Professional Documents
Culture Documents
----------
2|Page
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đối với các thành phố, đặc biệt là với Thủ đô thì kiến
trúc và quy hoạch đô thị có vai trò rất quan trọng. Điều đó
quyết định một phần sự phát triển của Thủ đô, về cách thức
sinh hoạt của ngươi dân. Kiến trúc đô thị Hà Nội từ lâu đã
tồn tại song hành giữa kiến trúc phương Đông thuần túy và
kiến trúc phương Tây hiện đại. Kiến trúc phương Đông được
thể hiện rõ nhất ở khu phố Cổ - kết cấu nhà dạng ống, hẹp
và dài; khu phố Tây – nơi thể hiện rõ nhất lối kiến trúc
Có thể nói, ảnh hưởng của kiến trúc Pháp ở Hà Nội diễn
ra có quy luật, bộc lộ những giá trị tích cực nhất từ cưỡng
bức, cộng sinh, chuyển hóa mềm mại và có tính đặc trưng
phù hợp với đặc điểm tự nhiên và nhân văn Hà Nội, bao
chưa cả tính khách quan của thời đại và tính chủ quan của
phương pháp tư duy phân tích (có nguồn gốc phương Tây)
với phương pháp tư duy tổng hợp mang tính cân bằng dung
hòa (có nguồn gốc phương Đông), thể hiện trong mọi khía
cạnh của quá trình tác nghiệp, tạo lập nên một công trình
kiến trúc.
kiến trúc mang ý nghĩa lịch sử, kết hợp hài hòa với các thành
những giá trị kiến trúc Pháp còn lại ở Hà Nội cho đến nay
đã tạo cho Hà Nội một sức hút riêng đối với du khách trong
và ngoài nước. Đặt chân tới Hà Nội không chỉ ngắm phố Cổ
ngắm nhìn những ngôi nhà phố, biệt thự Pháp cổ ở khu phố
3|Page
Hiểu được tầm quan trọng của việc gìn giữ, bảo tồn và
phát huy các giá trị của những công trình kiến trúc Pháp ở
Hà Nội nên em đã lựa chọn đề tài “Giá trị kiến trúc Pháp ở
Hà Nội”.
Đưa ra được những giải pháp bảo tồn và phát huy những
giá trị về mặt thẩm mỹ, nhân văn của những công trình kiến
Chỉ ra được những giá trị của các công trình do người
Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin từ
các bài báo, luận văn, các triển lãm kiến trúc.
phương pháp này để đánh giá, tổng hợp và đưa ra nhận xét
dựa trên các tư liệu đã thu thập được. Từ đó có cái nhìn tổng
4|Page
Hiện nay các công trình nghiên cứu về kiến trúc Pháp ở
Hà Nội chưa thực sự nhiều. Tuy nhiên vẫn có các công trình
nghiên cứu tiêu biểu như “Kiến trúc thời kì thuộc địa ở Hà
Nội” của Nguyễn Đình Toàn tại triển lãm “Kiến trúc các
công trình xây dựng tại Hà Nội thời kì Pháp thuộc”, tác giả
này còn một số công trình nghiên cứu khác như “Kiến trúc
trong kiến trúc thời thuộc Pháp ở Việt Nam” (1998). Nghiên
cứu về các công trình công cộng do người Pháp xây dựng
có tác giả Trần Quốc Bảo với “Kiến trúc nhà công cộng theo
Nguyễn Quang Minh với “Giá trị kiến trúc của nhà phố
Nhìn chung các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến
lối kiến trúc về mặt quy hoạch đô thị chứ chưa đề cập đến
việc phát triển du lịch Thủ đô. Vì vậy em lựa chọn đề tài
“Giá trị kiến trúc Pháp ở Hà Nội” với mong muốn đưa ra
những đề xuất kiến nghị để góp phần phát triển du lịch Thủ
đô cũng như giữ gìn và tôn tạo những giá trị kiến trúc còn
Gồm 2 chương
Chương 3. Giải pháp cho những công trình kiến trúc Pháp
tại Hà Nội
5|Page
Mục lục
2.1. Những phong cách kiến trúc Pháp tại Hà Nội ........................ 21
2.2. Ứng dụng của kiến trúc Pháp tại Hà Nội ............................... 30
Kết luận
6|Page
NỘI DUNG
Quá trình phát triển nền kiến trúc cổ Việt Nam gắn
hội. Những công trình kiến trúc cổ hầu hết được xây dựng
trong thời kỳ phong kiến - chủ yếu là trước thế kỷ 19. Tuy
nhiên các công trình còn sót lại chủ yếu được xây dựng từ
đồ sộ, phức tạp như kiến trúc cung đình, vật liệu xây dựng
và rộng khắp: tranh, tre, nứa, lá, gỗ, đá..., sau này còn có các
vật liệu khác như gạch, ngói, sành, sứ... Hệ thống kết cấu
khung cột, vì kèo và các loại xà đều có quy định thống nhất
về kích thước, tương quan về tỷ lệ và qua đó, những nghệ
nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức kiến trúc riêng biệt
Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với bao thăng trầm
lịch sử, đến ngày nay các công trình đã trải qua nhiều lần
trùng tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách
nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên, những
công trình này vẫn là dấu tích cụ thể ghi lại chặng đường
sáng tạo và lao động nghệ thuật, mang dấu ấn lịch sử dân
Kiến trúc cổ Việt Nam được chia thành các loại hình như
sau:
7|Page
Đây là loại hình kiến trúc bao gồm thành lũy, pháp
đài, đồn, cửa ô... Những kiến trúc quân sự quốc phòng cổ
Việt Nam có mặt bằng bố cục gồm các hình như: hình
vuông, hình chữ nhật, hình đa giác đều, hình tròn, hình ngôi
sao và những hình đặc biệt khác. Vật liệu xây dựng các loại
hình kiến trúc này rất phong phú. Ở miền núi, người ta sử
dụng phiến đá xanh có đẽo gọt hoặc không; ở miền trung du,
Các nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam trong nền
với các công trình kiến trúc của Việt Nam, với ưu điểm độ
bền cao, cấu trúc thiết kế lợp đặc biệt mang đến sự thoáng
cho các công trình hành chính nhà nước hoặc nhà của tầng
lớp cao, quan lại, nhà nho, kiến trúc tôn giáo. Ngói hài
thường được sử dụng trong kiến trúc dân gian, chi phí thấp,
dần bổ sung hoặc thay thế bằng bảy/kẻ). Cả hai phương pháp
tồn tại song song tùy vào trình độ người thợ mà chọn lựa thi
