You are on page 1of 9

6.

Phân tích vụ việc Canad


a điều tra trợ cấp với mặt hàng Thép chống ăn mòn của Việt Nam. Giải thích
tại sao không áp thuế chống trợ cấp trong vụ việc này.

I. MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG VỀ VỤ VIỆC

1. Ngày khởi xướng điều tra: Ngày 08 tháng 11 năm 2019


2. Nguyên đơn: ArcelorMittal Dofasco G.P. (ArcelorMittal)
3.Mặt hàng bị điều tra: thép chống ăn mòn (Corrosion-resistant steel sheet COR),
mã HS:7210.30.00.00, 7210.49.00.10, 7210.49.00.20, 7210.49.00.30, 7210.61.00.00,
7210.69.00.10, 7210.69.00.20, 7212.20.00.00, 7212.30.00.00, 7212.50.00.00,
7225.91.00.00, 7225.92.00.00, 7226.99.00.10.
4. Kết luận sơ bộ: Ngày 20/03/2020, Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada đã ban
hành kết luận sơ bộ về phá giá và trợ cấp, quyết định áp thuế CBPG, CTC tạm thời với
sản phẩm thép chống ăn mòn (Corrosion-resistant steel sheet – COR) nhập khẩu từ Thổ
Nhĩ Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Việt Nam, với mức thuế cụ thể như
sau:
* Thuế CBPG: Việt Nam: 36,6%-91,8%, Thổ Nhĩ Kỳ: 39,7%, UAE: 49%
* Thuế CTC: Việt Nam: 0%-0,12%, Thổ Nhỹ Kỳ: 0,87%-7,72%, UAE: 0%
5. Kết luận cuối cùng: Ngày 16/10/2020, Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada đã ban
hành quyết định cuối cùng về phá giá và trợ cấp, quyết định áp thuế CBPG với mức thuế:
Việt Nam: 4,7%-71,1%,Thổ Nhỹ Kỳ: 9,7%-261%, UAE: 11,2%-41,5% và không áp thuế
CTC với Việt Nam và UAE.
II. Sơ lược về trợ cấp và thuế đối kháng
Trợ cấp là gì? Có những loại trợ cấp nào
Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc
một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang
lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần) hoặc
hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín dụng);
Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng chung);
Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành các
hoạt động (i), (ii), (iii) nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ
trợ nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng thương
mại…bình thường sẽ không khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính toán thương
mại thông thường).
Có 03 loại trợ cấp, với quy chế áp dụng khác nhau:
-Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ)
Bao gồm:
Trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu,
trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản
phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng
xuất khẩu…); hoặc
Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp
dụng.
- Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh)
Bao gồm:
Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp không hướng tới một (một nhóm)
doanh nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ cấp là khách quan; không
cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tuỳ tiện xem xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi
riêng đối với bất kỳ đối tượng nào; hoặc
Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):
Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên cứu tiến hành (với
một số điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);
Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu nhập
bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp)
Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường
kinh doanh mới
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên khác
khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện).
- Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng)
Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh).Các
nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho
nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác
thì có thể bị kiện ra WTO.
Thuế đối kháng là gì? Điều kiện áp dụng?
Thuế đối kháng (theo ngôn ngữ thông thường là “thuế chống trợ cấp”) là khoản thuế
bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ
cấp vào nước nhập khẩu.
Đây là biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) nhằm vào các nhà
sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do
nước nhập khẩu tiến hành và thuế trợ cấp, nếu có, áp dụng đối với nhà sản xuất xuất khẩu
nước ngoài) chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp (WTO
quy định các cơ chế xử lý khác mang tính đa phương cho trường hợp này).
Điều kiện áp dụng:
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài được trợ cấp là nước nhập khẩu
có thể áp dụng thuế đối kháng đối với hàng hoá đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp đối kháng (mà chủ yếu là
thuế đối kháng) chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau
khi đã tiến hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả
03 điều kiện sau:
Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp - tức là trị giá phần trợ cấp
trên trị giá hàng hoá liên quan - không thấp hơn 1%);
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc bị
đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất trong
nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại nói
trên

