You are on page 1of 13

2.

Biểu hiện và cấu trúc của năng lực thích ứng nghề nghiệp
2.1. Năng lực thích ứng nghề nghiệp
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải phát triển chương trình giáo dục
(PTCTGD) như là một giải pháp trước những cơ hội và thách thức đối với công tác đào tạo
giáo viên ở các trường sư phạm. Phát triển CTGDPT là quá trình thường xuyên, liên tục,
bao gồm các yếu tố như phân tích nhu cầu, xác định mục đích, mục tiêu, thiết kế, điều
chỉnh, thực thi và đánh giá để tạo ra những chương trình mới (từ chương trình hiện hành)
mang tính cập nhật, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của một xã hội học tập (Nguyễn Vũ
Bích Hiền, 2015). Chính vì vậy, thích ứng với việc phát triển CTGDPT 2018 là một trong
những yêu cầu quan trọng, góp phần phát triển năng lực nghề nghiệp cho giáo viên, đáp
ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và xu thế phát triển của thế giới.
Khả năng thích ứng của giáo viên đã nổi lên trong những năm gần đây như một yếu
tố quan trọng đối với những giáo viên hiệu quả. Collie và Martin, (2016 a) coi khả năng
thích ứng là một định hướng quan trọng đối với giáo viên trong môi trường đầy năng động
của giáo dục nó đề cập đến khả năng của giáo viên trong việc thay đổi, điều chỉnh và sửa
đổi thực hành của họ để đáp ứng với sự thay đổi, tính mới và sự không chắc chắn. Mức độ
thích ứng của giáo viên được thể hiện ngay trong hoạt động sư phạm tại mỗi lớp học. Các
mức độ thích ứng của giáo viên thể hiện trong không gian của hoạt động giảng dạy (Tony
Loughland; Dennis Alonzo, 2018).
Các tài liệu đã thường xuyên thảo luận về năng lực thích ứng hoặc tính linh hoạt của
giáo viên như một yếu tố trung tâm trong việc dạy và học hiệu quả (ví dụ, Corno, 2008;
Kunter và cộng sự, 2013; Mansfield, Beltman, & McConney, 2012; Parsons, Williams,
Burrowbridge và Mauk, 2012; Bransford, Derry, Berliner, Hammerness, & Beckett, 2005).
Phần lớn công trình này đã xem xét năng lực thích ứng của giáo viên trong thực hành giảng
dạy (ví dụ: Corno, 2008, Parsons và cộng sự, 2012; Vaughn & Parsons, 2013). Ví dụ, Corno
(2008) nhấn mạnh tầm quan trọng của thực hành giảng dạy thích ứng để đáp ứng nhu cầu
của học sinh có trình độ phát triển đa dạng, khả năng nhận thức, nền tảng ngôn ngữ và văn
hóa, năng lực tình cảm-xã hội và nền tảng kinh tế xã hội. Tương tự, Parsons, Williams,
Burrowbridge và Mauk (2012) thảo luận về tầm quan trọng của sự đổi mới và “thích ứng
trong thời điểm hiện tại” trong lớp học để đáp ứng nhu cầu và sở thích của học sinh. Chính
xác hơn, Parsons và các đồng nghiệp (2012) đã quan sát việc giáo viên sử dụng các biện
pháp thích ứng trong việc giảng dạy của họ, chẳng hạn như mô hình hóa hoặc điều chỉnh
hướng dẫn hoặc làm việc tổ chức, hướng dẫn trực tiếp học sinh.
Các nhà nghiên cứu cũng đã xem xét vai trò của năng lực thích ứng một cách rộng
rãi hơn - nghĩa là, ngoài năng lực thích ứng trong giảng dạy và đối với hoạt động của giáo
viên tại nơi làm việc (ví dụ: Hargreaves, 2005; Mansfield và cộng sự, 2012). Ví dụ,
Mansfield, Beltman, Price, và McConney (2012) đã xem xét các mô tả của các giáo viên
mới vào nghề về ý nghĩa của việc trở thành một giáo viên hiệu quả, năng lực thích ứng bao
1
gồm các hành động như thích nghi với vai trò mới, chấp nhận thay đổi chủ động với các
tình huống mới.
Các tác giả Hesketh (2001), Shcheglova (2008) cho rằng: thích ứng nghề nghiệp là
quá trình thích nghi với những đặc điểm lao động và điều kiện của quá trình lao động; thích
ứng nghề nghiệp là quá trình nhận thức, thay đổi tình cảm và hành động với nghề nghiệp.
Thích ứng nghề nghiệp là khả năng cá nhân tích cực tìm hiểu, chủ động hòa nhập
với các nội dung của hoạt động nghề nghiệp, tự giác rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp, bồi
dưỡng lòng yêu nghề nhằm đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.
Tác giả McClure cho rằng, năng lực thích ứng nghề nghiệp (NLTƯNN) được hình
thành bởi 2 yếu tố chủ yếu đó là năng lực nhận diện, phân tích những thay đổi mà mình
phải đối mặt và năng lực hành động để tạo ra những thay đổi của chính mình nhằm đáp ứng
được các yêu cầu thay đổi của bối cảnh (Đặng Xuân Hải, 2017) Người lao động có năng
lực thích ứng nghề nghiệp thì có khả năng chuẩn bị công việc, nghề nghiệp trong tương lai
(quan tâm), chịu trách nhiệm về sự phát triển nghề nghiệp của họ (kiểm soát), khám phá
bản thân tương lai và cơ hội nghề nghiệp (tò mò) và tin tưởng vào khả năng thành công
trong giải quyết các vấn đề liên quan đến nghề nghiệp (tự tin) (Rudolph, C. W. - Lavigne,
K. N. - Zacher, H., 2017).
Khái niệm năng lực thích ứng nghề nghiệp được hiểu là khả năng cá nhân vận dụng
kiến thức, kĩ năng vào quá trình rèn luyện, thay đổi, cải tạo và sáng tạo môi trường nhằm
đáp ứng các yêu cầu của hoạt động học tập và rèn luyện nghề nghiệp trong các điều kiện
và hoàn cảnh khác nhau (Dương Thị Nga, 2005)
Từ nhận định trên, chúng tôi cho rằng, NLTƯNN của giáo viên là việc cá nhân tích
cực tìm hiểu về nghề, quan tâm đến nghề, có khả năng kiểm soát, tự tin trong nghề, chủ
động hòa nhập với các hoạt động nghề nghiệp và nội dung nghề nghiệp, tự giác rèn luyện
kĩ năng nghề nghiệp, bồi dưỡng lòng yêu nghề nhằm đáp ứng yêu cầu của nghề.
Nghiên cứu về năng lực thích ứng của giáo viên trong hoạt động chuyên môn, nhiều
tác giả cũng đã chỉ ra những mối tương quan giữa tuổi tác, giới tính, kinh nghiệm, tính
cách của cá nhân với mức độ năng lực thích ứng. Mansfield và cộng sự (2012) đã tìm thấy
liên quan với năng lực thích ứng chẳng hạn như tính linh hoạt, điều chỉnh và sẵn sàng chấp
nhận sự thay đổi trong các phản hồi. Năng lực thích ứng nghề nghiệp của giáo viên phụ
thuộc vào những nhân tố chủ quan như tính cách, niềm tin, giá trị,... và các yếu tố khách
quan như chính sách, môi trường và các hoạt động phát triển chuyên môn (N. P. Huyền, D.
T. H. Yến, 2022).
Một yếu tố khác mà các nghiên cứu cũng thường xuyên thảo luận như một yếu tố dự
báo mạnh mẽ về khả năng thích ứng với sự thay đổi là trí tuệ cảm xúc (EI) (A. D.
Fabio, L. Palazzeschi, 2008; M. M. Parmentier, T. Pirsoul, F. Nils, M. Sony, N. Mekoth , 2019).
Bên cạnh đó, mức độ thích ứng của giáo viên cũng phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố
bên ngoài như văn hoá nhà trường, sự ủng hộ của lãnh đạo, các chính sách đặc biệt hoạt
động bồi dưỡng, phát triển chuyên môn một cách phù hợp, trọng tâm và hiệu quả.
2.2. Biểu hiện năng lực thích ứng nghề nghiệp