mỹ thì trau chuốt và đẹp hơn nên yêu cầu tay nghề người
8|Page
giữa đều được đắp bằng đất. Người ta thông thường đào đất
ngay tại chỗ đắp tường thành, phần đất bị đào đi tạo nên hào
phòng ngự của thành. Thành Cổ Loa có hình dáng khá đặc
biệt giống hình xoáy vỏ ốc. Toàn bộ xung quanh các vòng
thành Cổ Loa đều có đào hào, trừ phía Tây Nam và Đông
Nam là sông hoặc đầm lầy tự nhiên, còn toàn bộ là hào nhân
Long thời nhà Lý gồm nhiều vòng thành. Vòng ngoài cùng
độ dài khoảng 30 km. Trong khu vực này là Kinh thành bao
gồm nhiều phường phố, chợ búa... nơi ăn ở buôn bán sản
xuất thủ công nghiệp của nhân dân và quan lại. Hoàng thành
được xây bằng gạch, là nơi đóng các cơ quan đầu não của
nhà nước và triều đình phong kiến, bên trong có Cấm thành
Bố cục mặt bằng ngôi chùa có các loại hình như sau:
2.Chữ Công (工), hay còn gọi là nội công, ngoại quốc
3.Chữ Nhị (二), chữ Tam (三)... bao gồm một tổng
thể nhiều công trình đơn lẻ, có hành lang bao quanh hoặc
9|Page
Đền miếu, công trình đền đài, miếu mạo là nơi thờ
cúng của Đạo giáo (Lão giáo). Địa điểm xây dựng thường
được lựa chọn ở những vị trí có liên quan đến những truyền
thuyết hoặc sự tích, cuộc sống của vị thần siêu nhiên hoặc
các nhân vật được tôn thờ. Đại thể kiến trúc bên ngoài của
đền đài miếu mạo có những đặc điểm cơ bản giống của kiến
trúc đình chùa, nhưng nội dung thờ cúng và trang trí nội thất
có khác nhau.
dựng theo trục Bắc Nam. Phía trước Văn Miếu có một hồ
cột trụ, hai bên tả hữu có bia. Cổng Văn miếu xây kiểu Tam
Quan trên có 3 chữ lớn Văn miếu môn viết bằng chữ Hán.
phong tục tín ngưỡng trong xã hội Việt Nam cổ đại. Vì vậy
nó thường được xếp vào thể loại công trình phục vụ cho tôn
giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, đình làng còn là một công trình
thuộc thể loại kiến trúc công cộng dân dụng do tính chất
phục vụ đa chức năng của nó. Ngoài là nơi thờ Thành hoàng
làng, đình làng còn là trung tâm hành chính, quản trị phục
vụ cho mọi hoạt động thuộc về cộng đồng làng xã; là nơi
làm việc của Hội đồng kỳ mục trước đây (trong thời phong
kiến); là nơi hội họp của dân làng... Đây cũng là nơi diễn ra
các lễ hội làng truyền thống, nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
của làng. Nói chung, với ba chức năng cơ bản trên (tín
diễn ra nhiều hoạt động của làng xã Việt Nam dưới thời
phong kiến.
10 | P a g e
xanh tạo cảnh quan. Kiến trúc đình làng có thể chỉ 5-7 gian,
hoặc có thể có tới 7 gian hai chái như ở đình làng Đình Bảng.
được. Đình làng thường phổ biến loại bốn mái, có khi cũng
phát triển thêm loại tám mái (kiểu chồng diêm) do những
ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa về sau này. Mặt bằng
các đình cổ, thế kỷ XVI); hoặc quy mô, phức tạp hơn với
những bố cục mặt bằng có tên gọi theo dạng chữ Nho: chữ
Đinh (丁), chữ Nhị (二), chữ Công (工), chữ Môn (門)
cho sự phong phú của đình làng Việt Nam, đi liền với quá
trình phát triển thêm về mặt chức năng của đình làng. Không
gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía
sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung,
ống muỗng (ống muống), tường cánh gà, tiền tế, các dãy tả
vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình. Trong
bố cục đó, không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái),
là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao vọng,
Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong quần
sàn lát ván, cao từ 60 đến 80 cm, chia làm ba cốt cao độ, là
sự phân chia thứ bậc cho những người ngồi ở Đại đình. Ở
những tòa Đại đình của các ngôi đình chưa có hậu cung, bàn
thờ Thành hoàng được đặt ở chính gian giữa đại đình; gian
này không lát ván sàn và có tên là "Lòng thuyền". Hậu cung
là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng. Trong hậu cung có cung
cấm, là nơi đặt bài vị, sắc phong của vị thần làng. Xung
11 | P a g e
quanh hậu cung thường được bít kín bằng ván gỗ, không trổ
cao, là kiến túc thuần Việt nhất của dân tộc, mà còn là kho
tàng hết sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Đây là thế
giới cho nền nghệ thuật điêu khắc dân gian phát triển mạnh
mẽ. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy hay đấu-củng, đầu
dư, đố, xà kẻ, ván gió, ván nong (dong) là nơi các nghệ sĩ
điêu khắc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống
và lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính
dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì vậy, các điêu
khắc đình làng còn có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu về
cuộc sống vật chất, tinh thần của người Việt Nam trước đây.
Nhà ở dân gian đã trải qua một quá trình chuyển biến
từ nhà sàn đến nhà nền đất. Nhà nền đất vùng xuôi có kết
cấu khung tre hay gỗ, thường làm vách và lợp bằng tranh, rạ
hay lá dừa nước; nếu là kết cấu khung gỗ loại tốt lại thường
được lợp bằng ngói, tường bao quanh bằng gạch với vì kèo
gỗ. Khuôn viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà
ngang, nhà bếp) và chuồng gia súc cùng sân, vườn, ao, giếng
hoặc bể nước và hàng rào, tường vây quanh, cổng ngõ. Nhà
thể đón ánh nắng khi trời lạnh, đón được gió mát để giải
nồng. Phía trước thường trồng cây có tán cao đề làm cảnh,
đón gió tốt. Phía sau, trồng cây bụi để ngăn gió lạnh.
