You are on page 1of 29

MỤC LỤC

A: PHẦN MỞ ĐẦU

LÍ DO VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Cuối thế kỉ 18, cách mạng của cách nước công nghiệp Tây Âu phát triển mạnh
mẽ. Sản xuất với máy móc và chế độ công xưởng thay thế cho nền sản xuất nhỏ
của nông dân và thợ thủ công bị đe dọa, có nguy cơ phá hủy toàn bộ, biến đại bộ
phận những người sản xuất nhỏ thành người làm thuê.

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ những mẫu thuẫn, hạn chế của nó
như: thất nghiệp, nghèo khổ, phân hóa giai cấp sâu sắc, tự phát vô chính phủ trong
sản xuất kinh doanh. Điều này dẫn đến sự phê phán của chủ nghĩa tư bản, và đòi
hỏi thay thế nó bằng một xã hội khác.

Do xuất hiện sự phản kháng về mặt tư tưởng của những người sản xuất nhỏ,
thợ thủ công làm xuất hiện một trào lưu tư tưởng kinh tế mới –Kinh tế tiểu tư sản.

GIỚI THIỆU CHUNG

Kinh tế tiểu tư sản xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XIX, khi mà cuộc cách
mạng công nghiệp cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX ở Anh, Pháp… đã gây ra
những đảo lộn lớn về kinh tế - xã hội. Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản đã trở
thành các giai cấp cơ bản trong xã hội. Nền công nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa đã
phá vỡ tất cả các quan hệ xã hội, kinh tế cũ kĩ, thâm căn cố đế, mà cơ sở của chúng
là nền tiểu sản xuất hàng hóa. Những người sản xuất hàng hóa nhỏ bị phân hóa,
tình trạng bần cùng hóa giai cấp vô sản, thất nghiệp, vô chính phủ… tăng lên. Ở
những nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển yếu và bước vào cách mạng công
nghiệp với nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế thì những mâu thuẫn xã hội càng trờ nên
gay gắt hơn.

Trong tình hình ấy đã hình thành sự phê phán tiểu tư sản đối với nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa và mong muốn quay trở về xã hội kiểu gia trưởng, ½ trung cổ. Đó
là học thuyết kinh tế tiểu tư sản.

Đặc trưng của kinh tế chính trị tiểu tư sản là nó phản ánh tư tưởng và địa vị
của giai cấp tiểu tư sản- giai cấp trung gian trong xã hội tư bản. Các đại biểu cảu

1
kinh tế chính trị tiểu tư sản phê phán sự lấn át, chèn ép, sự làm phá nền sản xuất
nhỏ của chủ nghĩa tư bản, phê phán những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa: bần cùng, thất nghiệp… trên quan điểm và dựa vào tình cảm tiểu tư sản.
Họ phê phán nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nhưng lại không phê phán sở hữu
tư nhân, không phê phán sự tự do cạnh tranh… Họ cho rằng, để khắc phục khuyết
tật của chủ nghĩa tư bản là phải đẩy mạnh sản xuất nhỏ ( kinh tế tiểu nông ) hoặc là
chuyển thành chủ nghĩa tư bản nhỏ. Tóm lại đặc trưng của kinh tế tiểu tư sản là phê
phán chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở tình cảm, quan điểm của giai cấp tiểu tư sản.

Là một trào lưu vừa có tính không tưởng, vừa có tính phản động, thể hiện
tính không triệt để cả trong nhận thức các phạm trù kinh tế và trong biện pháp cải
tạo xã hội đã đưa ra.
Bênh vực, bảo vệ cho nền sản xuất nhỏ, chống lại sự phát triển của nền sản
xuất lớn- sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sử dụng phương pháp luận duy tâm, siêu hình: Họ cắt rời các quá trình phát
triển hợp quy luật của xã hội vì mục đích bảo vệ nền sản xuất nhỏ và bảo vệ những
người sản xuất nhỏ độc lập.

2
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

NHỮNG LÝ LUẬN KINH TẾ CỦA CÁC NHÀ KINH TỂ TIỂU TƯ SẢN

Đại biểu nổi tiếng nhất của trương phái tiểu tư sản trong kinh tế chính trị học
là Sismondi, nhà kinh tế Pháp gốc Thụy sĩ. Bên cạnh đó là Proudhon nhà kinh tế
tiểu tư sản Pháp. Trong sự phát triển sau này, kinh tế chính trị học tiểu tư sản còn
ghi nhận tên tuổi của một loạt nhà hoạt động xã hội như Lassan, Rodbertus,
Dhuring...Đặc biệt, những tư tưởng và quan điểm tiểu tư sản đã được phục hồi và
phát triển ở vào một thời kỳ muộn hơn trên mảnh đất Nga và ở nơi đây, nó mau
chóng có ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc.

• Học thuyết kinh tế của Sismondi (1773-1842)


• Sơ lược tiểu sử:

Jean Charles Léonard Simonde de Sismondi

JEAN- CHELES LIONARD SISMONDI (1773-1842), sinh tại Giơ ne vơ, Thụy
Sĩ. Ông xuất thân từ một gia đình quí tộc, cha là giáo sỹ Can VAnh. SISMONDI đã
học ở trường dòng, trường đại học tổng hợp, sau đó làm việc tại ngân hàng Li-
ôn (Pháp ) một thời gian ngắn.

SISMONDI bắt đầu đi vào con đường nghiên cứu khoa học từ năm 1800.
Ông đã viết tác phẩm : Bức tranh nông nghiệp ở To Xlan (1801), Bàn về của cải
thương nghiệp (1853), Kinh tế chính trị (1818), Những nguyên lí mới của kinh tế
chính trị hay là bàn về mối liên hệ giữa của cải với nhân khẩu (1819), và một số
tác phẩm khác.

3
Quá trình phát triển tư tưởng của ông có thể chia thành hai giai đoạn :
giai đoạn đầu ông ủng hộ A.Smith về tự do kinh tế, không có sự can thiệp của
nhà nước, giai đoạn sau ông phê phán kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa và các
quan điểm của phái cổ điển. Ông là người ủng hộ nhiệt tình nền sản xuất nhỏ và
phản đối những người bênh vực nền kinh tế xí nghiệp lớn và những nhà tư
tưởng của nền kinh tế đó.

Trong lịch sử kinh tế chính trị, Sismondi chiếm một vị trí đặc biệt. Một mặt
ông là người bảo vệ nhiệt thành nền sản xuất nhỏ, chống lại quyết liệt sản xuất
lớn tư bản chủ nghĩa, với tư cách ấy ông trở thành một đại biểu nổi tiếng nhất
của tư tưởng kinh tế tiểu tư sản. Ông cũng được C.Mác coi là người sáng lập và
đứng đầu trường phái này ở Pháp.

Với phương pháp duy tâm, chủ quan, Sismondi đã đưa ra nhưng giả
thuyết phi lịch sử đối với các quá trình kinh tế- xã hội. Sự phê phán chủ nghĩa tư
bản một cách tình cảm theo quanđiểm tiểu tư sản và lí tưởng hóa nền sản xuất
nhỏ là nét đặc trưng của "chủ nghĩa " Simondi.

Những lý luận kinh tế cơ của Sismondi:

1. Lý luận giá trị - lao động :

Đứng trên quan điểm lý luận giá trị - lao động, Sismondi đã hình thành quan
điểm : lao động là nguồn gốc của của cải. Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử
dụng và giá trị của hàng hóa. Ông đã tiến thêm một bước so với D.Ricardo là đưa
ra thước đo giá trị hàng hóa : » thời gian lao động xã hội cần thiết « . Do đó, ông
đã qui lao động thành mối liên hệ giữa nhu cầu xã hội và lao dộng xã hội cần thiết
để thỏa mãn nhu cầu.

