Professional Documents
Culture Documents
QLSS TRONG Chăn Nuôi Bò S A
QLSS TRONG Chăn Nuôi Bò S A
PHÒNG KỸ THUẬT
THÁNG 06/2014
Tài liệu huấn luyện kỹ thuật về quản lý sinh sản trong chăn nuôi bò sữa
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU i
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT ii
DANH SÁCH CÁC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ iii
DANH SÁCH CÁC HÌNH MINH HỌA iv
CHƯƠNG I - SINH LÝ SINH SẢN BÒ CÁI………………………………………… 1
1.1. Giải phẫu và sinh lý sinh sản bò cái……………………………………………….. 1
1.2. Chu kì động dục……………………………………………………………………. 3
1.3. Sự chuyển đổi giữa thể và nang trứng trong chu kì động dục……………………… 4
1.4. Phối giống, quá trình thụ thai, sự làm tổ và phát triển của thai……………………. 5
1.5. Quá trình sinh nở và hồi phục sau đẻ………………………………………………. 7
CHƯƠNG II - HOÓC-MÔN SINH SẢN VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG……………. 12
2.1. Các hoóc-môn tham gia vào hoạt động sinh sản của bò……………………………. 12
2.2. Cơ chế hoạt động của các hoóc-môn……………………………………………….. 12
2.3. Sử dụng hoóc-môn để gây động dục đồng loạt…………………………………….. 13
CHƯƠNG III- THỤ TINH NHÂN TẠO VÀ VAI TRÒ TRONG CHĂN NUÔI
BÒ SỮA………………………………………………………………………………… 18
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của phương pháp thụ tinh nhân tạo……………… 18
3.2. Ưu và nhược điểm của phương pháp thụ tinh nhân tạo……………………………. 18
3.3. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo…………………………………………………………. 19
CHƯƠNG IV - NHỮNG VẤN ĐỀ THƯỜNG GẶP TRONG CHĂN NUÔI BÒ
SỮA…………………………………………………………………………………….. 21
4.1. Không động dục lại sau đẻ…………………………………………………………. 21
4.2. Khả năng sinh sản kém…………………………………………………………….. 22
4.3. Những nguyên nhân dẫn tới chết phôi và giải pháp………………………………... 24
CHƯƠNG V - QUẢN LÝ SINH SẢN………………………………………………… 27
5.1. Quản lý sinh sản sau đẻ…………………………………………………………….. 27
5.2. Những lưu ý để nâng cao hiệu quả sinh sản………………………………………... 28
CHƯƠNG VI - SINH SẢN BÒ CÁI TRONG CHĂN NUÔI HIỆN ĐẠI…………… 29
6.1. Tuổi phối giống lần đầu…………………………………………………………….. 29
6.2. Phát hiện động dục và thời điểm phối giống thích hợp nhất……………………….. 29
6.3. Ứng dụng hoóc-môn để gây động dục đồng loạt và điều trị đối với bò chậm sinh… 31
6.4. Thụ tinh nhân tạo…………………………………………………………………… 32
6.5. Chẩn đoán mang thai và quá trình mang thai………………………………………. 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………... 37
Với mục tiêu trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực chăn nuôi bò sữa tại Việt
Nam, Công ty TNHH MTV Bò Sữa Việt Nam (Một bộ phận không thể tách rời của Vinamilk)
luôn trú trọng đầu tư đổi mới công nghệ kết hợp với đào tạo nguồn nhân lực.
Hiện nay, hệ thống trang trại của Công ty trải dài từ Bắc tới Nam, với số lượng các trang
trại không ngừng được tăng lên. Để củng cố kiến thức cho các cán bộ kỹ thuật và thống nhất ở
tất cả các trang trại trong toàn Công ty, Phòng kỹ thuật tiến hành soạn thảo tài liệu này gồm có 6
chương. Nội dung của tài liệu bao quát từ những kiến thức cơ bản về sinh lý sinh sản bò sữa
(Chương I, II và III), những khó khăn thường gặp trong chăn nuôi bò sữa (Chương IV), cho tới
những biện pháp quản lý và những kỹ thuật tiên tiến đang được áp dụng tại các nước có ngành
chăn nuôi bò sữa hàng đầu Thế giới (Chương V và VI).
Đây là lần biên soạn đầu tiên của tài liệu nên không thể tránh khỏi các thiếu sót, rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của các cán bộ kỹ thuật trong toàn Công ty để tài liệu ngày càng
được hoàn thiện hơn.
GnRH-Gonadotropin Releasing Hoóc-môn kích thích thùy trước Tuyến yên tiết ra FSH
Hormone và LH
FSH-Follicle Stimulating Hormone Hoóc-môn kích thích nang trứng phát triển
EB-Estradiol Benzoate Hoóc-môn kích kích phản xạ động dục, co bóp tử cung
PGF2α-Prostagladin F2-alpha Hoóc-môn có tác dụng làm tiêu biến thể vàng
Bảng VI-2 Biểu hiện động dục và thời điểm phối giống thích hợp 30
Bảng VI-3 Thời điểm phối giống thích hợp trên thực tế 31
Biểu đồ I-1 Chu kì sóng nang trứng trong chu kì động dục của bò 1
Cơ chế hoạt động của các hoóc-môn tham gia vào quá trình động
Biểu đồ II-1 12
dục
Biểu đồ IV-1 Các bước để bò mang thai sau thụ tinh nhân tạo 23
Biểu đồ IV-2 Ảnh hưởng của stress nhiệt tới sự phát triển của phôi 26
So sánh tỷ lệ đậu thai giữa thụ tinh nhân tạo và cấy truyền phôi khi
Biểu đồ IV-3 26
bò bị stress nhiệt
Biểu đồ VI-1 Mô tả khám thai bằng phương pháp khám qua trực tràng 34
Mặt cắt mô tả sừng tử cung khi khám thai bằng phương pháp
Biểu đồ VI-2 34
khám qua trực tràng
Hình I-1: Mô phỏng hệ sinh dục của bò cái Hình I-2: Ảnh hệ sinh dục của bò cái
(Nguồn: http://extension.missouri.edu/p/G2015) (Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
1.1.1. Âm hộ
Là bộ phận sinh dục ngoài, gồm có tiền đình và những phần liên quan của âm môn. Tiền
đình là một bộ phận của cơ quan sinh dục cái, nó chung cho hệ sinh dục và hệ tiết niệu, dài
khoảng 10 - 12 cm. Âm môn gồm có tiểu âm môn (Môi trong hay môi nhỏ) và đại âm môn (Môi
ngoài hay môi lớn). Môi ngoài được phủ một lớp lông mịn. Âm vật, tương ứng với quy đầu ở
con đực, nằm ở mặt dưới, có nhiều thần kinh giao cảm và cương cứng khi động dục.
1.1.2. Âm đạo
Âm đạo có hình ống, vách mỏng và đàn hồi, dài khoảng 25 - 30 cm ở bò trưởng thành. Âm
đạo là một bộ phận quan trọng giúp cho tinh trùng di chuyển, đào thải nước tiểu, đỡ và đẩy thai
trong quá trình sinh nở. Đặc biệt, vào giai đoạn động dục, niêm mạc âm đạo tiết ra một lượng lớn
dịch nhầy có vai trò làm sạch âm đạo.
1.1.3. Tử cung
Gồm có cổ, thân và hai sừng tử cung kéo dài từ đoạn nối tử cung-ống dẫn trứng tới cổ tử
cung, dài khoảng 40 - 50 cm. Chức năng chính của tử cung là nơi để phôi làm tổ và phát triển
thành thai.
