You are on page 1of 28

Chương 3: Tổng quan phân tích chất lượng kế toán

Mục đích của việc phân tích chất lượng kế toán là để đo lường mức độ mà công
tác kế toán của một doanh nghiệp phản ánh tình hình kinh doanh thực tế. Qua
việc xác định những điểm linh hoạt trong kế toán cùng với đánh giá tính đúng
đắn của chính sách kế toán và các ước tính kế toán, những nhà phân tích có
thể đánh giá độ tin cậy của các con số kế toán. Khi xác định được bất kì sai
lệch trong kế toán nào, các nhà phân tích có thể điều chỉnh lại các con số đó
bằng cách sử dụng các thông tin về dòng tiền và thuyết minh để đảo ngược các
sai lệch đó. Nói chung, phân tích chất lượng kế toán giúp cải thiện độ tin cậy
cho kết luận của phân tích tình hình tài chính, bước tiếp theo của phân tích báo
cáo tài chính.

1. Khuôn khổ thể chế của báo cáo tài chính


Trong các doanh nghiệp công chúng thường có sự tách bạch giữa quan hệ sở
hữu và quản lý. Báo cáo tài chính như là một phương tiện để các chủ sở hữu
(cổ đông) theo dõi tình hình tài chính doanh nghiệp của mình. Định kì, các
doanh nghiệp sẽ phát hành ba báo cáo chính: (1) một báo cáo thu nhập mô tả
kết quả kinh doanh trong một khoảng thời gian, (2) một bảng cân đối liệt kê
các tài sản của doanh nghiệp và nguồn gốc hình thành các tài sản đó, và (3)
một báo cáo lưu chuyển tiền tệ tổng hợp các dòng tiền trong doanh nghiệp. Ba
báo cáo trên sẽ kết hợp với bản thuyết minh giúp cung cấp thêm chi tiết cho
từng khoản mục của các báo cáo đó, và kết hợp với tường thuật về kết quả
kinh doanh của ban quản lý trong phần Thảo luận và phân tích quản lý.

Để đo lường một cách hiệu quả chất lượng kế toán của một doanh nghiệp,
trước tiên nhà phân tích cần hiểu rõ các tính chất căn bản của báo cáo tài
chính và các thể chế quản lý chúng được trình bày ở phần này.

1.1. Kế toán dồn tích

Một trong những tính chất căn bản nhất của báo cáo tài chính doanh nghiệp là
chúng được lập dựa trên cơ sở dồn tích chứ không phải cơ sở tiền mặt. Không
giống như kế toán trên cơ sở tiền mặt, kế toán dồn tích phân biệt rõ giữa việc
ghi nhận chi phí và doanh thu phát sinh từ giao dịch kinh tế với việc thu chi
tiền thực tế. Lợi nhuận thuần là chỉ số chính trong kế toán dồn tích. Để tính lợi
nhuận thuần, ảnh hưởng của các giao dịch kinh tế được ghi nhận trên cơ sở kỳ
vọng, không nhất thiết phải có thu chi tiền thực tế. Kỳ vọng nhận được tiền từ
việc giao hàng hoá hoặc thực hiện dịch vụ được ghi nhận là doanh thu, và kỳ
vọng về dòng tiền cần chi ra để nhận doanh thu đó được ghi nhận là chi phí.

Trong khi có rất nhiều quy định và quy ước quản lý việc lập báo cáo tài chính,
chỉ rất ít khái niệm làm nền tảng cho cơ sở dồn tích. Các khái niệm sau rất
quan trọng trong báo cáo thu nhập, loại báo cáo tổng hợp doanh thu và chi phí
của một doanh nghiệp:

 Doanh thu là các lợi ích kinh tế thu được trong một kỳ kinh doanh. Việc
ghi nhận doanh thu phải tuân thủ nguyên tắc thận trọng, đó là doanh thu
chỉ nên được ghi nhận khi (a) doanh nghiệp đã chuyển giao tất cả ,hoặc
hầu hết, hàng hoá hoặc dịch vụ cho khách hàng và (b) khách hàng đã
thanh toán hoặc có bằng chứng chắc chắn rằng khách hàng sẽ thanh
toán.
 Chi phí là các nguồn lực được sử dụng trong một kỳ kinh doanh. Việc ghi
nhận chi phí phải tuân thủ nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc thận trọng.
Theo các nguyên tắc đó, chi phí là giá trị của các nguồn lực (a) liên quan
trực tiếp đến khoản doanh thu được ghi nhận trong cùng một kỳ kinh
doanh, (b) liên quan đến các lợi ích khác doanh thu được sử dụng trong
kỳ này, hoặc (c) các lợi ích trong tương lai có thể có được từ chúng chưa
chắc chắn.
 Lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí trong cùng một kỳ
kinh doanh.

Mối quan hệ nền tảng sau sẽ được phản ánh trong báo cáo thu nhập:

Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí

Ngược lại, bảng cân đối là một bảng tổng hợp tại một thời điểm nhất định.
Những nguyên tắc để xác định tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu như sau:

 Tài sản là những nguồn lực kinh tế do một doanh nghiệp sở hữu mà (a)
có khả năng tạo ra các lợi ích kinh tế trong tương lai và (b) có thể đo
lường một cách đáng tin cậy.
 Nợ phải trả là những nghĩa vụ của một doanh nghiệp phát sinh từ các
lợi ích đã nhận được trong quá khứ mà (a) khả năng cao phải thanh toán
và (b) thời điểm thanh toán được xác định một cách đáng tin cậy.
 Vốn chủ sở hữu là chênh lệch giữa tài sản và nợ phải trả của một doanh
nghiệp.

Các khái niệm về tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu đưa đến một mối quan
hệ nền tảng trong bảng cân đối:

Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu

1.2. Sự uỷ thác việc báo cáo cho các nhà quản lý

Trong khi các khái niệm cơ bản của các thành phần trong báo cáo tài chính khá
đơn giản, việc áp dụng chúng trong thực tiễn thường yêu cầu các xét đoán
phức tạp. Ví dụ, doanh thu nên được ghi nhận thế nào khi doanh nghiệp bán
một mảnh đất cho khách hàng và đồng thời cung cấp tài chính cho họ? Nếu
doanh thu được ghi nhận trước khi nhận được tiền, nên ước tính nợ không thu
hồi được như thế nào? Liệu các chi phí bỏ ra cho hoạt động nghiên cứu và phát
triển, mà việc mang lại lợi ích không chắc chắn, là tài sản hay chi phí khi chúng
phát sinh? Liệu các thoả thuận trong hợp đồng thuê tài sản hoặc thoả thuận về
phúc lợi sau lao động là nợ phải trả? Nếu vậy, chúng được đo lường như thế
nào?

Bởi các nhà quản lý của doanh nghiệp có những hiểu biết sâu sắc về việc kinh
doanh của doanh nghiệp mình, họ được uỷ thác trọng trách thực hiện các xét
đoán phù hợp để phản ánh vô số các giao dịch qua kế toán theo cơ sở dồn tích.
Việc trao toàn quyền quyết định về kế toán cho các nhà quản lý là rất quan
trọng vì nó cho phép họ phản ánh các thông tin nội bộ lên báo cáo tài chính
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vì các nhà đầu tư xem lợi nhuận như là thước đo
hiệu quả quản lý, các nhà quản lý thường có động cơ làm méo mó lợi nhuận
được báo cáo (gọi là quản trị thu nhập) qua các giả định thiên lệch. Hơn thế
nữa, việc sử dụng các con số kế toán cho các hợp đồng giữa doanh nghiệp và
các đối tượng bên ngoài cũng thúc đẩy việc can thiệp vào các con số đó.

Việc quản trị thu nhập trên làm sai lệch các dữ liệu kế toán tài chính, khiến
chúng có ít giá trị hơn cho những đối tượng sử dụng báo cáo tài chính bên
ngoài. Do vậy, uỷ thác việc báo cáo tài chính cho các nhà quản lý vừa có lợi
vừa có hại. Các quy định kế toán và kiểm toán là những công cụ được thiết kế
để giảm thiểu những mặt bất lợi và duy trì các lợi ích của việc uỷ thác này. Đạo
luật Sarbanes-Oxley đã tăng cường vai trò của uỷ ban kiểm toán đối với hội
đồng quản trị của một doanh nghiệp và yêu cầu các CEO và CFO phải có các
chứng chỉ liên quan đến báo cáo tài chính. Hệ thống pháp luật cũng được sử
dụng để phân xử các tranh chấp giữa các nhà quản lý, kiểm toán viên và nhà
đầu tư.

1.3. Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP)

Bởi vì các nhà đầu tư bên ngoài khó xác định được liệu các nhà quản lý đã sử
dụng sự linh hoạt trong kế toán để phản ánh trung thực các thông tin nội bộ
hay đơn thuần là che giấu tình hình thực tế, một số các quy ước kế toán đã
được lập ra để giảm thiểu vấn đề này. Ví dụ trong hầu hết các quốc gia, báo
cáo tài chính phải được lập dựa trên nguyên tắc giá gốc, tức là tài sản và nợ
phải trả phải được ghi nhận với giá tại thời điểm giao dịch, không phải theo giá
trị hợp lý, giá thay thế hay giá trị sử dụng. Điều này làm giảm khả năng các
nhà quản lý thổi phồng giá trị của tài sản đã được mua hoặc tạo nên, hoặc báo
cáo thấp hơn giá trị thực các khoản nợ phải trả. Tất nhiên, giá gốc cũng có
những hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư về giá trị tiềm
tàng của những tài sản bởi giá giao dịch trong quá khứ thường khác với giá trị
giá trị hiện tại. Để giải quyết điều này, các tổ chức ban hành chuẩn mực trên
thế giới đang yêu cầu tăng cường sử dụng giá trị hợp lý qua các chuẩn mực
mới của mình.

