You are on page 1of 27

BỘ XÂY DỰNG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC HN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày tháng năm

ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN

- Tên đề tài: Tổ chức không gian kiến trúc nhà ở cao tầng tại Phường Văn Quán theo
hướng Module hóa
- Nhóm sinh viên:
Trần Thiện Minh
Vũ Lê Phương Thảo
Nguyễn Tự Sự
Đặng Thế Hiếu
Nguyễn Thị Thu
- Lớp:21K5 Khoa:Kiến trúc
- Giảng viên hướng dẫn:Lâm Khánh Duy
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài: Nằm ở vị trí trung tâm quận Hà Đông với nhiều ưu thế về
vị trí Văn Quán trở thành một trung tâm đô thị hiện đại có cộng đồng dân cư đông
đúc. Với sự phát triển về kinh tế, và sự gia tăng về dân số thì nhà ở cao tầng trở thành
giải pháp hay loại hình phát triển chủ đạo. Nhưng vì nhiều lí do khách quan cũng như
chủ quan, mà nhà ở cao tầng cũng bộc lộ ra không ít những bất cập như: mối quan hệ
hữu cơ giữa những thể loại công trình cao tầng, các căn hộ của chúng với cảnh quan
thiên nhiên xung quanh thiếu sự đồng bộ; thẩm mỹ - hình tượng kiến trúc,…
2.Mục tiêu: Nâng cao hiệu quả sử dụng không gian cho các nhà cao tầng. Có thể áp
dụng nhiều nơi và thay đổi để thích ứng môi trường xung quanh. Bằng các hướng
modun hoá làm tăng tính linh hoạt qua các việc lắp ghép xây dựng, lưu thông công
trình, chọn hướng cho các căn hộ. Từ đó góp phần tăng hiệu quả ở, giảm sự trật trội,
thi công nhanh chóng.
3.Phạm vi nghiên cứu: Các tòa nhà cao tầng trên địa bàn phường Văn Quán, Quận
Hà Đông, Hà Nội.
4.Phương pháp nghiên cứu:
•Phương pháp thu thập số liệu
•Phương pháp điều tra
•Phương pháp thực nghiệm
•Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
5.Địa chỉ áp dụng: Phường Văn Quán, Quận Hà Đông, Hà Nội.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHÀ Ở CAO TẦNG TẠI PHƯỜNG VĂN QUÁN
1.1 . Khái niệm về Kiến trúc Nhà ở cao tầng và Module hóa đã và đang được ứng
dụng
1.1.1.Xu hướng thay đổi các hình thái của Kiến trúc Nhà ở cao tầng qua từng thời
kỳ
Nhà ở cao tầng được sinh ra như kết quả của việc tham vọng chứa đựng một hệ sinh
thái nơi người dân có thể tự do giao tiếp, tự do riêng tư, với một mật độ sử dụng cao
nhất có thể.Ở mỗi thời điểm, các giới hạn trong tưởng tượng và thực tế ngày một
thay đổi,nhà ở cao tầng cũng vì thế mà xuất hiện dưới nhiều hình thức, tên gọi khác
nhau. Và khi được đặt ở trong một vùng khí hậu độc quyền, sự đa dạng và nhân bản
của các nhà ở cao tầng ngày càng rõ rệt, bám theo sự phát triển và nhu cầu về kinh tế,
khoa học, xã hội,…
1.1.1.1. Trong Quốc tế
Các ví dụ sau ( được sắp xếp theo trình tự thời gian ) sẽ mang tính trực quan và làm
rõ được xu hướng sử dụng không gian nhà ở cao tầng:
- Năm 1919: Justus van Effen Complex – Michiel Brinkman- Đường trên không
-

Tọa lạc tại khu Spangen của Rotterdam, đây là một khu dân cư ban đầu được phát
triển dành cho những công nhân cảng của thành phố, khu dân cư này được kiến trúc
sư người Hà Lan Michiel Brinkman thiết kế vào năm 1922, trở thành thứ kiến trúc
mà Hebly gọi là "đỉnh cao của chủ nghĩa công năng Hà Lan".
Điểm đặc biệt của công trình là việc tạo ra các điểm tiếp cận cho người đi bộ và
phương tiện trên tầng 2, biến nội thất thành không gian công cộng- thứ mà về sau
được áp dụng cho các công trình của KTS Bijarke Ingels
-Năm 1928: Narkomfin Building-
Moiser Ginberg- Bộ ngưng tụ
xã hội
Tòa nhà Narkomfin là một dãy nhà ở số 25, Đại lộ Novinsky, ở quận Trung tâm của
Moscow, Nga. Được coi là "kiểu nhà thử nghiệm chuyển tiếp", nó là một ví dụ nổi
tiếng của kiến trúc Kiến tạo và thiết kế nhà ở tiên phong.
Công trình được tạo ra với mục đích bình đẳng, xóa bỏ tư tưởng phân chia giai cấp
phong kiến, thúc đẩy hành vi xã hội và bình
đẳng hóa về sở hữu không gian
Đây cũng là cơ sở cho những mẫu nhà lắp ghép
xuất hiện ở Việt Nam những năm 1950-1960,
trong thời kì bao cấp
- Năm 1931: Cite de la Muette- Rẻ hơn, nhanh
hơn, nhẹ hơn, cao hơn

Cité de la Muette ở Drancy được thiết kế vào những năm 1930 như một khu phức hợp nhà ở
dành cho người
thu nhập thấp.
Được xây dựng
như một thành
phố vườn được trợ
cấp từ năm
1931 đến năm
1937, công
trình cung cấp cho
các gia đình thuộc tầng lớp lao động những tiện nghi và vệ sinh hiện đại mới nhất. Phương
pháp xây dựng cũng rất sáng tạo: các tấm bê tông đúc sẵn và các bộ phận kim loại được tiêu
chuẩn hóa, được vận chuyển đến Drancy và lắp ráp tại chỗ. 1.250 đơn vị nhà ở được trải
rộng trong năm tòa tháp cao 14 tầng với các tòa nhà hai và ba tầng kéo dài ra từ hai bên như
những cánh tay.
- Năm 1948: Housing for Borsalina Employees- Ignazio Gardella- Chủ nghĩa duy lý
-
Quay trở lại việc sử dụng các vật liệu cơ bản và thô mộc- Gạch và Bê tông. Đồng
thời làm rõ khái niệm các đơn
nguyên và việc sắp xếp căn hộ
trong từng đơn nguyên.
-Năm 1949: Multi-purpose
Complex-Luigi Moretti- Đa chức
năng trong khu ở

Công trình được phân chia thành nhiều khối bằng các đường rãnh, trong khi đó lõi
thẳng đứng phục vụ mục đích thương mại. Các khối chức năng chính gồm khối dân
cư và khối văn phòng không bị xung đột mà vẫn hài hòa tạo thành một tổng thể đồng
nhất. Công trình cũng đánh dấu lần đầu tiên một khu ở tập thể được kết hợp với nơi
làm việc và thương mại.
-Năm 1955: Barbican Complex- Peter Chamberlin- Tái tổ hợp khu ổ chuột thành
không gian kiến trúc mới

Khu tập thể có hơn 2.000 căn hộ với hơn 4.000 cư dân, một hồ nước với sân thượng
ven hồ, những khu vườn và đài phun nước, các cửa hàng, Trường Âm nhạc và Kịch
nghệ
Guildhall,
Trường Nữ sinh
Thành phố Luân
Đôn, Thư viện
Barbican và
một
trung tâm đa khoa nổi tiếng thế giới. -trung tâm văn hóa kỷ luật, Trung tâm Barbican,
với nhạc viện nhiệt đới.
-Năm 1967: Hillside Terrace- Fumihiko Maki- Xây dựng Kiến trúc thích nghi

Khu phức hợp Hillside Terrace là một hình thức tập thể đã phát triển qua bảy giai
đoạn kể từ năm 1969, tương ứng với

hoàn cảnh thay đổi liên tục của


Tokyo. Một loạt các chiến lược thiết kế được sử dụng để tạo ra bầu không khí độc
đáo, bao gồm cả việc tôn trọng những thay đổi địa hình tinh tế, phân lớp không gian
và tạo ra không gian công cộng bên ngoài được bảo vệ. Thành công của dự án này là
kết quả của các phương tiện không gian và kiến trúc - quy mô, tính minh bạch, v.v.-
cũng như sự phát triển có tính chương trình của đời sống công cộng. Một loạt các sự
kiện trang trọng và không chính thức được tổ chức ở khu vực này của thành phố đã
tạo nên cuộc sống trong và xung quanh Hillside Terrace, kết hợp với kiến trúc để
biến nơi đây trở thành một phần độc đáo của cảnh quan thành phố Tokyo.
-Năm 1970: Jeanne Hachette Complex- Jean Renaudie- Vườn trên mái
Sau khi nhận thấy sự đa dạng và bùng nổ của nhà ở xã hội trở thành vấn đề đáng lo
ngại, đôi khi sinh ra những công năng dư thừa, KTS Jean Renaudie quyết định hợp
nhất kiến trúc và tính hữu cơ để đạt được sự thống nhất và liên hệ giữa môi trường và
công trình.
1.1.1.2. Trong nước

