Professional Documents
Culture Documents
Từ trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những người thầy thân
yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến thức, kỹ năng sống để có thể thích ứng,
hòa nhập vào đời sống cộng đồng như cách ứng xử giữa các thành viên gia
đình (cha mẹ thương yêu chân thành, tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà
vừa yêu quý, vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu), giữa gia đình với
họ hàng, với láng giềng, với cộng đồng (trọng nhân nghĩa, làm điều thiện,
sống chan hòa, ghét thói gian tham, điều giả dối), qua đó giúp con cháu tiếp
thu một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời nhưng lại tác động
mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Trong gia đình, người già được chăm sóc khỏe mạnh, vui vẻ lạc quan,
truyền lại cho con cháu vốn sống, cách ứng xử đẹp. Nơi đó, con cái biết yêu
kính, vâng lời cha mẹ, vợ chồng quan tâm chia sẻ vui buồn cực nhọc với
nhau… Ở đó, mỗi người cảm nhận được sự gần gũi, thân thương: từ khoảng
sân, mái nhà, chiếc giường,… đến những quan hệ họ hàng thân thiết.
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành, những cá nhân này sống
và hoạt động trong nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện
lịch sử quy định. Trong quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ với
xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách như sau:
- Cá nhân là phương thức tồn tại của loài “người”. Không có con người nói
chung, loài người tồn tại độc lập.
- Cá nhân là cá thể riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một
chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.
- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.
Giữa cá nhân và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó với nhau, chuyển hóa lẫn
nhau giữa cái chung và cái riêng. Các Mác cho rằng: “Chỉ có trong tập thể mới có
những phương tiện làm cho mỗi cá nhân có khả năng phát triển toàn diện những
năng khiếu của mình… chỉ có trong tập thể mới có tự do cá nhân.
VẬN DỤNG NGUYÊN NHÂN – KẾT QUẢ: trang 56
1. Khái niệm:
Ví dụ: đô thị hóa dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng trầm
trọng. Trong đó, chất thải công nghiệp độc hại là nguyên nhân còn
ô nhiễm là kết quả
2. Mối quan hệ:
+
+ mọi sự vật,...
VD: bão ( nguyên nhân) xuất hiên trước, sự thiệt hại ( kết quả) của
hoa màu, mùa màng do bão gây ra xuất hiện sau
+
+ Một kq nhiều nguyên nhân,...
VD: kết quả sinh viên A học lại môn
Nguyên nhân trực tiếp: điểm thấp
Nguyên nhân gián tiếp: bỏ thi, không học bài, nhớ nhầm lịch thi, bị
tai nạn ngoài ý muốn,....
+ trong quá trình vận động,....
VD: từ một quả trứng nở ra con gà con, từ gà con lại tiếp tục quá
trình sinh sản và cho ra quả trứng, cứ thế tiếp tục
3. Trong học tập của sinh viên:
4. Trong cuộc sống:
- Trên thực tế, cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả đã được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực của cuộc sống để giúp con người hiểu rõ hơn về mối quan
hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Trong tự nhiên, con người đã nghiên
cứu và tận dụng tốt nhất các tác động giữa các sự vật và hiện tượng để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống
- Việc nhận biết và hiểu rõ những hậu quả do các tác động lẫn nhau giữa
các yếu tố tự nhiên trong môi trường đã giúp con người khai thác được
những nguồn năng lượng lớn nhất và sử dụng chúng một cách hiệu quả
để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Nhờ vào việc áp dụng cặp phạm trù
nguyên nhân- kết quả, con người đã phát triển các ngành công nghiệp
năng lượng, nông nghiệp, công nghiệp và công nghệ, từ đó đáp ứng nhu
cầu về thực phẩm, điện năng, và các sản phẩm tiện ích khác một cách tốt
hơn.
- Ngoài ra, con người cũng sử dụng cặp phạm trù nhân-quả để nhìn thấy rõ
hơn những tác hại mà các hiện tượng gây ra. Trong lĩnh vực xã hội, mối
quan hệ nhân-quả trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Điều này bởi vì mối
quan hệ nguyên nhân- kết quả trong xã hội không chỉ phụ thuộc vào các
yếu tố tự nhiên mà còn liên quan đến các hoạt động và quyết định của
con người.