12 | P a g e
1.Cầu: Có các loại như cầu tre, cầu gỗ, cầu đá, cầu
gạch ngói...
ở goài ruộng hoặc quán chợ trong các chợ buôn bán. Điếm
điếm thường có cấu tạo đơn giản, được xây dựng bằng tranh,
3.Chợ làng: Chợ làng là nơi mua bán, trao đổi nông
sản, hàng hóa... giữa những người trong làng. Chợ làng
khác.
4.Cổng làng: Làng xóm Việt Nam được bao bọc bới
lũy tre và cổng làng chính là cửa ngõ của làng xóm. Vật liệu
cài và bảo vệ nghiêm ngặt, kết hợp với lũy tre làm thành
pháo đài kiên cố chống lại giặc giã, cướp bóc hay ngoại xâm.
nhiên trong một không gian giới hạn, làm nền tạo cảnh tôn
cao giá trị công trình chính hoặc quần thể công trình. Vườn
cảnh của Việt Nam chịu ảnh hưởng của vườn cảnh Á Đông,
nhỏ. Vườn cảnh Việt Nam không nổi tiếng như vườn Nhật,
và khuôn mẫu cụ thể cũng như độ phổ biến rộng rãi ra ngoài
khu vực. Các vườn cảnh ở Việt Nam, nhất là những khu
vườn lớn, cổ thường mang những nét tương đồng với vườn
13 | P a g e
Trung Hoa như hòn non bộ, thủy đình, các lầu hóng gió,
của thiên nhiên mộc mạc, ở Việt Nam vườn cảnh thường
được Việt hóa để tạo nên nét riêng và phù hợp với điều kiện
thời tiết, đất đai và văn hóa, lịch sử (Việt Nam là nước vùng
và mộc mạc và bản sắc dân tộc luôn được đề cao, coi trọng
và thể hiện[cần dẫn nguồn]. Đó là những nét rất gần gũi với
cuộc sống thường nhật ở thôn quê Việt Nam như: cây đa bến
nước, cây khế bờ ao, lũy tre, hàng rào chè tàu hay dâm bụt,
cây cau vương vít bụi trầu, giếng khơi, lu nước với chiếc
Đặc biệt, trong vườn cảnh Việt Nam ở mỗi miền lại
thường có những ngôi nhà mang đậm nét đặc trưng như: nhà
ba gian, hai chái ở những vườn cảnh ở Bắc bộ; nhà rường
trong những nhà vườn Huế; hoặc được làm đẹp bằng những
kiểu nhà sàn của dân tộc thiểu số vùng cao. Ở Nam bộ trong
vườn thường có thêm những cây cầu khỉ bằng tre vắt vẻo
qua các mương nước như thách thức du khách đến chơi
vườn.
của thực dân Pháp. Từ lúc này, người Pháp đã khởi công xây
dựng các công trình kiên cố trên khu nhượng địa, chính thức
mở đầu cho thời kỳ xây dựng quy mô của chính quyền Pháp
thuộc địa được xây dựng hầu hết do các kiến trúc sư Pháp
14 | P a g e
thiết kế. Các công trình này được xây dựng vào những năm
cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX như Phủ Toàn quyền
Sứ Bắc Kỳ.
Các công trình mang phong cách kiểu cổ điển tạo sự
bảo hộ và ý định ở lại Việt Nam lâu dài của người Pháp.
Các trục đối xứng nghiêm ngặt, nhịp điệu lặp đi lặp lại của
những hàng cột, hệ cấu trúc “dầm, cột” và “thức” theo phong
tự nhiên hoà nhập cùng một số xu hướng kiến trúc khác vào
các công trình xây dựng mà không rơi vào phong cách phục
cổ. Phong cách Tân cổ điển phát triển mạnh hơn vào giai
Kiến trúc Pháp xâm nhập vào Việt Nam trong quá
trong khoảng những năm 1873 -1880 đến năm 1900 và kiến
trúc thời kỳ này có thể có tên gọi chung là: Kiến trúc thuộc
được du nhập. Cấu trúc tổng thể dựa trên những nguyên tắc
cục truyền thống theo trục đối xứng và đường phố theo dạng
hình học...Thời kỳ này, tình hình chính trị chưa ổn định, kiến
trúc thuộc địa kiểu trại lính của quân đội viễn chinh Pháp
15 | P a g e
chiếm lĩnh ưu thế nhằm củng cố vị trí cai trị của Pháp ở Bắc
Kỳ.
bắt đầu phát triển, các công trình nhà ở được xây dựng đa số
là 2 - 3 tầng. Điều quan trọng là nhà ở thị dân chịu ảnh hưởng
của việc xây dựng mới và trang trí kiến trúc thuộc địa tiền
kỳ thể hiện trong cấu trúc mặt bằng và hình thức trang trí.
địa lần thứ nhất ở Đông Dương, kiến trúc chủ yếu là các loại
công thự, dinh thự, công sở hoặc nửa dinh thự nửa công sở,
một số dạng công trình kiến trúc kiểu “chính thống” lợp mái
tiến hành công cuộc xây dựng các cơ quan đầu não ở Hà Nội
với mục đích biến Hà Nội thành Thủ đô của Liên bang Đông
Dương.
Kiến trúc của thời kỳ này cũng được nghiên cứu sâu
để thoát khỏi chủ nghĩa công năng đơn giản của kiến trúc
thuộc địa tiền kỳ. Phong cách kiến trúc tân cổ điển được
dùng phổ biến trong các công sở của nền hành chính thực
dân Pháp, với đặc điểm bố cục đối xứng được khai thác thể
hiện tính bề thế và hoành tráng qua các mặt chính có hình
khối kiến trúc nặng nề ở các tầng dưới tập trung vào việc
qua kiến trúc thể hiện sức mạnh áp đảo của chính quyền thực
dân, đồng thời gây ảnh hưởng của văn hoá Pháp vào Việt
Nam.
16 | P a g e
trung ương ở Hà Nội đã kêu gọi kiến thiết một nền kiến trúc
cổ điển để chinh phục dân bản địa, biểu thị quyền lực của
xây dựng nhà cửa phát triển mạnh theo xu hướng mới. Bên
cạnh các nhu cầu về sử dụng, người Pháp còn quan tâm
nhiều đến thẩm mỹ kiến trúc của mỗi ngôi nhà. Trong đó
tưởng mới trong việc định hướng phát triển kiến trúc Pháp
ở bản địa.