Khi Mỹ đưa quân vào miền Nam Việt Nam vào những năm 60 của thế kỷ
trước kéo theo nhiều thay đổi về mặt kinh tế xã hội cũng như hạ tầng kỹ thuật
của các đô thị đặc biệt là Sài Gòn. Cũng chính tại đây vào thời gian này, kiến
trúc nhà cao tầng bắt đầu được du nhập vào Việt Nam. Tiêu biểu là các cao
ốc: Thư viện Quốc gia, Trụ sở Việt Nam Thương tín, Bệnh viện Chợ Rẫy, Cao
ốc chung cư 727 Trần Hưng Đạo, Khách sạn Palace, Khách sạn Caravel…
Phần lớn nhà cao tầng thời gian này được các KTS Việt Nam thiết kế, có
chiều cao khiêm tốn, cao nhất cũng chỉ khoảng 14 tầng nhưng đã đánh dấu sự
xuất hiện của kiến trúc nhà cao tầng tại Việt Nam. Năm 1987 khách sạn Hà
Nội cao 11 tầng được xây dựng tại Hà Nội là nhà cao tầng được xây dựng thí
điểm ở miền Bắc.
Từ những năm 1990, chính sách đổi mới kêu gọi đầu tư nước ngoài cùng với
sự phát triển kinh tế đã tạo điều kiện đẩy mạnh xây dựng nhà cao tầng ở một
số đô thị lớn ở Việt Nam. Sự phát triển nhanh chóng thể loại nhà này đã làm
thay đổi bộ mặt đô thị của cả nước, đầu tiên là ở Hà Nội và TP HCM, sau đó
lan rộng ra nhiều tỉnh, thành khác.
Có thể kể đến một số công trình nhà cao tầng tiêu biểu ở Việt Nam hiện nay
như sau:
– Tòa nhà Keangnam Hanoi Landmark với chiều cao: 336 m gồm 72 tầng bao
gồm 2 cao ốc văn phòng 50 tầng cùng với 1 tháp cao 72 tầng. Chức năng: Nhà
ở, trung tâm thương mại, văn phòng và khách sạn.
– Tòa nhà Hanoi Lotte Center với chiều cao: 267 m gồm 65 tầng với 5 tầng
hầm, là một tổ hợp thương mại, văn phòng, khách sạn, nhà ở.
– Toà nhà Bitexco Tower: Cao 262,5 m với 68 tầng, được thiết kế dựa theo
nguyên mẫu của hoa sen, quốc hoa của Việt Nam. Với thiết kế bằng kính ấn
tượng cộng thêm khu đỗ trực thăng, tháp Bitexco hiện là toà nhà cao nhất TP
HCM.
– Tháp VietcomBank với chiều cao: 205 m là trụ sở mới của Vietcombank
rộng 55.000 m2 và sẽ nhìn ra sông Sài Gòn. Dự kiến, tháp sẽ chính thức đi
vào hoạt động trong năm 2015.
– Trung tâm Hành chính Đà Nẵng với chiều cao: 166,9 m có thiết kế giống
như ngọn hải đăng và sở hữu công nghệ quản lý hiện đại, Trung tâm Hành
chính Đà Nẵng là toà nhà cao nhất thành phố. Không những vậy, công trình
này còn được đánh giá cao bởi tính thân thiện với môi trường.
1.1.1.3. Khái niệm và một số tiêu chuẩn trong xây dựng nhà ở cao tầng
a. Khái niệm nhà cao tầng
Phụ lục: So sánh các hình thức nhà ở cao tầng
Chung cư Nhà lắp ghép Nhóm ở xã hội

Cách tổ chức Theo đơn Theo đơn Theo đối


nguyên nguyên tượng sử dụng
Tích hợp các
không gian
chung
Đối tượng sử dụng Người cónhu Công nhân lao Dân cư trong
cầu động được một khu vực
nhà nước cấp nhất định
phép
Quy mô Nhiều 4-5 tầng Giới hạn bởi
tầng/Cao tầng Diện tích theo diện tích khu
tổng các đơn vực
nguyên
Mức độ bền vững/Thời hạn 50 năm trở lên 50 năm trở 50 năm trở lên
sử dụng xuống, tùy
vào mức độ sử
dụng ( thường
xuống cấp
nhanh)