Kế tục quan điểm của A.Smith, ông cho rằng sản phẩm xã hội gồm 2 thành
phần : phần của nông dân ( tiền lương), phần của tư bản, địa chủ (lợi nhuận và địa
tô).

Theo ông tiền tệ cũng như hàng hóa khác, nó là sản phẩm của lao động. Tiền
là thước đo chung của giá trị. Ông đã nêu ra vai trò cảu tiền trong trao đổi : vật
trung gian, làm cho trao đổi được dễ dàng hơn.

4
Sismondi hiểu và khẳng định : sự khác nhau giữa tiền giấy và tiền tín dụng.
Do đó, Sismondi hiểu được tình trạng lạm phát ( tình trạng dư thừa tiền trong lưu
thông).

2. Lý luận về tư bản và thu nhập quốc dân

Sismondi coi tư bản là vốn sản xuất bao gồm cả những tư liệu sản xuất.
Song, ông lại lẫn lộn giữa tư bản và thu nhập. Ông cho rằng bản tính của tư bản và
thu nhập luôn luôn lẫn lộn với nhau trong khái niệm của chúng ta. Chúng ta thấy
cái là thu nhập với người này thì lại trở thành tư bản của người khác, và cũng một
vật ấy chuyển từ tay người này sang người khác lại lần lượt có tên gọi khác nhau,
tức là khi thì gọi là "tư bản ", khi thì gọi là " thu nhập ".

Sismondi cho rằng có nhiều thu nhập khác nhau thì cũng có "nhiều loại của
cái khác nhau ", như là tư bản cố định, tư bản lưu động, và thu nhập của tư bản chỉ
để tiêu dùng mà không được tái xuất.

3. Lý luận về thu nhập

Theo V.I.Lênin, đặc điểm nổi bật của lý luận Sismondi là học thuyết của ông
về nhu nhập, về mối quan hệ giữa thu nhập với sản xuất và nhân khẩu.

Sismondi đã đưa ra lý luận về 3 loại thu nhập : lợi nhuận, địa tô, tiền công.

+ Về lợi nhuận :

Sismondi đã phát triển tư tưởng của A.Smith và cho rằng, lợi nhuận là phần
khấu trừ sản phẩm lao động của công nhân, khẳng định bản chất bóc lột của lợi
nhuận- thu nhập không lao động. Ông đã nói về sự bóc lột công nhân của các nhà
tư bản và tai họa kinh tế cho giai cấp vô sản, chỉ ra sự tập trung tư bản và sự bần
cùng của giai cấp vô sản. Ông cho rằng, nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là sự
tập trung của cải vào tay một số nhà tư bản lớn và tình cảnh bần cùng của những
người lao động. Theo ông, công nhân là " người sáng lập ra của cải " .

5
+ Về địa tô :

Ông cho rằng, địa tô là kết quả của sự bóc lột công nhân. Sismondi phê phán
quan điểm ruộng đất xấu không đem lại địa tô cảu A.Smith. Theo ông, ruộng đất
xấu cũng mang lại địa tô tuyệt đối và ông hiểu rõ vai trò độc quyền của sở hữu
ruộng đất.

Nhưng Sismondi lặp lại quan điểm phi lí của A.Smith địa tô là tặng thưởng
của tự nhiên, tự nhiên cũng tạo ra giá trị phụ thêm. Từ đó ông đưa ra luận điểm,
hình như địa tô từ dưới đất mọc lên.

+ Về tiền công :

Sismondi lặp lại luận điểm của A.Smith về lợi nhuận doanh nghiệp, cho rằng
lợi nhuận ấy là tiền công cho một thứ loại lao động đặc biệt. Ông cũng theo
A.Smith cho rằng, tiền công phụ thuộc vào tích lũy tư bản, vào số lượng công
nhân, vào cung cầu về lao động. Đồng thời ông lặp lại quan điểm về sự tác động
qua lại trực tiếp, tự động giữa sự tăng tiền công và tăng dân số.

Trong vấn đề này, theo V.I.Lênin, Sismondi là con người tiểu tư sản, tỏ ra là
người theo " chủ nghĩa Malthus " hơn cả bản thân Malthus.

4. Lý luận thực hiện và khủng hoảng kinh tế

Sismondi đặt vấn đề thực hiện sản phẩm và khủng hoảng kinh tế là trung tâm
học thuyết của mình.

Sismondi coi mục địch của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tiêu dùng, chứ
không phải là giá trị thặng dư.

Ông cho rằng, nếu sản xuất vượt quá tổng số thu nhập trong xã hội thì sản
phẩm sẽ không được thực hiện. Để thực hiện sản phẩm hàng hóa sản xuất ra cần
phải làm cho sản xuất hoàn toàn phù hợp với thu nhập của xã hội. Từ đó,
Sismondi khẳng định khủng hoảng không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, cục bộ
mà là tất yếu trong xã hội tư bản.

Nguyên nhân của khủng hoảng theo Sismondi là do sản xuất tăng, tiêu dùng
không theo kịp với sản xuất, lạc hậu hơn so với sản xuất, sự tiêu dùng lạc hậu so

6
với sản xuất là do quan hệ phân phối không đúng, sự bất bình đẳng quá lớn về tài
sản. Ông tìm ra nguyên nhân cả khủng hoảng là từ lĩnh vực phân phối.

Theo ông, không có khủng hoảng thường xuyên là do có ngoại thương.


Ngoại thương là lỗ thông hơi của chủ nghĩa tư bản, song ngoại thương là giải pháp
tạm thời để giải quyết khủng hoảng, lối thoát chủ yếu là phát triển tư bản tiêu dùng
nhiều hơn là phát triển nền sản xuất nhỏ vì có nhiều nước phát triển ngoại thương
nên thực hiện giá trị là khó khăn. Do đó, phải có tầng lớp thứ 3 không phải là công
nhân, không phải là tư sản mà là tiểu tư sản để tăng sức mua, sức tiêu dùng.

5. Lý luận về vai trò kinh tế của nhà nước

Trước những hậu quả của cuộc cách mạng công nghiệp, các tệ nạn của chủ
nghĩa tư bản : thất nghiệp, khủng hoảng, nạn đói… Sismondi yêu cầu nhà nước can
thiệp vào kinh tế nhằm bảo vệ trật tự xã hội, bảo về sản xuất nhỏ, bảo vệ tầng lớp
thứ 3, không cho phép tập trung sản xuất, tập trung giàu có, duy trì các xưởng thủ
công, chế độ ruộng đất tư hữu nhỏ, thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ.

Ông coi nhà nước tư sản là đại diện lợi ích cho tất cả các giai cấp, phụ định
tính chất giai cấp của nhà nước. Theo ông, nhà nước tư sản mâu thuẫn với sản xuất
lớn.

Trong học thuyết kinh tế của mình Sismondi còn đưa ra dự án về một
xã hội tương lai đó là:
Theo Sismondi, xã hộ tương lai là một nền sản xuất hàng hóa nhỏ độc lập
của nông dân và thợ thủ công thể hiện ở :
• Không có bóc lột vì không thuê mướn lao động.
• Không xảy ra tình trạng sản xuất thừa, không có khủng hoảng kinh tế
• Vai trò của tiền được giảm nhẹ, chỉ là phương tiện lưu thông hàng hóa.
• Xã hội dựa trên nền tảng đạo đức.

Con đường cải tạo xã hội:


• Nhờ sự can thiệp của nhà nước để đảm bảo trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của
người sản xuất nhỏ, thợ thủ công và duy trì sự hài hòa xã hội, phát triển phúc
lợi chung.
• Dựa vào lòng tốt, nhân ái kể cả của người giàu để cải tạo xã hội mới.

7
Cương lĩnh thực tế của Sismondi là một phần cấu thành nên học thuyết “ chủ
nghĩa xã hội tiểu tư sản” mà ông là người đặt cơ sở cho nó. Đó là một thứ xã hội
không tưởng và phản động- như C.Mác và Ăngghen đã vạch rõ. Lý tưởng cao nhất
của nó là chế độ phường hội.

Và vì nó được xây dựng trên cơ sở quan điểm của một giai cấp đang bị tan
rã, biến mất cùng đà phát triển của nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa, cho nên cuối
cùng nó chỉ còn là “ một lời oán thán hèn nhát”.

• Học thuyết kinh tế của Proudhon ( 1809-1865).


• Sơ lược về tiểu sử:

Pierre-Joseph Proudhon
Proudhon sinh ngày 15-1-1809, trong một gia đình nông dân nghèo ở Pháp.
Proudhon đã được sinh ra tại Besancon , Pháp, cha ông là một nhà sản xuất
bia cooper, mẹ ông là một người nấu bếp. Nguồn gốc xuất thân của Proudhon
dương như đã quy định ông trở thành một nhà tư tưởng “chính cống” “một tăm
phần trăm của giai cấp tiểu tư sản”. Lớn lên có một thời kì làm công nhân song
không làm mất đi ở ông cái thế giới cái hế giới quan cử người tiểu tư sản. Học vấn
của Proudhon phần lớn là do ông tự trau dồi cho mình, ông không có được một sự
giáo dục cơ bản và có hệ thống. Các kiến thức về lý luận, đặc biệt là kinh tế chính
trị học và triết học là do ông tự nghiên cứu. Mãi đến năm 1838 ông mới lấy được
bằng tú tài.

8
Tuổi trẻ của Proudhon là một tuổi trẻ sôi nổi với nhiều hoạt động thực tế
phong phú. Lúc đầu ông còn là một cậu bé chăn bò, rồi sau đó ông mới được học
bổng đề vào trường trung học lúc 10 tuổi, và 16 tuổi ông vào đại học của thị trấn
mình. Từ khi đi học, ông đã giành được nhiều giải thưởng học giỏi mặc dù có
những khó khăn về vật chất để sống giữa những người bạn học kém thông minh
hơn nhưng lại giàu có hơn… Ông đã thể nghiệm sự bất công do nguồn gộc bất
bình đẳng. Những năm 1844- 1845, ông làm quen với nhóm Hêghen trẻ lưu vong ở
Pari cùng với nhóm C.Mác. Giữa ông và C.Mác đã có một tình bạn nhưng luôn
luôn có nguy cơ tan vỡ vì bất đồng quan điểm. C. Mác vẫn luôn luôn hi vọng và lôi
cuốn Proudhon đứng về phía lập trường của giai cấp vô sản. Song không thể thoát
khỏi ảnh hưởng của hệ tư tưởng tiểu tư sản, Proudhon ngày càng trở lên đối lập với
C.Mác. Tình bạn giữa ông với C.Mác đã thật sự chấm dứt sau khi ông xuất bản
cuốn sách “ Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế hay triết học của sự khốn cùng”
(1840), trong đó ông kịch liệt chống lại chủ nghĩa cộng sản và phong trào công
nhân.

Proudhon được bầu làm đại biểu quốc hội lập hiến trong thời kì cách mạng
tháng 2-1848 , nổi tiếng là một người chủ trương vô chính phủ và thay thế nhà
nước bằng các mối quan hệ thỏa hiệp giữa các giai cấp, cá nhân, công xã và nhóm
người sản xuất, dựa trên cơ sở “trao đổi tương đương”. Từ 1849 đến 1852,
Proudhon lại bị bỏ tù vì những bài báo chống đối gay gắt Louis Napoleon. Ông là
người ủng hộ các cuộc đảo chính tháng 2-1852 của Bonaparte, hi vọng ở đó một
mô hình của cuộc cách mạng xã hội mà ông chủ trương. Năm 1858 ông lại bị bỏ tù
lần thứ hai vì đã viết cuốn sách “Về chính nghĩa của cách mạng và nhà thờ”. Sau
khi trốn khỏi nhà tù ông sống lưu vong ở Bỉ cho đến năm 1862 ông trở về Pháp khi
có lệnh ân xá. Ông là người biện hộ chiến tranh như là nguồn gốc của quyền lực,
chủ trương thủ tiêu nhà nước, sau thay bằng kế hoạch phân tán tập trung hiệ đại
thành những lĩnh vực tự trị nhỏ, Proudhon mất năm 1865 lúc ông 56 tuổi.

Đặc trưng cuả Proudhon là chủ nghĩa duy tâm siêu hình và duy ý chí. Dựa
vào quan điểm cuả Platon về tính thứ nhất của tư tưởng, Proudhon cố gắng xây
dựng các học thuyết của mình về tính công bằng vĩnh cửu đạt được bằng con
đường hòa bình. Ông chị ảnh hưởng của Hêghen, song chỉ hấp thụ được triết học
của Hêghen những yếu tố ít khoa học nhất và hạn chế nhất.

Ngoài ra Proudhon còn viết sách, và tác phẩm đầu tiên làm cho Proundhon
nổi tiếng một thời là tác phẩm “Sở hữu gì” (1840).

9
Bản chất tiểu tư sản của Proundhon thể hiẹn đầy đủ trong các tác phẩm chính
của ông ,Hệ thống mâu thuẫn kinh tế, Triết học của sự khốn cùng (1846).
Những lý luận kinh tế của Proudhon:

• Lý luận về sở hữu:
• Quan niệm về sở hữu:

Proudhon muốn bảo tồn tiểu sản xuất hàng hóa dựa trên chế độ chiếm hữu
nhỏ. Về thực chất, Proundhon không chống lại chế độ tư hữu, mà muốn duy trì tư
hữu nhỏ, chống lại sự lạm dụng của tư hữu lớn. Do đó, ông quan niệm " sở hữu là
ăn cắp " . Ông cũng tố cáo sự chiếm hữu của các nhà tư bản đối với sức mạnh tập
thể.
Proundhon nhấn mạnh, sở hữu tư nhân có mặt tốt ( bảo đảm sự độc lập, tự
chủ, tự do) và có mặt tiêu cực (không bình đẳng). Do đó, ông khuyến nghị xóa bỏ
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa nhưng giữ lại sở hữu tư nhân nhỏ, đồng nhất tài
sản cá nhân. Proudhon hoàn toàn không hiểu phép biện chứng của sản xuất hàng
hóa nhỏ. Ông cho rằng, sản xuất hàng hóa giản đơn là điểm xuất phát của sự sở
hữu lớn tư bản chủ nghĩa.

• Lý luận về giá trị " giá trị xác lập " :

Proudhon coi giá trị là một phạm trù trừu tượng, vĩnh viễn bao gồm hai mặt
đối lập nhau: Gí trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào của cải , còn giá trị trao đổi
thể hiện khuynh hướng khan hiếm của nó.

