Professional Documents
Culture Documents
2. Mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Khám phá các quy luật kinh tế chi phối các quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi, từ đó vận dụng các quy luật ấy để giải quyết hài hòa
các quan hệ lợi ích, tạo động lực cho con người sáng tạo.
Không chỉ hướng đến việc thúc đẩy sự giàu có mà còn cung cấp cơ sở khoa
học góp phần thúc đẩy trình độ văn minh và phát triển xã hội.
Phân biệt quy luật kinh tế và chính sách kinh tế
Quy luật kinh tế tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con
người, con người không thể thủ tiêu quy luật kinh tế, nhưng có thể nhận thức và
vận dụng quy luật kinh tế để phục vụ lợi ích của mình.
Chương 2
HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA
THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
Phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể
sản xuất.
Phân công lao động xã hội
Là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, lĩnh vực sản xuất khác
nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những
ngành, nghề khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, giữa những người sản xuất phải
trao đổi sản phẩm với nhau. Phân công lao động xã hội đóng vai trò là cơ sở
cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.
Việc sx Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất
cái gì,
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất bắt đầu xuất hiện khi
cho ai,
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời. Sau này, do sự xuất hiện nhiều hình
ntn do
chủ tlsx thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất; sự tách biệt giữa quyền sở hữu và
quyết đ quyền sử dụng tư liệu sản xuất; sự xuất hiện của nhiều hình thức kinh tế cụ thể
khác nhau… nên sự tách biệt đó tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất đòi hỏi việc trao đổi
sản phẩm giữa họ với nhau phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, ngang giá, hai
bên đều có lợi; tức là trao đổi mang hình thái trao đổi hàng hóa.
2. Hàng hóa
a) Khái niệm và thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi, mua bán. Sản phẩm của lao động chỉ mang
hình thái hàng hóa khi được trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa có thể
ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn
một nhu cầu nào đó của con người.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên quy định. Việc phát hiện
và sử dụng những thuộc tính đó tùy thuộc vào năng lực của khoa học kỹ thuật
và lực lượng sản xuất.
Trao đổi được mở rộng song không phải khi nào cũng dễ dàng thực hiện. Có
những người phải trao đổi nhiều lần, thông qua nhiều hàng hóa trung gian khác
nhau mới có được hàng hóa mình cần. Hàng hóa trung gian đó phải là hàng
hóa mà mọi người đều thích, cần và dễ chấp nhận. Từ đó hình thái chung của
giá trị xuất hiện. Ví dụ:
= 1 hh X
Trong lịch sử, đã có rất nhiều hàng hóa khác nhau “thử nghiệm” đóng vai trò
vật ngang giá chung. Khi vàng độc chiếm vai trò là vật ngang giá chung, hình
thái tiền tệ chính thức ra đời.
Như vậy, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá
chung cho các hàng hóa; tiền thể hiện lao động xã hội và quan hệ kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa.
b) Chức năng của tiền
Thước đo giá trị. Tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các
hàng hóa khác nhau. Lúc này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một số
lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
Phương tiện lưu thông. Tiền được dùng làm môi giới cho quá trình trao đổi
hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa không phải tiến hành trực
tiếp hàng lấy hàng (H – H) mà thông qua tiền làm môi giới (H – T – H). Để phục
vụ lưu thông hàng hóa, tiền giấy ra đời và sau này là các loại tiền khác nhau.
Tiền giấy chỉ là ký hiệu giá trị, bản thân chúng không có giá trị thực nên nhà
nước phải in và phát hành số lượng tiền giấy theo yêu cầu của quy luật lưu
thông tiền tệ.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 9
Phương tiện cất trữ. Tiền được rút ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới hình
thái vàng, bạc… và sẵn sàng tham gia lưu thông khi cần thiết.
Phương tiện thanh toán. Tức là dùng tiền để chi trả sau khi công việc giao
dịch mua bán đã hoàn thành, như trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế…
Chức năng phương tiện thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương
mại.
Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các
nước thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm
phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau.