- Mối quan hệ nguyên nhân- kết quả trong xã hội đặc biệt phức tạp vì nó
chỉ xuất hiện khi có sự tác động từ hoạt động của con người. Điều này có
nghĩa là mọi hành động, quyết định và lựa chọn của con người đều có tác
động đến cuộc sống xã hội và tạo ra các hậu quả khác nhau. Chẳng hạn,
một hành động cá nhân có thể mang lại lợi ích cho bản thân, nhưng lại
gây hại cho cộng đồng. Tuy nhiên, tác động của mỗi hành động đến cuộc
sống xã hội phụ thuộc vào mối quan hệ và những hậu quả xã hội mà nó
gây ra.
- Một ví dụ cụ thể là việc buôn bán ma túy. Lợi nhuận từ hoạt động này rất
cao, làm cho những kẻ buôn bán ma túy không từ bỏ việc thúc đẩy việc
buôn bán ma túy để kiếm lợi. Tuy nhiên, từ quan điểm của cộng đồng,
việc này là rất có hại và có thể coi là một hành động tự sát đối với xã hội.
Điều quan trọng là, những tác động này không thể ngăn chặn nếu chúng
ta không nghiên cứu và hiểu rõ những mối quan hệ lợi ích và hậu quả liên
quan đến việc buôn bán ma túy.
- Tóm lại, cặp phạm trù nguyên nhân- kết quả đã được thể hiện rõ ràng
trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Con người cần luôn luôn nghiên cứu
và tìm hiểu để có thể khắc phục, tránh những hậu quả xấu do các tác
động gây ra. Đồng thời, chúng ta cũng có thể tận dụng cặp phạm trù
nguyên nhân- kết quả này để phục vụ cho cuộc sống của chúng ta một
cách tốt nhất.
Khi nhìn nhận được vấn đề sống lãng phí, xa hoa, ta có thể thấy nó đang phản
ánh mặt tiêu cực khi mối quan hệ cặp phạm trù nội dung và hình thức bị “mất
kết nối” với nhau
Xét trong triết học, thói sống xa hoa lãng phí chính là biểu hiện cụ thể của sự
đắm chìm vào chủ nghĩa hình thức. => Tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội
dung; chạy theo số đông, mặc dù ko cần đến, quá chuộng hình thức bên ngoài,
nội dung liên kết.
>< Bồi đắp nội dung
Hình thức vượt quá nội dung => bệnh hình thức
Nội dung khác=hình thức khác
Giữa nội dung và hình thức cần có sự phù hợp với nhau
Nghĩa là: Khi quá tập trung vào hình thức mà quên đi phần nội dung_Bệnh hình
thức,xa hoa: quá hào nhoáng, bóng bẩy, lãng phí: không cần thiết (mà trong
quan hệ giữa cặp phạm trù này đã cho rằng nội dung bao giờ cũng giữ vai trò
quyết định hơn so với hình thức ) sẽ làm rạn nứt mối quan hệ của cặp phạm trù
trên và vấn đề này là tiền đề tạo nên vấn nạn trong xã hội như thói sống lãng phí
xa hoa.
Ví dụ:
Phòng tắm vỗn dĩ chỉ cần những thiết bị phục vụ cho vệ sinh cá nhân nhưng lại
mua thêm tivi gắn đối diện bồn tắm=> không phù hợp, lãng phí
Trong nhận thức và hành động phải dựa trên nội dung
Giải pháp:
Phá huy tính tác động tích cực của hình thức với nội dung. Cần sử dụng hình
thức phù hợp với nội dung, đồng thời thay đổi cả hình thức không còn phù hợp
với nội dung để tránh cản trở sự phát triển
Ta thấy rằng mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên rất chặt
chẽ, quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến đời sống, xã hội và trong vấn đề này,
sinh viên là đối tượng nghiên cứu thực tiễn.