Lý luận giá trị pháp lý là cơ sở cho ý đồ cải cách của Proudhon nhằm giữ lại
sản xuất hàng hóa mà thủ tiêu được mâu thuẫn của nó. Ví dụ: Mâu thuẫn giữa lao
động tư nhân và lao động xã hội, giữa hàng hóa và tiền tệ. Đi xa hơn ông tin tưởng
có thể phát triển một nền sản xuất hàng hóa mà không có tiền tệ. Giá trị pháp lý là
chỗ dựa để Proudhon xây dựng nguyên tắc trao đổi tương đương của mình. Oog
coi thị trường là nơi trao đổi hàng hóa, nhưng quan trọng hơn là nơi xác định giá trị
. Hàng hóa cần thiết bao nhiêu thì chỉ cần sản xuất bấy nhiêu, và cũng cần có một
vị trí xác định để thực hiện những hàng hóa đó Proudhon cũng gộp bất cứ một
phần dư thừa nào vào thành phần của cải và không coi chúng là giá trị pháp lý.
Cũng bởi vì trao đổi quan trọng như vậy nên Proudhon đi tới khẳng định cả lao
động lẫn trao đổi đều là nguồn gốc của giá trị.

Mâu thuẫn tưởng tượng này chỉ có thể xóa đi bằng việc thiết lập sự trao đổi
ngang giá, tức là giá trị xác lập. Do đó, ông đề nghị không chỉ sản xuất những hàng
hóa, mà còn đòi hỏi tạo ra sự ngang giá để tất cả các hàng hóa được thực hiện, tức

10
là biến thành giá trị xác lập, nghĩa là giá trị mà nó xuất hiẹn trong trao đổi được thị
trường chấp nhận.

• Lý luận về lợi nhuận và lợi tức :

Proudhon không hiểu rõ về bản chất của lợi tức công nghiệp, ông coi nó là
hình thái đặc biệt của tiền công.

Toàn bộ tư bản được Proudhon quy về tư bản tiền tệ. Lợi tức là hình thái duy
nhất của sự chiếm đoạt giá trị thặng dư. Ông giải thích rằng nhà tư bản đem lại lợi
tức này cộng vào các chi phí làm cho sản phẩm đắt lên và cong nhân không thể
mua hết được sản phẩm. Bởi vậy nếu không còn lợi tức thì không còn sự bóc lột tư
bản chủ nghĩa nữa. Chính quan điểm này đóng vai trò làm cơ sở lý luận cho một
loạt giải pháp mà Proudhon đưa ra nhằm mục đích cải tạo xã hội tư bản theo mong
muốn tiểu tư sản của ông. Cũng giống như sự phê phán sở hữu, coi sở hữu là
nguồn gốc của mọi đau khổ của con người trong xã hội tư bản, việc lên án lợi tức
mà Proudhon chủ trương một lần nữa lại làm bộc lộ rõ điểm yếu trong phương
pháp luận phê phán chủ nghĩa tư bản của người tiểu tư sản- hoàn toàn bỏ qua
những quy luật khách quan của sự phát triển tư bản chủ nghĩa, chỉ quan tâm đến
nững hậu quả mà sự phát triển đó đem lại cho những người sản xuất nhỏ, độc lập
và lên án chúng theo lối tiểu tư sản.

Giống như Sismondi, Proudhon cũng đề ra một cương lĩnh kinh tế và


cương lĩnh cải tạo xã hội mới, đó là :

Trước hết, phải kể dến mưu toan của proudhon trong việc tổ chức lại nền sản
xuất hàng hóa. Do không hiểu được bản chất của tiền tệ, những mâu thuẫn giữa
hàng hóa và tiền tệ, Proudhon đề nghị tổ chức lại trao đổi trong một dự án về nền
kinh tế hàng hóa không có tiền tệ. Là người bênh vực nền sản xuất nhỏ và lý tưởng
hóa các mối quan hệ của nó. Proudhon chống lại mạnh mẽ đồng tiền và những tác
động do nó gây ra. Ông xem tiền như là mặt xấu của kinh tế hàng hóa và đề nghị
thủ tiêu nó. Thật ra, ý thức sâu xa của ông là coi thế giới hàng hóa là một thể thống
nhất mà tiền cúng là một thứ hàng hóa thông thường và bất kì thứ hàng hóa nào
khác cũng có thể là tiền được. Không có tiền, hoặc tất cả đều là tiền như nhau.

Đó là một dự án không tưởng của Proudhon. Như vậy Proudhon đã không


hiểu và không thừa nhận một chân lý khoa học đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Đồng tiền là kết quả tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế hàng hóa. Chẳng
những thế đồng tiền còn thể hiện trong mình mức cao nhất những mối quan hệ của

11
một nền sản xuất hàng hóa phát triển. Nó xuất hiện không phải ngẫu nhiên hoặc
tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Nó cũng có quy luật vận động riêng
vừa phù hợp, vừa mâu thuẫn với sự vận động của thế giới hàng hóa nói chung. Nó
càng không thể mất đi một cách đơn giản là do nguyên vọng tốt đẹp của con người
muốn thủ tiêu mặt xấu mà nó đem lại.

Bởi vậy, tư tưởng Proudhon về một nền kinh tế hàng hóa không có tiền còn
là một tư tưởng nhằm quay ngược sự phát triển của lịch sử về những giai đoạn thấp
mà nó đã trải qua.
Mâu thuẫn rất lớn của Proudhon được thể hiện rõ khi ông dự kiến thành lập “
Nhà băng trao đổi”. Để thực hiện sự trao đổi giữa người sản xuất và nhà băng, cần
phải có những phiếu lao động, ở đó ghi nhận khối lượng lao động mà người sản
xuất đã chi phí cho việc sản xuất các hàng hóa. Nhà băng sẽ căn cứ vào phiếu lao
động đó để cung cấp hàng hóa cần thiết cho người sản xuất. Rõ ràng các phiếu lao
động ở đây cũng đỗng vai trò như một thứ tiền tệ.

Cùng một tư tưởng như vậy, Proudhon còn có một quan điểm độc đáo khác
về “ tín dụng cho không” hay “ tín dụng không lấy lãi”. Nó sẽ phục vụ cho những
người sản xuất nhỏ độc lập, nhằm chống lại sở hữu lớn của các tư bản ngân hàng.
Bằng cách đưa ra những dự án cải cách kinh tế trên đây, Proudhon đã bộc lộ
những hạn chế lớn của hệ tư tưởng tiểu tư sản đối với vấn đề cải tạo xã hội. Rõ
ràng là những cải cách này không hề đả động tới cơ sở kinh tế của cái chế độ mà
người sản xuất nhỏ lên án. Chế độ sở hữu tư nhân vốn là cơ sở chung cho cả sự tồn
tại của chính người tiểu tư sản.

Tóm tắt lại những mong muốn của ông về một mô hình xã hội mới như sau:
+ Lý tưởng của xã hội mới:
Xã hội mới phải là xã hội dựa trên cơ sở là nền sản xuất nhỏ, có tính chất
phường hội của nông dân và thợ thủ công, không có tư sản lớn.
Xã hội mới không có bóc lột, thủ tiêu phân cách giầu nghèo, thủ tiêu sự phân
cách giữa thàn thị và nông thôn.
Ông đề nghị tổ chúc lại trao đổi trong một đề án về nền kinh tế hàng hóa,
không có tiền tệ (không có tiền hoặc tất cả các hàng hóa đều là tiền như nhau). Ông
đề nghị thủ tiêu tiền tệ, vì ông coi tiền như một mặt xấu của nền kinh tế hàng hóa.