Giới thiệu kế toán theo giá trị hợp lý

Các chuẩn mực Mỹ và quốc tế yêu cầu các doanh nghiệp sử dụng kế toán giá
trị hợp lý (FVA) để định giá cho các tài sản tài chính nhất định. Các quy định
nêu rõ loại tài sản nào sẽ ghi nhận theo giá trị hợp lý và loại nào sẽ ghi nhận
theo giá gốc. Các chuẩn mực cũng quy định làm thế nào để ghi nhận lãi/lỗ
chưa thực hiện khi sử dụng giá trị hợp lý, và làm thế nào để đo lường giá trị
hợp lý.

Theo các quy định trên, chứng khoán kinh doanh và chứng khoán phái sinh (là
một công cụ tài chính thừa hưởng giá trị từ các thực thể cơ sở chẳng hạn như
tài sản, chỉ số, hay lãi suất — bản thân nó không có giá trị nội tại) phải được
ghi nhận theo giá trị hợp lý. Công cụ tài chính (ví dụ như trái phiếu) được báo
cáo theo giá trị hợp lý nếu doanh nghiệp dự định sẽ bán trong tương lai, hoặc
có thể bán được. Ngược lại, các công cụ nợ mà doanh nghiệp dự định giữ lại
đến ngày đáo hạn sẽ được báo cáo theo giá gốc.

Các chuẩn mực cũng nêu rõ khi nào lãi/lỗ phát sinh từ việc đánh giá lại theo
giá trị hợp lý sẽ xuất hiện trên báo cáo thu nhập hay chuyển trực tiếp vào vốn
chủ sở hữu. Lãi/lỗ chưa thực hiện của chứng khoán kinh doanh, công cụ tài
chính đã phát hành, và chứng khoán phái sinh không nhằm mục đích dự phòng
rủi ro sẽ được đưa vào lợi nhuận thuần. Đối với các công cụ tài chính dùng để
bán hoặc các chứng khoán phái sinh dùng để dự phòng rủi ro, bất kì khoản
lãi/lỗ nào chưa thực hiện sẽ được ghi nhận trực tiếp vào vốn chủ sở hữu và
không xuất hiện trong báo cáo thu nhập.

Cuối cùng, các cơ quan ban hành chuẩn mực nhận thấy rằng việc báo cáo các
tài sản tài chính theo giá trị hợp lý chịu ảnh hưởng bởi nhiều mức độ chủ quan
tuỳ thuộc vào tính thanh khoản và minh bạch của thị trường. Các chuẩn mực
đã quy định một trình tự cho việc đo lường giá trị hợp lý của các tài sản tài
chính. Các công cụ tài chính được giao dịch trên một thị trường có tính thanh
khoản cao và cân bằng cung-cầu được gọi là các Công cụ tài chính cấp một và
được định giá bởi giá thị trường gần nhất. Các tài sản tài chính không được
giao dịch trong một thị trường có tính thanh khoản cao, nhưng có thể xác định
giá trị theo các mô hình tài chính mà các thông tin đầu vào có sẵn trên thị
trường, được gọi là các Tài sản cấp hai và được định giá bởi mô hình tài chính
và các thông tin đầu vào đó. Cuối cùng, một số công cụ có thể được định giá
bằng cách mô hình tài chính với đầu vào là các ước tính của nhà quản lý. Đó là
các Tài sản cấp ba, và yêu cầu các xét đoán quan trọng của nhà quản lý để ước
tính giá trị hợp lý.

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 minh hoạ những thách thức trong việc
xác định giá trị hợp lý của các công cụ tài chính khi thị trường chứng khoán
kém thanh khoản. Đó là trường hợp các chứng khoán bảo đảm bằng tài sản thế
chấp (mortgage-backed securities – các chứng khoán chi trả lợi tức dựa vào
dòng tiền có được từ việc cho vay thế chấp nhà ở qua một quá trình gọi là
chứng khoán hoá). Rất nhiều chứng khoán loại đó được sở hữu bởi các tổ chức
tài chính khắp thế giới. Bởi tỉ lệ nợ xấu khó lường và tình trạng mất giá của các
bất động sản lớn, thị trường chứng khoán đảm bảo bằng tài khoản thế chấp trở
nên kém thanh khoản và dẫn đến biến động lớn trong giá trị của những chứng
khoán đó trong bảng cân đối của các ngân hàng và các doanh nghiệp đầu tư
đang sở hữu chúng.

Các chuẩn mực kế toán và quy định cũng giới hạn khả năng sử dụng các xét
đoán kế toán cho mục đích xấu bằng cách quy định cụ thể cách ghi nhận cho
một số loại giao dịch. Ví dụ, chuẩn mực kế toán về thuê tài sản quy định cụ thể
cách ghi nhận các hợp đồng thuê tài sản. Tương tự, các chuẩn mực về lương
hưu và các phúc lợi sau lao động trình bày làm thế nào để các doanh nghiệp
ghi nhận các cam kết về lương hưu và các phúc lợi khác. Những chuẩn mực kế
toán đó (được thiết kế để quy định về lượng) được được bổ sung bằng một bộ
các nguyên tắc thuyết minh. Các nguyên tắc thuyết minh đó hướng dẫn lượng
và loại thông tin nào sẽ cần được công bố và yêu cầu doanh nghiệp cung cấp
thông tin về các giả định, chính sách, và sự không chắc chắn liên quan đến các
con số được trình bày.

Ở Mỹ, Uỷ ban chứng khoán (Securities and Exchange Commission – SEC) có


trách nhiệm soạn thảo các chuẩn mực kế toán nhưng thường dựa vào các tổ
chức nghề nghiệp kế toán để thực hiện việc này. Từ năm 1973, các chuẩn mực
kế toán ở Mỹ được lập ra bởi Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (Financial
Accounting Standards Board – FASB). Các nguyên tắc kế toán được chấp nhận
chung (Generally Accepted Accounting Principles – GAAP) bao hàm các chuẩn
mực, quy ước, luật lệ và thủ tục mà FASB yêu cầu các doanh nghiệp áp dụng
trong việc lập báo cáo tài chính.

Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán công lập và dân sự tương tự cũng đã
và đang xây dựng các chuẩn mực kế toán phù hợp với các nước khác. Gần đây
nhất, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards
Board – IASB) và tiền thân của mình là Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế
(International Accounting Standards Committee – IASC) đã lập ra bộ Chuẩn
mực kế toán quốc tế (International Financial Reporting Standards – IFRS)và
đang được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới.

Sự hội tụ của U.S. GAAP và IFRS

Các chuẩn mực kế toán trên nhiều vùng lãnh thổ đã phát triển rời rạc mà
không chú ý đến việc thống nhất qua nhiều năm. Khái niệm hội tụ các chuẩn
mực đó xuất hiện lần đầu tiên vào giữa thế kỉ 20 xuất phát từ sự hội nhập kinh
tế sau Thế chiến thứ 2 và dòng vốn quốc tế lớn mạnh, tạo nên nhu cầu cần có
khả năng so sánh các thông tin tài chính tốt hơn.

IASC (International Accounting Standards Committee – Uỷ ban chuẩn mực kế


toán quốc tế), thành lập năm 1973, là tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán
quốc tế đầu tiên và đã ban hành chuẩn mực đầu tiên của mình năm 1974.
IASC được cơ cấu lại năm 2001 và đổi tên thành IASB (International
Accounting Standards Board – Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế). Mục tiêu
của tổ chức này là “xây dựng, vì lợi ích công chúng, một bộ chuẩn mực kế toán
quốc tế thống nhất, có chất lượng cao”. Đến năm 2011, bộ chuẩn mực của
IASB, được biết đến là IFRS (Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế) được bắt
buộc hoặc chấp nhận trên gần 120 nước. Ngoài ra trong năm 2011, tất cả
những nền kinh tế lớn còn lại đã lập tiến trình cho việc hội tụ hoặc áp dụng
IFRS.

Trong năm 2002, FASB của Mỹ và IASB đã ban hành “Thoả thuận Norwalk”,
cam kết về việc hội tụ U.S. GAAP và IFRS. Thoả thuận cho thấy một mục tiêu
chung là xây dựng các chuẩn mực kế toán mà có thể sử dụng cho cả các báo
cáo trong nước lẫn xuyên quốc gia nhằm giảm thiểu sự phức tạp và chi phí cho
các doanh nghiệp trên thị trường vốn quốc tế. Từ đó, đã có những bước đi
quan trọng cho việc hội tụ. Năm 2007, SEC bãi bỏ quy định các doanh nghiệp
nước ngoài niêm yết tại Mỹ khi phát hành báo cáo tài chính theo IFRS phải
cung cấp bản báo cáo tài chính được điều chỉnh theo U.S. GAAP. Cũng trong
năm đó, FASB và IASB hoàn thành dự án hợp tác đầu tiên của mình và thống
nhất ban hành chuẩn mực về Hợp nhất doanh nghiệp. Các trao đổi sau đó giữa
FASB, IASB và SEC đã tái khẳng định việc hội tụ các chuẩn mực và đặt năm
2011 là cột mốc để xác định liệu việc sử dụng IFRS có ý nghĩa với các doanh
nghiệp ở Mỹ không.

