Professional Documents
Culture Documents
Câu 1 (Chương 4 - Hình thái cổ điển): Sự phê phán của phái Trọng nông đối với
phái Trọng thương. Ý nghĩa của sự phê phán này
Phái trọng nông đã xuất phát từ quy luật ngang giá trong trao đổi, sự thống nhất
giữa hành vi mua và bán, quan niệm về của cải là mặt vật chất của nó để phê phán
những nguyên lý của chủ nghĩa trọng thương đồng thời phát triển những nguyên lý về
sản xuất của cải của họ.
+ Theo ông, Thương mại chỉ là việc đổi lấy giá trị này lấy một giá trị khác ngang như
thế, trong trao đổi cả người mua và người bán đều không có lợi ích gì và mất gì về giá
trị, còn lợi nhuận của thương nhân có được là do tiết kiệm các khoản chi phí thương
mại và do sự cạnh tranh giữa các thương nhân.
+ Ngoại thương cũng không phải nguồn gốc của của cải, ngoại thương chỉ có tác dụng
san bằng giá cả hàng hóa ở các nước khác nhau. Lợi nhuận của họ là món tiền thưởng
do những người sản xuất trả. Giá cả có trước việc mua và bán, thương nhân không thể
tùy tiện định giá. Do vậy một nước không thể làm giàu trên lưng một nước khác
nhưng cạnh tranh quốc tế là có ích. Tiền lãi của thương nhân không phải là lợi nhuận
đối với nhà nước.
+ Tiền chỉ là công cụ di chuyển của của cải, tiện tạo điều kiện cho việc trao đổi và
mua bán. Của cải đích thực là lượng tiền có thể mua được. Tiền cũng như việc tích lũy
tiền không thể là mục đích tự thân, không có một nước nào bán sản phẩm cho nước
khác với mục đích trữ tiền. Nếu làm như vậy nông nghiệp sẽ đến chỗ phá sản.
+ Phủ nhận luôn sự tiến bộ của ngoại thương cũng như vai trò của nó đối với sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản, đồng thời chưa thấy được vai trò tích cực của chủ nghĩa trọng
thương trong quá trình tích lũy ban đầu của tư bản.
Tái sản xuất giản đơn: là tái sản xuất với quy mô như cũ, trong điều kiện nhà tư bản
dùng toàn bộ giá trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân.
- Marx đưa ra điều kiện cơ bản của tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là:
I(v+m) = IIc
tổng khối lượng hàng hóa TLSX mới được sản xuất ra trong năm của KVI phải
bù đắp được TLSX đã tiêu dùng trong năm của KVII.
Tái sản xuất mở rộng: là khi nhà tư bản tăng thêm tư liệu sản xuất, thuê thêm công
nhân, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm và tư bản khả
biến phụ thêm)
- Điều kiện cơ bản của tái sản xuất mở rộng là cần có tích lũy ở khu vực I:
I (v+m) > II c
trường hợp sản xuất dựa trên một tư bản đang tăng lên thì I(v+m) phải bằng IIc
cộng với bộ phận thặng dư mới sáp nhập thêm vào tư bản cộng với tư bản bất
biến phụ thêm, cần thiết để mở rộng sản xuất khu vực II.
Ý nghĩa:
- Lý luận tái sản xuất là một trong những cống hiến lớn nhất của Karl Marx cho khoa
học kinh tế. Ông là người đầu tiên trong lịch sử học thuyết kinh tế đã diễn tả được
toàn bộ quá trình tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội, mô tả được quá
trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TBCN.
- Phân chia nền sản xuất thành 2 khu vực.
- việc phân biệt rõ nét TLSX và TLTD có vai trò quan trọng trong việc phân tích tái
sản xuất tư bản xã hội.
Câu 6 (Chương 7 - Karl Marx): Lý thuyết tích lũy của K.Marx. Ý nghĩa.