Cổ tử cung dài khoảng 10 - 12 cm. Niêm mạc cổ tử cung hình thành ba nếp gấp được cấu
tạo bởi cơ trơn hay còn gọi là cơ vòng tử cung. Bình thường cơ vòng tử cung đóng rất chặt, ngoại
trừ trong lúc động dục và lúc sinh con. Khi động dục, cổ tử cung mở to, niêm mạc cổ tử cung
cũng tiết ra dịch nhờn kết hợp cùng dịch tiết âm đạo chảy ra ngoài âm hộ. Trong quá trình mang
thai, dịch tiết cổ tử cung đặc quánh lại tạo thành lớp gel bảo vệ tử cung. Khi chuẩn bị đẻ, lớp gel
này mềm ra và tan biến.
Thân tử cung ngắn, kích thước khoảng 1.5 - 2.0 cm tiếp nối giữa cổ tử cung và hai sừng tử
cung. Các sừng tử cung dài khoảng 30 - 40 cm. Nội mạc sừng tử cung có từ 80 - 120 núm nhỏ có
kích thước khoảng 1.2 cm và tăng lên gấp 10 lần ở giai đoạn mang thai cuối (Được gọi là núm
nhau).
Các nấc cổ
Núm tử cung
nhau Thể vàng
Hình I-3: Thể vàng, nội mạc tử cung. Núm nhau Hình I-4: Các nấc cổ tử cung
trên nội mạc tử cung (Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
(Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
Nang trứng
thành thục
Hình I-5: Nang trứng thành thục Hình I-6: Mặt cắt nang trứng trong giai đoạn động
(Nguồn: Artificial insemination manual for cattle) dục. Thể vàng ở buống trứng trái và nang trứng ở
buống trứng phải
(Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
Biểu hiện nhảy con khác hoặc để con khác nhảy (chịu đực) được coi là biểu hiện chính
để xác định bò động dục (Hình I-7). Những biểu hiện còn lại gọi là biểu hiện thứ yếu. Tuy
nhiên, không phải bò nào động dục cũng có đầy đủ các biểu hiện nói trên. Những bò có biểu hiện
động dục thường tập hợp thành nhóm và tách khỏi đàn. Khi bò động dục âm hộ sưng, đỏ và có
dịch trong chảy thành dòng (Hình I-8, I-9). Hiện tượng sung huyết và dịch nhìn rất rõ khi quan
sát bằng ống thủy tinh chuyên dụng (Hình I-10).
Hình I-7: Ảnh bò đang trong giai Hình I-8: Âm hộ sưng, sung huyết và có dịch
đoạn động dục (chịu đực) khi động dục
(Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
Hình I-9: Dịch động dục chảy Hình I-10: Cổ tử cung sung huyết, mở và
thành sợi dài có nhiều dịch khi động dục (khám âm đạo
bằng ống thủy tinh chuyên dụng)
(Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
1.3. Sự chuyển đổi giữa thể và nang trứng trong chu kì động dục
Thể vàng hình thành vào khoảng 4 - 5 ngày sau khi trứng rụng. Thể vàng tồn tại trong thời
gian khoảng 2 tuần rồi thoái hóa dần. Sau đó, nang trứng mới lại phát triển, thành thục và rụng ở
lần động dục kế tiếp. Khi có sự tồn tại của thể vàng, nang trứng vẫn phát triển nhưng không thể
thành thục và dần thoái hóa. Trong một chu kì động dục, có 2 chu kì sóng trứng ở bò tơ và 3 chu
kì sóng trứng ở bò rạ.
Biểu đồ I-1: Chu kì sóng nang trứng trong chu kì động dục của bò (Kaneko, 2003)
1.4. Phối giống, quá trình thụ thai, sự làm tổ và phát triển của thai
1.4.1. Phối giống
Khi bò cái được phối giống tự nhiên, tinh trùng được phóng vào sâu bên trong âm đạo ở
phần tiếp giáp với mặt ngoài cổ tử cung. Tinh trùng vượt qua cổ tử cung, tiến về phía sừng, cùng
với sự co bóp của tử cung, chúng bơi tới ống dẫn trứng, sau đó tinh trùng sẽ kết hợp với trứng
tạo thành hợp tử tại phần phình của ống dẫn trứng.
Trong thụ tinh nhân tạo, cọng tinh sau khi được rã đông sẽ được lắp vào dụng cụ chuyên
dụng gọi là súng bắn tinh, súng sẽ được bọc ống gel rồi đưa qua cổ tử cung. Tinh trùng sẽ được
bơm vào mặt trong của cổ tử cung. Có khoảng từ 50 - 100 tỷ tinh trùng được đưa vào âm đạo con
cái/lần phối tự nhiên, trong khi thụ tinh nhân tạo, một liều tinh có khoảng 10 - 30 triệu tinh trùng,
do đó nên bơm vào trong tử cung.
Thời điểm thích hợp nhất là ngay trước khi kết thúc của giai đoạn cuối của chu kì động
dục, nhưng thực tế rất khó xác định được thời điểm cuối đó nên nếu thụ tinh nhân tạo vào
khoảng 8 - 12 tiếng sau khi bò động dục (chịu đực) thì có thể thu được tỷ lệ đậu thai tốt.
Hợp tử sẽ nhân đôi lên trong lúc di chuyển trong ống dẫn trứng và về tới tử cung vào
khoảng ngày thứ 4 sau rụng trứng (Hình I-12). Nhau bắt đầu hình thành từ khoảng 17 ngày sau
khi thụ thai và làm tổ tại niêm mạc tử cung (Hình I-13). Khoảng 45 ngày sau khi thụ tinh, thai
đang dần phát triển và phân chia thành các bộ phận, có thể phân biệt được màng trong và ngoài
nhau thai, núm nhau cũng có thể quan sát được trong giai đoạn này (Hình I-14).
Hình I-12: Phôi được lấy từ tử cung vào Hình I-13: Ảnh màng thai vào ngày 17
ngày thứ 7 sau phối sau phối
Hình I-14: Ảnh thai và màng thai vào Hình I-15: Ảnh thai và màng thai vào khoảng
khoảng ngày 40 - 45 sau khi thụ tinh tháng thứ 8 của thai kì
Tiến hành khám thai qua trực tràng vào khoảng ≥ 45 ngày sau phối đối với bò tơ và ≥ 60
ngày sau phối đối với bò rạ, nếu sử dụng máy siêu âm có thể xác định thai sớm hơn vào khoảng
25 - 30 ngày sau phối.
1.4.4. Quá trình phát triển của bào thai và nhau thai
Thai bắt đầu phát triển nhanh từ tháng thứ 5 của thai kì, và tốc độ phát triển nhanh hơn vào
cuối thai kì. Nhau thai cũng phát triển đồng thời với sự phát triển của bào thai. Trong hình I-15 là
ảnh của thai và nhau thai vào khoảng tháng thứ 8 của thai kì. Nhìn vào hình I-15, ta thấy mạch
máu phân bố khắp nhau-thai-con và tập trung vào cuống rốn. Hệ thống mạch máu ở nhau-thai-
mẹ cũng rất phát triển. Bào thai lấy dinh dưỡng và oxy từ cơ thể mẹ thông qua nhau thai. Nhau
thai tiết ra một số hoóc-môn có tác dụng an thai (progesterone), để kích thích tuyến vú phát triển
(estrogen), hoặc tạo ra phản xạ đẻ vào cuối thai kì (relaxin).
Hình I-16: Hiện tượng sụt khớp hông đuôi trong Hình I-17: Hiện tượng phù nề bầu vú, quan sát
vòng 1 - 2 ngày trước khi sinh dễ nhất ở trên bò tơ
(Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
b) Giai đoạn thứ hai (giai đoạn đẩy thai ra): Khi dấu hiệu đau tăng lên và áp lực bê ép
lên cơ quan sinh sản, bò có biểu hiện đau nhiều hơn, màng ối bị rách và dịch ối trào ra ngoài.