Trong chương 4, chúng ta sẽ cùng thảo luận một vài khác biệt trọng yếu giữa
U.S. GAAP và IFRS, và làm sao để so sánh kết quả kinh doanh của các doanh
nghiệp khi sử dụng hai hệ thống chuẩn mực đó.
Nỗ lực thống nhất các hệ thống chuẩn mực kế toán nhằm giảm thiểu khả năng
ghi nhận cùng một giao dịch kinh tế theo nhiều cách khác nhau của các nhà
quản lý theo thời gian lẫn giữa các doanh nghiệp. Từ đó, họ tạo nên một ngôn
ngữ kế toán chung và tăng cường độ tin cậy của các báo cáo tài chính qua việc
giới hạn khả năng can thiệp vào chúng. Tuy nhiên, tăng tính thống nhất của
các chuẩn mực đi kèm với một cái giá là giảm tính linh hoạt trong việc phản
ánh các đặc trưng của doanh nghiệp. Chuẩn mực kế toán cứng nhắc sẽ rất phù
hợp cho các giao dịch không dựa trên các thông tin nội bộ. Tuy nhiên, khi một
giao dịch mà xét đoán đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá kết quả của
giao dịch đó, các chuẩn mực cứng nhắc sẽ không áp dụng được vì chúng ngăn
các nhà quản lý sử dụng hiểu biết sâu rộng của mình về doanh nghiệp để xác
định cách báo cáo tốt nhất cho các giao dịch quan trọng. Hơn nữa, các chuẩn
mực kế toán quá cứng nhắc sẽ tạo động cơ cho các nhà quản lý sử dụng nguồn
lực thực tế để tái cấu trúc các giao dịch nhằm đạt được kết quả kế toán mong
muốn hoặc bỏ qua các giao dịch quá khó báo cáo.

1.4. Kiểm toán từ bên ngoài

Kiểm toán từ bên ngoài, được định nghĩa chung là sự xác nhận về tính trung
thực của báo cáo tài chính bởi một ai đó khác với người lập báo cáo tài chính,
nhằm đảm bảo các nhà quản lý sử dụng nhất quán các quy định và quy ước kế
toán qua nhiều năm, và các ước tính kế toán của họ là hợp lý. Trong tất cả thị
trường chứng khoán công chúng, các doanh nghiệp niêm yết đều được yêu cầu
là báo cáo tài chính của họ phải được kiểm toán bởi một kiểm toán viên độc
lập. Ở Mỹ, các chuẩn mực và thủ tục được tuân theo bởi kiểm toán viên độc lập
gọi là Các chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận chung (Generally Accepted
Auditing Standards – GAAS). Theo đạo luật Sarbanes-Oxley, trách nhiệm giám
sát các doanh nghiệp kiểm toán và đảm bảo các doanh nghiệp đó tuân thủ
GAAS thuộc Hội đồng giám sát kế toán doanh nghiệp công chúng (Public
Company Accounting Oversight Board – PCAOB), một tổ chức luật pháp thành
lập bởi đạo luật này. Tất cả các doanh nghiệp kiểm toán công chúng đều được
yêu cầu phải đăng kí với PCAOB, tổ chức có quyền kiểm tra và điều tra công
việc kiểm toán, và kỉ luật các kiểm toán viên nếu phát hiện sai phạm.

Đạo luật Sarbanes-Oxley cũng xác định mối quan hệ giữa một doanh nghiệp và
kiểm toán viên bên ngoài, yêu cầu kiểm toán viên bên ngoài báo cáo cho ủy
ban kiểm toán của doanh nghiệp chứ không phải nhà quản lý của doanh nghiệp
đó. Ngoài ra, Đạo luật cấm các doanh nghiệp kiểm toán độc lập cung cấp các
dịch vụ phi kiểm toán, chẳng hạn như kế toán, thiết kế và triển khai hệ thống
thông tin, định giá và một loạt các dịch vụ tư vấn khác cho một doanh nghiệp
mà mình đang thực hiện cuộc kiểm toán. Cuối cùng, Đạo luật yêu cầu các
doanh nghiệp kiểm toán thay đổi chủ nhiệm kiểm toán và kiểm tra lại công
việc của chủ phần hùn (partner) sau mỗi năm năm.

Trong khi các kiểm toán viên đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính đã công bố,
một điều quan trọng cần nhớ là trách nhiệm chính đối với các báo cáo vẫn
thuộc về người quản lý doanh nghiệp. Kiểm toán giúp cải thiện chất lượng và
độ tin cậy của dữ liệu kế toán bằng cách hạn chế khả năng tác động đến báo
cáo tài chính của doanh nghiệp nhằm đạt mục đích riêng của nhà quản lý. Tuy
nhiên, những cuộc kiểm toán đưa ra ý kiến sai lệch tại các công ty như Enron
và WorldCom, và các cuộc kiểm toán bị cáo buộc đưa ra ý kiến không đúng
gần đây tại các công ty như AIG, Bear Stearns, Countrywide Financial Corp,
Lehman Brothers, Washington Mutual, New Century Financial, và các doanh
nghiệp khác cho thấy kiểm toán là không hoàn hảo. Kiểm toán không thể xem
xét tất cả giao dịch của doanh nghiệp. Họ cũng có thể đưa ra ý kiến sai vì đánh
mất chất lượng hoặc kiểm toán viên không muốn chống lại nhà quản lý vì sợ
mất khách hàng trong tương lai.

Việc kiểm toán độc lập cũng có thể làm giảm chất lượng báo cáo tài chính vì nó
có thể hạn chế các quy định và quy ước kế toán đã được phát triển qua thời
gian. Ví dụ, FASB thường xem xét quan điểm của các kiểm toán viên khi soạn
thảo các chuẩn mực, nhưng kiểm toán viên vẫn có khả năng tranh cãi rằng các
chuẩn mực kế toán tạo ra các con số khó có thể kiểm toán, ngay cả khi các
quy định được đề xuất cung cấp thông tin liên quan cho các nhà đầu tư.

1.5. Nghĩa vụ pháp lý

Môi trường pháp lý, nơi xét xử tranh chấp kế toán giữa các nhà quản lý, kiểm
toán viên và nhà đầu tư cũng có thể có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của
các con số được báo cáo. Mối đe dọa từ các vụ kiện và án phạt có lợi cho việc
cải thiện tính chính xác của việc thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, khả
năng chịu trách nhiệm pháp lý nghiêm trọng cũng có thể không khuyến khích
các nhà quản lý và kiểm toán viên hỗ trợ trong việc soạn thảo luật pháp, trong
khi việc này rất cần những xét đoán của họ. Ngoài ra, Đạo luật Sarbanes-Oxley
được ban hành năm 2002 có các điều khoản có khả năng làm tăng nguy cơ
này: các nhà quản lý phải đích thân xác nhận các kết quả tài chính và kiểm
toán viên có thể bị tăng cường giám sát và chịu các án phạt từ PCAOB (Hội
đồng giám sát kế toán doanh nghiệp công chúng) do Đạo luật tạo ra. Ngoài ra,
có thể thấy từ rất nhiều vụ kiện chống lại các công ty kiểm toán và nhà quản lý
trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu rằng khả năng chịu trách nhiệm
pháp lý là rủi ro rất lớn đối với cả nhà quản lý doanh nghiệp và công ty kiểm
toán.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kế toán


Bởi vì các quy định kế toán hạn chế khả năng nhà quản lý bóp méo dữ liệu kế
toán vô tình gây ra sự nhiễu loạn, chúng không phải lựa chọn tối ưu để loại bỏ
hoàn toàn tính linh hoạt của nhà quản lý. Do đó, trên thực tế các hệ thống quy
định kế toán trên thế giới vẫn để lại nhiều khoảng trống cho các nhà quản lý
tác động đến báo cáo tài chính. Kết quả là thông tin trong các báo cáo tài
chính vừa bị nhiễu loạn vừa sai lệch, ngay cả khi có sự hiện diện của các quy
định kế toán và kiểm toán từ bên ngoài. Mục tiêu của phân tích chất lượng kế
toán là đánh giá mức độ mà kế toán của một doanh nghiệp phản ánh được tình
hình kinh doanh cơ bản thực tế và để đảo ngược mọi sai lệch trong kế toán.
Khi sai lệch tiềm tàng lớn, phân tích chất lượng kế toán có thể bổ sung thêm
giá trị đáng kể. Có 3 nguồn gây nhiễu và sai lệch trong dữ liệu kế toán: (1)
nhiễu loạn từ sự cứng nhắc trong các quy định kế toán, (2) sai sót ngẫu nhiên
trong dự báo, và (3) lựa chọn báo cáo có hệ thống của các nhà quản lý doanh
nghiệp để đạt được mục tiêu cụ thể. Mỗi yếu tố này sẽ được thảo luận sau đây.

2.1. Sự nhiễu loạn của các quy định kế toán

Các quy định kế toán tạo ra nhiễu loạn và sai lệch vì thường khó hạn chế
quyền tự do ra quyết định của nhà quản lý mà không làm giảm khả năng cung
cấp thông tin của dữ liệu kế toán. Ví dụ, Chuẩn mực báo cáo kế toán tài chính
(SFAS) số 2 do FASB ban hành yêu cầu các doanh nghiệp phải ghi nhận chi phí
nghiên cứu và phát triển ngay khi phát sinh. Rõ ràng, một số chi phí này có thể
mang hoặc không mang lại lợi ích trong tương lai. Tuy nhiên, vì SFAS 2 không
cho phép các doanh nghiệp phân biệt giữa hai loại chi phí dẫn đến sự sai lệch
có hệ thống các con số kế toán được báo cáo. Điều thú vị là IASB lại cho phép
các doanh nghiệp vốn hoá chi phí phát triển được cho là có giá trị kinh tế trong
tương lai nhưng vẫn yêu cầu ghi nhận ngay chi phí nghiên cứu giống FASB
(IAS 38). Do đó, nói chung, mức độ sai lệch xuất phát từ các chuẩn mực kế
toán phụ thuộc vào việc các chuẩn mực kế toán thống nhất nắm bắt được bản
chất các giao dịch của các doanh nghiệp tốt như thế nào.

