You are on page 1of 9

I.

Hoàn cảnh ra đời


1.1. Adam Smith là ai?
Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên
thế giới. Ông xuất thân từ một gia đình viên chức thuế quan ở Kieeccandi, một thành phố
nhỏ xứ Scotland. Adam Smith đã học ở trường đại học Glasgow và Oxford. Sau khi tốt
nghiệp đại học, ông nghiên cứu và giảng dạy ở Edinburgh và Glasgow. Trong vòng 13
năm, ông giảng dạy về thần học, luân lý học, luật học, logic và văn học. Từ năm 1751
ông lãnh đạo bộ môn logic, đến năm 1752 thì ở bộ môn triết học, và năm 1764 ông là
giáo sư riêng cho công tước Feclay. Năm 1759, ông xuất bản cuốn “Lý luận về những
tình cảm đạo đức”. Từ năm 1765 ông đi du lịch Châu Âu chủ yếu sang Pháp tiếp xúc với
những người trọng nông. Sau khi ở Pháp về năm 1766, ông xin nghỉ việc và sống ở thành
phố quê hương Kieeccandi. Trong vòng 12 năm ông chuẩn bị và viết tác phẩm chủ yếu
“Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của của cải các nước”. Tác phẩm này xuất bản
năm 1776 và ông trở nên nổi tiếng nhưng ông vẫn sống cuộc đời giản dị như trước. Trong
14 năm cuối đời ông làm viên chức thuế quan.
Adam Smith là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu tàn
tích phong kiến, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển, kêu gọi tích lũy tư bản, xem
chế độ tư bản chủ nghĩa là hợp lý duy nhất. Karl Marx coi Adam Smith là nhà kinh tế học
tổng hợp của công trường thủ công. Thế giới quan của Adam Smith về cơ bản là duy vật.
Ông tiến xa hơn những người trước là tìm hiểu các quy luật kinh tế. Đó là đặc trưng trong
phương pháp luận của ông. Nhưng chủ nghĩa duy vật ở ông còn tự phát, máy móc. Ông
còn xa lạ với phép biện chứng. Karl Marx đã phân tích một cách sâu sắc phương pháp
luận của Adam Smith – một phương pháp hai mặt mâu thuẫn, trộn lẫn các phần tử khoa
học và tầm thường. Một mặt đi sâu vào mối liên hệ bên trong của chế độ tư bản có thể nói
là đi vào cơ cấu sinh lý của nó, mặt khác chỉ là mô tả, liệt kê thuật lại bằng khái niệm có
tính chất công thức những cái biểu hiện bề ngoài đời sống kinh tế. Hai mặt đó không
những được kết hợp với nhau mà còn thường xuyên mâu thuẫn với nhau. Phương pháp
luận mâu thuẫn vừa khoa học vừa tầm thường của Adam Smith có ảnh hưởng tới kinh tế
tư sản sau này.
1.2. Sơ lược về bối cảnh ra đời của học thuyết
Vào thế kỷ XVIII, Châu Âu bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp, cuộc cách
mạng này đã tạo ra một hình thái kinh tế - xã hội và chính trị mới, dẫn đến sự xuất hiện
của một tầng lớp quý tộc mới liên kết với giai cấp tư sản chống lại giai cấp phong kiến.
Sự chuyển đổi của phương thức sản xuất làm cho học thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng
thương không còn áp dụng được nữa và cần có những giải pháp kinh tế mới để đáp ứng
nhu cầu của thời đại.
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh ra đời và trở thành bộ phận cơ sở khoa học
của nền kinh tế thị trường ngày nay. Một trong những người tiên phong của hệ thống này
là Adam Smith. Cuốn sách vĩ đại nhất của ông là “Của cải của các dân tộc” và ông đã
góp nhiều lý thuyết cho kinh tế học, trong đó phải kể đến lý thuyết “Bàn tay vô hình”.
1.3. Sự kiện ra đời
Học thuyết kinh tế của Adam Smith ra đời năm 1776, khi ông công bố tác phẩm
chủ yếu của mình là “Của cải của các dân tộc”. Thời điểm này, chủ nghĩa tư bản ở Anh
đã phát triển mạnh mẽ và ngày càng giữ vị trí thống trị không chỉ về chính trị mà còn cả
về kinh tế. Công nghiệp thủ công ở giai đoạn cuối, cách mạng công nghiệp bắt đầu phát
triển phá vỡ tàn dư xã hội phong kiến, khuynh hướng chống phong kiến mạnh mẽ và triệt
để hơn. Học thuyết tập trung phản ánh giai đoạn cuối của công trường thủ công và sự kết
thúc bước đầu của cách mạng công nghiệp.
