Professional Documents
Culture Documents
PHẦN MỞ ĐẦU
Báo cáo tài chính (BCTC) là một trong những báo cáo quan trọng nhất của doanh nghiệp
nhằm cung cấp thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như sức khoẻ tài chính.
Qua việc công bố BCTC thì sự kết nối doanh nghiệp với các cổ đông, nhà đầu tư và các bên liên
quan trở nên tốt hơn. Tuy nhiên, BCTC luôn tiềm ẩn rủi ro xảy ra sai sót (chủ quan hoặc khách
quan), làm sai lệch thông tin BCTC, ảnh hưởng đến tính trung thực, minh bạch của BCTC, từ đó
ảnh hưởng đến các quyết định của đối tượng sử dụng thông tin. Cổ đông hoặc các nhà đầu tư có
thể phải đối mặt với tình trạng thông tin không cân xứng (information asymmertry) dẫn đến sai
lệch khi đưa ra quyết sách đầu tư do thông tin cung cấp không đúng, bị che giấu hoặc không
được cung cấp đầy đủ.
Trong quy trình lập BCTC, các doanh nghiệp thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế
toán - một giá trị gần đúng của một chỉ tiêu liên quan đến BCTC được ước tính trong trường
hợp thực tế đã phát sinh nhưng chưa có số liệu chính xác hoặc chưa có phương pháp tính toán
chính xác hơn, hoặc một chỉ tiêu thực tế chưa phát sinh nhưng đã được ước tính để lập BCTC.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng sử dụng các ước tính kế toán như là một công cụ đắc lực để
“phù phép” lợi nhuận. Khi cần lợi nhuận ở mức cao để thuyết phục và tạo lòng tin cho các tổ
chức tín dụng, doanh nghiệp có thể: giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng giảm giá hàng tồn
kho, giảm dự phòng phải thu khó đòi, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuống dưới
giá trị thuần, vốn hóa các khoản chi phí không đủ điều kiện vốn hóa… Hoặc khi cần lợi nhuận ở
mức thấp để tránh các nghĩa vụ thuế hoặc nhận các ưu đãi từ phía chính phủ, doanh nghiệp có
thể: tăng mức khấu hao, tăng mức dự phòng giảm giá hàng tồn kho…
Trong năm 2020, nhiều nước trên thế giới chứngn kiến GDP tăng trưởng âm, và hiện
tại vẫn đang gánh chịu những ảnh hưởng dai dẳng từ dịch Covid. Trong bối cảnh khó khăn
này, Việt Nam nổi lên như một ngôi sao sáng với GDP tăng trưởng dương mặc dù mức độ
tăng trưởng có phần giảm sút. Sự ổn định về kinh tế của Việt Nam nhờ phần lớn vào các
biện pháp hữu hiệu từ Chính phủ trong việc kiểm soát sự lây lan của dịch bệnh, đi kèm với
nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài và sức tiêu thụ mạnh mẽ từ nhu cầu trong nước. Đi cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, thị trường M&A tại Việt Nam thể hiện sự ổn định cao,
thậm chí tăng trưởng mạnh trong năm 2021.
Trong 10 tháng đầu năm 2021, thị trường M&A đã thu hút 8,8 tỉ đô la Mỹ, tăng
17,9% so với năm 2020 và 13.7% so với năm trước dịch, 2019. Trong khi đó,số lượng giao
1|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
dịch giảm nhẹ Sự thu hút đầu tư M&A ngày càng tăng tại Việt Nam được thể hiện một cách rõ
nét không chỉ qua sự tăng trưởng của tổng giá trị giao dịch mà còn qua giá trị bình quân trên
mỗi giao dịch. Giá trị bình quân cho mỗi giao dịch tăng từ 28,1 triệu đô la Mỹ trong năm 2019
lên 42,8 triệu đô la Mỹ trong tháng 10 năm 2021. Ngày càng nhiều thương vụ có giá trị trên 100
triệu đô la Mỹ được ghi nhận. Chỉ trong tháng 10 năm 2021, đã có 22 giao dịch so với 19 giao
dịch trong toàn bộ năm 2019. Các thương vụ tương tự được kì vọng sẽ tiếp tục diễn ra trong thời
gian tới.