III. Phân tích vụ việc Canada điều tra trợ cấp với mặt hàng Thép chống ăn
mòn của Việt Nam

Canada đã khởi xướng điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với sản phẩm
thép chống ăn mòn (COR) từ Việt Nam và một số nước. Nguyên đơn yêu cầu điều tra là
phía Công ty ArcelorMittal Dofasco G.P. (AMD).
Các doanh nghiệp Việt Nam bị nêu trong thông báo khởi xướng bao gồm khoảng 16
doanh nghiệp và các công ty liên kết. Cùng với thông báo khởi xướng, CBSA đã ban
hành Bản câu hỏi điều tra AD, CVD và Section 20 đối với Chính phủ và doanh nghiệp
Việt Nam. Thời hạn trả lời Bản câu hỏi là ngày 16/12/2019. CBSA dự kiến sẽ ban hành
kết luận sơ bộ về phá giá và trợ cấp trong vòng 90 ngày kể từ ngày khởi xướng (dự kiến
tháng 2/2020) trong khi Tòa Thương mại quốc tế Canada sẽ ban hành kết luận sơ bộ về
thiệt hại trong trong 60 ngày kể từ ngày khởi xướng (dự kiến tháng 1/2020).

Sau quá trình điều tra vụ việc từ tháng 11/2019, trên cơ sở thông tin do Chính phủ
Việt Nam cung cấp, Canada đã kết luận: Chính phủ Việt Nam không trợ cấp cho các
doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu thép COR, do đó sẽ không áp thuế chống trợ cấp với
mặt hàng thép này nhập khẩu từ Việt Nam.

Sau khi Canada ban hành kết luận sơ bộ, Bộ Công Thương đã có ý kiến chính thức
về kết luận này và đề nghị cơ quan có thẩm quyền của Canada giữ nguyên kết luận về trợ
cấp, tính toán lại biên độ phá giá trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các quy định về phòng vệ
thương mại của WTO và Canada.

Việc Canada không áp dụng thuế chống trợ cấp đối với mặt hàng thép chống ăn
mòn nhập khẩu từ Việt Nam vào năm 2019 có thể được giải thích qua quá trình điều tra
và phân tích của Cục Thuế Biên Giới Canada (CBSA) về trợ cấp cho các sản phẩm thép
nhập khẩu từ Việt Nam.

Theo thông tin từ CBSA, quá trình điều tra và phân tích này tập trung vào các yếu
tố như giá cả, nguồn gốc, quy trình sản xuất và chi phí sản xuất của các sản phẩm thép
nhập khẩu từ Việt Nam. Sau khi phân tích dữ liệu và thông tin từ các đơn vị sản xuất,
CBSA đưa ra kết luận rằng không có đủ bằng chứng để chứng minh rằng các sản phẩm
thép nhập khẩu từ Việt Nam đang được trợ cấp.

Tuy nhiên, quyết định tạm ngừng áp dụng thuế chống trợ cấp này chỉ là tạm thời và
không có nghĩa là các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam sẽ không bị áp dụng thuế
chống trợ cấp trong tương lai. Việc áp dụng thuế chống trợ cấp là một phần quan trọng
của chính sách thương mại của Canada, nhằm đảm bảo công bằng và cạnh tranh lành
mạnh cho các sản phẩm nhập khẩu và sản xuất trong nước.

Điều này cho thấy rằng quyết định không áp dụng thuế chống trợ cấp cho mặt hàng
thép chống ăn mòn nhập khẩu từ Việt Nam vào năm 2019 là kết quả của quá trình điều
tra và phân tích của CBSA, chứ không phải là một quyết định chủ quan hay bất hợp lý.
Tuy nhiên, việc áp dụng hay không áp dụng thuế chống trợ cấp còn phụ thuộc vào những
thông tin và bằng chứng được đưa ra trong các cuộc điều tra và phân tích tương lai.

