chửi :
- Đủ mẻ, lái thế mà coi được à. Bộ đui bộ
mù hay sao ?
Tội nghiệp cho cô gái, hai mắt rưng rưng
như muốn khóc, lên tiếng năn nỉ ỉ ôi với anh ta :
- Thôi mà chú. Tội nghiệp cháu. Chú đừng
chửi nữa. Cháu sợ lắm. Hết bao nhiêu cháu xin
đền ạ.
Về tới nhà, gã bèn hỏi anh ta :
- Sao lúc đó ông hung hăng con bọ xít đến
thế ?
Anh ta điềm nhiên trả lời :
MỤC LỤC

- Đủ mẻ nó chứ, hễ đụng xe là phải chửi


liền tù tì. Bắn chậm thì chết thế nào, thì chửi
chậm cũng chết như vậy. Đó là quy luật của
muôn đời, mày phải nhớ cho kỹ, rồi đem ra mà
áp dụng mỗi khi…hữu sự nghe con.
Đặc biệt nhất là khi tâm hồn anh ta sảng
khoái và ngồi vào bàn nhậu. Anh ta đã từng phát
biểu thật hách xì xằng :
- Đã không “dzô”thì thôi, “dzô” thì là một
chăm phầm chăm. Đủ mẻ thế mới đã!
Thậm chí anh ta còn cao hứng nghêu ngao
hát :
- Đâu có tình yêu thương, ở đó uống rượu
thật nhiều.
Đâu có tình bác ái, ở đó uống rượu không
say.
Đâu ý hiệp tâm đầu, ở đó uống chăm phần
chăm.
MỤC LỤC

Còn rất nhiều những sự việc hay ho hấp


dẫn về “ông thầy Đủ Mẻ” này, nhưng gã xin
khép lại ở đây để tiếp tục bàn về chứng bệnh
chửi.
Loại thứ hai là chửi cấp tính.
Chửi cấp tính là thứ chửi đột xuất, khi tự ái
bị chạm mạch và sự nóng giận bốc lên đầu,
khiến người ta chửi thành từng câu hay thành
từng bài với ý đồ thâm hiểm nhằm hạ nhục đối
phương, làm cho đối phương phải te tua nát
nước.
Tùy theo tính tình của từng người mà cơn
bệnh cấp tính này mang những âm độ khác
nhau.
Trước hết, đối với với những kẻ nhát gan,
không đủ can đảm biểu lộ sự bực tức ra bên
ngoài, bèn nuốt giận mà chửi lén hay chửi thầm.
MỤC LỤC

Chửi lén là chửi sau lưng, là chửi lúc người


ta vắng mặt. Họ giống như hội đồng nhà chuột.
Căm thù trước sự dã man của mấy lão mèo,
dòng họ nhà chuột đã họp hội đồng và trong
cuộc đại hội này, từ tên chuột cống đến tên
chuột nhắt, tất cả đều to mồm chửi bới mấy lão
mèo. Thế nhưng khi mấy lão mèo xuất hiện, thì
họ hàng nhà chuột đều mạnh ai nấy trốn, bỏ của
chạy lấy người. Giá như có một tí trí khôn để
suy nghĩ, thì không thiếu những tên chuột khom
lưng quì gối mà nịnh bợ mấy lão mèo.
Còn chửi thầm là chửi âm ỉ trong cõi lòng
của mình mà không phát thành tiếng thành lời,
bản lãnh lắm thì cũng chỉ lẩm bẩm nơi cửa
miệng mà thôi. Nhiều khi cơn giận làm cho thâm
gan tím ruột, mà bản mặt thì vẫn cứ phải tươi
cười, cho dù cái cười có quay quắt và héo hắt.
MỤC LỤC