Giai đoạn này được gọi là giai đoạn đầu vỡ túi ối. Dịch ối có màu nâu giống như nước. Trong
vòng một tiếng sau khi màng ối rách, hai chân trước của bê sẽ được đẩy ra khỏi màng. Hai chân
trước của bê có thể nhìn rõ nhất nếu bò ngồi (Hình I-18), nhưng lại tụt vào trong tử cung nếu bò
đứng dậy. Khi giai đoạn 2 vỡ túi ối bắt đầu, chân bê có thể nhìn rõ ngay cả khi bò đứng (Hình I-
19). Cơn đau nhiều nhất xuất hiện khi đầu bê được đẩy qua âm hộ, ta có thể thấy nước mắt bò
mẹ. Sau khi đầu được đẩy ra hẳn bên ngoài âm hộ (Hình I-20), cả phần thân bê sẽ tuột theo và
kết thúc giai đoạn đẩy thai (Hình I-21). Dây rốn bị kéo đứt và bê bắt đầu thở. Khoảng thời gian
kể từ khi bê được đẩy ra khỏi tử cung tới khi ra khỏi âm hộ bò mẹ được gọi là giai đoạn thứ hai
của quá trình sinh nở. Giai đoạn thứ hai thường kéo dài từ một tới hai tiếng. Thời gian của giai
đoạn thứ hai có thể kéo dài hơn trong trường hợp ngôi thai ngược (hai chân sau ra trước) (Hình I-
22).
c) Giai đoạn thứ ba (giai đoạn sau đẻ): Sau khi bê được đẩy ra ngoài, trung bình trong
vòng 5 tiếng nhau thai sẽ được đẩy ra ngoài (Hình I-23). Nếu quá 12 tiếng mà nhau thai chưa ra
hết được coi là sót nhau (sát nhau). Người đỡ đẻ phải kiểm tra để xác định toàn bộ nhau thai đã
được đẩy ra ngoài ngoài hay chưa, để người hộ lý có biện pháp can thiệp chăm sóc bò sau đẻ
(Hình I-24).
Hình I-19: Chân trước của bê được đẩy Hình I-20: Đầu bê được đẩy ra ngoài âm
ra khỏi âm hộ bò mẹ sau giai đoạn hai hộ bò mẹ
vỡ túi ối
Hình I-21: Kết thúc quá trình đẩy bê Hình I-22: Trường hợp hai chân sau
ra. Ngay sau đó bò mẹ sẽ bắt đầu đứng của bê ra trước
dậy và sức căng sẽ làm đứt dây rốn.
Hình I-23: Nhau thai đang (Nguồn: Artificial insemination manual for cattle)
được đẩy ra ngoài sau đẻ
ngoài. Dịch sản sẽ chảy ra với lượng lớn trong vài ngày, sau đó lượng dịch sẽ giảm dần và mầu
sẽ trở nên trong hơn trong vòng 10 - 14 ngày và kết thúc vào khoảng 24 ngày sau đẻ.
Kích thước tử cung giảm dần và co nhỏ lại như trước khi mang thai. Niêm dịch tử cung bắt
đầu tiết trở lại và vi khuẩn sẽ bị loại hết khỏi tử cung vào khoảng ngày thứ 50 sau khi sinh.
Hiệu quả sinh sản giảm ở những bò mà tử cung hồi phục chậm do đẻ khó, sót nhau, viêm
nhiễm, triệu chứng liệt nhẹ, v.v...
2.1. Các hoóc-môn tham gia vào hoạt động sinh sản của bò
- Gonadotropin Releasing Hormone (GnRH): Có vai trò kích thích thùy trước Tuyến yên
tiết ra FSH và LH. Các chế phẩm có hoạt tính giống GnRH đang được dùng phổ biến hiện nay có
thành phần chính là buserelin, fetireline và gonadoreline.
- Follicle Stimulating Hormone (FSH): Kích thích nang trứng phát triển và thành thục
- Luteinizing Hormone (LH): Đóng vai trò kích thích trứng rụng và hình thành thể vàng
- Estrogen: Có tác dụng kích thích phản xạ động dục. Trong thực tế sản xuất người ta không
sử dụng estrogen tự nhiên mà dùng các chế phẩm tổng hợp, điển hình là estradiol benzoate.
- Progesterone (P4): Có tác dụng ức chế động dục và rụng trứng, có vai trò an thai; sản
phẩm hiện nay đang được sử dụng rộng rãi như CIDR, DIB hay PRID.
- Prostagladin F2- alpha (PGF2α): Có tác dụng làm tiêu biến thể vàng. Các sản phẩm hiện
nay có thành phần hoạt tính giống PGF2α đang được sử dụng tại Việt Nam như Lutalyse
(Pfizer), Prosolvin của Intervet, Cloprostenol (VMD), Reprodine của Bayer…
2.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của các phương pháp gây động dục đồng loạt
(Heatsynch) và rụng trứng đồng loạt (Ovsynch)
(1) Phương pháp tiêm một mũi Progesterone
Khi progesterone hoặc các chế phẩm có tác dụng tương tự progesterone được tiêm cho bò,
biểu hiện động dục và rụng trứng được tạo ra ngay cả khi không có sự hiện diện của thể vàng.
Sau khi lượng progesterone đưa vào được đào thải ra ngoài, sự phát triển của nang trứng được
khôi phục và bò có biểu hiện động dục. Tuy nhiên, khi progesterone tiêm vào được đào thải nếu
mà thể vàng vẫn tồn tại và tiết ra progesterone, hàm lượng progesterone trong huyết tương vẫn
cao hơn ngưỡng thì bò sẽ không có biểu hiện động dục. Để chắc chắn bò có hiện tượng động dục
thì phải tiêm progesterone liên lục 14 ngày (một lần/ngày), tuy nhiên, tỷ lệ đậu thai lại thấp.
Sau đó, phương pháp sử dụng PGF2α được nghiên cứu phát triển. Động dục được tạo ra sau
khi thể vàng tiêu biến dưới tác động của PGF2α. Phương pháp này sau đó được ứng dụng rộng rãi
trên toàn Thế giới do khắc phục được nhược điểm của phương pháp tiêm progesterone.
Mục đích của phương pháp này là tạo ra biểu hiện động dục sau khi thể vàng tiêu biến nhờ
vai trò của PGF2α. Phương pháp tiêm một mũi PGF2α thường được sử dụng sau khi chắc chắn có
thể vàng bằng phương pháp khám qua trực tràng. Vấn đề của phương pháp này là khoảng thời
gian từ khi tiêm PGF2α tới lúc động dục dao động lớn nên khó để xác định chính xác thời điểm
rụng trứng. Thêm vào đó, tỷ lệ đậu thai và mang thai không đạt như mong muốn bởi vì không thể
quan sát được động dục ở những bò có biểu hiện yếu, dẫn đến phối không đúng thời điểm.
Sau này, các nhà khoa học đã tìm ra nguyên nhân làm cho thời gian từ lúc tiêm PGF2α tới
khi động dục biến động lớn là do khi tiêm nang trứng đang ở giai đoạn phát triển khác nhau ở
những cá thể bò khác nhau. Để khắc phục yếu điểm này, một phương pháp mới được tìm ra để
kiểm soát giai đoạn phát triển của nang trứng tại thời điểm tiêm PGF2α.