Thấy được tầm quan trọng của hai đối tượng trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Sự thay
đổi các ước tính kế toán trong các công ty khi sáp nhập, và mua bán” để nghiên cứu.
2|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
Thay đổi ước tính kế toán là việc điều chỉnh giá trị ghi sổ của tài sản, nợ phải trả hoặc giá trị
tiêu hao định kỳ của tài sản được tạo ra từ việc đánh giá tình trạng hiện thời và lợi ích kinh tế
trong tương lai cũng như nghĩa vụ liên quan đến tài sản và nợ phải trả đó. Thực tế có nhiều
doanh nghiệp nhầm lẫn giữa thay đổi chính sách kế toán và thay đổi ước tính kế toán. Chính
sách kế toán là các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán cụ thể được doanh nghiệp áp dụng
trong việc lập và trình bày BCTC. Các doanh nghiệp sẽ tiến hành thay đổi ước tính kế toán khi
xảy ra một trong ba tình huống sau: nếu căn cứ thực hiện ước tính có thay đổi hoặc do có thêm
thông tin mới hoặc do có thêm kinh nghiệm mới. Khi khó xác định một thay đổi là thay đổi
chính sách kế toán hay thay đổi ước tính kế toán thì thay đổi này được coi là thay đổi ước tính
kế toán.
2. PHÂN LOẠI ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN
Có rất nhiều cách phân loại ước tính kế toán, một trong những cách thức đó là phân loại các
ước tính kế toán gắn với từng tiêu thức khác nhau, cụ thể:
− Phân loại ước tính kế toán theo nội dung kinh tế, bao gồm:
+ Giá trị hao mòn tài sản cố định, giá trị còn lại của tài sản cố định;
+ Giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho, dự phòng giảm giá hàng tồn kho;
+ Giá trị nợ phải thu khó có khả năng thu hồi, dự phòng nợ phải thu khó đòi;
+ Giá trị dự phòng phải trả về bảo hành sản phẩm, dự phòng phải trả về tái cơ cấu doanh nghiệp;
+ Các khoản trích trước và phân bổ chi phí trả trước;
+ Doanh thu được ghi nhận theo tỷ lệ khối lượng công việc hoàn thành (bao gồm doanh thu theo
hợp đồng xây dựng), phân bổ doanh thu chưa thực hiện …
− Phân loại ước tính kế toán theo các khoản mục trên BCTC: giúp kế toán nhận biết và trình bày
các ước tính kế toán trên BCTC phù hợp với tính chất của từng ước tính.
+ UTKT được ghi nhận là tài sản: Tài sản thuế thu nhập hoãn lại; Chi phí trả trước ngắn hạn, dài
hạn; Giá trị còn lại của tài sản cố định; Giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho…
3|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
+ UTKT được ghi nhận giảm tài sản: Là các khoản được ghi nhận để điều chỉnh giảm giá trị tài
sản được ghi nhận thành một yếu tố riêng trên BCTC như: Hao mòn tài sản cố định; Dự phòng
giảm giá hàng tồn kho; Dự phòng nợ phải thu khó đòi…
+ UTKT được ghi nhận là nợ phải trả: Gồm các khoản dự phòng phải trả về bảo hành sản phẩm;
Dự phòng tổn thất của các hợp đồng lớn có rủi ro; Dự phòng tái cơ cấu doanh nghiệp
+ UTKT được ghi nhận trên báo cáo kết quả kinh doanh: gồm các ước tính kế toán được ghi
nhận trên bảng cân đối kế toán và được ghi nhận tương ứng trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh
− Phân loại ước tính kế toán theo thời gian phát sinh: giúp nhận biết cơ sở phát sinh các UTKT,
từ đó nhận diện các căn cứ, phương pháp xác định phù hợp đối với từng UTKT.
+ UTKT liên quan đến các chỉ tiêu đã phát sinh: Khấu hao tài sản cố định; Phân bổ chi phí trả
trước; Dự phòng giảm giá hàng tồn kho; Dự phòng nợ phải thu khó đòi…
+ UTKT được xác định theo dữ liệu hiện tại gồm các khoản dự phòng tổn thất cho các tài sản
hiện có… ghi nhận doanh thu của hợp đồng xây dựng, hợp đồng cung cấp dịch vụ đã thực hiện.