Các phong cách kiến trúc mới được thể nghiệm thay
thế cho phong cách kiến trúc cổ điển Pháp được du nhập từ
chính quốc. Đó là xu hướng tìm tòi các phong cách kết hợp
á - Âu, tức là khai thác các đặc điểm kiến trúc truyền thống
cũng như chú ý đến khí hậu và vật liệu địa phương.
Một trào lưu đáng kể trong giai đoạn này là Art Deco
với những đặc trưng của kiến trúc hiện đại thoát ly khỏi
những chi tiết kiến trúc cổ điển, hướng tới cách xử lý hình
khối và đường nét hình học đơn giản. Nó trở thành một trào
lưu mạnh, phát triển song song tồn tại với phong cách Đông
17 | P a g e
phương pháp quy hoạch đô thị được áp dụng khá chặt chẽ.
Trong quy hoạch đô thị, những vị trí thuận lợi được dành
cho các công thự của bộ máy cai trị, các dinh thự dành cho
các viên chức cao cấp và quan lại phong kiến, thể hiện sự
được mở mang, chỉnh trang. Môi trường đô thị được cải thiệt
từng bước. Những khu nhà biệt thự là các khu nhà ổ chuột
tồn tại song song phản ánh rõ nét đặc tính đối lập giai cấp.
của viên chức thượng lưu, trung lưu trong bộ máy cai trị. Đô
thị bước đầu thay đổi về hình thức, nhưng chưa thay đổi căn
bản về chất. Khu công nghiệp, thương mại, văn hoá vui chơi
giải trí chưa hình thành riêng biệt mà còn xây dựng xen lẫn
với nhau.
Pháp thuộc cần phải thấy rằng Pháp là một nước có nền văn
minh sớm phát triển của Châu Âu, kiến trúc - quy hoạch của
họ đã đạt tới một đỉnh cao, những công trình kiến trúc thời
Pháp thuộc đã xây dựng để lại có một giá trị đặc biệt về
phương diện nghệ thuật và kỹ thuật nhiệt đới hoá như “khu
phố Tây” của Hà Nội, các phố Tây ở Sài Gòn, Huế, Hải
Ở Hà Nội, các công trình kiến trúc xây dựng với quy
tảng về phong cách kiến trúc, kỹ thuật cho các khu vực khác.
Các công trình kiến trúc thời Pháp thuộc xây dựng ở Hà Nội
18 | P a g e
kiến trúc như: nhà ở, biệt thự, công sở, nhà thương, trường
công nghệ xây dựng mới làm thay đổi bộ mặt đô thị như:
- Xi măng, vật liệu mới đối với thị trường xây dựng
Việt Nam lúc đó được người Pháp nhập khẩu rồi sau đó xây
dựng nhà máy để sản xuất phục vụ nhu cầu kiến thiết nhà
cửa, cầu đường, nó trở thành vật liệu chính để dính kết gạch,
- Bê tông cốt thép lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam,
lúc đầu chỉ sử dụng ở các công trình lớn sau đã trở nên thông
dụng ở các nhà ở kiểu biệt thự. Sự xuất hiện bê tông cốt thép
đem lại cho công trình kiến trúc nhiều khả năng phong phú
- Vật liệu sắt thép được sử dụng rộng rãi trong kết
cấu cầu, dầm, dàn phát huy tác dụng đối với kết cấu vì kèo
công trình lớn. Loại thép hình (chữ I,U, L) dùng nhiều nhất
trình hành
chính và một số dinh thự. Vật liệu kính được đưa vào
sử dụng rộng rãi kết hợp cửa chớp gỗ lần đầu có ở Việt Nam.
ngói máy thay cho ngói ta vẫn lợp ở công trình kiến trúc dân
thuật Pháp. Các cống thoát nước bằng gang, bằng gốm, vật
- Vật liệu trang trí bằng gạch men, gốm, sứ chi tiết
hoa văn được vẽ, in, khắc hoạ đa sắc, phong phú. Gạch hoa
là vật liệu lát sàn cũng là loại hình vật liệu mới mẻ được
19 | P a g e
người Pháp đưa vào nước ta để dùng cho các công trình của
họ.
Ảnh hưởng qua lại giữa hai nền kiến trúc hình thành
nét văn hoá của một đô thị mang phong cách Á Đông:
Kiến trúc thuộc địa đưa vào Việt Nam là loại kiến
trúc đã tạo nên một loại hình đô thị mới chịu ảnh hưởng
phương Tây giai đoạn cận đại. Nhiều công trình được xây
dựng trên khắp đất nước, tập trung ở các thành phố lớn như
Hà Nội, Sài Gòn - Chợ Lớn, Hải Phòng, Nam Định, Huế,
Đà Lạt… Các thể loại công trình này xây dựng chủ yếu phục
vụ cho nhu cầu của bộ máy cai trị thực dân Pháp ở Việt Nam.
Các công trình cho người Việt Nam cũng phải tuân theo quy
Kiến trúc Pháp xâm nhập vào Việt Nam trải qua một
quá trình lâu dài, cùng phát triển song song tồn tại với kiến
trúc bản địa. Trong quá trình đó đã xuất hiện hai xu hướng
đủ các điều kiện để tiếp nhận kiến trúc Pháp, kiến trúc Việt
Nam bị lấn át bởi kiến trúc Pháp và phải đón nhận một cách
bắt buộc.
thế bởi yếu tố kiến trúc mới. Nhưng đến đầu những năm 20
kiến trúc Pháp đã có những biến đổi để thích nghi với môi
trường tự nhiên và văn hoá bản địa. Kiến trúc Việt Nam đã
có những ảnh hưởng đối với kiến trúc Pháp. Quá trình giao
lưu đã bắt đầu làm biến đổi nền kiến trúc về các phương
diện, khiến cho kiến trúc Việt Nam lật sang trang mới. Nhu
cầu xây dựng của nhiều tầng lớp xã hội sau những năm 30
ngày càng tăng nhanh. Cũng vào thời gian này bản thân
người Pháp đặc biệt là trí thức tiến bộ cũng thấy rằng không
20 | P a g e
thể “đề cao” văn hoá Pháp mà chỉ có áp đặt nguyên bản kiểu
cách kiến trúc Pháp vào một nước có truyền thống văn hoá
lâu đời.