(3) Phương pháp tiêm kết hợp GnRH và PGF2α và phương pháp GnRH-PGF2α-GnRH-TAI
(Phương pháp Ovsynch kết hợp cố định thời gian phối)
Khi GnRH được tiêm 7 ngày trước khi tiêm PGF2α, một sóng trứng mới được tạo ra sau đó
1.5 - 2 ngày. Tiếp theo, tại thời điểm khi PGF2α được tiêm, nang trứng đang ở ngày thứ 5 của giai
đoạn phát triển. Những bò được tiêm cùng ngày sẽ có biểu hiện động dục đồng thời (khoảng 2 -
3 ngày sau khi tiêm PGF2α). Do vậy có thể dễ dàng quan sát động dục. Mặc dù vậy, nếu cố định
thời gian phối sau khi tiêm PGF2α thì kết quả vẫn chưa được như mong muốn bởi vì không phải
tất cả bò đều rụng trứng ở cùng thời điểm.
Sau đó, người ta đã giải quyết được yếu điểm này bằng cách tiêm mũi GnRH lần thứ hai
(Lúc này phương pháp được gọi là Ovsynch). Kết quả thu lại đã làm hài lòng dẫn tinh viên và
chủ trang trại sau khi tiến hành phối giống ở thời điểm khoảng 16 - 20 tiếng sau mũi tiêm GnRH
lần thứ hai. Do dó, phương pháp này nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi khắp Thế giới.
Tuy nhiên, phương pháp Ovsynch vẫn còn một số nhược điểm sau:
- Phải bắt bò 4 lần (3 lần tiêm và một lần phối giống)
Để giải quyết những khó khăn khi áp dụng phương pháp Ovsynch, một số phương pháp
khác đã được nghiên cứu triển khai dựa trên cơ sở phương pháp Ovsynch. Danh sách các phương
pháp được liệt kê sau đây:
(2) Select-Synch
ĐD GnRH
GnRH PGF2α AI AI
(3) Pre-Synch
PGF2α PGF2α GnRH PGF2α GnRH AI
a)
-28 -14
(4) Heat-Synch
GnRH
GnRH PGF2α EB AI
0 7 8 9 10 11 ngày
(2) Phương pháp CIDR-Ovsynch (Kết hợp đặt vòng CIDR khi thực hiện Ovsynch)
Khi áp dụng phương pháp Ovsynch đối với bò tơ, tỷ lệ đậu thai thấp hơn so với phối sau
khi quan sát động dục. Nguyên nhân làm cho tỷ lệ đậu thai giảm được cho là liên quan tới tỷ lệ
rụng trứng của bò tơ thấp sau khi tiêm mũi GnRH đầu, trên thực tế hiện tượng bò tơ có thể vàng
tiêu biến vào thời điểm tiêm PGF2α xảy ra rất nhiều. Chính vì vậy, phương pháp Ovsynch trên bò
tơ đã được điều chỉnh bằng cách đặt vòng CIDR vào thời điểm tiêm GnRH và rút vòng ra vào
thời điểm tiêm PGF2α (7 ngày sau đó). Trong khoảng thời gian này, ngay cả khi thể vàng đã tiêu
biến thì progesterone từ vòng CIDR có tác rụng ức chế sự phát triển và thành thục của nang
trứng nên sẽ không có hiện tượng rụng trứng trước thời điểm dự kiến. Sau khi rút vòng CIDR và
tiêm PGF2α, tốc độ phát triển của nang trứng được khôi phục cộng với việc GnRH được bổ sung
lần thứ hai hầu hết bò đều rụng trứng đồng loạt vào thời điểm dự kiến. Bằng phương pháp phối
cố định kết quả đậu thai là tương đối tốt.
(4) Phương pháp Presynch-Ovsynch (Xử lý trước khi thực hiện Ovsynch)
Nếu bất kì hoóc-môn GnRH hoặc PGF2α được sử dụng trước khi bắt đầu phương pháp
Ovsynch thì khi đó phương pháp được gọi là Presynch.
Đối với phương pháp Ovsynch, tỷ lệ rụng trứng và tỷ lệ đậu thai cao khi bắt đầu áp dụng
phương pháp ở khoảng ngày 5 - 12 sau khi bò động dục. Ngược lại, nếu bắt đầu phương pháp
(Tiêm GnRH lần đầu) vào khoảng ngày 13 - 15 sau động dục thì tỷ lệ đậu thai sẽ thấp bởi vì bò
sẽ động dục và trứng rụng trước khi phối cố định. Do đó, để kiểm soát được chắc chắn buồng
trứng đang ở giai đoạn nào của chu kì động dục, tất cả bò tham gia vào phương pháp đều được
tiêm PGF2α trước khi bắt cầu phương pháp Ovsynch vào khoảng ngày 5 -12 sau động dục, và kết
quả thu được là rất khả quan.
Phương pháp cụ thể như sau:
- Tiêm hai lần PGF2α cách nhau 14 ngày
- Bắt đầu phương pháp Ovsynch vào khoảng ngày 12 - 14 sau động dục. Có thể kết
hợp hoặc không kết hợp với vòng CIDR tùy từng trường hợp.
Khi sử dụng phương pháp Ovsynch trước khi bắt đầu phương pháp Ovsynch lần hai cũng
được coi là phương pháp Presynch. Tuy nhiên trong trường hợp này có thể sử dụng một tên gọi
cụ thể khác đó là Double-Ovsynch (Phương pháp hai lần rụng trứng).
Lưu ý: Phân biệt phương pháp Double-Ovsynch với phương pháp Resynch.
Phương pháp Double-Ovsynch: Kết thúc phác đồ 28 ngày (hai lần Ovsynch) rồi mới
tiến hành phối giống.
Phương pháp Resynch: Bò được phối sau khi kết thúc phương pháp Ovsynch lần
đầu, vào khoảng ngày 12 - 25 sau phối bò được áp dụng phương pháp Ovsynch lần
hai với mục đích kích thích những nào không đậu thai có biểu hiện lên giống sớm để
phối. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng phương pháp Resynch mang lại
hiệu quả không cao.
Tóm lược: có rất nhiều phương pháp gây động dục và gây rụng trứng đồng loạt. Trong đó,
phương pháp Ovsynch và Heatsynch thường được áp dụng đối với bò rạ; phương pháp
Selectsynch sẽ được lựa chọn sử dụng tiếp theo. Phương pháp CIDR-Ovsynch và EB-
P(CIDR)-PGF2α-EB chủ yếu thực hiện trên bò tơ và bò thịt.
Lưu ý: Hiện nay tại Mỹ và Châu Âu không sử dụng phương pháp Heat-synch cho bò đang khai
thác sữa do estrogen-benzoate có thể vào sữa làm ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
CHƯƠNG III- THỤ TINH NHÂN TẠO VÀ VAI TRÒ TRONG CHĂN NUÔI BÒ SỮA
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của phương pháp thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo (AI-Artificial Insemination) là kỹ thuật trong sinh sản gia súc bao gồm
các bước lấy tinh từ con đực, pha loãng và đông lạnh để bảo quản tinh, rã đông tinh và bơm vào
cơ quan sinh dục của con cái, làm cho con cái mang thai thay vì được con đực phối trực tiếp.
Người đầu tiên tiến hành thụ tinh nhân tạo thành công là một thầy tu đồng thời là một nhà
khoa học người Ý mang tên L. Spallanzani vào năm 1780. Ông đã thực hiện thành công trên chó
khi tiến hành bơm tinh trùng vừa lấy cho chó cái Tây Ban Nha, kết quả là ba chú chó con ra đời.
Phương pháp thụ tinh nhân tạo ở trang trại chăn nuôi được phát triển dựa trên kỹ thuật thụ
tinh nhân tạo trên ngựa và những loài động vật khác bởi nhà khoa học người Nga có tên Iwanoff
năm 1907.