+ UTKT liên quan đến các chỉ tiêu chưa phát sinh: Các khoản dự phòng phải trả, các khoản trích
trước, bảo hành sản phẩm, dự phòng tái cơ cấu doanh nghiệp…
3. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH ƯỚC LƯỢNG KẾ TOÁN
Để đưa ra số liệu ước tính có tính chính xác và có độ tin cậy cao, kế toán phải đưa ra các dự
báo trong tương lai căn cứ vào tình hình thực tế tại đơn vị, các số liệu đã phát sinh trong quá
khứ và sự nhận định mang tính nghề nghiệp.
Về mặt kĩ thuật, có nhiều phương pháp để xác định giá trị các ước tính kế toán. Các phương
pháp này dựa trên cơ sở các mô hình, kĩ thuật lo lường có tính chất tài chính, định lượng được
chấp nhận chung và áp dụng phổ biến. Dưới đây là một số phương pháp xác định ước tính kế
toán thường được áp dụng:
− Phương pháp so sánh trực tiếp: Theo cách thức ước tính này, hàng hóa hoặc các khoản đầu tư
tài chính có thể được so sánh với sản phẩm hoàn toàn giống với sản phẩm hiện có hoặc sản
phẩm cùng loại, tương tự trên thị trường để đánh giá và đưa ra số liệu ước tính gần nhất với các
khoản giảm giá hoặc tổn thất tài sản của doanh nghiệp. Đặc biệt phương pháp này sẽ rất cần
thiết khi đánh giá hàng tồn kho là các sản phẩm có giá trị lớn như nhà ở, máy móc trong các đơn
vị xây lắp.
− Phương pháp so sánh có điều chỉnh: Thay vì so sánh với sản phẩm tương tự có sẵn trên thị
trường, kế toán phải thu thập thông tin trên thị trường về các tài sản hoặc nợ phải trả tương tự
với đối tượng định giá được trao đổi hoặc thanh toán trên thị trường và điều chỉnh giá thị trường
quan sát được để xác định giá trị của đối tượng được định giá. Phương pháp này có phạm vi áp
4|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
dụng khá rộng do doanh nghiệp dễ dàng thu thập thông tin về các tài sản và nợ phải trả tương tự
được trao đổi trên thị trường. Tuy nhiên, kết quả của phương pháp này lại phụ thuộc nhiều vào
sự điều chỉnh giá trị thị trường quan sát được để ước tính và chịu sự ảnh hưởng lớn của các xét
đoán chủ quan.
− Phương pháp thu thập: Phương pháp này được sử dụng kỹ thuật chiết khấu dòng tiền có thể
thu được hoặc phải chi trả trong tương lại với tỷ lệ chiết khấu phù hợp. Tỷ lệ chiết khấu có thể
được xác định theo nguyên tắc thị trường hoặc phi thị trường. Phương pháp tính theo chiết khấu
dòng tiền thường được áp dụng để ước tính kế toán liên quan đến tài sản dài hạn bằng cách tính
thu nhập mà tài sản được dự tính tạo ra cho doanh nghiệp trong suốt vòng đời sử dụng tài sản.
− Phương pháp hồi quy: Căn cứ vào mối quan hệ giữa ước tính kế toán với các tham số có mối
quan hệ để xác định ước tính trên cơ sở giá trị dự báo của các tham số đã biết có mối quan hệ
trực tiếp với các yếu tố khác của BCTC. Ví dụ, ước tính nợ phải thu khó đòi theo doanh thu và
thời hạn thanh toán, ước tính dự phòng bảo hành sản phẩm theo sản lượng bán và doanh thu…
Ngoài ra, các phương pháp xét đoán khác cũng có thể được áp dụng trên cơ sở các kế hoạch, dự
toán của đơn vị, các khoản ước tính, trích trước, dự phòng… và căn cứ trên việc phân tích các
cơ sở dữ liệu trên BCTC hay sự logic và mối tương quan giữa các chỉ tiêu. Tuy nhiên, từng
phương pháp trên chỉ đưa ra các nhận định đúng dựa trên các số liệu chính xác, trung thực và
minh bạch.