Một tòa nhà được xem là cao tầng nếu chiều cao của nó quyết định các điều
kiện thiết kế, thi công và sử dụng khác với các ngôi nhà thông thường.
Ủy ban nhà cao tầng quốc tế CTBUH phân loại theo số tầng và chiều cao:
 Loại I: 9 – 16 tầng (chiều cao nhà H < 50m);
 Loại II: 17 – 25 tầng (H = 50 – 75m);
 Loại III: 26 – 40 tầng (H = 75 – 100m);
 Loại IV: siêu cao tầng (>40 tầng, cao > 100m).
CTBUH: Một tòa nhà được xem là cao tầng nếu chiều cao của nó quyết định
các điều kiện thiết kế, thi công và sử dụng khác với ngôi nhà thông thường.
Theo Taranath: Nhà cao tầng là nhà mà khi tính toán bắt đầu chuyển từ phân
tích cơ học sang phân tích động lực học.
Phân tích cơ học bao gồm: phân phối lực hợp lý.
Phân tích động học: phân tích chuyển vị, dao động, ổn định.
Quy định tại mỗi nước:
Theo TCXD 198-1997: nhà cao tầng khi có chiều cao > 40m.
Thiết kế kết cấu rất quan trọng: khả năng chịu lực, bền vững, ổn định cho
công trình.
b. Tiêu chuẩn trong xây dựng
- Bộ Quy chuẩn Xây dựng Việt Nam ban hành năm 1996-1997 đã có nhiều bất
cập cần phải bổ sung sửa đổi và đang được thay thế từng phần cho phù hợp
với nhu cầu phát triển của kỹ thuật cũng như kinh tế - xã hội.
- QCXDVN 01:2008/BXD, Quy chuẩn xây dựng Việt Nam về quy hoạch xây
dựng là những quy định bắt buộc phải tuân thủ trong quá trình lập, thẩm định
và phê duyệt các đồ án quy hoạch xây dựng; là cơ sở pháp lý để quản lý việc
ban hành, áp dụng các tiêu chuẩn quy hoạch xây dựng và các quy định về
quản lý xây dựng theo quy hoạch tại địa phương.
- QCVN 02:2009/BXD, Số liệu điều kiện tự nhiên dùng trong xây dựng được
áp dụng cho việc lập, thẩm định, phê duyệt các hoạt động xây dựng bao gồm
lập quy hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, thiết kế xây
dựng, giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án đầu tư xây dựng
công trình tại Việt Nam.
- QCVN 03:2012/BXD, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nguyên tắc phân loại,
phân cấp công trình dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị quy định
những nguyên tắc chung để phân loại, phân cấp và xác định cấp công trình
dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị (gọi tắt là phân loại, phân
cấp công trình) nhằm làm cơ sở để xác định các giải pháp kinh tế kỹ thuật khi
lập và xét duyệt các dự án đầu tư, thiết kế và xây dựng công trình.
- QCXDVN 05:2008/BXD, Quy chuẩn xây dựng Việt Nam về nhà ở và công
trình công cộng - An toàn sinh mạng và sức khỏe quy định các yêu cầu kỹ
thuật (tối thiểu hoặc tối đa) phải đạt được đối với nhà ở và công trình công
cộng nhằm đảm bảo an toàn sinh mạng và sức khỏe cho người sử dụng, gồm:
Phòng chống nước, hơi ẩm và các chất độc hại; bảo vệ khỏi ngã, xô và va đập;
an toàn sử dụng kính; chiếu sáng; thông gió; chống ồn. Quy chuẩn này không
quy định các yêu cầu kỹ thuật đảm bảo an toàn sinh mạng và sức khỏe con
người trong quá trình chuẩn bị và thi công công trình và do các yếu tố không
xuất phát từ bản thân công trình (ô nhiễm do quá trình sản xuất, tác động của
lũ lụt hoặc từ các công trình bên ngoài).
- QCVN 06:2010/BXD, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà
và công trình quy định các yêu cầu chung về an toàn cháy cho các gian phòng,
nhà và công trình xây dựng và bắt buộc áp dụng trong tất cả các giai đoạn xây
dựng và bắt buộc áp dụng trong tất cả các giai đoạn xây dựng mới, cải tạo, sửa
chữa hay thay đổi công năng, đồng thời quy định phân loại kỹ thuật về cháy
cho các nhà, phần và bộ phận của nhà, cho các gian phòng, cấu kiện xây dựng
và vật liệu xây dựng; không áp dụng cho các nhà có chức năng đặc biệt (nhà
sản xuất hay bảo quản các chất và phương tiện gây nổ, các kho chứa dầu mỏ
và sản phẩm dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, kho hóa chất độc hại, công trình quân
sự, phần ngầm của công trình tầu điện ngầm, công trình hầm mỏ…)
- QCVN 09:2017/BXD, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các công trình xây
dựng sử dụng năng lượng hiệu quả quy định những yêu cầu kỹ thuật bắt buộc
phải tuân thủ khi thiết kế, xây dựng mới hoặc cải tạo các công trình có tổng
diện tích sàn từ 2500 m2 trở lên thuộc các loại hoặc hỗn hợp các loại công
trình (Văn phòng; Khách sạn; Bệnh viện; Trường học; Thương mại, dịch vụ;
Chung cư) được áp dụng cho các bộ phận: Lớp vỏ bao che công trình; Hệ
thống thông gió và điều hòa không khí; Hệ thống chiếu sáng; Các thiết bị điện
khác (động cơ điện; hệ thống cấp nước nóng).
- QCVN 10:2014/BXD, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng công trình
đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng quy định các yêu cầu kỹ thuật bắt
buộc phải tuân thủ khi xây dựng để đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử
dụng, bao gồm: Nhà chung cư; Công trình công cộng (trụ sở làm việc của cơ
quan nhà nước; cơ sở khám, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; công trình
văn hóa, thể dục, thể thao; công trình khách sạn, thương mại, dịch vụ); Nhà
ga, bến tàu, bến xe, đường, hè phố, hầm đi bộ, cầu vượt, và các công trình hạ
tầng kỹ thuật và tiện ích đô thị khác (nhà tang lễ, nghĩa trang, nhà vệ sinh
công cộng, điểm chờ xe buýt, máy rút tiền tự động, điểm truy cập internet
công cộng…)
- QCVN 12:2014/BXD. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hệ thống điện của
nhà ở và nhà công cộng quy định các yêu cầu về kỹ thuật bắt buộc phải tuân
thủ khi thiết kế, xây dựng mới hoặc cải tạo và sửa chữa hệ thống điện của nhà
ở và nhà công cộng.
- Quyết định số 47/1999/QĐ-BXD ngày 21/12/1999 về việc phê duyệt Quy
chuẩn hệ thống cấp thoát nước trong nhà và công trình tập hợp những quy
định thống nhất về thiết kế, xây dựng công trình, lắp đặt thiết bị cấp thoát
nước trong nhà và công trình nhằm đảm bảo các yêu cầu và tiêu chuẩn tối
thiểu cho sức khỏe, sự an toàn và lợi ích của người sử dụng hệ thống cấp thoát
nước; áp dụng cho việc lắp đặt mới, cải tạo, sửa chữa, tahy thế, di chuyển, vận
hành, bảo dưỡng hệ thống cấp thoát nước trong nhà và công trình, kể cả phần
ngoài nhà cho đến hệ thống cấp thoát nước chung của khu vực.
- TCXDVN 323/2004, Nhà ở cao tầng – tiêu chuẩn thiết kế áp dụng cho nhà ở
căn hộ có chiều cao từ 9 đến 40 tầng (chung cư cao tầng). Tuy nhiên, tiêu
chuẩn này đã bị hủy bỏ theo Quyết định số 212/QĐ-BXD ngày 25/2/2013 về
việc hủy bỏ tiêu chuẩn ngành Xây dựng (đợt 1) của Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
Ngày 24/6/2013 Bộ Xây dựng đã ban hành Công văn số 1245/BXD-KHCN về
việc hướng dẫn chỉ tiêu kiến trúc áp dụng cho công trình nhà ở cao tầng, điều
chỉnh chỉ tiêu chỗ đỗ xe (ô tô, xe máy, xe đạp) và cơ cấu căn hộ cho phù hợp
với thực tế.
1.1.2.Khái niệm Module và Module hóa
1.1.2.1. Từ Quốc tế về Việt Nam
- Module là những đơn vị nhỏ bé được tạo ra trong một tổng thể và có vai trò
cấu thành nên mối liên kết thống nhất, hoàn thiện và bao trọn được nhiều chức
năng. Về cơ bản, mỗi mô-đun sẽ được đảm nhận những vai trò, chức năng và
nhiệm vụ riêng biệt, tuy nhiên chúng đều góp phần tỏng việc vận hành, đồng
thời phát triển nên tổng thể.
- Module hóa/ Tính Module ( Modularize/ Modularity) là công tác thiết kế
phân chia thành các hạng mục dựa theo 3 tiêu chí: Điển hình hóa, tiêu chuẩn
hóa và thống nhất hóa.
+ Thống nhất hóa: Là giai đoạn đầu tiên và cũng bao trùm của quá trình điển
hình hóa và tiêu chuẩn hóa. Thống nhất hóa đi từ thấp-kích thước, kiểu loại
lên cao-các đơn vị không gian
+ Điển hình hóa: Được tiến hành dựa trên cơ sở thống nhất hóa, đó là giai
đoạn nghiên cứu lựa chọn những giải pháp tốt mang tính điển hình của các
cấu kiện hay không gian. Đây là một trong những phương tiện trọng yếu để
công nghiệp hóa xây dựng, nhằm tiết kiệm thời gian và công sức thiết kế,
nâng cao chất lượng xây dựng và mang tính kinh tế.
+ Tiêu chuẩn hóa: Trên cơ sở các thiết kế điển hình hóa được áp dụng rộng
rãi, đã được kiểm nghiệm thực tế các ưu điểm và khuyết điểm sẽ được công
bố như tiêu chuẩn thiết kế.
Ưu điểm của Module:
+ Năng suất và tiết kiệm
+Linh hoạt thay đổi và thay thế, tăng hoặc giảm số lượng/quy mô
+Bền vững và tiết kiệm năng lượng
Nhược điểm của Module
+ Tuổi thọ ngắn
+ Có khả năng bị giới hạn trong việc đáp ứng chính xác nhu cầu của người sử
dụng
-Lịch sử hình thành và phát triển khái niệm Module
Nguyên gốc của Kiến trúc module hóa, một khái niệm được áp dụng để sao
chép các khối không gian để sản xuất hàng loạt có thể được truy nguồn từ Đế
chế La Mã nơi họ đã áp dụng để vận chuyển các phần của pháo đài của họ để
dễ dàng lắp ráp. Ngôi nhà tiền chế lắp ráp đầu tiên trong lịch sử được ghi nhận
vào thế kỷ 17.
Sau đó không lâu, cách mạng công nghiệp đã diễn ra trên khắp thế giới. Đó
cũng là lúc phương pháp xây dựng theo hình thức Module trở nên khả thi và
phổ biến hơn. Tuy nhiên vai trò của Module mới được nổi bật trong các cuộc
thế chiến, khi cư dân phải thay đổi nơi ở liên tục.
Vài thập kỷ sau thế chiến thế giới thứ 2, vào những năm 1990, đầu những năm
2000, thời kỳ khoa học kỹ thuật một lần nữa thúc đẩy nền công nghiệp kiến
trúc Module, giờ đây Module không còn chỉ nhanh, tiện lợi mà còn mang
trọng trách kiến tạo nền kiến trúc bền vững.
Khái niệm Module xuất hiện ở Việt Nam vào thập kỷ 2000, khi nền kinh tế
Việt Nam bắt đầu mở cửa và hội nhập quốc tế. Đối với các khu nhà tập thể
trước đó, các đơn vị giống nhau hoặc gần tương đương nhau được gọi là đơn
nguyên ( Unit ), tuy kích thước có được điển hình hóa nhưng không hoàn toàn
thống nhất trong cả công trình.
- Các kiểu xây dựng Module:
Các tòa nhà mô-đun cung cấp không gian rất linh hoạt, có thể được tùy chỉnh để phù
hợp với nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Tuy nhiên, cấu trúc cơ bản có thể được
phân loại thành một trong ba mô-đun cơ bản: 4 mặt, mở một phần hoặc mở hoàn
toàn.
MODULE 4 MẶT

Không gian khép kín hoàn toàn.


4 diện tường, trần ,sàn
Thanh giằng bổ sung cho đầu hồi hoặc lõi trung tâm ổn định được lắp khi chiều cao
tối đa vượt quá ba tầng.
MODULE MỞ MỘT PHẦN

Cho phép đưa không gian mở vào module.


Yêu cầu bổ sung thêm các trụ góc và trụ trung gian, cũng như dầm cạnh chắc chắn.
Các trụ trung gian thường là những phần rỗng hình vuông vừa khít với không gian
của bức tường.
Có thể bố trí cửa sổ, cửa ra vào hoặc các mặt mở hoàn toàn.
Chiều cao tối đa phụ thuộc vào khả năng chịu nén của các trụ góc của module.
Một lựa chọn linh hoạt để chứa các cửa sổ, cửa ra vào hoặc các mặt mở hoàn toàn và
kết nối các hành lang giữa các module.
Có thể cần thêm giằng bổ sung trong quá trình lắp đặt.
MODULE MỞ HOÀN TOÀN

Các module mặt mở đạt được độ cứng nhờ các giá đỡ góc chắc chắn.
Việc xây dựng đạt được bằng cách sử dụng các phần rỗng hình vuông và các dầm
cạnh kênh có mặt bích song song.
Độ cao dầm lớn hơn so với mô-đun 4 mặt.
Cần có giằng chữ X bổ sung.
Chiều cao tối đa thường không quá ba tầng.
Các mô-đun có thể được gắn với nhau để tạo thành không gian mở rộng lớn.
- Các thành tố, cấu kiện cơ bản của một Module kiến trúc
Các thành phần của Module đúc sẵn bao gồm khung, giá đỡ thứ cấp, tấm
(panel) tường và mái, khung cửa và cửa sổ, ốc vít, và vật liệu cách nhiệt.

Mặc dù các bộ phận lớn hơn có vẻ là những bộ phận cơ bản và cần thiết trong
việc lắp ráp các tòa nhà đúc sẵn, nhưng những bộ phận thiết yếu và quan trọng
nhất là ốc vít, bu lông, đinh và ốc vít cần thiết để giữ các bộ phận khác nhau
lại với nhau. Nhiều lựa chọn ốc vít được thiết kế và chế tạo cẩn thận để sử
dụng lâu dài và lắp đặt dễ dàng.