Tiếp đến, đối với những kẻ bạo phổi thì sự


bực tức được phát tiết ra bên ngoài, nhất là nơi
miệng lưỡi bằng những lời lẽ cộc cằn và thô lỗ.
Đồng thời, tùy theo đối tượng được nhắm tới, gã
có thể chia loại chửi này thành hai kiểu.
Kiểu thứ nhất là chửi trực diện, hay nói theo
ngôn ngữ tin học, thì đó là chửi trực tuyến, nghĩa
là chửi thẳng vào mặt đối phương, chẳng cần
phải nể nang, chẳng cần phải rào trước đón sau.
Những “lời hay và ý đẹp” cũng như những món
“cao lương mỹ vị” cứ tuôn ra ào ào, khiến cho
đối phương bị tối tăm mặt mũi chẳng biết đâu
mà đỡ. Nếu không có nội lực thâm sâu, thì chắc
chắn sẽ bị…sụm bà chè mất thôi. Kiểu chửi này
được bàn dân thiên hạ gọi chửi tưới hột sen,
chửi như tát nước.
Kiểu thứ hai là chửi gián tiếp. Ta cứ gào to
giữa làng và giữa xóm, giữa đường và giữa phố,
MỤC LỤC

để cho ai có tật thì phải giật mình. Ta cứ rút dây


cho rừng phải động. Ta cứ nổ sấm bên đông
cho động tới bên tây. Ta cứ nói đấy để cho đây
phải chạnh lòng. Vì thế, kiểu chửi này được bàn
dân thiên hạ gọi là chửi đổng, chửi khống, chửi
lông bông, chửi xiên chửi xéo…
Một đứa bé học trò nghịch ngợm trong lớp,
bị ông thầy đánh cho ba roi. Trong khi ông thầy
quất cái roi xuống, đứa bé theo phản xạ tự nhiên
bèn đưa tay ra đỡ. Chẳng may cái roi dụng phải
cái móng tay đứa bé và làm cho nó chảy máu.
Đứa bé nước mắt lưng tròng chạy về nhà
kể lể và tả oán với bố nó. Ông bố cáu tiết bèn
làm một màn chửi đổng. Ông ta vừa chạy dọc
theo con đường duy nhất trong làng, vừa quát
tháo ầm ĩ :
MỤC LỤC

- Tiên sư bố nó. Nó không đẻ, nó không


đau, nó dám đánh con người ta như thế kia à.
Tiên sư bố nó…Tiên sư bố nó…
Gã có thể quả quyết được rằng việc chửi
đổng hay chửi xiên chửi xéo nơi một số quí bà
quí cô đã đạt tới trình độ nghệ thuật với chất
lượng cao, nếu không muốn nói là tuyệt vời và
trên cả tuyệt vời nữa.
Họ chửi có cung có điệu và có trầm có
bổng. Họ chửi thành câu thành cú và thành bài
thành bổn. Lời họ chửi chẳng khác chi một bài
thơ, có bằng có trắc và có vần có vế. Tiếng họ
chửi khi thì dồn dập như thác lũ, khi thì nỉ non ai
oán như tiếng người vợ nức nở tiễn đưa người
chồng vào nơi chín suối.
Trời bắt đầu nhá nhem. Bà hàng xóm ném
một nắm thóc xuống khoảng sân đất và lên tiếng
gọi :
MỤC LỤC

- Chắt, chắt, chắt…


Bầy gà lục tục kéo nhau về, mổ những hạt
thóc cuối cùng trong ngày trước khi lên chuồng.
Bà hàng xóm đếm đi đếm lại mà sao vẫn
thiếu một anh gà trống choai. Rồi bà đếm lại
đếm đi mà sao vẫn cứ thiếu. Và thế là bà ra
đứng trước ngõ, mắt long lên còng cọc, cất cao
giọng the thé mà chửi một bài cả thể.
Nhân vật được bà ưu ái nhắm tới thuộc vào
hàng vô ngã, “impersonnel”, nên lời chửi của bà
cũng vu vơ và bâng quơ. Tuy vu vơ và bâng
quơ, nhưng lại nhằm trực tiếp tới một thằng cha
nào đó đã cả gan dám ăn cắp gà của bà.
Tiếng chửi của bà nhờ gió chuyển tới các
gia đình trong khu xóm :
- Cha tiên sư ông cụ,
ông kỵ bảy đời nhà nó.
Nó chẳng bỏ công nuôi,
MỤC LỤC

mà lại muốn ăn không của bà.