Học thuyết kinh tế của Adam Smith có sự kế thừa và tiếp biến về lý luận với
những tư tưởng lớn đi trước như: tư tưởng kinh tế của U.Petty và phái trọng thương Anh
và những nét chính yếu nhất của học thuyết trọng nông Pháp.
1.4. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về “bàn tay vô hình”
Điểm xuất phát trong phân tích kinh tế của Adam Smith là nhân tố con người kinh
tế. Theo ông, con người kinh tế có 2 tính: tính vị kỷ và tính vị tha. Trong 2 tính này thì
tính vị kỷ trội hơn nên làm nảy sinh mối quan hệ trao đổi, mua bán. Trao đổi là đặc tính
vốn có của con người, là thiên hướng phổ biến, tất yếu và vĩnh viễn của mọi xã hội. Chỉ
có trao đổi thì nhu cầu của con người mới được thỏa mãn. “Khi trao đổi sản phẩm với
nhau con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân của mình. Mỗi người chỉ biết tư lợi và
chạy theo tư lợi. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp chi phối người ta hoạt động trao
đổi. Nhưng khi chạy theo tư lợi con người kinh tế còn chịu tác động của “bàn tay vô
hình”. Bàn tay vô hình là một phép ẩn dụ, một tư tưởng kinh tế do Adam Smith đưa ra
vào năm 1776. “Bàn tay vô hình” ở đây là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách
quan, ông cho rằng chính các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên” và để
có được những quy luật đó thì cần sự tồn tại, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Trong tác phẩm “Tài sản của các quốc gia” và những bài viết khác ông đã tuyên
bố rằng trong nền kinh tế thị trường tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và
xu hướng lợi ích riêng cho cá nhân mình và chính xác hành động của những cá nhân này
lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông qua một
“bàn tay vô hình”. Ông biện luận rằng mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi nhuận lớn nhất
cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều này giống như việc cộng toàn bộ tất
cả các lợi ích của từng cá nhân lại. Ông dùng thuật ngữ này để mô tả khả năng của cơ chế
thị trường trong việc điều chỉnh cung cầu trên thị trường và ví sức mạnh của thị trường
người bán và người mua, phân bổ nguồn lực kinh tế đạt được hiệu quả xã hội lớn nhất mà
không cần sự can thiệp của Chính phủ. Theo lý luận này thì hoạt động của mỗi thành viên
trong xã hội chỉ mang mục đích bảo vệ lợi ích của riêng mình, thông thường, không có
chủ định củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Tuy nhiên khi đó hệ thống thị trường và cơ
chế giá cả sẽ hoạt động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người như thể có một
bàn tay vô hình đầy thiện ý điều khiển toàn bộ quá trình xã hội và sự điều khiển tự phát
này còn có hiệu quả hơn cả khi có ý định làm việc này. Theo quan điểm của Adam Smith
Chính phủ chỉ nên giữ chức năng quản lý bởi lẽ ông cho rằng: “Chính bàn tay vô hình với
tư cách là cơ chế tự cân bằng của thị trường cạnh tranh làm cho phúc lợi cá nhân và hiệu
quả kinh tế đạt tối đa. Trong khi chạy theo lợi ích riêng của mình con người cũng phải
phụng sự xã hội nhiều hơn anh ta chủ trương làm điều đó…”
Tóm lại, Adam Smith kết luận rằng, xã hội muốn giàu thì phải phát triển kinh tế
theo tinh thần tự do. Chủ nghĩa “Laisse-faire” tức là “Mặc kệ nó”. Muốn nền kinh tế phải
được phát triển thì cần phải tôn trọng trật tự tự nhiên, đề cao vai trò của cá nhân, tôn
trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn
có cuộc sống riêng của nó.
1.5. Phương pháp luận của Adam Smith
Nghiên cứu học thuyết kinh tế của ông chúng ta thấy một đặc điểm khá nổi bật
trong phương pháp luận của Adam Smith là chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận
trong cách tiếp cận về các vấn đề kinh tế. Vậy chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận
trong cách tiếp cận các vấn đề kinh tế là gì? Ở đây chúng ta có thể giải thích được bằng lý
luận về “Bàn tay vô hình”. Từ đó, Adam Smith kêu gọi phải dựa trên trật tự tự do, cho
rằng một xã hội hợp với tự nhiên là xã hội tự do cạnh tranh giao lưu trao đổi hàng hóa.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận của Adam Smith có nguồn
gốc sâu xa từ những tư tưởng triết học cá nhân chủ nghĩa đang thịnh hành lúc bấy giờ ở
Tây Âu với những đại biểu như: Mandeville, Hume... và ngay từ thời là sinh viên học ở
đại học Glasgow ông đã thấm nhuần những nguyên lý của trường phái “Triết học
Scotland”. Theo trường phái này con người ta được dẫn dắt bởi hai dòng sức mạnh bản
năng. Đó là bản năng vị kỷ, nó thúc đẩy sự hưởng thụ cá nhân và thứ hai là bản năng vị
tha, cho phép con ngươi ta sống thành xã hội và khuyến khích sự hợp tác lẫn nhau. Chính
những tư tưởng này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ông và hình thành nên tư duy về kinh tế
thị trường ơ ông. Ông cho rằng, kinh tế trao đổi, kinh tế thị trường là phù hợp với bản
chất của con người, là thuộc về bản chất của con người.