Các thành phần bao gồm các thành phần xây dựng như cửa sổ, cửa ra vào và
giàn, bản thân chúng không phải là những tấm hoàn chỉnh. Trong số các vật
liệu đúc sẵn, chúng có số lượng lắp ráp ngoài công trường ít nhất nhưng cách
sử dụng linh hoạt hơn vì chúng có thể được đặt và lắp đặt theo điều kiện thực
tế tại công trường.
Tấm cách nhiệt kết cấu (SIP): Loại tấm này bao gồm hai mặt kết cấu với một
lớp vật liệu cách nhiệt được kẹp ở giữa. Hai tấm mặt hoặc tấm kết cấu có thể
là tấm kim loại, ván ép và xi măng. Vật liệu cách nhiệt có thể là bọt polyme
như bọt polyurethane và polystyrene mở rộng.
Tấm bê tông đúc sẵn cách nhiệt: Việc xây dựng các tấm bê tông đúc sẵn cách
nhiệt tương tự như SIP, trong đó hai mặt cấu trúc bao quanh một vật liệu cách điện. Trong
loại này, các lớp mặt là các lớp bê tông, được gọi là wythes. Những thanh này thường được
dự ứng lực để đạt được hiệu suất kết cấu cao hơn.

Ván khuôn bê tông cách nhiệt (ICF): Loại tấm này sử dụng vật liệu cách nhiệt
cứng làm ván khuôn cố định để tạo tường bê tông cốt thép. Ván khuôn, thanh giằng
và các bộ phận hỗ trợ khác được đúc sẵn và lắp đặt tại chỗ. Chúng có thể được chế
tạo dưới dạng các khối mô-đun có thể liên kết với nhau để tạo thành một tòa nhà.

Tấm khung thép nhẹ: Loại này, đinh tán của các cấu kiện chịu lực chính được
làm bằng thép định hình nguội, thường là tiết diện chữ C. Chúng được lắp ráp bằng
cách hàn, bắt vít hoặc các phương pháp buộc chặt khác. Các tấm ốp mặt và vật liệu
cách nhiệt như tấm thạch cao, len đá, nhãn hiệu sợi định hướng (OSB) và bọt
polystyrene giãn nở (EPS) được thêm vào. Lớp cách nhiệt có thể được đặt trong độ
dày của thép (khung lạnh) hoặc bên ngoài khung thép (khung ấm). Khung thép nhẹ
có tỷ lệ cường độ trên trọng lượng cao hơn các tấm khác, nhưng khả năng chịu
đựng của chúng bị hạn chế để chống lại hầu hết các tải trọng tĩnh và một số tải
trọng ngang như gió và động đất.
1.1.2.1. Các ví dụ ứng dụng hình thức Module hóa nhằm giải quyết vấn đề Môi trường- Con
người
1.1.3.Bài học qua các dự án tiêu biểu của khu vực nghiên cứu
1.1.4.Ưu điểm và nhược điểm của các mô hình Chung cư nhiều tầng/cao tầng
a. Ưu điểm:
Sống trong một căn hộ ở tầng cao mang lại nhiều lợi ích ấn tượng. Vị trí cao
giúp bạn tận hưởng một tầm nhìn rộng rãi và thoáng đãng. Từ đây, cư dân có thể
nhìn ngắm toàn cảnh xung quanh tòa nhà một cách hoàn hảo, thu gọn mọi cảnh quan
trong tầm mắt, tạo ra một trải nghiệm thú vị.
Không chỉ vậy, sống ở các tầng cao còn mang đến không khí mát mẻ, trong
lành, yên tĩnh hơn, giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ và nâng cao cuộc sống. Điều
này cũng giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến đường hô hấp, vì không khí
trên cao sạch và thoáng đãng hơn so với các khu vực tầng thấp.
Bên cạnh đó, sống ở căn hộ trên cao giúp hạn chế sự xuất hiện của các loại
côn trùng như muỗi, chuột, gián, kiến,... Những loài này thường sinh sống chủ yếu ở
các khu vực ẩm thấp. Khi ở trong căn hộ cao tầng, bạn sẽ tránh được những rắc rối
không mong muốn từ chúng.
Cuối cùng, bạn cũng có thể rèn luyện sức khỏe bằng cách thường xuyên sử
dụng cầu thang bộ thay vì thang máy. Việc leo cầu thang mỗi ngày là một hình thức
tập luyện tuyệt vời để cơ thể khỏe mạnh hơn.
b. Nhược điểm:
Sống trong chung cư tầng cao cũng có những nhược điểm cần được lưu ý.
Đầu tiên, những căn hộ này không phù hợp với người sợ độ cao, vì tầng cao có thể
tạo ra cảm giác lo lắng, không an tâm.
Một nhược điểm khác của căn hộ tầng cao là tiềm ẩn rủi ro trong trường hợp
xảy ra hỏa hoạn. Hệ thống cứu hỏa tiếp cận tầng cao sẽ khó khăn hơn, gây mất thời
gian trong việc phòng cháy chữa cháy.
Nếu xảy ra sự cố mất nước, việc mang nước lên các tầng cao cũng trở nên khó
khăn. Tương tự, khi mất điện hoặc hỏng hóc thang máy, việc di chuyển và đi lại
trong tòa nhà cũng mất nhiều thời gian hơn.
Cư dân sống ở tầng cao sẽ phải đối mặt với gió mạnh, đặc biệt là trong mùa
mưa bão. Nếu hệ thống cửa sổ không đảm bảo, có thể gây nguy hiểm cho các thành
viên trong gia đình. Ngoài ra, vào mùa hè, các căn hộ cao tầng thường trở nên nóng
hơn do ánh sáng mặt trời trực tiếp chiếu thẳng vào mà không được che chắn bởi các
căn hộ khác.
1.1.5.Ý nghĩa của việc áp dụng hệ thống tổ chức Module lên Nhà ở cao tầng tại
Phường Văn Quán
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi hình thái Kiến trúc nhà ở cao tầng
1.2.1. Các yếu tố tự nhiên
1.2.1.1. Vùng khí hậu & Vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu
Tuy lãnh thổ Việt Nam nằm trọn trong vùng nhiệt đới nhưng khí hậu Việt Nam phân bố
thành 3 vùng theo phân loại khí hậu Köppen với miền Bắc là khí hậu cận nhiệt đới ẩm.
Miền Bắc Trung Bộ, Trung và Nam Trung bộ là khí hậu nhiệt đới gió mùa, miền cực Nam
Trung Bộ và Nam Bộ mang đặc điểm cận xích đạo. Đồng thời, do nằm ở rìa phía Đông
Nam của phần châu Á lục địa, giáp với Biển Đông (một phần của Thái Bình Dương), nên
còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của kiểu khí hậu gió mùa mậu dịch, thường thổi ở các vùng vĩ
độ thấp. Miền Nam thường có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Cần phân biệt vùng khí hậu ôn
đới và nhiệt đới, vùng khí hậu ôn đới có 4 mùa là xuân, hạ, thu, đông còn vùng khí hậu nhiệt
đới chỉ hai mùa là mùa nắng và mùa mưa. Ở Việt Nam, miền Bắc có 2 mùa (mùa xuân, thu
ngắn là giai đoạn chuyển tiếp) nên nó không hoàn toàn trong vùng ôn đới, miền Nam 2 mùa
nên hoàn toàn trong vùng nhiệt đới.

Biến đổi khí hậu là tình trạng thay đổi nhiệt độ và các kiểu thời tiết trong thời gian dài.
Những thay đổi này có thể là tự nhiên, chẳng hạn như thông qua các biến thể của chu kỳ
mặt trời. Nhưng kể từ những năm 1800, hoạt động của con người là nguyên nhân chính gây
ra biến đổi khí hậu, chủ yếu do đốt nhiên liệu hoá thạch như than, dầu và khí đốt. Việc đốt
nhiên liệu hoá thạch sẽ tạo ra khí thải nhà kính ( Carbon dioxide (CO 2) và methane (CH 4)
là nhưng sự khác biệt chính của chúng nằm ở tiềm năng nóng lên và tuổi thọ khí quyển của
chúng. Khí methane mạnh hơn nhiều trong việc giữ nhiệt trong thời gian ngắn, hiệu quả hơn
khoảng 25 lần so với carbon dioxide.). Hậu quả là nhiệt độ trái đất tăng, mực nước biển
dâng, các hiện tượng thời tiết cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.

1.2.1.2. Cảnh quan và khí hậu ở Việt Nam


Bên cạnh một số đánh giá tích cực về cảnh quan đô thị Việt Nam như: ngày cảng nỗ lực để
hoàn hảo hơn trong các thiết kế không gian, học tập được xu hướng kiến trúc của nước
ngoài, có phân cấp khu đô thị để mọi người đáp ứng được mức sống thì vẫn còn tồn tại một
số những bất cập như sau:

 Chưa đảm bảo được hệ thống cây xanh trong khu đô thị. Nhất là tại hai thành phố
lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh với diện tích đất còn có phần hạn chế nên sự có
mặt của cây xanh còn thưa thớt.
 Hệ thống xanh chưa được chú ý chăm sóc và nâng cấp thường xuyên mặc dù ai
cũng biết nó có vai trò to lớn đối với môi trường đô thị, sức khỏe cư dân tại đô thị.
 Quá trình quy hoạch đôi khi diễn ra chưa hiệu quả. Một trong số đó là sự chênh
lệch về diện tích xây dựng một trung tâm thương mại và xây dựng một hệ thống
công viên. Các nhà đầu tư có thể sẵn sàng xây dựng một trung tâm thương mại
hàng chục hecta giúp họ mang lại lợi nhuận tài chính nhưng lại đắn đo xây dựng
một công viên hồ nước có diện tích nhỏ hơn nhiều.
 Công tác quản lý cảnh quan còn lỏng lẻo dẫn đến nhiều trường hợp thiết kế thừa
hoặc không khả thi, quá trình phê duyệt các dự án và phân tích cảnh quan đô
thị chưa rõ ràng và có tầm nhìn lâu dài cho tương lai.
Ở nhiều tỉnh đồng bằng có tốc độ đô thị hoá cao, cảnh quan nông nghiệp không còn là ý
nghĩa như một vùng kết nối cảnh quan sinh thái, mà có thể gọi là vùng sản xuất công nghiệp
nông nghiệp, gây ảnh hưởng lớn đến cảnh quan sinh thái tự nhiên và môi trường. Tình trạng
lấn chiếm đất nông nghiệp cho các mục đích phi nông nghiệp diễn ra khá phổ biến.

