Professional Documents
Culture Documents
CÂU HỎI TÌNH HUỐNG KDQT2
CÂU HỎI TÌNH HUỐNG KDQT2
Câu 1: Một công ty điện tử đang xem xét làm thế nào để cung cấp cho thị trường thế giới
bộ vi xử lý được sử dụng trong tiêu dùng và các sản phẩm điện tử công nghiệp. Một nhà
máy sản xuất có chi phí xây dựng khoảng 500 triệu USD và đòi hỏi một lực lượng lao
động có tay nghề cao. Tổng giá trị của thị trường thế giới cho sản phẩm này trong vòng
10 năm tới ước tính là từ $ 10 và $ 15 tỷ USD. Các mức thuế hiện hành trong ngành công
nghiệp này hiện đang ở mức thấp. Công ty nên áp dụng một chiến lược sản xuất tập trung
hoặc phân tán? Những vị trí nào nên được lựa chọn để nhà máy hoạt động hiệu quả?
Dell có những địa điểm sản xuất ở Brazil, Ireland, Malaysia và Trung Quốc, bên
cạnh ba địa điểm sản xuất ở Mỹ (địa điểm thứ tư đang xây dựng). Địa điểm được lựa
chọn do có chi phí nhân công thấp, năng suất cao của lực lượng lao động địa phương, và
sự gần gũi với các thị trường khu vực quan trọng. Dell thích sản xuất ở gần những thị
trường khu vực để cắt giảm chi phí vận chuyển và tăng tốc độ phân phối tới khách hàng
(Dell vẫn sản xuất máy tính ở Mỹ bởi vì lực lượng lao động Mỹ có năng suất cao và Mỹ
là thị trường lớn nhất của công ty).
Bên cạnh việc sản xuất, hầu hết các hoạt động hỗ trợ khách hàng của Dell được
thực hiện bên ngoài nước Mỹ với một trung tâm chính ở Bangalore, Ấn Độ (khách hàng
ở Mỹ khi gọi tới trung tâm hỗ trợ khách hàng của Dell sẽ được kết nối tới một đại lý dịch
vụ ở Ấn Độ). Ấn Độ được chọn không chỉ bởi tỉ lệ lương thấp mà còn vì sự sẵn có của
lực lượng lao động biết nói tiếng Anh và được đào tạo. Tuy nhiên, di chuyển việc hỗ trợ
khách hàng ra nước ngoài không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Sự khác biệt về giọng nói và
văn hóa giữa người gọi ở Mỹ và nhân viên người Ấn Độ đã dẫn đến việc không thể tiếp
thu tốt những phàn nàn từ khách hàng. Theo sau việc khai trương trung tâm hỗ trợ ở
Bangalore vào năm 2001, năm 2004 Dell đã di chuyển vài hoạt động hỗ trợ của công ty
cho những khách hàng tổ chức lớn về Mỹ. Hoạt động hỗ trợ của Dell cho các khách hàng
bán lẻ vẫn đặt ở Bangalore và ban quản lý của Dell cam kết tiếp tục duy trì hoạt động của
trung tâm hỗ trợ tại Ấn Độ này.
Việc cung cấp của Dell cũng mang tính toàn cầu. Dell có khoảng 200 nhà cung
cấp, hơn một nửa là ở bên ngoài nước Mỹ. Ba mươi nhà cung cấp chiếm khoảng 75%
tổng thu mua của Dell. Hơn 50% nhà cung cấp chính là ở châu Á.
Từ lúc khởi đầu, mô hình kinh doanh của Dell đã dựa trên việc bán hàng trực tiếp
cho khách hàng, bỏ qua các nhà bán sỉ và bán lẻ. Ý tưởng ban đầu nằm ở chỗ bằng việc
cắt giảm khâu phân phối giữa, Dell có thể cung cấp máy tính cho khách hàng với giá rẻ
hơn. Lúc đầu, việc bán hàng trực tiếp đã đạt được thành công thông qua điện thoại và thư
tín, nhưng từ giữa thập niên 1990, đa số các giao dịch của Dell được thực hiện qua
Internet, và tới năm 2004, 85% giao dịch được thực hiện qua kênh này. Bán hàng qua
mạng đã cho phép Dell cung cấp cho khách hàng khả năng tùy chỉnh đơn đặt hàng của
họ, phối trộn và làm phù hợp các linh kiện như bộ vi xử lí, bộ nhớ, màn hình, ổ đĩa cứng,
ổ đĩa CD và DVD, bàn phím và chuột để tạo thành một hệ thống phù hợp nhất với những
đòi hỏi riêng biệt của họ.
