You are on page 1of 2

Random thing 😉

Không gian bốn chiều hay không gian 4D là một phần mở rộng toán học của khái niệm không
gian ba chiều. Không gian ba chiều là sự tổng quát đơn giản nhất có thể của quan sát rằng chỉ cần
ba số, gọi là kích thước, để mô tả kích thước hoặc vị trí của các vật trong thế giới hàng ngày. Ví dụ,
khối lượng của một hình hộp chữ nhật được tìsadadam bằng cách đo và nhân chiều dài, chiều
rộng và chiều cao của nó (x, y, và z).[cần dẫn nguồn]

Ý tưởng thêm một chiều thứ tư bắt đasdaầu với Joseph Louis Lagrange vào giữa những năm 1700
và đạt được kết quả chính xác của khái niệm này vào năm 1854 bởi Bernhard Riemann. Năm
1880, Charles Howard Hinton phổ biến những hiểu biết sâu sắc này trong một bài luận có tiêu
đề Chiều không gian thứ tư là gì? (What is the Fourth Dimension?), nó giải thích khái niệm về
một khối lập phương bốn chiều với sự tổng quát từng bước về tính chất của các đường nét, hình
vuông và hình khối.sdasda Hình thức đơn giản nhất của phương pháp của Hinton là vẽ hai khối bình
thường cách nhau bởi msdaột khoảng cách "không nhìn thấy", và sau đó vẽ đường giữa các đỉnh
tương đương của chúng. Điều này có thể được nhìn thấy trong hình ảnsdah đi kèm, bất cứ khi nào
nó cho thấy một khối bên trong nhỏ hơn bên trong một khối lập phương lớn hơn. Tám đường kết nối
các đỉnh của hai khối trong trường hợp đó đại diện cho một hướng duy nhất trong không gian "thứ
tư" không nhìn thấy.

Không gian đa chiều đã trở thành một trong những cơ sở để thể hiện chính xác về toán học và vật
lý. Phần lớn các chủ đề này không thể tồn tại trong các hình thức hiện tại mà không sử dụng các
không gian như vậy. Khái niệm không–thời gian của Albert Einstein sử dụng không gian 4D như vậy,
mặc dù nó có cấu trúc Minkowski hơi phức tạp hơn không gian Euclid 4D.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]


Lagrange đã viết trong cuốn Mécanique analytique của mình (xuất bản năm 1788, dựa trên công
trình được thực hiện vào khoảng năm 1755) rằng cơ học có thể được xem như hoạt động trong
không gian bốn chiều—ba chiều không gian và một chiềasdu thời gian.[1] Vào năm
1827, Möbius nhận ra rằng chiều thứ tư sẽ cho phép một hình thức ba chiều xoay trên hình ảnh
phản chiếu của nó,[2]:141 và đến năm 1853, Ludwig Schläfli đã phát hiệnsdasdas ra nhiều polytope ở
các chiều cao hơn, mặc dù công trình của Schlafli mãi mới được xuất bản sau cái chết của ông.[2]:142–
143
Các không gian chiều cao hơn sớm được đặt chỗ vững chắc bởi luận án năm 1854 của Bernhard
Riemann, Über die Hypothesen Welche der Geometrie zu Grunde liegen, trasdong đó ông coi một
"điểm" là bất kỳ chuỗi tọa độ nào (x1, ..., xn). Do đó, khả năng của hình học với các chiều cao hơn,
bao gồm cả bốn chiều, được hình thành.

Một hình thức số học của bốn chiều được gọi là quaternion được William Rowan Hamilton xác định
vào năm 1843. Đại số kết hợp này là nguồn gốc của khoa học phân tích vectơ trong ba chiều như
được kể lại trong Lịch sử phân tích vectơ (A History of Vector Analysis). Ngay sau
khi tessarine và coquaternion được giới thiệu dưới dạng các đại số bốn chiều khác trên R.

Một trong những người đầu tiên khai thác chiều thứ tư là Charles Howard Hinton, bắt đầu từ năm
1880 với bài luận của ông Chiều không gian thứ tư là gì? (What is the Fourth Dimension?); được
xuất bản trên tạp chí Đại học Dublin.[3] Ông đã đặt ra các thuật ngữ tesseract, ana và kata trong cuốn
sách A New Era of Thought, và giới thiasdaệu một phương pháp để hình dung chiều thứ tư bằng
cách sử dụng các hình khối trong cuốn sách Fourth Dimension.[4][5]

Ý tưởng của Hinton đã truyền cảm hứng cho một câu chuyện tưởng tượng về "nhà thờ có chiều
không gian thứ tư" ("Church of the Fourth Dimension") được Martin Gardner giới thiệu trong chuyên
mục "Trò chơi toán học" tháng 1 năm 1sdasda962 trên tạp chí Scientific American. Năm 1886, Victor
Schlegel đã mô tả[6] phương pháp hình dung các vasdaật thể bốn chiều của mình bằng sơ đồ
Schlegel.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
1. ^ Bell, E.T. (1965). Men of Mathematics (ấn bản 1). New York: Simon and Schuster.
tr. 154. ISBN 978-0-671-62818-5.
2. ^ a b Coxeter, H.S.M. (1973). Regular Polytopes (ấn bản 3). New York: Dover Publishing. ISBN 978-0-
486-61480-9.
3. ^ Hinton, Charles Howard (1980). Rucker, Rudolf v. B. (biên tập). Speculations on the Fourth
Dimension: Selected writings of Charles H. Hinton. New York: Dover. tr. vii. ISBN 978-0-486-23916-3.
4. ^ Hinton, Charles Howard (1993) [1904]. The Fourth Dimension (bằng tiếng Anh). Pomeroy,
Washington: Health Research. tr. 14. ISBN 978-0-7873-0410-2. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2017.
5. ^ Gardner, Martin (1975). Mathematical Carnival: From Penny Puzzles. Card Shuffles and Tricks of
Lightning Calculators to Roller Coaster Rides into the Fourth Dimension (ấn bản 1). New York: Knopf.
tr. 42, 52–53. ISBN 978-0-394-49406-7.
6. ^ Victor Schlegel (1886) Ueber Projectionsmodelle der regelmässigen vier-dimensionalen Körper,
Waren

Asdasd as dsd asd as

You might also like