2.2. Sai sót trong dự báo

Một nguồn gây nhiễu khác trong dữ liệu kế toán phát sinh một cách đơn thuần
từ sai sót trong dự báo, bởi vì các nhà quản lý không thể dự đoán kết quả của
các giao dịch hiện tại trong tương lai một cách hoàn hảo. Ví dụ, khi một doanh
nghiệp bán chịu sản phẩm, kế toán dồn tích yêu cầu nhà quản lý đưa ra xét
đoán về khả năng thu tiền từ khách hàng. Nếu khoản thanh toán được coi là
"chắc chắn một cách hợp lý", doanh nghiệp sẽ ghi nhận doanh thu, đồng thời
ghi nhận khoản phải thu trên bảng cân đối kế toán của mình. Nhà quản lý sau
đó ước tính khả năng các khoản phải thu không thu hồi được. Bởi nhà quản lý
không có khả năng đưa ra các xét đoán một cách hoàn hảo, khả năng phá sản
thực tế của khách hàng có thể khác với con số dự báo, dẫn đến sai sót trong
dự báo. Mức độ sai sót trong dự báo của nhà quản lý phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau bao gồm độ phức tạp của giao dịch, khả năng dự đoán của môi
trường doanh nghiệp và những thay đổi không lường trước được của nền kinh
tế.

[2.3.] Lựa chọn báo cáoquyết định kế toán của nhà quản lý

Các nhà quản lý doanh nghiệp cũng tạo nên sự nhiễu loạn và sai lệch trong dữ
liệu kế toán thông qua các quyết định kế toán của riêng họ. Các nhà quản lý có
nhiều động cơ để sử dụng quyền tự quyết trong kế toán của mình nhằm đạt
được các mục đích nhất định:

 Các giao ước nợ dựa trên thông tin kế toán (Accounting-based


debt covenants): Nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định kế toán để
đáp ứng những nghĩa vụ nhất định trong các hợp đồng vay nợ của họ. Ví
dụ, thỏa thuận vay giữa các doanh nghiệp với các ngân hàng hay các chủ
nợ khác yêu cầu bên vay nợ phải đáp ứng các giao ước liên quan đến khả
năng thanh toán lãi vay, tỷ lệ vốn lưu động và tài sản thuần, tất cả được
xác định theo các con số kế toán. Vi phạm các thỏa thuận này có thể gây
thiệt hại về tài chính bởi vì bên cho vay có thể áp dụng hình phạt, bao
gồm cả yêu cầu trả nợ ngay lập tức. Nhà quản lý của các doanh nghiệp
gần vi phạm các giao ước nợ thường sẽ lựa chọn các chính sách kế toán
và ước tính kế toán nào có thể giảm khả năng vi phạm giao ước.
 Hệ thống khen thưởng quản lý (Management compensation): Một
động cơ khác cho các lựa chọn kế toán của nhà quản lý đến từ thực tế là
tiền thưởng và sự bảo đảm việc làm của họ thường gắn liền với lợi nhuận
được báo cáo. Ví dụ: nhiều nhà quản lý hàng đầu nhận được tiền thưởng
nếu họ đạt được một số mục tiêu lợi nhuận được đặt ra. Điều này tạo
động cơ cho các nhà quản lý lựa chọn các chính sách kế toán và ước tính
kế toán nào có thể tối đa hóa tiền thưởng dự kiến của họ. Quyền mua cổ
phiếu cũng có thể khiến các nhà quản lý quản trị thu nhập. Quyền mua
tạo động cơ cho nhà quản lý giảm thu nhập được báo cáo của doanh
nghiệp nhằm giảm giá cổ phiếu trước khi nhận được quyền mua, và sau
đó thổi phồng thu nhập được báo cáo để làm tăng giá cổ phiếu sau khi
đã mua được chúng.
 Cuộc chiến kiểm soát doanh nghiệp (Corporate control contests):
Trong các cuộc tranh chấp quyền kiểm soát của doanh nghiệp, bao gồm
cả việc thâu tóm đối thủ và tranh chấp quyền biểu quyết, các nhóm cổ
đông cạnh tranh nhau để cố gắng giành được phần thắng. Các con số kế
toán được sử dụng rộng rãi trong việc tranh luận về hiệu quả quản lý
trong các cuộc tranh chấp này. Do đó, các nhà quản lý thường đưa ra các
quyết định kế toán làm ảnh hưởng đến nhận thức của nhà đầu tư trong
các cuộc tranh chấp như vậy.
 Thuế doanh nghiệp (Tax considerations): Nhà quản lý cũng có thể
đưa ra các lựa chọn kế toán đánh đổi giữa báo cáo thu nhập cao hoặc
giảm thiểu chi phí thuế. Ví dụ: các doanh nghiệp ở Mỹ bắt buộc phải sử
dụng LIFO trong kế toán hàng tồn kho trong cả báo cáo tài chínhcho các
cổ đông lẫn báo cáo thuế. Theo LIFO, khi giá hàng tồn kho có chiều
hướng tăng, lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm, do đó làm giảm các
khoản thuế phải nộp. Một số doanh nghiệp có thể hi sinh việc giảm thuế
để báo cáo lợi nhuận cao hơn trong báo cáo tài chính của họ.
 Quy định pháp luật (Regulatory considerations): Vì các số kế toán
được sử dụng bởi các cơ quan quản lý trong nhiều bối cảnh khác nhau,
các nhà quản lý của một số doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định
kế toán ảnh hưởng đến kết quả pháp lý. Ví dụ về các tình huống pháp lý
trong đó các con số kế toán được sử dụng bao gồm chống độc quyền, áp
thuế nhập khẩu để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước và chính
sách thuế doanh nghiệp.
 Thị trường vốn (Capital market considerations.): Nhà quản lý có thể
đưa ra các quyết định kế toán để tác động đến nhận thức của thị trường
vốn. Khi có thông tin bất cân xứng giữa nhà quản lý và nhà đầu tư bên
ngoài, chiến lược này có thể thành công trong việc ảnh hưởng đến nhận
thức của nhà đầu tư, ít nhất là tạm thời.
 Các bên liên quan: Các nhà quản lý cũng có thể đưa ra quyết định kế
toán để tác động đến nhận thức của các bên liên quan của doanh nghiệp.
Ví dụ, kể từ khi công đoàn có thể lợi dụng việc kinh doanh có lãi làm cơ
sở để yêu cầu tăng lương, nhà quản lý có thể đưa ra quyết định kế toán
nhằm giảm thu nhập được báo cáo khi họ phải đối mặt với các cuộc đàm
phán hợp đồng lao động. Ở các nước như Đức, nơi mà các công đoàn lao
động hoạt động mạnh mẽ, điều này dường như đóng một vai trò quan
trọng trong chính sách kế toán của doanh nghiệp. Những bên liên quan
quan trọng khác mà các doanh nghiệp có thể muốn tác động thông qua
báo cáo tài chính bao gồm các nhà cung cấp và khách hàng.
 Cạnh tranh: Động lực cạnh tranh trong ngành cũng có thể ảnh hưởng
đến các lựa chọn báo cáo của doanh nghiệp. Ví dụ: quyết định thuyết
minh về một bộ phận của một doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi mối
lo ngại rằng việc tiết lộ tách bạch từng bộ phận có thể giúp các đối thủ
cạnh tranh trong quyết định kinh doanh của họ. Tương tự, các doanh
nghiệp có thể không tiết lộ dữ liệu về mức lợi nhuận gộp theo dòng sản
phẩm vì sợ làm lộ thông tin nội bộ. Cuối cùng, các doanh nghiệp có thể
không khuyến khích gia nhập ngành bằng cách đưa ra lựa chọn kế toán
làm giảm thu nhập.

Ngoài các lựa chọn chính sách kế toán và ước tính kế toán, chất lượng thuyết
minh cũng là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng kế toán của doanh
nghiệp. Các nhà quản lý doanh nghiệp có thể chọn các chính sách thuyết minh
khiến cho người sử dụng báo cáo bên ngoài hiểu được bức tranh kinh tế thực
sự của doanh nghiệp dễ dàng hơn hoặc khó khăn hơn. Các quy định kế toán
thường quy định các yêu cầu thuyết minh tối thiểu, nhưng chúng không hạn
chế các nhà quản lý tự nguyện cung cấp thêm thông tin trong thuyết minh.
Nhà quản lý có thể sử dụng các phần khác nhau của báo cáo tài chính, bao
gồm Thư gửi cổ đông, phần Thảo luận và phân tích quản lý và phần chú thích
để mô tả chiến lược, chính sách kế toán và kết quả kinh doanh hiện tại của
doanh nghiệp. Cách các nhà quản lý sử dụng tính linh hoạt trong thuyết minh
là khá đa dạng.

3. Các bước phân tích chất lượng kế toán (STEPS IN


PERFORMING ACCOUNTING ANALYSIS)
Trong phần này chúng ta sẽ thảo luận về các bước mà một nhà phân tích có
thể thực hiện theo để đánh giá chất lượng kế toán của một doanh nghiệp.

3.1. Bước 1: Xác định các đo lường kế toán quan trọng (Step 1:
Identify Principal Accounting Policies)

Như đã thảo luận trong chương phân tích chiến lược kinh doanh, đặc điểm
ngành và chiến lược cạnh tranh riêng của một doanh nghiệp xác định các nhân
tố thành công chủ chốt và rủi ro chính của doanh nghiệp đó. Một trong những
mục tiêu của phân tích báo cáo tài chính là đánh giá xem các nhân tố thành
công và rủi ro này đang được doanh nghiệp quan tâm như thế nào. Do đó,
trong phân tích chất lượng kế toán, nhà phân tích nên xác định và đánh giá các
chính sách và ước tính kế toán được sử dụng để đo lường các yếu tố và rủi ro
quan trọng của doanh nghiệp đó.