2
2.2.1. Cập nhật kiến thức chuyên môn và kiến thức xã hội nhanh, chính xác
Những yêu cầu về năng lực thực hiện các hoạt động nghề nghiệp diễn ra trong nhà
trường trung học phổ thông là cơ sở để lựa chọn nội dung và phương thức chuyển tải nội
dung đào tạo. Những NLN yêu cầu ở đầu ra đối với giáo viên đòi hỏi những lĩnh vực nội
dung phong phú và đặc biệt nhấn mạnh đến những tri thức nghề.
Tri thức nghề là tổng hợp, hệ thống tri thức đang tồn tại trong nghề dạy học, giải
thích cho sự vận động và phát triển của thực tiễn nghề nghiệp. Tri thức nghề có thể phân
thành 3 loại:
(1) Những tri thức đã được hệ thống hoá thành lí luận sư phạm (những quan điểm,
lí thuyết, kiến thức và phương pháp sư phạm, … có liên quan đến nghề dạy học). Đây là
phần trí thức lí luận, hàn lâm;
(2) Những tri thức thực tiễn đang tồn tại trong các hoạt động nghề nghiệp diễn ra
hàng ngày (tri thức này tồn tại ở dạng hành động trong thực tiễn của cá nhân hoặc nhóm
và chưa được khái quát hoá để trở thành lí luận sư phạm). Đây là phần tri thức hành động
khách quan, tức là có thể quan sát được;
(3) Những tri thức kinh nghiệm của bản thân mỗi giáo viên (những tri thức mang
tính chủ quan của cá nhân mỗi giáo viên - là nền tảng cho hoạt động nghề nghiệp của cá
nhân. Đây là phần tri thức của cá nhân, chủ quan mang tính kinh nghiệm riêng.
Ba loại tri thức này có vai trò quan trọng không chỉ đối với mỗi cá nhân mà đối
với cả nghề dạy học. Mỗi loại tri thức có phạm vi ảnh hưởng khác nhau. Loại tri thức thứ
nhất có sự phổ biến rộng, vĩ mô ở phạm vi quốc gia, quốc tế. Loại tri thức thứ hai có mức
độ phổ biến trung gian, ở phạm vi vùng, địa phương. Loại tri thức thứ ba thuộc về cá
nhân. Nó có ý nghĩa đặc biệt trong quá trình phát triển của mỗi giáo viên nhưng còn chưa
được quan tâm. Mối quan hệ qua lại, tác động và chuyển hoá lẫn nhau giữa 3 thành phần
tri thức này làm nên sự phát triển nghề nghiệp, ở phạm vi cá nhân và cả ở phạm vi cộng
đồng nghề. Khi tri thức lí luận và tri thức hành động gắn kết với nhau sẽ đảm bảo cho sự
thống nhất của lí luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động. Khi tri thức lí luận và thực
tiễn chuyển hoá lẫn nhau sẽ làm cho lí luận thêm phong phú, được mở rộng, phát triển
và thực tiễn trở nên vững chắc.
Để đáp ứng với yêu cầu trong hoạt động nghề nghiệp, thực hiện những khám phá
mới, thông tin mới về thế giới, cập nhật các tri thức chuyên ngành, liên ngành ngày càng
trở nên quan trọng, giúp cải thiện chất lượng giáo dục và học tập được cung cấp trong
các lớp học, hỗ trợ và thúc đẩy việc chia sẻ kiến thức trong lớp học, đồng thời mang lại
cho GV sự tự tin cao hơn, từ đó giúp họ thực hiện tốt hơn. GV cập nhật và phát triển về
tri thức chuyên môn bao gồm:
- Kiến thức về chương trình giáo dục là một thành phần thiết yếu trong cơ sở kiến
thức của GV. Hiểu biết về chương trình không chỉ là cần thiết mà đó còn là một yêu cầu
bắt buộc đối với mỗi GV trong công việc.
-Các số liệu mới: Đối với nhiều môn học, đặc biệt là đối với GV giảng dạy các
môn học thuộc nhóm khoa học xã hội Các số liệu liên quan đến dân cư, hoạt động kinh