Ở vùng miền núi, các khu sản xuất nông lâm nghiệp hiện nay vẫn giữ được những giá trị
cảnh quan với những loại cây trồng đặc trưng của các vùng miền khác nhau, có ý nghĩa nhất
định không chỉ trong sản xuất mà còn trong khai thác du lịch nông nghiệp trải nghiệm. Tuy
nhiên, tình trạng suy thoái đất, biến đổi khí hậu những năm gần đây đã bước đầu có những
ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, nguy cơ suy giảm chất lượng cảnh quan trong tương
lai. Việc thực hiện tốt mô hình phát triển cảnh quan nông nghiệp bền vững sẽ giúp con
người không phải trả giá đắt cho việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên
như: nước, khoảng sản, tài nguyên rừng, không khí…, hạn chế được sự suy giảm đa dạng
sinh học và suy thoái các hệ sinh thái.

Do tốc độ đô thị hóa khá nhanh, nhiều thành phố như Hà Nội, Đà Nẵng, TP HCM hình
thành nhiều khu đô thị mới, tòa nhà cao tầng thi nhau mọc lên. Sự gia tăng nhanh chóng các
phương tiện giao thông cá nhân buộc hệ thống giao thông được nới rộng. Trong khi đó,
không gian xanh chưa được chú trọng đầu tư phát triển dẫn đến cuộc sống của người dân đô
thị ngày càng bức bối, ngột ngạt ảnh hưởng tới sức khỏe và môi trường sống của người dân
vì sự thiếu hụt không gian xanh.

Việt Nam là nước dễ bị ảnh hưởng trước tác động của biến đổi khí hậu. Những diễn biến
của biến đổi khí hậu tại nước ta những năm gần đây ngày càng gia tăng hiện tượng cực đoan
và khó dự đoán. Những diễn biến của BĐKH tại Việt Nam bao gồm các hiện tượng thời tiết
cực đoan đang ngày càng gia tăng về tần suất và thường khó dự đoán. Lượng mưa tháng cao
nhất tăng từ 270 mm trong giai đoạn 1901-1930 lên 281 mm trong giai đoạn 1991-2015,
trong khi nhiệt độ tháng cao nhất tăng từ 27,1°C (1901-1930) lên 27,5°C (1991-2015).
Những kỷ lục mới vẫn được thiết lập mỗi năm. Các cụm từ “mưa lớn kỷ lục”, “nắng nóng
kỷ lục”, “kỷ lục về lũ lụt” đã và đang xuất hiện ngày càng phổ biến trên các phương tiện
thông tin đại chúng ở Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 2017 được coi là năm kỷ
lục về thảm họa thiên tai tại Việt Nam, với hơn 16 cơn bão, lũ lịch sử trái quy luật. Nhiệt độ
trung bình tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam hiện tại cao hơn từ 0,5 -1,0°C so với
nhiệt độ trung bình của các năm trước theo tính toán dựa trên dữ liệu cập nhật của 30 năm
trở lại đây. Sự thay đổi trong tần suất xuất hiện các cơn bão và áp thấp nhiệt đới ngày càng
rõ rệt. Ví dụ, có năm xảy ra tới 18 – 19 cơn lốc và áp thấp nhiệt đới trên biển Đông, nhưng
cũng có năm chỉ xảy ra từ 4-6 cơn lốc và áp thấp nhiệt đới. Số cơn bão với sức gió đạt từ
cấp 12 trở lên đã tăng nhẹ kể từ năm 1990 đến 2015. Những biến đổi trong nguồn nước
(lượng mưa, mực nước sông) trong năm 2018 cũng tăng đáng kể so với mức trung bình của
năm 2017. Năm 2018 đồng thời ghi nhận những con số kỉ lục về nhiệt độ trong vòng 46
năm qua tại Hà Nội, với nhiệt độ cao nhất có lúc đạt tới 42°C.

Việt Nam đã ghi nhận rất nhiều kiểu hiện tượng thời tiết lạ như: Mưa giông trái mùa ở
ven biển miền Tây Nam bộ (tháng 2/2022), động đất liên hoàn tại Kon Tum gây rung lắc
mạnh lên tới 4,1 độ richter (tháng 4/2022), mùa Hè ở miền Bắc đến chậm hơn so với chu kì
hàng năm, sương mù dày đặc xuất hiện vào thời điểm miền Bắc đang chuyển sang mùa
Hè… Đây là kiểu thời tiết dị thường, hiếm gặp, phản ảnh rõ thực trạng khí hậu ở Việt Nam
đang bị biến đổi, trái với quy luật tự nhiên. Biến đổi khí hậu làm lây lan nhanh những bệnh
truyền nhiễm như Covid-19, sốt rét, sốt xuất huyết, gia tăng những bệnh về tim mạch, phổi,
đặc biệt là các bệnh ngoài da.

1.2.2. Điều kiện xã hội trước và sau các thời điểm quan trọng (Thời điểm áp
dụng tư tưởng CNXH, khủng hoảng toàn cầu về kinh tế, đại dịch,…)
1.2.2.1. Những thay đổi tích cực

Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ nhất


Cuộc khủng hoảng thứ nhất tiềm ẩn từ cuối thập kỷ 70, bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài
đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Cuộc khủng hoảng này biểu hiện trên 4 mặt - cả 4 đỉnh
của “tứ giác mục tiêu” - đều bị “lùn” xuống:
- Tăng trưởng kinh tế thấp, có những năm còn bị “tăng trưởng âm”. Bình quân thời kỳ
1977-1980, GDP chỉ tăng 0,4%/năm (trong đó năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%) -
thấp xa so với tốc độ tăng 2,31%/năm- làm cho GDP bình quân đầu người bị sụt giảm (giảm
1,87%/năm).
- Lạm phát phi mã và kéo dài. Lạm phát ngầm đã diễn ra từ cuối những năm 70, đầu
những năm 80 khi chênh lệch giữa giá trong và ngoài ngày một lớn. Tính phi thị trường
càng rõ khi phân phối thì bao cấp hiện vật, ngân hàng thì không theo nguyên tắc lấy vay để
cho vay, ngân sách thì không theo nguyên tắc lấy thu để chi, nên để bù đắp bội chi tiền mặt,
bội chi ngân sách đã phải in tiền; lại gặp sai lầm khi cải cách “giá-lương-tiền” năm 1985, đã
làm cho siêu lạm phát xuất hiện, lên tới 774,7% năm 1986 và kéo dài với mức 3, rồi 2 chữ
số cho đến đầu thập kỷ 90.
- Cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng, khi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng
80-90% sử dụng trong nước, chẳng những không có tích lũy trong nước mà còn không đủ
tiêu dùng - tức là toàn bộ quá trình tích lũy và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ
và vay nợ nước ngoài.
- Thất nghiệp cao, tỷ lệ lên đến 12,7% tổng số lao động. Do quy mô sản xuất thấp và
giảm, dân số tăng nhanh, nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái
chỉ có 86 USD, nằm trong vài ba chục nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới.

Nhờ đổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả thần kỳ, dầu thô khai thác và xuất
khẩu,... Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào giai đoạn ổn định và
phát triển. Tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã cao gấp hơn hai lần của thời kỳ
1977-1991 (8,77%/năm so với 4,07%/năm). Lạm phát của thời kỳ này cũng đã giảm mạnh
so với thời kỳ 1986-1991 (bình quân năm là 9,5% so với 180,2%). Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm
từ 2 chữ số xuống còn một chữ số; đến năm 1996 còn 5,88%. Mất cân đối cán cân thương
mại giảm dần và đến 1992, lần đầu tiên đã xuất siêu nhẹ. GDP bình quân đầu người tính
bằng USD năm 1997 đạt 361 USD, cao gấp gần 4,2 lần năm 1988.

Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ
bị bao vây, cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997,
lượng vốn ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ 1991-1996
thu hút 27,8 tỷ USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao gấp 8,7 lần mức
bình quân trong 3 năm trước đó, vốn thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối gửi về
nước từ 1993 đến 1997 đạt gần 1,55 tỷ USD,...

Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ hai


Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập thì xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quốc, Indonesia,
… Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ở mức cao
trong thời kỳ 1995-1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt trên 6,9 tỷ USD, năm 1996 đạt gần
10,2 tỷ USD, thì năm 1997 còn gần 5,6 tỷ USD, năm 1998 còn gần 5,1 tỷ USD, năm 1999
còn gần 2,6 tỷ USD.

Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, năm 1997 ở mức 3,6%, thì năm 1998 lên mức 9,2%.
Giá USD nếu năm 1995 giảm 0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998
tăng 9,6%,... Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức
26,6%, đến năm 1998 chỉ còn 1,9%. Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm
1997 chỉ còn tăng 4% và năm 1998 giảm 0,8%, năm 1999 chỉ tăng 2,1%.

Do độ mở của kinh tế Việt Nam lúc này chưa cao (xuất khẩu so với GDP mới đạt 30%,
đồng tiền chưa chuyển đổi), do đã có dầu thô, gạo, xuất khẩu với khối lượng lớn, do có sự
chủ động ứng phó từ trong nước, nên Việt Nam đã không bị cuốn hút vào vòng xoáy của
cuộc khủng hoảng này và dần dần đã vượt qua. Tăng trưởng kinh tế cao dần lên, bình quân
thời kỳ 2000 - 2007 đã đạt 7,63%/năm.

GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt 843 USD, cao gấp gần 2,3 lần
năm 1999. Bình quân năm FDI nếu thời kỳ 1998 - 1999 vốn đăng ký chỉ có trên 3,8 tỷ USD
thì thời kỳ 2000 - 2008 đã đạt gần 12,9 tỷ USD và thực hiện đạt 4 tỷ USD; ODA cam kết
đạt gần 3,5 tỷ USD, giải ngân đạt 1,75 tỷ USD.

Xuất khẩu tăng liên tục với tốc độ cao (năm 2008 cao gấp trên 5,4 lần năm 1999, bình quân
1 năm thời kỳ 2000 - 2008 lên đến 20,7%). So với GDP năm 2008 xuất khẩu đạt 70%; nhập
khẩu đạt 90%; cộng cả xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP lên tới 160%, thuộc loại cao thứ
3 ở Đông Nam Á và thứ 5 trên thế giới - chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá
rộng.

Dự trữ ngoại hối tăng khá: nếu cuối năm 2002 đạt chưa được 3,7 tỷ USD, thì đến cuối năm
2007 đã đạt trên 21 tỷ USD. Lượng kiều hối bình quân năm thời kỳ 2000 - 2008 đạt tỷ USD.
Vị thế của Việt Nam đã chuyển sang mở cửa hội nhập đầy đủ với thế giới, ký hiệp định
thương mại Việt-Mỹ, gia nhập WTO...
Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ ba
Cuộc khủng hoảng thứ ba đến từ nước Mỹ, tiềm ẩn từ cuối năm 2007, bùng phát vào cuối
2008, bắt đầu từ khủng hoảng nhà đất, lan sang hệ thống tài chính, sang kinh tế thực, sang
lĩnh vực lao động việc làm, lan sang các nước trên thế giới. Cuộc khủng hoảng này xảy ra
trong điều kiện Việt Nam vừa mới gia nhập WTO từ đầu năm 2007.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ 71,7 tỷ USD năm 2008 còn
21,5 tỷ USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ 11,5 tỷ USD xuống 10 tỷ USD). Lượng khách
quốc tế giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều
hối giảm từ 7,2 tỷ USD xuống còn gần 6,3 tỷ USD, vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm mạnh,...

Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng
tới 19,89% (tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ, thì
năm 2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập siêu năm 2007 lên trên 14,2%,
năm 2008 đã lên đến trên 18 tỷ USD và năm 2009 cũng gần 12,9 tỷ USD.

Đứng trước tình hình trên, Việt Nam đã linh hoạt chuyển đổi mục tiêu ưu tiên; áp dụng các
biện pháp phù hợp; có giải pháp xử lý kịp thời các hiệu ứng phụ; bảo đảm sự đồng thuận,
phối hợp chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân; chọn nông
nghiệp, nông thôn làm trọng điểm; kết hợp giữa nội lực và ngoại lực; kết hợp sử dụng biện
pháp cơ bản và biện pháp tình thế; kết hợp sử dụng “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô
hình”; minh bạch thông tin, xử lý nghiêm tin đồn; làm tốt công tác thông tin, phân tích kinh
tế và dự báo. Nhờ vậy, Việt Nam đã không bị rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài
chính và kinh tế thế giới, đã đạt được những kết quả tích cực từ giữa năm 2009.

Mặc dù còn những hạn chế, bất cập và cả năm khó đạt mục tiêu về nhập siêu, lạm phát,
nhưng cũng có thể nói đến Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế thế giới.
Mỗi lần vượt qua được khủng hoảng là mỗi lần Việt Nam chuyển được vị thế của mình. Sau
cuộc khủng hoảng thứ nhất, Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước gồm vài ba chục nước có
thu nhập thấp nhất thế giới (kém phát triển) sang nhóm nước đang phát triển (có thu nhập
thấp). Sau cuộc khủng hoảng thứ hai, Việt Nam đã chuyển từ một nước mở rộng cửa trong
nước sang mở rộng cửa hội nhập với thế giới. Sau cuộc khủng hoảng thứ ba này, Việt Nam
đã chuyển sang nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp).

Tình hình xã hội trong và sau đại dịch COVID-19


Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các quốc gia trên thế giới và
đang diễn biến rất phức tạp, khó lường, đẩy thế giới và nhiều nước rơi vào khủng hoảng kép
về y tế và kinh tế. Về kinh tế, hầu hết các quốc gia rơi vào suy thoái nghiêm trọng, kinh tế
và thương mại toàn cầu suy giảm mạnh, trong đó có Việt Nam. Trong tình hình đó Việt
Nam đã làm những việc sau để đảm bảo
- Tái thiết đời sống xã hội: Sau khi kiểm soát dịch, dần dần từng địa phương sẽ mở cửa,
chấp nhận sống chung với virus có kiểm soát giống như nhiều dịch bệnh trước đây. Nhưng
nhu cầu trợ giúp y tế, an sinh, việc làm, tinh thần… hậu đại dịch cũng quan trọng không
kém vì kịch bản kinh tế hồi phục không thể một sớm một chiều.
- Quan tâm đến người lao động yếu thế: Từ trong đại dịch cho thấy, công tác an sinh
hiện nay còn rất thiếu dữ liệu về lao động phi chính thức, di cư, trong khi đó lao động mất
việc, lao động phi chính thức đột ngột tăng lên sau 2 năm dịch bệnh. Qua cú sốc đại dịch
này, đòi hỏi chúng ta phải nhìn lại cả hệ thống chính sách cho người di cư, mà trước hết
chính sách ở các đô thị cần được điều chỉnh sớm. Người nhập cư phải được hưởng các
quyền lợi an sinh ở đô thị thì họ mới yên tâm làm việc, đóng góp một cách hiệu quả, bền
vững. Nếu không thay đổi thì sẽ chỉ thiệt thòi cho cả hai bên, mà thành phố sẽ thấy nhãn
tiền là thiếu nguồn lực lao động trầm trọng sau đại dịch và phải tìm mọi cách đưa người di
cư trở lại thành phố.
- Nâng cao năng lực thích ứng: Để cộng đồng có thêm năng lực chống chịu trong bối
cảnh đại dịch cũng như các cú sốc, biến cố bất định trong tương lai, cả chính quyền, các
cộng đồng cư dân, từng cá nhân người dân đều cần phải nâng cao năng lực thích ứng.

1.2.2.2. Những thay đổi phát sinh vấn đề cần giải quyết
Khi thay đổi điều kiện xã hội, sẽ phát sinh ra nhiều vấn đề khác nhau, tùy thuộc vào lĩnh
vực và mức độ của sự thay đổi. Một số ví dụ về các vấn đề xã hội phổ biến hiện nay là:
- Đô thị hóa và các vấn đề liên quan đến di dân, nhà ở, an ninh, cơ sở hạ tầng và môi
trường.
- Biến đổi khí hậu và các vấn đề liên quan đến thiên tai, năng lượng, nông nghiệp, sức
khỏe và bảo tồn.
- Tư tưởng và các vấn đề liên quan đến tệ nạn xã hội.
- Sức khỏe tinh thần và tâm lý.
- Công nghệ thông tin và các vấn đề liên quan đến bảo mật, gian lận, bắt nạt, tin tức giả
mạo và ảnh hưởng xã hội.
1.3. Thực trạng sử dụng không gian ở Phường Văn Quán
1.3.1. Thống kê dữ liệu sử dụng đất qua các năm
1.3.2. Các điều kiện về cơ sở hạ tầng
1.3.2.1. Các hạng mục công trình
1.3.2.2. Yếu tố giao thông
1.3.3. Sự tương tác của dân cư trong các bối cảnh
1.3.2.1.Trong Khu đô thị mới
1.3.2.2.Trong làng xóm cũ
1.3.4. Nhu cầu sử dụng không gian của các thế hệ
1.3.3.1. So sánh các nhóm đối tượng
1.3.3.2. Các mâu thuẫn trong sử dụng không gian
1.3.3.3. Tác động của nhà ở cao tầng/chung cư lên quan điểm sống của dân cư
1.3.5. Sự bành trướng của lĩnh vực thương mại làm mất dần bản chất của nhà ở
dành cho cộng đồng.
1.4. Kết luận chương

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ TỔ CHỨC KHÔNG GIAN KIẾN TRÚC