5|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI DOANH NGHIỆP VIÊT NAM TIẾN HÀNH M&A
Mặc dù xu hướng M&A đã hình thành và bắt đầu phát triển ở Việt Nam, tuy nhiên, vẫn còn
nhiều yếu tố cản trở. Cản trở lớn nhất chính là sự yếu kém về năng lực cạnh tranh xét trên cả 3
cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Năm 2006, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đánh
giá và xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam là 77/125 quốc gia, giảm 3 bậc so với năm
2005; năm 2007, con số này là 91/118. Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông
tin, hiểu biết về các điều kiện, thủ tục M&A. Hơn nữa, những quy định về hoạt động M&A tại
Việt Nam còn chưa thực sự cụ thể. Bên cạnh đó, mặc dù là một thị trường hết sức tiềm năng và
nhu cầu M&A đang trở thành một xu thế tất yếu, nhưng thực tế hiện nay, Việt Nam vẫn là thị
trường mới mẻ và luôn tiềm ẩn những bất lợi khi thực hiện các giao dịch M&A. Cho đến nay, ở
Việt Nam chủ yếu mới chỉ thực hiện mua lại hoặc sáp nhập đối với các doanh nghiệp nhà nước
yếu kém, khó tồn tại độc lập hoặc có nguy cơ phá sản…vào một doanh nghiệp nhà nước khác
theo kiểu mệnh lệnh hành chính, nên chưa thể phản ánh đầy đủ tính ưu việt của hoạt động này.
Nhìn chung, thực trạng hoạt động M&A ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, mang tính tự phát, số lượng ít,
thiếu hiểu biết, ít thông tin cũng như không có nhiều tổ chức uy tín đứng ra thực hiện hoạt động
này. Thực trạng trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chính sau đây:
Về phía nhà đầu tư
Các nhà đầu tư luôn quan tâm đến việc họ sẽ được sở hữu bao nhiêu phần trăm cổ phần của
doanh nghiệp vì tỷ lệ cổ phần đó sẽ quyết định quyền lợi của họ trong việc đưa ra quyết định
quan trọng cho doanh nghiệp. Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam, các quyết định quan trọng
của doanh nghiệp cần có quyết định của Đại hội Cổ đông thì phải có số cổ đông nắm giữ ít nhất
65% cổ phần của doanh nghiệp chấp thuận. Ngoài ra, mỗi một đại diện cho một phần vốn góp
vào doanh nghiệp được bầu vào Hội đồng Quản trị đều có một phiếu biểu quyết ngang nhau cho
các quyết định của Hội đồng này. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp cổ phần của các nhà đầu tư lớn rất
không khả thi để đạt được con số 65% và trong trường hợp các nhà đầu tư lớn có đại diện là
thành viên Hội đồng Quản trị thì với số phiếu ít ỏi là một phiếu khiến họ gần như không góp
được tiếng nói “có đủ độ nặng” trong các vấn đề về quản trị doanh nghiệp.
Vấn đề định giá doanh nghiệp luôn luôn là vấn đề phức tạp đối với cả các nhà đầu tư và
doanh nghiệp khi đàm phán. Đối với các thị trường non trẻ như Việt Nam, việc phát triển hay
6|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
suy thoái của một doanh nghiệp rất khó dự đoán. Các phương pháp định giá truyền thống như
phương pháp chiết khấu theo dòng tiền thường không mang lại kết quả chính xác thực sự như áp
dụng với các doanh nghiệp tăng trưởng ổn định và dễ dự đoán trong các nền kinh tế phát triển.
Phương pháp này, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố giả định về thị trường cũng như khả năng
tăng trưởng trong tương lai. Một trong những yếu tố ngăn cản việc này là các doanh nghiệp
thường không thực hiện nghiên cứu thị trường và xác định thị phần của doanh nghiệp một cách
đúng đắn. Mặt khác, các số liệu kế toán trong quá khứ của doanh nghiệp cũng không đủ tin cậy
và chi tiết để có thể thực hiện việc phân tích một cách chính xác. Các vấn đề tìm thấy khi thực
hiện công việc rà soát đặc biệt tài chính của các doanh nghiệp cũng là các yếu tố ảnh hưởng đến
các giả định dùng cho dự báo tài chính trong tương lai. Một phương pháp khác thường được nhà
đầu tư lựa chọn thay thế, hoặc sử dụng cùng với phương pháp chiết khấu dòng tiền, đó là
phương pháp dùng hệ số nhân doanh thu/lợi nhuận. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những
hạn chế nhất định khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển thì hệ số nhân này
thường được nhà đầu tư trên thị trường chấp nhận ở mức cao. Ngoài ra, phương pháp này chỉ sử
dụng các số liệu về lợi nhuận hiện tại cho các chỉ số P/E hiện tại, còn với các chỉ số P/E tương
lai cũng phải dùng phương pháp dự đoán tài chính như phương pháp chiết khấu dòng tiền.
Mặt khác, ở những thương vụ của các quỹ đầu tư, giá trị cộng hưởng hầu như là không có.
Ngay cả đối với việc một doanh nghiệp này đầu tư vào các doanh nghiệp khác nhưng không
cùng ngành nghề kinh doanh cũng ít có khả năng mang lại giá trị cộng hưởng, thậm chí còn có
ảnh hưởng trái chiều. Với những doanh nghiệp đang trong quá trình cải cách, việc phải bỏ thêm
chi phí để cải thiện tình hình doanh nghiệp như hoàn thiện hệ thống phân phối, mua bảo hiểm
cho nhân viên, chi phí trả cho chuyên gia…là các yếu tố tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp.
Việc làm lợi nhuận tăng vọt do cộng hưởng mang lại cũng khó thực hiện khi mà sản phẩm của
doanh nghiệp chỉ được tiêu thụ trên thị trường trong nước mà không vươn ra được bên ngoài...
Do đó, giá trị công hưởng ít khi được các nhà đầu tư chú ý đến khi đầu tư vào các doanh nghiệp
của Việt Nam, hoặc cũng khó để có thể thấy được các giá trị cộng hưởng đó thực chất có tồn tại
hay không. Trong tương lai, việc tạo ra giá trị cộng hưởng chỉ có thể thấy rõ nhất trong ngành
Ngân hàng nếu xảy ra trường hợp các ngân hàng mua bán sáp nhập với nhau để tạo ra một thực
thể kinh tế lớn mạnh hơn nhằm tăng sức cạnh tranh với các đối thủ khác.
Về phía doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, người Việt Nam vẫn còn mang nặng tâm lý Á Đông, coi công ty là “đứa con” của
mình nên ít khi muốn bán nó. Chính vì vậy, mà nhiều doanh nghiệp trong nước vẫn còn dè dặt
với hoạt động M&A. Điều này, khiến cho các vụ M&A tại Việt Nam còn hạn chế.
7|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
Thứ hai, nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn còn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của thị
trường về hoạt động M&A, việc thiếu các quản trị viên cấp cao để có thể làm giám đốc những
cơ sở mới cũng là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp vẫn còn dè chừng trong
ra quyết định M&A. Vấn đề đặt ra là trong thời gian tới, cần đào tạo bài bản và chuyên sâu hơn
từng vị trí nhân sự cụ thể.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam vẫn tồn tại một số vấn đề sau:
Phần lớn các công ty tư nhân ở Việt Nam hay ở một nước đang phát triển khác, kể cả Trung
Quốc, thường có hai hệ thống sổ sách kế toán. Một sổ được hạch toán dựa trên các hóa đơn
chứng từ hợp pháp và đầy đủ và là cơ sở để soạn lập báo cáo thuế và quyết toán thuế cuối năm.
Các số liệu này, cũng được dùng để đưa lên là các thông tin chính thức khi công bố thông tin về
doanh nghiệp ra bên ngoài. Một hệ thống sổ sách khác được theo dõi nội bộ trong đó, có các
khoản doanh thu và chi phí vì nhiều lý do mà không có hóa đơn chứng từ hợp lệ. Mặc dù cách
làm này là vi phạm pháp luật, nhưng trên thực tế vẫn không thể tránh khỏi.
