Professional Documents
Culture Documents
Đặt vấn đề
Trong một vài trường hợp khi chúng ta bị chấn thương hay thoái hóa xương mà
không thể khắc phục hay điều trị bằng phương pháp thông thường thì chúng ta có một
giải pháp là thay xương nhân tạo. Tuy nhiên để có thể cấy vào cơ thể chúng ta thì xương
cần phải làm bằng vật liệu có tính tương thích sinh học cao.
ảnh vi phẫu tia X của (a) giàn giáo bọt thủy tinh hoạt tính sinh học và (b) xương
bè
Một loại xương nhân tạo rất phổ biến đó là xương được tạo từ khung dạng xốp từ
polyme tuy nhiên khi chúng ta cấy vào cơ thể thì có thể xảy ra các phản ứng viêm, phản
ứng miễn dịch gây đau đớn do không có tính tương thích sinh học nên người ta kết hợp
với hydroxyapatite (HA) là một loại gốm có tính tương thích sinh học cao, là thành phần
chính của xương (65 - 70%) và răng (70 - 80%) của người và động vật để làm lớp bọc
khung polyme.
Ảnh SEM của bề mặt bị nứt của một loại composite nhất định bao gồm HA-polyethylene.
Vật liệu composite hoạt tính sinh học này được tổng hợp hữu cơ-vô cơ thông qua
sự kết hợp giữa vật liệu gốm hoạt tính sinh học có tính tương thích và độ cứng cao và
polyme có mô đun đàn hồi và độ biến dạng thấp. Gần với các đặc tính với xương thật của
chúng ta.
Để có thể tổng hợp dc như vậy thì yêu cầu gốm HA phải nguyên chất(không gây
phản ứng miễn dịch) và phải tổng hợp ở nhiệt độ thấp( nhiệt độ phòng) để polyme k bị
nóng chảy vì các polyme làm khung nóng chảy ở nhiệt độ thấp ( Polyethylene 120 độ C ),
và cần phù hợp với các hình dạng phức tạp( hình dạng xương chúng ta mà).
Đối với các quy trình chế tạo vật liệu gốm thông thường, thường đi từ bột rồi trộn
với các chất kết dính để dính các hạt lại với nhau, và một số chất hỗ trợ thiêu kết để tập
chung chúng lại, nén tạo hình và đưa lên nhiệt độ cao để dung hợp các hạt gốm với nhau,
đối với quy trình này thì có sự tham gia của các chất kết dính và hỗ trợ thiêu kết nên gốm
k còn nguyên chất và nhiệt độ thiêu kết quá cao ( hàng 1000 độ C) dẫn tới nóng chảy
polyme, hoặc làm tan chảy bột gốm rồi cho vào khuân nhưng mà nhiệt cũng quá cao dẫn
tới chảy polyme.( nhiệt độ nóng chảy của HA: 1760oC ).
Vậy để tổng hợp được vật liệu này thì phương pháp Sols-Gel và hóa học hữu cơ
được đề cập sau đây sẽ giải quyết các vấn đề đó.
II. Tổng quan
Có hai phương pháp chế tạo vật liệu chính là bottom-up và Top-down. Bottom-up
là đi từ nguyên tử, phân tử thành các hạt to hơn rồi tới hạt nano. Top-down là ta cắt từ
khối to, cắt liên tục thành các khối nhỏ hơn.
mô tả Topdown và Bottom-up
II.1. Sols-gel
Quy trình sols-gel là một quy trình của phương pháp tiếp cận từ dưới lên ( bottom
– up ). Sol là sự phân tán ổn định của các hạt keo hoặc polyme trong dung môi. Các hạt
có thể ở dạng vô định hình hoặc tinh thể, sol khí là các hạt ở pha khí còn sol là các hạt ở
thể lỏng.
Sols
Gel là một mạng lưới liên tục 3 chiều, bao quanh một pha lỏng. Trong gel keo,
mạng lưới đc xây dựng từ sự kết tụ của các hạt keo. Trong gel polyme, các hạt có cấu
trúc polyme dc tạo thành từ sự liên kết của các phân tử polyme.Nhìn chung thì các hạt sol
có thể tương tác bằng lực vanderwaals hoặc liên kết hydro. Gel polyme hình thành từ việc
liên kết các chuỗi polyme.
Gel
Quá trình sols - gel là : ”Sự hình thành mạng lưới oxit thông qua các phản ứng đa
ngưng tụ của tiền chất phân tử trong chất lỏng.” Sol-gel là một quá trình trong đó các hạt
nano rắn phân tán trong chất lỏng (sol) kết tụ lại với nhau tạo thành mạng lưới ba chiều
liên tục trải dài khắp chất lỏng (gel).Ý tưởng đằng sau quá trình tổng hợp sol-gel là “hòa
tan” hợp chất trong chất lỏng để đưa nó trở lại dạng rắn một cách có kiểm soát.
Mô tả quá trình Sols-Gel
Ta có hai con đường sols-gel một là con đường polyme, hai là con đường hạt. Hai
hướng tiếp cận khác quá trình đầu nhưng sau giống nhau. Giai đoạn đầu tiên của quy
trình Sol–gel là chuẩn bị dung dịch ổn định (sol), sau đó là quá trình tạo gel và bay hơi
dung môi dẫn đến sự hình thành “gel”, quá trình cô đặc và kết tinh là giai đoạn cuối cùng.
Mặc dù có một số quá trình xử lý, nhưng có hai cách tiếp cận: tuyến keo và tuyến
polyme. Hai tuyến này có điểm chung là giai đoạn Gel hóa, mặc dù sự khởi đầu về cơ bản
là khác nhauTrong phương pháp keo, phương pháp này bắt đầu từ huyền phù keo của các
hạt nhỏ trong môi trường lỏng liên tục, trong đó lực hấp dẫn là không đáng kể, Trong
trường hợp của con đường polyme, “sol” thu được bằng cách thủy phân và ngưng tụ có
kiểm soát các tiền chất hữu cơ kim loại (ví dụ, alkoxit kim loại hoặc alkylalkoxit). thu
được mạng lưới liên tục bao quanh pha lỏng. Tại thời điểm này, gel duy trì hình dạng của
nó. Các bước sấy khô và lão hóa tiếp theo loại bỏ pha lỏng (dung môi).
Mô hình Alkoxide
điều kiện nhiệt độ và áp suất của các dung môi để đạt trạng thái siêu tới hạn.
Nhiệt độ cao,áp suất cao có thể dễ dàng phá hủy vật liệu và cũng không đảm bảo
hỗn hợp siêu tới hạn này trơ, trong điều kiện như vậy chúng dễ phản ứng, có thể ảnh
hưởng tới vật liệu, thậm trí phá hủy do có thể phản ứng với các nhóm trên bề mặt.có thể
nguy cơ cháy nổ do rượu ở áp suất cao, nhiệt độ cao rất dễ cháy.
Dung dịch một pha này trải qua quá trình chuyển đổi sol-gel sang hệ hai pha cứng
silica rắn và các lỗ chứa đầy dung môi.Những phản ứng này được xúc tác bằng axit hoặc
bằng bazơ. Việc loại bỏ dung môi khỏi gel bằng cách làm khô thông thường, chẳng hạn
như làm bay hơi, sẽ tạo thành xerogel. Nếu sử dụng phương pháp sấy siêu tới hạn,
aerogel sẽ hình thành.
+ Quy trình thí nghiệm:
VIII. Phủ