Lý thuyết tích lũy:
Tiếp tục phát triển lý luận giá trị thặng dư, Marx nghiên cứu quá trình tích lũy tư bản,
nghiên cứu sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản. Chứng minh tích lũy tư bản là
sự chuyển hóa một phần GTTD thành TBBB phụ thêm, TBKB phụ thêm và sử dụng
chúng vào quá trình sản xuất, trong đó tỷ trọng của TBBB tăng nhanh hơn TBKB.
Ông phân tích tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Ông chỉ ra: quá trình tái
sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, đồng thời là quá
trình tái sản xuất ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Những nguyên nhân làm tăng
tích lũy tư bản, làm cho CNTB phát triển cũng đồng thời là nguyên nhân phá vỡ quan
hệ sản xuất TBCN, dẫn đến sự thay thế phương thức sản xuất TBCN bằng một
phương thức sản xuất mới.
Ý nghĩa:
Câu 7 (Chương 8 - Kế thừa và phát triển K.Marx): Lý thuyết kinh tế của
K.Kautsky.
(1) Sự giải thích của các cuộc khủng hoảng sản xuất thừa và sự sụp đổ của
CNTB.
+ Ông cho rằng trong thời kỳ đại CN, tiêu dùng xã hội chỉ là tiêu dùng của những
nhà tư bản và của công nhân. Do vậy, nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng
thừa trong CNTB là do tình trạng tiêu dùng dưới mức của giai cấp CN. Sự tiêu
dùng quá mức này không được bù lại bằng sự tiêu dùng quá mức của giai cấp
bóc lột vì giai cấp tư sản không thể tiêu dùng hết gttd do đó dẫn đến các cuộc
khủng hoảng thừa.
+ Sự sụp đổ kinh niên không thể chịu đựng nổi đối với đại đa số dân cư sẽ dẫn tới
chỗ thiết lập CNXH.
(2) Chủ nghĩa đế quốc
K.Kautsky cho rằng, chủ nghĩa đế quốc chỉ là một chính sách riêng biệt, là xu
hướng của các nước công nghiệp phát triển cao, muốn làm cho kv nông nghiệp phải
phụ thuộc vào nó. Thời kỳ CNDQ, các nhà tư bản các nước khác nhau có thể dùng
biện pháp hướng nghiệp để xây dựng một nền kinh tế thế giới có tổ chức.
Tạo ra ảo tưởng rằng CNTB có thể phát triển một cách hòa bình không có
khủng hoảng.
(3) Về con đường đi lên CNXH và nền kinh tế XHCN.
Xây dựng CNXH bằng các biện pháp thông qua nghị viện ở các nước tư bản,
pháp chế bảo hộ cho lao động, mở rộng phạm vi sản xuất của nhà nước,.. mà không
cần chuyên chính vô sản.
Là sự kết hợp giữa tính kế hoạch của nhà máy với sự phát triển tự phát của
phân công lao động và thị trường. Ông phủ nhận học thuyết đấu tranh giai cấp và
chuyên chính vô sản trong học thuyết Marx. Ông cho rằng, nền kinh tế XHCN là kết
quả của tự phát của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó ra đời không cần đấu tranh
giai cấp và cách mạng.
Câu 8 (Chương 8 - Kế thừa và phát triển K.Mark): Đóng góp mới của Lenin
trong lý thuyết kinh tế.
(1) Những tư tưởng phát triển về lý thuyết chung về tư bản
(2) Lý luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền hay chủ nghĩa đế quốc (Cái này là đóng
góp lớn nhất)
(3) Những lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện nước Nga Xô Viết, qua đó có những đóng góp vào lý luận về thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội nói chung.
Câu 9 (Chương 9 - Tân cổ điển): Quan niệm giá trị của phái Tân cổ điển ở Anh.
So sánh với quan niệm giá trị của phái Cổ điển.