4. Dịch vụ và quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng
hóa thông thường ở điều kiện ngày nay
a) Dịch vụ
Trong các nền kinh tế hiện đại, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình
còn có những hàng hóa phi vật thể, vô hình, được trao đổi, mua bán trên thị
trường. Những loại hàng hóa này được gọi là hàng hóa dịch vụ.
Về cơ bản, dịch vụ là các hoạt động lao động của con người để làm ra các
sản phẩm vô hình nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Dịch vụ được
coi là hàng hóa đặc biệt vì hàng hóa vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng
thường diễn ra đồng thời; không thể tích lũy lại hay lưu trữ.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và tiêu dùng, dịch vụ
cũng ngày càng đa dạng, phong phú và đóng vai trò quan trọng đối với đời
sống xã hội hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực dịch vụ và những
hàng hóa khác làm cho quy mô và cơ cấu hàng hóa, dịch vụ tăng lên, nhu cầu
của xã hội và dân cư được thỏa mãn ngày càng tốt hơn.
b) Quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng hóa thông
thường ở điều kiện ngày nay
Quan hệ trong trường hợp trao đổi quyền sử dụng đất đai
Đất đai trong tự nhiên không phải là sản phẩm của lao động nên không có
giá trị. Sở dĩ đất đai không có giá trị song vẫn là đối tượng trao đổi, mua bán vì
nó có khả năng đem lại thu nhập (hoặc lợi ích) cho người sở hữu chúng. Những
người trao đổi mua bán đất đai thực chất là trao đổi mua bán quyền sử dụng
đất.
Giá cả đất đai phụ thuộc vào thu nhập (hoặc lợi ích) mà đất đai đưa lại. Khi
đất đai được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp hoặc lâm nghiệp, thường có
giá cả thấp hơn so với cũng đất đai đó được sử dụng để phát triển nhà ở hoặc
kinh doanh dịch vụ, thương mại. Giá cả đất đai còn mang tính địa điểm, thời
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 10
điểm và tính địa phương rất cao. Trên phạm vi toàn xã hội, không thể có một
xã hội giàu có nếu chỉ mua bán quyền sử dụng đất.
Quan hệ trong trao đổi thương hiệu (danh tiếng)
Thương hiệu gồm tên, logo, khẩu hiệu, và/hoặc kiểu dáng thiết kế gắn liền
với sản phẩm dịch vụ, phân biệt với đối thủ trong cảm nhận của khách hàng.
Danh tiếng cá nhân là kết quả của sự cộng hưởng của các yếu tố thuộc về
chuyên môn (nổi trội, sức ảnh hưởng), giao tiếp, phong cách, ngoại hình và các
yếu tố khác (Logo, website, sự công nhận, ảnh chụp, nhận diện trực tuyến; kết
quả tìm kiếm, v.v…)
Quan hệ trong trao đổi, mua bán chứng khoán, chứng quyền và một số giấy
tờ có giá
Chứng khoán là các loại giấy tờ có thể xác định giá trị, giá cả được các công
ty, doanh nghiệp cổ phần phát hành. Chứng quyền do các công ty chứng
khoán chứng nhận và một số giấy tờ có giá (ngân phiếu, thương phiếu) cũng
được trao đổi mua bán.
Để mua bán được chứng khoán, chứng quyền và một số giấy tờ có giá đó
phải dựa trên cơ sở tồn tại của một tổ chức sản xuất kinh doanh có thực. Bản
thân chứng khoán, chứng quyền có tính chất hàng hóa (vì được trao đổi mua
bán) nhưng không phải là hàng hóa như các hàng hóa thông thường.
II. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ
TRƯỜNG
1. Khái niệm, phân loại và vai trò của thị trường
a) Khái niệm và phân loại thị trường
Theo nghĩa hẹp, thị trường là phạm trù phản ánh hành vi trao đổi, mua bán
hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao
đổi, mua bán hàng hóa trong xã hội. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các
mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan hệ giá
trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài
nước… Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu; người bán; tiền - hàng;
dịch vụ mua bán… Tất các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận động theo
quy luật của thị trường.