2. Khi cái ngẫu nhiên xảy ra phải có phương án dự phòng
Do cái ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Cho nên,
trong hoạt động thực tiễn, ngoài những phương án chính chúng ta phải có
phương án dự phòng để chủ động khi cái ngẫu nhiên xảy ra.
Khi quá trình học tập, tiếp thu kiến thức thì chúng ta phải kiểm tra để
đánh giá năng lực học tập của sinh viên (tất nhiên). Nói về kiểm tra, sinh
viên là người được kiểm tra không biết trước nội dung kiểm tra là gì (ngẫu
nhiên).
Để tránh lúc kiểm tra gặp tình trạng đề khó hay đề hỏi câu hỏi mở rộng, có
kiến thức liên hệ bên ngoài, sinh viên phải có phương án dự phòng trước để
ứng phó kịp thời cái ngẫu nhiên mới xuất hiện bằng cách: Trong quá trình
học tập, luôn chú ý nghe giảng, ghi chép những kiến thức mở rộng, chuyên
sâu mà thầy cô chia sẻ. Việc chăm chú nghe giảng trên lớp được xem như
hơn cả một lần nghe giảng bình thường, học bài ngay tại lớp. Khi về nhà, chỉ
cần ôn tập lại, hồi tưởng lại các kiến thức ở trên lớp. Các môn có bài tập
thực hành, luyện tập, có toán học như Thống kê ứng dụng, Kinh tế vĩ mô,...
thì cần làm thường xuyên, nắm chắc các phép tính, công thức, phương pháp.
Đến gần ngày kiểm tra, sinh viên chỉ cần ôn lại các bài tập đã làm, những
điều ghi chép trong sách vở, có thể tham khảo thêm các tài liệu có kiến thức
liên hệ thực tiễn là đến ngày kiểm tra, dẫu đề bài có gài bẫy, khó khăn đến
đâu cũng có thể tự tin làm tốt được. Việc ôn tập trước khi kiểm tra là một
điều rất quan trọng.
3. Không được xem nhẹ cái ngẫu nhiên trong hoạt động thực tiễn
Do cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành
cái tất nhiên. Cho nên, trong nhận thức của hoạt động thực tiễn không được
xem nhẹ cái ngẫu nhiên.
Sinh viên đi học khác với học sinh đi học ở chỗ: học sinh kiểm tra
điểm thấp thì đánh giá học lực yếu, trung bình, còn sinh viên kiểm tra điểm
thấp, không đạt đủ điểm qua môn thì phải thi lại môn đó, nếu thi lại môn đó
vẫn không cải thiện được điểm thì bị rớt môn, đóng tiền đi học lại, tốn tiền.
Sinh viên xem việc đi học là tất nhiên còn việc rớt môn là một điều
ngẫu nhiên. Nhưng điều ngẫu nhiên ấy bắt đầu xảy ra nhiều hơn, đáng sợ
hơn nữa là sinh viên xem việc rớt môn là điều bình thường, xem nhẹ nó. Đó
chẳng phải là một tư duy tích cực mà đó chỉ là sự ngụy biện cho sự lười
biếng, bao che lỗi lầm của bản thân. Nguyên nhân của việc rớt môn là rất
nhiều, kết quả của việc rớt môn không chỉ nhiều mà còn mang hệ lụy, hậu
quả khó lường như tốn tiền ba mẹ, tốn thời gian của bản thân, ảnh hưởng
đến chất lượng học tập của học kì sau, điều tồi tệ nhất là có bạn còn mang tư
tưởng đã từng học qua môn này rồi, cứ chủ quan, không làm bài tập, không
làm việc nhóm tốt, tiếp tục mắc sai lầm thêm lần nữa.
Học là việc tất nhiên nhưng học như thế nào, áp dụng phương pháp học tập
ra sao thì là điều ngẫu nhiên. Có bạn đối với những môn đại cương thì chọn
cách học vẹt, học tủ, học đủ để lấy điểm qua môn chứ không cần điểm cao.