3
tế rất đa dạng và có sự thay đổi nhanh chóng, điều này đòi hỏi GV phải cập nhật liên tục
chúng để sử dụng trong giảng dạy.
-Các sự kiện, ngữ liệu mới: Việc cập nhật các sự kiện mới, ngữ liệu mới đối với
nhiều môn học là rất quan trọng, nó được xem là một phần nội dung dạy học và sẽ giúp
GV liên hệ các kiến thức gắn với thực tiễn một cách chân thực nhất.
-Các khái niệm, thuật ngữ mới: Sự phát triển của khoa học từ thập kỷ này sang thập
kỷ khác, từ thời đại này sang thời đại khác, mang đến những khái niệm, thuật ngữ mới
cho những lý thuyết và ý tưởng mới có thể bổ sung, hoặc phủ nhận và thay thế các khái
niệm cũ. GV phải luôn bắt nhịp với con đường thay đổi này để tiếp cận các khái niệm,
thuật ngữ mới, phù hợp với bối cảnh hiện tại, đồng thời có sự so sánh để hiểu bản chất
khái niệm và thuật ngữ đó.
-Các kết quả nghiên cứu mới: Tri thức trong sách gíao khoa có thể nhanh chóng bị
lạc hậu bởi những tri thức mới được nghiên cứu, phát hiện với tốt độ nhanh chóng như
hiện nay. Trong bối cảnh việc thay đổi chương trình và sách giáo khoa cần rất nhiều thời
gian và các thủ tục, thì việc chủ động cập nhật các kết quả nghiên cứu mới của GV là
việc làm cần thiết, mang lại hiệu quả tức thời. Từ đó, HS được tiếp cận với các tri thức
hiện đại, phù hợp với bối cảnh hiện tại. Điều này có tính khả thi cao khi đối với chương
trình mới, sách giáo khoa đóng vai trò như tài liệu tham khảo chính trong dạy học, các
nguồn tri thức từ các nguồn khác có thể được đưa vào daỵ học.
-Các kiến thức bất kì mà GV hạn chế: Đối với mỗi GV, các kiến thức mà họ tích
luỹ được trong quá trình học tập để đạt được bằng cấp cho công việc ở trường đại học
hoặc trong quá trình công tác có thể khác nhau, điều này phụ thuộc vào năng lực họ đạt
được. Vì thế, GV cần tự đánh giá về hiểu biết của mình đối với các chủ đề giảng dạy
trong chương trình để chủ động cập nhật các kiến thức giảng dạy, đảm bảo GV có hiểu
biết sâu sắc về chủ đề giảng dạy trước khi bắt đầu một bài dạy về nó. Ngoài việc nắm bắt
kiến thức chủ đề, những kiến thức liên quan đến chủ đề đó cũng cần thiết trong nhiều
trường hợp để GV có thể mở rộng, giải thích cho HS trong những trường hợp cần thiết.
-Các nội dung mới được đưa vào chương trình: Quá trình phát triển chương trình
có thể dẫn đến nhiều sự thay đổi, trong đó có những nội dung, chủ đề kiến thức mới trước
đây không có nhưng chương trình mới có. Với những chủ đề quen thuộc, GV có thể có
những kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc, nhưng với những chủ đề mới, GV có thể cần
thời gian để làm quen, tìm hiểu thêm kiến thức để dạy tốt.
Đối với những tri thức này GV cũng có thể cập nhật, phát triển theo nhiều cách
khác nhau, từ hội thảo, hội nghị, các trang web, tạp chí chuyên ngành, thông tin trên
internet, đến các khoá học chính thức.
Bên cạnh kiến thức chuyên môn, giáo viên còn phát triển kiến thức xã hội, gồm
những tập tục của một quốc gia cụ thể, sự ra đời của các nền văn hóa, sự hình thành một
ngôn ngữ, những vấn đề có liên quan đến truyền thống của một dân tộc hay cũng có thể
là các kiến thức đời sống xã hội như làm thế nào để giữ gìn sức khỏe, hay chỉ đơn giản
là những mẹo nhỏ trong cuộc sống hằng ngày, những kiến thức kinh tế xã hội như sự phát

4
triển của Việt Nam qua các năm, hay các quốc gia phát triển mạnh mẽ về các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội những sự kiện đã và đang diễn ra hằng ngày.
Kiến thức xã hội còn được biết đến là những hiểu biết về xã hội thông qua quá
trình con người hành động, nhìn nhận và thực hành trong thực tiễn đời sống. Kiến thức
xã hội là một khái niệm rộng, có thể được hiểu cơ bản chính là cách con người nhìn nhận
thế giới xung quanh mình và thực hiện việc xử lí những tình huống trong cuộc sống của
chính mình một cách sáng tạo và thông minh nhất. Kiến thức xã hội còn được rất nhiều
người liên hệ đến các kĩ năng mềm, hay cũng chính là cách con người ứng xử, giao tiếp.
GV có kiến thức xã hội rộng rãi vì những lí do sau:

- Nhiều chủ đề trong các môn học, hoạt động giáo dục, đặc biệt là về khoa học
xã hội có thể là các vấn đề gây tranh cãi, nhiều quan điểm khác nhau. Các vấn đề được
viết từ các điểm nhìn của nhà nghiên cứu khác nhau có thể mô tả cùng một sự kiện
theo các cách khác nhau. Vì thế cần có hiểu biết rộng rãi để giải thích, phân tích cho
HS.

