You are on page 1of 20

MỤC LỤC CHI TIẾT

TRONG GIÁO TRÌNH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


(Theo giáo trình: Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 2021).
Chương 2. Cơ sở và quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh
1. Cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh (Thực tiễn Việt Nam
cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX; thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX-đầu thế
kỷ XX) tr.33-38.
2. Cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh (giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam; Tinh hoa văn hóa nhân loại; Chủ nghĩa Mác-
Lênin) tr. 38-47
3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh (Phẩm chất Hồ Chí Minh; Tài năng hoạt
động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận). tr.47-49
4. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Tr.50-65
- Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng
tìm đường cứu nước mới. tr.50-52
- Thời kỳ 1911-1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc
Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. tr.52-54
- Thời kỳ 1920-1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về
cách mạng Việt Nam. Tr.54-57
- Thời kỳ 1930-1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương
pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo. tr.57-61
- Thời kỳ 1941-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng của nhân dân ta. Tr.61-65
5. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh (Đối với cách mạng Việt Nam; Đối với sự
phát triển tiến bộ của nhân loại). tr.65-71
Chương 3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. tr. 73-92
1. Vấn đề độc lập dân tộc. tr.73-80
2. Vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc
- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản. tr.80-83
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong điều kiện Việt Nam, muốn thắng
lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo tr.83-84
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải dựa trên lực lượng đại đoàn kết toàn
dân tộc, lấy liên minh công-nông làm nền tảng. tr.85-86
- Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động, sáng tạo, có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. tr.87-90
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng phương pháp
bạo lực cách mạng. tr.90-92
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH. Tr.92-94
2. Tiến lên CNXH là tất yếu khách quan. Tr.94-97
3. Một số đặc trưng cơ bản của CNXH. Tr.97-100
4. Mục tiêu CNXH ở Việt Nam. Tr.101-104
5. Động lực CNXH ở Việt Nam. Tr.104-108
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
- Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ. Tr.108-111
- Một số nguyên tắc xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ. Tr.111-114
7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH.
Tr. 114-118
8. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay. Tr. 118-122
Chương 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
1. Tính tất yếu ra đời và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tr.124
2. Đảng là đạo đức, là văn minh. Tr.126-130
3. Những vấn đề về nguyên tắc trong hoạt động của Đảng. tr.130-137
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. tr.137-139
5. Bản chất giai cấp của Nhà nước VNDCCH-Nhà nước CHXHCNVN.
Tr.142-145
6. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tr.145-150
7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyề (Nhà nước hợp hiến, hợp
pháp; Nhà nước thượng tôn pháp luật; Pháp quyền nhân nghĩa). Tr.151-157
8. Nhà nước trong sạch, vững mạnh (Kiểm soát quyền lực Nhà nước; Phòng
chống tiêu cực trong Nhà nước). tr. 157-164
9. Vận dụng tư tưởng HCM vào công tác xây dựng Đảng và Xây dựng NN.
Tr.164-168
Chương 5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết
quốc tế
1. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc. tr.170-172
2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. tr. 172-174
3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. tr.174-177
4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc – Mặt
trận dân tộc thống nhất. tr.177-181
5. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. tr.181-184
6. Sực cần thiết phải đoàn kết quốc tế. tr.184-188
7. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức. tr.188-193
8. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế. tr.193-198
9. Vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế
trong giai đoạn hiện nay. Tr.198
Chương 6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, văn hóa, con người
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa. Tr.207-208
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác. Tr.208-212
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa. Tr.212-217
4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới. tr.217-218
5. Quan điểm của của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức (Đạo đức là gốc, là
nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng). tr.218-222
6. Quan điểm của HCM về những chuẩn mực đạo đức cách mạng (gồm: trung
với nước, hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Thương yêu
con người, sống có tình có nghĩa; Tinh thần quốc tế trong sáng). Tr.223-
232
7. Quan điểm của HCM về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
tr.232-241
8. Quan niệm của HCM về con người. tr.241-242
9. Quan điểm của HCM về vai trò của con người. 242-244
10.Quan điểm của HCM về xây dựng con người (Ý nghĩa của việc xây dựng
con người; Nội dung xây dựng con người; Phương pháp xây dựng con
người). tr.244-248
11.Xây dựng văn hóa, đạo đức, con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng
HCM. Tr.248
CÁCH TRÌNH BÀY BÀI THI TỰ LUẬN
- Mở bài (dẫn nhập) (0.5-1.0 điểm): Khái niệm/vai trò của….
- Nội dung (trả lời nội dung câu hỏi) (2.5-3.0 điểm)
- Liên hệ (1.5-2.0 điểm)
+ Tình hình đất nước hiện nay
+ Bản thân: Đang là sv, là thanh niên
 Kết luận
(không bỏ bất cứ nội dung nào của câu hỏi)
1. Sự sáng tạo của HCM về quốc tế cộng sản/về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng
dân tộc? (Chương 3)
Trước hết là về vấn đề dân tộc thuộc địa, khái niệm này chỉ xuất hiện khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ
giai đoạn tự do cạnh tranh, sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc cấu kết với nhau xâm
lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu khiến vấn đề dân tộc trở nên gay gắt (bởi sự áp bức dân
tộc), từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Giải quyết vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là tiến hành
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài,
giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập
nhà nước dân tộc độc lập.
Ở thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông không đi sâu nghiên cứu, giải quyết vấn đề dân tộc, vì về
cơ bản, vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; nhất là các ông chưa có
điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa - như V.I.Lê-nin đã nhận xét - đối với C.Mác, so với
vấn đề giai cấp vô sản, thì vấn đề dân tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu thôi. Mặc dầu vậy, Mác - Ăng-ghen
cũng đã đưa ra những quan điểm lý luận về mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong cách mạng giải phóng
dân tộc; về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa... Trong bản Tuyên ngôn của
Ðảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong
nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo"
(1); tức là chỉ có thể giải quyết vấn đề giai cấp một cách triệt để thì vấn đề dân tộc mới được giải quyết.
Quan điểm đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của cách mạng vô sản ở châu Âu đang đặt ra lúc bấy giờ,
nhưng có thể nói, không phù hợp với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Ðến thời V.I.Lê-nin, chủ nghĩa đế quốc đã phát triển thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải phóng
dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I.Lê-nin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề
dân tộc thuộc địa và cách mạng thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Theo V.I.Lê-nin, cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản (ở chính quốc) sẽ không thể giành được thắng lợi, nếu nó không biết liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Từ đó, V.I.Lê-nin đã bổ sung khẩu hiệu của C.Mác
và Ph.Ăng-ghen: "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại"; thành khẩu hiệu: "Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức liên hiệp lại". Tuy vậy, nhưng trong Tuyên ngôn thành lập quốc tế cộng sản năm 1919,
V.I.Lênin đã viết: Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay
Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiít
Gioócgiơ và Clêmăngxô giành chính quyền nhà nước vào tay mình (2). Như vậy, mặc dù C.Mác,
Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin khẳng định mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, nhưng các ông đều cho rằng, trong mối quan hệ đó, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của giai cấp
công nhân là phải là tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền. Sau khi lên
nắm chính quyền, sẽ trao trả độc lập cho các nước thuộc địa, hoặc tạo điều kiện cho phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa giành thắng lợi. Có nghĩa là, cách mạng vô sản ở chính quốc có vai trò quyết
định đến thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, là người xuất thân từ một nước thuộc địa, trên hành trình tìm
đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin tìm thấy con đường cách mạng giải phóng
dân tộc qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-
nin. Mặc dù coi hệ thống lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "cẩm nang thần kỳ", nhưng
từ sự nghiên cứu, trải nghiệm thực tiễn ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, nhiều vấn đề lý
luận các nhà kinh điển đưa ra, chỉ đúng với điều kiện châu Âu, cho nên, cần phải nghiên cứu, bổ sung và
phát triển lý luận, vận dụng vào thực tiễn một cách sáng tạo, phù hợp, không giáo điều, dập khuôn.
Người nói: "Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh".
"Những người cộng sản các nước phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho thích hợp với điều kiện
hoàn cảnh từng lúc và từng nơi" (3).
Nghiên cứu về sự thay đổi của tình hình cách mạng thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ
Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng thuộc địa là không phải là làm ngay một cuộc cách
mạng vô sản (như các nước tư bản), mà trước hết phải tiến hành đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc;
có độc lập dân tộc rồi, mới có điều kiện để giải phóng giai cấp. Theo quan điểm của Người, giải phóng
dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; giải phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Người, trong mối quan hệ dân tộc - giai cấp, dân tộc là tổng thể, giai
cấp là một bộ phận. Do đó, quyền lợi của giai cấp, (tức là quyền lợi của bộ phận) phải phục tùng quyền
lợi của dân tộc (bộ phận phục tùng tổng thể). Ðó là những quan điểm lý luận sáng tạo của Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Thứ hai về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô
sản ở các nước tư bản chính quốc. Theo quan điểm của Mác - Ăng-ghen, các dân tộc thuộc địa không
thể tự mình làm cách mạng thắng lợi. Quan điểm này còn tồn tại trong Quốc tế Cộng sản đến tận Ðại hội
VI, (1928). Thể hiện trong Những luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa: Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến (4).
Ðối với Hồ Chí Minh, qua nghiên cứu phong trào cách mạng thuộc địa, ngay từ năm 1921, Người đã
nhận định: "trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế
quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn"(5). Năm 1924, Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể giành thắng lợi trước. Hơn nữa, yêu cầu bức thiết của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở
châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Ðây là một quan điểm cách mạng sáng
tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Ðặc
biệt, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã được vận dụng một cách
chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, là một minh chứng khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh hoàn
toàn đúng đắn.
Thứ ba về vấn đề lực lượng cách mạng. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, "Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng"; phát triển tư tưởng của Mác - Ăng-ghen trong điều kiện mới, V.I.Lê-nin khẳng
định: Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của
mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được… (6). Mặc dù đánh
giá cao vai trò của quần chúng,"quần chúng là những người làm nên lịch sử", nhưng theo V.I.Lê-nin:
"Chỉ có giai cấp vô sản công nghiệp ở thành thị, do đảng cộng sản lãnh đạo, mới có thể giải phóng quần
chúng lao động" (7). Phải chăng quan điểm này chỉ đúng với điều kiện của các nước tư bản phát triển,
nơi có phong trào công nhân lớn mạnh, mà không đúng với điều kiện ở các nước thuộc địa có nền kinh
tế kém phát triển, (chủ yếu là sản xuất nông nghiệp), cơ cấu dân số có tới hơn 90% là nông dân.
Ðối với Quốc tế Cộng sản, quan điểm về vấn đề lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa cũng thể
hiện nhiều hạn chế. Trong đó, rõ nhất là một số hạn chế thể hiện trong bản "Ðề cương về phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa" được thông qua tại Ðại hội VI (1928). Bản Ðề cương
đã quá nhấn mạnh về tính không triệt để cách mạng của giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa; từ
đó đề ra nhiệm vụ đặc biệt của các đảng cộng sản là đấu tranh chống lại phong trào dân chủ tư sản trong
nước mình (8). Quan điểm "tả khuynh" cứng nhắc, biệt phái, hẹp hòi, đã đẩy giai cấp tư sản dân tộc ở
thuộc địa đứng về phe đế quốc, mà lẽ ra các đảng cộng sản có thể tranh thủ được họ trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Nhất là sự đánh giá không đầy đủ về yếu tố dân tộc, tinh thần yêu nước của
nhân dân các dân tộc bị áp bức, dẫn đến những quan điểm mang tính phiến diện, thậm chí sai lầm về lực
lượng cách mạng.
Nhìn nhận từ thực tiễn tình hình lực lượng cách mạng ở các nước thuộc địa (nói chung), ở Việt Nam
(nói riêng), Hồ Chí Minh khẳng định, lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc "là việc chung cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người" (9). Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là lực
lượng toàn dân, trong đó "công nông là gốc cách mệnh"; học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là "bầu
bạn cách mệnh của công nông"(10). Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc,
vận động tất cả các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, tập hợp trong Mặt trận Dân tộc thống nhất
rộng rãi: sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Lấy "mẫu số chung là lòng yêu nước", lực lượng cách mạng là toàn dân tộc, không phân biệt đảng phái,
giai cấp, tôn giáo... đó là tư tưởng bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc, được Hồ Chí Minh
thể hiện bằng một sắc thái mới, tư duy mới trong thời đại mới. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí
Minh về lực lượng cách mạng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tổ chức, tập hợp xây dựng lực
lượng, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi ở Việt Nam. Ðồng thời góp phần chống
lại tư tưởng "tả khuynh", hẹp hòi trong Phong trào Cộng sản và Công nhân quốc tế; góp phần ngăn chặn
sự ảnh hưởng của nó đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Thứ tư về xây dựng Ðảng Cộng sản ở một nước thuộc địa kém phát triển. Xuất phát từ điều kiện
lịch sử, thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại mới (từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga),
Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc (ở Việt Nam), muốn giành thắng lợi triệt để
phải do Ðảng Cộng sản lãnh đạo. Người nói: Cách mệnh trước hết "phải có đảng cách mệnh, để trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
Ðảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy" (11).
Trong quá trình chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Ðảng, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã kết hợp một cách sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước, thành lập một chính đảng mác-xít ở Việt Nam. Không chỉ là người sáng lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn là người lãnh đạo và rèn luyện Ðảng ta trở thành: Ðảng của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Ðảng luôn giương cao ngọn cờ tiên phong lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành công trong việc xây dựng Ðảng Cộng sản Việt
Nam, thể hiện thiên tài về trí tuệ, sự mẫu mực trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của Hồ
Chí Minh. Ðồng thời là một đóng góp to lớn của Người về lý luận xây dựng đảng cộng sản trên thế giới,
làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh là thành quả của một tư duy sáng tạo, thể hiện tư tưởng cách mạng
và khoa học, được kiểm chứng trong tiến trình đấu tranh cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng
thế giới. Tuyệt nhiên đó không phải là sự vay mượn, hay "nhập khẩu cách mạng". Quan điểm của Người
thấm đượm khát vọng của nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do, công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc
hướng tới mục tiêu phục vụ cho quyền lợi và khát vọng của dân tộc, hòa quyện trong tình yêu giai cấp,
yêu nhân loại, đượm tính nhân văn, không có ranh giới quốc gia ngăn cách.