Thì đây bà cho nó ăn….
Tới chỗ này thì xin cho gã tự đục bỏ và cắt
xén, không dám viết thêm nữa vì sợ sẽ làm cho
kẻ thanh sạch mất lòng khiết tịnh. Chỉ biết rằng
anh gà trống choai của bà hàng xóm sáng hôm
sau đã xuất hiện thật sớm trên khoảng sân đất.
Anh ta vỗ cánh đùm đụp, rồi cất giọng ồ ề mà
gáy. Có lẽ đêm hôm qua anh ta đã đi tán tỉnh,
hay đi mừng sinh nhật của một chị gà mái tơ
nào đó chăng ?
Về việc chửi bới cũng như về nhiều việc
khác nữa, đôi khi đã xảy ra một nghịch lý đáng
buồn trong phạm vi gia đình.
Thực vậy, cha mẹ nào cũng muốn dạy bảo
con cái mình phải nghiêm túc trong lời nói, tránh
đi những lời nói nóng nảy, cộc cằn và tục tĩu.
Thế nhưng, chính những bậc làm cha làm mẹ ấy
MỤC LỤC

lại luôn có những lời nói nóng nảy, cộc cằn và


tục tĩu ấy trên môi trên miệng của mình.
Một ông bố đã căn dặn con mình như sau :
- Mày nhớ nhé, không được nói tục nghe
con. Mày mà nói tục, ông cha sở nghe thấy, thì
ông ấy sẽ xẻo lưỡi mày đấy. Đủ mẻ mày đã
nghe rõ chưa ?
Cũng thế, một bà mẹ luôn nhắc nhở đứa
con gái cưng của mình phải thành thật. Thế
nhưng, khi có người đến đòi nợ, bà đã trốn kỹ
dưới bếp và sai đứa con gái ra nói người khách
bất đắc dĩ ấy rằng bà đi vắng.
Đứa con gái mở cổng và rất ngây thơ nói
với người khách :
- Thưa bác, má cháu bảo cháu ra nói với
bác rằng má cháu không có nhà.
MỤC LỤC

Cũng thế, buổi sáng nghe chuông nhà thờ


vang lên, ông bố cuộn mình trong chăn, vội lên
tiếng giục giã con cái :
- Nào, thức dậy, đi đái, lấy nước, súc
miệng, đánh răng, rửa mặt, đi lễ.
Trong khi con cái uể oải thực thi những
mệnh lệnh kể trên, thì ông bố vẫn cứ nằm ngủ
nướng…nướng đến độ cháy khê cháy khét.
Thảo nào, khi người ta hỏi một cậu bé
rằng :
- Em muốn gì ?
Cậu bé không ngần ngại trả lời :
- Em muốn làm người lớn.
Người ta hỏi tiếp :
- Tại sao lại thế ?
Cậu bé nhoẻn một nụ cười đầy bí mật và
nói :
MỤC LỤC

- Để được chửi tục, nói dối và nằm ngủ


nướng mà không bị la mắng!
Cha mẹ nói một đàng nhưng lại làm quàng
một nẻo, thành thử trống đánh xuôi kèn thổi
ngược, những lời dạy bảo của họ không đủ sức
thuyết phục con cái.
Phương thế giáo dục đạt hậu quả cao nhất,
đó chính là gương sáng của cha mẹ, bởi vì chỉ
gương sáng của cha mẹ mới là một bài giảng
hùng hồn hấp dẫn được con cái mà thôi, chả thế
mà người xưa đã bảo :
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Để kết luận, gã nhớ lại lời người xưa đã
khuyên :
- Hãy ngoáy lưỡi bảy lần trước khi nói.
Có nghĩa là phải thận trọng đắn đo trước
khi nói, để tránh đi những lời chửi bới và tục tĩu,
MỤC LỤC

trái lại hãy có những lời ôn tồn và thành thực để


tạo được một bàu khí hòa thuận cũng như bắc
được một nhịp cầu cảm thông, vì :
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy :
- Ngậm máu phun người, trước dơ miệng
mình.
Hay như người Pháp cũng đã bảo :
- Khi chửi bới thì chính chúng ta lại là người
đầu tiên phải nghe những lời tục tĩu ấy.
Hơn thế nữa, lòng đầy thì mới tràn ra
ngoài. Căn cứ vào lời nói mà thiên hạ có thể
đánh giá được con người chúng ta. Nếu lời nói
của chúng ta cộc cằn và thô lỗ, thì con người
chúng ta cũng cộc cằn và thô lỗ như vậy. Trái lại
:
- Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
MỤC LỤC

Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe.

You might also like