IV. Tại sao không áp dụng thuế chống trợ cấp trong vụ việc này?
Thuế chống trợ cấp là gì?

Căn cứ khoản 6 Điều 4 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 có quy định như sau:

“6. Thuế chống trợ cấp là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng
hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong
nước.”

Căn cứ vào kết luận cuối cùng của Cơ quan Dịch vụ Biên giới Canada:
Ta có thể thấy mức trợ cấp của Việt Nam trong vụ việc này là không vượt quá 2%.
Căn cứ vào điểm a Điều 27.10 Hiệp định SCM quy định về Đối xử đặc biệt và khác biệt
dành cho các thành viên đang phát triển quy định rằng “Bất kỳ việc điều tra thuế đối
kháng nào áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ một Thành viên đang phát triển sẽ bị
chấm dứt ngay khi cơ quan có thẩm quyền liên quan xác định được rằng tổng số trợ cấp
cho một sản phẩm không vượt quá 2% giá trị của nó tính theo trị giá trên cơ sở đơn vị
sản phẩm”. Sau khi tiến hành điều tra, CBSA đưa ra kết luận rằng không có đủ bằng
chứng để chứng minh rằng các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam đang được trợ cấp.
Trong quá trình điều tra, CBSA đã tập trung vào các yếu tố như giá cả, nguồn gốc,
quy trình sản xuất và chi phí sản xuất của các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam. Sau
khi phân tích dữ liệu và thông tin từ các đơn vị sản xuất, CBSA kết luận rằng các sản
phẩm này không được trợ cấp bởi Chính phủ Việt Nam hoặc các tổ chức khác trong nước.

Do đó, CBSA đã quyết định tạm ngừng áp dụng thuế chống trợ cấp đối với một số
sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam, trong đó bao gồm mặt hàng thép chống ăn mòn.

Việc Canada áp dụng hay không áp dụng thuế chống trợ cấp cho các sản phẩm thép
nhập khẩu từ Việt Nam phụ thuộc vào quy trình điều tra và phân tích của Cục Thuế Biên
Giới Canada (CBSA), theo các quy định được quy định trong các luật và quy chế thương
mại quốc tế và của chính phủ Canada. Các quy định này bao gồm:

Luật Phòng chống Trợ cấp Canada (Canadian Anti-dumping and Countervailing
Duty Act - CACDA): Luật này quy định về việc áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế
chống trợ cấp để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước khỏi sự cạnh tranh không
công bằng từ các sản phẩm nhập khẩu. Cụ thể, theo điều 2.1 của Luật Phòng chống Trợ
cấp Canada (Canadian Anti-dumping and Countervailing Duty Act - CACDA), khi xác
định việc áp dụng thuế chống trợ cấp, CBSA sẽ xem xét xem liệu sản phẩm nhập khẩu đó
có đang nhận được trợ cấp từ chính phủ hoặc các tổ chức tài trợ của quốc gia xuất khẩu
hay không.

Quy chế Phòng chống Trợ cấp và Bán phá giá Canada (Special Import Measures
Act - SIMA): Quy chế này cung cấp hướng dẫn chi tiết về quy trình điều tra và phân tích
của CBSA để quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp cho
các sản phẩm nhập khẩu. Nếu CBSA xác định rằng sản phẩm đó đang nhận được trợ
cấp, theo điều 32 của Quy chế Phòng chống Trợ cấp và Bán phá giá Canada (Special
Import Measures Act - SIMA), Canada có thể quyết định áp dụng thuế chống trợ cấp cho
sản phẩm đó.
Điều 32 của Quy chế Phòng chống Trợ cấp và Bán phá giá Canada (Special Import
Measures Act - SIMA) quy định về việc tiến hành đánh giá lại các biện pháp chống bán
phá giá và chống trợ cấp đã được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu.