Khi sử dụng các con số để thuyết phục hay dùng làm số liệu quá khứ để dự đoán tăng
trưởng của doanh nghiệp được định giá cho các nhà đầu tư, thì các doanh nghiệp thường dùng
hệ thống sổ sách nội bộ do các số liệu này có thể làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh
nghiệp, mặc dù thông tin này không bao giờ được doanh nghiệp công bố ra bên ngoài. Cũng liên
quan đến vấn đề trên, nếu như doanh thu và lợi nhuận ghi ngoài được tính vào, thì kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp cần phải được tính thêm các khoản chi phí về thuế giá trị gia tăng trên
doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp tính cho lợi nhuận tăng thêm và các chi phí không được
khấu trừ khi tính thuế mà sẽ bị loại bỏ bởi các cơ quan thuế khi cơ quan này thực hiện công việc
quyết toán thuế hằng năm với doanh nghiệp
Tài sản cố định của doanh nghiệp thường không chứng minh được nguồn gốc chủ sở hữu.
Có những tài sản được mua từ trước khi hình thành doanh nghiệp, mang tên chủ sở hữu cá nhân
của chủ doanh nghiệp, sau đó được đưa vào sử dụng cho doanh nghiệp và ghi vào sổ sách kế
toán là tài sản của doanh nghiệp. Những tài sản này, về mặt pháp lý sẽ không thuộc sở hữu của
doanh nghiệp và càng có giá trị lớn nếu như tài sản đó là đất đai, nhà cửa hay quyền sử dụng
đất.
Việc đánh giá lại tài sản cố định cũng được thực hiện một cách không chính thức, cơ sở
đánh giá lại không tin cậy và không được các chuẩn mực kế toán của Việt Nam công nhận.
Ngoài ra, có trường hợp tài sản cố định được sử dụng làm tài sản thế chấp ngân hàng mà không
được khai báo với nhà đầu tư.
8|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
Cách tính tỷ lệ khấu hao của các doanh nghiệp tư nhân thường không tuân thủ theo chế độ
kế toán. Hơn nữa, một số tài sản theo chế độ kế toán là tài sản cố định nhưng lại được doanh
nghiệp hạch toán một lần là chi phí.
Cách phân loại chi phí giá vốn, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng
không được doanh nghiệp ghi một cách chính xác. Việc này, ảnh hưởng rất nhiều đến việc phân
tích và dự báo chi phí của doanh nghiệp trong tương lai, cũng như xem xét vị thế của doanh
nghiệp về tính cạnh tranh về giá vốn hàng bán hay tiết kiệm chi phí quản lý của doanh nghiệp so
với các doanh nghiệp cùng ngành.
Việc tính toán giá thành hàng tồn kho cũng không được chính xác do lỗi của phần mềm kế
toán và hạn chế về quản lý hàng tồn kho và thành phẩm dở dang cũng như ghi nhận các chi phí
sản xuất đầu vào.
Các chi phí được ghi nhận trên cơ sở thu chi, chứ không trên cơ sở dồn tích như quy định
của các Chuẩn mực kế toán. Các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi và hàng tồn kho không
được lập. Việc hạch toán chi phí trả trước dài hạn không nhất quán và chính xác, không có sự
theo dõi.
Việc rút vốn của chủ sở hữu và tiếp vốn cho hoạt động kinh doanh: Khi rà soát sổ tiền mặt
của doanh nghiệp, một vấn đề cũng hay gặp phải đó là việc chủ sở hữu có thể rút tiền của doanh
nghiệp ra bất kỳ lúc nào cho mục đích chi tiêu hoặc đầu tư cá nhân. Các khoản tiền này, sẽ được
ghi là tạm ứng cho chủ sở hữu mà không có quy định khi nào sẽ được hoàn lại, hoặc được ghi
dưới bút toán là “rút vốn”. Ngoài ra, có sự lẫn lộn giữa vay vốn các thành viên cá nhân của gia
đình. Các khoản vay này, có thể tính lãi mà không xem xẻt đến các quy định liên quan đến thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và thuế nhà thầu.