Hình thái đô thị thuộc địa đặc thù rõ xuất hiện rõ nét
nhất là ở Hà Nội, bao gồm hai thành phần khác biệt nhau,
động, biến đổi lôgíc dẫn đến sự hoà nhập của hai nền kiến
trúc. Đây là một quá trình từ tiếp xúc đến sự kết hợp văn hoá
Kiến trúc Pháp thoạt đầu du nhập vào Việt Nam bằng
con đường xâm lược. Chính quyền thực dân đã nhanh chóng
khẳng định và tạo lập ra những giá trị lớn lao về kiến trúc,
và văn hoá của nước sở tại, để lại một di sản lớn có giá trị
Bằng những giải pháp và thủ pháp đối phó, các công
công, tạo ra một xu hướng kiến trúc mới có bản sắc riêng,
thích ứng với các điều kiện tự nhiên, khí hậu và khai thác,
vận dụng các giá trị truyền thống văn hoá bản địa.
21 | P a g e
Theo các công trình nghiên cứu kiến trúc thế giới, các
kiến trúc gia thế giới nhận xét, đất nước Pháp chính là một
cái nôi gìn giữ phát huy những kiến trúc cổ đại của thế giới.
vào những năm đầu của thế kỷ III trước công nguyên.
về quá khứ với những câu chuyện thần thoại, tôn xưng ca
không ngừng học hỏi, sáng tạo và kế thừa phong cách kiến
trúc cổ kết hợp với phong cách hiện đại để tạo ra một phong
Việt Nam sống trong thời Pháp thuộc trong gần một thế
những công trình kiến trúc Pháp nổi bật đều là các công trình
lớn dành cho chính quyền hoặc các vị lãnh đạo cấp cao của
Pháp, kiến trúc nước Pháp ở Việt Nam cũng phân theo từng
Phong cách kiến trúc Tiền thực dân bắt đầy hình thành
từ chính khi Nhượng địa với những ngôi nhà làm việc nhà ở
những không gian phù hợp với chức năng cần thiết nhưng
22 | P a g e
tránh được cái nóng oi ả mùa hè, các sĩ quan công binh Pháp
đã nghĩ ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới thô sơ với các
Ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam bắt đầu từ
các công trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân thường
có mặt bằng hình chữ nhật đơn giản, có hành lang rộng chạy
thép hình cuốn gạch ở trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn.
Tường chắn mái xây gạch dùng để trang trí mặt tiền có một
vài hình thức trang trí đơn giản như hàng con tiện hoặc đắp
xi măng hình hoa lá. Hành lang quanh nhà được tạo ra hình
thức cuốn vòm hình cung hoặc bán cầu có khóa vòm.
Nhìn chung thì đây là phong cách mang tính công năng
duy lí, ít chú trọng về mặt thẩm mĩ nên không có nhiều giá
trị về mặt kiến trúc. Tuy vậy chúng cũng là đại diện cho kiến
trúc Pháp thuộc thời kỳ sơ khởi nên cũng cần được tôn trọng
Pháp đến Việt Nam thời Tiền thực dân: Bảo tàng Lịch sử
Quân sự, Tòa thị chính, một số nhà điều trị trong khuôn viên
suốt thế kỉ 19, mặc dù mang sắc thái khác nhau ở mỗi nước
nhưng nét cơ bản của phong cách này là phục hương những
giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của kiến trúc cổ điển từ các
sau này như Phục Hưng, Baroque hay chủ nghĩa Cổ điển
23 | P a g e
Công trình kiến trúc công cộng theo phong cách Tân cổ
điển đầu tiên ở Hà Nội chính là một tòa nhà thuộc Bộ chỉ
huy quân đội Pháp trong khu thành cổ được hoàn thành năm
1897 do kiến trúc sư A.H. Vildieu thiết kế hiện vẫn còn trên
phố Lý Nam Đế. Tuy nhiên, phải tới đầu thế kỉ 20, khi người
Pháp tiến hành công cuộc xây dựng, mở mang Hà Nội nhằm
biến nơi đây thành Trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa
của toàn Liên bang Đông Dương, các công trình công cộng
phong cách Tân cổ điển mới được xây dựng rộng rãi. Từ các
các công trình hành chính như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống
sứ, Tòa án đến các công trình thương mại và văn hóa như
xây dựng năm 1902 trên khu đất rất rộng và nhiều cây xanh,
Ba Đình) được coi là hạt nhân bố cục trung tâm hành chính
của Hà Nội lúc bấy giờ. Công trình gồm 4 tầng: dưới cùng
là tầng hầm dành cho các phòng phục vụ, tầng 1 bố trí phòng
khánh tiết, thư viện và các phòng làm việc khác; tầng 2 có
phòng làm việc của Toàn quyền Đông Dương, phòng họp,
Mặt bằng công trình hình gần vuông thei kiểu Palladio
thời Phục hưng hậy kỳ có lối vào từ 3 phía và mang tính đối
xứng nghiêm ngặt. Đây cũng là nét độc đáo của tòa nhà vì ở
bằng này.
24 | P a g e
Mặt chính công trình cho thấy ảnh hưởng của phong
cách kiến trúc Palladio với sự tuân thủ nhịp điệu đặc – rỗng
– đặc và các hàng cột thức cổ điển giàu tính tranh trí
chắc đậm với lượng mở của rất nhỏ, tường xây tạo chỉ lõm,
các bậc thang bằng đá nhấn mạnh tính bề thế. Mặt nhà chia
thành 3 phần rõ rệt theo phương ngang. Khu vực trung tâm
mang tính rỗng, được trang trí bằng các hàng cột La Mã,
tầng 1 dùng phương thức Doric mạnh mẽ, tầng 2 dùng
phương thức Lonic nhẹ nhàng, giữa hàng cột là các cửa mở
rộng và kết thúc theo kiểu cuốn vòm, phần trên khá nhẹ với
các ô cửa hình vuông phía dưới một diềm mái được trang trí
rát tinh tế. Kết thúc theo phương ngang là 2 khối nhô mạnh
ra phái trước (avantcorps) mang tính đặc với hai hàng cửa
có tương quan diện tích tương đối nhỏ so với mặt tường
nhưng được trang trí cầu kỳ, hai phái cửa đều được nhấn bởi
các thức cột, tầng dưới thức Doric, tầng trên thức Ionic, kết
thúc phía trên bằng hình thức hai Fronton xếp chồng lên
nhau theo kiểu Baronque. Các mặt bên và mặt sau tuy không
giàu tính trang trí như mặt chính những cũng có các thức
cột, các họa tiết trang trí đặc trưng của phong cách Phục
hưng.
Đông Dương, với tính chất một công trình long trọng, nguy
Phục hưng hậu kỳ, Dinh Toàn quyền xứng đáng là đại diện
lớn nhất cho thể loại nhà hành chính theo phong cách Tân
cổ điển ở Hà Nội.
25 | P a g e
tới Hà Nội làm việc, sinh sống. Họ mang theo những hoài
niệm về quê hương thông qua những công trình kiến trúc
nơi họ đã sinh sống và do vậy cũng bắt đầu từ thời gian này,
một loại biệt thự, trường học cho người Pháp được xây dựng
Ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam giai đoạn
này thể hiện qua các công trình phong cách địa phương miền
Bắc nước Pháp có mái với độ dốc lớn, các công trình phong
phần mái nhô ra khỏi tường khắc công phu. Tuy nhiên cũng
phải chú ý rằng kiến trúc địa phương Pháp xây dựng ở Hà
trang trí nguyên gốc. Những công trình địa phương Pháp ở
Hà Nội nhìn chung mang đậm tính hồi cố, duyên dáng, tuy
nhiên đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với công
nữ học Pháp (58 Trần Phú) và một số biệt thự tại khu Ngoại
giao đoàn.
được xây dựng năm 1918 trên đại lộ Félix Faure (phố Trần
Lacollonge thiết kế. Công trình này nay được dùng làm trụ
sở Bộ Tư Pháp, phố Trần Phú. Ban đầu công trình này được
xứ. Tuy nhiên, do mức độ đầu tư xây dựng quá lớn nên sau
26 | P a g e
khi xây dựng xong, công trình này chuyển sang cho Trường
hoạch cải tạo Trường Paul Bert phố Đồng Khánh (phố Hàng
nhiên vù địa điểm đó quá chật hẹp nên các dự án không thực
hiện được. Năm 1915, Công trình Trường Trung học Đông
Dương ở Hà Nội được xây dựng theo thiết kế của kiến trúc
tiêu biểu về kiểu cách địa phuonge miền Bắc nươc Pháp.
hiện nay là trụ sở Ban Đối ngoại và Ban Tổ chức Trung ương
Đảng.
Những ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam còn
dẫn đến sự ra đời của một phong cách kiến trúc hiện đại,
giản dị và thực dụng hơn phù hợp với xu hướng kiến trúc
đang phát triển ở Tây Âu, Bắc Mĩ thời bấy giờ, phong cách
Art Deco ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, được
ứng dụng trong thiết kế nhiều công trình ở Hà Nội như Chi
công ty AVIA (Trần Hưng Đạo), Bưu điện (Đinh Lễ), các
trải từ quận Ba Đình tới cuối các phố Bà Triệu, Hàng Chuối.
Kiến trúc Art Deco bắt đầu phát triển ở Hà Nội từ những
năm 1920 và đặc biệt mạnh mẽ vào những năm 1930 cho
thấy sự ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam phát
triển rất nhanh chóng. Những công trình xây dựng theo xu
27 | P a g e
hướng này thường sử dụng những hình khối kinh điển trong
bố cục không gian, các khối vuông, chữ nhật kết hợp với các
khối bán trụ tạo ra một hình thức kiến trúc hiện đại và giản
dị. Thêm vào đó là các họa tiết trang trí bằng thép uốn hoặc
đắp nổi bằng xi măng, thạch cao với đường nét mềm mại
làm giảm bớt sự thô nặng của các khối chủ đạo. Đây cũng
biên nhằm tới sự hài hòa với khí hậu và cảnh quan Hà Nội.
trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu
Pháp thịnh hành lúc bấy giờ, nhưng đã có sự tìm tòi, biến
đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra
những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí
hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hóa bản địa. Bị
ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam, các kiến trúc
chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khmer trong việc
tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, sử dụng nhiều thức cột,
mái, hệ thống cửa lấy sáng và thông gió tự nhiên được chú
trọng.
Một số công trình tiêu biểu: Tòa nhà chính Đại học
Louis (Phạm Ngũ Lão), viện Pasteur), Câu lạc bộ thủy quân
(Trần Phú)…
Ngũ Lão), hiện nay là Bảo tàng Lịch sử, số 1 phố Phạm Ngũ
Lão. Bảo tàng được khởi công năm 1925, hoàn thành vào
năm 1932 hang tên Giám đốc Bảo tàng thời kỳ đó. Công
28 | P a g e
công trình tiêu biểu cho sự kết hợp của phong cách kiến trúc
trưng bày các tài liệu, hiện vật lịch sử của Đông Dương. Tòa
nhà Bảo tàng có 2 tầng với tổng diện tích dành cho trưng
bày là 1835 m2 và tầng hầm dùng làm phòng làm việc, kho
chứa.
Công trình Viện Pasteur được xây dựng vào năm 1927
ở phố Yersin trên tổng diện tích 3 ha. Công trình do kiến
Đông Dương. Đây là một công trình xây dựng cùng thời kỳ
Dương, Nhà thờ Cửa Bắc. Công trình có nhiều giải pháp
kiến trúc phong phú từ nhà bảo vệ cho đến những điểm nhấn
quan trọng ở sảnh và các đầu hồi nhà. Có rất nhiều hạng mục
trong tổng thể Viện Pasteur, nhìn chung thống nhất với nhau
về ngôn ngữ kiến trúc. Công trình Viện Pasteur nay là Viện
thức kiến trúc, các yếu tố trang trí Việt Nam và Khmer, các
tác giả của các công trình Pháp- Hoa lại hầu như sử dụng
Kiến trúc phong cách Pháp – Hoa ở Hà Nội thể hiện chủ
yếu trong các dinh thự và biệt thự. Với sự ảnh hưởng của
kiến trúc Pháp đến Việt Nam, các ngôi nhà theo phong cách
này thường chỉ có vườn trước rất lớn có bố trí non bộ. Mái
dốc lợp ngói ống, ngói tráng men, bốn góc uốn cong và được
trang trí khá cầu kỳ, con sơn đỡ mái dạng trồng dấu nhiều
lớp. Ở một số công trình có hệ thống cột tròn với các tai cột
29 | P a g e
ngang. Phần trang trí được chú trọng với nhiều các yếu tố
trang trí kiểu Trung Hoa cổ nhưng ít thấy những giải pháp
lấy ánh sáng hay thông gió tự nhiên phù hợp với khí hậu Hà
Nội.