Cụ thể, theo Điều 32, Canada sẽ tiến hành đánh giá lại các biện pháp chống bán
phá giá và chống trợ cấp sau khi đã áp dụng ít nhất một lần trong vòng 5 năm kể từ ngày
ban hành các biện pháp đó. Đánh giá sẽ xem xét các yếu tố như sự tiếp tục hoặc thay đổi
của các tình hình sản xuất và thương mại, và ảnh hưởng của các biện pháp đã áp dụng
đến các bên liên quan.

Nếu kết quả đánh giá cho thấy rằng các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ
cấp không còn cần thiết hoặc không còn phù hợp với tình hình hiện tại, Canada có thể
quyết định loại bỏ hoặc sửa đổi các biện pháp đó.

Điều này cho phép Canada thực hiện các biện pháp bảo vệ công bằng thương mại
trong thời gian cần thiết, đồng thời đảm bảo rằng các biện pháp đó được thực hiện một
cách hợp lý và không gây ra những hậu quả không mong muốn đối với các bên liên
quan.

Thỏa thu đa phương CPTPP: Canada cũng tham gia CPTPP, một thỏa thu đa
phương về thương mại tự do giữa các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có
Việt Nam. Các quy định của CPTPP có thể tác động đến quyết định của Canada về việc
áp dụng thuế chống trợ cấp đối với các sản phẩm thép nhập khẩu từ Việt Nam.

Thỏa thu đa phương CPTPP (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-
Pacific Partnership) đã được ký kết vào tháng 3 năm 2018 và có hiệu lực từ tháng 12
năm 2018. Điều khoản về chống trợ cấp của CPTPP được quy định trong Chương 3 về
Thương mại công bằng và có hiệu lực từ ngày CPTPP có hiệu lực.

Theo Điều 3.6 của CPTPP, các bên thành viên sẽ không thực hiện trợ cấp cho các
hàng hóa hoặc dịch vụ của họ nếu trợ cấp này có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến các bên
thành viên khác, hoặc làm giảm khả năng cạnh tranh của các hàng hóa hoặc dịch vụ của
các bên thành viên khác.

Điều 3.7 của CPTPP cho phép các bên thành viên thực hiện các biện pháp chống
trợ cấp khi cần thiết để bảo vệ lợi ích của các bên thành viên khác. Tuy nhiên, các biện
pháp này phải tuân thủ các quy định của Hiệp định và không được sử dụng như một cách
để gây thiệt hại đối với các sản phẩm hoặc dịch vụ của các bên thành viên khác.

Điều 3.8 của CPTPP yêu cầu các bên thành viên thông báo cho các bên còn lại về
bất kỳ chương trình trợ cấp nào được thực hiện và cung cấp thông tin chi tiết về các
chương trình này, bao gồm mức độ trợ cấp và phạm vi áp dụng của chương trình đó.

Vì vậy, CPTPP đặt ra các quy định rất nghiêm ngặt về trợ cấp, đồng thời cung cấp
cho các bên thành viên các biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, các biện
pháp này phải được thực hiện trong phạm vi và điều kiện được quy định trong CPTPP.

Dựa trên các quy định này, CBSA tiến hành điều tra và phân tích các thông tin về
giá cả, nguồn gốc, quy trình sản xuất và chi phí sản xuất của các sản phẩm thép nhập
khẩu từ Việt Nam để quyết định việc áp dụng hay không áp dụng thuế chống trợ cấp.
Việc quyết định không áp dụng thuế chống trợ cấp đối với thép Việt Nam năm 2019 được
đưa ra sau khi CBSA kết thúc quá trình điều tra và phân tích và mặc dù có trợ cấp nhưng
trợ cấp của Việt Nam là không đáng kể đối với nước đang phát triển.