3.2. Ưu và nhược điểm của phương pháp thụ tinh nhân tạo
3.2.1. Ưu điểm
(1) Bò đực giống tốt sẽ được tận dụng tối ưu
Lợi ích lớn nhất của phương pháp thụ tinh nhân tạo là tận dụng tối đa những đặc tính tốt
của bò đực giống. Lượng tinh lấy từ một bò đực giống có thể sử dụng để phối cho 20,000 bò
cái/năm (bò đực được lấy tinh 2 lần/tuần, mỗi lần lấy được khoảng 6 ml, trong 1 ml tinh dịch có
khoảng 1 tỷ tinh trùng, do đó trong một năm bò đực tạo ra 50 x 2 x 6 x 109 = 6 x 1011 tinh trùng.
Một cọng tinh có chứa khoảng 30 triệu tinh trùng. Vì vậy, một năm lượng tinh thu từ một bò đực
giống có thể sản xuất ra 6 x 1011/3 x 107 = 20,000 liều). Trong một đời bò đực có thể tạo ra tới
200,000 bê con.
(2) Cải tạo đàn bò bằng cách chọn lọc gen tốt
Tinh của những bò đực giống tốt được lựa chọn để tạo ra đàn bê con có khả năng cho năng
suất và sản lượng sữa cao nhằm nâng cao tổng sản lượng sữa của trang trại.
(3) Những gen tốt được xác định nhanh và chính xác hơn
Thông qua những thông số về các dòng tinh các trang trại có thể biết được những đặc tính
nổi trội cũng như những bệnh về gen của từng bò đực giống, từ đó sẽ lựa chọn được dòng tinh
phù hợp để cải tạo đàn bò của mình.
(4) Kiểm soát được các bệnh truyền lây khi cho bò phối trực tiếp
Thông qua thụ tinh nhân tạo (bò cái không tiếp xúc trực tiếp với bò đực) chúng ta có thể
kiểm soát được các bệnh nguy hiểm truyền lây qua đường sinh dục như roi trùng
(Trichomoniasis) và bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis).
(5) Tinh sau khi đông lạnh có thể vận chuyển đi xa, có thể sử dụng trong thời gian dài
Hiện nay, tinh đông lạnh được mua bán và sử dụng rộng rãi khắp nơi trên Thế giới bởi vì
tinh cọng rạ sử dụng an toàn, dễ dàng vận chuyển và giá thành rẻ hơn rất nhiều so với việc nhập
bò đực giống. Thêm vào đó, cọng tinh có thể bảo quản và sử dụng trong thời gian dài ngay cả khi
bò đực giống đã chết.
(6) Những lợi ích khác của việc thụ tinh nhân tạo
- Tránh được những sát thương do bò đực gây ra cho con người
- Không phải lo chỗ nuôi, quản lý, chăm sóc đối với bò đực giống
- Tránh được việc bò đực quá to so với bò tơ khi phối, hay là bò đực chân đau không thể
nhảy được
- Không lo chất lượng tinh do bò đực phải phối quá nhiều hay phối vào mùa hè
- Sử dụng tinh giới tính cho mục đích chăn nuôi
- Hỗ trợ tốt cho kỹ thuật cấy truyền phôi
(2) Vệ sinh âm hộ bò
Âm hộ bò trong tình trạng bẩn do dịch động dục hoặc phân dính vào sau khi khám để xác
định động dục. Để đảm bảo vệ sinh và không làm ảnh hưởng đến quá trình phối giống, cần móc
hết phân trong trực tràng, sau đó dùng giấy lau sạch phân, hoặc có thể dùng nước rửa sạch phân
dính xung quanh âm hộ rồi dùng giấy lau khô trước khi phối.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chu kì sinh sản của bò sữa làm tăng khoảng cách giữa
hai lứa đẻ. Những yếu tố chính đó là: (1) không động dục trở lại sau đẻ, (2) khả năng thụ thai
kém, (3) bất thường trong quá trình mang thai, (4) bất thường trong quá trình sinh nở, và (5)
chậm phục hồi sau đẻ. Hai vấn đề nổi cộm trong chăn nuôi bò sữa quy mô lớn là không động
dục sau đẻ và khả năng thụ thai kém sẽ được tập trung phân tích dưới đây.
(2) Lần rụng trứng đầu tiên sau giai đoạn buồng trứng không hoạt động
Thể vàng tiêu biến sau khi bò đẻ, chức năng của thể vàng sẽ không được hình thành cho tới
lần rụng trứng đầu tiên. Biểu hiện động dục không thể quan sát được do hàm lượng progesterone
không đủ để kích thích hệ thần kinh, kể cả khi estrogen được tiết ra từ nang trứng thành thục và
vào gần giai đoạn rụng trứng đầu tiên. Trường hợp này thường xảy ra ở lần rụng trứng đầu tiên
sau khi buồng trứng không hoạt động.
(3) Động dục không rõ ràng (chậm động dục, không động dục, động dục yếu, hoặc động dục
ngắn)
Thể vàng hình thành, tồn tại sau đó tiêu biến, nang trứng phát triển và thành thục nhưng
động dục không quan sát được, hoặc không rõ, hoặc không đủ dài để quan sát. Nguyên nhân là
do thiếu năng lượng trong giai đoạn đầu sau đẻ (cân bằng năng lượng âm), bệnh chân móng,
stress nhiệt, khẩu phần mất cân đối, nền chuồng làm bằng xi măng, v.v…
(4) Động dục ngầm (Vấn đề liên quan tới phương pháp phát hiện động dục)
Nguyên nhân chính dẫn tới không quan sát được động dục có thể là do số lượng bò trong
đàn lớn nên người ghi chép không thể bao quát được hết toàn đàn. Thông thường, quá trình động
dục của bò sữa bắt đầu từ lúc nửa đêm và kết thúc sau đó khoảng 20 tiếng. Giải pháp tốt nhất là
nhân viên quan sát động dục theo dõi và ghi chép cẩn thận ít nhất 20 phút vào cả buổi sáng sớm
và chiều tối.
Một nguyên nhân khác có thể là bò có hiện tượng động dục ngầm, động dục yếu và trong
thời gian ngắn được mô tả ở mục thứ ba “Động dục không rõ ràng”.
Biểu đồ IV-1: Các bước để bò mang thai sau thụ tinh nhân
tạo
Những nguyên nhân dẫn tới thụ thai không thành công và chết phôi và giải pháp sẽ được
thảo luận ngay sau đây.
Những nguyên nhân dẫn tới thụ thai không thành công
Trứng và tinh trùng không kết hợp được với nhau sau khi phối giống. Những nguyên nhân
sau cần được quan tâm tới: thời điểm phối không chuẩn, động dục ẩn, lỗi trong thao tác phối, rối
loạn rụng trứng và tắc ống dẫn trứng.
Động dục ẩn
Bò sẽ không bao giờ đậu thai nếu phối khi không động dục bởi vì không có trứng rụng và
tinh trùng cũng không thể di chuyển tới ống dẫn trứng khi không có sự co bóp hỗ trợ của tử
cung.
Trên thực tế, dựa vào hàm lượng progesterone trong máu/sữa có thể xác định được bò
động dục hay không. Nếu nếu hàm lượng progesterone thấp hơn ngưỡng (1 ng/ml trong máu
hoặc 5 ng/ml trong sữa) sẽ được coi là động dục kể cả khi bò không có biểu hiện động dục.
4.3. Những nguyên nhân dẫn tới chết phôi và giải pháp
Như đã trình bầy, phôi di chuyển trong ống dẫn trứng về tử cung để làm tổ sau khi tinh
trùng và trứng kết hợp với nhau. Đôi khi có hiện tượng chết phôi trong quá trình di chuyển. Nếu
bò động dục trở lại đúng chu kì thì rất khó để phân biệt là quá trình thụ thai không thành công
hay là chết phôi vì có thể phôi chết và được đẩy ra ngoài cùng với dịch động dục. Tuy nhiên, khi
bò động dục trở lại sau phối vào khoảng từ ngày 25 sau phối thì có thể nhận định rằng đây là
trường hợp chết phôi.
Nguyên nhân chính gây ra chết phôi có thể là: phối quá sớm hoặc quá muộn, viêm nhiễm
tử cung, thiếu dinh dưỡng, thể vàng thoái hóa sớm, và nhiệt độ cơ thể tăng cao do stress nhiệt.
(3) Thiếu dinh dưỡng (protein, năng lượng, vitamin và khoáng chất)
Chưa có nghiên cứu cụ thể về cơ chế tác động trực tiếp của việc thiếu dinh dưỡng tới sự
chết phôi. Tuy nhiên, tỷ lệ đậu thai ở lần phối đầu sau đẻ được ghi nhận là thấp trong trường hợp
bò có điểm thể trạng thấp (Body condition score-BCS) và/hoặc hàm lượng mỡ sữa thấp sau đẻ.
Mặc dù vậy, vẫn chưa xác định được cụ thể là tỷ lệ đậu thai bắt nguồn từ việc thụ thai bất thành
hay chết phôi.
Khẩu phần ăn có quá nhiều protein, hoặc thiếu vitamin và khoáng chất đã được công bố
là nguyên nhân làm chết phôi do làm thay đổi môi trường trong tử cung, tuy nhiên, chi tiết mối
quan hệ giữa chúng chưa được khám phá hết.
Để cải thiện khả năng sinh sản, việc đánh giá điểm thể trạng và phân tích hàm lượng mỡ
sữa cần được thực hiện định kì. Đặc biệt phải khắc phục tình trạng bò bị mất cân bằng năng
lượng (cân bằng năng lượng âm). Hiện nay, tại tất cả các trang trại trực thuộc công ty, việc đánh
giá điểm thể trạng được thực hiện định kì theo Quy định chấm thể trạng bò bê (R-VP-KTH-05
QĐ CHAM THE TRANG BO BE); thành phần sữa được đánh giá định kì hàng tháng; và bò được
cho uống propylen glycon theo Quy trình hộ lý sau đẻ để phòng hiện tượng mất cân bằng năng
lượng (W-VP-KTH-10 QUY TRINH HO LY BO SAU DE).
Biểu đồ IV-1 cho thấy tỷ lệ sống sót và phát triển bình thường của phôi ở bò bình thường
và bò bị stress nhiệt trong khoảng thời gian 1 tuần. Tỷ lệ phôi sống sót và phát triển bình thường
giảm thấp hơn ở bò bị stress nhiệt so với bò đối chứng, cho thấy rằng tỷ lệ chết phôi tăng cao ở
bò bị stress nhiệt.
Ngoài ra, stress nhiệt còn tiếp tục ảnh hưởng tới sự phát triển của phôi trong vòng 1 - 2
ngày sau khi thụ thai. Phôi ở ngày tuổi thứ ba không bị ảnh hưởng bởi stress nhiệt nhiều lắm.
Trong những ngày nắng nóng, tỷ lệ đậu thai thu được ở nhóm bò được cấy truyền phôi 7 - 8 ngày
tuổi cao hơn bò được thụ tinh nhân tạo (Biểu đồ IV-2).
Số liệu trên cho thấy hiện tượng chết phôi vào mùa hè xảy ra trong vòng vài ngày trước và
sau khi phối. Do đó, giải pháp làm mát trước và sau khi phối một vài ngày có thể làm tăng tỷ lệ
đậu thai.
Tóm lại, nguyên nhân chính làm giảm tỷ lệ đậu thai ở bò sữa là thụ thai bất thành và
chết phôi, và yếu tố tác động chính là thời điểm phối, kỹ thuật phối, khẩu phần ăn, viêm
nhiễm tử cung và stress nhiệt.
Biểu đồ IV-2: Ảnh hưởng của stress nhiệt tới sự Biểu đồ IV-3: So sánh tỷ lệ đậu thai giữa thụ tinh
phát triển của phôi (Putney, 1989) nhân tạo vàcấy truyền phôi khi bò bị stress nhiệt
(Nguồn: Artificial Insemination manual for cattle)
Việc quản lý sinh sản sau đẻ cần tiến hành theo hai chương trình song song với nhau đó là
quản lý cá thể và quản lý theo đàn. Nói chung, việc quản lý sinh sản cần thực hiện như sau: Tiến
hành đánh giá hiệu quả sinh sản định kì đàn bò để tìm ra những vấn đề còn tồn tạiTìm giải
pháp khắc phục những tồn tại Tiếp tục lặp lại chu trình đánh giá và tìm giải pháp Đạt được
kết quả giống như mục tiêu, triển khai giải pháp để duy trì kết quả đạt được.
Việc đánh giá hiệu quả sinh sản và những điểm cần lưu ý để cải thiện hiệu quả sinh sản của
đàn bò sẽ được thảo luận sau đây
Những tiêu chí thường được dùng để đánh giá hiệu quả sinh sản đàn bò dài hạn bao gồm:
Lưu ý những tiêu chí kể trên không thể dùng để đánh giá hiệu quả sinh sản trong ngắn hạn
- Tỷ lệ đậu thai
- Tỷ lệ mang thai
Tỷ lệ mang thai được tính = Tỷ lệ phát hiện đông dục x Tỷ lệ đậu thai
Ví dụ: Trong tháng trang trại có 100 bò đủ điều kiện phối giống (Xem thêm W-VP-KTH-09 QUY
TRINH PHOI GIONG). Tỷ lệ phát hiện động dục là 70 % (70 bò được phối giống). Tỷ lệ đậu
thai là 50 %. Khi đó tỷ lệ mang thai = 0.7 x 0.5 = 35 %, tức là trong tháng đó trang trại có 35 bò
mang thai trong tổng số 100 bò đủ điều kiện phối giống.
Để nâng cao tỷ lệ mang thai phải nâng cao đồng thời tỷ lệ phát tỷ lệ phát hiện động dục
(tức là nâng cao số bò được phối trong tháng lên) và nâng cao tỷ lệ đậu thai.
Để nâng cao tỷ lệ phát hiện động dục, ta có thể sử dụng hoóc-môn để gây động dục đồng
loạt. Để nâng cao tỷ lệ đậu thai trang trại phải lưu ý tới những điểm sau: Phát hiện động dục
chính xác và xác định thời điểm phối thích hợp, rã đông tinh đúng kỹ thuật, cho bò ăn khẩu phần
cân đối từ giai đoạn cạn sữa trước đẻ và kiểm soát bệnh sau đẻ.
Qua đó chúng ta thấy cách dễ nhất để nâng cao tỷ lệ mang thai là cải thiện tỷ lệ phát hiện
động dục trong đàn bò bởi vì rất khó để có thể nâng cao tỷ lệ đậu thai thậm chí chỉ một vài phần
trăm.
Tác giả Ferguson (1999) đã tiến hành đánh giá và chỉ ra rằng những yếu tố quan trọng nhất
ảnh hưởng tới khoảng cách giữa hai lứa đẻ là:
Yếu tố tác động Tỷ lệ ảnh hưởng tới khoảng cách giữa hai lứa đẻ
Tỷ lệ phát hiện động dục ở lần phối đầu
42 %
tiên
Khoảng thời gian dự kiến bò đủ điều kiện
phối lần đầu (Hiện nay Công ty Quy định 25 %
bò rạ ≥ 50 NSĐ)
Tỷ lệ đậu thai 24 %
Để nâng cao hiệu quả sinh sản của đàn bò trong ngắn hạn cần lưu ý những điểm sau:
- Tính toán ty lệ mang thai hàng tháng để có biện pháp điều chỉnh
- Theo dõi tỷ lệ phát hiện động dục và tìm hiểu nguyên nhân khi tỷ lệ này thấp hơn 70%
- Nâng cao tỷ lệ đậu thai bằng cách đào tạo nâng cao tay nghề dẫn tinh viên
- Kiểm soát khẩu phần ăn hợp lý, làm tốt công tác đỡ đẻ và hộ lý sau đẻ
6.2. Phát hiện động dục và thời điểm phối giống thích hợp nhất
6.2.1. Phát hiện động dục
Cách tốt nhất để phát hiện bò động dục là quan sát biểu hiện đứng yên cho bò khác nhảy
lên lưn, được gọi là chịu đực. Chúng ta có thể dễ dàng quan sát bò chịu đực khi bò đi vắt sữa,
ngoài bãi chăn thả hay khi đang ăn,…
Những biểu hiện khác cần chú ý khi quan sát bò động dục là:
- Âm hộ sưng và sung huyết, có dịch chảy ra
- Kêu rống
- Giảm ăn và giảm sản lượng sữa
- Tiếp cận, gác cằm lên lưng, gửi âm hộ hay là nhảy bò khác
- Bồn chồn, đi lại nhiều, hay đi theo người
Nếu bò bị nhốt một chỗ, hoặc nuôi ở những nơi có diện tích hẹp (hộ chăn nuôi nhỏ, hay bò
ở chuồng lưu bệnh,…) cần quan lưu ý tới các biểu hiện như âm hộ sưng và sung huyết, có dịch
trong, nhầy có thể kéo dài thành sợi chảy ra từ âm hộ, hoặc dịch dính xung quanh đuôi hay âm
hộ, kêu rống, giảm ăn, giảm sữa đều là những thông tin để đánh giá bò động dục.
Khi bò được chia theo lô để cho ăn khẩu phần khác nhau, ngoài những biểu hiện được mô
tả ở trên, khi bò gần động dục sẽ có vận động nhiều hơn bình thường, tiếp cận và cố gắng nhảy
bò khác. Tuy nhiên, chúng lại bỏ chạy khi bị con khác nhảy. Những bò thuộc dạng này đang ở
giai đoạn khoảng 8 tiếng trước khi động dục. Cho nên, khi bò có những biểu hiện như vậy cần
chú ý quan sát ở lần theo dõi tiếp theo.
Khi bò chịu để con khác nhảy lên có nghĩa là dẫu hiệu xác định giai đoạn động dục của bò
bắt đầu. Thời gian động dục kéo dài khoảng 12 - 18 tiếng. Nếu bò không chịu để cho con khác
nhảy lên nữa thì có nghĩa là giai đoạn động dục của bò kết thúc.
Kết thúc quá trình động dục, khi quan sát có thể nhận biết bò động dục thông qua vết trầy
da ở khấu đuôi và ở hai mấu xương ngồi. Hiện tượng chảy máu xuất hiện khoảng 2 ngày sau khi
bò động dục. Dịch nhầy lẫn máu chảy ra từ âm hộ bò được gọi là “hiện tượng kinh nguyệt” trên
bò.
Việc quan sát động dục là rất quan trọng để xác định thời gian phối thích hợp cho bò, và có
thể được hỗ trợ bằng miếng dán ở đuôi, sơn đuôi, máy báo tăng vận động, v.v. Nên quan sát vào
tối hoặc sáng sớm bởi vì đó là thời điểm bò có biểu hiện động dục nhiều nhất.
Bảng VI-2: Biểu hiện động dục và thời điểm phối giống thích hợp
Sớm Có thể Thời điểm thích hợp Có thể Muộn
0 6 9 18 24 28 gi ờ
Rụng trứng
Giai đoạn sớm trước 6-10 tiếng Động dục Giai đoạn muộn
1. Tiếp cận bò khác 1. Để con khác nhảy 1. Khó chịu khi chạm vào 1. Có khả năng đậu
2. Kêu rống phần mông thai sau khi trứng
3. Nhảy con khác rụng 10 tiếng
7. Nhảy bò khác 4. Khi chạm vào mông đứng yên và 2. Không để con khác nhảy
cong đuôi lên
5. Đi lại nhiều, không nằm
6. Chảy dịch trong
3. Âm hộ sưng, sung huyết và tiết 7. Giãn đồng tử 3. Chảy dịch trong, keo
dịch 8. Hay đi theo người nhầy
9. Giảm ăn và giảm sữa
(Nguồn: Tài liệu tập huấn của Livestock artificial insermination)
Bảng VI-3: Thời điểm phối giống thích hợp trên thực tế
Thời điểm phát hiện động dục Thời gian phối thích hợp Muôn/Trễ
Sáng sớm (trước 9 giờ sáng) Buổi chiều cùng ngày Ngày hôm sau
Buổi sáng (từ 9 giờ tới trưa) Buổi tối cùng ngày hoặc Sau 10 giờ sáng hôm sau
sáng sớm ngày hôm sau
Buổi chiều (từ sau 12 giờ trưa) Sáng hôm sau Sau 2 giờ chiều hôm sau
(Nguồn: Tài liệu tập huấn của Livestock artificial insermination)
Lần rụng trứng đầu tiên sẽ xảy ra vào khoảng ngày thứ 20 sau đẻ. Trong giai đoạn này tử
cung đang co nhỏ dần. Phần lớn bò sẽ không có biểu hiện động dục ở lần rụng trứng đầu tiên sau
đẻ. Sau đó, lớp niêm mạc tử cung hồi phục, vào khoảng ngày thứ 30 sau đẻ, bò có thể có biểu
hiện động dục và rụng trứng bình thường. Thông thường bò có thể được phối giống từ ngày 60
sau đẻ nếu động dục. Theo quy định phối giống của Công ty, bắt đầu từ ngày 50 sau đẻ có thể
tiến hành phối giống nếu bò có biểu hiện động dục (W-VP-KTH-09 QUY TRINH PHOI GIONG).
Phải kiểm soát khẩu phần cân đối cho bò để đảm bảo bò không quá béo trước đẻ và không
quá gầy sau khi đẻ. Sau khi đẻ, bò vừa phải tập trung năng lượng để sản xuất sữa đồng thời hồi
phục lại cơ quan sinh sản. Nếu quản lý dinh dưỡng bò không tốt, có thể xẩy ra hiện tượng bò bị
thiếu magie dẫn tới chậm hồi phục cơ quan sinh dục và do đó ảnh hưởng đến lứa tiếp theo. Điều
đó đồng nghĩa với việc giảm hiệu quả sinh sản của đàn bò.
Khoảng cách giữa hai lứa đẻ càng dài là do khoảng thời gian không mang thai của bò tăng,
bò hay bị tăng cân quá mức. Do vậy, cần kiểm soát khẩu phần ăn của những bò vắt sữa cuối kì,
nên duy trì ở mức 3.5 là tốt nhất để tập trung cho phối giống.
6.3. Ứng dụng hoóc-môn để gây động dục đồng loạt và điều trị đối với bò chậm sinh
Kết quả của quá trình chọn lọc và lại tạo đã tạo ra những giống bò sữa có năng suất và sản
lượng rất cao. Trong vòng bốn thập kỉ trở lại đây sản lượng sữa đã tăng lên gần gấp đôi trong khi
hiệu quả sinh sản của bò sữa lại đang đi xuống. Hiện tượng bò không có biểu hiện động dục sau
đẻ trở nên khá phổ biến trong chăn nuôi quy mô lớn.
Hiện nay, các hoóc-môn đang được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi bò sữa góp phần nâng
cao hiệu quả của công tác quản lý sinh sản như tăng tỷ lệ động dục, nâng cao tỷ lệ đậu thai, điều
trị các rối loạn hoóc-môn trong cơ thể, rối loạn chức năng buồng trứng sau đẻ…
Ở các nước phát triển, tất cả bò bắt đầu được sử dụng hoóc-môn để điều khiển chu kì động
dục từ khoảng ngày 60 sau đẻ, hoặc điều trị các bệnh sinh sản.
Tại các trang trại trực thuộc Công ty TNHH MTV Bò Sữa Việt Nam, hiện nay, do chi phí
hoóc-môn tương đối cao nên đang ưu tiên sử dụng cho nhóm bò chậm sinh (xem W-VP-KTH-07
QUY TRINH XLSS BO KHONG MANG THAI). Tuy nhiên, do đặc thù thời tiết tại Việt Nam, một
số trang trại tại miền Bắc bị ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện khí hậu, cho nên Công ty vẫn tiến
hành sử dụng hoóc-môn để gây động dục đồng loạt đối với nhóm bò 60 - 90 ngày sau đẻ.
Đối với nhóm bò 60 - 90 ngày sau đẻ có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp hai lần PGF2α: nếu xác định bò có thể vàng
- Phương pháp hai lần PGF2α: điều trị những bò bị thể vàng tồn lưu
- Phương pháp CIDR-Ovsynch: dùng cho bò tơ, hoặc dùng cho bò rạ đã sử dụng phương
pháp Ovsynch không đạt.
- Phương pháp Double-Ovsynch: dùng cho bò u nang buồng trứng, buồng trứng không
hoạt động, buồng trứng kém phát triển.
(2) Chẩn đoán mang thai và khám kiểm tra sự phát triển của thai
a) Chẩn đoán mang thai bằng phương pháp khám qua trực tràng
Phương pháp cơ bản để xác định mang thai đó là phương pháp khám qua trực tràng
Ở bò mang thai, hai bên sừng tử cung (kể cả bên có thai và bên không thai) đều phồng to
hơn bình thường, thành tử cung mỏng đàn hồi, khi sờ cảm giác sừng mọng như có nước bên
trong.
Đối với thai to trên 100 ngày sau phối, có thể cảm nhận được sức nặng khi cầm vào cổ tử
cung hơi nhấc lên.
Theo quy trình khám thai của Công ty hiện nay, thời điểm khám thai ở bò tơ và bò rạ lần
lượt là ≥ 45 và ≥ 60 ngày sau phối. Ở giai đoạn này, khi khám cần để ý những điểm sau đây:
- Đầu tiên xác định vị trí cổ tử cung
- Tiếp đó trượt tay dọc hai bên sừng tử cung để xác định kích thước, cảm nhận về độ
cương cứng, độ giãn, độ đàn hồi của sừng tử cung
- Để xác định chính xác bò mang thai, sử dụng ngón cái và ngón trỏ véo nhẹ vào bên
sừng tử cung nghi có thai để cảm nhận độ trượt của màng thai giống như cảm giác
da tay trượt khi véo qua lớp áo (Hình VI-1 và VI-2).
- Kỹ thuật khám qua trực tràng đồi hỏi người khám phải rèn luyện rất nhiều để có cảm
nhận tốt khi khám thai. Những trường hợp khó (nghi ngờ) không thể xác định được
nên để lại để kiểm tra ở lần khám tiếp theo.
Biểu đồ VI-1: Mô tả khám thai bằng Biểu đồ VI-2: Mặt cắt mô tả sừng tử ung khi khám
phương pháp khám qua trực tràng thai bằng phương pháp khám qua trực tràng
Sau đây là một số hình ảnh tham khảo về kích thước của thai ở các giai đoạn phát triển
khác nhau:
Hình VI-2: Kích thước thai Hình VI-3: Kích thước thai Hình VI-4: Kích thước thai
1.2 cm ở ngày 30 sau phối 2.1 cm ở ngày 40 sau phối 2.7 cm ở ngày 45 sau phối
Hình VI-5: Kích thước thai Hình VI-6: Kích thước thai Hình VI-7: Kích thước thai
3.6 cm ở ngày 50 sau phối 4.9 cm ở ngày 55 sau phối 6.4 cm ở ngày 60 sau phối
Thời gian mang thai của bò dao động từ 273 - 292 ngày tùy từng giống bò. Bò HF mang thai
khoảng 278 - 282 ngày, còn bò Jersey có số ngày mang thai từ 277 - 280 ngày.
Nếu bò mang thai bê cái thì thời gian mang thai sẽ dài hơn từ một đến hai ngày. Trường hợp
bò mang thai đôi thì thường đẻ sớm hơn từ ba đến sáu ngày so với mang thai đơn.
Những năm gần đây, đặc điểm sinh sản của bò sữa được tập trung nghiên cứu và cải thiện,
vóc dáng có bò mẹ to hơn và trọng lượng bê con lúc sinh được nâng lên. Thời gian mang thai
trung bình của bò là khoảng 280 ngày. Tuy nhiên, theo tác giả Dochi (2003) khoảng thời gian
mang thai trung bình của bò có xu hướng kéo dài hơn khoảng 1 - 3 ngày đối với cả bê đực và cái;
Cụ thể thời gian mang thai bê đực trung bình là khoảng 282.7 ngày và mang thai bê cái trung
bình là khoảng 281.2 ngày.
Phải lập danh sách bò gần đến ngày dự kiến đẻ, theo dõi các dấu hiện bò sắp sinh cẩn thận
(xem mục 1.5.1). Bò chuyển dạ cần phải chăm sóc hỗ trợ theo Quy trình đỡ đẻ (W-VP-KTH-…
QUY TRINH DO DE), bê con sinh ra cần được được chăm sóc theo Quy trình chăm sóc bê con
từ lúc sinh tới khi cai sữa (W-VP-KTH-05 QT NUOI DUONG CHAM SOC BE SS DEN CAI
SUA) và bò sau đẻ được theo dõi xử lý theo Quy trình hộ lý sau đẻ (W-VP-KTH-10 QUY TRINH
HO LY CHO BO SAU DE).
1. Dự án nâng cao kỹ thuật chăn nuôi bò sữa cho các trang trại quy mô vừa và nhỏ ở Việt
Nam, 2000. Tài liệu Kỹ thuật sinh sản cho bò sữa.
2. Các quy trình, quy định của Công ty đã ban hành
3. Estrous Cycle Learning Module. http://beef.unl.edu/learning/estrous.shtml.
4. Ferguson JD, Galligan DT, 1999. Veterinary reproductive program. Proceeding 32nd
annual convention of American Association of Bovine Practitioners, trang 131-137.
5. Foote RH, 2002. Department of Animal Science, Cornell University, Ithaca, NY 14853-
4801. The history of artificial insemination: Selected notes and notables, trang 1-10.
6. Giordano JO, Wiltbank MC, Fricke PM, Bas S, Pawlisch R, Guenther JN, Nascimento
AB, 2013. Effect of increasing GnRH and PGF2α dose during double-ovsynch on
ovulatory respone, luteal regression, and fertility of lactating dairy cows. Tạp chí
Theriogenology số 80(7), trang 773-783.
7. Japan Livestock Technology Association, 2004. Artificial insemination manual for cattle,
revised edition.
8. Thatcher WW, Patterson DJ, Moreia F, Pancarci M, Jordan ER, Risco CA, 2001. Current
concept for estrus synchronization and timed insemination. Proceeding 34th annual
convention of American Association of Bovine Practitioners, trang 95-105.
9. Whittier JC, 1993. Reproductive Anatomy and Physiology of the Cow.
http://extension.missouri.edu/p/G2015
10. Whisnant CS, Washburn SP, and Farin PW, 1999. Current concepts for estrus and
ovulation of dairy cows. Proceedings of the American Society of Animal Science, trang
317-320.
11. Ultrasonography machine. http://www.draminski.com