hàng Thủy Tạ, một số biệt thự trên các phố Phan Đinh Hùng,
Quán Thánh…
mong muốn phục hồi Gothic của những người thiết kế gắn
liền với quá trình xây dựng ở các nhà thờ Công giáo ở Hà
ra lệnh phá hủy ngôi chùa, khu đất của nhà chùa được Công
sứ M.Bonal nhượng lại cho Hội truyền giáo. Trên khu đất
đạp thi công, đã xây dựng nhà thờ Saint Joseph còn gọi là
Nhà thờ lớn, hoàn thành năm 1888. Cùng với sự xâm nhập
của đạo Thiên Chúa, rất nhiều nhà thờ lớn nhỏ cũng được
xây dựng ở các xứ đạo nôi, ngoại thành Hà Nội trong thời
phỏng hình thức kiến trúc Gothic Pháp nhưng được giản
lược rất nhiều. Ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam
bởi phong cách này đó là cách tổ chức mặt bằng hình chữ
thập, mặt đứng ba nhịp, nhịp giữa là lối vào chính, phía trên
có cửa sổ “hoa hồng”, hai bên là các lối vào phụ phía trên là
tháp chuông. Tuy nhiên, khác với các nhà thờ Gothic Pháp
sử dụng rất nhiều yếu tố trang trí, kiến trúc nhà thờ Hà Nội
30 | P a g e
chỉ tổ chức nhiều cửa sổ hình cuốn nhọn kiểu Gothic mà hầu
như không thêm vào các yếu tố trang trí nên trông khá khô
một ngôi nhà thờ nhỏ ở quận Hoàng Mai, nhà thờ Làng Tám,
kiến trúc nhà thờ này mang nhiều thần thái Gothic Pháp với
một tỷ lệ khá hài hoà trên mặt đứng, kết hợp với nhiều hoạ
tiết trang trí theo phong cách Gothic dù còn chưa tinh tế.
Nhìn chung ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam
theo phong cách Neo - Gothic ở Hà Nội gắn liền với kiến
trúc nhà thờ Công giáo, giá trị về mặt thẩm mỹ chưa cao
song lại mang nhiều giá trị về mặt lịch sử và cảnh quan.
2.2. Ứng dụng của lối kiến trúc Pháp tại Hà Nội
nước, các ban ngành thì tại Hà Nội vẫn còn những công trình
khác phục vụ cuộc sống sinh hoạt, buôn bán của người dân.
Điển hình phải kể đến 2 loại công trình là nhà biệt thự và
nhà phố.
theo kiểu phương Tây của tầng lớp có địa vị hoặc có tiền
trong xã hội chịu ảnh hưởng của tư tưởng thành phố vườn
➢ Loại biệt thự xây dựng phổ biến trong các khu phố được
kiến thiết sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Loại này
31 | P a g e
các phòng ngủ ở cả hai tầng, một số phòng phụ gắn với
➢ Loại biệt thự được xây dựng với tiêu chuẩn cao hơn ở
thời kỳ (1920- 1945). Ở thời kỳ này biệt thự được chia
thành 2 loại:
Pháp và các tầng lớp trí thức, sĩ quan, tư sản. Cấu trúc 2, 3
tầng có nhà phụ hoặc dùng tầng dưới cho người giúp việc.
Các chức năng của một biệt thự này cũng rất đầy đủ, có tiền
phòng, sảnh trung tâm, phòng khách tương đối lớn, các tầng
trên cũng có sảnh chia ra các phòng sinh hoạt riêng biệt, các
b. Loại thứ 2 vừa mang tính chất biệt thự để ở, vừa mang
tính chất công sở làm việc. Loại này các phòng rộng rãi,
hành lang chạy suốt mặt trước, hoặc ở trục giữa chia đôi nhà.
Loại này không phổ biến nhưng cũng có rải rác ở các khu
phố cũ của Pháp. Chủ nhân thường là các quan chức cao cấp
trong bộ máy chính quyền bảo hộ. Các phòng chức năng
cũng đầy đủ tiện nghi. Công trình đặt trong tổng thể sân rộng
rãi, cách xa mặt đường, góc nhìn rộng, sảnh sang trọng, tam
Niên đại xây dựng những công trình biệt thự này cũng
có khá sớm 1918- 1920. Các loại biệt thự được thiết kế
tương đối kỹ được xây dựng bởi bàn tay tài hoa của thợ xây
dựng Việt Nam. Các công trình này chủ yếu do người Pháp
thiết kế vào những năm 1935- 1940 một số công trình biệt
Nam. Một số công trình biệt thự kết họp công sở ở Hà Nội:
32 | P a g e
Giá trị của nhà phố được thể hiện ở 2 cấp độ:
Cấp độ quy hoạch: tính liên tục của nhiều căn nhà giống
nhau hoặc tương tự nhau về hình thức kiến trúc trên các
tuyến phố thương mại đã tạo nên giá trị về quy hoạch và
cảnh quan đô thị, hoặc là tính trật tự và thống nhất hoặc tính
với nhà hàng phố truyền thống (nhà ống) của người Việt đã
kiến trúc của nhà phố Pháp có thể tóm tắt như sau: độ cao
mỗi tầng từ 4 đến 4,5m làm thay đổi cấu trúc nhà hàng phố
được xếp dọc theo tuyến phố mới mở hoặc xây xen lẫn cả
vào phố cổ . Nhìn chung kiểu nhà hàng phố này tiện cho
sinh hoạt, các phòng khách, ăn, ngủ bố trí riêng biệt. Cây
xanh được đưa vào tận bên trong nhà tạo ra không gian kiến
trúc gần với thiên nhiên. Đối với nhà hàng phố thường xây
dựng chung kiên cố, nằm trên cùng một dẫy phố và chia ra
Loại 1 được xây dựng theo dạng căn hộ độc lập, ghép
với nhau đôi một (có thể hai nhà cùng quay ra mặt phố, hoặc
một nhà ở trong, một nhà ở ngoài- Khu phụ là một dãy nhà
(rất nhỏ).
