You are on page 1of 73

Chương 1

ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC NĂNG CỦA


KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
I. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC - LÊNIN
Thuật ngữ khoa học Kinh tế chính trị (Political economy) xuất hiện vào đầu
thế kỷ thứ XVII, trong tác phẩm Chuyên luận về kinh tế chính trị của nhà kinh tế
người Pháp A.Montchretien, xuất bản năm 1615. Trong tác phẩm này, tác giả
đề xuất môn khoa học mới - khoa học kinh tế chính trị.
Tới thế kỷ XVIII, với sự xuất hiện lý luận của A.Smith, thì kinh tế chính trị trở
thành một môn học có tính hệ thống với các phạm trù, khái niệm chuyên
ngành. Kể từ đó, kinh tế chính trị dần trở thành một môn khoa học và được phát
triển cho đến ngày nay.
Chủ nghĩa trọng thương coi trọng vai trò của hoạt động thương mại là hệ
thống lý luận kinh tế chính trị đầu tiên nghiên cứu về nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Là cái đạt được Chủ nghĩa trọng nông là hệ thống lý luận kinh tế chính trị nhấn mạnh vai trò
sự chuẩn mực,
của sản xuất nông nghiệp, coi trọng sở hữu tư nhân và tự do kinh tế.
điển hình, đóng
vai trò cơ bản, Kinh tế chính trị cổ điển Anh, trình bày một cách hệ thống các phạm trù kinh
nền tảng cho
sự phát triển tế để rút ra những quy luật vận động của nền kinh tế thị trường
về sau
Từ sau thế kỷ XVIII đến nay, lịch sử tư tưởng kinh tế của nhân loại chứng
kiến các con đường phát triển đa dạng với các dòng lý thuyết kinh tế khác
nhau. Cụ thể:
Dòng lý thuyết kinh tế chính trị của C.Mác phân tích một cách khoa học,
toàn diện về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra những quy luật kinh tế chi
phối sự hình thành, phát triển và luận chứng vai trò lịch sử của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dòng lý thuyết kinh tế kế thừa những luận điểm mang tính khái quát tâm lý,
hành vi của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Dòng lý thuyết này phát triển
từ thế kỷ XIX cho đến ngày nay.
Trong giai đoạn từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, còn phải kể thêm dòng
lý thuyết kinh tế của các nhà tư tưởng XHCN không tưởng. Dòng lý thuyết này,
hướng vào phê phán những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, song nhìn chung
các quan điểm dựa trên cơ sở tình cảm cá nhân, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 1


nhân đạo, không chỉ ra được các quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị
trường, do đó không luận chứng được vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Trong lý luận của chủ nghĩa trọng thương, thì lĩnh vực lưu thông (trọng tâm là
ngoại thương) được coi là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị.
Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa trọng nông, thì lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp được coi là đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị.
Trong lý luận của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, thì đối tượng nghiên
cứu của kinh tế chính trị là bản chất và nguồn gốc của của cải và sự giàu có
của các quốc gia.
Quan niệm của A.Smith về đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị
Kinh tế chính trị là một ngành khoa học gắn với chính khách hay nhà lập
pháp. Nó hướng tới hai mục tiêu. Thứ nhất, tạo ra nguồn thu nhập dồi dào và
sinh kế phong phú cho người dân, hay chính xác hơn là tạo điều kiện để người
dân tự tạo ra thu nhập và sinh kế cho bản thân mình. Thứ hai, tạo ra khả năng
có được nguồn ngân sách đầy đủ cho nhà nước hay toàn bộ nhân dân để thực
hiện nhiệm vụ công. Kinh tế chính trị hướng tới làm cho cả người dân cũng như
quốc gia trở nên giàu có.
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là các quan hệ xã hội
giữa người với người trong sản xuất và trao đổi. Các quan hệ này được đặt
trong sự liên hệ với sự phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tương ứng (Chủ trương, đường lối, chiến lược, quan điểm của g/c thống
trị).
Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ giữa con người với con
người trong sản xuất và trao đổi, không nghiên cứu bản thân lực lượng sản
xuất.
Nhưng vì các quan hệ ấy chịu sự tác động, quy định bởi trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, cho nên, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan
hệ giữa con người với con người trong sản xuất và trao đổi trong mối liên hệ với
sự phát triển của trình độ lực lượng sản xuất.
Khi nghiên cứu quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất và trao
đổi, kinh tế chính trị Mác - Lênin đặt quan hệ ấy trong sự liên hệ với kiến trúc
thượng tầng.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 2


Một số trường phái tiêu biểu của kinh tế chính trị học
TT Trường phái Đóng góp tiêu biểu
Lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường, và lý luận về giá
1 KTCT cổ điển
trị, về phân phối
Phát triển đáng kể những lý luận về phân công lđ, và lý luận
về giá trị.
KTCT Mác - Giới thiệu LL về lđ thặng dư, giá trị thặng dư, quy luật giá trị
2
Lênin và các hình thái giá trị
Lý luận về phương tiện sản xuất, phương thức sản xuất,
LLSX
Phê phán quan niệm của * KTCT cổ điển về thỏa dụng,
**của KTCT Mác- Lênin về giá trị sử dụng
KTCT Tân cổ
3 Giới thiệu khái niệm về thỏa dụng biên
điển
Lý luận về sự lựa chọn trong ràng buộc, hàng hóa công
cộng, độc quyền, ảnh hưởng ngoại lai
Phê phán lý luận về sự tự điều chỉnh của thị trường của
trường phái tân cổ điển,
4 KTCT Keynes
Phát triển lý luận về tính bất ổn định của tái sản xuất và tăng
trưởng của KT TBCN
KTCT hiện Lựa chọn công và điều tiết công
5
đại

2. Mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Khám phá các quy luật kinh tế chi phối các quan hệ giữa người với người
trong sản xuất và trao đổi, từ đó vận dụng các quy luật ấy để giải quyết hài hòa
các quan hệ lợi ích, tạo động lực cho con người sáng tạo.
Không chỉ hướng đến việc thúc đẩy sự giàu có mà còn cung cấp cơ sở khoa
học góp phần thúc đẩy trình độ văn minh và phát triển xã hội.
Phân biệt quy luật kinh tế và chính sách kinh tế
Quy luật kinh tế tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con
người, con người không thể thủ tiêu quy luật kinh tế, nhưng có thể nhận thức và
vận dụng quy luật kinh tế để phục vụ lợi ích của mình.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 3


Chính sách kinh tế là sản phẩm chủ quan của con người, được hình thành
trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế. Chính sách kinh tế vì thế có thể phù
hợp, hoặc không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan.
Thế mạnh của kinh tế chính trị Mác - Lênin là phát hiện ra những nguyên lý
và quy luật trừu tượng chi phối các quan hệ giữa con người với con người trong
sản xuất và trao đổi, có tác động chiều sâu, bản chất, toàn diện, lâu dài. Thế
mạnh của các khoa học kinh tế khác là chỉ ra những hiện tượng và xu hướng
hoạt động kinh tế cụ thể trên bề mặt xã hội, có tác động trực tiếp, xử lý linh
hoạt các hoạt động kinh tế trên bề mặt xã hội.
Cách tiếp cận của kinh tế chính trị Mác - Lênin là lấy xã hội làm trung tâm,
xuất phát từ lợi ích xã hội để nghĩ về nhà nước. Trong khi đó, lấy quyền lực làm
nền tảng phân tích lại là phương pháp tiếp cận của kinh tế chính trị cổ điển. Do
coi quyền lực là vấn đề trung tâm của chính trị, nên họ cho rằng kinh tế chính
trị nghiên cứu cách thức đạt được quyền lực trong nền kinh tế. Hoặc, trường
phái kinh tế chính trị tân cổ điển và kinh tế chính trị Keynes lại chọn phương
pháp lấy nhà nước làm chủ đạo, xuất phát từ cách xác định chính trị là khoa
học về nhà nước, còn kinh tế hàm ý thị trường. Vì thế, họ cho rằng kinh tế chính
trị nghiên cứu cân bằng quyền lực giữa thị trường và nhà nước. Nhà nước tìm
cách kiểm soát nền kinh tế để đạt được những mục đích của mình. Kinh tế
chính trị hiện đại xuất phát từ quan điếm rằng, có một hệ thống “quyền” gắn
liền với thị trường, mà quan trọng nhất là quyền sờ hữu. Chính trị có thể xác
định và tác động tới các quyền đó. Vì thế, nhiệm vụ của kinh tế chính trị là
nghiên cứu cách thức chính trị tác động tới các hệ thống quyền lợi đó.
3. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Phương pháp luận duy vật biện chứng . Đây là phương pháp yêu cầu việc
nghiên cứu các khía cạnh thuộc đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị, phải
đặt trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và phát triển không ngừng. Áp
dụng phương pháp luận này giúp cho các kết quả nghiên cứu tránh rơi vào tình
trạng chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật kinh tế.
Phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, cho phép khám phá bản chất, các xu
hướng và quy luật kinh tế gắn với tiến trình hình thành, phát triển của chúng.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Đây là phương pháp nghiên cứu đặc
thù của kinh tế chính trị Mác – Lênin. Khi sử dụng phương pháp, này đòi hỏi tạm
thời gạt bỏ đi những yếu tố ngẫu nhiên, kém quan trọng xảy ra trong các hiện
tượng quá trình nghiên cứu, để từ đó tách ra được những hiện tượng bền vững,
mang tính điển hình, ổn định của đối tượng nghiên cứu.
III. CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 4


1. Chức năng nhận thức
Những tri thức của KTCT giúp khám phá và nhận thức một cách đúng đắn
lịch sử phát triển của sản xuất và phát triển của nhân loại nói chung, về nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên CNXH nói riêng. Những tri thức
của kinh tế chính trị, với tư cách là tri thức lý luận nền tảng, sẽ giúp nhận thức
sâu sắc về bản chất của các hiện tượng, quá trình kinh; phân tích làm rõ những
nguyên nhân sâu xa của sự giàu có của các quốc gia; khái quát những triển
vọng và xu hướng phát triển kinh tế xã hội.
Với ý nghĩa như vậy, những tri thức của kinh tế chính trị Mác - Lênin sẽ tạo
lập cơ sở khoa học, nền tảng lý luận, phương hướng cho sự hình thành các
chính sách kinh tế, định hướng chiến lược cho sự phát triển kinh tế. Trong
trường hợp Việt Nam, nếu các chính sách kinh tế được hoạch định mà không
dựa trên cơ sở tri thức lý luận của kinh tế chính trị Mác - Lênin sẽ khó có thể
mang lại hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội lâu dài.
2. Chức năng tư tưởng
Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần tạo lập nền tảng tư tưởng cộng sản
cho những người lao động tiến bộ và yêu chuộng tự do, hòa bình, củng cố niềm
tin cho những ai phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Kinh tế chính trị Mác - Lênin góp phần xây dựng thế giới
quan khoa học cho những ai có mong muốn xây dựng một chế độ xã hội tốt
đẹp.
3. Chức năng thực tiễn
Những tri thức của KTCT Mác – Lênin nếu được vận dụng khoa học sẽ giúp
kinh tế - xã hội phát triển, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội.
4. Chức năng phương pháp luận
Để hiểu được một cách sâu sắc bản chất, thấy được sự gắn kết giữa kinh tế
với chính trị và căn nguyên của sự dịch chuyển trình độ văn minh của xã hội thì
cần phải dựa trên cơ sở am hiểu nền tảng lý luận từ kinh tế chính trị. Kinh tế
chính trị Mác - Lênin thể hiện chức năng phương pháp luận, nền tảng lý luận
khoa học cho việc tiếp cận các khoa học kinh tế chuyên ngành.