Thuế thu nhập cá nhân và thuế nhà thầu: Các doanh nghiệp thường không nộp thuế thu
nhập cá nhân của nhân viên và của chính các thành viên chủ chốt của công ty mà thông thường
là các thành viên trong gia đình, bạn bè, bằng cách khai không đúng chi phí lương của họ với cơ
quan thuế. Cũng tương tự như vậy, các loại thuế nhà thầu phải trả cho Nhà nước đối với các hợp
đồng kinh tế với nhà thầu theo quy định cũng thường được các doanh nghiệp “quên”.
Các khoản thu nhập khác thường do chủ doanh nghiệp tự đầu tư và kinh doanh bên ngoài
và thu được lợi nhuận. Các khoản thu nhập này thường được ghi nhận vào báo cáo tài chính
dùng làm cơ sở định giá. Những khoản thu nhập này là không thường xuyên và cần phải được
loại bỏ khi dự báo tài chính trong tương lai. Ngoài ra, cần phải xem xét kỹ thêm rằng liệu các
khoản thu nhập này có thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh mà được cấp phép kinh doanh
trong giấy phép kinh doanh hay không.
2. CÁC ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN
9|Page
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
Ước tính kế toán: Là một giá trị gần đúng của một chỉ tiêu liên quan đến báo cáo tài chính
được ước tính trong trường hợp thực tế đã phát sinh nhưng chưa có số liệu chính xác hoặc chưa
có phương pháp tính toán chính xác hơn, hoặc một chỉ tiêu thực tế chưa phát sinh nhưng đã
được ước tính để lập báo cáo tài chính, ví dụ:
Ước tính các chỉ tiêu đã phát sinh
- Dự phòng nợ phải thu khó đòi
- Dự phòng giảm giá đầu tư
- Dự phòng giảm giá hàng tồn kho
- Trích khấu hao tài sản cố định
- Chi phí trả trước
- Giá trị sản phẩm dở dang
- Doanh thu ghi nhận trước
- Doanh thu hợp đồng xây dựng dở dang
Ước tính chỉ tiêu chưa phát sinh:
- Dự phòng chi phí bảo hành
- Chi phí trích trước
- Ước tính kế toán liên quan đến kiện tụng, tranh chấp
2.1. Ước tính dự phòng hàng tồn kho
Hàng tồn kho là một thành phần trong tài sản của doanh nghiệp, tuy thuộc vào lĩnh vực
kinh doanh mà hàng tồn kho chiếm tỷ trọng khác nhau. Tuy nghiên nó là một khoản mục rất kho
đo lường, vì thế phải áp dụng cận thẩn các ước lượng kế toán để định giá và ghi nhận chính xác.
Theo VAS 02
Việc trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho là đáp ứng nguyên tắc thận trọng, bởi lẽ
trong kế toán, tài sản không được phản ánh lớn hơn giá trị thuần có thể thực hiện được ước tính
từ việc bán hay sử dụng chúng. Để có được con số giá trị thuần có thể thực hiện được này, các
kế toán viên cần phải dựa vào sự biến động của giá cả hoặc chi phí trực tiếp liên quan đến các
sự kiện diễn ra sau ngày kết thúc năm tài chính, mà các sự kiện này được xác nhận với các điều
kiện có ở thời điểm hiện tại.
Dự phòng được lập theo từng khoản mục và phải xem xét mục đích sử dụng của hàng
tồn kho để lập cho phù hợp. Nguyên vật liệu vì dự trữ để sử dụng hơn là để bán nên không được
lập dự phòng, ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt.
Vào cuối mỗi kỳ kế toán doanh nghiệp phải thực hiện đánh giá lại giá trị thuần có thể
thực hiện được của hàng tồn kho năm đó. Tất cả các khoản chênh lệch hợp lý giữa giá gốc và
giá trị thuần có thể thực hiện được sẽ được ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ
10 | P a g e
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
của doanh nghiệp (theo hướng hoàn nhập hoặc bổ sung).Dự phòng giảm giá hàng tồn kho mang
tính ước tính cao vì việc xác định giá trị có thể thu hồi được là một điều không chắc chắn. Trong
một số trường hợp, việc này có thể thuận lợi hơn khi doanh nghiệp bán hàng tồn kho đó trong
thời gian lập BCTC sau ngày kết thúc niên độ.