- Việc kết nối giữa kiến thức lý thuyết và kiến thức thực tiễn, lý thuyết và thực
hành là yếu tố quan trọng trong phương pháp dạy học phát triển phẩm chất, năng lực
HS. Những GV có vốn hiểu biết xã hội rộng có thể dễ dàng kết nối những kiến thức
trong sách giáo khoa với thực tế. Điều này làm cho các bài học trên lớp trở nên thú vị,
dễ hiểu và có ý nghĩa hơn với HS.

- Kiến thức xã hội giúp ích cho GV rất nhiều trong quá trình giao tiếp, vốn là một
kĩ năng quan trọng của người GV trong giảng dạy. Kiến thức xã hội rộng lớn hỗ trợ
cho GV giao tiếp phù hợp với các đối tượng, xử lí các tình huống phát sinh một cách
hài hoà, đặc biệt là trong các môi trường lớp học đa dạng, có sự phân hoá. Kiến thức
xã hội cũng giúp GV trong các vấn đề chuyên môn với GV khác, như tranh luận các
vấn đề chuyên môn, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình công tác.

Kiến thức xã hội vô cùng rộng lớn, nó bao gồm những kiến thức trải dài nhiều
phương diện liên quan đến đời sống xung quanh, mặt khác nó không những chỉ hữu
ích trong giảng dạy mà còn cả trong đời sống của mỗi người, vì thế mà GV có thể tuỳ
vào hiểu biết hiện tại, tuỳ vào sở thích, hứng thú, mối quan tâm có thể tìm hiểu những
chủ đề kiến thức nhất định có ích cho bản thân và công việc. Các kiến thức này có thể
là:
- Kiến thức thời sự về các sự kiện diễn ra ở địa phương, trong nước và quốc tế;
- Hiểu biết về văn hoá xã hội, tập tục, ngôn ngữ, truyền thống của một dân tộc,
địa phương, quốc gia, vùng miền…

5
- Kiến thức đời sống xã hội như cách để giữ gìn sức khoẻ, phòng chống thiên
tai, những mẹo vặt đơn giản trong đời sống để xử lí các trường hợp, tình huống phát
sinh…
- Kiến thức về tình hình phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương, các quốc
gia, các khu vực trên thế giới.
Để có kiến thức xã hội rộng rãi, GV quan sát các vấn đề của cuộc sống hiện tại
và nhận thức về các vấn đề xã hội; tự học trong môi trường giáo dục tự do, thường
xuyên đọc báo, tạp chí và các tài liệu khác; đọc rộng sách về chủ đề giảng dạy; theo
dõi tình hình thời sự để nắm bắt các thông tin một cách cập nhật và một số kênh khác.
Tóm lại, việc cập nhật tri thức mới và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ để tạo
ra uy tín và thể hiện khả năng thích ứng của người giáo viên.
2.2.2. Điều chỉnh linh hoạt kế hoạch dạy học và giáo dục học sinh
Collie và Martin, (2016) cho rằng năng lực thích ứng có liên quan chặt chẽ đến giáo
viên vì bản thân công việc giảng dạy liên quan đến việc đáp ứng và quản lý sự thay đổi liên
tục. Năng lực thích ứng để quản lý hiệu quả những thay đổi này là rất quan trọng đối với
công việc của giáo viên trong lớp học, phòng giáo viên và hơn thế nữa. Các tác giả đã đề
ra một số thay đổi thường gặp trong hoạt động dạy học đòi hỏi sự thích ứng liên tục của
giáo viên:
- Giáo viên phải đáp ứng các nhu cầu khác nhau của học sinh bằng cách điều chỉnh
nhịp độ bài học, điều chỉnh các hoạt động đáp ứng sự đa dạng của học sinh; tìm kiếm các
nguồn tài liệu khác nhau để giải thích hoặc minh họa các nội dung môn học;
- Giáo viên phải thích ứng để đối phó với các tình huống bất ngờ trong quản lý lớp
học bằng cách điều chỉnh những cảm xúc có thể nảy sinh như thất vọng, tức giận, hoặc nghĩ
ra những cách thay thế để giải quyết vấn đề;
- Giáo viên cũng phải tương tác hiệu quả với đồng nghiệp trong các điều kiện thay
đổi, chẳng hạn như khi có sự thay đổi trong vai trò công việc, họ yêu cầu các nguồn lực để
dạy một phần mới của chương trình học hoặc họ yêu cầu trợ giúp để đối phó với một học
sinh mới hoặc đang gặp thử thách;
- Khi chuyển sang vai trò mới hoặc môi trường học mới, giáo viên cũng phải tương
tác hiệu quả với đồng nghiệp mới, điều chỉnh các ưu tiên khác nhau của hiệu trưởng hoặc
đồng nghiệp mới, hoặc điều chỉnh phong cách để phù hợp môi trường học tập mới;
- Giáo viên thường xuyên tham gia vào việc học tập chuyên môn và được mong đợi
sẽ liên tục tích hợp kiến thức mới vào thực tiễn giảng dạy của họ.
- Thích ứng với các yêu cầu mới của chương trình học hoặc chính sách.
2.2.3. Thực hiện được những nhiệm vụ thay đổi trong hoạt động nghề nghiệp
Giáo viên cần linh hoạt và có khả năng thích ứng với bất cứ điều gì. Công
nghệ mới phát triển đã thay đổi cách học sinh học tập và công việc giảng dạy
của giáo viên mỗi ngày. Phụ huynh, những nhà quản lý cũng đang thay đổi và
đưa ra những tiêu chuẩn, kỳ vọng mới. Khả năng thích ứn g là điều mà giáo viên