Chương 2
HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA
THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 5


1. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA
a) Khái niệm sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó những người sản xuất ra
sản phẩm để trao đổi, mua bán trên thị trường Sx tự cung tự cấp …là để đáp
b) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa ứng nhu cầu của mình

Phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể
sản xuất.
Phân công lao động xã hội
Là sự phân chia lao động xã hội thành các ngành, lĩnh vực sản xuất khác
nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những người sản xuất thành những
ngành, nghề khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu, giữa những người sản xuất phải
trao đổi sản phẩm với nhau. Phân công lao động xã hội đóng vai trò là cơ sở
cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa.

Việc sx Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất
cái gì,
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất bắt đầu xuất hiện khi
cho ai,
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời. Sau này, do sự xuất hiện nhiều hình
ntn do
chủ tlsx thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất; sự tách biệt giữa quyền sở hữu và
quyết đ quyền sử dụng tư liệu sản xuất; sự xuất hiện của nhiều hình thức kinh tế cụ thể
khác nhau… nên sự tách biệt đó tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất đòi hỏi việc trao đổi
sản phẩm giữa họ với nhau phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, ngang giá, hai
bên đều có lợi; tức là trao đổi mang hình thái trao đổi hàng hóa.
2. Hàng hóa
a) Khái niệm và thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó
của con người thông qua trao đổi, mua bán. Sản phẩm của lao động chỉ mang
hình thái hàng hóa khi được trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa có thể
ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
Hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn
một nhu cầu nào đó của con người.
Giá trị sử dụng của hàng hóa do thuộc tính tự nhiên quy định. Việc phát hiện
và sử dụng những thuộc tính đó tùy thuộc vào năng lực của khoa học kỹ thuật
và lực lượng sản xuất.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 6


Để giá trị sử dụng đi vào tiêu dùng thì hàng hóa phải được trao đổi, mua bán.
Điều này đòi hỏi người sản xuất phải quan tâm, đáp ứng đúng nhu cầu, thị hiếu
của người tiêu dùng.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất đã hao phí để
sản xuất ra hàng hóa. Giá trị chỉ được biểu hiện thông qua giá trị trao đổi. Giá
trị trao đổi là một quan hệ về số lượng thể hiện tỷ lệ trao đổi giữa những giá trị
sử dụng khác nhau.
SLĐ à GIÁ TRỊ à GIÁ CẢ (sự biểu hiện = T của giá trị)
b) Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất hàng hóa có
tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những
nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối
tượng, công cụ, phương pháp và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử
dụng của hàng hoá.
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá chỉ xét
về mặt hao phí sức lao động của cơ bắp, thần kinh, trí óc. Đó là lao động
chung, đồng nhất của người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng tạo ra giá
trị của hàng hoá. Nó cũng là cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác
nhau.
Lao động cụ thể và lao động trừu tượng phản ánh tính chất tư nhân và tính
chất xã hội của một lao động thống nhất. Lao động cụ thể phản ánh tính chất
tư nhân bởi việc sản xuất cái gì, ở đâu, bao nhiêu, bằng công cụ nào… là việc
riêng của mỗi người. Ngược lại, lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội
bởi lao động của mỗi người là một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ
thống phân công lao động xã hội. Việc trao đổi hàng hóa phải quy về lao động
trừu tượng.
Mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng xuất hiện khi một số
hàng hóa không bán được hoặc bán thấp hơn mức hao phí lao động đã bỏ ra,
không đủ bù đắp chi phí. Đây là mầm mống của khủng hoảng thừa.
c) Lượng giá trị của hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị
của hàng hóa
Lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để sản xuất ra hàng
hóa đó quyết định. Nó được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 7


Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
hàng hóa với trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình
trong những điều kiện bình thường của xã hội. Như vậy, thời gian lao động cá
biệt của người sản xuất phải ≤ thời gian lao động xã hội cần thiết.
Cấu thành lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa (G) được sản xuất ra bao
gồm hao phí lao động quá khứ (c)+ hao phí lao động mới kết tinh thêm (v + m)
G=c+v+m
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Thứ nhất, năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của
người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn
vị thời gian, hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một sản phẩm. Tăng
năng suất lao động là tăng năng lực sản xuất của người lao động.
Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa.
Năng suất lao động chịu ảnh hưởng của các yếu tố khoa học kỹ thuật, công
cụ, phương tiện lao động, trình độ người lao động, trình độ tổ chức quản lý sản
xuất…
Cần phân biệt thêm mối quan hệ giữa tăng cường độ lao động với lượng giá
trị một đơn vị hàng hóa
Cường độ lao động nói lên mức độ lao động khẩn trương, tích cực trong quá
trình lao động. Tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài ngày lao động.
Khi cường độ lao động tăng thì khối lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên nhưng
đồng thời tăng tương ứng hao phí lao động. Vì vậy, hao phí lao động để làm ra
một sản phẩm không đổi.
Cường độ lao động cũng phụ thuộc vào: Trình độ tổ chức quản lý, thể chất,
tinh thần, tay nghề của người lao động.
Thứ hai, tính chất phức tạp của lao động.
Lao động giản đơn là lao động không cần quá trình đào tạo một cách hệ
thống, chuyên sâu. Người lao động nào cũng có thể thao tác được. Ngược lại là
lao động phức tạp.
Trong cùng một đơn vị thời gian, một lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị
hơn một lao động giản đơn.
3. Tiền tệ
a) Nguồn gốc và bản chất của tiền

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 8


Tiền là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sản
phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, mà hình thái phát
triển cao nhất là tiền tệ.
Trong lịch sử, khi sản xuất chưa phát triển, việc trao đổi hàng hóa lúc đầu
chỉ mang tính đơn lẻ, ngẫu nhiên, trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng (H - H). Ví dụ
1 hàng hóa A = 5 hàng hóa B. Đây là hình thái sơ khai, được gọi là hình thái
giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị.
Khi sản xuất phát triển, trao đổi được mở rộng và trở nên thường xuyên hơn,
một hàng hóa có thể được đem trao đổi với nhiều hàng hóa khác nhau, làm
xuất hiện hình thái mở rộng của giá trị. Ví dụ:

Trao đổi được mở rộng song không phải khi nào cũng dễ dàng thực hiện. Có
những người phải trao đổi nhiều lần, thông qua nhiều hàng hóa trung gian khác
nhau mới có được hàng hóa mình cần. Hàng hóa trung gian đó phải là hàng
hóa mà mọi người đều thích, cần và dễ chấp nhận. Từ đó hình thái chung của
giá trị xuất hiện. Ví dụ:
= 1 hh X

Trong lịch sử, đã có rất nhiều hàng hóa khác nhau “thử nghiệm” đóng vai trò
vật ngang giá chung. Khi vàng độc chiếm vai trò là vật ngang giá chung, hình
thái tiền tệ chính thức ra đời.
Như vậy, tiền là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá
chung cho các hàng hóa; tiền thể hiện lao động xã hội và quan hệ kinh tế giữa
những người sản xuất hàng hóa.
b) Chức năng của tiền
Thước đo giá trị. Tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của tất cả các
hàng hóa khác nhau. Lúc này, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một số
lượng tiền nhất định gọi là giá cả hàng hóa.
Phương tiện lưu thông. Tiền được dùng làm môi giới cho quá trình trao đổi
hàng hóa. Khi tiền xuất hiện, việc trao đổi hàng hóa không phải tiến hành trực
tiếp hàng lấy hàng (H – H) mà thông qua tiền làm môi giới (H – T – H). Để phục
vụ lưu thông hàng hóa, tiền giấy ra đời và sau này là các loại tiền khác nhau.
Tiền giấy chỉ là ký hiệu giá trị, bản thân chúng không có giá trị thực nên nhà
nước phải in và phát hành số lượng tiền giấy theo yêu cầu của quy luật lưu
thông tiền tệ.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 9
Phương tiện cất trữ. Tiền được rút ra khỏi lưu thông, đi vào cất trữ dưới hình
thái vàng, bạc… và sẵn sàng tham gia lưu thông khi cần thiết.
Phương tiện thanh toán. Tức là dùng tiền để chi trả sau khi công việc giao
dịch mua bán đã hoàn thành, như trả tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế…
Chức năng phương tiện thanh toán của tiền gắn liền với chế độ tín dụng thương
mại.
Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới, giữa các
nước thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Lúc này tiền được dùng làm
phương tiện mua bán, thanh toán quốc tế giữa các nước với nhau.
4. Dịch vụ và quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng
hóa thông thường ở điều kiện ngày nay
a) Dịch vụ
Trong các nền kinh tế hiện đại, bên cạnh những hàng hóa vật thể hữu hình
còn có những hàng hóa phi vật thể, vô hình, được trao đổi, mua bán trên thị
trường. Những loại hàng hóa này được gọi là hàng hóa dịch vụ.
Về cơ bản, dịch vụ là các hoạt động lao động của con người để làm ra các
sản phẩm vô hình nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Dịch vụ được
coi là hàng hóa đặc biệt vì hàng hóa vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng
thường diễn ra đồng thời; không thể tích lũy lại hay lưu trữ.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất và tiêu dùng, dịch vụ
cũng ngày càng đa dạng, phong phú và đóng vai trò quan trọng đối với đời
sống xã hội hiện đại. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực dịch vụ và những
hàng hóa khác làm cho quy mô và cơ cấu hàng hóa, dịch vụ tăng lên, nhu cầu
của xã hội và dân cư được thỏa mãn ngày càng tốt hơn.
b) Quan hệ trao đổi trong trường hợp một số yếu tố khác hàng hóa thông
thường ở điều kiện ngày nay
Quan hệ trong trường hợp trao đổi quyền sử dụng đất đai
Đất đai trong tự nhiên không phải là sản phẩm của lao động nên không có
giá trị. Sở dĩ đất đai không có giá trị song vẫn là đối tượng trao đổi, mua bán vì
nó có khả năng đem lại thu nhập (hoặc lợi ích) cho người sở hữu chúng. Những
người trao đổi mua bán đất đai thực chất là trao đổi mua bán quyền sử dụng
đất.
Giá cả đất đai phụ thuộc vào thu nhập (hoặc lợi ích) mà đất đai đưa lại. Khi
đất đai được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp hoặc lâm nghiệp, thường có
giá cả thấp hơn so với cũng đất đai đó được sử dụng để phát triển nhà ở hoặc
kinh doanh dịch vụ, thương mại. Giá cả đất đai còn mang tính địa điểm, thời
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 10
điểm và tính địa phương rất cao. Trên phạm vi toàn xã hội, không thể có một
xã hội giàu có nếu chỉ mua bán quyền sử dụng đất.
Quan hệ trong trao đổi thương hiệu (danh tiếng)
Thương hiệu gồm tên, logo, khẩu hiệu, và/hoặc kiểu dáng thiết kế gắn liền
với sản phẩm dịch vụ, phân biệt với đối thủ trong cảm nhận của khách hàng.
Danh tiếng cá nhân là kết quả của sự cộng hưởng của các yếu tố thuộc về
chuyên môn (nổi trội, sức ảnh hưởng), giao tiếp, phong cách, ngoại hình và các
yếu tố khác (Logo, website, sự công nhận, ảnh chụp, nhận diện trực tuyến; kết
quả tìm kiếm, v.v…)
Quan hệ trong trao đổi, mua bán chứng khoán, chứng quyền và một số giấy
tờ có giá
Chứng khoán là các loại giấy tờ có thể xác định giá trị, giá cả được các công
ty, doanh nghiệp cổ phần phát hành. Chứng quyền do các công ty chứng
khoán chứng nhận và một số giấy tờ có giá (ngân phiếu, thương phiếu) cũng
được trao đổi mua bán.
Để mua bán được chứng khoán, chứng quyền và một số giấy tờ có giá đó
phải dựa trên cơ sở tồn tại của một tổ chức sản xuất kinh doanh có thực. Bản
thân chứng khoán, chứng quyền có tính chất hàng hóa (vì được trao đổi mua
bán) nhưng không phải là hàng hóa như các hàng hóa thông thường.
II. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ
TRƯỜNG
1. Khái niệm, phân loại và vai trò của thị trường
a) Khái niệm và phân loại thị trường
Theo nghĩa hẹp, thị trường là phạm trù phản ánh hành vi trao đổi, mua bán
hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
Theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao
đổi, mua bán hàng hóa trong xã hội. Theo nghĩa này, thị trường là tổng thể các
mối quan hệ kinh tế gồm cung, cầu, giá cả; quan hệ hàng - tiền; quan hệ giá
trị, giá trị sử dụng; quan hệ hợp tác, cạnh tranh; quan hệ trong nước, ngoài
nước… Cùng với đó là các yếu tố kinh tế như nhu cầu; người bán; tiền - hàng;
dịch vụ mua bán… Tất các quan hệ và yếu tố kinh tế này được vận động theo
quy luật của thị trường.
Có nhiều cách tiếp cận thị trường khác nhau tuỳ theo tiêu thức hoặc mục
đích nghiên cứu.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 11