V. Kinh nghiệm về vụ việc Canada điều tra trợ cấp thép chống ăn mòn của Việt
Nam
Thứ nhất, việc gia tăng các biện pháp bảo hộ ngành sản xuất trong nước ở nhiều
nước trên thế giới vẫn đang là xu thế chủ đạo trong thương mại quốc tế mà Việt Nam
phải đối mặt.

Điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu từ
nước ngoài về mặt nguyên tắc là một công cụ nhằm bảo vệ sản xuất trong nước khỏi các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại từ nước ngoài. Mặc dù vậy, trong nhiều
trường hợp, các biện pháp này đã bị lạm dụng (theo nhiều cách khác nhau) và trở thành
công cụ bảo hộ trá hình cho sản xuất trong nước trước các sản phẩm đến từ nước ngoài có
sức cạnh tranh cao hơn.
Trong bối cảnh chung của thương mại thép toàn cầu, thép Việt không tránh khỏi
những thách thức lớn, khi các nước nhập khẩu liên tục điều tra và áp dụng biện pháp
phòng vệ thương mại. Nhất là khi sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam thường có mức giá
cạnh tranh hơn rất nhiều so với sản phẩm xuất khẩu của nhiều quốc gia khác. Theo số liệu
của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), tính đến hết ngày 31/12/2020,
đã có 193 vụ việc phòng thương mại do nước ngoài khởi xướng điều tra, áp dụng đối với
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, số vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với thép và
các sản phẩm thép chiếm tỷ lệ cao nhất với 64 vụ (tương đương chiếm 33,1%), trong đó
có 12/23 vụ điều tra chống trợ cấp. Chỉ trong năm 2020, số vụ việc điều tra, áp dụng
phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nói chung và sản phẩm
thép Việt xuất khẩu nói riêng tăng cao đáng kể, với 27 vụ việc trên tổng số 193 vụ việc
tính từ năm 1994 đến năm 2020. Riêng sản phẩm thép xuất khẩu phải đối mặt với 13 vụ
việc điều tra, áp dụng phòng vệ thương mại trong năm 2020, trong đó có 3 vụ việc điều
tra chống trợ cấp.
Thứ hai, nguy cơ ngành thép liên tục bị điều tra, kiện phòng vệ thương mại ở
Canada nói riêng và các nước nói chung.

Về nguyên tắc, kiện chống trợ cấp ở Canada xảy ra khi có cáo buộc về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc bán
sản phẩm giá rẻ do được nhận trợ cấp từ Chính phủ nước xuất khẩu) gây thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất nội địa của Canada.
Mặc dù vậy, các chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng nguy cơ bị kiện chống trợ
cấp ở thị trường này phụ thuộc vào một số yếu tố khác đôi khi khác xa so với những nội
dung mang tính nguyên tắc nói trên, ví dụ:
- Khó khăn chủ quan của các nhà sản xuất nội địa Canada: rất nhiều doanh nghiệp ở
Canada sử dụng biện pháp kiện phòng vệ thương mại như một chiến lược hữu hiệu trong
kinh doanh. Vì vậy, khi họ gặp khó khăn trong cạnh tranh với hàng hóa tương tự nhập
khẩu từ nước ngoài, họ có xu hướng sử dụng biện pháp này. Ngoài ra, vì một trong những
điều kiện của việc khởi xướng điều tra là thiệt hại đáng kể của ngành sản xuất nội địa,
nên khi gặp khó khăn, họ thường đổ lỗi cho các sản phẩm nước ngoài nhập khẩu và
thuyết phục cơ quan điều tra rằng những khó khăn này xuất phát từ nguyên nhân hàng
nhập khẩu được trợ cấp để có giá rẻ bất hợp lý vào thị trường Canada.
- Sự gia tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu (từ nhiều nguồn) vào Canada:
Cùng với những thay đổi trong thương mại quốc tế theo hướng mở cửa, tự do hóa, ngày
càng có nhiều hàng hóa nước ngoài tiếp cận và cạnh tranh mạnh mẽ với các sản phẩm
tương tự nội địa của Canada.

You might also like