Có nhiều cách tiếp cận thị trường khác nhau tuỳ theo tiêu thức hoặc mục
đích nghiên cứu.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo
yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Trong cơ chế thị trường người tiêu dùng và các doanh nghiệp tác động lẫn
nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai.
Dấu hiệu đặc trưng: Cơ chế hình thành giá cả một cách tự do.
2. Nền kinh tế thị trường và một số quy luật chủ yếu của nền kinh tế thị
trường
a) Nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các
chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực
thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 12
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là
môi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Nhà nước là
chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các quan hệ kinh tế.
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị
trường quốc tế
Ưu thế của nền kinh tế thị trường
Một là, luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
Hai là, phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền, lợi thế
của mỗi quốc gia.
Ba là, tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu, từ đó thúc đẩy
tiến bộ, văn minh xã hội
Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Một là, luôn tiềm ẩn những rủi ro, khủng hoảng
- Hai là, không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái
tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
- Ba là, không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa xã hội sâu sắc
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường, nên trong thực tế, không tồn tại
một nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước
để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó, kinh tế được gọi là
kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
b) Một số quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trường
Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hành trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
Cụ thể:
- Trong sản xuất quy luật giá trị yêu cầu hao phí lao động cá biệt ≤ hao phí
lao động xã hội cần thiết.
Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị
xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của
giá cả dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên xuống
xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị.
Trong đó P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hóa đến
kỳ thanh toán; V là số vòng quay trung bình của tiền tệ.
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá
quyết định. Số lượng tiền được phát hành và đưa vào lưu thông phụ thuộc vào
khối lượng hàng hóa đưa ra thị trường.
Quy luật canh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể trong
sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất,
tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để thu nhiều lợi ích nhất cho mình. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt, quyết
liệt hơn.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa xí nghiệp trong cùng một
ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa nhằm mục đích giành ưu thế trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động.
Kết quả cạnh tranh dẫn đến hình thành giá trị thị trường của hàng hóa (hay
giá trị xã hội của hàng hóa), làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một
ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hóa giảm xuống, chất lượng hàng hóa
nâng cao, chủng loại hàng hóa phong phú.
Cạnh tranh giữa các ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp kinh doanh
trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác
Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xác định trên 4 nhóm
yếu tố sau:
- Chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa đầu vào
- Các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 15
- Yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ
- Vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Mặt tích cực
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường
Thứ ba, cạnh tranh tạo ra cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các
nguồn lực.
Thứ tư, Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội
Mặt tiêu cực
Khi cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến các tác động (đòi hỏi nhà nước
phải có biện pháp để hạn chế, ngăn chặn mặt trái của cạnh tranh):
Thứ nhất, gây tổn hại đến môi trường kinh doanh
Thứ hai, gây lãng phí nguồn lực của xã hội
Thứ ba, làm tổn hại phúc lợi xã hội
- là phân hoá người sản xuất; gây rối, phá hoại thị trường; cạnh tranh bằng
các thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm luật pháp để thu lợi cá nhân, gây tổn hại lợi
ích tập thể và xã hội.
III. VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG
1. Người sản xuất
Người sản xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã
hội để phục vụ tiêu dùng.
Người sản xuất là những người mua hoặc thuê các yếu tố đầu vào sản xuất
chủ yếu của các hộ gia đình để sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận. Nhiệm
vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội mà còn tạo ra
và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa
trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan tâm
đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các
yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
Ngoài mục tiêu lợi nhuận, người sản xuất phải có trách nhiệm cung cấp
những hàng hóa, dịch vụ không làm tổn hại tới sức khỏe và lợi ích của người
tiêu dùng và xã hội.
****************************************
Chương 3
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
a) Công thức chung của tư bản
Trước khi lĩnh hội định nghĩa của Kinh tế chính trị Mác – Lênin về Tư bản, chúng
ta tạm sử dụng định nghĩa sau về khái niệm tư bản để giúp hiểu được lý luận
giá trị thặng dư ngay từ đầu. Ta tạm định nghĩa như sau: Tư bản là một số vốn
tiền tệ (T) thuộc sở hữu tư nhân, đầu tư sản xuất kinh doanh để kiếm lời (m).