6
nào cũng cần có. Đó là khả năng thay đổi theo cách học sinh học tập, những
hành vi của chúng trong lớp học, hay cách soạn giáo án theo phương pháp mới…
Trong bối cảnh đổi mới Chương trình GDPT hiện nay thì vai trò của người giáo viên
cũng có những thay đổi theo hướng đảm nhận nhiều chức năng hơn, trách nhiệm lựa chọn
nội dung giáo dục nặng nề hơn. Theo đó, giáo viên phải chuyển từ cách truyền thụ tri thức
sang cách tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh tri thức coi trọng dạy học phân hóa cá nhân, yêu
cầu hợp tác làm việc với đồng nghiệp chặt chẽ hơn, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao
tiếp, ứng xử trong các quan hệ xã hội, với cha mẹ học sinh, học sinh và các tổ chức xã hội
khác. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, người giáo viên cần thực hiện được những
nhiệm vụ, vai trò chủ yếu sau:
- Giáo viên là nhà giáo dục, “tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục”, “dạy học”,
“giáo dục”/ hoặc “bộ môn”, “chương trình”/ “đánh giá và báo cáo kết quả đánh giá HS”,
“thúc đẩy học tập của HS”). Điều này khẳng định vai trò của nhà giáo dục chuyên nghiệp,
thực hiện sứ mệnh cải tạo xã hội và phát triển toàn diện học sinh bằng năng lực tư duy và
năng lực hành động trên những luận cứ khoa học và nhân văn. Ở đây, nhấn mạnh đến hoạt
động chuyên biệt trong nghề nghiệp của giáo viên. Giáo viên trước hết phải là nhà giáo dục
với hai nhiệm vụ cốt lõi, giáo dục và giáo dưỡng. Giáo viên có trách nhiệm trang bị cho
học sinh kiến thức, cách học để học sinh không ngừng phát triển nhận thức, trí tuệ, có thế
giới quan khoa học. Đồng thời, tạo ra những cơ hội hoạt động và giao lưu trong đời sống
lớp học, nhà trường và trong cộng đồng để xây dựng sức khỏe thể chất và tinh thần, những
xúc cảm và kỹ năng cần thiết, cơ bản cho nhân sinh quan và thế giới quan.
- Thứ hai, giáo viên là người học suốt đời để phát triển năng lực nghề nghiệp (“phát
triển nghề nghiệp”; “năng lực học suốt đời”; Tham gia vào quá trình học nghề”); Mục đích
là để nâng cao hiểu biết về xã hội và khoa học trong các lĩnh vực công tác của mình, vừa
phát triển năng lực cá nhân và năng lực nghề nghiệp của bản thân để ngày càng nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục học sinh. Mặt khác, sự phát triển thành thạo nghề sẽ mang
lại cho chính giáo viên sự hài lòng, thỏa mãn, tự tin và được sự tín nhiệm. Năng lực tự học
của giáo viên như một chuyên gia trong lĩnh vực học để tự bồi dưỡng và hướng dẫn học
sinh, người khác học tập.
- Thứ ba, giáo viên phải là người nghiên cứu (“phát triển nghề nghiệp”; “năng lực
nghiên cứu”; “cải tiến chương trình và nhà trường”; Giáo viên chính là người nghiên cứu
và giải quyết những vấn đề của thực tiễn giáo dục. Giáo viên là người lao động sáng tạo,
xây dựng những kiến thức mới về nghề trên cơ sở quan sát, phân tích, suy ngẫm và tổng
kết những kinh nghiệm từ thực tiễn giáo dục và hoạt động nghề nghiệp của bản thân và tập
thể sư phạm của nhà trường.
- Thứ tư, giáo viên là nhà văn hóa – xã hội. Là nhà văn hóa – xã hội, người tham gia
vào các cộng đồng nhà trường, xã hội (“Năng lực hoạt động chính trị, xã hội”/ “năng lực
văn hóa - xã hội”/ “Xây dựng sự cộng tác trong cộng đồng nhà trường” với HS, GV, cha
mẹ HS và cồng đồng địa phương). Giáo viên có trách nhiệm xây dựng môi trường văn hóa
và gương mẫu trong tác phong, lối sống lành mạnh, giản dị và thiện chí trong cộng đồng

7
nơi cư trú và cộng đồng địa phương. Nói cách khác, giáo viên sẽ tự giác tham gia vào các
phong trào xây dựng văn hóa của địa phương và động viên gia đình, xóm phố tham gia.
- Giáo viên là nhà quản lí, đó là khả năng quản lí quá trình đào tạo của bản thân người
giáo viên (thực chất là năng lực tự quản lí đào tạo). Nếu thiếu năng lực này, người giáo viên
sẽ khó thực hiện được đầy đủ và hiệu quả các nhiệm vụ được giao. Đồng thời, năng lực
quản lí đào tạo thể hiện khả năng tổ chức khoa học, hợp lí lao động sư phạm của giảng viên
sẽ được lan tỏa đến học sinh, hình thành một phong cách tương tự, rất cần thiết trong xã
hội hiện đại.
Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT (có hiệu lực từ ngày 20/3/2021) quy định nhiệm
vụ của giáo viên THPT các hạng III, II, I như sau:
❖ Nhiệm vụ của Giáo viên trung học phổ thông hạng III - Mã số V.07.05.15
- Xây dựng kế hoạch giáo dục của môn học được phân công và tham gia xây dựng kế
hoạch giáo dục của tổ chuyên môn theo mục tiêu, chương trình giáo dục cấp trung học
phổ thông;
- Thực hiện nhiệm vụ tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục theo kế hoạch giáo dục
của nhà trường và kế hoạch giáo dục của tổ chuyên môn; quản lý học sinh trong các hoạt
động giáo dục do nhà trường tổ chức;
- Thực hiện các hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh theo
quy định;
- Tổ chức các hoạt động tư vấn tâm lý, hướng nghiệp, khởi nghiệp cho học sinh và cha
mẹ học sinh của lớp được phân công;
- Tham gia phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu, học sinh giỏi, phụ đạo học sinh
yếu kém cấp trung học phổ thông hoặc hướng dẫn thực tập sư phạm, hoạt động công tác
xã hội trường học cho học sinh trung học phổ thông;
- Tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; tham gia nghiên cứu khoa học; hoàn thành
hệ thống hồ sơ quản lý hoạt động giáo dục theo quy định; thực hiện công tác giáo dục
hòa nhập trong phạm vi được phân công; tham gia tổ chức các hội thi (của giáo viên hoặc
học sinh) từ cấp trường trở lên;
- Hoàn thành các khóa đào tạo, chương trình bồi dưỡng theo quy định; tự học, tự bồi
dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do hiệu trưởng phân công.
❖ Nhiệm vụ của Giáo viên trung học phổ thông hạng II - Mã số V.07.05.14
Ngoài những nhiệm vụ của giáo viên trung học phổ thông hạng III, giáo viên trung học
phổ thông hạng II còn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên từ cấp trường trở
lên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới; chủ trì các nội dung
bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện
tử;
- Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ
cấp trường trở lên;

8
- Tham gia đánh giá ngoài hoặc công tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên
từ cấp trường trở lên;
- Tham gia ban giám khảo hội thi giáo viên dạy giỏi hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi
cấp trường trở lên;
- Tham gia ra đề hoặc chấm thi học sinh giỏi trung học phổ thông từ cấp trường trở lên;
- Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các hội thi hoặc các sản phẩm nghiên cứu khoa học
kỹ thuật của học sinh trung học phổ thông từ cấp trường trở lên;
- Tham gia các hoạt động xã hội, phục vụ cộng đồng; thu hút sự tham gia của các tổ chức,
cá nhân trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục học sinh.
❖ Nhiệm vụ của Giáo viên trung học phổ thông hạng I - Mã số V.07.05.13
Ngoài những nhiệm vụ của giáo viên trung học phổ thông hạng II, giáo viên trung học
phổ thông hạng I phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tham gia biên soạn hoặc thẩm định hoặc lựa chọn sách giáo khoa, tài liệu giáo dục địa
phương hoặc các tài liệu dạy học khác và tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên;
- Làm báo cáo viên, chia sẻ kinh nghiệm hoặc dạy minh họa ở các lớp tập huấn, bồi
dưỡng phát triển chuyên môn, nghiệp vụ giáo viên từ cấp tỉnh trở lên hoặc tham gia dạy
học trên truyền hình;
- Chủ trì các nội dung bồi dưỡng, hướng dẫn đồng nghiệp triển khai chủ trương, nội dung
đổi mới của ngành hoặc sinh hoạt chuyên đề từ cấp tỉnh trở lên;
- Tham gia đánh giá ngoài hoặc công tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên
từ cấp tỉnh trở lên;
- Tham gia ban tổ chức hoặc ban giám khảo hoặc ban ra đề trong các hội thi của giáo
viên từ cấp tỉnh trở lên;
- Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các hội thi hoặc các sản phẩm nghiên cứu khoa học
kỹ thuật của học sinh trung học phổ thông từ cấp tỉnh trở lên;
- Tham gia ra đề và chấm thi học sinh giỏi trung học phổ thông từ cấp tỉnh trở lên.
2.2.4. Lập kế hoạch phát triển bản thân phù hợp với yêu cầu của sự thay đổi trong
hoạt động nghề nghiệp
Giáo viên thể hiện được sự cam kết của bản thân đối với việc tự nâng cao năng lực
bản thân và chuyên môn của mình thông qua việc phát triển chuyên môn một cách liên tục.
Bản thân mỗi giáo viên trước hết phải nhận thức được vị trí, vai trò, trách nhiệm về tự học,
tự bồi dưỡng. Chỉ khi nhận thức đúng thì bản thân mới chuyển hóa được nhu cầu, đòi hỏi
của xã hội thành động cơ mục đích của cá nhân, từ đó mới chủ động, tích cực, tự giác phấn
đấu tự học, tự bồi dưỡng.
Giáo viên xây dựng kế hoạch phát triển bản thân phù hợp với yêu cầu của sự thay
đổi trong hoạt động nghề nghiệp dựa trên kế hoạch của trường.Trong kế hoạch xác định rõ
mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, thời gian tự học, tự bồi dưỡng. Khi xây dựng
kế hoạch giáo viên phải thể hiện rõ những nét phẩm chất, nhân cách, đạo đức nghề nghiệp
cần hoàn thiện. Những kiến thức, kĩ năng sư phạm, phương pháp dạy học, …cần bổ sung.
Từ đó giáo viên lựa chọn, thống kê các phần công việc cần làm, những yêu cầu cụ thể cần

9
đạt được, mốc thời gian và mức độ hoàn thành phù hợp với điều kiện và năng lực bản thân.
Sau khi lập được kế hoạch, giáo viên quyết tâm, có ý thức trách nhiệm, có tinh thần chủ
động, kiên trì vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành mục tiêu đặt ra.
Kế hoạch phát triển bản thân GV là sự chi tiết hoá các nhiệm vụ, trong đó các nội
dung phát triển phẩm chất và năng lực được thể hiện cụ thể theo từng thời điểm, đặc biệt
là việc lựa chọn các hoat động, cách thức, hình thức thực hiện (tham gia khoá học, học
bằng cấp cao hơn, sinh hoạt chuyên môn, hỗ trợ đồng nghiệp, nghiên cứu khoa học…).
Một trong những yếu tố tạo nên thành công của bản kế hoạch phát triển bản thân GV
chính là sự phối hợp với các thoạt động diễn ra trong và ngoài trường để thực hiện các
nhiệm vụ. Tùy theo mục tiêu, các nội dung và đối tượng thực hiện cụ thể mà kế hoach
này cũng có những thay đổi linh hoạt, phù hợp. Giáo viên phân tích yêu cầu nghề nghiệp
và tự đánh giá bản thân, xác định mục tiêu phẩm chất và năng lực nghề nghiệp, thu thập
thông tin, quyết định các hoạt động đưa vào kế hoạch, xây dựng bảng kế hoạch chi tiết,
thực hiện kế hoạch, đánh giá thường xuyên và lập danh mục các mục tiêu hoàn thiện.
Kế hoạch phát triển bản thân giáo viên gắn với thực tiễn và yêu cầu công việc.
Mỗi cá nhân giảng dạy và công tác trong một môi trường cụ thể, khác nhau. Các yếu tố
liên quan đến cá nhân mỗi GV cũng không giống nhau trên nhiều khía cạnh, chẳng hạn
như mục tiêu. Quan trọng nhất là dựa trên thực tiễn công việc, những yêu cầu đặt ra để
có các mục tiêu phù hợp. GV cần quan tâm đến xu hướng phát triển của giáo dục, các
mục tiêu, định hướng của nhà trường, bên cạnh đó cần cân nhắc đến đặc điểm, hoàn cảnh
các nhân để xác định mục tiêu đúng, góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của cơ
quan, cá nhân. Phát triển năng lực nghề nghiệp là một nhiệm vụ gần như có tính bắt buộc
đối với mỗi GV trong quá trình công tác và tất cả những điều đó cần hướng tới sự thành
thạo và chuyên nghiệp gắn với các công việc và nhiệm vụ mà họ đảm nhận. Đối với GV,
công việc chủ yếu là giảng dạy và giáo dục HS, ngoài ra, GV có thể tham gia công tác
chủ nhiệm lớp, tham gia công tác quản lí và một số công việc khác được phân công. Vì
thế, tuỳ thuộc vào mỗi công việc, GV có thể được yêu cầu phải phát triển chuyên môn
đáp ứng vị trí công việc, đây là những nhiệm vụ theo định hướng, kế hoạch của nhà
trường. Bên cạnh đó, GV cần có định hướng, kế hoạch phù hợp để phát triển chuyên môn
của bản thân theo đặc điểm tình hình cá nhân. Điều này dựa trên các phân tích thực tế và
định hướng của bản thân mỗi GV.
Kế hoạch có tính khả thi, GV xem xét các yếu tố ảnh hưởng, phân tích điểm mạnh,
hạn chế và các yếu tố khác của cá nhân có ảnh hưởng đến mức độ và tiến độ thực hiện
công việc để đảm bảo các kế hoạch có khả năng thực hiện được. Bên cạnh chú ý đến các
mốc thời gian của nhà trường, của tổ chuyên môn nếu đó là nhữn nhiệm vụ phát triển
chuyên môn có tính bắt buộc. GV sắp xếp và phân bổ các công việc phù hợp trong cả
năm học theo các lộ trình ngắn hạn, trung hạn và dài hạn để đảm bảo rằng các mục tiêu
là có thể đạt được. Xác định được một số rào cản để đảm bảo tính khả thi của kế hoạch
đề ra: Vấn đề tài chính (với các khoá học hoặc kênh phát triển phải hi trả kinh phí), sức
khoẻ và các kế hoạch khác của cá nhân; Vấn đề thời gian do sự giao thoa của các công

10
việc và lịch trình dạy học dày đặc trên lớp của GV; Vấn đề di chuyển liên quan đến
khoảng cách lớp học đối với chỗ ở và cơ quan; Vấn đề năng lực công nghệ nếu tham gia
các khoá bồi dưỡng online, ví dụ nhiều khoá học xử lí số liệu yêu cầu GV có kiến thức
nền tảng về máy tính, phần mềm, trong khi điều này với nhiều GV là khó khăn; Mức độ
phức tạp, khó khăn của vấn đề muốn phát triển có thể vượt quá khả năng của GV; Sự
thay đổi vị trí công việc có thể có trong tương lai gần; Sự hỗ trợ của người quản lí và
đồng nghiệp; Trách nhiệm với gia đình…
Trong kế hoạch phát triển bản thân GV có thể có nhiều mục tiêu. Các mục tiêu
này được lên kế hoạch cụ thể để thực hiện thông qua xác định các yếu tố cụ thể như
thờigian, nguồn lực… Kế hoạch có thể điều chỉnh linh hoạt xuất phát từ yêu cầu của
tình hình thực tế khi thực hiện, GV cân nhắc nhiều yếu tố để có phương án phù hợp
nhất, đồng thời cũng cần xem xét các tình huống, vấn đề có thể xảy ra, có phương án
dự phòng và điều chỉnh.
Kế hoạch đảm bảo tính toàn diện, liên tục, mỗi giai đoạn GV có thể có nhu cầu
và ưu tiên một công việc cụ thể và theo đuổi nó, biến nó thành một quá trình liên tục
với nhiều nhiệm vụ nối tiếp và xem kẽ nhau. Điều này xuất phát từ việc các yêu cầu
thay đổi của hoạt động nghề nghiệp, đồng thời, những kết quả của việc phát triển nghề
nghiệp sẽ không dừng lại ở hiểu biết hay những cải thiện về kĩ năng của người GV,
chúng cần được hiện thực hoá và áp dụng vào thực tiễn công việc hằng ngày của mỗi
GV.
2.3. Cấu trúc của năng lực thích ứng nghề nghiệp
Năng lực thích ứng của giáo viên có liên quan tích cực và đáng kể đến nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung và tự hiệu quả bản thân của người giáo viên. Năng lực thích ứng
thể hiện qua hành vi tích cực, đổi mới được giáo viên sử dụng để cải thiện hoạt động giảng
dạy của chính họ. Năng lực thích ứng đề cập đến khả năng của giáo viên trong việc thay đổi,
điều chỉnh và sửa đổi thực hành của họ để đáp ứng với sự thay đổi, tính mới và sự không
chắc chắn. Theo mô hình thích ứng ba bên, năng lực thích ứng thể hiện qua hành vi thì nguồn
gốc hành vi luôn dựa trên những nhận thức (phụ thuộc vào trí tuệ, niềm tin, giá trị của cá
nhân); thái độ (cảm xúc của cá nhân trước các đối tượng thuộc về khách quan), (Martin và
cộng sự, 2012; Nguyễn Thị Mỹ Lộc và các tác giả, 2018; N. P. Huyền, D. T. H. Yến, 2022).
2.3.1. Về nhận thức
Năng lực thích ứng về nhận thức đề cập đến khả năng của một cá nhân trong việc
điều chỉnh suy nghĩ của họ để đối phó một cách tích cực với sự thay đổi, tính mới và sự
không chắc chắn.
Giáo viên nhân thức được những định hướng đổi mới của chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể. Sự thay đổi nhận thức của đội ngũ giáo viên để trước hết họ hiểu được chính
vai trò của mình (role perception) - đây là điều kiện căn bản nhất cho sự thành công của bất
kỳ hành vi đổi mới nào ở giáo viên.
- Có hiểu biết về vai trò của giáo viên trong thiết kế chương trình môn học với những
điểm mới trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 (tính mở của chương trình).

11
- Có hiểu biết về vai trò của giáo viên trong tổ chức thực hiện hoạt động dạy theo định
hướng phát triển năng lực người học. Giáo viên có vai trò tự chủ trong thực hiện chương
trình giáo dục.
- Nhận thức được ý nghĩa chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với phát triển
năng lực, phẩm chất người học.
2.3.2. Về kỹ năng
Năng lực thích ứng hành vi đề cập đến khả năng của một cá nhân để giải quyết vấn
đề và hành động để đáp ứng tình huống mới, những đòi hỏi mới.
Thurlings, Evers và Vermeulen (2015) giải thích rằng đây là “một quá trình trong
đó các ý tưởng mới được giáo viên sáng tạo ra, phát triển, áp dụng, thúc đẩy, hiện thực hóa
và sửa đổi để mang lại lợi ích cho việc thực hiện vai trò”.
Như định nghĩa này cho thấy, hành vi đổi mới được giáo viên sử dụng để cải thiện
hoạt động giảng dạy của họ. Lưu ý, có một số điểm trùng lặp giữa hành vi đổi mới và khả
năng thích ứng ở chỗ cả hai đều liên quan đến việc điều chỉnh hoặc sửa đổi suy nghĩ, hành
vi hoặc hành động. Tuy nhiên, sự khác biệt chính trong các khái niệm là khả năng thích
ứng xảy ra để đáp ứng với một tình huống mới, đang thay đổi hoặc không chắc chắn, trong
khi hành vi đổi mới liên quan đến một quá trình được lập kế hoạch với mục đích trung tâm
là cải thiện hiệu suất. Mặc dù vậy, tài liệu về hành vi đổi mới của giáo viên có thể giúp
cung cấp thông tin về khả năng thích ứng. Thurlings và cộng sự (2015) gợi ý rằng hành vi
đổi mới của giáo viên là quan trọng khi có những thay đổi nhanh chóng về công nghệ, kiến
thức sư phạm và xã hội một cách rộng rãi hơn [13]. Họ cũng chỉ ra rằng hành vi đổi mới
của giáo viên là trọng tâm để thúc đẩy sự đổi mới giữa các trường học và học sinh, và để
đảm bảo xã hội duy trì tính cạnh tranh. Điều quan trọng là, những lý do này cũng có thể
được áp dụng cho khả năng thích ứng vì giáo viên thường xuyên phải đối mặt với các tình
huống mới do những thay đổi này.
- Phát triển chương trình môn học theo định hướng lấy người học làm trung tâm
- Lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp
- Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo định hướng phát triển năng lực
- Kiểm tra đánh giá
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức các hoạt động dạy học
- Hỗ trợ, tư vấn học sinh
Sự thích ứng về hành vi đòi hỏi giáo viên có được sự chuẩn bị về năng lực chuyên
môn, có đủ động lực, mong muốn thực hiện đổi mới chương trình giáo dục cùng sự nhận
thức đầy đủ về vai trò củ chính mình trong sự chuyển dịch từ người truyền thụ kiến thức
thông thường trở thành người huấn luyện, tổ chức thiết kế quá trình lĩnh hội kiến thức cho
học sinh.
Kỹ năng thiết kế chương trình môn học theo định hướng phát triển năng lực, thực hiện kiểm
tra, đánh giá và tổ chức các hình thức dạy học theo hướng tích hợp, liên môn
2.3.3. Về thái độ

12
Năng lực thích ứng liên quan đến việc thay đổi cảm xúc để đáp ứng với sự thay đổi của
môi trường, sự không chắc chắn và tính mới.
- Sẵn sàng với vai trò tự chủ trong thiết kế
- Sẵn sàng với vai trò tự chủ trong thực hiện chương trình
- Sự sẵn sàng hỗ trợ đồng nghiệp phát triển chuyên môn để thực hiện chương trình
giáo dục phổ thông 2018.
Những thay đổi về thái độ biểu hiện ở sự tham gia của giáo viên vào thực hiện đổi
mới, có thêm những trải nghiệm, thêm những niềm tin vào ý nghĩa và giá trị của đổi mới
chương trình đem lại cho người học.
Những giáo viên có năng lực thích ứng nghề nghiệp, nhận thức mỗi ngày là một cơ
hội học tập để học hỏi, học lại và khám phá những điều họ chưa biết, học hỏi từ các đồng
nghiệp và tìm ra cách để cải thiện phương pháp sư phạm và thực hành giảng dạy, thể hiện
sự nghiêm túc trong quá trình dạy-học, hỗ trợ học sinh, , phụ huynh và đồng nghiệp, tạo
nên văn hóa của trường học, hình thành nhân cách, là người xây dựng các trường học thành
một thế giới nhỏ với sự phát triển vượt bậc. Những giáo viên thích ứng những điều tích cực
và đóng góp cho sự phát triển của nhà trường sẽ luôn nhận được sự tôn trọng và đánh giá
cao lẫn nhau trong công việc của họ. Do đó, việc thích nghi với những điều mới, nền văn
hóa mới và hệ thống mới sẽ luôn khiến giáo viên trở nên khác biệt và mở rộng cánh cửa
thành công.

13

You might also like