Căn cứ vào đối tượng hàng hóa đưa ra trao đổi, mua bán: thị trường tư liệu
sản xuất và thị trường tư liệu tiêu dùng.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động: thị trường trong nước (thị trường dân tộc) và
thị trường thế giới.
Căn cứ vào đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất: thị trường các yếu tố
đầu vào và thị trường hàng hóa đầu ra.
Căn cứ vào tính chất và cơ chế vận hành của thị trường: thị trường tự do, thị
trường có điều tiết, thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo.
Để tổ chức có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi phải hiểu rõ
về bản chất hệ thống thị trường, những quy luật kinh tế cơ bản của thị trường
và các vấn đề liên quan đến thị trường.
b) Vai trò của thị trường
- Thị trường thực hiện giá trị hàng hóa, là điều kiện, môi trường cho sản xuất
phát triển
- Kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên, tạo ra cách thức phân bổ nguồn
lực hiệu quả
- Gắn kết các hoạt động kinh tế thành chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc
gia với nền kinh tế thế giới.
Bàn tay vô hình là cơ chế thị trường,
Cơ chế thị trường các quy luật KT, các mối hệ KTTT…

Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ mang tính tự điều chỉnh tuân theo
yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Trong cơ chế thị trường người tiêu dùng và các doanh nghiệp tác động lẫn
nhau qua thị trường để xác định 3 vấn đề sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai.
Dấu hiệu đặc trưng: Cơ chế hình thành giá cả một cách tự do.
2. Nền kinh tế thị trường và một số quy luật chủ yếu của nền kinh tế thị
trường
a) Nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu. Các
chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật
Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực
thông qua hoạt động của các thị trường bộ phận.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 12
Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là
môi trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Nhà nước là
chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các quan hệ kinh tế.
Thứ tư, là nền kinh tế mở, thị trường trong nước quan hệ mật thiết với thị
trường quốc tế
Ưu thế của nền kinh tế thị trường
Một là, luôn tạo ra động lực cho sự sáng tạo của các chủ thể kinh tế.
Hai là, phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền, lợi thế
của mỗi quốc gia.
Ba là, tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu, từ đó thúc đẩy
tiến bộ, văn minh xã hội
Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Một là, luôn tiềm ẩn những rủi ro, khủng hoảng
- Hai là, không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái
tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
- Ba là, không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa xã hội sâu sắc
Do những khuyết tật của kinh tế thị trường, nên trong thực tế, không tồn tại
một nền kinh tế thị trường thuần túy, mà thường có sự can thiệp của nhà nước
để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường. Khi đó, kinh tế được gọi là
kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước hay nền kinh tế hỗn hợp.
b) Một số quy luật kinh tế chủ yếu của nền kinh tế thị trường
Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá.
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến
hành trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
Cụ thể:
- Trong sản xuất quy luật giá trị yêu cầu hao phí lao động cá biệt ≤ hao phí
lao động xã hội cần thiết.
Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị
xã hội làm cơ sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
Quy luật giá trị hoạt động và phát huy tác dụng thông qua sự vận động của
giá cả dưới sự tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả thị trường lên xuống
xoay quanh giá trị hàng hóa trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 13


Quy luật giá trị có những tác động cơ bản sau:
Thứ nhất, điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động
Thứ ba, phân hoá người sản xuất thành giàu, nghèo một cách tự nhiên.
Tóm lại, quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái lạc hậu, lỗi thời, kích
thích sự tiến bộ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ; lựa chọn,
đánh giá người sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất; vừa có
những tác động tiêu cực nên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế tiêu
cực, thúc đẩy tác động tích cực.
Quy luật cung - cầu
Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung và cầu
hàng hóa trên thị trường.
Trên thị trường, cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên
tác động lẫn nhau theo hướng cầu xác định cung và ngược lại cung thúc đẩy,
kích thích cầu.
Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự
tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau.
Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá;
làm biến đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường. Căn
cứ quan hệ cung - cầu, có thể dự đoán xu thế biến động của giá cả; khi giá cả
thay đổi, cần đưa ra các chính sách điều tiết giá cho phù hợp nhu cầu thị
trường...
Quy luật lưu thông tiền tệ
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ căn cứ trên yêu
cầu của lưu thông hàng hóa và dịch vụ, cần phải đưa vào lưu thông một khối
lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hoá được xác
định theo quy luật lưu thông tiền tệ.
M = (PxQ) / V
Trong đó M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời kỳ nhất
định; P là mức giá cả; Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông; V là
số vòng lưu thông của đồng tiền.
Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá
cả hàng hóa và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông của tiền tệ.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 14


Khi thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ biến thì số lượng tiền cần
thiết cho lưu thông được xác định như sau:

Trong đó P.Q là tổng giá cả hàng hóa; G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau; G3 là tổng giá cả hàng hóa đến
kỳ thanh toán; V là số vòng quay trung bình của tiền tệ.
Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá
quyết định. Số lượng tiền được phát hành và đưa vào lưu thông phụ thuộc vào
khối lượng hàng hóa đưa ra thị trường.
Quy luật canh tranh
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những chủ thể trong
sản xuất kinh doanh nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất,
tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để thu nhiều lợi ích nhất cho mình. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt, quyết
liệt hơn.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa xí nghiệp trong cùng một
ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa nhằm mục đích giành ưu thế trong
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động.
Kết quả cạnh tranh dẫn đến hình thành giá trị thị trường của hàng hóa (hay
giá trị xã hội của hàng hóa), làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một
ngành thay đổi, giá trị xã hội của hàng hóa giảm xuống, chất lượng hàng hóa
nâng cao, chủng loại hàng hóa phong phú.
Cạnh tranh giữa các ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp kinh doanh
trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác
Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xác định trên 4 nhóm
yếu tố sau:
- Chất lượng, khả năng cung ứng, mức độ chuyên môn hóa đầu vào
- Các ngành sản xuất và dịch vụ trợ giúp cho doanh nghiệp
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 15
- Yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ
- Vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh
Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Mặt tích cực
Thứ nhất, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất.
Thứ hai, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường
Thứ ba, cạnh tranh tạo ra cơ chế điều chỉnh linh hoạt trong việc phân bổ các
nguồn lực.
Thứ tư, Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội
Mặt tiêu cực
Khi cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến các tác động (đòi hỏi nhà nước
phải có biện pháp để hạn chế, ngăn chặn mặt trái của cạnh tranh):
Thứ nhất, gây tổn hại đến môi trường kinh doanh
Thứ hai, gây lãng phí nguồn lực của xã hội
Thứ ba, làm tổn hại phúc lợi xã hội
- là phân hoá người sản xuất; gây rối, phá hoại thị trường; cạnh tranh bằng
các thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm luật pháp để thu lợi cá nhân, gây tổn hại lợi
ích tập thể và xã hội.
III. VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG
1. Người sản xuất
Người sản xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ... Họ là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho xã
hội để phục vụ tiêu dùng.
Người sản xuất là những người mua hoặc thuê các yếu tố đầu vào sản xuất
chủ yếu của các hộ gia đình để sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận. Nhiệm
vụ của họ không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu hiện tại của xã hội mà còn tạo ra
và phục vụ cho những nhu cầu trong tương lai với mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa
trong điều kiện nguồn lực có hạn. Vì vậy, người sản xuất luôn phải quan tâm
đến việc lựa chọn sản xuất hàng hóa nào, số lượng bao nhiêu, sản xuất với các
yếu tố nào sao cho có lợi nhất.
Ngoài mục tiêu lợi nhuận, người sản xuất phải có trách nhiệm cung cấp
những hàng hóa, dịch vụ không làm tổn hại tới sức khỏe và lợi ích của người
tiêu dùng và xã hội.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 16


2. Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Người
tiêu dùng bao gồm tất cả các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức xã hội, nhà
nước, người nước ngoài... Chi tiêu của người tiêu dùng đại diện cho nhu cầu đối
với các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Thông qua hành vi mua sắm, người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến giá cả
thị trường của hàng hóa, dịch vụ. Ngoài việc thỏa mãn chu cầu của mình,
người tiêu dùng cần có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
3. Các chủ thể trung gian
Chủ thể trung gian là những cá nhân, tổ chức đảm nhiệm vai trò cầu nối giữa
các chủ thể sản xuất, tiêu dùng. Các chủ thể trung gian tuy không trực tiếp tạo
ra sản phẩm hàng hóa và giá trị, song hoạt động của họ làm cho khối lượng
hàng hóa lưu thông trên thị trường tăng lên; giao lưu giữa các vùng, các khu
vực và giữa các nước được đẩy mạnh; từ đó góp phần thúc đẩy sản xuất và
kinh tế phát triển.
4. Nhà nước
Trên thị trường, nhà nước vừa là người tiêu dùng lớn; vừa là nhà sản xuất và
cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng cho cá nhân và xã hội như dịch vụ
quốc phòng, y tế, giáo dục, giao thông vận tải, thông tin liên lạc… Mục tiêu hoạt
động của nhà nước là lợi ích chung của toàn xã hội, bao gồm cả lợi ích khác
như chính trị, quốc phòng, an ninh, giáo dục... Vai trò quan trọng nhất của nhà
nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các công cụ, chính sách.
Tại sao Nhà nước phải can thiệp vào thị trường?
Để bảo hộ quyền sở hữu (là quyền con người cơ bản nhất) là nền tảng cần
thiết cho tiến bộ kinh tế và thịnh vượng
Để thúc đẩy dân chủ trong kinh tế. Hạn chế các tổ hợp độc quyền kinh tế lớn
và hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để cải thiện công bằng kinh tế - xã hội: Bảo vệ quyền lợi của người lao
động, các doanh nghiệp nhỏ; Tăng cường phúc lợi cho các đối tượng bị thiệt
thòi, các nhóm người nghèo; Giảm khoảng cách thu nhập giữa các vùng; Giảm
thiểu tác động phân cực giàu nghèo và sự ly gián giữa dân cư đô thị và phi đô
thị về mặt cơ hội kinh tế.
Nhằm tối thiểu hóa phần phúc lợi bị mất do thất bại của thị trường
Cung cấp hàng hóa công cộng, có tính chất không cạnh tranh và không loại trừ
(các kiến thức khoa học căn bản được tổng hợp từ nghiên cứu học thuật); Khắc
phục các ngoại ứng tiêu cực: ô nhiễm, tắc nghẽn giao thông, môi trường xuống
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 17
cấp (qua việc đánh thuế chống ô nhiễm đối với xe hơi, phí gây ùn tắc, ...); Khắc
phục tình trạng thông tin không hoàn hảo (bảo vệ người tiêu dùng, giới hạn
giấy phép kinh doanh, cấp chứng nhận cho người bán đạt tiêu chuẩn, ...); Điều
tiết sức mạnh độc quyền: điều tiết giá cả hoặc trực tiếp tham gia sản xuất
thông qua các công ty nhà nước để ngăn ngừa người bán áp đặt mức giá độc
quyền các mặt hàng điện, nước, ...); Tái phân phối thu nhập và của cải thông
qua thuế thu nhập và bảo hiểm.
Tóm lại, trong nền kinh tế, mọi hoạt động của các chủ thể đều chịu sự tác
động của các quy luật kinh tế khách quan của thị trường; đồng thời chịu sự điều
tiết, can thiệp của nhà nước qua việc thực hiện hệ thống pháp luật và các chính
sách kinh tế.
Đọc thêm: Kinh tế thị trường tự do - tiêu chí đánh giá trên thế giới
Để đánh giá mức độ phát triển kinh tế thị trường, các nhà nghiên cứu về cơ bản sử dụng
hai nhóm yếu tố chủ yếu, đó là chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedom - EF) và mức độ can
thiệp của chính phủ.
Hiện nay, để đo lường mức độ tự do thị trường hiện đại, chỉ số EF là thước đo được sử
dụng rộng rãi. Về nguyên tắc, bộ chỉ số này được xây dựng trên cơ sở: Tự do kinh tế là quyền
cơ bản của mỗi con người trong việc kiểm soát sức lao động và tài sản của mình. Trong một
xã hội tự do về kinh tế, các cá nhân được tự do làm việc, sản xuất, tiêu dùng và đầu tư theo
bất kỳ cách nào họ muốn. Trong xã hội tự do về kinh tế, chính phủ cho phép lao động, vốn và
hàng hóa di chuyển tự do và không ép buộc hoặc hạn chế quyền tự do vượt quá mức cần thiết
để bảo vệ và duy trì quyền tự do. Điều này cũng bao gồm các hành động can thiệp nhằm bảo
vệ tính tự do kinh tế, ví dụ như các quy chuẩn chất lượng được ban hành, giải quyết vấn đề
bất đối xứng, cung cấp các loại hàng hóa công...
Chỉ số EF do Quỹ Di sản (Heritage Foundation) công bố và Chỉ số EF của thế giới và của
Bắc Mỹ do Viện Fraser (The Fraser Institute) công bố và đo lường. Các chỉ số này bao gồm
các mục như bảo đảm quyền tài sản, gánh nặng các quy định và độ mở của thị trường tài
chính, cùng nhiều mục khác. Chỉ số này đo lường căn cứ trên 4 trụ cột lớn với 12 tiêu chí
quan trọng:
1- Pháp quyền (Rule of Law): Bảo vệ con người và tài sản của họ có được một cách hợp
pháp là yếu tố trung tâm. Đây là chức năng quan trọng nhất của Nhà nước, bao gồm các tiêu
chí: Quyền sở hữu; hiệu quả tư pháp; chính phủ liêm chính.
2- Quy mô của chính phủ: Khi chi tiêu của chính phủ, thuế và quy mô của các doanh
nghiệp do chính phủ kiểm soát tăng lên, việc ra quyết định của chính phủ thay thế cho sự lựa
chọn của cá nhân và tự do kinh tế bị giảm đi. Ngược lại, nếu các thất bại không được can
thiệp đúng lúc, sự tự do trong thị trường chịu những thiệt hại đáng kể. Quy mô của chính phủ
gồm các tiêu chí: Gánh nặng thuế; chi tiêu chính phủ; “Sức khỏe” tài khóa.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 18


3- Hiệu quả của các quy định: Các chính phủ không chỉ sử dụng các công cụ để hạn chế
quyền trao đổi quốc tế, họ còn có thể phát triển các quy định hạn chế quyền trao đổi, nhận tín
dụng, thuê hoặc tự do điều hành doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trụ cột này gồm các tiêu chí:
Quyền tự do kinh doanh; tự do lao động; tự do tiền tệ.
4- Thị trường mở: Quyền tự do trao đổi - theo nghĩa rộng nhất của nó, mua, bán, lập hợp
đồng,... là điều cần thiết đối với tự do kinh tế, điều này bị giảm bớt khi quyền tự do trao đổi
không bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân ở các quốc gia khác. Trụ cột thị trường mở gồm
các tiêu chí: Tự do thương mại; tự do đầu tư; tự do tài chính.
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tieu-chi-ve-nen-kinh-te-thi-
truong-day-du-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc-te-nhung-van-de-dat-ra-cho-viet-nam-trong-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-di

****************************************
Chương 3
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. LÝ LUẬN CỦA C. MÁC VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
a) Công thức chung của tư bản
Trước khi lĩnh hội định nghĩa của Kinh tế chính trị Mác – Lênin về Tư bản, chúng
ta tạm sử dụng định nghĩa sau về khái niệm tư bản để giúp hiểu được lý luận
giá trị thặng dư ngay từ đầu. Ta tạm định nghĩa như sau: Tư bản là một số vốn
tiền tệ (T) thuộc sở hữu tư nhân, đầu tư sản xuất kinh doanh để kiếm lời (m).
Trên thị trường, việc trao đổi mua bán thường nhằm hai mục đích. Thứ nhất, khi
việc trao đổi mua bán nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng (còn gọi là
lưu thông hàng hóa giản đơn), khi đó, tiền sẽ vận động theo công thức: H – T –
H. Công thức này cho thấy, tiền chỉ đóng vai trò là phương tiện trong lưu thông.
Hàng hóa mới là mục đích của việc lưu thông. Thứ hai, khi việc trao đổi mua
bán nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu kiếm lời, khi đó tiền sẽ vận động theo
công thức: T – H – T. Công thức này cho thấy, hàng hóa chỉ đóng vai trò là
phương tiện, tiền mới là mục đích của việc lưu thông. Vì số tiền thu về phải lớn
hơn số tiền đã ứng ra đầu tư sản xuất kinh doanh, nên công thức T – H – T có
hình thức biểu hiện là: T – H – T’ (T’ = T + m). T – H – T’ gọi là công thức chung
của tư bản.
m trong T’ = T + m của công thức chung gọi là giá trị thặng dư hay còn gọi là
tiền lời (theo định nghĩa tạm thời ở trên). Như vậy, khi tư nhân ứng tiền ra cho
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có được giá trị thặng dư, thì số

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 19


tiền đó gọi là tư bản. Chính vì vậy Kinh tế chính trị Mác – Lênin định nghĩa tư
bản là giá trị (T) mang lại giá trị thặng dư (m)
Lưu ý: công thức T – H – T’ không được hiểu là hoạt động mua đi bán lại hàng
hóa, mà phải hiểu đúng như sau: Nhà tư bản ứng tiền ra (T) để mua hàng hóa,
gồm tư liệu sản xuất (c) và sức lao động (v). Sau đó, nhà tư bản đưa các yếu tố
này vào sản xuất để tạo ra sản phẩm là hàng hóa và đưa hàng hóa lưu thông
trên thị trường để thực hiện giá trị của nó nhằm thu về T và m. Do vậy, trong
thực tế, công thức T – H – T’ có hình thức biểu hiện chi tiết là:
T – H (c + v) …sản xuất… H’ – T’ (T’ = T + m)
Vậy, giá trị thặng dư do đâu mà có?
Như đã biết, lượng giá trị hàng hóa bao gồm hao phí lao động quá khứ và hao
phí lao động mới.
+ Hao phí lao động quá khứ chính là giá trị những tư liệu sản xuất được dùng
để sản xuất hàng hóa - ký hiệu c.
+ Hao phí lao động mới chính là giá trị sức lao động (v) và giá trị thặng dư (m)
Quy luật giá trị đã chứng minh giá trị hàng hóa là do hao phí sức lao động của
người sản xuất (còn gọi là lao động trừu tượng) tạo ra. Nó được đo bằng thời
gian lao động xã hội cần thiết. Vậy, cả 3 bộ phận c, v, m đều là thành quả của
sức lao động.
Nếu gọi G là giá trị hàng hóa thì G = c + v + m.
Nội dung hàng hóa sức lao động sẽ làm sáng tỏ nhận định giá trị sức lao động
(v) tạo ra giá giá trị thặng dư (m).
b) Hàng hóa sức lao động
Sức lao động là toàn bộ những năng lực tồn tại trong một con người được người
đó sử dụng vào sản xuất. Sức lao động trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:
+ Người lao động là người tự do.
+ Người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự tổ chức sản
xuất, nên họ phải bán sức lao động.
Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Giá trị của hàng hoá sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra hàng hoá sức lao động quyết định. Nó được tính bằng
giá trị các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 20