Trên thị trường, việc trao đổi mua bán thường nhằm hai mục đích. Thứ nhất, khi
việc trao đổi mua bán nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng (còn gọi là
lưu thông hàng hóa giản đơn), khi đó, tiền sẽ vận động theo công thức: H – T –
H. Công thức này cho thấy, tiền chỉ đóng vai trò là phương tiện trong lưu thông.
Hàng hóa mới là mục đích của việc lưu thông. Thứ hai, khi việc trao đổi mua
bán nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu kiếm lời, khi đó tiền sẽ vận động theo
công thức: T – H – T. Công thức này cho thấy, hàng hóa chỉ đóng vai trò là
phương tiện, tiền mới là mục đích của việc lưu thông. Vì số tiền thu về phải lớn
hơn số tiền đã ứng ra đầu tư sản xuất kinh doanh, nên công thức T – H – T có
hình thức biểu hiện là: T – H – T’ (T’ = T + m). T – H – T’ gọi là công thức chung
của tư bản.
m trong T’ = T + m của công thức chung gọi là giá trị thặng dư hay còn gọi là
tiền lời (theo định nghĩa tạm thời ở trên). Như vậy, khi tư nhân ứng tiền ra cho
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có được giá trị thặng dư, thì số
Như vậy người lao động phải bán sức lao động trong ngày với mức giá
≥197.000 đơn vị. Ta gọi 197.000 là giá trị tối thiểu của sức lao động của một
người lao động trong ngày. Đại lượng đó đặt trong những điều kiện bình thường
của thời gian lao động xã hội cần thiết cũng như giá cả hàng hóa tiêu dùng
bằng giá trị của nó.
Lượng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết bao gồm:
- Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức
lao động.
- Chi phí đào tạo.
- Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để nuôi con của
người lao động.
Giá trị sức lao động biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả sức lao động hay tiền
công.
Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động thoả mãn nhu cầu của người mua. Công
dụng của nó biểu hiện trong quá trình lao động. Quá trình lao động sản xuất ra
hàng hoá, sức lao động tạo ra một giá trị tăng thêm . Câu hỏi và câu trả lời sau
sẽ làm sáng tỏ thêm nhận định trên.
Hỏi: Tại sao chủ doanh nghiệp đồng ý trả công lao động cho A trong 8 giờ lao
động với số tiền 197.000 đơn vị?
Trả lời: Vì chủ doanh nghiệp biết rằng, A sẽ tạo ra một lượng giá trị (thuyết
phục được họ) lớn hơn 197.000 đơn vị.
Giả sử 150.000 đơn vị là lượng giá trị do A tạo ra cho chủ doanh nghiệp. Như
vậy: 197.000 đơn vị gọi là giá trị bản thân (v), 150.000 đơn vị gọi là giá trị tăng
thêm (m).
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 21
Như vậy: Hàng hoá sức lao động là nguồn gốc trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư,
là cơ sở để trả lời cho câu hỏi giá trị thặng dư từ đâu mà có?
c) Sự sản xuất giá trị thặng dư
Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất phải đạt đến một trình độ nhất định
về năng suất lao động. Ở đó, năng lực của người lao động có khả năng tạo ra
sản phẩm hàng hóa thặng dư. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống
nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.
Ví dụ chứng minh giá trị thặng dư
Một nhà tư bản ứng ra số vốn để sản xuất sợi như sau:
- Mua 10 kg bông: 10 đơn vị
- Hao mòn máy để chuyển 10 kg bông thành sợi: 2 đơn vị
- Thuê sức lao động trong 1 ngày (8 giờ): 4 đơn vị.
Tổng cộng: 16 đơn vị
Giả sử, để chuyển 10 kg bông thành sợi mất 4 giờ, và mỗi giờ, lao động trừu
tượng của công nhân làm tăng thêm giá trị là 0,5 đơn vị.
Vậy giá trị của sợi là:
- Giá trị của 10 kg bông: 10 đơn vị
- Giá trị hao mòn của máy: 2 đơn vị
- Giá cả sức lao động trong 4 giờ = 4 đơn vị/8giờ x 4 giờ = 2 đơn vị
- Giá trị tăng thêm của sức lao động trong 4 giờ = 0,5 x 4 = 2 đơn vị.
Tổng cộng: 16 đơn vị
Trong 4 giờ lao động còn lại, nhà tư bản ứng tiếp 10 đơn vị để mua bông và 2
đơn vị hao mòn máy, sẽ thu về lượng sợi tương ứng. Giá trị sợi lần sau cũng
bằng giá trị sợi lần đầu (16 đơn vị).
Tổng số tiền nhà tư bản ứng ra:
- Tiền mua bông: 20 đơn vị
- Hao mòn máy: 4 đơn vị
- Tiền lương công nhân: 4 đơn vị.
Tổng cộng: 28 đơn vị
Giá trị sợi: 16 x 2 = 32 đơn vị. Lượng giá trị tăng thêm 32 – 28 = 4 đơn vị.
4 đơn vị giá trị tăng thêm gọi là giá trị thặng dư (m)
Kết luận
TLSX
T–H … SX… H’ – T’
(1) SLĐ (2) (3)
Ba giai đoạn: (1) Lưu thông, (2) Sản xuất, (3) Lưu thông.
Ba hình thái: (1) Tư bản tiền tệ, (2) Tư bản sản xuất, (3) Tư bản hàng hóa.
Ba chức năng: (1) Mua, (2) Sản xuất, (3) Bán
Giai đoạn (1) vốn ứng ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.
Giai đoạn (2) tư liệu sản xuất và sức lao động được kết hợp để sản xuất ra
hàng hoá.
Giai đoạn (3) thực hiện giá trị hàng hoá, thu về vốn ứng ra và có được giá trị
thặng dư.
Chu chuyển của tư bản
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 24
Là sự tuần hoàn của tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường xuyên lặp đi
lặp lại và đổi mới theo thời gian.
Thời gian chu chuyển được tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi thu về dưới hình thái đó có kèm theo giá trị thặng dư.
Thời gian chu chuyển = thời gian của giai đoạn 2 + thời gian của giai đoạn 1 và
3.
Thực tế chu chuyển, nhà tư bản tìm cách rút ngắn giai đoạn 1 và 3 đồng thời
kéo dài giai đoạn 2. Kéo dài giai đoạn 2 cũng là làm cho quá trình sản xuất
diễn ra liên tục, thời gian gián đoạn của nó ngắn nhất có thể (khác với thời gian
để sản xuất ra một sản phẩm thì phải tìm cách rút ngắn).
Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số tốc
độ chu chuyển không giống nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng chu chuyển được thực hiện trong một
năm.
CH
n=
ch
Trong đó:
n: tốc độ chu chuyển của tư bản;
CH: thời gian 1 năm (12 tháng);
Ch: thời hạn chu chuyển của 1 loại tư bản.
n cho biết sự vận động nhanh hay chậm của tư bản ứng trước.
Tư bản cố định, tư bản lưu động
Căn cứ vào phương thức chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận tư bản để
tạo thành giá trị hàng hóa, tư bản sản xuất được phân chia thành tư bản cố
định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định (ký hiệu c1)
Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất. Bộ phận này được sử dụng
toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần
vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn. Dưới hình thái hiện vật, đó là các
máy móc, thiết bị, nhà xưởng… (những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng
lâu).
Ví dụ: 1 máy sản xuất trị giá 20.000 đơn vị, sử dụng trong 5 năm. Mỗi năm có 4
chu kỳ sản xuất, mỗi chu kỳ tạo ra 50 sản phẩn. Ta có:
+ Cấu tạo hữu cơ là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quyết định và
phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật.
+ Cấu tạo kỹ thuật: tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất với số lượng lao động
cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó.
+ Cấu tạo giá trị: tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư liệu sản xuất và sức lao động
để tiến hành sản xuất.
Ví dụ. Trộn 1 khối lượng bê tông trị giá 20 triệu đơn vị trong 6 giờ cần 10 người
với tổng tiền công (V) là 2,5 triệu đơn vị. Ta có:
- Cấu tạo kỹ thuật: 1 khối lượng bê tông cần 10 người (trong 6 giờ)
- Cấu tạo giá trị: c/v = 20 triệu /2,5 triệu = 8/1. 8/1 cũng là cấu tạo hữu cơ (1)
III. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giá trị thặng dư với tư cách là cơ sở tồn tại, phát triển của nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện ra thông qua các hình thức khác nhau, gắn
kết với nhau trong nền kinh tế thị trường như lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
1. Lợi nhuận
a) Chí phí sản xuất
Đối với nhà tư bản, quan trọng là phải thu hồi được giá trị tư bản đã ứng ra từ
giá trị hàng hóa đã được thực hiện, khái niệm chi phí sản xuất thể hiện điều đó.
Trong công thức giá trị hàng hóa, G = c + v + m thì đối với nhà tư bản, để sản
xuất ra hàng hóa họ cần chi phí để mua c và v. Chi phí đó gọi là chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là k.
k=c+v
k là chi phí về vốn tiền tệ mà nhà tư bản đã ứng ra để sản xuất một đơn vị hàng
hóa.
Lưu ý là bộ phận k = c + v có thể có sự khác nhau tương đối với bộ phận c + v
trong G = c + v + m. Ví dụ:
Hàng hóa X có giá cả = giá trị = 60c + 40v + 60m = 160 đơn vị. Có 3 nhà tư
bản A, B, C sản xuất X có k lần lượt như sau:
k(A) = 50c + 50v = 100, k(B) = 40c + 50v = 90, k(C) = 60c + 60v = 120.
Trên thực tế, khi sản xuất cùng một loại hàng hóa thì k của các nhà tư bản là
không giống nhau. Nhưng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo
yêu cầu của quy luật giá trị, cũng như để khái quát thành cái chung, nên ta giả
định k của A, B, C là bằng nhau.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 32
Vì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động, nên k là
một bộ phận thuộc tư bản ứng trước và luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước. Ví dụ:
Một tư bản có giá trị: c1= 40.000 đơn vị sử dụng trong 8 năm, (c 2 + v) 8.000 đơn
vị. Ta gọi: Tư bản ứng trước = 40.000 + 8.000 = 48.000 đơn vị.
k = (40.000/8) + 8.000 = 13.000 đơn vị.
Khi k xuất hiện thì công thức G = c + v + m có hình thức biểu hiện thành G = k
+ m.
k là căn cứ quan trọng để các nhà tư bản như A, B, C cạnh tranh về giá cả của
X.
b) Bản chất của lợi nhuận
Khi hàng hóa được bán với giá cả bằng giá trị, nhà tư bản thu về k và số chênh
lệch bằng m. Số chênh lệch này gọi là lợi nhuận (ký hiệu p).
Khi đó, G = k + p. Vậy p = G – k. Ta nói, lợi nhuận (p) = doanh thu (G) – chi phí
(k)
p là hình thái biểu hiện của m trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
G=c+v+m
G= k+ p
Với hình thức biểu hiện như vậy, người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch
giữa G bán được với k đã bỏ ra, mà không quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của
khoản chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư chuyển thành.
Dưới tác động của quy luật cung cầu và cạnh tranh, thì p có thể bằng, có thể
nhỏ hơn, có thể lớn hơn m. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội thì vì tổng giá
cả bằng tổng giá trị, nên tổng số lợi nhuận luôn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Để rõ hơn về p và m, ta có ví dụ sau:
Giá trị của hàng hóa X là 160 đơn vị. Trong đó k chiếm 80%. So sánh p và m
trong các trường hợp: giá cả = giá trị, giá cả > giá trị 20%, giá cả < giá trị 15%
Ta có: k = 160 x 0,8 = 128 đơn vị, m = 32 đơn vị
+ Khi giá cả = giá trị thì p = m = 32 đơn vị
+ Khi giá cả > giá trị 20% à giá cả = 192 đơn vị, p = 64 đơn vị (>m)
+ Khi giá cả < giá trị 15%,à giá cả = 136 đơn vị, p = 8 đơn vị (<m)
Ví dụ trên cho thấy:
Nhìn vào bảng ta thấy, nhà tư bản ngành cơ khí sẽ di chuyển một phần vốn
sang ngành da, làm thay đổi quan hệ cung - cầu và tỷ suất lợi nhuận của hai
ngành. Kết quả, hình thành tỷ suất ngang nhau gọi là tỷ suất lợi nhuận bình
quân ( P̄ ’)
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của các tỷ suất lợi nhuận.
Σp
'= x 100 %
Σ( c+ v )
Khi hình thành P̄ ’ thì lợi nhuận bình quân ( P̄ ) từng ngành được tính theo công
thức:
P̄ = P̄ ’ x K
Trong đó, K là tư bản ứng trước từng ngành.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào
các ngành khác nhau. Theo ví dụ trên thì P̄ = 30% x 100 = 30 đơn vị.
Khi hình thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả
sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận
bình quân.
GCSX = k + P̄
Tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân là một trong những căn cứ
quan trọng để các nhà tư bản xác định ngành nghề, đối tượng kinh doanh và
giá cả hàng hóa sao cho hiệu quả nhất.
*******************************************
Chương 4
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. CẠNH TRANH Ở CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Độc quyền, độc quyền nhà nước và tác động của độc quyền
a) Nguyên nhân hình thành độc quyền, độc quyền nhà nước
Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền
Tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập
trung sản xuất đến một mức độ nhất định sẽ dẫn tới độc quyền.
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc
quyền nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Nguyên nhân hình thành và tác động của độc quyền
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất
hiện các tổ chức độc quyền.
Sự xuất hiện các tổ chức độ quyền đánh dấu chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang giai đoạn phát triển mới cao hơn giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất
Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, buộc các doanh nghiệp phải
ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Muốn vậy,
doanh nghiệp phải có vốn lớn, nên phải đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn.
Cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật ứng dụng vào trong sản
xuất làm tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy, tích tụ và tập trung
sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của
các quy luật kinh tế thị trường ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế
của xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
II. LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC QUYỀN VÀ
ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1. Lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
a) Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Tích tụ và tập trung sản xuất cao, biểu hiện số lượng các xí nghiệp lớn chiếm
tỷ trọng nhỏ, nhưng nắm giữ các lĩnh vực sản xuất chủ yếu của nền kinh tế,
nắm số lượng công nhân lớn và sản xuất phần lớn tổng sản phẩm xã hội.
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao đã trực tiếp dẫn đến hình thành
các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do số lượng các doanh nghiệp lớn ít
nên có thể dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác, khuynh hướng thoả hiệp với
nhau để nắm lấy địa vị độc quyền.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các tổ chức độc quyền hình
thành theo liên kết ngang - liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành,
nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát
triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
Các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm:
III. BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN, ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG
ĐIỀU KIỆN NGÀY NAY; VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Biểu hiện mới của độc quyền
a) Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
Sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của
các xí nghiệp vừa và nhỏ. Những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời.
Đó là các Concern (Conson) và các Conglomerate (Công-gơ-lô-mê-rết).
Concern: Là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí
nghiệp có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều nước.
Conglomerate: Là sự kết hợp của hàng chục những hãng vừa và nhỏ không có
sự liên quan trực tiếp về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ yếu
của các Conglomerate là thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do: Thứ nhất, việc ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá
sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công. Thứ hai, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh là nhạy cảm đối với thay đổi trong sản
xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường; dễ đổi mới trang thiết
bị, kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung; có thể kết hợp nhiều loại hình
kỹ thuật để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện kết
cấu hạ tầng hạn chế, …
Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát
triển. Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các
nước này và sự ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, khiến
cho chỉ một doanh nghiệp lớn, cũng đủ sức mạnh chi phối việc sản xuất và tiêu
thụ của cả một ngành mới ra đời ở một nước đang phát triển
b) Biểu hiện về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi và những biểu
hiện mới, đó là:
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 48
Trong nền kinh tế đã xuất hiện và phát triển nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt
là các ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm ... ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn. Thích ứng với sự biến đổi đó, phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau
được mở rộng ra nhiều ngành, dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: công -
nông - thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc
phòng; ... Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp
hơn.
Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi. Cổ phiếu có mệnh
giá nhỏ được phát hành rộng rãi, khối lượng tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư có
thể mua được và trở thành các cổ đông nhỏ, ... kéo theo đó là "chế độ tham dự"
được bổ sung thêm bằng "chế độ uỷ nhiệm", nghĩa là những đại cổ đông được
"uỷ nhiệm" thay mặt cho đa số cổ đông có ít cổ phiếu quyết định phương
hướng hoạt động của công ty cổ phần.
Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới xâm nhập vào nền kinh tế
của các quốc gia khác, là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc
tế.
c) Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
- Hiện nay, xuất khẩu tư bản có những thay đổi lớn:
Thứ nhất, đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước phát triển
với nhau. Đó là do ở các nước này đã phát triển các ngành có hàm lượng khoa
học - kỹ thuật cao và hàm lượng vốn lớn, nên đầu tư vào đây thu được lợi
nhuận cao. Ở các nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng lạc hậu, tình hình
chính trị kém ổn định, nên đầu tư có phần rủi ro và tỷ suất lợi nhuận của tư bản
đầu tư không còn cao như trước đây. Thứ hai, vai trò của các công ty xuyên
quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước
đang phát triển. Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen
giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Thứ tư, sự áp đặt mang
tính chất thực dân đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư
được đề cao.
d) Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc
quyền
Xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu
hướng khu vực hoá nền kinh tế. Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các
công ty xuyên quốc gia tăng lên đã thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu
hoá kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời
thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế.
Thực hiện công bằng xã hội không chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu
nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo ra những điều kiện, tiền
đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: Giáo dục, y tế, việc làm... Nhà nước
vừa phải quan tâm đầu tư thỏa đáng vừa phải coi trọng huy động các nguồn lực
trong nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội và mỗi người.
Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với
bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường
hiện đại, văn minh. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều
yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.
II. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam
a) Thể chế và thể chế kinh tế
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 57
Thể chế là những quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm
điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội.
Thể chế kinh tế là hệ thống quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận
hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất
kinh doanh và các quan hệ kinh tế.
Các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế bao gồm: Hệ thống pháp luật về
kinh tế của nhà nước và các quy tắc xã hội được nhà nước thừa nhận; hệ thống
các chủ thể thực hiện các hoạt động kinh tế; các cơ chế, phương pháp, thủ tục
thực hiện các quy định và vận hành nền kinh tế.
b) Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là hệ thống đường lối, chủ
trương chiến lược,luật pháp, cơ chế, chính sách, các quy định, quy tắc, chế
định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình diễn ra trong nền kinh tế
nhằm tạo điều kiện cho sự hình thành, vận hành thông suốt và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thứ nhất, do thể chế còn chưa đồng bộ
Thứ hai, hệ thống thể chế chưa đầy đủ.
Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu các yếu tố thị
trường và các loại thị trường
2. Nội dung hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở VN
a) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp
Hoàn thiện thể chế về sở hữu cần thực hiện các nội dung sau:
Một là, thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản để quyền tài sản được giao dịch
thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài
sản.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai để huy động và sử dụng hiệu
quả đất đai, khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng phí.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, sử dụng có hiệu quả
các tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực
hiện mục tiêu chính sách xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử
dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại; dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
bao gồm:
Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến
của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở
các quốc gia phát triển sớm hay các quốc gia đi sau.
Hai là, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách
quan, một quy luật KT mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật
tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các
yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật
(công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí
hoá.
CNXH - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư
bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ
thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 70
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và Việt
Nam đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản
xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ.
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội lạc hậu
sang nền sản xuất - xã hội hiện đại. Cụ thể là:
- Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
- Sẳn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4
II- HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
a) Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện
gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích
đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan;
- Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
- Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
- Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
- Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
- Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
6.2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát
triển của Việt Nam
a) Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại
b) Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp
c) Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện
đầy đủ các cam kết của VN trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
d) Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
đ) Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
e) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