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ sự cần thiết bổ sung cơ sở thực tiễn, đưa ra
những vấn đề lý luận mới kịp thời bổ sung cho lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa.
Nhận thức rõ mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc, trước
những thay đổi của tình hình cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh khẳng định:nhiệm vụ đặt ra cho các
nước thuộc địa không phải là làm ngay một cuộc cách mạng vô sản, mà trước hết là phải đấu tranh giành
độc lập cho dân tộc; có độc lập dân tộc, mới có điều kiện để tiến lên làm cách mạng XHCN. Yêu cầu
bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại, ngồi chờ cách mạng vô sản ở
châu Âu thắng lợi để được trả lại nền độc lập.Vì vậy, Người chỉ rõ phải đặt vấn đề giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, khi giải quyết được vấn đề dân tộc (giành được độc lập dân tộc), vấn đề giai cấp cũng sẽ
được giải quyết.
Nhận thức rõ mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc, Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc (2). Tại Đại hội V Quốc tế Cộng
sản (1924) ở Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc thẳng thắn đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số
Đảng Cộng sản Tây Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí vàtương lai của cách mạng thuộc
địa. Người cho rằng, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Để làm được điều đó, nhân dân thuộc địa phải dựa
vào sức của chính mình, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao
động thế giới. Những quan điểm của Hồ Chí Minh thể hiệnsự phát triển sáng tạo lý luận trên cơ sở tổng
kết, nắm bắtthực tiễn cách mạng trong giải quyết mối quan hệ dân tộc với giai cấp, chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với CNXH.