Ví dụ: những chi phí cần thiết cho người lao động A trong một ngày (trong điều
kiện bình thường của xã hội):
Ăn: 65.000 đơn vị Y tế: 10.000 đv
Mặc: 10.000 đv Nghĩa vụ gia 40.000 đv
đình:
Ở: 25.000 đv Nghĩa vụ xã hội: 2.000 đv
Đi lại: 20.000 đv Chi phí khác: 15.000 đv
Học tập: 10.000 đv Tổng cộng 197.000 đv

Như vậy người lao động phải bán sức lao động trong ngày với mức giá
≥197.000 đơn vị. Ta gọi 197.000 là giá trị tối thiểu của sức lao động của một
người lao động trong ngày. Đại lượng đó đặt trong những điều kiện bình thường
của thời gian lao động xã hội cần thiết cũng như giá cả hàng hóa tiêu dùng
bằng giá trị của nó.
Lượng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết bao gồm:
- Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức
lao động.
- Chi phí đào tạo.
- Giá trị các tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để nuôi con của
người lao động.
Giá trị sức lao động biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả sức lao động hay tiền
công.
Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động thoả mãn nhu cầu của người mua. Công
dụng của nó biểu hiện trong quá trình lao động. Quá trình lao động sản xuất ra
hàng hoá, sức lao động tạo ra một giá trị tăng thêm . Câu hỏi và câu trả lời sau
sẽ làm sáng tỏ thêm nhận định trên.
Hỏi: Tại sao chủ doanh nghiệp đồng ý trả công lao động cho A trong 8 giờ lao
động với số tiền 197.000 đơn vị?
Trả lời: Vì chủ doanh nghiệp biết rằng, A sẽ tạo ra một lượng giá trị (thuyết
phục được họ) lớn hơn 197.000 đơn vị.
Giả sử 150.000 đơn vị là lượng giá trị do A tạo ra cho chủ doanh nghiệp. Như
vậy: 197.000 đơn vị gọi là giá trị bản thân (v), 150.000 đơn vị gọi là giá trị tăng
thêm (m).
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 21
Như vậy: Hàng hoá sức lao động là nguồn gốc trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư,
là cơ sở để trả lời cho câu hỏi giá trị thặng dư từ đâu mà có?
c) Sự sản xuất giá trị thặng dư
Để có được giá trị thặng dư, nền sản xuất phải đạt đến một trình độ nhất định
về năng suất lao động. Ở đó, năng lực của người lao động có khả năng tạo ra
sản phẩm hàng hóa thặng dư. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư là sự thống
nhất của quá trình tạo ra và làm tăng giá trị.
Ví dụ chứng minh giá trị thặng dư
Một nhà tư bản ứng ra số vốn để sản xuất sợi như sau:
- Mua 10 kg bông: 10 đơn vị
- Hao mòn máy để chuyển 10 kg bông thành sợi: 2 đơn vị
- Thuê sức lao động trong 1 ngày (8 giờ): 4 đơn vị.
Tổng cộng: 16 đơn vị
Giả sử, để chuyển 10 kg bông thành sợi mất 4 giờ, và mỗi giờ, lao động trừu
tượng của công nhân làm tăng thêm giá trị là 0,5 đơn vị.
Vậy giá trị của sợi là:
- Giá trị của 10 kg bông: 10 đơn vị
- Giá trị hao mòn của máy: 2 đơn vị
- Giá cả sức lao động trong 4 giờ = 4 đơn vị/8giờ x 4 giờ = 2 đơn vị
- Giá trị tăng thêm của sức lao động trong 4 giờ = 0,5 x 4 = 2 đơn vị.
Tổng cộng: 16 đơn vị
Trong 4 giờ lao động còn lại, nhà tư bản ứng tiếp 10 đơn vị để mua bông và 2
đơn vị hao mòn máy, sẽ thu về lượng sợi tương ứng. Giá trị sợi lần sau cũng
bằng giá trị sợi lần đầu (16 đơn vị).
Tổng số tiền nhà tư bản ứng ra:
- Tiền mua bông: 20 đơn vị
- Hao mòn máy: 4 đơn vị
- Tiền lương công nhân: 4 đơn vị.
Tổng cộng: 28 đơn vị
Giá trị sợi: 16 x 2 = 32 đơn vị. Lượng giá trị tăng thêm 32 – 28 = 4 đơn vị.
4 đơn vị giá trị tăng thêm gọi là giá trị thặng dư (m)
Kết luận

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 22


- m là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do người lao động làm thuê
tạo ra. Nhìn theo công thức G = c + v + m, ta có thể diễn đạt như sau: m = (v +
m) – v. Lượng m đó thuộc về sở hữu của nhà tư bản.
- Ngày lao động của người công nhân được chia làm hai phần:
+ Thời gian lao động tất yếu (ký hiệu là t) là thời gian người công nhân tạo ra
giá trị cho mình, bằng với giá cả sức lao động. Trong ví dụ trên t = (4v x 8 giờ)/
8 đv = 4 giờ
+ Thời gian lao động thặng dư (ký hiệu là t’) là thời gian người công nhân tạo ra
giá trị cho nhà tư bản, bằng với m. Trong ví dụ trên t’ = (4m x 8 giờ)/ 8 đv = 4
giờ
d) Tư bản bất biến và tư bản khả biến
- Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất (c) mà
giá trị của nó không thay đổi khi chuyển vào sản phẩm. Tư bản bất biến không
tạo ra giá trị thặng dư, nhưng là điều kiện không thể thiếu để quá trình tạo ra
giá trị thặng dư được diễn ra. Tuy nhiên, việc ứng dụng các thành tựu của khoa
học công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất sẽ làm cho năng suất lao động
tăng, nhờ vậy làm tăng khối lượng giá trị thặng dư thu được.
- Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động (v), thông qua
lao động trừu tượng mà tăng lên, tức là tăng lên về lượng giá trị. Vì v tạo ra m
nên (v + m) gọi là giá trị mới.
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ vai trò
của mỗi bộ phận tư bản trong giá trị hàng hóa, cũng như chỉ rõ sức lao động
mới trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư.
Đến đây, công thức G = c + v + m đã thể hiện các nội dung:
- Tư bản = c + v
- Tư bản bất biến = Giá trị cũ = Giá trị tư liệu sản xuất = c
- Tư bản khả biến = giá trị sức lao động = v
- Giá trị mới = hao phí lao động mới = (v + m)
đ) Tiền công
Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá cả hàng hoá sức lao động. Nó do hao
phí sức lao động của người làm thuê tạo ra để tự trả cho mình, nhưng lại có
hình thức biểu hiện là do người mua sức lao động trả. Nếu nhìn qua khái niệm
thời gian lao động tất yếu, ta sẽ thấy, người lao động phải dùng một phần thời
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 23
gian lao động trong ngày để tạo ra giá trị cho mình bằng với giá cả sức lao
động. Sau đó, họ mới dùng phần gian còn lại để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà
tư bản.
Ví dụ: trong một ngày lao động 8 giờ, công nhân A tạo ra một khối lượng hàng
hóa có giá trị: G = 60c + 40v + 60m = 160.
Ta có, 8 giờ lao động, A tạo ra một lượng giá trị mới = 40v + 60m = 100 đơn vị.
Vậy, phần thời gian lao động để A tạo ra giá trị cho mình bằng với giá cả sức
lao động = (40v x 8 giờ) / 100 = 3,2 giờ.
e) Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản
Giá trị hàng hóa nói chung và giá trị thặng dư nói riêng được hình thành trong
sản xuất, nhưng chưa trở thành tiền khi hàng hóa chưa đưa vào thị trường và
chưa thực hiện được giá trị. Để thu về số tiền đã ứng ra và có được giá trị thặng
dư, nhà tư bản phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết cả trong giai đoạn sản
xuất và lưu thông. Tổng thể những hoạt động đó được thể hiện trong nội dung
tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản
Tuần hoàn tư bản là sự vận động liên tiếp của tư bản trải qua 3 giai đoạn, với 3
hình thái, thực hiện 3 chức năng, để trở về hình thái ban đầu nhưng với giá trị
thặng dư.

TLSX
T–H … SX… H’ – T’
(1) SLĐ (2) (3)

Ba giai đoạn: (1) Lưu thông, (2) Sản xuất, (3) Lưu thông.
Ba hình thái: (1) Tư bản tiền tệ, (2) Tư bản sản xuất, (3) Tư bản hàng hóa.
Ba chức năng: (1) Mua, (2) Sản xuất, (3) Bán
Giai đoạn (1) vốn ứng ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động.
Giai đoạn (2) tư liệu sản xuất và sức lao động được kết hợp để sản xuất ra
hàng hoá.
Giai đoạn (3) thực hiện giá trị hàng hoá, thu về vốn ứng ra và có được giá trị
thặng dư.
Chu chuyển của tư bản
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 24
Là sự tuần hoàn của tư bản được xét là quá trình định kỳ, thường xuyên lặp đi
lặp lại và đổi mới theo thời gian.
Thời gian chu chuyển được tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi thu về dưới hình thái đó có kèm theo giá trị thặng dư.
Thời gian chu chuyển = thời gian của giai đoạn 2 + thời gian của giai đoạn 1 và
3.
Thực tế chu chuyển, nhà tư bản tìm cách rút ngắn giai đoạn 1 và 3 đồng thời
kéo dài giai đoạn 2. Kéo dài giai đoạn 2 cũng là làm cho quá trình sản xuất
diễn ra liên tục, thời gian gián đoạn của nó ngắn nhất có thể (khác với thời gian
để sản xuất ra một sản phẩm thì phải tìm cách rút ngắn).
Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số tốc
độ chu chuyển không giống nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng chu chuyển được thực hiện trong một
năm.
CH
n=
ch
Trong đó:
n: tốc độ chu chuyển của tư bản;
CH: thời gian 1 năm (12 tháng);
Ch: thời hạn chu chuyển của 1 loại tư bản.
n cho biết sự vận động nhanh hay chậm của tư bản ứng trước.
Tư bản cố định, tư bản lưu động
Căn cứ vào phương thức chu chuyển về mặt giá trị của các bộ phận tư bản để
tạo thành giá trị hàng hóa, tư bản sản xuất được phân chia thành tư bản cố
định và tư bản lưu động.
Tư bản cố định (ký hiệu c1)
Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất. Bộ phận này được sử dụng
toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần
vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn. Dưới hình thái hiện vật, đó là các
máy móc, thiết bị, nhà xưởng… (những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng
lâu).
Ví dụ: 1 máy sản xuất trị giá 20.000 đơn vị, sử dụng trong 5 năm. Mỗi năm có 4
chu kỳ sản xuất, mỗi chu kỳ tạo ra 50 sản phẩn. Ta có:

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 25


- Giá trị máy trong một năm = 4.000 đơn vị
- Giá trị máy trong một chu kỳ = 1.000 đơn vị
- Giá trị máy trong một sản phẩm = 20 đơn vị
- Tổng số chu kỳ máy hoạt động = 20 vòng
- Tổng số sản phẩm để máy chuyển hết giá trị = 1.000 sản phẩm.
Trong quá trình hoạt động, tư bản cố định bị hao mòn dần. Có hai loại hao mòn
là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về
mặt giá trị sử dụng và giá trị do tác động về mặt vật lý, tự nhiên trong quá trình
sử dụng tạo ra. Hao mòn vô hình là hao mòn về giá trị do ảnh hưởng của tiến
bộ khoa học kỹ thuật khi áp dụng vào sản xuất. Điều đó thể hiện, khoa học
công nghệ phát triển, các máy móc thiết bị được sản xuất ra với chi phí thấp
hơn, hiệu suất cao hơn, mẫu mã đẹp hơn giúp tăng năng suất lao động. Vì vậy,
các máy móc thế hệ trước tuy còn giá trị sử dụng, nhưng giá trị đã giảm đi thậm
chí bị đào thải.
Tư bản lưu động (ký hiệu c2 + v)
Là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu, vật rẻ tiền, mau hỏng (ký hiệu chung là c 2) và sức lao động (v). Giá trị của
tư bản lưu động chuyển toàn bộ vào giá trị hàng hóa trong từng chu kỳ sản
xuất.
Ví dụ: trong một chu kỳ sản xuất, để sản xuất ra X đơn vị sản phẩm quần áo,
doanh nghiệp cần 1 đơn vị vải, 2 đơn vị điện, 3 đơn vị nước, 4 đơn vị phụ kiện
như nút, chỉ… và 5 đơn vị tiền công.
2. Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là kết quả của sự hao phí sức lao động trong quá trình sản
xuất. Quá trình đó diễn ra trong quan hệ giữa người mua và người bán hàng
hóa sức lao động.
Xã hội tư bản nhìn từ quan hệ sản xuất thống trị, tồn tại hai giai cấp cơ bản là tư
sản và công nhân. Do giá trị thặng dư được giai cấp công nhân trực tiếp tạo ra,
nên trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư có bản chất
kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp. Dù quan hệ thuê mướn sức lao động không
mang tính chất cưỡng bức, nhưng khi nhà tư bản trả công cho công nhân một
lượng giá trị theo thỏa thuận của đôi bên, thì điều đó cũng có nghĩa là sức lao
động của công nhân phải làm lợi cho nhà tư bản.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 26
Bản chất của giá trị thặng dư được làm rõ hơn qua hai phạm trù tỷ suất giá trị
thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư.
Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản
khả biến để sản xuất ra giá trị thặng dư.
m
m' = x 100 %
v
m’ cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời gian lao động thặng dư (t’) và
thời gian lao động tất yếu (t).
' t'
m= x 100 %
t
Tỷ suất giá trị thặng dư cho biết trình độ khai thác sức lao động làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà tư
bản thu được. Hay M là tích số giữa m’ và tổng tư bản khả biến được sử dụng
(V).
M = m’x V
Khối lượng giá trị thặng dư cho biết quy mô giá trị thặng dư mà chủ tư bản thu
được. Khi cùng tỷ suất giá trị thặng dư, nếu V nhiều hơn sẽ có M cao hơn.
Ví dụ: Tư bản A và B có cùng m’ = 200%, nhưng V của A là 1 triệu và của B là
10 triệu, thì M của A là 2 triệu và của B là 20 triệu.
3. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị
sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Trong ví dụ chứng minh giá trị thặng dư, lượng m = 4 đơn vị được xác định là
giá trị thặng dư tuyệt đối. Giả sử nhà tư bản kéo dài thêm 2 giờ lao động, khi đó
lượng giá trị thặng dư tuyệt đối được xác định như sau:
m’ = (t’/ t) x 100% = (4 + 2) / 4 x 100% = 150%.
Lượng m tuyệt đối = 4 x 150% = 6 đơn vị.
Hai biện pháp chủ yếu để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài thời gian
lao động và tăng cường độ lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 27


Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư có được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu, trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài
tương ứng thời gian lao động thặng dư.
Khi các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến được áp dụng trong các ngành
sản xuất tư liệu tiêu dùng, sẽ làm tăng năng suất lao động các ngành này.
Theo quy luật, giá cả các tư liệu tiêu dùng sẽ giảm xuống, tạo điều kiện thuận
lợi để nhà tư bản giảm giá trị sức lao động, nhưng vẫn không làm giảm đi khối
lượng các tư liệu tiêu dùng mà công nhân sử dụng để tái tạo sức lao động. Khi
giá trị sức lao động giảm, công nhân cần ít hơn thời gian lao động tất yếu (so
với trước) để tạo ra tiền công cho mình. Nếu độ dài ngày lao động không đổi sẽ
làm tăng thời gian lao động thặng dư.
Trong ví dụ chứng minh giá trị thặng dư, giả sử thời gian lao động tất yếu còn
lại 3 giờ, khi đó m’ = (t’/t) x 100% = (4 + 1)/3 x 100% = 167%.
Lượng giá trị thặng dư tương đối trong 1 giờ rút ngắn là 1 đơn vị (điều kiện giá
trị sợi không đổi).
Muốn năng suất lao động tăng phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ.
Thường thì chỉ có một số xí nghiệp tiên phong thực hiện được, trong khi số
đông chưa có điều kiện để tiến hành. Trong điều kiện đó, xuất hiện giá trị thặng
dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần m thu được do áp dụng công nghệ mới làm
cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Ví dụ: Giá trị của hàng hóa X = 60c + 40v + 40m = 140 đơn vị, với thời gian lao
động xã hội cần thiết là 8 giờ. Nhà tư bản B có năng suất lao động cá biệt để
sản xuất ra X cao hơn năng suất lao động xã hội, nên có giá trị cá biệt thấp
hơn giá trị trị xã hội, giả sử là 120 đơn vị. Khi bán X với giá cả là 140 đơn vị, B
sẽ có lượng giá trị thặng dư siêu ngạch là 20 đơn vị.
Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay bằng giá trị thặng dư tương đối, khi số
đông các nhà tư bản đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ để sản xuất X.
Trong nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ ngày càng trở thành nhân tố
quan trọng của việc sản xuất giá trị thặng dư.

II. TÍCH LUỸ TƯ BẢN

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 28


Mục đích của việc nhà tư bản sử dụng giá trị thặng dư sẽ được thể hiện trong
phạm trù tích lũy tư bản
1. Bản chất của tích luỹ tư bản
Với số vốn hiện có, muốn mở rộng quy mô sản xuất, nhà tư bản phải biến một
bộ phận giá trị thặng dư thành vốn. Hoạt động đó gọi là tích lũy tư bản.
Tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Bản chất của tích lũy tư bản là
quá trình tái sản xuất mở rộng thông qua việc biến giá trị thặng dư thành vốn.
Ví dụ: G = 60c + 40v + 40m = 140 đơn vị. Tư bản = 100 đơn vị. Nhà tư bản sử
dụng 20/40 đơn vị m để mở rộng quy mô sản xuất. Khi đó tư bản = 100 + 20 =
120 đơn vị.
Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở
thành thống trị, mà còn không ngừng củng cố và mở rộng sự thống trị đó.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy
Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng (M) và tỷ lệ phân chia M
thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng. Nếu tỷ lệ phân chia đã xác định, thì các
nhân tố quyết định quy mô tích lũy phụ thuộc vào M. Như vậy, những nhân tố
ảnh hưởng đến M cũng chính là những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy
tư bản. Bao gồm:
Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động (m’).
Ví dụ: nhà tư bản A và B có giá trị hàng hóa lần lượt như sau:
G(A) = 60c + 40v + 40m = 140. Ta có m’ = 100%
G(B) = 60c + 40v + 60m = 160. Ta có m’ = 150%
Nếu tỷ lệ tích lũy là 50% thì giá trị tích lũy của nhà tư bản B lớn hơn nhà tư bản
A (30 đơn vị so với 20 đơn vị).
Thứ hai, nâng cao năng suất lao động.
Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá trị tư liệu tiêu dùng giảm xuống,
làm giảm giá trị sức lao động và giúp nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư
hơn.
Ví dụ. Trong 8 giờ lao động, công nhân tạo ra một đơn vị hàng hóa X có cơ cấu
như sau: G = 70c + 40v + 40m = 150 đơn vị.
Cơ cấu trên cho thấy m’ = 100%, t’ = t = 4 giờ.
Giả sử năng suất lao động tăng 50% và giá trị của X không đổi, khi đó, trong 8
giờ, công nhân tạo ra 1,5 đơn vị hàng hóa X.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 29
Trước khi năng suất lao động tăng, để tạo ra 40 đơn vị tiền công cần 4 giờ, thì
bây giờ chỉ cần 2,67 giờ. t’ = 8 – 2,67 = 5,33 giờ. Lượng m = (5,33giờ x 40m)/
4giờ = 53,3 đơn vị.
Thứ ba, sử dụng máy móc hiệu quả.
Máy móc càng hiện đại, phần giá trị nó chuyển vào sản phẩm càng ít. Do đó,
tư bản càng được lợi khi sử dụng những máy móc như vậy.
Ví dụ: hàng hóa X được sản xuất trong 2 thời kỳ với các thông tin về máy sản
xuất X như sau:
- Thời kỳ 1: máy sản xuất trị giá 120.000 đơn vị, sử dụng 6 năm, số sản phẩm
sản xuất trong 1 năm là 50 sản phẩm. Ta có, phần giá trị máy chuyển vào 1
sản phẩm = 400 đơn vị.
- Thời kỳ 2: năng suất lao động tăng. Giá trị của máy sản xuất là 140.000 đơn
vị, sử dụng 5 năm; số sản phẩm sản xuất trong 1 năm là 100. Ta có, phần giá
trị máy chuyển vào 1 sản phẩm = 280 đơn vị.
Tổng sản phẩm thời kỳ 1 và 2 lần lượt là: 300 và 500 sản phẩm.
Như vậy, để sản xuất ra hàng hóa X thì việc đưa vào sử dụng máy sản xuất
của thời kỳ 2 sẽ có lợi hơn so với máy sản xuất của thời kỳ 1.
Thứ tư, đại lượng (quy mô) tư bản ứng trước.
Nếu việc lưu thông hàng hóa càng thuận lợi thì tư bản ứng trước càng lớn sẽ là
tiền đề thuận lợi cho việc tích lũy tư bản.
3. Một số hệ quả của tích lũy tư bản
c
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu v )

+ Cấu tạo hữu cơ là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quyết định và
phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật.
+ Cấu tạo kỹ thuật: tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất với số lượng lao động
cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó.
+ Cấu tạo giá trị: tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư liệu sản xuất và sức lao động
để tiến hành sản xuất.
Ví dụ. Trộn 1 khối lượng bê tông trị giá 20 triệu đơn vị trong 6 giờ cần 10 người
với tổng tiền công (V) là 2,5 triệu đơn vị. Ta có:
- Cấu tạo kỹ thuật: 1 khối lượng bê tông cần 10 người (trong 6 giờ)
- Cấu tạo giá trị: c/v = 20 triệu /2,5 triệu = 8/1. 8/1 cũng là cấu tạo hữu cơ (1)