Giáo sư Alain Geledan trong cuốn Lịch sử tư tưởng kinh tế đã khái quát mô hình
tăng trưởng kinh tế của Adam Smith như sau:
Mô hình cổ điển của Adam Smith
Như vậy, cơ sở của mô hình tăng trưởng kinh tế của Adam Smith là nền kinh tế thị
trường với các quy luật khách quan của nó: cạnh tranh, giá cả, cung - cầu, lợi nhuận và
tích lũy tư bản. Các quy luật khách quan của thị trường chính là sức mạnh của “bàn tay
vô hình” dẫn dắt con người kinh tế hoạt động trong đời sống xã hội.
Adam Smith nhấn mạnh của cải và sự giàu có của một quốc gia được điều tiết bởi
hai yếu tố: Trước hết bởi kỹ năng, sự khéo léo và phương pháp phán đoán trong quá trình
lao động và thứ hai, bởi tỷ lệ giữa số người được sử dụng vào lao động có ích và số người
phi sản xuất và “dù cho đất đai, khí hậu hoặc quy mô lãnh thổ của một dân tộc như thế
nào chăng nữa, thì sự dồi dào hay khan hiếm về các vật dụng hàng năm sẽ tùy thuộc vào
hai yếu tố trên” [1, tr.47]. Đồng thời trong hai yếu tố trên, A. Smith lại đánh giá cao yếu
tố thứ nhất: đó là kỹ năng và sự khéo léo có được nhờ phân công lao động. A. Smith sống
trong thế kỷ 18, thời kỳ đỉnh cao của công trường thủ công tư bản chủ nghĩa, cho nên ông
nhấn mạnh tới phân công lao động trong việc phát triển lực lượng sản xuất và tăng năng
suất lao động xã hội.
V. Tính ứng dụng của học thuyết
Học thuуết kinh tế của Adam Smith là một trong những học thuуết có tính thời
đại, nó trình bàу một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, có cương lĩnh rõ ràng ᴠề
chính ѕách kinh tế, có sự đóng góp cũng như có tính ứng dụng nhất định vào phát triển
kinh tế qua các thời kỳ từ trước đến nay ở các nước trên thế giới.
5.1. Đối với thời kỳ tồn tại
Ở thời kỳ học thuyết ra đời lẫn quá trình phát triển và tồn tại của nó, quan điểm
kinh tế của ông phản ánh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản.
Vào thời kỳ đó, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp thì tự do cạnh tranh là đặc trưng chủ
yếu và phổ biến vì lúc đó quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ, số lượng các doanh nghiệp
còn ít. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp là có hiệu quả nhất và thích hợp
nhất.
Tư tưởng tự do kinh tế của Adam Smith xuất phát là nhân tố con người, xã hội là
liên minh của những mối quan hệ trao đổi. Chỉ có trao đổi và thông qua thực hiện những
việc trao đổi thì con người ta mới cảm thấy thỏa mãn. “Hãy đưa cho tôi cái mà tôi cần, tôi
sẽ đưa cho anh cái mà anh cần”, đó là một thiên hướng phổ biến và tất yếu của xã hội lúc
bấy giờ. Adam Smith cho rằng tư tưởng tự do kinh tế (bàn tay vô hình) có nghĩa là:
Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình.
Ai cũng muốn thế cho nên vô hình trung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho
cả cộng đồng. Theo Adam Smith, chính quyền mỗi quốc gia không cần can thiệp vào cá
nhân và doanh nghiệp, cứ để nó tự do hoạt động kinh doanh. Theo lý luận này, thì hoạt
động của mỗi thành viên trong xã hội chỉ mang mục đích bảo vệ lợi ích của riêng mình;
thông thường, không có chủ định củng cố lợi ích công cộng và cũng không biết mình
đang củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Tuy nhiên khi đó, hệ thống thị trường và cơ chế
giá cả sẽ hoạt động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người như thể có một bàn
tay vô hình đầy thiện ý điều khiển toàn bộ quá trình xã hội và sự điều khiển tự phát này
còn có hiệu quả hơn cả khi có ý định làm việc này. Vì vậy, tư tưởng này phù hợp và đã
chế ngự suốt thế kỷ XIX, thời kỳ hình thành và tồn tại của nó.
Thuyết của Smith chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự
can thiệp của nhà nước vào kinh tế), là mầm mống cho đòi hỏi được tự do kinh doanh, có
sự thích hợp và được ứng dụng với chủ nghĩa tư bản trong một thời kỳ dài. Việc ông cho
rằng muốn làm giàu phải phát triển sản xuất rất phù hợp đối với từng thời kỳ và cho đến
ngày nay việc sản xuất ra của cải vật chất, phát triển lực lượng sản xuất thúc đẩy không
ngừng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa các quốc gia.
Lý luận của Adam Smith có nhiều tiến bộ, có tính ứng dụng và kế thừa cho các thế
hệ sau. Adam Smith là người đưa lý thuyết về “lợi thế tuyệt đối”, về sau Ricardo là người
phát triển lý thuyết về lợi thế tuyệt đối, xây dựng lý thuyết về lợi thế so sánh. Dù những
tư tưởng của Adam Smith còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn song ông đã xác định được
nhiệm vụ của kinh tế chính trị học, đã đưa các tư tưởng kinh tế có từ trước đó trở thành
hệ thống, là một trong những đỉnh cao của tư tưởng xã hội thế kỷ XVIII. Adam Smith mở
ra giai đoạn mới trong sự phát triển của kinh tế chính trị tư sản, ông là bậc tiền bối lớn
nhất của Karl Marx . Học thuyết của Adam Smith có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều
năm, xứng đáng với danh hiệu “cha đẻ của kinh tế học hiện đại”.
5.2. Đối với hiện nay
Thế kỷ của Adam Smith là thế kỷ tiền công nghiệp, cho nên ông chưa chứng kiến
để lý giải sự hình thành quyền lực của những tập đoàn độc quyền vốn dĩ là nguồn gốc của
mọi xáo trộn trật tự cạnh tranh và sự hủy hoại cơ chế thị trường. Nhưng lý thuyết của
Adam Smith về tự do cạnh tranh, về phân công lao động, về giá cả đã phần nào tạo thành
nền tảng lý luận của kinh tế thị trường cho đến ngày hôm nay.
Trong thời đại ngày nay, phát triển nền kinh tế thị trường cần phải có sự quản lý
của Nhà nước. Chúng ta không thể lựa chọn mô hình kinh tế thị trường tự do thuần túy.
Bởi lẽ, thị trường tự do thuần túy sẽ dẫn đến một nền kinh tế tự do - vô chính phủ và quy
luật của thị trường cũng luôn là sự phá sản, sự lạm phát, khủng hoảng chu kỳ, suy thoái
kinh tế, đình trệ nền kinh tế, cạnh tranh không lành mạnh, sản xuất chỉ chạy theo lợi
nhuận mà chà đạp lên lợi ích của người tiêu dùng, bất chấp luật pháp và đạo đức kinh
doanh. Sự đầu tư và tập trung tư bản chỉ xuất phát và vì lợi nhuận của nhà tư bản, của
người sở hữu và sản xuất dẫn đến sự phát triển không đồng đều và hợp lý giữa các ngành,
lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng miền về địa lý tất yếu dẫn đến cơ cấu kinh tế không hợp
lý. Và nhất là, nếu không có sự điều tiết của Nhà nước thì không thể có nhà tư bản hay
nhà đầu tư nào dám đầu tư vào cơ sở hạ tầng- tiền đề cực kỳ quan trọng cho nền sản
xuất,... Như vậy, Nhà nước ở đây không chỉ đơn thuần đóng vai trò là “người gác đêm”
cho nền kinh tế, mà thực sự cần đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.
Thậm chí, đôi khi Nhà nước chính là “vị cứu tinh” cho nền kinh tế tránh được nguy cơ
lạm phát, suy thoái và đình trệ. Trong thời đại ngày nay, không thể có một mô hình kinh
tế thị trường tự do thuần túy theo lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith.
Dù còn có nhiều thiếu sót, công bằng mà nói, Adam Smith và các kinh tế gia cổ
điển thế kỷ XVIII - XIX “tuy không phát minh ra kinh tế thị trường nhưng đã khám phá
ra nó và công trạng bất tử của họ là đã vén màn bí mật của trật tự “kinh tế thị trường”, đã
giải thích được mối quan hệ giữa những hoạt động quan trọng nhất trong kinh tế thị
trường và đã biến nó thành ý thức chính trị sống động”.
Bên cạnh đó, Adam Smith đã hiểu một số vấn đề của lý luận tái sản xuất xã hội
gần giống với lý luận về tái sản xuất xã hội mà Karl Marx xây dựng sau này. Ông đã có
gợi ý thiên tài là: Phân chia nền sản xuất xã hội thành hai khu vực (sản xuất tư liệu sản
xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng), phân biệt tích lũy và cất trữ trong tái sản xuất mở
rộng.
5.3. Đối với nước ta
Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò
điều tiết của Nhà nước là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Những
lý thuyết của Adam Smith tạo ra nền tảng cho các học thuyết sau này và lý luận của kinh
tế thị trường ngày nay, và chính Karl Marx đã kế thừa và phát triển nó.
Lý luận về “nền kinh tế thị trường xã hội” chứa đựng những yếu tố hợp lý và cần
thiết cho việc lựa chọn mô hình kinh tế vừa nhằm tạo ra tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ
đồng thời lại nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Do đó, chúng ta có thể học tập những kinh
nghiệm của các nước theo mô hình này để xây dựng một mô hình hoàn thiện về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hay nói cách khác, xây dựng một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với các đặc trưng dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Với mục tiêu chính là lợi nhuận thì tất yếu có “bàn tay vô hình”
điều tiết thị trường thông qua các quy luật khách quan, như quy luật cung – cầu, quy luật
giá trị, thông qua cạnh tranh tự do và có tính chất tự điều chỉnh.
Kết hợp sử dụng “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình” là một trong những bài
học kinh nghiệm quý, góp phần đạt được những kết quả tích cực, quan trọng trong những
năm gần đây ở Việt Nam. Sự quản lý của nhà nước được thực hiện chủ yếu là tạo ra hành
lang pháp lý cho các chủ thể trên thị trường hoạt động, thông qua pháp luật, thể chế, trên
cơ sở vận dụng quy luật của kinh tế thị trường, tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm để bảo đảm sự bình đẳng của các chủ thể trong cạnh tranh; khi thật cần thiết và
trong một số lĩnh vực, nhất là tình thế, thì dùng bàn tay hữu hình can thiệp bằng các biện
pháp hành chính.
Trong điều kiện bất ổn từ bên ngoài, giá cả thế giới leo thang, cộng hưởng với
thiên tai, dịch bệnh và một số yếu kém trong nước thì việc kết hợp chặt chẽ giữa “bàn tay
hữu hình” và “bàn tay vô hình” lại càng cần thiết.
Về lý luận thuế khóa, cần áp dụng mô hình thuế gián thu, đánh thuế vào các hàng
xa xỉ, tức là thuế tiêu thụ đặc biệt ngày nay. Điều này giúp tăng nguồn thu ngân sách cho
quốc gia, ngoài ra còn mang đến hiệu quả để vừa kích thích sản xuất đẩy mạnh phát triển
kinh tế vừa ổn định xã hội.
Về lợi thế tuyệt đối, cần nghiên cứu tập trung sản xuất và đầu tư vào các ngành,
mặt hàng chủ lực của quốc gia, địa phương. Việt Nam cần tập trung vào phát triển công
nghiệp công nghệ - điện tử - tin học, dệt may,... giảm tỷ trọng đầu tư cho các ngành gây
hại hoặc có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên quốc
gia.
Về phân công lao động, chuyên môn hóa người sản xuất giúp nâng cao năng suất
sản xuất sản phẩm. Sự phân công lao động theo vùng với ngành sản xuất chuyên môn hoá
đặc trưng sẽ là yếu tố quyết định sự khai thác có hiệu quả và phát huy thế mạnh của vùng.
Sự phân công lao động trong xã hội khi đã phát triển đến một trình độ nào đó thì sẽ dẫn
đến sự phân công lao động ở tầm vi mô - các xí nghiệp, các hãng sản xuất – điều này làm
cho các giai đoạn sản xuất ra sản phẩm bị chia nhỏ, sản phẩm được hoàn thiện về chất
lượng, dễ dàng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự phân công lao động áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật làm việc sản xuất đi vào chuyên môn hoá, nâng cao tay nghề của
người sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.
Tóm lại, học thuyết kinh tế của Adam Smith là học thuyết có giá trị khoa học cao,
để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho các thế hệ sau này và đồng thời cũng ứng dụng rất
nhiều trong phát triển nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, nước ta cần phải vận dụng sáng tạo
các quy luật, lý thuyết có chọn lọc để phát triển một số ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế
nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

You might also like