NHÀ Ở CAO TẦNG THEO HƯỚNG MODULE HÓA
2.1. Cơ sở pháp lý.
Căn cứ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 03:2012/BXD về phân loại, phân cấp công
trình xây dựng.
Căn cứ Khoản 5 Điều 43 Nghị định số 71/2010/NĐ-CP
Căn cứ khoản 3 Điều 43 Nghị định số 71/2012/NĐ-CP
Căn cứ Khoản 2 Điều 6 Nghị định 99/2015/NĐ-CP
Căn cứ Điều 102 Luật Xây dựng 2014
Căn cứ Điều 5 Nghị định 136/2020/NĐ-CP
Căn cứ Điều 103 Luật Xây dựng 2014 được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Luật Xây dựng
sửa đổi 2020
Căn cứ Điều 9 của Nghị định số 06/2021/NĐ-CP
Căn cứ mục 1.1.13 của Quy chuẩn 06:2021/BXD
2.2. Cơ sở lý luận.
Với tình trạng phát triển tự phát các loại hình “chung cư mini” và việc nở rộ “chung
cư mini” vượt ngoài tầm kiểm soát. nhiều nhà chung cư mini “biến tướng” tại các đô thị với
100% căn hộ mini, phòng ở. Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm quá tải kết cấu hạ
tầng khu vực, phá vỡ quy hoạch đô thị, dễ tạo ra những khu căn hộ “ổ chuột”, không đảm
bảo được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người mua nhà. Vì vậy việc tổ chức lại
không gian kiến trúc nhà ở theo hướng module hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của
người dân, giảm thiểu những nguy hiểm, bất cập trong đời sống. Đó cũng là cơ sở để nhân
rộng mô hình với quy mô quy hoạch lớn hơn.
2.2.1. Nguyên tắc tổ chức không gian kiến trúc nhà ở theo hướng module hóa bền
vững
Ngày nay, tính bền vững là một trong những cân nhắc quan trọng nhất trong quá
trình thiết kế kiến trúc. Các kiến trúc sư có trách nhiệm giảm thiểu các tác động tiêu cực
phát sinh từ quá trình xây dựng, sử dụng tiếp và thải bỏ của công trình. Hiện nay, xu hướng
trên thế giới là hướng tới việc cá nhân hóa và linh hoạt trong không gian ở. Tình trạng này
liên quan đến việc tăng số lượng các biến thể module để đáp ứng nhiều đối tượng sử dụng.
Việc cá nhân hóa này làm giảm số lượng module gốc nhưng lại làm tăng số lượng cách sắp
xếp để tạo ra nhiều kiểu không gian kiến trúc nhà ở hơn. Do đó, thiết kế module và quy
trình sản xuất cần được giải quyết để giảm thiểu tác động bất lợi đến tính bền vững của công
trình gắn với mô hình cá nhân hóa. Từ đó cải thiện tính bền vững của một sản phẩm có tính
đến tính module và cá nhân hóa cũng như sự linh hoạt của không gian kiến trúc.
Tính module được coi là khái niệm then chốt trong việc phát triển sản phẩm trong thị
trường toàn cầu hóa hiện nay. Việc sử dụng tính module, đặc biệt là trong giai đoạn sản
xuất, mang lại sự linh hoạt cho việc phát triển các biến thể sản phẩm sử dụng cùng nguồn
lực sản xuất cố định. Kể từ thập kỷ trước, việc sử dụng khái niệm này đã được mở rộng cho
tất cả các giai đoạn trong vòng đời của sản phẩm thông qua các sản phẩm kiến trúc mở, sử
dụng tính module hóa như một công cụ xuyên suốt vòng đời sản phẩm để tăng khả năng bao
gồm nhiều phân khúc khách hàng. Tuy nhiên, tính module được đưa vào giống như một
chiến lược tổng thể để thêm, loại bỏ và trao đổi các chức năng. Các cách tiếp cận coi tính
module như một công cụ bền vững không xem xét các cách khả thi để mô-đun hóa một sản
phẩm, các kiến trúc khác nhau hiện có và hậu quả của chúng đối với hiệu suất bền vững
tổng thể của sản phẩm.

Việc làm này cung cấp những điểm nổi bật và chiến lược trong việc sử dụng
“Nguyên tắc Kiến trúc module” (Modular Architecture Principles – MAP) hiện tại và tiềm
năng trong thiết kế kiến trúc dựa trên mô hình sản xuất cá nhân hóa. Ngoài ra, năm chiến
lược chính để nâng cao tính bền vững được đề xuất có tính đến tính hữu ích của tính mô-
đun trong các sản phẩm kiến trúc mở, được coi là mô hình có tính cạnh tranh và hiệu quả
nhất về mặt chi phí để đáp ứng các yêu cầu đang thay đổi của khách hàng và đáp ứng nhu
cầu cá nhân hóa trong thị trường toàn cầu hóa. . Các chiến lược được đề xuất nhằm mục
đích nâng cao khả năng nhạy cảm của kiến trúc sư đối với kiến trúc sản phẩm từ các giai
đoạn thiết kế ý tưởng ban đầu.

Nguyên tắc kiến trúc module (MAP) là các chiến lược phát triển cấu trúc của sản
phẩm dựa trên nhu cầu về thiết kế, sản xuất, sử dụng và thải bỏ cuối cùng. (Theo Mesa et al
2015 ), có thể xác định được 13 nguyên tắc kiến trúc module trong tổng quan tài liệu. Thông
thường, hầu hết các tác giả đều coi tính module là việc sử dụng các phần cứng có thể trao
đổi được, nhưng quan niệm này chỉ đề cập đến một số nguyên tắc kiến trúc được xem xét
trong tác phẩm này. Do đó, phương pháp đề xuất tập trung vào 13 loại nguyên tắc kiến trúc
module này.

MAP có thể được sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều chỉnh liên quan
đến phạm vi công việc và số lượng chức năng được yêu cầu theo loại công trình, ở đây là
nhà ở. Việc phân loại các MAP tiêu biểu nhất được đề xuất trong công việc này có tính đến
chức năng của từng quy trình. Việc phân loại được đề xuất nhằm mục đích tạo ra các giải
pháp thay thế kiến trúc khác nhau để nhóm thiết kế có thể xem xét.

Các MAP phạm vi chức năng có liên quan đến sự thay đổi của một chức năng hoặc
tham số cụ thể về kích thước hoặc phạm vi. Các nguyên tắc của loại này đưa ra những cách
khác nhau để đáp ứng nhiều mức độ năng lực liên quan đến một chức năng cụ thể tùy thuộc
vào mức độ được xác định trong yêu cầu của khách hàng. Có thể chọn một nguyên tắc phù
hợp về phạm vi chức năng hoặc kết hợp chúng để đạt được một bước cụ thể tùy theo từng
trường hợp. Bước này có thể thực hiện theo các bước không đổi (xếp chồng, cắt cho vừa,
phạm vi kích thước), kích thước ngẫu nhiên (cắt cho vừa) và liên tục (điều chỉnh cũng có
thể được sử dụng trong các giá trị riêng biệt). Những lợi ích liên quan đến khả năng tiếp cận
các cấp độ công việc khác nhau trong phạm vi chức năng phụ thuộc vào thiết kế chắc chắn
của các giao diện và đầu nối tiêu chuẩn, đặc biệt là trong nguyên tắc xếp chồng và cắt theo
nguyên tắc. Bảng dưới mô tả các nguyên tắc của thể loại này.

MAP Tổng quan cơ chế Miêu tả


Điều Một mô-đun duy nhất cung cấp khả năng điều chỉnh để
chỉnh đạt được các mức thích ứng khác nhau trong phạm vi
hoạt động.

Xếp Một số mô-đun giống hệt nhau có thể kết nối với nhau
chồng trong cấu trúc ngăn xếp để cung cấp mức tăng theo từng
bước cho một tham số.

Cắt để Các mô-đun có cấp độ khác nhau trong một tham số cụ


phù hợp thể có thể được thay thế lẫn nhau. Sự thay đổi cấp độ nó
được tập trung vào một mô-đun cụ thể.

Một tập hợp các mô-đun có thể khác nhau về một hoặc
Phạm vi nhiều tham số. Các mô-đun thực hiện cùng chức năng ở
kích các cấp độ khác nhau.
thước

Chia sẻ Các nền tảng khác nhau chia sẻ một mô-đun chung để
thành tạo ra các biến thể sản phẩm khác nhau.
phần

Hoán đổi Một tập hợp các mô-đun có chức năng khác nhau có thể
thành kết nối với thành phần cơ sở hoặc nền tảng thông qua
phần cùng một giao diện.

Mở rộng Một mô-đun tổng hợp duy nhất được sử dụng để đáp
ứng tất cả các biến thể tồn tại trong các biến thể sản
phẩm

Thu hẹp Mô-đun tiêu chuẩn tối thiểu được chia sẻ với tất cả các
biến thể sản phẩm có nhiều thành phần liên quan hơn.
Mặt cắt Một tập hợp các mô-đun có thể kết nối với các mô-đun
khác ở các cấu hình khác nhau để cung cấp các cấu hình
có chức năng khác nhau.

Kiến trúc mở bao gồm các cân nhắc bổ sung liên quan đến các giai đoạn của vòng
đời. Trong trường hợp này, các sản phẩm được đặc trưng bởi việc sử dụng các bộ phận
chung và khả năng trao đổi của các bộ phận trong giai đoạn sử dụng và bằng thiết kế để lắp
ráp/tháo rời dễ dàng, cung cấp kế hoạch thải bỏ cuối cùng cho từng module một cách độc
lập, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sửa đổi sản phẩm trong giai đoạn sử dụng. Thậm chí nó
có thể bao gồm khả năng nâng cấp các thành phần (module mới liên quan đến các chức
năng hoặc cấp độ cụ thể) ở giai đoạn vòng đời sử dụng. Ngoài ra, kiến trúc mở cho phép kéo
dài thời gian sử dụng hữu ích của toàn bộ sản phẩm. Tính năng này khả thi vì cách tiếp cận
này cho phép thiết kế các sản phẩm đạt được phạm vi hoạt động hoặc các chức năng cần
thiết bằng cách sử dụng ít thành phần hơn do chia sẻ và hoán đổi các module thông qua các
giao diện chung.