Các nhân tố thành công chủ chốt trong ngành ngân hàng bao gồm lãi suất và
quản lý rủi ro tín dụng; trong ngành bán lẻ, quản lý hàng tồn kho là cực kì
quan trọng; và đối với một nhà sản xuất cạnh tranh về chất lượng sản phẩm
và đổi mới thì nghiên cứu - phát triển và tỉ lệ sản phẩm lỗi sau khi bán là
những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Một yếu tố thành công quan trọng
trong lĩnh vực cho thuê là việc đưa ra dự báo chính xác giá trị còn lại của các
thiết bị cho thuê vào cuối thời hạn thuê. Trong mỗi trường hợp này, nhà phân
tích phải xác định các phương pháp ước tính kế toán mà doanh nghiệp sử dụng
để phản ánh cấu trúc kinh doanh, các chính sách được sử dụng thể để thực
hiện ước tính và các ước tính quan trọng đã thực hiện theo các chính sách này.
Ví dụ, ước tính kế toán mà ngân hàng sử dụng để đo lường rủi ro tín dụng là
dự phòng tổn thất của khoản vay, và ước tính kế toán đo lường chất lượng sản
phẩm cho nhà sản xuất là chi phí bảo hành và dự trữ của doanh nghiệp đó. Đối
với một doanh nghiệp trong ngành cho thuê thiết bị, một trong những chính
sách kế toán quan trọng nhất là cách xác định giá trị còn lại. Giá trị còn lại ảnh
hưởng đến lợi nhuận và tài sản được báo cáo của doanh nghiệp. Nếu các giá trị
còn lại được đánh giá quá cao, doanh nghiệp sẽ phải chịu rủi ro phải thực hiện
các khoản ghi giảm lớn trong tương lai.

3.2. Bước 2: Đánh giá tính linh hoạt trong kế toán (Step 2: Assess
Accounting Flexibility)

Không phải tất cả các doanh nghiệp đều có sự linh hoạt như nhau trong việc
lựa chọn các chính sách và ước tính kế toán của họ. Một số lựa chọn kế toán
của các doanh nghiệp bị hạn chế nghiêm trọng bởi các chuẩn mực và quy ước
kế toán. Ví dụ, mặc dù nghiên cứu và phát triển là một yếu tố quan trọng cho
thành công của các công ty công nghệ sinh học, các nhà quản lý ở Mỹ không
thể tuỳ ý đưa ra quyết định kế toán (vốn hoá hay ghi nhận chi phí) khi báo cáo
về hoạt động này. Tương tự, mặc dù tiếp thị và xây dựng thương hiệu rất cần
thiết cho sự thành công của các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, họ
được yêu cầu phải ghi nhận vào chi phí cho tất cả các chi tiêu tiếp thị của họ.
Ngược lại, quản lý rủi ro tín dụng là một trong những yếu tố thành công quan
trọng đối với các ngân hàng và các nhà quản lý ngân hàng có quyền tự do ước
tính các khoản dự phòng nợ không thu hồi được cho các khoản vay của họ.
Tương tự như vậy, các nhà phát triển phần mềm có sự linh hoạt trong việc
quyết định tại những điểm nào trong chu kỳ phát triển của họ, các chi phí có
thể được vốn hoá.

Nếu nhà quản lý có ít sự linh hoạt trong việc lựa chọn chính sách và ước tính
kế toán liên quan đến các yếu tố thành công chính của họ, dữ liệu kế toán có
thể cung cấp ít thông tin hơn để hiểu về tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp. Đây có thể là trường hợp của các doanh nghiệp công nghệ sinh học tại
Mỹ khi được yêu cầu ghi nhận vào chi phí cho các chi tiêu nghiên cứu và phát
triển. Ngược lại, nếu nhà quản lý có tính linh hoạt trong việc chọn chính sách
và ước tính kế toán (như trong trường hợp các ngân hàng báo cáo rủi ro tín
dụng), các con số kế toán có thể giàu thông tin, tùy thuộc vào cách người quản
lý sử dụng tính linh hoạt này.

Ngoài mức độ linh hoạt mà các nhà quản lý có trong việc đo lường các yếu tố
thành công và rủi ro chính của doanh nghiệp họ, họ còn có sự linh hoạt trong
các chính sách kế toán khác. Ví dụ, các doanh nghiệp phải lựa chọn chính sách
khấu hao (phương pháp khấu hao theo đường thẳng hoặc khấu hao nhanh),
chính sách kế toán hàng tồn kho (LIFO – các doanh nghiệp Mỹ nói riêng, FIFO
hoặc Bình quân gia quyền) và các chính sách liên quan đến việc ước tính lương
hưu và phúc lợi sau lao động (lợi nhuận kỳ vọng trên tài sản, tỷ lệ chiết khấu
cho các khoản nợ và tỷ lệ tăng lương và chi phí chăm sóc sức khỏe). Vì tất cả
các lựa chọn chính sách này có thể có tác động đáng kể đến kết quả kinh
doanh được báo cáo của một doanh nghiệp, chúng cung cấp cơ hội cho các
doanh nghiệp đó quản trị thu nhập được báo cáo và nên là trọng tâm của việc
phân tích trong bước này.

3.3. Bước 3: Phân tích chiến lược kế toán áp dụng (Step 3: Evaluate
Accounting Strategy)

Khi người quản lý có được sự linh hoạt trong kế toán, họ có thể sử dụng nó để
truyền đạt tình hình kinh doanh của doanh nghiệp hoặc để che giấu kết quả
kinh doanh thực tế. Một số câu hỏi mà các nhà phân tích có thể xem xét trong
việc kiểm tra cách các nhà quản lý sử dụng tính linh hoạt trong kế toán của họ
bao gồm:

 Các chính sách kế toán của doanh nghiệp so với các chuẩn mực kế toán
trong ngành như thế nào? Nếu chúng không giống nhau, có phải vì chiến
lược cạnh tranh của doanh nghiệp đặc biệt không? Ví dụ, hãy xem xét
việc một doanh nghiệp báo cáo dự phòng chi phí bảo hành thấp hơn mức
trung bình của ngành. Có một cách giải thích là doanh nghiệp cạnh tranh
trên cơ sở sản phẩm chất lượng cao và đã đầu tư nguồn lực đáng kể để
giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng. Một cách giải thích khác là doanh nghiệp chỉ
đơn thuần là đang khai thiếu nghĩa vụ bảo hành thực tế của mình.
 Các nhà quản lý có chịu áp lực từ lương thưởng dẫn đến sử dụng tính linh
hoạt trong kế toán để quản trị thu nhập không? Ví dụ, doanh nghiệp có
sắp vi phạm các giao ước nợ? Hay các nhà quản lý có gặp khó khăn trong
việc đạt các mục tiêu tiền thưởng dựa trên số liệu kế toán? Nhà quản lý
có sở hữu lượng cổ phiếu đáng kể không? Doanh nghiệp có đang ở giữa
một cuộc tranh chấp quyền kiểm soát hay thoả thuận với công đoàn? Các
nhà quản lý cũng có thể đưa ra các quyết định kế toán nhằm giảm chi
phí thuế hoặc ảnh hưởng đến nhận thức của các đối thủ cạnh tranh với
doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp có thay đổi bất kì chính sách hoặc ước tính kế toán không?
Thay đổi đó là gì? Tác động của những thay đổi đó? Ví dụ, nếu chi phí
bảo hành giảm xuống, liệu có phải là do doanh nghiệp có sự đầu tư lớn
để cải thiện chất lượng sản phẩm?
 Các chính sách và ước tính của doanh nghiệp có thực tế trong quá khứ
không? Ví dụ: các doanh nghiệp có thể khai khống doanh thu và khai
thấp chi phí của họ trong năm bằng cách điều chỉnh các báo cáo hàng
quý (các báo cáo hàng quý không phải đối tượng cần kiểm toán toàn
diện từ bên ngoài). Tuy nhiên, quá trình kiểm toán vào cuối năm tài
chính buộc các doanh nghiệp phải thực hiện các điều chỉnh vào quý 4
lớn, tạo cơ hội cho nhà phân tích đánh giá chất lượng các báo cáo giữa
niên độ của doanh nghiệp. Tương tự như vậy, các doanh nghiệp khấu
hao tài sản cố định quá chậm sẽ buộc phải ghi nhận các khoản xóa sổ
lớn sau đó. Do đó, lịch sử của các lần xóa sổ tài sản có thể là dấu hiệu
của việc quản trị thu nhập trước đó.
 Doanh nghiệp có cơ cấu bất kỳ giao dịch kinh doanh quan trọng nào để
có thể đạt được các mục tiêu kế toán nhất định không? Ví dụ, theo chuẩn
mực kế toán hiện hành, các doanh nghiệp cho thuê có thể thay đổi điều
khoản cho thuê (thời hạn của hợp đồng thuê hoặc tùy chọn mua lại vào
cuối thời hạn thuê) để giao dịch đủ điều kiện trở thành dạng “cho thuê và
mua lại”. Lehman Brothers đã sử dụng các thỏa thuận mua lại như vậy
được gọi là các giao dịch "Repo 105" để làm đẹp bảng cân đối kế toán
của mình. Theo những thỏa thuận này, Lehman đã “bán” các khoản vay
ngắn hạn ngay trước khi kết thúc năm tài chính và sử dụng lợi nhuận thu
được từ giao dịch để trả nợ, nhờ đó hạ thấp hệ số đòn bẩy. Sau khi kết
thúc năm tài chính, doanh nghiệp lại vay tiền và mua lại khoản vay.
Những hành vi như vậy cho thấy rằng các nhà quản lý sẵn sàng chi tiêu
các nguồn lực kinh tế chỉ để đạt được một mục tiêu kế toán nào đó.