+ Phương tiện cải tạo xã hội mới:


Theo Proudhon, phương tiện cải tạo xã hội là Nhà nước.
+ Dự án về ngân hàng trao đổi:

12
Ông gọi những ngân hàng trao đổi là nhân dân: Trao đổi lao động và sản
phẩm dựa trên “phiếu lao động”. Đó là phiếu ghi nhận đóng góp lao động của mỗi
người tương ứng với số sản phẩm làm ra.( thay tiền bằng phiếu lao động)

13
+ Dự án về “tín dụng cho không” và “ngân hàng không lấy lãi”

Ông chủ trương thành lập ngân hàng nhằm mục đích giúp cho người nghèo
vay không lấy lãi, tín dụng cấp cho người nghèo như là cho không. Đây là lý tưởng
phát triển người nghèo, tiến đễn xóa bỏ người nghèo.

+ Cấp đất cho người công nhân ở ngoại ô:

Ông coi công nhân làm việc trong xã hội tư bản là những người làm việc
khổ sai
như là một bộ phận của cái máy. Họ sẽ có cuộc sông tự do, thoải mái, bớt được
những tội ác thì họ phải về nhà và tránh xa nơi làm việc.

Dự án của Proudhon chứng tỏ ông hiểu việc cải tạo xã hội một cách rất chủ
quan, tùy tiện. Mặt tốt của xã hội tư bản chủ nghĩa- tức là nền sản xuất hàng hóa
cần phải được giữ lại, chỉ cần hướng tới việc thủ tiêu mặt xấu của xã hội này. Đó là
chế độ trao đổi và phân phối sản phẩm. Đó là kết quả của một phương pháp tư
tưởng chung của ông: có thể lấy mặt tốt ở khắp nơi mà nó có và gạt bỏ những mặt
xấu ở mọi nơi để thực hiện việc cải tạo xã hôi, giông như có thể rút được những
viên gạch từ một tòa nhà này để xây lên một tào nhà khác.

Những phương pháp tư tưởng và các quan điểm dự án của Proudhon đã từng
bị các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản khoa học phê phán một cách kịch liệt. C.
Mác đã chỉ rõ ràng “ Sự song song tồn tại của hai mặt mâu thuẫn lẫn nhau, sự đấu
tranh giữa hai mặt mâu thuẫn đó và việc chúng hòa thành một phạm trù mới, tất cả
những cái đó cấu thành thực chất của sự vận động biện chứng rằng “ người nào tự
đặt cho mình cái nhiệm vụ gạt bỏ mặt xấu thì chỉ một điều đó cũng lập tức chấm
dứt sự vận động biện chứng...còn Proudhon thì đang vận động, đang ngụm lặn và
chạy tới chạy lui giữa hai mặt phạm trù ấy”. Việc phủ nhận sự cần thiết phải cải tạo
cơ sở kinh tế của xã hội, việc thổi phồng và tuyệt đối hóa những dự án và cải cách
trên bề mặt xã hội thực chất là một sự bác bỏ các quy luật vận động tất yếu, khách
quan của xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã gọi những tư tưởng của Proudhon
là có tính chất vô chính phủ. Sau này, chủ nghĩa vô chính phủ của Proudhon đã gây
ra những ảnh hưởng không nhỏ cho phong trào công nhân Pháp và quốc tế, được
những người cải lương xã hội triệt để lợi dụng nhằm bảo vệ trật tự xã hội tư sản và
chống lại chủ nghĩa Mác chân chính. Tiếng vang và dấu ấn của những tư tưởng
tiểu tư sản của Proudhon còn ảnh hưởng tới cả lý thuyết kinh tế hiện đại , cổ vũ
cho sự can thiệp sâu rộng của nhà nước và nền kinh tế.

14
Tổng kết chung:

Qua phân tích những lý luận kinh tế của 2 đại diện tiêu biểu cho tư tưởng
kinh tế tiểu tư sản, ta thấy được phương pháp lập luận đặc trưng của mỗi người. Họ
đều có những phương pháp suy luận riêng, nhưng điểm chung nhất vẫn là cả hai
đều đưa ra lập luận để bảo vệ nền sản xuất nhỏ, phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản
và bênh vực, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tiểu tư sản. Lý luận của Sismondi và
Proudhon đã có rất nhiều điểm tiến bộ tích cực, đối mới, nhưng bên cạnh đó vẫn
còn bộc lộ nhiều hạn chế còn mang tính chất phản động và ảo tưởng.

Sau này, kinh tế chính trị học tiểu tư sản còn ghi nhận tên tuổi của những
nhà hoạt động xã hội Lassan, Rodbertus,Dhuring... Đặt biệt, những tư tưởng và
quan điểm tiểu tư sản đã được phục hồi và phát triển ở vào một thời kỳ muộn hơn
trên mảnh đất Nga và ở đây, nó mau chóng có ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc. Chủ
nghĩa dân túy Nga cuối thế kỉ XIX là một kế thừa sâu sắc những tinh hoa của tư
tưởng kinh tế tiểu tư sản Châu Âu và phát triển nó tới một đỉnh cao mới cùng với
những nét độc đáo của một xã hội nông dân lạc hậu đứng trước nguy cơ phát triển
tư bản chủ nghĩa.

15
CHƯƠNG 2
NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG LÝ LUẬN KINH TẾ CỦA
CÁC NHÀ KINH TẾ TIỂU TƯ SẢN

1. Đánh giá chung về thành tựu và hạn chế của các nhà kinh tế tiểu tư
sản
Đánh giá chung về mặt tích cực và tiêu cực trong lý luận kinh tế của các nhà
kinh tế tiểu tư sản, đó là:

• Thành tựu:
• Sismondi và Proudhon là những người đầu tiên đặt vấn đề phê phán
chủ nghĩa tư bản một cách toàn diện. Chỉ rõ những mâu thuẫn nội tại
và bác bỏ sự tồn tại của nó.
• Bênh vực người lao động. Chú trọng mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế và nâng cao lợi ích xã hội của người lao động.

• Các vấn đề xã hội và con người mà các nhà tiểu tư sản đề cập vẫn có ý
nghĩa lớn đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt tại các nước lạc hậu
mới bắt đầu phát triển sản xuất hàng hóa lớn.

• Những người tiểu tư sản có công lớn trong việc phân tích các hậu quả
xã hội do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gây ra. Họ quan tâm và
bênh vực lợi ích của những người sản xuất nhỏ và lớp người nghèo
khổ trong chủ nghĩa tư bản, họ đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế và nâng cao lợi ích người lợi ích người lao động
trong xã hội.

• Nhiều vấn đề xã hội và con người mà các học giả tiểu tư sản nêu lên
ngày càng tỏ ra có ý nghĩa lớn đối lớn đối với việc phân tích sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung,
nhất là trong hoàn cảnh của những nước nông nghiệp lạc hậu bắt đầu
xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hóa.

• Hạn chế:
• Do chú trọng bênh vực những người sản xuất nhỏ bị thiệt hại do sự
phát triển mạnh mẽ của CNTB nên họ đã phủ nhận toàn bộ những

16
điểm tiến bộ của CNTB, có thái độ tiêu cực với nền sản xuất lớn, đi
ngược lại tiến trình lịch sử.

• Đưa ra cương lĩnh cải tạo xã hội vừa mang tính chất không tưởng, vừa
mang tính chất phản động.