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 30


Giả sử, nếu sử dụng 1 máy trộn khối lượng bê tông trên, cần 2 giờ với tiền máy
0,6 triệu, tiền công 1 triệu. Ta có: c/v = (20 triệu + 0,6 triệu)/ 1 triệu = 20,6/1 (2)
Như vậy c/v của (2) > (1).
Ví dụ trên cho thấy:
- Cấu tạo hữu cơ do trình độ kỹ thuật công nghệ của sản xuất quyết định. Khi
kỹ thuật công nghệ trong sản xuất thay đổi, sẽ làm cho cấu tạo giá trị thay đổi.
Cấu tạo hữu cơ phản ánh mối quan hệ đó giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá
trị.
- Khoa học công nghệ trong sản xuất càng hiện đại thì cấu tạo hữu cơ của tư
bản có xu hướng không ngừng tăng lên.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thất
nghiệp.
Thứ hai, tích lũy tư bản làm tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô vốn cá biệt bằng cách tích lũy. Có nhiều
cách để làm tăng quy mô vốn như đi vay, kêu gọi đầu tư vốn, góp vốn, tài trợ
vốn… Cách bền vững nhất để mở rộng quy mô vốn là thực hiện tích lũy. Tích tụ
tư bản là khái niệm dùng để mô tả hành động mở rộng quy mô vốn bằng cách
tích lũy.
Ví dụ. Nhà tư bản A có giá trị vốn 10.000 đơn vị. Năm thứ nhất tích lũy: 1.000
nên quy mô tư bản là 11.000 đơn vị. Năm thứ y tích lũy: 9.000 đơn vị nên quy
mô tư bản là 20.000 đơn vị. Ta nói, nhờ hành động tích lũy mà đến năm y, A đã
tích tụ được 10.000 đơn vị vốn.
Tập trung tư bản là liên kết nhiều tư bản cá biệt nhỏ thành tư bản cá biệt lớn. Ví
dụ:
Nhà tư bản A có giá trị vốn: 4.000 đơn vị,
Nhà tư bản B có giá trị vốn: 7.000 đơn vị tư bản,
Nhà tư bản C có giá trị vốn: 10.000 đơn vị tư bản.
Để thuận lợi hơn cho việc sản xuất kinh doanh nên A, B, C thực hiện việc hợp
nhất vốn. Khi đó, một giá trị vốn cá biệt mới là 21.000 đơn vị hình thành.
Thứ ba, tích lũy tư bản làm tăng chênh lệch giữa thu nhập của nhà tư bản với
thu nhập của người làm thuê.
Việc tăng lên của quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản không làm
tăng tương ứng lực lượng lao động. Số lượng người lao động có xu hướng giảm
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 31
tương đối do quá trình tự động hóa sản xuất ngày càng trở nên phổ biến. Dưới
góc độ như vậy, tích lũy tư bản làm tăng sự giàu có của giai cấp tư sản và sự
bần cùng hóa giai cấp công nhân. Bần cùng hóa tương đối của giai cấp công
nhân thể hiện ở sự chênh lệch về thu nhập ngày càng lớn khi so với giai cấp tư
sản. Bần cùng hóa tuyệt đối thể hiện ở số công nhân thất nghiệp và bộ phận
công nhân bị sụt giảm thu nhập, do không thích ứng với yêu cầu của tiến bộ kỹ
thuật công nghệ trong sản xuất. Chất lượng cuộc sống của họ bị sụt giảm
nghiêm trọng, họ trở thành đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.

III. CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Giá trị thặng dư với tư cách là cơ sở tồn tại, phát triển của nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện ra thông qua các hình thức khác nhau, gắn
kết với nhau trong nền kinh tế thị trường như lợi nhuận, lợi tức, địa tô.
1. Lợi nhuận
a) Chí phí sản xuất
Đối với nhà tư bản, quan trọng là phải thu hồi được giá trị tư bản đã ứng ra từ
giá trị hàng hóa đã được thực hiện, khái niệm chi phí sản xuất thể hiện điều đó.
Trong công thức giá trị hàng hóa, G = c + v + m thì đối với nhà tư bản, để sản
xuất ra hàng hóa họ cần chi phí để mua c và v. Chi phí đó gọi là chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là k.
k=c+v
k là chi phí về vốn tiền tệ mà nhà tư bản đã ứng ra để sản xuất một đơn vị hàng
hóa.
Lưu ý là bộ phận k = c + v có thể có sự khác nhau tương đối với bộ phận c + v
trong G = c + v + m. Ví dụ:
Hàng hóa X có giá cả = giá trị = 60c + 40v + 60m = 160 đơn vị. Có 3 nhà tư
bản A, B, C sản xuất X có k lần lượt như sau:
k(A) = 50c + 50v = 100, k(B) = 40c + 50v = 90, k(C) = 60c + 60v = 120.
Trên thực tế, khi sản xuất cùng một loại hàng hóa thì k của các nhà tư bản là
không giống nhau. Nhưng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo
yêu cầu của quy luật giá trị, cũng như để khái quát thành cái chung, nên ta giả
định k của A, B, C là bằng nhau.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 32
Vì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động, nên k là
một bộ phận thuộc tư bản ứng trước và luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước. Ví dụ:
Một tư bản có giá trị: c1= 40.000 đơn vị sử dụng trong 8 năm, (c 2 + v) 8.000 đơn
vị. Ta gọi: Tư bản ứng trước = 40.000 + 8.000 = 48.000 đơn vị.
k = (40.000/8) + 8.000 = 13.000 đơn vị.
Khi k xuất hiện thì công thức G = c + v + m có hình thức biểu hiện thành G = k
+ m.
k là căn cứ quan trọng để các nhà tư bản như A, B, C cạnh tranh về giá cả của
X.
b) Bản chất của lợi nhuận
Khi hàng hóa được bán với giá cả bằng giá trị, nhà tư bản thu về k và số chênh
lệch bằng m. Số chênh lệch này gọi là lợi nhuận (ký hiệu p).
Khi đó, G = k + p. Vậy p = G – k. Ta nói, lợi nhuận (p) = doanh thu (G) – chi phí
(k)
p là hình thái biểu hiện của m trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
G=c+v+m

G= k+ p
Với hình thức biểu hiện như vậy, người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch
giữa G bán được với k đã bỏ ra, mà không quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của
khoản chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư chuyển thành.
Dưới tác động của quy luật cung cầu và cạnh tranh, thì p có thể bằng, có thể
nhỏ hơn, có thể lớn hơn m. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội thì vì tổng giá
cả bằng tổng giá trị, nên tổng số lợi nhuận luôn bằng tổng số giá trị thặng dư.
Để rõ hơn về p và m, ta có ví dụ sau:
Giá trị của hàng hóa X là 160 đơn vị. Trong đó k chiếm 80%. So sánh p và m
trong các trường hợp: giá cả = giá trị, giá cả > giá trị 20%, giá cả < giá trị 15%
Ta có: k = 160 x 0,8 = 128 đơn vị, m = 32 đơn vị
+ Khi giá cả = giá trị thì p = m = 32 đơn vị
+ Khi giá cả > giá trị 20% à giá cả = 192 đơn vị, p = 64 đơn vị (>m)
+ Khi giá cả < giá trị 15%,à giá cả = 136 đơn vị, p = 8 đơn vị (<m)
Ví dụ trên cho thấy:

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 33


- Cung = cầu thì giá cả = giá trị, p = m. Cung > cầu thì giá cả < giá trị, p < m.
Cung < cầu thì giá cả > giá trị, p > m.
- m là một đại lượng không đổi vì được xác định trên cơ sở lượng giá trị hàng
hóa, còn p là một đại lượng thay đổi vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và
cạnh tranh trên thị trường.
c) Tỷ suất lợi nhuận và các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận (p’) là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư
bản ứng trước.
' p
p= x 100 %
c +v
Tỷ suất lợi nhuận thường được tính hàng năm. So với p thì p’ hàng năm là
thước đo cụ thể, phản ánh đầy đủ hơn mức hiệu quả kinh doanh.
Như vậy, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận là những phạm trù thể hiện lợi ích kinh tế
của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường, muốn thành công các nhà tư bản
phải tìm ra cách thức để có được tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
* Các nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận
- Thứ nhất, tỷ suất giá trị thặng dư. m’ cao thì p’ cao và ngược lại. Ví dụ:
G = 60c + 40v + 40m = 140 thì m’ = 100%, p’ = 40%
G = 60c + 40v + 60m = 160 thì m’ = 150%, p’ = 60%
- Thứ hai, cấu tạo hữu cơ của tư bản. Khi m’ không đổi, nếu c/v càng cao thì p’
càng giảm và ngược lại. Ví dụ:
+ G = 40c + 60v + 60m = 160 thì c/v = 2/3, p’ = 60%
+ G= 60c + 40v + 40m = 140 thì c/v = 3/2, p’ = 40%
Lưu ý, c/v tăng lên gắn liền với việc tăng năng suất lao động. Điều đó làm cho
lợi nhuận trên một hàng hóa giảm nhưng tổng lợi nhuận tăng lên vì số lượng
hàng hóa sản xuất ra nhiều hơn trước.
- Thứ ba, tốc độ chu chuyển của tư bản (n). Nếu n càng lớn thì p’ hàng năm
càng tăng lên. Ví dụ:
G = 60c + 40v + 40m = 140. p’ = 40%.
+ Nếu n = 2 vòng/năm thì p’ = 40% x 2 = 80 %.
+ Nếu n = 4 vòng/ năm thì p’ = 40% x 4 = 160 %.
Vậy p’ tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và tỷ lệ nghịch với thời
gian chu chuyển. Nếu số vòng chu chuyển càng lớn thì p’ càng tăng lên.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 34


- Thứ 4, tiết kiệm tư bản bất biến (c). Khi m và tư bản khả biến không đổi, nếu c
càng nhỏ thì p’ càng lớn và ngược lại. Công thức tỷ suất lợi nhuận phản ánh rõ
điều đó.
d) Lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là cơ sở cho việc hình thành lợi nhuận bình quân.
Đó là cạnh tranh giữa các xí nghiệp kinh doanh trong các ngành sản xuất khác
nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Ngành sx c v m’ (%) m G P̄ GCSX
Cơ khí 80 20 100 20 120 30 130

Dệt 70 30 100 30 130 30 130


Da 60 40 100 40 140 30 130

Nhìn vào bảng ta thấy, nhà tư bản ngành cơ khí sẽ di chuyển một phần vốn
sang ngành da, làm thay đổi quan hệ cung - cầu và tỷ suất lợi nhuận của hai
ngành. Kết quả, hình thành tỷ suất ngang nhau gọi là tỷ suất lợi nhuận bình
quân ( P̄ ’)
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của các tỷ suất lợi nhuận.
Σp
'= x 100 %
Σ( c+ v )