Quan niệm về giá trị:
- Áp dụng một cách độc lập phân tích biên vào lý thuyết cầu và phát triển khái niệm
tính hữu dụng biên (Marginal Utility)
- Tiên phong phân tích biên ở cấp độ hộ gia đình
- Giá trị phụ thuộc tính hữu dụng, phụ thuộc vào tiêu dùng và nó xuất hiện không phải
trong quá khứ mà trong tương lai, giá trị phụ thuộc tính hữu dụng biên quy định giá trị
hàng hóa… và với lý luận giá trị này thì có thể giải thích được bất cập trong nguyên lý
giá trị lao động của các nhà cổ điển trong việc giải thích các vật cổ, quý hiếm, có
những giá trị lớn và ngày nay không thể sản xuất ra được.
- Khi phát triển lý thuyết về trao đổi, Jevons đã chỉ ra một cách chính xác rằng giả sử
nguồn cung cố định của hai hàng hóa được nắm giữ bởi hai cá nhân,thì giá của những
hàng hóa này và những khối lượng được được trao đổi sẽ phụ thuộc vào tính hữu dụng
biên của HH đối với 2 cá nhân.
- Jevons loại bỏ giả định cung là cố định và phân tích mối quan hệ giữa chi phí, nguồn
cung, tính hữu dụng biên và giá cả:
+ chi phí sx quy định cung
+ cung quy định mức độ cuối cùng của tính hữu dụng
+ mức độ cuối cùng của tính hữu dụng quy định giá trị.
từ đó đi đến kết luận rằng giá cả quy định giá trị.
Tuy nhiên, quan điểm của Jevon có những hạn chế được phân tích trong 3 trường hợp:
TH1: khi cung là hoàn toàn không co giãn thì giá phụ thuộc vào cung cầu, chi phí sản
xuất có thể không có một ảnh hưởng nào lên cung. Việc cho rằng giá chỉ phụ thuộc
vào cầu thôi cũng không thỏa mãn.
TH2: khi cung hoàn toàn co giãn, và chi phí SX không đổi, giá phụ thuộc hoàn toàn
vào chi phí sản xuất dù cho cầu có tăng lên hay giảm đi.
TH3: khi đường cung dốc lên, thì giá phụ thuộc vào chi phí biên của hàng hóa cuối
cùng được sản xuất ra. Với cầu cho trước, chi phí sản xuất hay cung quy định mức giá
trong trường hợp này cả cung và cầu quy định mức giá.
So sánh: Kế thừa và phát triển so với cổ điển
Ý nghĩa:
- Dưới tác động của số nhân, sự cân bằng mong muốn tiết kiệm và mong muốn
đầu tư có thể được thực hiện ở mức công ăn việc làm không đủ. Tức là cung và
cầu hàng hóa có thể cân bằng mà không cần thực hiện cân bằng trên thị trường
lao động. Nền kinh tế vẫn có thể đi vào cân bằng cùng với sự tồn tại của thất
nghiệp.
- Việc tìm ra số nhân đầu tư là một đóng góp lớn của keynes cho lý thuyết điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, cho việc phân tích nền kinh tế ở tầm vĩ mô.
- Keynes là người đầu tiên đưa ra khái niệm số nhân đầu tư trên cơ sở tiếp thu
khái niệm số nhân mà ông gọi là số nhân việc làm của Richard Ferdinand
Kahn.
- Chứng minh được rằng cần có sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động
kinh tế. Trong điều kiện công ăn việc làm không đủ, đầu tư tư nhân thông qua
tác động của số nhân làm tăng thu nhập quốc dân, tạo ra tiết kiệm bằng độ lớn
bản thân nó, vd: chi tiêu chính phủ thông qua tác động số nhân tạo ra nguồn
trang trải của bản thân nó.
- Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa trải qua khủng hoảng trầm trọng thì những tư
tưởng và chính sách đề xuất của Keynes đã đóng góp tích cực vào vực dậy nền
kinh tế. lý thuyết của ông cx ảnh hưởng lớn đến việc hoạch định chính sách của
các chính phủ tư sản .
Liên hệ vận dụng ở Việt Nam
Câu 11 (Chương 11 - Chủ nghĩa tự do mới): Quan niệm của phái trọng Tiền về
nguyên nhân của thất nghiệp. Liên hệ tính thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Theo phái trọng Tiền, thất nghiệp có nguồn gốc từ hai nguyên nhân khác nhau:
tự nguyện và do sai lầm của chính phủ. Thất nghiệp tự nguyện sẽ xảy ra khi mức tiền
công thấp không đủ sức hấp dẫn và lôi cuốn những người có sức lao động, nhưng khi
cầu về lao động tăng, cân bằng với mức cung về lao động thì tiền công sẽ đạt tới sự
công bằng, và như vậy theo họ tiền công sẽ biến động tùy thuộc vào cân bằng cung-
cầu lao động. Và khi tiền công đủ sức hấp dẫn thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm dần.
Liên hệ tính thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay:
Câu 12 (Chương 11 - Chủ nghĩa tự do mới): Quan niệm của M.Friedman về
chính sách tiền tệ của nhà nước trong thời kỳ nền kinh tế hưng thịnh. Liên hệ
chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Lý thuyết tiền tệ của FRIEDMAN:
Friedman đã vận dụng học thuyết về cầu tài sản vào tiền tiện, phân tích qua 3 bước:
- Thứ nhất, tiền tệ là một tài sản tiêu dùng. Ông cho rằng cầu về tiền tệ tùy thuộc
vào ba tập hợp yếu tố:
+ Tài sản tổng cộng cần giữ dưới các hình thức đa dạng, tương tự như các
khoản ngân sách.
+ Giá cả và hiệu suất của hình thức tài sản của cải
+ Thị hiếu và sở thích ưu tiên của các tác nhân kinh tế sở hữu chúng.
- Thứ hai, cầu về tiền tệ là hàm các hiệu suất của 5 hình thức tài sản “có” mà
người ta có thể dùng để giữ của.
+ tiền tệ là “khoản nợ” mà người ta chấp nhận khi trả các món nợ tương
ứng với một giá trị danh nghĩa.
+ trái phiếu là khoản nợ mang lại thu nhập cho dòng thu nhập theo thời
gian.
+ cổ phiếu là “khoản nợ” mang lại cho các phần góp vốn được hưởng theo
tỷ lệ khoản tiền lãi các DN thu được.
+ Các tài sản vật chất (tư bản)
+ Tư bản con người.
- Thứ 3, ông đưa ra một quan niệm về một quan hệ hàm số ổn định cho cầu tiền
Md/P = f(Yp,rb - rm,re - rm, 𝝅e - rm)
+ Friedman nhận thấy có nhiều tài sản có thể thay thế cho tiền, có nhiều
thứ ngoài lãi suất tác động đến toàn bộ nền kinh tế.
+ Friedman không cho rằng lợi tức kì vọng của tiền rm là hằng số như
Keynes, vì vậy thay đổi trong lãi suất chỉ tác động rất nhỏ đối với cầu
tiền: Md/P = f(Yp)
+ Friedman cho rằng biến động ngẫu nhiên trong cầu tiền là nhỏ bé và do
vậy cầu tiền có thể dự đoán một cách chính xác bởi hàm cầu tiền. Khi
kết hợp với việc cho rằng cầu tiền là không nhạy cảm với lãi suất, ông
cho rằng tốc độ quay vòng của tiền là có khả năng dự đoán cao: V =
Y/f(Yp).
Kết luận: Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, nên tăng khối lượng tiền tệ, còn trong
thời kỳ hưng thịnh nên giảm mức cung tiền.
Liên hệ chính sách tiền tệ ở Việt Nam: