You are on page 1of 7

Đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong

công tác giảng dạy ở trường chính trị


Theo quan điểm triết học Mác xít, thực tiễn là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích,
có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Lý luận dựa
trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn. Lý luận không có mục đích tự nó
mà mục đích cuối cùng là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với
thực tiễn, phục vụ cho yêu cầu của thực tiễn.

Các năm qua, toàn Ngành giáo dục Đất Sen hồng đã có nhiều cố gắng làm chuyển biến
tích cực chất lượng dạy học gắn liền thực tiễn và cụ thể hoá bằng nhiều cách làm hay,
mô hình tốt như: dạy học trải nghiệm tại các cơ quan hành chính, khu di tích, bảo tàng,
công ty, nhà máy sản xuất, khu chế biến; lao động chăm sóc khu vườn trường; dạy học
theo dự án, dạy học qua sản phẩm; … Tuy nhiên, xét về tổng thể trong quá trình giáo
dục thì dạy học gắn liền thực tiễn chưa được quan tâm thiết kế một cách bài bản và
thực hiện còn rời rạc ở các khâu trong quá trình giáo dục. Các chuyên gia về giáo dục
nhận định nội dung chương trình dạy học trong trường phổ thông còn nặng về lý thuyết,
kiến thức hàn lâm, thiếu gắn kết và cập nhật thực tế cuộc sống từ sách giáo khoa đến
các hoạt động giảng dạy trên lớp, cách kiểm tra đánh giá, tổ chức dạy nghề cho học
sinh. Giáo dục Đồng Tháp cũng không ngoại lệ và nằm trong thực trạng chung của hệ
thống đó.   
Vì vậy, trước hết chính chúng ta - đội ngũ nhà giáo cần thay đổi tư duy về tổ chức các
hoạt động giáo dục để gắn liền thực tiễn cuộc sống. 

Trong những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng tại các Trường Chính trị từng bước đổi mới
về nội dung, phương pháp; đội ngũ giảng viên được tăng cường cả về số lượng và chất lượng,
qua đó chất lượng đào tạo, bồi dưỡng có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng còn nhiều hạn chế do một số nguyên nhân như: nội dung chương
trình một số chuyên đề còn nặng về lý luận, công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn
phục vụ giảng dạy chưa đáp ứng được yêu cầu, bài giảng chủ yếu là lý thuyết, thiếu sinh động và
sức thuyết phục.

Thêm vào đó, do thực tiễn vận động không ngừng nên một số nội dung lý luận sẽ bộc lộ những
bất cập, tụt hậu nhất định. Vì vậy, giảng viên cần chú trọng đến việc cập nhật thông tin, khai thác
các nguồn tư liệu mới, các công trình nghiên cứu khoa học mới được công bố trên các tạp chí lý
luận hoặc các diễn đàn, hội thảo để bổ sung vào bài giảng.

Thứ hai, trong quá trình giảng dạy, từ những kiến thức lý luận, giảng viên cần hướng vào việc lý
giải và làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn đã và đang diễn ra. Người giảng viên cần có sự
tìm tòi, nghiên cứu, trau dồi trình độ lý luận, năng lực tư duy sắc bén để có thể phân tích, lý giải
một cách khoa học những vấn đề của thực tiễn, qua đó đem đến niềm tin cho người học, góp
phần tạo sự đồng thuận xã hội trước những vẫn đề thực tiễn đang diễn ra.         

Thứ ba, giảng viên thường xuyên quan tâm đến việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn;  cập nhật
tình hình thế giới, tình hình trong nước và các địa phương; chú trọng công tác nghiên cứu thực
tế. Giảng viên trường chính trị hiện nay phần lớn được học tập lý luận khá bài bản nhưng đội ngũ
giảng viên trẻ lại chưa có nhiều cơ hội đi cơ sở, trực tiếp tham gia công tác lãnh đạo, quản lý tại
các địa phương, đơn vị nên kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn còn thiếu hụt. Do vậy, cần thường
xuyên tiếp cận cơ sở, giao lưu với các đối tượng ở cơ sở, thâm nhập thực tế, tiếp cận các mô
hình, điển hình trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để từ đó nâng cao hiểu biết của mình. Trên
cơ sở nắm chắc tình hình thực tiễn, trong mỗi bài giảng, nếu giảng viên biết lựa chọn những vấn
đề đã và đang diễn ra ở địa phương để minh chứng  cho nội dung lý luận đang giảng dạy, học
viên sẽ cảm thấy gần gũi, bị thuyết phục và thấy bài học thật có ích đối với bản thân và địa
phương mình. Tuy nhiên, việc đưa nội dung thực tiễn vào bài giảng phải được chọn lọc, sắp xếp
kĩ lưỡng phù hợp với từng chuyên đề, từng đối tượng học viên ở các ngành, địa phương, lĩnh vực
công tác khác nhau, đảm bảo tính thời sự, điển hình, chính xác, tránh lạm dụng liên hệ tràn lan,
dài dòng, hư cấu.

Thứ tư, chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy lý luận để tạo hứng thú và phát huy
vai trò tích cực, chủ động của người học. Sự phát triển khoa học - công nghệ ngày nay cho phép
người giảng viên ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng nhiều phương pháp linh hoạt để nội
dung bài giảng sinh động, hấp dẫn học viên. Bên cạnh đó, giảng viên cần tăng cường trao đổi,
thảo luận với học viên trong quá trình giảng dạy. Đối tượng học tập, bồi dưỡng lý luận hiện nay
chủ yếu là cán bộ, đảng viên, có trình độ lý luận nhất định, đặc biệt là người trực tiếp làm việc ở
cơ sở nên tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tế, nắm bắt được những tích cực, hạn chế hay
bất cập trong việc triển khai, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước ở địa phương, cơ sở. Thông qua việc trao đổi, tiếp xúc, nghe ý kiến của học viên,
giảng viên sẽ là người khâu nối những kiến thức thực tế đó với lý luận, giúp học viên thực sự
tham gia vào bài học, hiểu sâu, nhớ lâu hơn. Và đó cũng là một cách để giảng viên tích lũy thêm
tri thức cho mình. Ví dụ: Trong bài 7 - Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam
về dân tộc, tôn giáo (phần IV, chương trình TCLLCT - HC), giảng viên có thể yêu cầu học viên
trao đổi tình hình dân tộc, tôn giáo và các giải pháp để nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc, tôn
giáo ở địa phương mình. Thực tế, tình hình của mỗi địa phương có những nét khác nhau và các
địa phương cũng có những linh hoạt trong quá trình cụ thể hóa quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo. Qua trao đổi, học viên và cả giảng
viên sẽ có một cái nhìn bao quát, đa diện hơn về vấn đề và đôi khi, đối tượng học viên là cán bộ
lãnh đạo quản cơ sở hoặc trực tiếp làm công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương còn có thể học
hỏi kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề ở địa phương bạn để áp dụng vào thực tiễn địa
phương mình.

ỘT SỐ YÊU CẦU CẦN NẮM VỮNG KHI LIÊN HỆ THỰC TẾ TRONG GIẢNG DẠY PHẦN
HỌC “NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC ĐẢNG Ở CƠ SỞ” ThS. NGUYỄN VĂN QUANG Giảng viên
Khoa Xây dựng Đảng Liên hệ với thực tế là một nguyên tắc trong giảng dạy lý luận chính trị
(LLCT). Trên cơ sở lý luận nói chung, các vấn đề kết luận, quan điểm… nêu trong tài liệu, giảng
viên phải lựa chọn những vấn đề cần thiết liên hệ để làm rõ trọng tâm kiến thức. Song điều quan
trọng là đưa thực tiễn như thế nào vào trong bài giảng Học viên học Trung cấp Lý luận Chính trị
là những cán bộ, viên chức có thâm niên công tác, bởi vậy họ có sẵn trong mình rất nhiều câu
hỏi, với mong muốn sẽ được các giảng viên giải đáp trong quá trình học tập, đặc biệt là những
câu hỏi phát sinh từ thực tế. Trong quá trình học, nếu việc giải đáp của giảng viên không thỏa
mãn được, họ sẽ có tâm lý chán nản,“mất hứng”, làm cho không khí buổi học trầm lắng, nặng nề,
nghi ngờ trình độ của giảng viên. Do vậy, giảng viên phải giảng dạy hợp lý đúng đường lối của
Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước. Liên hệ thực tiễn đối với môn học về nghiệp vụ công
tác Đảng khó khăn rất nhiều, bởi vì đối với môn học này gắn liền với công tác xây dựng Đảng,
đòi hỏi người dạy, ngoài kiến thức chuyên môn phải có kinh nghiệm công tác Đảng. Đối với các
giảng viên trẻ chưa kinh qua công tác Đảng, ít có thời gian nghiên cứu, nắm bắt thực tế cho nên
khi giảng dạy sẽ gặp khó khăn nhiều. Vì vậy, khi đưa ra ví dụ minh họa làm cho người học thấy
không thuyết phục, nếu mức độ bất cập giữa kiến thức thực tiễn của giảng viên với thực tiễn mà
học viên có, khó có thể tránh được sự phản ứng từ học viên, làm cho bài giảng trở nên đơn điệu,
vấn đề liên hệ thực tiễn trở nên phản tác dụng. Trên thực tế, học viên các lớp Trung cấp Lý luận
Chính trị - Hành chính không đồng đều về tuổi Vì vậy, việc nêu các ví dụ, dẫn chứng thực tế để
làm sáng tỏ nội dung các bài giảng và đáp ứng yêu cầu của đại đa số học viên có vai trò rất quan
trọng, không chỉ làm phong phú, sáng tỏ thêm nội dung bài giảng mà còn giúp học viên có thêm
các kỹ năng công tác, củng cố thêm niềm tin cho người học. Để làm tốt vấn đề này, theo tôi
giảng viên cần thực hiện tốt các vấn đề sau: Một là, Nắm vững nội dung, yêu cầu của bài giảng;
nghiên cứu kỹ đối tượng người học để nắm bắt được tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của họ, xem họ
cần gì, tại sao lại cần điều đó trong bài học này; giảng viên được quyền cung cấp những thông tin
nào để liên hệ vào bài giảng? không phải giảng viên nào cũng có đầy đủ các thông tin và không
phải thông tin nào cũng được nêu lên làm ví dụ trong các bài học, nhất là những thông tin có
đóng dấu các mức độ mật. Hai là, bài giảng phải bám sát với giáo trình, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước. Đồng thời còn phải bám sát thực tiễn về tình hình chính trị,
kinh tế - xã hội của thế giới nói chung và của đất nước nói riêng để bài giảng đạt được hiệu quả
tốt nhất. Vì vậy, giảng viên giảng dạy phải luôn luôn cập nhật, chắt lọc thông tin một cách chính
xác, đầy đủ nhất và mang tính thời sự nhất. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà buộc tất
cả các giảng viên giảng dạy các môn lý luận chính trị phải cần cù, chăm chỉ, chịu khó và bỏ công
sức của mình khi giảng dạy những môn này.

GD&TĐ - Tổ chức hoạt động giáo dục nhà trường gắn với thực tiễn sản xuất, kinh
doanh địa phương là hình thức giáo dục trải nghiệm sáng tạo, bổ ích và cần thiết với
giáo dục phổ thông. 
Cách giáo dục này như một mũi tên hướng tới nhiều đích và phát huy hiệu quả trong thực tế. Tuy
nhiên để đảm bảo hoàn thành cho mỗi bài học đòi hỏi nhà trường, giáo viên đưa ra nhiều hình
thức, biện pháp phù hợp trong quá trình triển khai thực hiện.

Trách nhiệm trên đôi vai người thầy

Có thể thấy vai trò của người thầy vô cùng quan trọng trong quá trình gắn giáo dục với hoạt động
sản xuất kinh doanh địa phương bởi hoạt động này luôn đòi hỏi họ phải đưa ra được các chủ đề,
hình thức tổ chức hoạt động phù hợp, linh hoạt sáng tạo trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt bản
thân người giáo viên cần nhạy bén, nắm rõ thực tế, tình hình của địa phương.

PGS.TS Nguyễn Trọng Khanh - Trường ĐHSP Hà Nội cho rằng: Việc xác định các chủ đề hoạt
động và hình thức tổ chức hoạt động đòi hỏi giáo viên phải dựa vào các cơ sở, điều kiện như:
Mục tiêu giáo dục phổ thông, mục tiêu giáo dục của cấp học, lớp học; mục tiêu của hoạt động
trải nghiệm sáng tạo đối với các cấp, lớp đã xác định.

Cùng đó phải dựa vào mục tiêu, nội dung, phân phối chương trình các môn học thuộc cấp, lớp dự
kiến tổ chức hoạt động; Điều kiện thực hiện hoạt động trải nghiệm sáng tạo của địa phương (đặc
điểm tình hình sản xuất, đời sống kinh tế, văn hóa); Điều kiện tổ chức thực hiện của nhà trường
về cơ sở vật chất, thiết bị, đội ngũ giáo viên…

Mặt khác, ở địa phương có các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ… giáo viên cần nghiên cứu kĩ
nội dung bài giảng, tìm mối liên hệ giữa kiến thức trong bài giảng với lĩnh vực, tính chất, quy mô
của sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại địa phương để xây dựng nội dung của hoạt động.

Căn cứ vào tình hình cụ thể giáo viên xác định hình thức, nội dung, phương pháp tìm hiểu và yêu
cầu báo cáo thu hoạch sau tìm hiểu rồi giao cho học sinh thực hiện. Đặc biệt giáo viên cần chú
trọng tới các vấn đề, đối tượng có liên quan đến kiến thức trong chương trình giáo dục phổ
thông. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho học sinh liên hệ, vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết
các vấn đề thực tiễn…

Trong cuộc sống hàng ngày, học sinh ít nhiều đều trực tiếp mắt thấy tai nghe các sự kiện, hiện
tượng, diễn biến xảy ra; ít nhiều tiếp xúc với con người, máy móc, thiết bị, dụng cụ sinh hoạt,
sản xuất… nhưng có thể đó chỉ là sự quan sát, tiếp xúc vô tình, không có chủ định.

Như vậy, sự trải nghiệm sẽ là không đáng kể. Để tăng sự trải nghiệm, giáo viên cần có định
hướng, giao nhiệm vụ quan sát, tìm hiểu, phân tích để rút ra những gì có thể học được qua các sự
kiện, hiện tượng, đối tượng...

Một trong những mục đích của hoạt động trải nghiệm sáng tạo là thông qua đó giáo viên có thể
làm công tác hướng nghiệp cho học sinh. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, sáng tạo để tạo
điều kiện cho các em bộc lộ năng lực, sở trường, hứng thú của mình đối với một lĩnh vực, một
ngành nghề, một công việc nào đó.

Thông quá đó giáo viên định hướng cho học sinh xác định con đường phát triển sau khi tốt
nghiệp THPT như chọn ngành học ở ĐH, CĐ; chọn ngành nghề trong học nghề hoặc trực tiếp
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh địa phương…

Cách học hứng thú và hiệu quả

Theo đánh giá chung mô hình trường học gắn liền với thực tiễn sản xuất đời sống địa phương
mang lại hiệu quả tích cực đối với cả người dạy lẫn người học.

Khi tham gia học tập trong môi trường này, học sinh thường đóng một vai cụ thể, từ đó kích
thích hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng của học sinh. Cùng đó thông
qua việc thường xuyên được tiếp cận với các hoạt động thực tiễn sản xuất, giúp học sinh có
nhiều cơ hội hơn trong việc gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã
hội. Giúp việc học tập trong nhà trường giống hơn với việc học tập trong thế giới thật.

Khi tham gia các hoạt động thực tiễn người học có cơ hội để thử thách năng lực khác nhau của
bản thân; học sinh được rèn khả năng tư duy, suy nghĩ sâu sắc khi gặp những vấn đề phức tạp;
học sinh có điều kiện để khám phá, đánh giá, giải thích và tổng hợp thông tin từ các tình huống
thực tiễn của địa phương; Có cơ hội để vận dụng và phát triển kiến thức lý thuyết đã học và đặc
biệt rèn luyện cho học sinh phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức tạp gặp phải trong khi
tham gia các hoạt động thực tiễn.

Khi tham gia vào hoạt động thực tiễn, mỗi học sinh phải đảm nhận một vai trò cụ thể. Vì vậy,
học sinh được đặt trong tình huống buộc phải thăng tính chủ động trong việc xây dựng kế hoạch,
thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các vấn đề phát sinh một cách tốt nhất. Nhờ đó phát huy tích cực,
tự lực, tính trách nhiệm, năng lực giải quyết các vấn đề của học sinh.

Thực tế cũng khẳng định, khi tham gia mô hình trường học gắn với thực tiễn sản xuất học sinh
không chỉ phải giao tiếp với thầy cô, bạn bè mà còn phải thường xuyên giao tiếp với rất nhiều
các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Có thể là với người nông dân, cô chú công nhân, kĩ sư, bác
sĩ… thông qua đố học sinh sẽ có cơ hội để rèn luyện nâng cao năng lực hợp tác, khả năng giao
tiếp và tương tác với cộng đồng.

Bên cạnh đó khi thực hiện một nội dung chủ đề theo mô hình trường học gắn với thực tiễn sản
xuất và đời sống xã hội, giáo viên và học sinh thay vì giảng dạy, học tập trong không gian lớp
học, phòng thí nghiệm thì sẽ có cơ hội làm việc với những điều kiện trong đời sống thực tế.

Vì vậy, cùng là một nội dung, giáo viên và học sinh có thể lựa chọn nhiều cách tiếp cận khác
nhau tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, thông qua đó kích thích giáo viên và học sinh tư duy
sang tạo và hiểu sâu sắc hơn nội dung bài học.

Thực trạng và giải pháp hoàn thiện phương


pháp giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại các
trường đại học

Nâng cao chất lượng giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn trong phần III.2. Những vấn đề cơ
bản về quản lý hành chính nhà nước
28 March 2017
FacebookTwitterEmailShare
        Thứ hai,  Giảng viên bám sát tình hình thực tiễn ở cơ sở, đưa các nội dung đó vào bài
giảng hợp lý.
        Để có những nội dung thực tiễn sinh động đòi hỏi giảng viên phải có những kiến thức thực
tiễn nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế - xã hội và những vấn đề còn vướng mắc tồn tại ở
cơ sở. Để đáp ứng được yêu cầu trên, Khoa Nhà nước và pháp luật đã xây dựng kế hoạch đi
nghiên cứu thực tế ở cơ sở, các giảng viên đều được tham gia đi thực tế từ đó đúc rút cho bản
thân những kiến thức thực tiễn bổ sung vào bài giảng và truyền đạt cho học viên. Ví dụ: mô hình
nuôi Hưu Sao lấy Nhung ở xã Chiến Thắng, huyện Bắc Sơn đạt hiệu quả kinh tế cao. Công tác
quản lý địa giới hành chính tại xã Bính Xá, huyện Đình Lập, trong những năm qua đã làm tốt
công tác quản lý đường biên, mốc giới. Khi đưa các yếu tố thực tiễn vào liên hệ cần có những
hình ảnh cụ thể, địa chỉ rõ ràng để học viên có thể liên hệ trong quá trình thực hiện, cần phải hiểu
đúng, rõ các nội dung kiến thức thực tiễn và đưa các yếu tố thực tiễn vào bài giảng một cách phù
hợp thì mới đạt được kết quả cao.
        Thứ ba, Đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên và phương pháp học tập của học
viên.
       Đối với phần III.2. Những vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước chương trình
Trung cấp lý luận chính trị - hành chính có đặc thù là vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực
tiễn. Thực tiễn trong các bài giảng phần này rất cụ thể và chi tiết số liệu cần phải chính xác vì
vậy, để gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy cần phải chú trọng đổi mới phương pháp giảng
dạy cho phù hợp. Tùy từng lĩnh vực ở từng bài mà sử dụng các phương pháp khác nhau cho phù
hợp.  Mỗi phương pháp giảng dạy đều có điểm mạnh riêng, nếu giảng viên vận dụng linh hoạt,
hợp lý các phương pháp đó phù hợp với nội dung cụ thể của bài giảng và đối tượng học viên sẽ
góp phần nâng cao chất lượng bài giảng. Bên cạnh đó, cần kết hợp sử dụng các phương tiện hỗ
trợ, nhất là sử dụng Powerpoint, hình ảnh minh họa phù hợp với nội dung bài giảng gắn với tình
hình thực tiễn ở cơ sở. Học viên tích cực tham gia xây dựng bài, trao đổi những vấn đề đã làm tốt
ở cơ sở và những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc đề xuất giải pháp xử lý cho phù hợp với tình
hình của địa phương.
         Thứ tư: Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế
        Để nâng cao chất lượng giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn thì một trong những giải pháp
không thể thiếu đó chính là giảng viên phải thực hiện tốt công tác nghiên cứu khoa học. Nghiên
cứu khoa học là một hoạt động mang tính khái quát hoá cao, đòi hỏi người nghiên cứu phải có
khả năng tổng kết thực tiễn. Bằng việc nghiên cứu khoa học, người giảng nắm chắc được kiến
thức lý luận từ đó vận dụng vào thực tiễn cho phù hợp nội dung từng bài giảng.
        Việc tăng cường nghiên cứu thực tế đối với giảng viên là công việc rất bổ ích, bởi lẽ khi đi
nghiên cứu thực tế ở cơ sở sẽ nắm được tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương vận dụng vào
trong nội dung bài giảng như một minh chứng sống, thuyết phục góp phần nâng cao tính thực
tiễn trong giảng dạy. Qua nghiên cứu thực tế, giảng viên tiếp thu được những kiến thức thực tiễn
để đưa vào bài giảng đạt hiệu quả cao. Việc gắn lý luận với thực tiễn trong giảng dạy của mỗi
giảng viên sẻ nâng cao chất lượng bài giảng đáp ứng yêu cầu đào tạo bồi dưỡng cán bộ góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị giảng dạy học tập của trường ./.
Thứ nhất, do thói quen thụ động trong quá trình dạy và học. Đã từ lâu, trong các tiết học lý luận, hình ảnh người thầy
thuyết trình một cách say sưa từ đầu đến cuối buổi, học viên thì nghe giảng và chép bài một cách thụ động đã thành
một dấu ấn trong mỗi người.
Thứ hai, hiện nay, do nhu cầu đào tạo rất lớn, sĩ số học viên trong lớp khá đông, mỗi lớp có từ 70 đến 90 học viên,
thậm chí có lớp đến 100 người. Với số lượng như vậy, việc áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực cũng phần nào
bị hạn chế.
Thứ ba, về cơ sở vật chất nhà trường đã từng bước hoàn hiện hơn, tuy nhiên phòng học để đáp ứng cho việc giảng
dạy phương pháp tích cực hiện nay của trường cũng chưa thể đáp ứng đầy đủ mà từng bước khắc phục dần theo
kế hoạch.
Thứ tư, một số học viên không những lớn tuổi mà lại có trình độ không đồng đều, sự nhiệt tình chưa cao, không dễ
hợp tác với giảng viên.
Thứ năm, một số giảng viên trẻ, kinh nghiệm thực thực tế chưa nhiều. Điểm yếu dễ nhận thấy của các giảng viên trẻ
là vốn sống kinh nghiệm thực tiễn tích lũy chưa được nhiều, trong khi học viên phần lớn lại là cán bộ công chức đã
kinh qua nhiều năm công tác. Họ sẽ có cảm giác e ngại khi cho học viên thảo luận, nêu lên những vấn đề “nhạy cảm”
hoặc quá khó, không thể xử lý được cho nên đôi khi còn lúng túng.
Như vậy, thông qua kết quả của việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực ở Trường Chính trị trong những năm
vừa qua với những thuận lợi và  hạn chế nêu trên, bản thân đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
và hiệu quả sử dụng phương pháp phương pháp dạy học tích cực.

Thứ nhất, về phía nhà trường

- Cần có văn bản quy định về việc thực hiện phương pháp dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy và đưa vào
tiêu chí đánh giá giờ giảng.
- Thường xuyên tổ chức đưa giảng viên đi tập huấn thêm về phương pháp dạy học tích cực.
- Cần tiếp tục hỗ trợ cho giảng viên trong việc trang bị phương tiện hỗ trợ giảng dạy. Có kế hoạch mua sắm, bổ sung
các phương tiện hỗ trợ giảng dạy.
- Cần đổi mới quy trình và hình thức đánh giá kết quả học tập của học viên. Việc đánh giá kết quả học tập của học
viên nên theo quá trình học tập của học viên, chứ không chỉ dừng lại ở công đoạn cuối cùng là thi và kiểm tra. Nếu
áp dụng cách thức đánh giá học tập theo quá trình, học viên sẽ tích cực tham gia vào quy trình dạy học và đó cũng
là điều thuận lợi cho việc áp dụng phương pháp dạy học mới. Có thể hình thức đánh giá kết quả học tập của học
viên dựa trên những nội dung sau đây:
- Thảo luận, làm việc nhóm: 15% điểm.
- Kiểm tra: 15% điểm.
- Thi hết môn: 70% điểm.
Nếu áp dụng cách thức đánh giá học tập theo quá trình, học viên sẽ tích cực tham gia vào quy trình dạy học và đó
cũng là điều thuận lợi cho việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực.
Thứ hai, về phía giảng viên

You might also like