Có bạn muốn đạt được kết quả cao, giành được học bổng nhưng lại học theo
lối mòn, không thay đổi cách học, chỉ học để biết nhưng không nhớ lâu,
không thể áp dụng thực tế được. Phương pháp học tập của mỗi người là
riêng biệt, khác nhau nhưng không thể xem học vẹt, học tủ là cách chống
chế được. Bản thân mỗi người phải đề ra một phương pháp học tập cụ thể và
cố gắng hoàn thành tốt. Có như vậy thì không khó để học tập những kiến
thức mới được
Lí luận:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn
định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội trong cuộc sống.
Nếu ai đó không có bất cứ mối quan hệ xã hội nào, dù nhỏ nhất, thì người đó chưa
phải là con người theo đúng nghĩa.
- Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ thuộc bản chất của
sự vật, hiện tượng ra bên ngoài.
Ví dụ: Màu da cụ thể của một người nào đó là trắng, vàng hay đen… chỉ là hiện
tượng, là vẻ bề ngoài.
- Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của hiện thực khách
quan. Nó ẩn giấu đằng sau cái vẻ bề ngoài của hiện tượng và biểu lộ ra qua những
hiện tượng ấy. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài, mặt di động và biến đổi hơn của
hiện thực khách quan. Nó là hình thức biểu hiện của bản chất.
- Phạm trù bản chất gắn bó hết sức chặt chẽ với phạm trù cái chung. Cái tạo nên
bản chất của một lớp sự vật nhất định cũng đồng thời là cái chung của các sự vật
đó. Nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất. Vì bản chất chỉ là cái
chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
- Cái bản chất cũng đồng thời là cái có tính quy luật. Tức là, tổ hợp những quy luật
quyết định sự vật động, phát triển của sự vật chính là bản chất của sự vật ấy. Lê-
nin viết: “Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng một loại (cùng một bậc),
hay nói đúng hơn là cùng một trình độ…”
Ví dụ: Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Quy luật này chi phối toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ
nghĩa tư bản. Đồng thời, quy luật này cũng là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản
chất đó cho thấy chủ nghĩa tư bản luôn có mục tiêu sản xuất giá trị thặng dư càng
nhiều càng tốt.
- Tuy cùng trình độ, nhưng bản chất và quy luật không hoàn toàn đồng nhất với
nhau. Phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn phạm trù quy luật:
+ Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại, ổn định giữa các hiện
tượng hay giữa các mặt của cùng một hiện tượng.
+ Còn bản chất là tổng hợp tất cả những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở
bên trong sự vật, tức là ngoài những mối liên hệ chung, nó còn những mối liên hệ
riêng chỉ nó mới có.
Vận dụng cặp phạm trù bản chất - hiện tượng để phân tích lối sống của Sinh
viên Việt Nam hiện nay.
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng sinh viên hiện nay rất năng
động, sáng tạo và nhạy bén với cuộc sống. Nếu như trước đây, khi cuộc sống đang
còn khó khăn, chúng ta chỉ thấy một lớp sinh viên học hành chăm chỉ cốt sao cho
sau này ra trường sẽ xin được một công việc vào biên chế trong Nhà nước, từ đó
cuộc sống cứ thế tiếp diễn.
Nhưng ngày nay cơ chế thị trường mở của, sinh viên đã có điều kiện để phát triển
khả năng sáng tạo do có đầy đủ thông tin, một cuộc sống chất lượng tốt hơn và chủ
động hơn trong việc lựa chọn nghề nghiệp. Tất cả những yếu tố đó làm cho sinh
viên năng động hơn, ngày càng chiếm lĩnh những lĩnh vực mới lạ. Vì thế mà bốn
bạn trẻ: Trịnh Xuân Hảo, Phạm Thị Hoàng lam, Trịnh Minh Khôi và Lê Nguyễn
Vũ Bình (sinh viên ĐH GTVTTPHCM) đã có sự khởi đầu khá ngoạn mục: Khi
đang là sinh viên năm thứ 3, họ đã hoàn thành công trình nghiên cứu “thiết kế bảng
đèn thông tin điện tử” – đã đoạt giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa học cấp
trường và đoạt giải ba Eureka 2002 do Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường
cùng Trung tâm Khoa học Công nghệ trẻ Thành đoàn TPHCM tổ chức.