• Cương lĩnh cải tạo xã hội cua người tiểu tư sản vừa “mang tính chất
không tưởng”, vừa “mang tính chất phản động”- như sự đánh giá của
C.Mác và Ph. Awngghen. Đó là sự hi vọng vào việc cải tạo xã hội tư
bản theo mô hình lý tưởng phù hợp với đạo đức và tình cảm của người
tiểu tư sản ngay trên những cơ sở tồn tại tồn tại của xã hội tư bản. Gốc
rễ của những sai lầm đó- theo V.L. Lênin- chính là ở chỗ người tiểu tư
sản không thấy được mối quan hệ biện chứng của sự phát triển từ nền
sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân và thợ thủ công lên nền sản xuất
hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa.
• Họ lý tưởng hóa nền sản xuất nhỏ nhưng lại phủ nhận nền sản xuất lớn
tư bản chủ nghĩa. Họ chính là những người “ thấy cây mà không thấy
rừng” và luôn luôn “Lấy trái tim của người tiểu tư sản thay cho lý trí
của nhà phân tích kinh tế”.
• Những tư tưởng của các nhà kinh tế tiểu tư sản được những người cải
lương xã hội triệt để lợi dụng.

2. Từ đánh giá chung về lý luận của tư tưởng kinh tế tiểu tư sản. Ta


nhận thấy được những thành tựu và hạn chế trong lý luận kinh tế của
Sismondi và Proudhon:

Thứ nhất là Sismondi:

• Thành tựu:

• Tư tưởng của Sismondi đã bổ sung thêm nhiều nguyên lý mới


cho kinh tế chính trị, đóng góp vào sự phê phán CNTB, chỉ ra
các mâu thuẫn của nó và bảo vệ quyền lợi của quần chúng lao
động, có sự quan tâm đến phúc lợi xã hội.
• V.I.Lênin gọi ông là “ nhà kinh tế học xuất sắc nhất”. Ông bổ
xung được nhiều cái mới cho khoa học kinh tế chính trị hơn
A.Smith, D.Ricardo, T.R.Malthus trong việc nhận thức các
phạm trù kinh tế

17
• Ông là một trong những người đầu tiên vạch ra mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản. Ông chấp nhận sở hữu tư nhân nhưng
bác bỏ bất công xã hội…Ông gán cho chính phủ vai trò người
bảo vệ. Theo ý nghĩa đó, ông là người báo trước của thuyết
đảm bảo xã hội.

• Lý luận của Sismondi về sự tăng trưởng có tính tới thời gian


và những dây chuyền năng động…

• Sự phân phối được đưa vào việc phân tích về các cuộc khủng
hoảng và sự tăng trưởng

• Sismondi bác bỏ chủ nghĩa các nhân về mặt phương pháp


luận, nhưng không đồng quan điểm với những người kế
hoạch hóa và những người theo chủ nghĩa tập thể.

• Hạn chế:
• Sai lầm của Sismondi là coi nhà nước tư sản là người đại
biểu cho lợi ích của các giai cấp.

• Sismondi đã phủ nhận tính giai cấp của nhà nước tư sản.

• Sismondi cũng bị lặp đi lặp lại tất cả những sai lầm trong
học thuyết của A.Smith về tư bản cố định và tư bản lưu động,
lẫn lộn trong nhưng phạm trù thuộc quá trình sản xuất.

• Chưa thấy được nguồn góc và bản chất chức năng của tiền
tệ.

• Coi mục đích của tái sản xuất tư bản là tiêu dung chứ không
phải là giá trị thặng dư.

• Tư tưởng còn nhiều hạn chế, thể hiện tính không tưởng và
phản động như: Không tìm được phương thức để bảo vệ lợi
ích của người lao động mà giải thích, vận động nghiêng về đạo
đức, phẩm hạnh; Phê phán CNTB nhưng nhìn nhận sai lầm sự

18
phát triển và vai trò của nó; Lý tưởng hóa nền sản xuất nhỏ,
muốn quay ngược tiến trình lịch sử khôi phục nền sản xuất
nhỏ (thể hiện chính chất không tưởng và phản động).
• Trong lí luận thu nhập địa tô thì Sismondi lặp đi lặp lại quan
điểm phi lí của A.Smith : địa tô là tặng thưởng của tự nhiên, tự
nhiên (đất đai) cũng tạo ra giá trị phụ thêm. Từ đó, ông đưa ra
luận điểm, hình như địa tô từ dưới đất mọc lên.

• Ông không hiểu nguồn gốc của địa tô tuyệt đối và bộ máy chiếm
hữu địa tô.

• Chú thích : Địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệnh là các hình thức
địa tô của tư bản trong địa tô tư bản chủ nghĩa. Địa tô chênh lệch là
phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên
ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa
giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên
ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và
trung bình. Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dội ra ngoài lợi
nhuận bình quân, hình thành nên bởi chênh lệch giữa giá trị nông sản
với giá cả sản chung của nông phẩm. Địa tô độc quyền là lợi nhụân
siêu ngạch do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được trên đất đai mà
tư bản phải nộp cho địa chủ”
• Trong lí luận khủng hoảng kinh tế:
• Ông cho rằng không có khủng hoảng kinh tế trên phạm vi toàn
xã hội, mà chỉ có khủng hoảng bộ phận trong các ngành sản
xuất riêng lẻ.
• Ông chưa thấy được mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng,
cho nên ông cho rằng tiêu dùng lac hậu hơn so với sản xuất.
• Ông cho rằng thu nhập quốc dân ngang bằng với sản phẩm
hàng năm, toàn bộ sản phẩm bằng khối lượng thu nhập chi
dùng cho cá nhân. Ông chư thấy được nguồn gốc của tích lũy.

19
Thứ hai là Proudhon:

• Thành tựu:

• Proudhon cố gắng xây dựng các học thuyết của mình về tính
công bằng vĩnh cửu đạt được bằng con đường hòa bình.
• Các vấn đề xã hội và con người mà các nhà tiểu tư sản đề cập
có ý nghĩa đối với sự phát triển xã hội, đặc biệt tại các nước
lạc hậu mới bắt đầu phát triển sản xuất hàng hóa lớn.
• Chủ nghĩa vô chính phủ của Prouhon đã gây ra những ảnh
hưởng không nhỏ cho phong trào công nhân Pháp và quốc tế.
Tiếng vang và dấu ấn của những tư tưởng tiểu tư sản của
Proudhon còn ảnh hưởng tới cả lý thuyết kinh tế hiện đại, cổ
cũ cho sự can thiệp sâu rộng của nhà nước và nền kinh tế.
• Bênh vực lợi ích của những người sản xuất nhỏ và lớp người
nghèo khổ trong chủ nghĩa tư bản, chú trọng tới mối quan hệ
giữa phát triển kinh tế và nâng cao lợi ích của người lao động
trong xã hội.

• Hạn chế:
• Proudhon cũng chịu ảnh hưởng của Hegel, song chỉ hấp thụ
được triết học của Hegel những yếu tố ít khoa học nhất và hạn
chế nhất.
• Các phạm trù kinh tế của Proudhon được coi là tùy tiện, không
có quan hệ với các quan hệ sản xuất, không chứa đựng những
nội dung khách quan. Ông không hiểu được rằng sản xuất
hàng hóa nhỏ là điểm xuất phát của chủ nghĩa tư bản, rằng
giữa sản xuất nhỏ và sản xuất tư bản có một mối liên hệ chặt
chẽ.
• Trong sự phân tích của mình, Proudhon không xây dựng được
một hệ thống phạm trù kinh tế khoa học. Hơn nữa, bản thân
các phạm trù kinh tế ở ông chỉ là sản phẩm của lý trí thuần
túy, nó không bắt nguồn từ hoạt động kinh tế hiện thực, khách
quan mà dường như ngược lại, ông hiểu phạm trù như là
nguồn gốc tạo ra những hoạt động ấy.
• Proudhon không hiểu được bản chất cuả tiền tệ. Ông đã bộc lộ
rõ những hạn chế lớn của hệ tư tưởng tiểu tư sản đối với vấn
đề cải tạo xã hội. Rõ ràng là những cải cách này không hề đả
động tới cơ sở kinh tế của cái chế độ mà người sản xuất nhỏ
lên án.Chế độ sở hữu tư nhân vốn là cơ sở chung cho cả sự tồn

20
tại của chính người tiểu tư sản. Dự án của Proudhon chứng tỏ
ông hiểu việc cải tạo xã hội một cách rất chủ quan, tùy tiện.
• Đưa ra cương lĩnh cải tạo xã hội vừa mang tính chất không
tưởng vừa mang tính chất phản động.