Loại 2 khác là loại nhà cho thuê, do chủ xây dựng đứng
ra xây hàng loạt giống nhau ở một dãy phố, xếp thành dãy,
tường ngăn giữa các hộ xây chung. Khách hàng thuê loại
nhà xây thường là các viên chức nhỏ, nhà buôn, sinh viên,
liên kế.
33 | P a g e
Loại 3 nhà ở hàng phố mang tính chất gần giống kiểu
biệt thự, xung quanh có sân vườn nhỏ, có gara ôtô ở nhà
phụ. Công trình thường xây 2 tầng, mặt bằng tổ chức theo
kiểu cầu thang đặt ở giữa nhà chính hoặc đặt theo chiều dài
nhà . Sự vay mượn trong ngôn ngữ kiến trúc ở các thể loại
này nói lên chủ nhân của nó là tầng lớp thị dân mới hình
thành và chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp. Tầng lớp này
mới giàu lên và có nguồn gốc xuất thân khác nhau, chưa thể
Chương 3. Giải pháp cho những công trình kiến trúc Pháp
tại Hà Nội
coloniale), đa phần các công trình công cộng lớn ởHà Nội
đều theo phong cách Tân cổ điển, một phong cách mong
muốn phục hồi các giá trị kiến trúc Cổ điển, Phục hưng,
Baroque rất thịnh hành ở Pháp thế kỷ 19. Với các đặc trưng
về bố cục không gian - hình khối và tính chất trang trí mang
đậm tinh thần cổ điển, các công trình kiến trúc công cộng
phong cách Tân cổ điển xây dựng trước năm 1945 là một bộ
phận quan trọng hàng đầu trong di sản kiến trúc Pháp thuộc
vị trí đắc địa trong thành phố như các quảng trường, án ngữ
những tuyến phố lớn nên nhiều công trình kiến trúc công
cộng phong cách Tân cổ điển xây dựng trước năm 1945 còn
tạo ra các điểm nhấn đô thị, đóng góp tích cực vào bộ mặt
kiến trúc và quy hoạch Thủ đô. Các công trình này đều có
tuổi thọ trên dưới 100 năm nên nhiều công trình đã xuống
cấp, bị bao vây bởi các toà nhà nhiều tầng, bị lấn chiếm
khuôn viên... nên không còn giữ nguyên giá trị ban đầu.
UBND thành phố Hà Nội cần có các nghiên cứu, khảo sát
nhằm đưa một số công trình có giá trị vào danh mục Di sản
kiến trúc của thành phố và có chính sách bảo tồn, trùng tu
du lịch Thủ đô lớn như: Nhà tù Hỏa Lò, Bảo tàng Lịch sử
Việt Nam, Nhà hát lớn,... cần được bảo tồn, giữ gìn; các
doanh nghiệp du lịch cần phát triển thêm các tour du lịch nội
35 | P a g e
UBND Thành phố nên đề xuất kiến nghị với Chính phủ
về điện ảnh, cho phép quay các bộ phim lịch sử lấy bối cảnh
thời chiến tại khu phố Tây, vừa phát triển được nền điện ảnh
nước nhà vừa góp phần giáo dục, giữ gìn lịch sử đất nước
công trình kiến trúc Pháp để mọi người biết đến rộng rãi
hơn.
36 | P a g e
KẾT LUẬN
Hà Nội mảnh đất ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ biết
bao tinh hoa của đất trời Việt Nam, trải bao thăng trầm của
lịch sử, Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp rất riêng của Á Đông.
Không quá ồn ào sôi động nhưng cũng không quá tĩnh lặng,
Hà Nội mang trong mình những nét đẹp thanh cao tao nhã
hài hòa truyền thống. Vốn được thiên nhiên đất trời ưu đãi
kiện thuận lợi để phát triển văn hóa xã hội, để nơi đây trở
Thành bao đời qua đã gửi tâm hồn mình vào những giá trị
truyền thống, làm nên một Hà Nội ngàn năm văn hiến.
Hà Nội đang từng ngày thay da đổi thịt, ngày càng đẹp
hơn, văn minh hơn, hiện đại hơn. Song song với đó vẫn còn
những giá trị truyền thống quý báu. Kiến trúc Pháp - niềm
tự hào của nét đẹp văn hóa của đất nước, là những công
trình mang hơi thở của nước Pháp đậm chất thơ, khu phố
Tây và các công trình tiêu biểu: Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn,
Nhà tù Hỏa Lò, Bảo tàng lịch sử Việt Nam... là những địa
điểm du lịch lí tưởng đối với những du khách muốn tìm hiểu
về lịch sử Việt Nam đông thời chiêm ngưỡng vẻ đẹp vốn có,
chất nghệ thuật của người Pháp được thể hiện trên những
công trình kiến trúc. Bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá
trị kiến trúc xưa là nét đẹp trong văn hóa của nước ta , cần
tôn tạo để người sau cũng được ngắm nhìn các tuyệt tác
tế còn ít, nên bài khóa luận còn nhiều sai sót và hạn chế...
Triển lãm “Kiến trúc các công trình xây dựng tại Hà Nội
và truyền thống văn hóa bản địa trong kiến trúc thời
Đặc điểm của kiến trúc Pháp cổ và kiến trúc Pháp ở Việt Nam
(meeyland.com)
7. Trần Quốc Bảo, Kiến trúc nhà công cộng theo phong
View of Kiến trúc nhà công cộng phong cách tân cổ điển trước năm
8. Diễn biến sự ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt
Diễn biến sự ảnh hưởng của kiến trúc Pháp đến Việt Nam – Quá
trong khu phố Pháp tại Hà Nội, Tạp chí khoa học công
View of GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC CỦA NHÀ PHỐ PHÁP TRONG KHU PHỐ
38 | P a g e
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%E1%BA%BFn_tr%C
3%BAc_c%E1%BB%95_Vi%E1%BB%87t_Nam