Về lực lượng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc: Hồ Chí Minh cho rằng,trong thời đại mới, cách
mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Người xác định: “Cách
mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...Đảng có vững cách mệnh mới thành công...” (3).Đảng đó phải
được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác -
Lênin.Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sảnlà: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách
mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất (liên minh công - nông là nòng cốt). Đối với cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc vàchống phongkiến,
giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Về lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn của các thuộc địa,
Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm mới, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể: “Cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt (4). Bộ phận
trung tâm trong lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc là công nhân, nông dân và khối liên minh công
- nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Khi nghiên cứu điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn các thuộc địa,
trong đó có Việt Nam (nước thuộc địa nửa phong kiến với dân số hơn 95% là nông dân), Hồ Chí Minh
nhận định: nông dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hoá, cho nên họ luôn có ý thức
phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia
của giai cấp nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Đây là phát hiện quan trọng của Hồ Chí Minh về vai
trò, sứ mệnh và khả năng thực thi nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc của giai cấp nông dân ở các
thuộc địa nói chung và giai cấp nông dân Việt Nam nói riêng. Người sớm nhìn thấy giai cấp nông dân
Việt Nam là lực lượng cách mạng tiềm tàng, có những khả năng to lớn, nếu “khéo tổ chức, khéo lãnh
đạo thì lực lượng ấy sẽ làm xoay trời chuyển đất, bao nhiêu thực dân và phong kiến cũng sẽ bị lực lượng
to lớn ấy đánh tan”.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng trước sau Hồ Chí Minh vẫn luôn khẳng
định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh
công-nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất.Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu thân phận nô lệ,
tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu
tranh giành độc lập tự do. Người chỉ rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt, vv..., để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp” (5).Đây là luận điểm rất mới, có giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới và là sự bổ sung kịp thời vào kho tàng
lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm cách mạng của Hồ
Chí Minh đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình vận động cách mạng giải
phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là minh chứng khẳng
địnhtính khoa học, đúng đắn củaluận điểm trên.
Về phương pháp cách mạng: Phong trào yêu nước, cách mạng ở Việt Nam những năm cuối thế kỷ
XIXđầu thế kỷ XX cùng với vũ trang bạo động Cần Vương đấu tranh bằng con đường “cải lương”, đấu
tranh hợp pháp, hoà bình, thỏa hiệp để giành độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, đó là phương pháp
thiếu thực tế và thất bại là không tránh khỏi. Vì bản chất của thực dân, đế quốc là xâm lược, nô dịch và
lợi nhuận, nên sẽ không dễ dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa mà chúng đang bóc lột, thu lợi. Đối với
phương pháp đấu tranh bằng hình thức vũ trang bạo động, nhờ sự giúp đỡ của bên ngoài theo khuynh
hướng dân chủ tư sản hoặc bằng phương pháp vũ trang ám sát cũng đều dẫn đến thất bại. Vượt lên tư
tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định phương pháp đấu tranh giải
phóng dân tộcở Việt Namphải được tiến hànhbằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh
chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi hoàn toàn.
Theo Người, cách mạng phải sử dụng hình thức bạo lực (như trong lý luận của Mác - Lênin), nhưng đối
với điều kiện Việt Nam, khởi nghĩa vũ trang phải kết hợp với đấu tranh chính trị của quần chúng, lực
lượng chính trị là điểm tựa để phát triển lực lượng vũ trang, tổ chức các hình thức đấu tranh vũ trang từ
thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, phù hợp với từng nơi, từng thời kỳ cụ thể. Hồ Chí Minh dự báo: “Cuộc
cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương... mà mở đầu cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” (6). Trên
tinh thần đó, Hồ Chí Minh chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát
động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn
luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúngvớihàng loạt các Hội Cứu quốc: Thanh niên
cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... Các đơn vị vũ trang được thành lập: Đội Cứu quốc quân I và Cứu quốc
quân II, Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, các đội tự vệ du kích... Với sự chủ động, tích
cựcchuẩn bịđón chờ thời cơ khởi nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh Tổng khởi
nghĩađược ban ra, chỉ trong chưa đầy nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân
dân.
Quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ tranh; tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa được Hồ
Chí Minh chỉ đạo thực hiện linh hoạt và hiệu quả. Trong đó,x ây dựng lực lượng, chọn thời cơ khởi
nghĩa, là những vấn đề mang tính quyết định, đem đến thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về cách mạng thuộc địa, hình
thành hệ thống luận điểm khá hoàn chỉnh, bao gồm: đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, trong đó cơ bản được hình thành và phát
triển từ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn cách mạng thế giới và Việt Nam. Đó là thành quả của tư duy sáng
tạo, thể hiện tư tưởng cách mạng và khoa họcđược kiểm chứng trong tiến trình đấu tranh cách mạng
Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới của Hồ Chí Minh. Những quan điểm của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc thấm đẫm lý tưởng,khát vọng của nhân dân Việt Nam về độc lập, tự do,
công bằng, văn minh, ấm no, hạnh phúc. Đó là đòi hỏi chính đáng của tất cả các dân tộc trong đó có
nhân dân Việt Nam.
Giá trị và ý nghĩa lịch sử những quan điểm về cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
được minh chứng sinh động bằng thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám (1945), hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam. Thực tiễn vận động của phong trào
cách mạng thế giới trong những năm giữa thập niên 50 thế kỷ XX càng chứng tỏ rằng, những cống hiến
lý luận xuất sắc của Hồ Chí Minh đã kịp thời bổ sung cho kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, đồng thời cổ vũ, động viên, dẫn dắt các dân tộc thuộc địa trên thế giới noi theo Việt Nam,
đứng lên làm cách mạng giải phóng, giành độc lập dân tộc.
Trong hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, có những quan điểm đặc
biệt quan trọng, như quan điểm lý luận về xây dựng tổ chức Đảng Cộng sản ở thuộc địa. Việt Nam là
nước thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân ra đời muộn, yếu về trình độ nhận thức chính trị, ý
thức giai cấp và thiếu về lực lượng. Thành công của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một chính đảng
mác xít ở Việt Nam thể hiện thiên tài trí tuệ, sự mẫu mực trong việc vận dụng lý luận vào thực tiễn của
Người; đồng thời là đóng góp quan trọng vào lý luận xây dựng Đảng Cộng sản trên thế giới.
Trong vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng, nếu như các nhà kinh điển mác xít chỉ coi trọng lực lượng
công - nông, thì Hồ Chí Minh lại đưa ra quan điểm xây dựng, tập hợp lực lượng trên mẫu số chung là
“lòng yêu nước”. Đối với Người, tất cả những ai có lòng yêu nước, có mong muốn giải phóng dân tộc
đều trở thành lực lượng cách mạng. Do đó, phải vận động, giác ngộ tất cả các thành phần dân tộc, không
phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo... vào lực lượng quần chúng cách mạng. Đó là tư tưởng bắt nguồn
từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc, được Hồ Chí Minh thể hiện bằng một sắc thái mới, tư duy mới
trong thời đại mới.
Xuất phát từ tinh thần yêu nước, thương dân, khát khao độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, đứng
trên lập trường mác xít (lịch sử và biện chứng), Hồ Chí Minh đã xây dựng nên các quan điểm lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc. Những quan điểm cách mạng của Người hướng tới mục tiêu phục vụ cho
quyền lợi và khát vọng của cả dân tộc, hòa quyện trong tình yêu giai cấp, yêu nhân loại, đậm tính nhân
văn, không có ranh giới quốc gia ngăn cách. Nhà văn - nhà sử học C.Paxken Ragiô viết: “Chủ nghĩa yêu
nước của cụ Hồ Chí Minh trước hết là biểu hiện ý chí của con người mong muốn được đối xử và được
thừa nhận đúng với danh nghĩa con người được sống trong công lý, và được hưởng mọi quyền lợi của
con người”(7).
Đánh giá về giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh và những cống hiến của Người đối với cách mạng Việt
Nam và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thế giới, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của
Liên Hợp quốc (UNESCO) khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết
tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội”(8). Trong tác phẩm Hồ,tác giả David Halberstam viết: “Lúc sinh thời, ông Hồ Chí Minh không
những đã giải phóng đất nước của ông mà thay đổi chiều hướng của chế độ thuộc địa ở cả châu Phi lẫn
châu Á, mà ông còn làm được một điều đáng chú ý hơn: ông đã dùng tới nền văn hóa và tâm hồn của kẻ
địch của ông. Đối với Hồ Chí Minh... đó là một cuộc đời đầy đủ ”(9). Học giả người Mỹ Wiliam J.Duiker
(trong cuốn sách Hồ Chí Minh - một cuộc đời)khẳng định: Sự nghiệp mà ông thúc đẩy và chỉ đạo tạo ra
những thời khắc có một không hai trong thế kỷ XX, là đỉnh cao của kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở thế
giới thứ ba và sự thừa nhận rõ ràng đầu tiên về hạn chế của chính sách ngăn chặn cộng sản của Mỹ. Sau
Việt Nam, thế giới không bao giờ như cũ nữa.
Với tư cách là người đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã góp phần quan
trọng vào quá trình “phi thực dân hóa”, làm sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn
thế giới. Tiến sĩ Ahmed, nguyên Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhận xét: “Chỉ
có ít nhân vật lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại khi còn sống và rõ ràng cụ Hồ Chí Minh là
một trong số đó; Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị
đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người
đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”(10).
Sự thống nhất khẳng định của các nhà chính trị, các nhà nghiên cứu về giá trị lý luận và những cống
hiến to lớn của Hồ Chí Minh đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp đấu tranh vì
hòa bình, tiến bộ nhân loại mãi là niềm tự hào của các thế hệ người Việt Nam. Tư tưởng, tấm gương đạo
đức của Người vẫn luôn luôn dẫn dắt, cổ vũ chúng ta vững bước trên con đường xây dựng đất nước giàu
đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Tại sao việt nam chỉ có duy nhất 1 đảng? (tính tất yếu của đảng->, Chương 4)
(LLCT) - Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra mục tiêu, đường lối, chiến lược
cách mạng đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử dân tộc và thời đại, cho nên Đảng được thừa
nhận quyền lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho quyền lợi của cả dân tộc,
thể hiện được năng lực lãnh đạo và uy tín chính trị, có nhiều đảng viên của Đảng là những tấm
gương, những tượng đài bất tử trong lòng nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Như vậy, chỉ có một đảng cách mạng chân chính, có đường
lối cách mạng đúng đắn, thực sự có bản lĩnh, có trí tuệ, phấn đấu vì mục tiêu “phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân”, Đảng đó mới xứng đáng là Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Câu hỏi cho đến tận hôm nay, sau hơn 90 năm Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo cách
mạng, vẫn có một số người “thắc mắc”: “Tại sao ở Việt Nam chỉ có duy nhất một Đảng nắm quyền lãnh
đạo?”. Có người còn mặc nhiên phán xét: “Việt Nam vi phạm quyền tự do dân chủ về chính trị”. Sự thật
vấn đề này là gì? Phải nhìn nhận từ “góc nhìn lịch sử” để có câu trả lời bằng sự thật lịch sử và thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Lịch sử đã cho thấy, trong quá trình đấu tranh chống ách đô hộ của thực dân Pháp, không chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất có mục tiêu giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của
ngoại bang. Sau khi liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xâm lược Việt Nam (9-1858), các cuộc khởi
nghĩa chống thực dân Pháp theo tiếng gọi “Cần Vương” do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo đã nổ ra mạnh
mẽ nhưng tất cả đều bị đàn áp đẫm máu và lần lượt tan rã. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (Hà
Tĩnh) do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1895) đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của giai cấp phong kiến Việt
Nam.
Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống xâm
lược Pháp lại liên tục nổ ra như: Phong trào Đông Du (1905); Việt Nam Quang phục Hội (1912) do
Phan Bội Châu khởi xướng; Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong
trào Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và nhiều nhân sĩ yêu nước lãnh
đạo. Tất cả các phong trào đều lần lượt thất bại bởi sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù.
Cuối những năm 20, đầu những năm 30 thế kỷ XX, dưới ách đô hộ, bóc lột tàn bạo của chính quyền
thực dân Pháp và phong kiến Nam triều, nhiều tổ chức và đảng phái chính trị ở Việt Nam được thành
lập. Các tổ chức, đảng phái này đều có khuynh hướng, mục tiêu đấu tranh đòi độc lập dân tộc:
Việt Nam Nghĩa đoàn: tổ chức của một nhóm (17 người) với nòng cốt là những sinh viên yêu nước của
trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, do Tôn Quang Phiệt, Phạm Thiều, Đặng Thai Mai, Nguyễn Quốc
Túy… đứng ra thành lập vào ngày 25-1-1925, tại nhà số 4 đường Giôrêghiberi, Hà Nội (nay là đường
Quang Trung). Tuy Việt Nam Nghĩa đoàn đã có chương trình sơ lược và 10 lời thề nhưng không thật rõ
ràng về chủ trương nên tồn tại không được bao lâu, một số thành viên rời bỏ tổ chức. Một số phần tử
trung kiên do Tôn Quang Phiệt đứng đầu sau đó kết hợp với nhóm các chính trị phạm ở Trung Kỳ để
thành lập Hội Phục Việt.
Hội Phục Việt: do Tôn Quang Phiệt, Lê Văn Huân, Ngô Đức Kế, Nguyễn Đình Kiên, Đặng Thai Mai và
một số nhân sĩ, trí thức, sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội thành lập ngày 14-7-1925. Mục
đích của Hội là đoàn kết các lực lượng yêu nước, tiến bộ để làm cách mạng đánh đuổi giặc Pháp xâm
lược, lật đổ bè lũ vua quan bán nước, đem lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào. Tuy nhiên,
Hội không đưa ra được đường lối, phương pháp, tổ chức, cách thức tiến hành cách mạng. Các hội viên
chỉ mới thống nhất và đưa ra được ba điểm: tuyên truyền phát triển Đảng; liên lạc với những người cách
mạng ở Thái Lan và Trung Quốc; chuẩn bị đại hội để chính thức thành lập Đảng.
Chính vì vậy, khi đánh giá về tổ chức Phục Việt, Sở mật thám Đông Dương, trực tiếp là Quyền Cục
trưởng Cục Chính trị và Liêm phóng Lui Mácty (Louis Marty) có vẻ coi thường. Ông ta cho rằng, thông
qua việc đưa ra tôn chỉ mục đích, chứng tỏ: “Những nhà cách mệnh ấy chẳng biết tí gì về tình hình
Đông Dương. Họ cũng không thảo nổi một chương trình hoạt động thích nghi với tình thế”(1). Tất
nhiên, viên Chánh mật thám Đông Dương chẳng bao giờ có thể nhận xét một cách khách quan và thiện
cảm về một tổ chức cách mạng Việt Nam. Song, phải thừa nhận rằng, về nhận thức cách mạng và trình
độ chính trị, các yếu nhân của Phục Việt lúc bấy giờ còn ấu trĩ, non nớt.
Năm 1926, đồng chí Lê Duy Điếm (sau đó là đồng chí Trần Phú) được Hội Phục Việt cử sang Quảng
Châu liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Sau khi bắt được liên lạc và tham gia khóa
huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp
giảng dạy, đồng chí Lê Duy Điếm trở về nước và áp dụng chương trình, phương pháp, cách thức tổ chức
hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào Hội Phục Việt, làm cho Hội Phục Việt chuyển
hóa từ một tổ chức yêu nước thành một tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản (sau này trở thành
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn - một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam).
Đảng Thanh niên Việt Nam do Trần Huy Liệu, Nguyễn Trọng Hy... thành lập ở Sài Gòn (tháng 3-1926).
Dù có tiếng là tiến bộ, nhưng đến khi: “Ban trị sự đã chính thức thành lập, nhưng chương trình, điều lệ
vẫn không có và cũng chẳng ai hỏi đến... càng chưa nghĩ đến Đảng Thanh niên theo chủ nghĩa gì”(2).
Hoạt động của Đảng chỉ sôi nổi nhất thời, trong đó có các hoạt động tiêu biểu như tổ chức mít tinh đón
Bùi Quang Chiêu nhưng lại chống tư tưởng “Pháp - Việt đề huề” của Đảng Lập hiến do Bùi Quang
Chiêu đứng đầu, đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh... Khi những người đứng đầu bị nhà cầm quyền
thực dân bắt giữ, Đảng Thanh niên Việt Nam nhanh chóng tan rã.
Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu, Nguyễn Tuấn
Tài... thành lập tháng 12-1926 tại Hà Nội. Đây là Đảng của giai cấp tư sản Việt Nam. Mục tiêu của
Đảng là: “Làm một cuộc cách mạng quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, để lập
nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hòa. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc
tranh đấu giành độc lập của họ, đặc biệt là các nước lân cận: Ai Lao, Cao Miên”(3). Đảng viên của Việt
Nam Quốc dân Đảng bao gồm các thành phần trí thức, nông dân, địa chủ, thương gia, công chức, sinh
viên, học sinh, công nhân và binh lính người Việt yêu nước trong quân đội Pháp. Tuy mang danh là
“Đảng cách mạng” nhưng không có cơ sở trong nhân dân, tổ chức lỏng lẻo nên có nhiều phần tử mật
thám, chỉ điểm của thực dân Pháp trong hàng ngũ. Mặt khác, hoạt động của Đảng chủ yếu dùng hành
động ám sát cá nhân nên ít được ủng hộ. Tháng 2-1930, Việt Nam Quốc dân Đảng phát động khởi
nghĩa, biết rằng khó thành công nhưng như Chủ tịch Đảng Nguyễn Thái Học đã nói: “Không thành công
thì cũng thành nhân”. Quả nhiên, khởi nghĩa thất bại, hầu hết những lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân
Đảng bị bắt và bị đưa đi hành quyết ở Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái là tiếng vọng cuối cùng của
giai cấp tư sản Việt Nam trên vũ đài chính trị. Ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam chuyển hẳn vào
tay giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam(4).
Thanh niên Cao vọng Đảng do Nguyễn An Ninh - chủ bút tờ La Cloche félée (Chuông rè), thành lập và
hoạt động từ năm 1923 đến năm 1928 tại Sài Gòn. Tôn chỉ, mục đích và hoạt động của Đảng là tuyên
truyền nâng cao dân trí. Tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng là phải biết chữ Quốc ngữ, phải cắt tóc
ngắn. Tổ chức của Thanh niên Cao vọng rất đơn giản, không có cấp trung ương, cấp tỉnh, trụ sở là nhà
riêng của chí sĩ Nguyễn An Ninh. Sau khi nhà yêu nước Nguyễn An Ninh và một số người đứng đầu bị
bắt, Thanh niên Cao vọng Đảng nhanh chóng tan rã.
Tổ chức Hội kín Nam Kỳ ra đời rất sớm, tính từ năm 1914 đến năm 1918 ở Nam Kỳ có từ 70 đến 80 hội
kín được thành lập và hoạt động với mục đích là lật đổ chính quyền thực dân. Tư tưởng triết lý của các
hội kín khá phức tạp, gồm cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Các tổ chức hội kín hoạt động độc lập,
không có hệ thống chỉ huy chung và hầu như tất cả đều suy tôn Phan Xích Long (tức Phan Phát Sanh)
làm Hoàng đế. Mỗi hội đều có một hội chủ (gọi là Ông chủ). Hội chủ thường chia hội viên ra từng nhóm
nhỏ (khoảng vài chục người) gọi là “kèo”. Trong khi hoạt động, giữa các “kèo” không được biết nhau,
khi cần gặp nhau hội viên phải dùng ngôn ngữ và dấu hiệu do hội chủ quy định. So sánh với tổ chức
Thiên Địa hội (ở Trung Quốc), Giáo sư Sử học Trần Văn Giàu đã nhận xét rằng, tuy cũng uống máu ăn
thề, nguyện tuyệt đối trung thành với nhau, với hội và qua thử thách xem có đủ can đảm không, song
trong Hội kín Nam Kỳ không hề có đẳng cấp với tính chất phong kiến và tôn giáo như trong Thiên Địa
hội. Về tổ chức, Hội kín Nam Kỳ cũng đơn giản hơn nhiều, vì tính chất bình đẳng, huynh đệ là cơ bản.
Khi quân Pháp tổ chức lùng sục, bắt bớ đã thu được nhiều bài “Phú hoài cổ” (của nhà giáo Võ Trường
Toản) và các “bùa chú”. Nội dung bài “Phú hoài cổ” đề cao tư tưởng “trung, hiếu”, “xả thân thủ nghĩa”.
Còn “bùa chú” là do các hội viên tin rằng nó có thể làm tăng thêm sức mạnh và giúp họ tránh được mọi
hiểm nguy khi lâm trận. Một tổ chức chính trị, có khuynh hướng “cách mạng” mà lại mang màu sắc tôn
giáo, huyền bí như vậy, cho nên khi bị khủng bố đã mau chóng tan rã.
Ngoài các tổ chức, đảng phái nói trên, còn có một số tổ chức và đảng phái chính trị ra đời sau Đảng
Cộng sản Việt Nam như: Nhóm Trốt kít với các đại biểu là Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn
Thạch..., là một tổ chức chính trị “mượn danh” mácxít, du nhập vào Việt Nam khoảng những năm 30
thế kỷ XX. Đến giữa những năm 30, Mặt trận Bình dân Pháp thắng thế lên cầm quyền, chính quyền
thuộc địa ở Đông Dương nới lỏng chính sách, cho phép một số tổ chức, đảng phái chính trị được hoạt
động công khai. Những người Trốt kít Việt Nam đã tham gia tranh cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ;
Viện Dân biểu Trung Kỳ v.v.. Tuy nhiên, khi chính quyền thuộc địa trở mặt, đàn áp các đảng phái chính
trị, tổ chức Trốt kít đã tan rã nhanh chóng. Người ta cho rằng, Trốt kít là những người “cách mạng đầu
lưỡi”, sớm bộc lộ bản chất “cơ hội cách mạng”, do đó chỉ mang tính nhất thời, không được nhân dân
ủng hộ.
Ra đời sau Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách) được
thành lập năm 1940 ở Trung Quốc. Đầu năm 1942, Việt Cách cùng với Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt
Quốc - lấy tên theo Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học), đã tổ chức đại hội, thành lập Việt
Nam Giải phóng Hội, do Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ... lãnh
đạo. Năm 1945, hai tổ chức Việt Cách và Việt Quốc theo chân 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc vào
Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, thực chất là thực thi kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”
nhằm “diệt Cộng, cầm Hồ”, lật đổ chính quyền cách mạng. Nhưng mưu đồ của họ bất thành. Mặc dù với
chính sách đoàn kết dân tộc, họ đã được nhường 70 ghế trong Quốc hội (không thông qua bầu cử);
những người đứng đầu của Việt Quốc và Việt Cách tham gia như Nguyễn Hải Thần được cử giữ chức
Phó Chủ tịch nước, Vũ Hồng Khanh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Nguyễn Tường Tam làm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao... trong Chính phủ Liên hiệp. Tuy nhiên, sau Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946), quân
đội của Tưởng Giới Thạch rút về nước, dù không ai đuổi nhưng Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh...
chạy theo “quan thầy”, bỏ nước, bỏ dân.
Như vậy, thực tiễn lịch sử đã cho thấy, dù không ai tranh giành, không ai gạt bỏ, nhưng tất cả các
đảng phái, tổ chức chính trị ở Việt Nam (ngoại trừ Đảng Cộng sản) đều không nắm được quyền lãnh đạo
cách mạng. Các đảng phái, tổ chức chính trị dù là đảng của các nhân sĩ trí thức yêu nước nhiệt thành,
hay là đảng của giai cấp tư sản dân tộc... cơ bản đều chưa có đường lối chính trị rõ ràng, thiếu hệ thống
tổ chức chặt chẽ, có những đảng viên của các tổ chức, đảng phái chính trị nói trên thiếu bản lĩnh, cơ
hội... Vì thế, không đảng phái nào đủ năng lực và uy tín chính trị lãnh đạo cách mạng. Cho dù có những
đảng được phép hoạt động công khai, thậm chí còn nhận được sự giúp đỡ của các thế lực ngoại bang cả
về phương diện tổ chức lẫn tiền bạc (như Việt Quốc, Việt Cách...) đều thất bại và tan rã nhanh chóng.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, thành lập ngày 3-2-1930
- so với nhiều đảng phái chính trị khác có thời gian ra đời muộn hơn. Nhưng ngay từ khi ra đời, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nắm được quyền lãnh đạo cách mạng, được các giai tầng xã hội thừa nhận vai trò
lãnh đạo cách mạng.
Lý giải vấn đề này, nhiều sử gia và nhiều nhà phân tích chính trị trong và ngoài nước đều thống nhất
nhận định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã đề ra được chủ trương, đường lối đúng
đắn, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của lịch sử. Mặt khác, Đảng có phương pháp tổ chức, chỉ đạo hoạt
động, phương pháp vận động quần chúng khoa học, linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Từ
những yếu tố đó, Đảng tạo lập được uy tín đối với nhân dân, được nhân dân hết lòng ủng hộ. Sức mạnh
của Đảng bắt nguồn từ niềm tin của hết thảy nhân dân đối với Đảng. Có được niềm tin ấy, dù Đảng tồn
tại dưới hình thức nào (bí mật hay công khai), dù có bao nhiêu đảng phái, tổ chức khác tham gia trên vũ
đài chính trị thì quyền lãnh đạo cách mạng vẫn thuộc về Đảng Cộng sản. Có thể khẳng định uy tín chính
trị là yếu tố căn bản trong việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ tiến trình cách mạng
Việt Nam.
Song, sẽ là thiếu tính thuyết phục và phiến diện nếu chỉ lấy tiêu chuẩn năng lực lãnh đạo và uy tín chính
trị của Đảng làm tiêu chí khẳng định tính ưu việt của Đảng Cộng sản Việt Nam so với các đảng phái
khác. Thực tế ngay khi mới ra đời, Đảng Cộng sản đã nắm được quyền lãnh đạo cách mạng và được tất
cả các giai tầng trong xã hội Việt Nam thừa nhận quyền lãnh đạo cách mạng. Sở dĩ như vậy, là bởi Đảng
Cộng sản Việt Nam sớm biết giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa
là Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ những ngày đầu đã xác định được mục tiêu cách mạng, đáp ứng
được những đòi hỏi và nguyện vọng cấp bách nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam (độc lập dân tộc),
đồng thời, mục tiêu đó còn phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại (thời đại quá độ lên chủ
nghĩa xã hội). Cùng với đó, Đảng đã xây dựng được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn.
Với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt... do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng (2-1930), những vấn đề cơ bản mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam
đã được giải quyết. Bên cạnh đó, những cán bộ, đảng viên của Đảng được huấn luyện, thử thách, rèn
luyện trong phong trào cách mạng, luôn bám sát thực tiễn, có đủ năng lực lãnh đạo và uy tín chính trị,
không phụ lòng tin của nhân dân. Những tấm gương kiên trung của Đảng đã tỏ rõ tinh thần yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên quyết hy sinh phấn đấu làm tròn sứ mệnh lịch sử giao phó. Trong
tiến trình lịch sử, Đảng đã lãnh đạo dân tộc đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi Cách mạng
Tháng Tám 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và
dân ta đi qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc, làm nên những thắng lợi vĩ đại trong thế kỷ XX.
Hoàn thành trọng trách lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến bảo vệ Tổ quốc,
Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
thắng lợi công cuộc đổi mới.
Sau 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo nàn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội lạc hậu,
trình độ thấp, đến nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn
hóa, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện;
chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của
đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay”. “Thực tiễn đó đã khẳng định một chân lý, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác,
ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất
nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác”(5).
Tất nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, có lúc Đảng ta bị quân thù khủng bố ác liệt, toàn bộ Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và Xứ ủy đều bị bắt, các tổ chức, cơ sở Đảng bị đánh phá dữ dội, thiệt hại
nặng nề. Nhưng vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng chưa khi nào bị đứt quãng, bị các đảng phái chính
trị khác tiếm quyền. Bởi trong những giờ phút khó khăn, ác liệt nhất đã có lớp lớp đảng viên của Đảng
Cộng sản Việt Nam hy sinh oanh liệt vì sự nghiệp cách mạng. Các đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú,
Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong và các nhà lãnh đạo của Đảng như Nguyễn Thị Minh
Khai, Hoàng Văn Thụ... đã trở thành tượng đài bất tử trong lòng nhân dân, tạo nên niềm tin giữa dân với
Đảng mà không một kẻ thù nào, không một thế lực nào có thể chia lìa. Niềm tin của nhân dân đối với
Đảng là sức mạnh làm nên mọi chiến thắng của dân tộc ta. Chính niềm tin là cơ sở quan trọng nhất duy
trì sự lãnh đạo liên tục của Đảng đối với cách mạng Việt Nam.
Rõ ràng, chỉ một Đảng cách mạng chân chính, có đường lối cách mạng đúng đắn, thực sự có bản lĩnh, trí
tuệ, phấn đấu vì mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, được nhân dân yêu mến, thừa nhận
quyền lãnh đạo, Đảng đó mới xứng đáng là Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Có đúng là “nhiều đảng cạnh tranh nhau thì dân chủ hơn”?

Có ý kiến cho rằng, thực hiện đa đảng, có nhiều đảng cạnh tranh nhau thì sẽ dân chủ hơn, sẽ tốt hơn một
đảng! Có đúng như vậy không? Câu trả lời ở đây là không phải như vậy. Hãy xem chính người Mỹ nói
về nước Mỹ, một nước thực hiện chế độ đa đảng, thực chất là thế nào. Họ nói rằng, nước Mỹ là một
nước “tự do” người dân tự do biểu tình, chửi bới, báo chí tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm,
xuyên tạc, bôi xấu lẫn nhau vì sự cạnh tranh của các đảng phái này, nhằm hạ uy tín của đảng phái kia.
Nhưng điều đó không phải là bản chất thực sự của dân chủ.

Giáo sư trường Đại học bang Indiana, Paul Mishler cho thấy rõ thực chất vấn đề: “Mọi đói nghèo, thất
nghiệp, thất học... đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa
đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân
chủ”(1).

Có thể rút ra một số vấn đề sau: thứ nhất, chế độ đa đảng của nước Mỹ “thực chất chỉ là một đảng”, là
sự cầm quyền của đảng tư sản; thứ hai, dân chủ ở nước Mỹ là dân chủ tư sản, không phải là dân chủ của
đa số, không thực hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân; thứ ba, thực chất đa đảng đối lập trong xã
hội tư bản chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản.

Bất cứ một nền dân chủ nào, cũng đều nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp thống trị, cầm quyền.
Dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế độc đảng hay đa đảng, mà nó phụ thuộc vào bản chất của chế độ
cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào. Bản thân nền dân chủ tư sản, dù có được tô vẽ như thế nào chăng
nữa, thì nền dân chủ đó vẫn là nền dân chủ của giai cấp tư sản, nhằm bảo đảm sự thống trị, bóc lột của
giai cấp tư sản đối với xã hội và lao động.

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã có và cũng đã phủ định đa đảng

Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Qua sự “sàng lọc” dữ dội của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam, nhân dân
Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc.

Tháng 8/1945, Đảng ta lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền lập nên Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã
tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ
chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa đã có các đảng như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Quốc dân đảng tham gia. Sau này còn Đảng
Dân chủ, Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản, đến năm 1988, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tuyên bố tự
giải tán.

Toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và hoạt động của nhà nước Việt Nam mới là do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất nguyên. Chế độ chính trị đó là do
nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc,
kháng chiến chống xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất
của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho
quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam, nhân dân ta thực sự được làm chủ cuộc sống
của mình, được sống cuộc đời “tự do, hạnh phúc”.

Tính nguy hiểm của luận điểm đòi Việt Nam thực hiện đa đảng đối lập

Các thế lực thù địch rêu rao “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” như là “khuôn vàng, thước ngọc”
của dân chủ mà chúng ta phải tuân theo. Chúng cho rằng: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản,
vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”(2). Quan điểm này được khoác cái vỏ “vì dân chủ”, “vì dân, vì
nước”, lợi dụng những khó khăn, phức tạp và cả khuyết điểm của chúng ta trong quá trình thực thi dân
chủ để chống phá, nên nó càng trở nên nguy hiểm.

Tính nguy hiểm của thủ đoạn này biểu hiện ở chỗ:

Thứ nhất, luận điểm “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” là luận điểm mang nặng tính chất mị dân,
dễ gây nên sự ngộ nhận mơ hồ, lẫn lộn về nhận thức, sự dao động về tư tưởng trong một bộ phận cán bộ
và nhân dân. Nếu không thực hiện được ý đồ thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng thì cũng dễ gây nên sự chia
rẽ trong xã hội và sự thiếu thống nhất về chính trị tư tưởng trong xã hội; sự hoài nghi, dao động, thiếu
niềm tự tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

Thứ hai, thực chất luận điểm đó là nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội, xoá bỏ nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, “lái’ nền dân chủ nước ta sang nền dân chủ khác, phi xã hội chủ nghĩa. Dù chúng
không trực tiếp nói đến chúng ta phải thực hiện dân chủ tư sản, nhưng cái cách “khuyên” chúng ta thực
hiện đa đảng, học tập theo các nước phương Tây, đã cho thấy thực chất đó là hướng nền dân chủ nước ta
sang dân chủ tư sản.

Thứ ba, đó là luận điểm phản khoa học và phi lịch sử. Bởi vì, trên thực tế không có thứ dân chủ chung
chung trừu tượng, trong thời đại ngày nay chỉ có thể là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cái
gọi là đa đảng như trong xã hội phương Tây thực chất là sự chi phối của đảng tư sản, là biểu hiện sự
tranh chấp giữa các nhóm chính trị khác nhau của chính giai cấp tư sản. Nếu nước ta thực hiện đa đảng
thì các thế lực thù địch muốn đa đảng như thế nào, chắc chắn rằng chúng không muốn đa đảng mà ở đó
lại có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Điều gì sẽ đến, nếu ở Việt Nam thực hiện đa đảng?

Các thế lực thù địch “khuyên” chúng ta thực hiện đa đảng thì sẽ được dân chủ hơn, đất nước sẽ phát
triển hơn đời sống nhân dân sẽ được tốt đẹp hơn. Có một số ít người trong chúng ta ngộ nhận và cũng
hy vọng đất nước sẽ phát triển hơn nếu Việt Nam thực hiện đa đảng! Điều chắc chắn rằng sẽ không
phải như vậy, không phải như các thế lực thù địch tô vẽ ra và như viễn cảnh hy vọng của một số người.

Điều dẫn đến sẽ là: đất nước diễn ra cảnh hỗn loạn, mất ổn định, làm đổ vỡ nền kinh tế, rơi vào thảm
họa như đã từng xảy ra ở một số nước. Thảm họa đó chắc chắn sẽ giáng cả lên đầu nhân dân, nhân dân
chỉ là cái cớ cho sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái. Rút cục, Việt Nam không còn là đất nước
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo xã hội; mọi thành quả
cách mạng của nhân dân ta bị tiêu tan. Cần nhớ lại một bài học đau xót và thấm thía về thực thi dân chủ
sai nguyên tắc ở Liên Xô trong thời gian cải tổ. Những đơn thuốc “công khai hoá”, “dân chủ hoá”, “đa
nguyên chính trị” đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội, lại tạo “thời cơ”, điều kiện thuận lợi cho các thế
lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong mưu đồ chống phá và dẫn đến làm tan rã, đổ vỡ chế độ Xô
Viết.

Ở Việt Nam không thực hiện chế độ đa đảng không phải vì chúng ta bảo thủ, mất dân chủ như các thế
lực thù địch cố tình xuyên tạc, mà đó là yêu cầu khách quan, là vì sự ổn định và phát triển của đất nước,
vì sự phát triển của nền dân chủ và hạnh phúc của nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh...

Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bảo đảm sự ổn định và phát
triển, tiến tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhằm không ngừng củng
cố hoàn thiện những điều kiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện và phát triển nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa; không ngừng chăm lo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Trong chế độ chính trị nhất nguyên ở nước ta, quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong các
văn bản Hiến pháp, pháp luật, mà điều quan trọng ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống
hàng ngày, trong đời sống hiện thực của quần chúng nhân dân.

Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tham gia quản lý xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua người
đại diên do mình lựa chọn. Ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân ngày càng được đề cao. “Mọi
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý
kiến của nhân dân”. Nhân dân có quyền lập và tham gia các tổ chức xã hội; quyền tự do báo chí, tự do
hội họp theo quy định của pháp luật.

Sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam gần 25 năm qua đã đạt được
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế phát triển. Mười năm gần đây,
mức sống trung bình của người dân Việt Nam đã tăng lên hơn hai lần; vấn đề xóa đói giảm nghèo, thực
hiện công bằng xã hội được coi là mục tiêu chiến lược quan trọng cả trước mắt và lâu dài. Điều quan
trọng là, tuy GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, đứng ở tốp cuối trong nhóm các nước
đang phát triển, thì về chỉ số phát triển con người (HDI), Việt Nam lại đứng ở mức trên trung bình trong
nhóm các nước này, chứng tỏ sự phát triển xã hội và dân chủ ở Việt Nam được đặc biệt quan tâm.

Chủ tịch Ủy ban châu Âu José Manuel Barroso nhiều lần bày tỏ sự ngưỡng mộ về sự phát triển kinh tế
xã hội của Việt Nam và đã có “ấn tượng sâu sắc với thành tựu của Việt Nam trong hơn hai mươi năm
qua”. Mới đây, tại London, ngày 23-24/9/2008, trong báo cáo nhan đề “Các thị trường của tương lai”,
Cơ quan Thương mại và Đầu tư của Chính phủ Anh nhận định: “Việt Nam là thị trường có sức hấp dẫn
nhất, đứng đầu trong 10 nước có tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai”. Những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực trong công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta là bằng chứng
hùng hồn của sự vươn lên xây dựng “một quốc gia "phồn thịnh” với đúng nghĩa thực sự, khẳng định tính
tuyệt đối và không thể phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở nước ta, thực hiện một đảng duy nhất lãnh đạo, mọi người dân đều có thể trực tiếp hay gián tiếp
(thông qua người đại diện của mình) đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công
quyền. Các kênh bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và hoạt
động có hiệu quả. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong
các tổ chức chính trị - xã hội, trong các hoạt động của xã hội; là phương châm hành động của người dân
trong xây dựng hệ thống chính trị; là yêu cầu ứng xử của cán bộ trong tiếp xúc, quan hệ với dân và chăm
lo đến dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách
nhiệm, cống hiến và hưởng thụ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.

Thực tế vừa nêu chưa phải là đầy đủ, nhưng đã cho thấy tính ưu việt của chế độ một đảng ở Việt Nam;
không thể vì những khó khăn, phức tạp nào đó mà xuyên tạc bản chất chế độ dân chủ của nước ta, đòi
thực hiện đa đảng, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chế độ dân chủ ở nước ta là chế độ dân chủ tốt đẹp và ưu việt. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nó
không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của biết bao mồ hôi công sức và cả máu xương của nhiều thế
hệ người Việt Nam chúng ta. Bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ này có được giữ gìn, nâng cao
và phát huy hay không, điều đó phụ thuộc vào chính chúng ta, vào sự quyết tâm và nỗ lực của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Vấn đề đặt ra hiện nay đối với chúng ta không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng, mà là phải thực
hiện tốt hơn nữa quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội. Đồng thời thực
hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng, “Phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển
biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính
tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội
ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực”, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng./.

3. Tại sao văn hóa là mục tiêu của sự phát triển (Chương 6)
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan dung, hòa mục để hòa
đồng. Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng trí thức, hiền tài. Con người Việt Nam hiền hậu, có tâm hồn
trong sáng, giàu lòng vị tha, yêu thương đồng loại, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa… kết
hợp được cái chung với cái riêng, gia đình với Tổ quốc, dân tộc và nhân loại.

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất phát từ khát vọng nhân văn và văn hóa đã giúp Người đến với tư
tưởng chủ nghĩa xã hội và lựa chọn chủ nghĩa xã hội là chế độ để hướng dân tộc mình quyết tâm xây
dựng và đi tới. Người nhận thức rằng, chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản
về mặt văn hóa và giải phóng con người. Nói văn hóa cũng tức là nói tới con người - chủ thể của văn
hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng con người, tình người, mối quan hệ nhân văn
giữa người với người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng nâng cao lý tưởng, đạo đức, văn hóa, khoa học
cho con người, vì con người, khát khao chiến đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì mới có chủ nghĩa xã
hội - xã hội văn hóa.

Như vậy, mục tiêu cuối cùng của một xã hội tiên tiến thống nhất với bản chất của một nền văn hóa tiến
bộ, lấy việc phát triển con người là mục đích cao nhất. Đây không phải là sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà là
một xu hướng tất yếu nảy sinh trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển đúng quy luật của nhân
loại. Điều đó, một lần nữa góp thêm một tiếng nói khách quan khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là
đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, hàm chứa những giá trị văn hóa cao mà loài người hướng tới. Và qua đó
cũng khẳng định rằng văn hóa là mục tiêu của loài người hướng tới.

Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển đã được chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cụ thể hóa
bằng những nhận thức về đặc trưng, bản chất của xã hội văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây là giai
đoạn đầu để tiến đến chủ nghĩa cộng sản, xã hội với đặc trưng bao trùm là văn hóa hoàn thiện nhất, xã
hội tốt đẹp nhất, thỏa mãn mọi nhu cầu chính đáng của con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin đã đưa ra một số đặc trưng của xã hội này như sau:

- Xóa bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu công cộng để giải phóng cho
sức sản xuất xã hội phát triển.

- Có một nền công nghiệp đại cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo
nông nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản.

- Thực hiện sản xuất có kế hoạch, tiến tới xóa bỏ sản xuất hàng hóa trao đổi tiền tệ (quan niệm này về
sau đã được điều chỉnh với chính sách Kinh tế mới của V.I.Lê-nin).

- Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thể hiện sự công bằng về lao động và hưởng thụ.

- Khắc phục dần sự khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp.

- Giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn hóa cho nhân
dân, tạo điều kiện cho con người tận lực phát triển mọi khả năng sẵn có của mình.

- Sau khi đã đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì chức năng chính trị của nhà
nước sẽ dần dần tiêu vong.
Những phán đoán khoa học nói trên về một xã hội tương lai mà nhân loại hướng tới là những đặc trưng
phản ánh tính văn hóa cao của một xã hội.

Là người học trò sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất với các bậc thầy C.Mác, V.I.Lê-nin về bản
chất văn hóa của chủ nghĩa xã hội, đó là xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao; văn hóa đạo đức trong sáng, cao thượng; các quan hệ bình đẳng, công bằng và hợp lý; đó là công
trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, nhận thức của Chủ tịch Hồ chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, đạo đức và văn minh, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch
sử. Chế độ ấy đồng nhất với văn hóa và là mục tiêu của phát triển. Trong thực tế, để có một sự phát triển
lành mạnh cần một hệ điều chỉnh, một định hướng nhân văn xã hội. Nói cách khác, văn hóa phải trở
thành mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển kinh tế phải đưa tới hiệu quả xã hội tốt.
Lý thuyết về sự phát triển, do đó có sự thay đổi. Trước đây, nói đến phát triển, nhiều người chỉ nghĩ tới
yếu tố kinh tế và kỹ thuật, và tiêu chí của sự phát triển chỉ là thu nhập bình quân theo đầu người, thì
ngày nay nhân loại đã đi tới một quan niệm mới về phát triển: coi trọng các yếu tố nhân văn, xã hội. Sự
phát triển là sự thay đổi, nhưng đó là sự thay đổi đem lại cuộc sống phồn vinh, có chất lượng được cộng
đồng chấp nhận. Đằng sau chỉ tiêu kinh tế phải là hàng loạt các chỉ tiêu về đời sống cụ thể của con
người: tuổi thọ bình quân, trình độ học vấn chung của xã hội, vấn đề an sinh xã hội, môi trường xã hội
và môi trường tự nhiên… Nói văn hóa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế là nói đến tính chất chính trị
của nền kinh tế, là nói nền kinh tế đó thuộc về ai và phục vụ cho ai. Trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư
bản không hướng sự phát triển kinh tế vào việc cải thiện đời sống của nhân dân lao động. Mục tiêu của
nó là mang lại lợi ích tối đa cho các nhà tư bản, các công ty và tập đoàn tư bản. Khi một nền kinh tế chỉ
phục vụ cho thiểu số và đối lập với quyền lợi của đa số thì nền kinh tế đó không thể mang lại hiệu quả
xã hội tốt. Việc xa rời mục tiêu văn hóa sẽ biến sự tăng trưởng kinh tế thành môi trường thuận lợi cho
lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa thực dụng. Nền kinh tế lấy văn hóa và con người làm động lực và mục
tiêu đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm đến hiệu quả xã hội của hoạt động kinh tế, coi phát triển kinh
tế là điều kiện để phát triển và hoàn thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội.

Hồ Chí Minh quan niệm văn hóa là mục tiêu của sự phát triển vì ông cho rằng văn hóa là những sáng tạo
và phát minh của con người, nguồn gốc của văn hóa là lẽ sinh tồn của con người, và văn hóa là mục đích
và động lực của cuộc sống, nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn¹. Ông
cũng nêu rõ rằng văn hoá phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do, và phải làm thế nào
cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng¹. Văn hóa thực sự
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Hồ Chí Minh quan niệm văn hóa là mục tiêu của sự phát triển vì ông nhận thức rằng văn hóa đóng vai
trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển một quốc gia. Ông tin rằng văn hóa không chỉ là những
giá trị tinh thần, mà còn là cơ sở để xây dựng nền kinh tế, chính trị và xã hội vững mạnh. Theo Hồ Chí
Minh, văn hóa không chỉ bao gồm các hoạt động nghệ thuật, văn học, âm nhạc, mà còn bao gồm cả
những giá trị đạo đức, tư tưởng, truyền thống và lối sống của một dân tộc. Ông cho rằng văn hóa là một
yếu tố quyết định trong việc xác định tương lai của một quốc gia và nhân dân. Hồ Chí Minh cũng nhận
thức rằng văn hóa không chỉ là mục tiêu cuối cùng mà còn là phương tiện để thúc đẩy sự phát triển kinh
tế và xã hội. Ông tin rằng văn hóa có thể tạo động lực cho sự tiến bộ và sáng tạo, khuyến khích nhân dân
tham gia vào quá trình phát triển quốc gia. Do đó, Hồ Chí Minh quan niệm văn hóa là mục tiêu của sự
phát triển và coi việc phát triển văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của một quốc gia.