2.2.2. Các quy luật về tổ chức không gian kiến trúc nhà ở theo hướng module hóa
Yếu tố then chốt làm cho kiến trúc theo hương module trở nên phổ biến là việc giảm
nhu cầu lao động có tay nghề trong quá trình xây dựng. Nó được rút ra từ thực tế là hầu hết
các tính toán và điều kiện tiên quyết cho việc xây dựng đều được thực hiện trước khi công
trình được xây dựng. Việc lắp ráp tại chỗ hầu như không yêu cầu kỹ năng xây dựng ngoại
trừ kiến thức về việc lắp ráp. Có hai ưu điểm đối với các tính toán phức tạp được lập kế
hoạch trước cho việc xây dựng; đó là, tiết kiệm thời gian xây dựng và đạt được hiệu quả chi
phí do giảm chi phí lao động.
Một trong những điểm hấp dẫn của kiến trúc module là việc thực hiện xây dựng kết
cấu bằng cách tính toán chính xác số lượng đơn vị cần lắp ráp và giảm thiểu lãng phí vật
liệu . Nó cũng có thể được trình bày như một giải pháp thân thiện với môi trường. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng dịch vụ bảo trì và xây dựng cũng là một phần năng lượng và vật liệu
được sử dụng để tòa nhà hoạt động, do đó làm tăng thêm lượng carbon tiêu thụ của tòa nhà.
Giải pháp cho vấn đề như vậy. Cosmic đã giới thiệu một hệ thống xây dựng module lai
trong đó các bộ phận được sản xuất tại nhà máy và được đóng gói trong các bộ phận phẳng
cỡ nhỏ được vận chuyển đến địa điểm và lắp ráp ở đó. Các thiết bị này đi kèm với hệ thống
ống nước cơ khí và kỹ thuật được lắp ráp sẵn được gắn với đường ống dẫn nước và thoát
nước của thành phố. Ngược lại, mái nhà có một mảng năng lượng mặt trời để tạo ra điện với
một bộ pin khá lớn để lưu trữ năng lượng nhiệt. Mặc dù các giải pháp chủ yếu dựa trên kỹ
thuật và công nghệ, nhưng trường hợp này có thể là một ví dụ để các kiến trúc sư của chúng
tôi đưa ra các kỹ thuật thiết kế thụ động và thực tế nhằm giảm tải nhiệt và cách nhiệt cho tòa
nhà để ngôi nhà có thể hoạt động với nhu cầu năng lượng giảm. Một ví dụ như vậy có thể là
việc sử dụng vật liệu cách nhiệt tự nhiên được đóng gói trong các tấm lợp hoặc sử dụng
thiết kế nhà sàn để tránh phải sửa chữa do hơi ẩm xâm nhập vào vải xây dựng.
Vấn đề tiếp theo xuất hiện khi nghĩ đến kiến trúc module là tính chất đơn điệu của nó
do thiết kế lặp đi lặp lại và đơn giản. Do đó, cần sử dụng các nguyên tắc kiến trúc như thiết
kế thụ động sinh khí hậu, vật liệu phản ánh bối cảnh và nhấn mạnh ánh sáng tự nhiên.
Điều quan trọng cần nhớ khi thiết kế nhà kiểu module là chừa càng nhiều không gian
để tùy chỉnh càng tốt. Ngôi nhà là một trong những không gian cá nhân nhất mà người ta có
thể thiết kế và sở thích cũng như sở thích cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong đó. Do
đó, điều cần thiết là thiết kế với các lựa chọn mở.

2.3. Cơ sở thực tiễn.


2.3.1. Cơ sở hình thành khu vực
Vị trí nghiên cứu: Phường Văn Quán, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội
Khu đô thị Văn Quán được bao bọc bởi bốn ngôi làng truyền thống khác, sau 15 năm
xây dựng, số lượng dân cư và các loại hình nhà ở ngày một gia tăng. Trước khi có
được một hình thái đô thị như hiện tại, Khu đô thị này đã trải qua một số thay đổi
sau:

Từ năm 2002 đến năm 2004, đất ruộng và ao hồ đã bị đô thị hóa, mạng lưới đô thị
theo kiểu ô cờ hình học. Từ 2004 đến 2008, một số công trình mới được xây dựng,
làm giảm tính chất manh mún của đô thị. Từ 2008 đến 2016, một số dự án hạ tầng
bắt đầu được xây dựng quanh các làng: Làng Yên Phúc mở rộng thêm các dịch vụ
công cộng, trong khi đó làng Triều Khúc mở rộng khu ở và việc xây dựng được quy
định bởi chính sách để tăng thêm không gian cho dân làng.
Theo thời gian, bốn ngôi làng xung quanh KĐTM Văn Quán có mật độ xây dựng
ngày càng tăng và mở rộng từ khu vực lõi trở ra. Cách phát triển đô thị vô hình chung đã thu
hẹp các không gian cảnh quan phụ trợ như sân, vườn, ao hồ.
2.3.2 Cơ sở dân cư
2.3.2.1. Hồ sơ kinh tế- xã hội của dân cư
Hầu hết thành phần kinh tế ở KĐT Văn Quán đều thuộc thành phần trung lưu và
thượng lưu. Phần lớn trong số họ có các công việc thu nhập cao hoặc làm việc trong
các cộng đồng, chẳng hạn như Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh và
Phụ lão).
Giữa nhóm dân cư sống trong các căn hộ và biệt thự có một sự khác biệt lớn về mặt
kinh tế, bởi loại hình biệt thự không thực sự được phổ biến ở Văn Quán, đồng thời là
tài sản của các công chức có vai vế trong chính quyền, cơ quan pháp luật và quân
đội, thuộc về nhóm dân cư có ảnh hưởng.
2.3.2.2. Lộ trình cư trú
Hầu như toàn bộ những dân cư trong dữ liệu nghiên cứu đều xuất thân từ các tỉnh
ngoài vùng Hà Nội. Đối với họ, sống trong KĐT Văn Quán là kết quả của những lộ
trình cư trú phức hợp, hầu hết đã chuyển chỗ ở ba đến bốn lần trong đời. Một trong
số những yếu tố quyết định việc lựa chọn chỗ ở là lý do công việc, học tập, thăm nom
họ hàng. Có bốn yếu tố chủ đạo nhấn mạnh tính linh hoạt năng động, theo thứ tự tầm
quan trọng là công việc, gia đình, các liên kết xã hội và không gian công cộng, cụ thể
như sau:
- Vị trí chỗ làm việc đóng vai trò then chốt trong chiến lược tìm chỗ ở. Theo dữ liệu
hầu hết họ đều làm việc trong bán kính 7 km từ KĐT. Trong thực tế, đường Nguyễn
Trãi-AH 13 có vai trò là trục giao thông chính với đa số người được hỏi để đến
trường, đến công sở hoặc thăm người thân tại các địa điểm dọc theo trục đường.
- Với khía cạnh nhu cầu gia đình, người dân quan tâm đến sự có mặt của họ hàng thân
thích, cự ly gần đến nơi bố mẹ của họ sinh sống, có các cơ sở hạ tầng trong khu vực
phục vụ cho bố mẹ, ông bà.
2.3.3. Cơ sở về khoa học kỹ thuật
2.3.4. Nhận thức chung của người dân về Khái niệm mô hình nhà ở mới (Modular)
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng.
2.4.1. Tự nhiên
2.4.2. Xã hội
2.4.2.1. Vấn đề về pháp lí
2.4.2.2. Trật tự an ninh
2.4.2.3. Cơ sở hạ tầng
2.5. Kết luận chương

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TỔ CHỨC KHÔNG GIAN NHÀ Ở CAO TẦNG THEO
HƯỚNG MODUN HOÁ
3.1. Quan điểm
3.2. Các nguyên tắc tổ chức
3.2.1. Tính nguyên vẹn
3.2.2. Tính thống nhất
3.3.3. Tính liên kết giữa con người-không gian Kiến trúc-cảnh quan
3.3. Đề xuất các giải pháp chung
3.3.1.Khả năng linh hoạt thích ứng với nhu cầu sử dụng không gian
3.3.2. Phương pháp tiết kiệm năng lượng trong xây dựng và hoạt động công trình
3.3.3. Khả năng nhân rộng mô hình trên khu vực
3.4. Giải pháp tổ chức không gian
3.4.1. Giải pháp quy hoạch tổng thể
3.4.2. Giải pháp tổ chức không gian ở
3.4.3. Giải pháp liên kết các không gian
3.4.5. Giải pháp ứng dụng vật liệu trong xây dựng
3.5. Giải pháp chi tiết, giải pháp kỹ thuật
C. Kết luận, khuyến nghị:

Lãnh đạo Khoa Giảng viên hướng dẫn Đại diện nhóm sinh viên

Ghi chú:
Bản đăng ký khoảng 2 - 3 trang, đánh máy trên khổ giấy A4, phông chữ Times New Roman, cỡ
chữ 13 (không chấp nhận bản viết tay).

You might also like