Tuy nhiên VAS 02 cho thấy thiếu chi tiết hơn IAS 02, khi IAS 02 mở rộng nhiều điểm
sau:
IAS 02 không áp dụng cho trường hợp
- Công việc đang dở dang theo các hợp đồng xây dựng;
- Công cụ tài chính;
- Nông lâm sản và quặng khoáng sản;
- Tài sản sinh học liên quan đến hoạt động nông nghiệp.
Với IAS 02 : Chi phí mua hàng có thể bao gồm chênh lệch tỷ giá phát sinh trực tiếp
trong lần mua hàng tồn kho gần nhất được tính bằng ngoại tệ trên hóa đơn trong một số ít các
trường hợp được phép, theo phương pháp hạch toán thay thế được chấp nhận trong IAS 21- Tác
động của các thay đổi về tỷ giá hối đoái, Trong một số trường hợp hạn chế, chi phí đi vay được
bao gồm trong chi phí hàng tồn kho. Những trường hợp này được xác định trong phương pháp
hạch toán thay thế được phép trong IAS 23- Chi phí đi vay và loại bỏ phương pháp tính giá xuất
kho LIFO. Chính những thay đổi phù hợp này IAS 02 giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro khi
phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp khác để mua bán hoặc thâu tóm.
11 | P a g e
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
12 | P a g e
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
Thứ ba, các ước tính kế toán thường có các tính toán phức tạp nên việc tính toán rất dễ xảy
ra những sai sót.
Thứ tư, một số ước tính kế toán thường được thực hiện vào cuối kỳ kế toán năm. Tại thời
điểm nhạy cảm đó, do áp lực công việc nên kế toán có thể để xảy ra những sai sót không mong
muốn như: Hạch toán sai tài khoản, sai quy định kế toán hiện hành, quy trình tính toán gặp sai
sót, hoặc sai trong quá trình ghi sổ, kết chuyển...
Thứ năm, các ước tính kế toán thường liên quan trực tiếp đến kết quả kinh doanh và nghĩa
vụ thuế của doanh nghiệp đối với Nhà nước nên dễ bị xử lý chủ quan theo hướng có lợi cho đơn
vị.
Thứ sáu, các ước tính kế toán có bản chất là những xét đoán chủ quan, nên chế độ kế toán
liên quan đến các ước tính kế toán thường xuyên thay đổi nhằm đem lại sự đáng tin cậy hơn,
minh bạch hơn trong quá trình lập các ước tính. Bởi vậy, nếu đơn vị không thường xuyên cập
nhật văn bản mới thì việc lập các ước tính sai với quy định sẽ dễ dàng mắc phải.
Thứ bảy, các bằng chứng để chứng minh cho các ước tính kế toán thường là khó thu thập
hơn và tính thuyết phục thấp hơn các bằng chứng chứng minh cho các chỉ tiêu khác trong báo
cáo tài chính.
14 | P a g e
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
15 | P a g e
Nhóm 01-Kế toán quốc tế
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SỰ THAY ĐỔI CÁC ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN
TRONG CÁC CÔNG TY KHI SÁP NHẬP VÀ MUA BÁN.................................................................3
1. KHÁI NIỆM VỀ SỰ THAY ĐỔI CÁC ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN.............................................................3
2. PHÂN LOẠI ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN................................................................................................3
3. PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH ƯỚC LƯỢNG KẾ TOÁN...................................................................4
CHƯƠNG 2: ƯỚC LƯỢNG KẾ TOÁN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KHI MUA BÁN VÀ
SÁP NHẬP................................................................................................................................................6
1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI DOANH NGHIỆP VIÊT NAM TIẾN HÀNH M&A............................6
2. CÁC ƯỚC TÍNH KẾ TOÁN............................................................................................................9
3. NHẬN ĐỊNH VỀ ƯỚC LƯỢNG KẾ TOÁN...................................................................................13
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................................................15
16 | P a g e