4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong việc giảng dạy môn học tương lai?
1. Xây dựng môi trường học tập và rèn luyện văn hóa: Giáo viên có thể tạo ra môi trường học tập tích
cực, tôn trọng và đề cao giá trị văn hóa. Họ có thể khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động
nghệ thuật, văn hóa như hát, múa, diễn xuất, trình diễn âm nhạc, và đồng thời rèn luyện kỹ năng giao
tiếp, tư duy sáng tạo và tự tin.
2. Đưa tư tưởng và giá trị văn hóa của Hồ Chí Minh vào chương trình giảng dạy: Giáo viên có thể giới
thiệu về tư tưởng, triết lý và những giá trị đạo đức mà Hồ Chí Minh đã truyền đạt. Họ có thể sử dụng
các tài liệu, bài hát, bài thơ, câu chuyện về Hồ Chí Minh để giúp học sinh hiểu và học tập từ những tấm
gương tốt.
3. Khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động xã hội: Giáo viên có thể tạo điều kiện cho học
sinh tham gia vào các hoạt động xã hội như tình nguyện, giúp đỡ cộng đồng, tham gia các câu lạc bộ và
tổ chức học sinh. Điều này giúp học sinh hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của văn hóa trong xã hội và
phát triển kỹ năng xã hội, tư duy nhân văn và lòng yêu nước.
4. Tạo ra các bài học thực tế: Giáo viên có thể thiết kế các bài học thực tế và áp dụng tư tưởng văn hóa
của Hồ Chí Minh vào các tình huống thực tế. Ví dụ, học sinh có thể được yêu cầu làm việc nhóm để giải
quyết một vấn đề xã hội hoặc thảo luận về các giá trị văn hóa trong cuộc sống hàng ngày.
5. Tạo ra các hoạt động ngoại khóa: Giáo viên có thể tổ chức các hoạt động ngoại khóa như tham quan,
trại hè, hội thảo về văn hóa để giúp học sinh trải nghiệm và hiểu rõ hơn về văn hóa và giá trị của nó. Hđ
nk cho học sinh đi Bảo tàng xong viết cảm nhận. Cho học sinh tham gia xem phim, đóng kịch, ca múa.
Đưa những tình huống, bài học thực tế cho học sinh.
Qua việc vận dụng tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh trong giảng dạy kĩ năng sống, giáo viên có thể
giúp học sinh phát triển một tư duy nhân văn, tự tin, có ý thức xã hội và có khả năng thích ứng với môi
trường xã hội đa dạng.
5. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa:
2. Thực trạng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước - từ góc
nhìn đào tạo thế hệ trẻ
Như đã phân tích ở trên, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải dựa trên nền tảng là đào tạo ra
một lớp thế hệ trẻ kế cận được trang bị một cách toàn diện. Đây cũng mục tiêu giáo dục con người
không chỉ ở Việt Nam mà còn là ở tất cả các nước trên toàn thế giới. Việc phát triển con người một cách
toàn diện thực chất là xây dựng con người mới có đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội. Tư tưởng coi
trọng nhân tố con người này của Đảng ta đã được cụ thể hóa trong các văn kiện, có thể ví dụ như:
- Nghị quyết 33 (Số 33-NQ/TW) về Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người đã xác định
rõ mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
- Vấn đề “phát triển con người toàn diện” trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta xác định là
một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020,đó là xây dựng “con người
Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa”.
- Trong văn kiện của Đại hội XIII của Đảng, khi đề cập đến quan điểm về văn hóa, Đảng ta luôn nhấn
mạnh việc phát huy vai trò con người, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam.
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư cũng đã khẳng định: con người là một khối tổng hòa của các yếu
tố tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ và con người mới xã hội chủ nghĩa phải được trang bị
đầy đủ các yếu tố đó. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó thì vấn đề phát triển toàn diện sẽ không còn được
đảm bảo. Những yếu tố trên sẽ được phân tích dưới đây:
Một là, yếu tố tri thức đóng vai trò quan trọng bởi tri thức là sức mạnh. Việc tiếp thu, lĩnh hội các văn
minh, tiến bộ của nhân loại là điều cần thiết bởi đó là hành trang cho con người mới xã hội chủ nghĩa có
tri thức, khoa học, công nghệ tự tin sánh đưa đất nước ngang các nước phát triển. Nói cách khác, tri thức
là chìa khóa giúp con người bước ra thế giới bên ngoài. Như nhà vật lý thiên tài Albert Einstein đã
nói:“Khi chúng ta hiểu biết càng nhiều thì cái tôi cá nhân càng bé lại”, khi đó mong muốn tiếp thu tri
thức của con người mới xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng mạnh và những tri thức đó sẽ được vận dụng để
đóng góp không chỉ để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà còn cho cả cộng đồng nhân
loại thế giới. Hơn nữa, trí lực có tốt thì con người mới đủ tỉnh táo để chống lại mọi thông tin giả, không
đúng sự thật và phản bác lại được những luận điệu sai trái, thù địch.
Hai là, Bác Hồ đã nói:“Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Bác căn dặn muốn trở thành người
giúp ích cho xã hôi, đất nước thì phải có đạo đức tốt. Trong cuộc sống, chúng ta đã thấy có những cá
nhân biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa; có hành vi
vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho cộng đồng, xã hội, bức xúc trong dư luận, làm giảm lòng tin của
nhân dân vào quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.Vì vậy,
người có tài mà không có đức, không đặt lợi ích quốc gia dân tộc trên lợi ích cá nhân sẽ là nguy cơ gây
ra những hậu quả khôn lường, nghiêm trọng; không chỉ cho bản thân mà còn cho cả cộng đồng.
Ba là, thể lực tốt và lối sống lành mạnh sẽ giúp cho con người mới xã hội chủ nghĩa có đủ tỉnh táo để
chống lại mọi cám dỗ của cuộc sống, tránh xa các tệ nạn xã hội. Rèn luyện thể lực là không ngừng chú
trọng tập luyện, nâng cao thể chất, vóc dáng, sức mạnh của con người. Mọi người lao động dù ở bất kỳ
ngành nghề nào đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào
hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất. Hơn nữa, cần phải có sự dẻo dai của hoạt
động thần kinh, niềm tin và ý chí, khả năng vận động của trí lực trong những điều kiện khác nhau và
trong những thử thách hết sức khó khăn và khắc nghiệt. Vậy, muốn có thể lực tốt thì ngoài việc rèn
luyện thể thao thường xuyên, cũng cần có một chế độ sống, lối sống hợp lý, tránh xa các chất kích thích
gây tổn hại cho cơ thể và hệ thần kinh.
Bốn là, tính thẩm mỹ cao mang lại cái đẹp cho con người, mang lại nhiều vẻ đẹp cho xã hội. Tính thẩm
mỹ ở đây không đơn thuần là vẻ đẹp bên ngoai mà còn là tính nhân văn, nhân đạo của con người. Vẻ
đẹp trong cuộc sống luôn có muôn sắc thái khác nhau và được thể hiện ra trong từng hành động, từng lời
nói, từng cử chỉ của con người trong các mối quan hệ, giao tiếp xã hội. Như lúc sinh thời, Bác Hồ cũng
đã dặn dò:“Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Để xã
hội tốt hơn, chất lượng cuộc sống cao hơn thì thẩm mỹ của con người cũng cần chú trọng.
Xét tới hiện nay thì công cuộc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa ở đất nước ta
đã có thành quả đáng khích lệ. Tuy chưa có điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn phí cho tất cả các cấp
học nhưng Việt Nam tập trung hoàn thành xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục và có tới 95% người lớn
biết đọc, biết viết(7). Số sinh viên học cao đẳng, đại học và sau đại học tăng lên hằng năm với chất
lượng ngày càng được cải thiện. Cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo ngày càng được mở rộng, nâng
cấp và cải thiện. Các chương trình hợp tác quốc tế mở ra tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên dễ dàng
tiếp cận được với tri thức nước ngoài. Đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản ở trong và ngoài nước,
nắm chắc chuyên môn, có những phương pháp đào tạo khoa học đã cải thiện đáng kể chất lượng sinh
viên Việt Nam, rất nhiều sinh viên Việt Nam đi du học và tỏa sáng rực rỡ trên đất bạn. Về mặt thể chất
thì sức vóc người Việt có sự cải thiện đáng kể. Chúng ta dần có nhiều những thành tích cao trên đầu
trường thể thao quốc tế. Điều đó cho thấy rằng công cuộc giáo dục con người đã được Đảng và nhà
nước ta rất quan tâm và chú trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng còn có nhiều điểm cần cải
thiện, đặc biệt vấn đề phân hóa, chênh lệch trình độ giữa các vùng miền trên Tổ quốc bởi với hơn 60%
dân số sống nước ta ở nông thôn(8). Tóm lại, nhìn chung tất cả những gì chúng ta đã, đang có là cơ sở
tiền đề tốt, vững chắc để có thể đáp ứng được công cuộc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo thế hệ trẻ góp phần hình thành con người mới xã hội
chủ nghĩa
Trong cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư hiện nay, Việt Nam không thể là một đất nước đứng ngoài
cuộc. Việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cao hiện nay vào cuộc sống đã giải phóng sức lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm thời gian cũng như tiền bạc. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ
đã len lỏi vào mọi góc cạnh của cuộc sống khiến chất lượng cuộc sống được cải thiện đáng kể. Người
dân được tiếp cận nhanh, dễ dàng với những gì mình muốn, vì vậy chúng ta cần tiếp tục phát huy những
gì đang có và đổi mới, sáng tạo vì cuộc sống chất lượng hơn.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu mang tính ứng dụng nên được đầu tư mạnh mẽ. Mô hình nghiên cứu 5
nhà bao gồm : nhà trường - nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà kinh doanh - nhà nước sẽ góp phần đẩy
mạnh sự phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở đất nước ta. Mô hình liên kết này đã được
trình bày và giới thiệu ở Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu lần thứ 3 năm 2020 do Trung ương
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức.
Bài toán nguồn lực cũng là bài toán hóc búa bởi lực lượng trí thức trẻ - những con người mới xã hội chủ
nghĩa sẽ là nhân tố quan trọng trong việc vận dụng và thực hiện các hoạt động đưa Việt Nam vững bước
trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn lực chất lượng và lâu dài là điều kiện cần thiết bởi nội
lực có mạnh thì đất nước mới phát triển mạnh. Các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Israel,… trở
nên giàu có nhờ họ đã xây dựng được lực lượng thế hệ trẻ chất lượng.
Ngoài nguồn nhân lực trong nước thì những người Việt Nam ở nước ngoài (lực lượng kiều bào) cũng là
nguồn lực không thể bỏ qua. Người Việt Nam sống ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, rất nhiều nhà
khoa học, học giả, nhà kinh doanh,… người Việt trên thế giới luôn sẵn sàng góp công sức, ý kiến của
mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Họ cũng truyền cho thế hệ người Việt sau khi sinh ra ở nước
ngoài tinh thần hướng về nguồn cội cha ông. Vì vậy, đất nước ta phát triển được sẽ có phần không nhỏ
từ khối đại đoàn kết dân tộc và lực lượng này cũng sẽ góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra ngoài
thế giới.
Cuối cùng là nên tạo cơ hội để các bạn trẻ có chuyên môn, có năng lực được cống hiến, dấn thân, đảm
nhận công việc và có môi trường để phát triển toàn diện. Việc này sẽ giải quyết đồng thời hai vấn đề: kế
thừa và phát huy. Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ kế thừa những thành quả, lĩnh hội những kinh nghiệm, bài học
quý báu do thế hệ trước truyền lại. Cùng với đó, những năng lực của bản thân, tri thức cũng như đạo đức
đã được trau dồi, những người trẻ sẽ phát huy được những tiềm năng của bản thân và sẵn sàng đảm
nhiệm vai trò làm chủ đất nước, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dân tộc Việt Nam quyết
tâm hiện thực hóa khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Dựa vào những phân tích trên, mục tiêu chúng ta phấn đấu là xây dựng được một thế hệ thanh niên Việt
Nam sống có tri thức, có đạo đức phẩm chất tốt đẹp, lối sống văn minh, lành mạnh, vóc dáng đẹp và có
nét đẹp về tâm hồn, sống nhân văn. Đó cũng là động lực để chúng ta hiện thực hóa mục tiêu này bởi vì
tương lai của đất nước chính là tương lai của mỗi con người chúng ta, và công việc này cần sự chung
tay, đoan kết của tất cả mọi người chứ không phải riêng mình ai. Vì vậy, có thể nói rằng việc xây dựng
một đội ngũ con người mới xã hội chủ nghĩa vừa hồng, vừa chuyên là mục tiêu, cũng là động lực trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam./.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng, không những thể hiện tư tưởng chỉ đạo về
mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của con
người mới xã hội chủ nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước ta luôn quán
triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo lời dạy của Bác năm xưa để xây dựng văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chi huy các cấp trong quân đội luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ,
hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có
thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy. Nói và
làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng
lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tích cực xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững
manh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc.
Chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân không ngừng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của
Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”.

You might also like