3.4. Bước 4: Đánh giá chất lượng công bố thông tin (Step 4: Evaluate
the Quality of Disclosure)

Các nhà quản lý có thể gây khó dễ cho người phân tích trong việc đánh giá
chất lượng kế toán và sử dụng báo cáo tài chính để nắm bắt được thực tế kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong khi các quy định kế toán yêu cầu một mức độ
thuyết minh tối thiểu, các nhà quản lý lại có rất nhiều lựa chọn về vấn đề cần
thuyết minh. Do đó, chất lượng thuyết minh là một khía cạnh quan trọng của
chất lượng kế toán.

Trong việc đánh giá chất lượng thuyết minh, một nhà phân tích cần xem xét
các câu hỏi sau đây:

 Doanh nghiệp có thuyết minh đầy đủ để đánh giá chiến lược kinh doanh
và kết quả đạt được của doanh nghiệp không? Ví dụ, một số doanh
nghiệp sử dụng Thư gửi cổ đông trong báo cáo thường niên của họ để
nêu rõ các điều kiện kinh doanh trong ngành, vị thế cạnh tranh và các kế
hoạch quản trị của doanh nghiệp trong tương lai. Những người khác sử
dụng lá thư này để làm nổi bật hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và
làm rõ mọi khó khăn cạnh tranh mà doanh nghiệp có thể phải đối mặt.
 Các chú thích có giải thích đầy đủ các chính sách kế toán và giả định
chính cũng như tính hợp lý của chúng không? Ví dụ: nếu các chính sách
ghi nhận doanh thu và chi phí của doanh nghiệp khác với các chuẩn mực
của ngành, doanh nghiệp có thể giải thích các lựa chọn của mình trong
phần chú thích. Tương tự, khi có những thay đổi đáng kể trong chính
sách kế toán của doanh nghiệp, chú thích có thể được sử dụng để giải
thích lý do của những thay đổi đó.
 Doanh nghiệp có giải thích đầy đủ về kết quả kinh doanh hiện tại của
mình không? Phần Thảo luận và Phân tích Quản lý (MD&A) trong báo cáo
thường niên tạo cơ hội cho các nhà phân tích hiểu được lý do đằng sau
các thay đổi trong kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một số doanh
nghiệp sử dụng phần này để liên kết kết quả tài chính với tình hình kinh
doanh. Ví dụ, nếu lợi nhuận giảm xuống trong một khoảng thời gian, đó
có phải là do cạnh tranh về giá hay do tăng chi phí sản xuất? Nếu chi phí
bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp tăng lên, đó có phải là do
doanh nghiệp đang đầu tư vào một chiến lược khác biệt hoá sản phẩm,
hoặc chỉ đơn thuần là vì chi phí không liên quan đến sản xuất đang tăng
lên? Dựa trên đánh giá của các doanh nghiệp trong danh sách Fortune
500, năm 2003 SEC đã công bố một thông tư chỉ thị rằng các doanh
nghiệp nên trình bày thêm trong MD&A về các chính sách kế toán quan
trọng của họ. Các doanh nghiệp được khuyến khích công bố những ước
tính kế toán khó nhất và cần xét đoán nhất cùng với các chính sách kế
toán đã sử dụng để đưa ra những con số đó.
 Nếu các quy tắc và quy ước kế toán hạn chế doanh nghiệp đo lường các
yếu tố thành công chủ chốt của mình một cách thích hợp, liệu doanh
nghiệp có cung cấp đầy đủ thông tin thuyết minh để giúp người ngoài
hiểu được các yếu tố này đang được quản lý như thế nào không? Ví dụ,
nếu một doanh nghiệp đầu tư vào chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách
hàng, các quy định kế toán không cho phép nhà quản lý vốn hoá những
chi tiêu này, ngay cả khi các lợi ích trong tương lai là chắc chắn. Phần
MD&A của doanh nghiệp có thể được sử dụng để nhấn mạnh cách các chi
phí này được quản lý và kết quả của chúng. Ví dụ, doanh nghiệp có thể
công bố tỷ lệ sản phẩm lỗi và sự hài lòng của khách hàng để người sử
dụng báo cáo bên ngoài có thể đánh giá sự tiến triển trong các vấn đề đó
và tác động đối với dòng tiền trong tương lai.
 Nếu một doanh nghiệp có nhiều bộ phận, chất lượng thuyết minh bộ
phận như thế nào? Một số doanh nghiệp cung cấp các thông tin rất hữu
ích về hiệu suất của họ theo dòng sản phẩm và phân vùng địa lý. Một số
doanh nghiệp khác lại gộp nhiều bộ phận khác nhau thành một đơn vị
lớn hơn. Mức độ cạnh tranh trong ngành và sự sẵn lòng của nhà quản lý
trong việc chia sẻ dữ liệu về hiệu suất của từng bộ phận riêng lẻ ảnh
hưởng đến chất lượng thuyết minh bộ phận của doanh nghiệp.
 Nhà quản lý sẽ phản ứng thế nào đối với các tin xấu? Chất lượng thuyết
minh của một doanh nghiệp được tiết lộ rõ ràng nhất qua cách nhà quản
lý xử lí các tin xấu. Liệu thuyết minh có giải thích đầy đủ lý do vì sao kết
quả kinh doanh lại thấp? Doanh nghiệp có nêu rõ chiến lược của mình,
nếu có, để giải quyết các vấn đề về hiệu suất của doanh nghiệp?
 Mối quan hệ với nhà đầu tư của doanh nghiệp tốt như thế nào? Doanh
nghiệp có cung cấp báo cáo minh bạch với dữ liệu chi tiết về doanh
nghiệp và hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp không? Liệu nhà quản
lý có thể tiếp cận được với các nhà phân tích không?

3.5. Bước 5: Xác định những điểm “cờ đỏ” tiềm tàng (Step 5: Identify
Potential Red Flags)

Để bổ sung cho bước trên, một cách tiếp cận phổ biến để phân tích chất lượng
kế toán là tìm kiếm các “cờ đỏ” báo hiệu kế toán có vấn đề. Những chỉ báo này
cho thấy rằng các nhà phân tích nên kiểm tra một số mục trong báo cáo chặt
chẽ hơn hoặc thu thập thêm thông tin về chúng. Một số "cờ đỏ" phổ biến bao
gồm:

 Những thay đổi trong kế toán không được giải thích, đặc biệt khi kết quả
kinh doanh kém. Điều này có thể cho thấy rằng các nhà quản lý đang sử
dụng sự linh hoạt trong kế toán của mình để "trang điểm" cho báo cáo
tài chính của họ.
 Các giao dịch giúp tăng lợi nhuận không được giải thích. Ví dụ, các doanh
nghiệp có thể thực hiện các giao dịch trên bảng cân đối kế toán, chẳng
hạn như bán tài sản hoặc vay chuyển nợ để tăngthành vốn, để ghi nhận
thu nhập khác trong các giai đoạn hoạt động kinh doanh kém hiệu quả.
 Các khoản phải thu liên quan đến các khoản tăng doanh thu tăng lên một
cách bất thường. Điều này có thể gợi ý rằng doanh nghiệp đang nới lỏng
các chính sách tín dụng của mình hoặc chuyển hàng hoá vào các đơn vị
phân phối để ghi nhận doanh thu trong kỳ kế toán hiện tại, thường được
gọi là “nhồi nhét kênh phân phối”. Nếu các chính sách tín dụng bị nới
lỏng quá mức, doanh nghiệp có thể đối diện với việc xoá sổ nợ phải thu
khó đòi trong các kỳ tiếp theo vì khách hàng vỡ nợ. Nếu doanh nghiệp
tăng tốc việc chuyển hàng hoá đến các nhà phân phối của mình, doanh
nghiệp có thể phải đối mặt với việc hàng hoá bị trả về hoặc sự sụt giảm
đơn hàng trong các kỳ tiếp theo.
 Hàng tồn kho liên quan đến các khoản tăng doanh thu tăng bất thường.
Nếu việc tăng tồn kho là do sự gia tăng thành phẩm, nó có thể là dấu
hiệu cho thấy nhu cầu đối với các sản phẩm của doanh nghiệp đang
chậm lại, báo hiệu doanh nghiệp có thể buộc phải giảm giá bán (và do đó
lợi nhuận sẽ thấp hơn) hoặc ghi giảm giá trị hàng tồn kho của mình. Việc
gia tăng hàng tồn kho đang sản xuất dở dang thường là tin tốt, đó có thể
là dấu hiệu cho thấy các nhà quản lý kỳ vọng rằng doanh thu sẽ tăng.
Nếu nguyên vật liệu thô tăng, có khả năng là việc sản xuất hoặc mua
hàng không hiệu quả, dẫn đến tăng giá vốn hàng bán (và do đó lợi
nhuận gộp thấp hơn).
 Khoảng cách giữa lợi nhuận được báo cáo và dòng tiền từ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp ngày càng tăng. Mặc dù việc các con số kế toán
theo cơ sở dồn tích khác với các báo cáo lưu chuyển tiền tệ là hợp pháp,
nếu các chính sách kế toán của doanh nghiệp vẫn giữ nguyên thì thường
tồn tại một mối quan hệ bền vững giữa hai dạng báo cáo này. Do đó, bất
kỳ thay đổi nào về mối quan hệ giữa lợi nhuận được báo cáo và dòng tiền
hoạt động đều có thể cho thấy những thay đổi nhỏ trong các ước tính
trên cơ sở dồn tích của doanh nghiệp. Ví dụ: một doanh nghiệp thực hiện
các hợp đồng xây dựng lớn có thể sử dụng phương pháp tiến độ hoàn
thành để ghi nhận doanh thu (doanh thu của hợp đồng xây dựng được
ghi nhận tương ứng với phần công việc đã hoàn thành do nhà thầu tự
xác định vào ngày lập Báo cáo tài chính mà không phụ thuộc vào hoá
đơn thanh toán theo tiến độ kế hoạch đã lập hay chưa và số tiền ghi trên
hoá đơn là bao nhiêu). Trong khi thu nhập và dòng tiền hoạt động có khả
năng khác nhau đối với một doanh nghiệp như vậy, chúng vẫn phải có
mối quan hệ ổn định với nhau. Bây giờ giả sử doanh nghiệp tăng doanh
thu trong một kỳ thông qua việc lợi dụng phương pháp tiến độ hoàn
thành. Sau đó, thu nhập của doanh nghiệp sẽ tăng lên, nhưng dòng tiền
của doanh nghiệp vẫn không bị ảnh hưởng. Sự thay đổi về chất lượng kế
toán của doanh nghiệp này sẽ được thể hiện qua sự thay đổi trong mối
quan hệ giữa thu nhập và dòng tiền của doanh nghiệp.
 Sự gia tăng khoảng cách giữa thu nhập kế toán và thu nhập chịu thuế
của doanh nghiệp. Một lần nữa, việc một doanh nghiệp thực hiện các
chính sách kế toán doanh nghiệp và kế toán thuế khác nhau là hợp pháp
miễn là luật thuế cho phép. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa kế toán doanh
nghiệp và kế toán thuế có khả năng vẫn ổn định theo thời gian, trừ khi
có những thay đổi đáng kể trong luật thuế hoặc các chuẩn mực kế toán.
Như vậy, khoảng cách ngày càng tăng giữa thu nhập kế toán và thu
nhập chịu thuế của doanh nghiệp đó có thể cho thấy việc báo cáo tài
chính cho các cổ đông đã bị tác động. Ví dụ, chi phí bảo hành trên báo
cáo tài chính doanh nghiệp được ước tính trên cơ sở dồn tích, nhưng
trong báo cáo thuế chúng được ghi nhận trên cơ sở tiền mặt. Trừ khi có
sự thay đổi lớn về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, còn không thì
hai con số này sẽ luôn có mối quan hệ nhất quán với nhau. Do đó, thay
đổi trong mối quan hệ này có thể là dấu hiệu cho thấy chất lượng sản
phẩm đang thay đổi đáng kể hoặc các ước tính kế toán đang thay đổi.
 Xu hướng sử dụng các cơ chế tài chính như quan hệ đối tác nghiên cứu
và phát triển, các doanh nghiệp có mục đích đặc biệt và việc bán các
khoản phải thu có thể truy đòi. Trong khi những thỏa thuận này có vẻ
hợp lý, chúng cũng có thể tạo cơ hội cho nhà quản lý khai thiếu nợ phải
trả và/hoặc thổi phồng tài sản của doanh nghiệp.
 Các khoản xoá sổ tài sản lớn bất thường. Điều này có thể gợi ý rằng nhà
quản lý không kịp phản ánh các thay đổi trong kinh doanh vào các ước
tính kế toán. Việc xóa sổ tài sản cũng có thể là kết quả của những thay
đổi bất ngờ trong tình hình kinh doanh.
 Điều chỉnh lớn trong số liệu kế toán quý 4. Báo cáo thường niên của
doanh nghiệp được kiểm toán bởi các kiểm toán viên độc lập, nhưng báo
cáo tài chính giữa niên độ thường chỉ được soát xét. Nếu nhà quản lý của
doanh nghiệp không đưa ra các ước tính kế toán thích hợp (như dự
phòng cho các khoản phải thu khó đòi) trong báo cáo giữa niên độ, họ có
thể phải thực hiện điều chỉnh vào cuối năm do áp lực từ các kiểm toán
viên độc lập. Do đó, việc liên tục điều chỉnh số liệu kế toán trong quý 4
qua các năm có thể cho thấy đã có tác động xấu đến báo cáo giữa niên
độ.
 Các vấn đề trong ý kiến kiểm toán ngoại trừ chưa được điều chỉnh thích
hợp. Điều đó cho thấy thái độ không chấp hành hoặc chỉ kiểm toán để
“mua ý kiến” của doanh nghiệp.
 Giao dịch với các bên liên quan hoặc giao dịch giữa các doanh nghiệp
trong cùng một tập đoàn. Những giao dịch đó có thể thiếu tính khách
quan của thị trường, và các ước tính kế toán của nhà quản lý cho các
giao dịch đó sẽ mang tính chủ quan hơn và có nguy cơ vụ lợi.
 Sự tăng lên bất thường trong tài sản hoặc nợ tiềm tàng. Những giao dịch
như vậy có thể cho thấy nỗ lực làm đẹp bảng cân đối của nhà quản lý.

Trong khi danh sách trên liệt kê một số "cờ đỏ" ẩn chứa chất lượng kế toán
thấp, điều quan trọng cần làm là phải tiến hành phân tích sâu hơn trước khi
đạt được kết luận cuối cùng. Mỗi "cờ đỏ" có nhiều cách diễn giải; một số cách
giải thích dựa trên các lý do thích hợp trong kinh doanh, và một số khác cho
thấy kế toán có vấn đề. Do đó, tốt nhất là sử dụng "cờ đỏ" làm điểm bắt đầu
để điều tra thêm, chứ không phải là điểm kết thúc để đi đến kết luận.

Như chúng ta đã thảo luận trong chương trước, điều quan trọng là phải duy trì
một tầm nhìn chiến lược rộng về thị trường, khách hàng, nhà cung cấp và xu
hướng kinh tế vĩ mô có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Giữ vững quan điểm này trong khi xác định các "cờ đỏ" trong báo cáo
tài chính có thể dẫn nhà phân tích đến các mục có thể cần quan tâm và cung
cấp một bối cảnh quan trọng cho các phân tích sau này.

3.6. Bước 6: Thực hiện điều chỉnh lại các nghiệp vụ bất thường (Step
6: Undo Accounting Distortions)

Nếu việc phân tích chất lượng kế toán cho thấy số liệu được báo cáo gây hiểu
nhầm, các nhà phân tích nên cố gắng khôi phục các con số đó nhằm giảm sai
lệch ở mức có thể. Tất nhiên, hầu như không thể hoàn toàn đảo ngược các sai
lệch bằng cách chỉ sử dụng thông tin từ bên ngoài. Tuy nhiên, một số cải thiện
có thể đạt được bằng cách sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh
báo cáo tài chính.

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp một sự đối chiếu giữa
kết quả kinh doanh theo kế toán dồn tích và kế toán tiền mặt. Nếu nhà phân
tích không chắc chắn về chất lượng của kế toán dồn tích, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ cung cấp một cách đánh giá thay thế cho kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp đó. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng cung cấp thông tin về cách từng
mục trong báo cáo kết quả kinh doanh được tạo ra từ các dòng tiền quan
trọng. Ví dụ, nếu một nhà phân tích lo ngại rằng doanh nghiệp đang vốn hoá
các khoản chi tiêu đáng lẽ phải ghi nhận là chi phí trong kỳ, thông tin trong
báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ là cơ sở để thực hiện các điều chỉnh cần thiết.

Bản thuyết minh báo cáo tài chính cũng cung cấp thông tin hữu ích trong việc
khôi phục các con số kế toán được báo cáo. Ví dụ, khi một doanh nghiệp thay
đổi chính sách kế toán của mình, bản thuyết minh sẽ cho thấy các ảnh hưởng
của thay đổi đó nếu đó là thay đổi trọng yếu. Tương tự như vậy, một số doanh
nghiệp cung cấp thông tin chi tiết về các ước tính dồn tích như dự phòng các
khoản phải thu khó đòi. Phần thuyết minh thuế thu nhập doanh nghiệp thường
cung cấp thông tin về sự khác biệt giữa chính sách kế toán của doanh nghiệp
dùng cho báo cáo tài chính và báo cáo thuế. Vì báo cáo thuế thường thận trọng
hơn so với báo cáo tài chính, thông tin trong phần thuyết minh thuế thu nhập
doanh nghiệp có thể được sử dụng để ước tính khoản thu nhập được báo cáo
cho cổ đông nào sẽ phải tuân theo các chính sách thận trọng hơn.

Trong chương 4, chúng tôi sẽ trình bày cách điều chỉnh các sai lệch thường gặp
trong kế toán.

4. Các cạm bẫy trong phân tích chất lượng kế toán


Có một số cạm bẫy tiềm tàng và các hiểu nhầm thông thường trong phân tích
chất lượng kế toán mà một nhà phân tích cần tránh.

4.1. Kế toán thận trọng không phải lúc nào cũng tốt

Một số doanh nghiệp có xu hướng ghi nhận chi phí các khoản chi tiêu để trở
nên thận trọng trong báo cáo tài chính và ghi nhận nhiều nhất có thể các tài
sản tiềm tàng. Tuy duy này thường thể hiện qua việc ghi nhận ngay vào chi phí
các chi tiêu cho nghiên cứu-phát triển và quảng cáo, và việc khấu hao nhanh
các tài sản vô hình. Nó cũng thể hiện qua việc lập các khoản dự phòng tổn thất
lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm, cho chi phí sáp nhập, và cho chi phí cơ cấu
lại.