Qua những thành tựu và hạn chế trong lý luận kinh tế của hai nhà kt tiểu tư
sản ta thấy được những nét nổi bật sau:
Sismondi là người đặt cơ sở cho một trào lưu độc đáo của chủ nghĩa xã hội
tiểu tư sản. Proudhon nhà kinh tế tiểu tư sản Pháp nổi tiếng với những dự án cải
cách xã hội mang tính chất ảo tưởng.

Di sản đáng kể nhất của trường phái tiểu tư sản trong kinh tế chính trị học
thể hiện ở 2 vấn đề nổi bật đó là:
Sự phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm tiểu tư sản và những dự kiến
cải tạo xã hội tư bản theo mô hình của sản xuất nhỏ và chế độ kinh tế hàng hóa nhỏ
trước chủ nghĩa tư bản. Đặc tính của tất cả các quan điểm tiểu tư sản là không
tưởng và phản động.
Vì thế ngay trong chính quá trình hoạt động của mình những quan điểm của
các nhà kinh tế tiểu tư sản đã bộc lộ rất nhiều mặt hạn chế.

3. So sánh sự khác nhau giữa hệ thống quan điểm của Proudhon và


Sismondi:

-Thứ nhất: Proudhon bảo vệ lợi ích của những ngời sản xuất nhỏ ở nửa sau
thế kỉ 19, khi quan hệ sản xuất TBCN được hình thành, cơ cấu giai cấp của chủ
nghĩa tư bản được xác định và giai cấp tiểu tư sản giữ vị trí giai cấp trung gian.
Thời kì này không có khả năng tồn tại những tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn
kinh tế và không thể quay về chế độ gia trưởng.

-Thứ hai: Nếu như Sismondi là người hoàn thành trường phái kinh tế cổ
điển Pháp, thì Proudhon là một trong những người sáng lập ra chủ nghĩa vô chính
phủ.

-Thứ ba: Cũng như Sismondi, Proudhon chỉ muốn bổ sung, cái tiến chủ
nghĩa tư bản. Proudhon thể hiện lợi ích của giai cấp tiểu tư sản ở thời điểm lịch sử
của sự viển vông, tiểu tư sản không còn được chú ý. Do đó, chủ nghĩa Proudhon
theo bản chất của mình, có chiều hướng phản động.

21
-Thứ tư: Sismondi và Proudhon đều là đại biểu của chủ nghĩa xã hội tiểu
tư sản, nhưng theo C.Mác, Proudhon là nhà tư tưởng chính thống nhất,của giai cấp
tiểu tư sản.
• Nguyên nhân và kinh nghiệm:

Nguyên nhân của thành tựu và nguyên nhân của hạn chế:

Nguyên nhân thành tựu:


• Xuất phát từ bản chất giai cấp, bảo vệ quyền lợi giai cấp
• Xuất phát từ thực tiễn của xã hội, sự phát triển của tư bản chủ nghĩa
• Sự phát triển của thời đại, với sự ra đời của nhiều trào lưu kinh tế
khác.
• Bản thân họ là những nhà kinh tế thuộc đại diện của giai cấp tiểu tư
sản, bênh vực cho nền sản xuất nhỏ, độc lập cùng tất cả các mối quan
hệ xây dựng trên nền tảng đó. Đối tượng phản kháng của họ là chủ
nghĩa tư bản, nói đúng hơn là giai cấp tư sản lớn, là sự phát triển của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Vì thế trong lý luận kinh tế
của họ thường có những quan điểm bảo vệ cho lực lượng sản xuất
nhỏ, lực lượng nghèo khổ, bị bóc lột. Họ phê phán chủ nghĩa tư bản,
thấy được những mâu thuẫn tồn tại trong sự phát triển của nó từ đó
luôn có những chính sách đề ra, phát triển, cải tạo để xây dựng một
chế độ mới bình đẳng hơn.

Nguyên nhân hạn chế:


• Đặc tính của tất cả những quan điểm tiểu tư sản là không tưởng và
mang tính chất phản động.
• Tính chất phản động vì nó muốn quay ngược sự phát triển đó về quá
khứ. Nó nhìn tương lai của sự phát triển ở những quan hệ kinh tế-xã
hội lỗi thời bị lịch sử gạt bỏ trên con đường tiến hóa.
• Quan điểm đó muốn phá bỏ những sự phát triển khách quan phù hợp
với quy luật của tiến hóa xã hội ngay khi những quy luật đó đã bộc lộ
trên thực tế.

Sismondi là nhà kinh tế chính trị học cổ điển Pháp, nhưng lại đại biểu cho
lợi ích của giai cấp tiểu tư sản nên phương pháp luận của ông mang tínhchất hai
mặt : duy tâm, chủ quan.Ông đã sai lầm trong phương pháp luận của mình thể hiện
sự chủ quan khi xác định đối tượng của kinh tế chính trị. Ông chống lại việc áp
dụng phương pháp trừu tượng hóa vào việc nghiên cứu kinh tế chính trị. Với
phương pháp duy tâm, chủ quan, ông đã đưa ra những giả thuyết phi lịch sử đối với
các quá trình kinh tế - xã hội.

22
Proudhon bộc lộ rõ điểm yếu trong phương pháp luận phê phán chủ nghĩa
tư bản của người tiểu tư sản-hoàn toàn bỏ qua những quy luật khách quan của sự
phát triển tư bản chủ nghĩa, chỉ quan tâm tới những hậu quả mà sự phát triển đó
đem lại những người sản xuất nhỏ, độc lập và lên án chúng theo lối tiểu tư sản.
Đặc trưng của Proudhon là chủ nghĩa duy tâm siêu hình và duy ý chí. Dựa
vào quan điểm của Platon về tính thứ nhất của tư tưởng, Proudhon cố gắng xây
dựng các học thuyết của mình về tính công bằng vĩnh cửu đạt được bằng con
đường hòa bình . Ông cũng chịu ảnh hưởng của Hêghen, sonỉg chỉ hấp thụ được
triết học của Hêghen những yếu tố ít khoa học nhất và hạn chế nhất.
Do quan điểm lệch lạc, không thoát khỏi ảnh hưởng của hệ tư tưởng tiểu tư
sản. Tình bạn giữa ông với C. Mác đã thật sự chấm dứt sau khi ông xuất bản cuốn
sách “ Hệ thống những mâu thuẫn kinh tế hay triết học của sự khốn cùng”, kịch liệt
phản đối chủ nghĩa cộng sản và phong trào công nhân.

Tuy đã có nhiều mặt tiến bộ về mặt lý luận, nhưng kinh tế chính trị tiểu tư
sản còn bộc lộ nhiều hạn chế không phù hợp với sự phát triển của xã hội. Nên đòi
hỏi cần phải nhanh chóng khắc phục những tư tưởng lệch lạc, không phù hợp với
sự phát triển chung của xã hội.

23
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP

• Phương hướng:

Trong quá trình phát triển bên cạnh những thành tựu đã đạt được kinh tế
chính trị tiểu tư sản cũng tồn tại rất nhiều mặt hạn chế cần phải có cách nhìn nhận
khoa học và đúng đắn hơn về thế giới khách quan, về sự phát triển tư bản chủ
nghĩa. Kinh tế chính trị học tiểu tư sản còn mang tính chất phản động và ảo tưởng
về việc cải tạo một mô hình xã hội, cần phải đổi mới cách nhìn nhận, không nên
chỉ đứng trong nhận thức của giai cấp tiểu tư sản mà đánh giá sai lầm, chủ quan về
sự phát triển của nền kinh tế.
Phải nhìn nhận rõ những mặt hạn chế của, để rồi đưa ra phương pháp phát
triển kinh tế phù hợp với xã hội. Việc cải tạo một mô hình xã hội phải mang tính
chất thực tế hơn, vì trong quá trình đề ra nó còn mang tính ảo tưởng khó thực hiện.
Mô hình đó thể hiện những ước vọng vào việc cải tạo mô hình xã hội tư bản chủ
nghĩa, một mô hình lý tưởng. Nhưng giữa thực tế và việc thực hiện chúng còn cách
xa nhau rất lớn.
• Giải pháp:

Dựa trên những mặt hạn chế trong quá trình phát triển, ta sẽ có những
giải pháp sửa đổi, sao cho hoàn thiện và phù hợp hơn.
Khi phê phán chủ nghĩa tư bản không thể phủ nhận những thành tựu của nó,
không nên phủ nhận tính khách quan, hợp quy luật của con đường phát triển xã
hội.
Đưa ra cương lĩnh cải tạo xã hội phù hợp và đúng đắn.
Thoát khỏi những ảnh hưởng lạc hậu của hệ tư tưởng tiểu tư sản.

24
C. KẾT LUẬN

Kinh tế chính trị tiểu tư sản là một trào lưu của kinh tế học chính trị phản ánh
hệ tư tưởng của giai cấp trung gian tiểu tư sản, xuất hiện đầu thế kỉ 19, dưới ảnh
hưởng của việc vô sản hoá rộng rãi giai cấp tiểu tư sản do cách mạng công
nghiệp cuối thế kỉ 18 đầu thế kỉ 19 gây ra. Những người sáng lập: Sismondi và
Proudhon. Tính hai mặt của giai cấp tiểu tư sản quyết định tính hai mặt của kinh tế
chính trị tiểu tư sản: một mặt phê phán chủ nghĩa tư bản, mặt khác lại đòi quay
về sản xuất nhỏ; hoặc trong điều kiện ngày nay thì đòi tìm "một con đường thứ ba"
nào đó.
Trong lịch sử của sự phát triển của tư tưởng kinh tế, kinh tế chính trị học tiểu
tư sản chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Những người tiểu tư sản lần đầu tiên
đặt vấn đề phê phán chủ nghĩa tư bản một cách toàn diện, chỉ rõ mâu thuẫn trong
sự phát triển nội tại của phương thức này và bác bỏ sự tồn tại của nó. Đó là một
quan điểm đối lập trực tiếp với kinh tế chính trị học cổ điển là trường phái bênh
vực cho sự tồn tại vĩnh viễn của phương thức này. Nhiều vấn đề xã hội và con
người mà các học giả tiểu tư sản nêu lên ngày càng tỏ ra có ý nghĩa lớn đối với
việc phân tích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng và sự phát triển của xã
hội nói chung, nhất là trong hoàn cảnh của những nước nông nghiệp lạc hậu bắt
đầu xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hóa.

Sự ra đời và phát triển của học thuyết kinh tế tiểu tư sản ta phải nói đến hai
đại diện tiêu biểu nhất đó là Sismondi và Proudhon. Mặc dù có nhưng phương
pháp lý luận khác nhau, nhưng hai ông đều có một điểm chung là: học thyết kinh tế
tiểu tư sản bảo vệ chính là những nền sản xuất nhỏ, phê phán chủ nghĩa tư bản hay
chính là giai cấp tư sản lớn, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp mình. Họ có một lí
tưởng xây dựng một xã hội mới, hoàn thiện hơn dựa trên việc phân tích những mặt
hạn chế và hậu quả của tư bản chủ nghĩa gây ra. Nhưng trong lý luận của họ còn có
nhiều mặt hạn chế mang tính chất phản động, tiêu cực và ảo tưởng. Họ phê phán tư
bản chủ nghĩa nhưng dựa trên cơ sở tình cảm và những quan niệm không phù hợp
của giai cấp tiểu tư sản. Khi phê phán chủ nghĩa tư bản, họ phủ nhận tính chất
khách quan, hợp quy luật của con đường phát triển xã hội, phủ nhận cả nền sản
xuất đại công nghiệp nói chung.

Vì vậy mà trong quá trình nghiên cứu phải có sự kết hợp logic, phải có hệ
thống tư tưởng hoàn chỉnh và phù hợp với sự phát triển chung của xã hội. Ngoài
ra,Kinh tế chính trị tiểu tư sản thể hiện tính không triêt để cả trong nhận thức các
phạm trù kinh tế và trong biện pháp cải tạo xã hội. Nên tư tưởng học thuyết này sẽ

25
nhanh chóng bị thay thế bởi một học thuyết khác có hệ thống lý luận hoàn chỉnh
hơn.

Trong điều kiện nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu
và học tập những tư tưởng học thuyết kinh tế là điều rất quan trọng. Từ đó, ta có
thể hiểu rõ bản chất của nền kinh tế, đúc rút ra được nhưng thành tựu của từng học
thuyết, nhìn nhận ra được những mặt hạn chế, để rồi sẽ tìm ra những phương
hướng và giải pháp khắc phục. Việc nghiên cứu và học tập cũng sẽ giúp cho ta có
một cái nhìn thực tiễn về nên kinh tế nước ta hiện nay. Và từ đó chúng ta sẽ có
những cơ sở lý luận nghiên cứu về kinh tế học, để rổi đưa ra những kế hoạch, quan
điểm trong các chính sách phát triển kinh tế trong tương lai.

26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt

• TS. Ngô Văn Lương: Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Chính trị
quốc gia, 2009.
• Cuốn sách “Lịch sử các học thuyết kinh tế” của tập thể tác giả Trường
Đại học Kinh tế, ĐHQGHN, NXB Đại học quốc gia Hà nội, 2010

• Cuốn “ Lịch sử học thuyết kinh tế “ của Viện Đại Học Mở Hà Nội,
2006

• Mai Ngọc Cường. “Lịch sử các học thuyết kinh tế”, Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, 1999.
• Cuốn sách “ 50 nhà kinh tế tiêu biểu “ của Steven Pressman

Website

http://www.wattpad.com/115364-ls-htkt-1?p=17

http://books.google.com.vn/books?id=486z9lE-
jds
C

&

pg=PA12
4

&

lpg=PA12
4

&

dq=the+petty+bourgeois+economist
s&source=bl&ots=BmSUNGM7Oc&sig=woDvJJf7phpic4mbXLO-
PdXeDC
8

27
&

hl=v
i&sa=X&ei=qbEHT7nlOIe9iAeumoyYCQ&redir_esc=y#v=onepage&q=the
%20petty%20bourgeois%20economists&f=false

http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?
param=15F2aWQ9MTI1NDEmZ3JvdXBpZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b
3JkPWs=&page=14
http://en.wikipedia.org/wiki/Jean_Charles_L%C3%A9onard_de_Sismondi

http://www.ohio.edu/chastain/ip/proudhon.htm

28

You might also like