Trong khi khả năng tùy chỉnh sản phẩm, khi kết hợp với giá thấp, đã tạo nên sự
hấp dẫn của Dell với khách hàng, sức mạnh thật sự của mô hình kinh doanh này nằm ở
cái cách mà Dell quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu để tối thiểu hóa hàng tồn kho trong
vòng ba ngày trong khi lắp ráp PC cho các đơn đặt hàng của khách hàng cá nhân. Dell sử
dụng Internet để báo thông tin kịp thời về số lượng đặt hàng cho nhà cung cấp của công
ty. Nhà cung cấp của Dell, bất kể ở đâu, cập nhật thông tin từng phút về xu hướng nhu
cầu linh kiện mà họ sản xuất, cùng với số lượng trông đợi trong 4-12 tuần tới. Các nhà
cung cấp của Dell sử dụng thông tin này để điều chỉnh kế hoạch sản xuất của họ cho phù
hợp, chỉ sản xuất đủ các linh kiện theo nhu cầu của Dell và vận chuyển chúng bằng các
hình thức phù hợp nhất, điển hình là bằng xe tải hay chuyển phát nhanh bằng hàng
không, để có thể có mặt kịp lúc sản xuất. Sự hợp tác chặt chẽ này đã được đẩy xa tới mức
Dell chia sẻ dữ liệu chủ chốt cho các nhà cung cấp chính. Ví dụ, công ty Quanta của Đài
Loan sản xuất máy tính xách tay cho Dell với những con chip xử lí tín hiệu số của Texas
Instruments. Để hợp tác tốt hơn, Dell chuyển thông tin cho Texas Instruments bên cạnh
việc chuyển cho Quanta. Điều này cho phép Texas Intruments điều chỉnh kế hoạch của
họ theo nhu cầu của Quanta dựa trên dữ liệu mà Dell đã cung cấp.
Mục tiêu sau cùng của Dell là loại bỏ hoàn toàn hàng tồn kho ra khỏi chuỗi cung
ứng giữa các nhà cung cấp và Dell, thay thế hàng tồn kho một cách hiệu quả bằng thông
tin. Mặc dù Dell chưa đạt được mục tiêu này, công ty cũng đã cắt giảm lượng hàng tồn
kho xuống mức thấp nhất trong ngành. Năm 2004, Dell chỉ tích trữ hàng tồn kho có 3
ngày so với 30, 45 thậm chí 90 ngày của các đối thủ cạnh tranh. Đây là một lợi thế đáng
kể trong ngành công nghiệp máy tính, nơi mà chi phí linh kiện chiếm 75% doanh thu và
mất 1% giá trị mỗi tuần do tốc độ lỗi thời nhanh chóng. Ví dụ, khi những ổ đĩa cứng
nhanh hơn, dung lượng lớn hơn được giới thiệu cứ mỗi 3-6 tháng, giá trị của các ổ đĩa
cứng đời cũ sẽ mất giá mạnh. Vì thế nếu Dell tồn kho mất 1 tuần và đối thủ cạnh tranh
tồn kho mất 4 tuần, điều này dẫn tới lợi thế về chi phí linh kiện thấp hơn 3% cho Dell,
đồng thời cũng có nghĩa lợi nhuận tăng 2%. Loại bỏ hàng tồn kho khỏi hệ thống cũng
giảm mạnh nhu cầu của Dell về vốn lưu động và tăng lợi nhuận của công ty.
Việc đặt hàng qua mạng và hệ thống thu mua của Dell cũng cho phép công ty
đồng bộ cung và cầu tới một mức độ chỉ vài công ty khác có thể. Ví dụ, nếu Dell thấy
rằng nó hết một linh kiện nào đó, chẳng hạn màn hình 17” từ Sony, nó có thể điều khiển
cầu bằng cách cung cấp một mẫu màn hình 19” với giá thấp hơn cho đến khi Sony phân
phối nhiều màn hình 17” hơn. Bằng những bước đi như vậy để cân bằng cung cầu, Dell
có thể đáp ứng mong đợi của khách hàng. Cân bằng cung cầu cũng cho phép công ty tối
thiểu hóa lượng hàng tồn kho quá mức và lỗi thời. Tồn kho quá mức và lỗi thời của Dell
nằm trong khoảng 0,05-0,1% tổng chi phí nguyên vật liệu so với 2-3% của các đối thủ
cạnh tranh đã mang về cho Dell một lợi thế chi phí đáng kể.
1. Những lợi thế và bất lợi của việc sản xuất ở bên ngoài nước Mỹ cho Dell:
- Lợi thế:
Chi phí Nhân Công: Có thể tận dụng chi phí lao động thấp ở các địa điểm như Brazil,
Ireland, Malaysia, và Trung Quốc.
Năng Suất Lao Động Địa Phương: Sử dụng lực lượng lao động địa phương với năng suất
cao.
Gần Gũi với Thị Trường Khu Vực: Gần các thị trường quan trọng giúp giảm chi phí vận
chuyển và tăng tốc độ phân phối.
- Bất lợi:
Quản lý Toàn Cầu: Đòi hỏi quản lý toàn cầu phức tạp để đảm bảo hiệu quả và tính đồng
bộ trong chuỗi cung ứng.
Rủi Ro Chính Trị và Hậu Quả Tài Chính: Những địa điểm sản xuất có thể chịu ảnh hưởng
từ biến động chính trị và kinh tế.
Khả năng Phản Ứng Chậm: Có thể gặp khó khăn trong việc phản ứng nhanh chóng đối
với biến động thị trường toàn cầu.
2. Lý do Dell mua linh kiện từ các nhà cung cấp độc lập thay vì tự sản xuất:
Chiến Lược Cao Cấp: Tập trung vào việc lắp ráp và cung cấp dịch vụ sau bán hàng thay
vì sản xuất linh kiện.
Giảm Rủi Ro và Chi Phí: Giảm rủi ro sản xuất và giảm chi phí liên quan đến quản lý nhà
máy sản xuất.
Tính Linh Hoạt: Có khả năng chọn lựa linh kiện từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để đáp
ứng yêu cầu cụ thể của khách hàng.
Tập Trung vào Core Competency: Tập trung vào những khía cạnh quan trọng nhất của
kinh doanh, như quản lý chuỗi cung ứng và dịch vụ khách hàng.