Từ quan điểm của người sử dụng báo cáo tài chính, phải thừa nhận rằng kế
toán thận trọng không đồng nghĩa là kế toán “tốt”. Người sử dụng báo cáo tài
chính muốn đánh giá kế toán của doanh nghiệp có phản ánh tốt tốt việc kinh
doanh của doanh nghiệp một cách không thiên vị và kế toán thận trọng có thể
gây hiểu lầm tương tự kế toán không thận trọng trong khía cạnh này.
Đúng là rất khó để ước tính các lợi ích kinh tế của nhiều tài sản vô hình. Tuy
nhiên, bản chất vô hình của một số tài sản không có nghĩa là chúng không có
giá trị. Thật vậy, đối với nhiều doanh nghiệp, các loại tài sản này lại có giá trị
nhất. Ví dụ, hai tài sản quý giá nhất của các doanh nghiệp dược phẩm, như
Pfizer, Merck, và Novartis, là những nghiên cứu cho phép họ tạo ra các loại
thuốc mới và lực lượng bán hàng cho phép họ bán những loại thuốc đó cho bác
sĩ. Tuy nhiên, cả hai tài sản đó đều không được ghi nhận trên bảng cân đối kế
toán của họ. Theo quan điểm của các nhà đầu tư, việc kế toán không ghi nhận
các tài sản vô hình không làm giảm tầm quan trọng của các tài sản đó. Nếu
không có trong báo cáo tài chính, nhà đầu tư phải xem xét các nguồn thông tin
thay thế về các tài sản này.

Hơn nữa, kế toán thận trọng thường tạo cơ hội cho các nhà quản lý “làm mượt
thu nhập”, ngăn các nhà phân tích phát hiện kết quả kinh doanh yếu kém kịp
thời. Cuối cùng, theo thời gian các nhà đầu tư sẽ nhận ra doanh nghiệp nào
đang thận trọng quá mức và có thể giảm sự quan tâm đến các công bố của
nhà quản lý.

4.2. Không phải tất cả các nghiệp vụ bất thường đều có vấn đề

Chúng ta rất dễ nhầm lẫn giữa các nghiệp vụ kế toán bất thường với các
nghiệp vụ có vấn đề. Mặc dù các lựa chọn kế toán bất thường có thể làm khó
so sánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp với kết quả của các doanh
nghiệp khác, sự lựa chọn kế toán như vậy có thể phù hợp nếu việc kinh doanh
của doanh nghiệp thật sự khác biệt. Ví dụ, các doanh nghiệp theo chiến lược
khác biệt hoá sản phẩm hoặc các doanh nghiệp cơ cấu tổ chức của mình một
cách sáng tạo để tận dụng lợi thế trong các tình hình thị trường cụ thể có thể
có những lựa chọn kế toán bất thường để phản ánh đúng tình hình kinh doanh
của họ. Do đó, điều quan trọng cần làm là đánh giá các lựa chọn kế toán của
các doanh nghiệp trong bối cảnh chiến lược kinh doanh của họ.

Tương tự, một điều quan trọng là không mặc định xem tất cả các thay đổi
trong chính sách kế toán của doanh nghiệp và các khoản dồn tích là hành động
quản trị thu nhập. Thay đổi chính sách kế toán cũng có thể phản ánh môi
trường kinh doanh đã thay đổi. Ví dụ, một doanh nghiệp cho thấy sự gia tăng
bất thường trong hàng tồn kho có thể đang chuẩn bị giới thiệu sản phẩm mới.
Tương tự, gia tăng bất thường trong các khoản phải thu có thể chỉ là do những
thay đổi trong chiến lược bán hàng của doanh nghiệp. Giảm bất thường trong
dự phòng các khoản phải thu khó đòi có thể phản ánh doanh nghiệp đã thay
đổi khách hàng mục tiêu. Do đó, điều quan trọng là một nhà phân tích phải
xem xét tất cả các lý do có thể cho các thay đổi chính sách kế toán và điều tra
chúng bằng cách sử dụng thông tin định tính có sẵn trong báo cáo tài chính
của doanh nghiệp.

5. Giá trị của thông tin kế toán và phân tích chất lượng kế
toán
Giá trị của thông tin kế toán và phân tích chất lượng kế toán là gì? Như các
động cơ và cơ hội đã nêu ra cho các nhà quản lý tác động đến các con số kế
toán được báo cáo, một số người đã tranh cãi rằng các thông tin kế toán và
phân tích chất lượng kế toán sẽ không có ích cho các nhà đầu tư.

Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra giá trị của chỉ số thu nhập trên vốn chủ sở hữu
(ROE) bằng cách so sánh thu nhập chứng khoán có thể kiếm được bởi một nhà
đầu tư giả định, người có tầm nhìn hoàn hảo về thu nhập của doanh nghiệp,
ROE và dòng tiền cho năm sau. Để đánh giá tầm quan trọng của thu nhập, nhà
đầu tư đó được giả định mua cổ phiếu của các doanh nghiệp có thu nhập tăng
trong năm tiếp theo và bán cổ phiếu của các doanh nghiệp có thu nhập trong
năm tiếp theo giảm. Nếu chiến lược này được thực hiện một cách nhất quán,
nhà đầu tư giả định sẽ kiếm được lợi nhuận trung bình là 37,5% mỗi năm trong
khoảng thời gian 40 năm. Nếu một chiến lược đầu tư tương tự được thực hiện
bằng cách sử dụng ROE, tức là mua cổ phiếu với ROE tăng trong năm tiếp theo
và bán cổ phiếu có ROE giảm trong năm tiếp theo, thu nhập hàng năm sẽ tăng
lên 43%. Ngược lại, thông tin về dòng tiền dường như ít có giá trị hơn thông tin
về thu nhập và ROE. Lợi nhuận hàng năm nhận được từ việc mua cổ phiếu với
dòng tiền trong năm tiếp theo tăng và bán cổ phiếu với dòng tiền giảm sẽ chỉ
là 9%. Điều này cho thấy thu nhập và ROE là thông tin phù hợp hơn cho nhà
đầu tư so với dòng tiền.

Nhìn chung, nghiên cứu này cho thấy rằng các thể chế và quy ước được tạo ra
để giảm thiểu việc lạm dụng kế toán của các nhà quản lý nói chung có hiệu
quả trong việc cung cấp sự đảm bảo cho các nhà đầu tư. Nghiên cứu đề nghị
rằng các nhà đầu tư không nên xem việc quản trị thu nhập quá phổ biến đến
nỗi làm hoàn toàn không tin vào các thông tin về thu nhập.

Một số nghiên cứu đã xem xét liệu phân tích chất lượng kế toán có đem lại giá
trị gì hay không. Các bằng chứng chỉ ra rằng các nhà phân tích xuất sắc có thể
kiếm được lợi nhuận lớn từ chứng khoán. Các nghiên cứu cho thấy rằng các
doanh nghiệp bị chỉ trích về báo cáo tài chính tài chính gây hiểu lầm thường
phải trải qua một đợt giảm giá cổ phiếu trung bình khoảng 8%. Các doanh
nghiệp thổi phồng thu nhập trước khi phát hành cổ phiếu và sau đó báo cáo
kết quả kinh doanh kém thường có giá trị cổ phiếu kém hơn nhiều so với các
doanh nghiệp không có hành vi quản trị thu nhập rõ ràng. Cuối cùng, các
doanh nghiệp chịu sự điều tra của SEC về hành vi quản trị thu nhập cho thấy
mức giảm giá cổ phiếu trung bình là 9% khi hành vi quản trị thu nhập bị công
khai và họ tiếp tục có giá trị cổ phiếu kém trong hai năm tiếp theo.

Những phát hiện này ngụ ý rằng các nhà phân tích có thể tạo ra giá trị cho các
nhà đầu tư bằng cách xác định các doanh nghiệp cố tình tạo sự hiểu lầm trong
kế toán. Các phát hiện cũng chỉ ra rằng thị trường chứng khoán cuối cùng cũng
sẽ phát hiện ra hành vi quản trị thu nhập. Trong hầu hết các trường hợp, các
hành vi quản trị thu nhập không được phát hiện cho đến phút cuối thì giá cổ
phiếu bị giảm cũng sẽ cung cấp bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp đã
tăng thu nhập trước đây bằng cách gây hiểm lầm trong kế toán.

Tổng kết
Tóm lại, phân tích chất lượng kế toán là một bước quan trọng trong quá trình
phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp. Mục đích của phân tích chất lượng
kế toán là đánh giá mức độ mà kế toán của một doanh nghiệp phản ánh được
thực tế kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp đó. Phân tích chất lượng kế toán
giúp cải thiện độ tin cậy của các kết luận cho việc phân tích tài chính, bước tiếp
theo trong phân tích báo cáo tài chính.

Có sáu bước chính trong phân tích chất lượng kế toán. Nhà phân tích bắt đầu
bằng việc xác định các chính sách và ước tính kế toán trọng yếu ứng với ngành
và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Bước thứ hai là đánh giá mức độ
linh hoạt của các nhà quản lý trong qua các quy định và quy ước kế toán. Tiếp
theo, nhà phân tích cần đánh giá cách các nhà quản lý sử dụng tính linh hoạt
trong kế toán của họ và các động cơ đằng sau các chiến lược kế toán của nhà
quản lý. Bước thứ tư liên quan đến việc đánh giá độ sâu và chất lượng thuyết
minh của một doanh nghiệp. Tiếp theo nhà phân tích sẽ cần xác định bất kỳ
"cờ đỏ" nào cho thấy cần phải điều tra thêm. Bước cuối cùng trong phân tích
kế toán là khôi phục các con số kế toán để loại bỏ bất kỳ sự nhiễu loạn và
thiên lệch nào phát sinh từ các quy định kế toán và quyết định quản lý.
Chương tiếp theo thảo luận về cách triển khai các khái niệm này và cho thấy
cách thực hiện một số loại điều chỉnh phổ biến nhất.

You might also like