Professional Documents
Culture Documents
của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP
(hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn
nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn
là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Câu 4: Anh/Chị hãy trình bày các nhân tố của tăng trưởng kinh tế.
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước
đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển
kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là
nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở
mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng, kiến thức và
kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu hết
các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu, công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn
được nhưng nguồn nhân lực thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa hiệu
quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật lao động tốt.
Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ II cho
thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực chất
lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví dụ là
nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế giới
lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn tại. Với
những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu không có
số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời hậu chiến."
Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển,
những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và
nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có
những nước được thiên nhiên ưu đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức
thu nhập cao gần như hoàn toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản
xuất dầu mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên
Trong đó Y là thu nhập quốc dân, s là tỷ suất tiết kiệm quốc gia và k tỷ lệ vốn/sản
lượng. Vì thế vế bên trái của biểu thức này là tỷ lệ gia tăng của thu nhập quốc dân. Với
một k luôn ổn định và vì thế tỷ lệ gia tăng thu nhập quốc dân tương ứng với tỷ suất tiết
kiệm của nền kinh tế. Ví dụ, nếu tỷ lệ vốn-sản lượng là 3, khi đó tỷ lệ tăng trưởng là
5%, tỷ suất tiết kiệm sẽ là 15%. Nếu như tỷ suất tiết kiệm chỉ là 5%.
b/ Nhận xét lý thuyết:
Ưu điểm:
Chỉ số gia tăng tư bản – Đầu ra: vận dụng đã đề ra kế hoạch cho sự ưu tiên phát
triển của một ngành hay một khu vực nào đó của nền kinh tế quốc dân, dựa vào đó
cũng có thể đưa ra những chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế khi xét tới mối tương
quan giữa nguồn tài chính và nguồn nhân lực hiện có.
Hạn chế:
Nếu như xem xét nó trên các nước đang phát triển, vì những nước này có cái
vòng lẩn quẩn (thu nhập thấp, tiết kiệm thấp, đầu tư thấp, tích lũy thấp, năng suất lao
động thấp...). Mặt khác ở các nước đang phát triển thị trường tài chính và thị trường
hàng hóa hoạt động yếu ớt. Rõ ràng là toàn bộ tiết kiệm sẽ không được đưa ra đầu tư
hết.
Lý thuyết Harrod – Dornar không giải thích rõ một số điểm khác nhau căn bản
trong sự tăng trưởng giữa các quốc gia, trong khi mọi người muốn biết tại sao lại có sự
khác nhau rất lớn giữa các nước, các khu vực về chỉ số gia tăng tư bản – đầu ra.
Câu 11: Anh/Chị hãy trình bày khái niệm nghèo đói.