Khi hình thành P̄ ’ thì lợi nhuận bình quân ( P̄ ) từng ngành được tính theo công
thức:
P̄ = P̄ ’ x K
Trong đó, K là tư bản ứng trước từng ngành.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào
các ngành khác nhau. Theo ví dụ trên thì P̄ = 30% x 100 = 30 đơn vị.
Khi hình thành lợi nhuận bình quân thì giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả
sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận
bình quân.
GCSX = k + P̄
Tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân là một trong những căn cứ
quan trọng để các nhà tư bản xác định ngành nghề, đối tượng kinh doanh và
giá cả hàng hóa sao cho hiệu quả nhất.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 35


đ) Lợi nhuận thương nghiệp
Trong tuần hoàn và chu chuyển tư bản, khi chức năng H’ – T’ trở thành một
hoạt động chuyên môn hóa thì thương nghiệp hiện đại xuất hiện. Trong nền
kinh tế thị trường, thương nghiệp là một bộ phận của tư bản sản xuất chuyên
đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa.
Lợi nhuận thương nghiệp được thể hiện ở số chênh lệch giữa giá bán của nhà
tư bản sản xuất và giá mua hàng hóa của thương nhân. Cách thức thực hiện:
- Tư bản sản xuất bán hàng hóa cho thương nhân với giá: k < giá bán < G
- Thương nhân bán hàng hóa với giá: giá mua < Giá bán >= G
Vì sao nhà tư bản sản xuất bán hàng hóa cho thương nhân theo quy luật k <
giá bán < G?
Lý do quan trọng là vì thương nhân hiện diện trên thị trường thường xuyên mới
làm cho hàng hóa thích ứng cao nhất nhu cầu của thị trường. Với sự chuyên
môn hóa của mình, thương nhân nắm rõ các thông tin về đối thủ cạnh tranh,
những biến động của thị trường, các quy định của chính phủ, những yêu cầu
của khách hàng… Thương nhân tìm các cách thức tốt nhất để bán được hàng
hóa nhanh nhất với giá tốt nhất. Chính vì vậy, rút ngắn thời gian của gia đoạn
H’ – T’, giúp cho tuần hoàn tư bản nhanh hơn, chu kỳ sản suất tăng lên, làm
tăng khối lượng lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
2. Lợi tức
Trong nền kinh tế thị trường, luôn có những chủ thể có lượng tiền nhàn rỗi và
có những chủ thể khác cần tiền để kinh doanh. Từ thực tế đó, xuất hiện quan
hệ vay mượn lẫn nhau. Vốn cho vay là vốn tiền tệ mà người chủ của nó trao
quyền cho người đi vay sử dụng để có được lợi tức từ người người đi vay. Vậy,
lợi tức từ đâu mà có?
Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà người đi vay phải trả cho người cho
vay về quyền sử dụng tiền tệ của người cho vay. Lợi tức phản ánh quan hệ lợi
ích giữa người đi vay và cho vay, song về thực chất, lợi tức là một phần giá trị
thặng dư mà người đi vay đã thu được thông qua việc sử dụng tiền vay đó đầu
tư sản xuất kinh doanh.
Tư bản cho vay có đặc điểm:
Thứ nhất, quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 36


Thứ hai, là hàng hóa đặc biệt vì nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng, có người
mua – người bán, có giá cả và giá cả của nó cũng lên xuống theo quan hệ cung
cầu, cạnh tranh. Điểm đặc biệt của nó là người bán không mất quyền sở hữu,
người mua khi sử dụng thì làm tăng giá trị sử dụng và giá trị.
Thứ ba, là hình thái tư bản được sùng bái nhất. Tư bản cho vay vận động theo
công thức T – T’, tạo ra hình thức dường như tiền đẻ ra tiền. Hình thức đó không
thể hiện rõ nguồn gốc của lợi tức cho vay.
Để biết được kết quả của hoạt động cho vay, cần phải so sánh số lợi tức thu
được với số vốn cho vay. Khái niệm tỷ suất lợi tức đáp ứng yêu cầu đó.
Tỷ suất lợi tức (z’) là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được và số tư bản cho
vay (TBCV):
Z
z'= x 100 %
TBCV
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến tỷ suất lợi tức là tỷ suất lợi nhuận bình
quân và quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay.
Giới hạn vận động của lợi tức trong khuôn khổ: 0 < z < P̄
Giới hạn vận động của tỷ suất lợi tức trong khuôn khổ: 0 < z’ < P̄ ’
Trên cơ sở phát triển mở rộng của quan hệ cho vay – đi vay, của sự tách bạch
quyền sở hữu và quyền sử dụng tư bản theo sự phát triển của tín dụng, công ty
cổ phần đã được thành lập. Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn từ các
khoản vay của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra công ty cổ
phần còn huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
3. Địa tô tư bản chủ nghĩa
Tư bản kinh doanh nông nghiệp
Tư bản kinh doanh nông nghiệp là bộ phận tư bản xã hội đầu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp. Ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp
phải thu thêm một phần lợi nhuận tăng thêm, tức là lợi nhuận siêu ngạch để trả
cho chủ đất dưới hình thức địa tô.
Vậy, địa tô là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận bình
quân mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho chủ đất.
Vì sao nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp có thể thu được lợi nhuận lớn hơn lợi
nhuận bình quân của xã hội?

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 37


Trong nông nghiệp giá cả hàng hóa nông phẩm được hình thành trên cơ sở
điều kiện sản xuất xấu nhất chứ không phải ở điều kiện trung bình như trong
công nghiệp. Hơn nữa, sự thay đổi về kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp diễn
ra chậm hơn so với công nghiệp. Nếu cùng giá trị tư bản, cùng tỷ suất giá trị
thặng dư thì cấu tạo hữu cơ của nông nghiệp thường thấp hơn công nghiệp.
Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trong nông nghiệp sẽ cao hơn. Đó là hai nhân tố cơ
bản để tư bản kinh doanh nông nghiệp thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Địa tô tư bản chủ nghĩa có nhiều hình thức, trong đó chủ yếu là địa tô chênh
lệch và địa tô tuyệt đối.
Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Địa tô
chênh lệch I được hình thành trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận
lợi, mức độ màu mỡ cao, vị trí đất gần với nơi tiêu thụ, gần đường giao thông.
Địa tô chênh lệch II có được trên cơ sở đất cho thuê đã được đầu tư, thâm canh
và làm tăng độ màu mỡ.
Địa tô tuyệt đối là địa tô thu được trên đất cho thuê không kể độ màu mỡ tự
nhiên hay do thâm canh. Đó là phần lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi
nhuận bình quân, được tính bằng số chênh lệch giữa giá trị nông sản và giá cả
sản xuất chung của nông sản.
Trên thực tế, mức địa tô (không chỉ trong kinh doanh nông nghiệp) phụ thuộc
vào khả năng mà một mảnh đất sinh lợi, khi nó phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Địa tô là một trong những căn cứ để tính toán giá cả ruộng đất khi thực hiện
bán quyền sở hữu đất cho người khác. Một trong những căn cứ để tính giá cả
ruộng đất là sự biến động của địa tô và tỷ suất lợi tức nhận gửi của ngân hàng.
Địa tô
Giá cả ruộng đất= '
z nhận gửi của ngân hàng
Ví dụ: Mảnh đất D hàng năm đem lại địa tô là 200 đơn vị, tỷ suất lợi tức nhận
gửi của ngân hàng trong năm 20xx là 5%/năm. Vậy, giá cả của D được tính
như sau:
200
D= =4000 đơn vị
0,05
Vì với số tiền 4000 đơn vị, nếu gửi vào ngân hàng với z’ = 5%/năm cũng thu
được một giá trị là 200 đơn vị, bằng với địa tô cho thuê đất hàng năm.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 38


Những nhân tố khác ảnh hưởng đến giá ruộng đất, gồm: thời điểm mua bán,
triển vọng sinh lời trong tương lai của mảnh đất, môi sinh, đặc điểm tự nhiên
của đất (đất gò đồi hay trũng, khô ráo hay ẩm ướt, hướng đất, hình dáng…),
người môi giới, an ninh…

*******************************************
Chương 4
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. CẠNH TRANH Ở CẤP ĐỘ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Độc quyền, độc quyền nhà nước và tác động của độc quyền
a) Nguyên nhân hình thành độc quyền, độc quyền nhà nước
Độc quyền và nguyên nhân hình thành độc quyền
Tự do cạnh tranh sẽ dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập
trung sản xuất đến một mức độ nhất định sẽ dẫn tới độc quyền.
Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong tay phần lớn
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc
quyền nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Nguyên nhân hình thành và tác động của độc quyền
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất
hiện các tổ chức độc quyền.
Sự xuất hiện các tổ chức độ quyền đánh dấu chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang giai đoạn phát triển mới cao hơn giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Độc quyền xuất hiện do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất
Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, buộc các doanh nghiệp phải
ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh. Muốn vậy,
doanh nghiệp phải có vốn lớn, nên phải đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn.
Cuối thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật ứng dụng vào trong sản
xuất làm tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy, tích tụ và tập trung
sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất quy mô lớn.
Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với sự tác động của
các quy luật kinh tế thị trường ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế
của xã hội theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 39


Hai là, do cạnh tranh
Cạnh tranh gay gắt làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, các
doanh nghiệp lớn bị suy yếu, để tiếp tục phát triển họ phải tăng cường tích tụ,
tập trung sản xuất, liên kết với nhau thành các doanh nghiệp với quy mô ngày
càng to lớn hơn.
Ba là, do khủng hoảng kinh tế và sự phát triển của hệ thống tín dụng
Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn năm 1873 làm phá sản hàng loạt các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn phải thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ
và tập trung sản xuất làm cho quy mô càng lớn.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng trở thành đòn bẩy thúc đẩy tập trung sản
xuất, nhất là việc hình thành, phát triển các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự
ra đời của các tổ chức độc quyền.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động của công nhân trong
các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động của công nhân trong các xí
nghiệp ngoài độc quyền; một phần m của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi
do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần
lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước
tư bản và các nước thuộc địa và phụ thuộc.
*Lợi nhuận độc quyền: là lợi nhuận thu được cao hơn lợi nhuận bình quân,
do sự thống trị của các tổ chức độc quyền đem lại. Các tổ chức độc quyền
thống trị bằng cách áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua hàng hóa thấp.
Giá cả độc quyền là giá cả do các tổ chức độc quyền áp đặt trong mua và
bán hàng hóa. Giá cả độc quyền = k + p độc quyền.
Giá cả độc quyền cao (khi bán) và giá cả độc quyền thấp (khi mua).
Về thực chất, cơ sở của giá cả độc quyền vẫn là giá trị. Giá cả độc quyền chỉ
lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa. Khi xuất hiện giá cả độc quyền thì giá
cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả độc quyền. Các tổ chức độc quyền
luôn luôn mua bán hàng hóa xoay quanh giá cả độc quyền, nên luôn thu được
lợi nhuận độc quyền cao.
Độc quyền nhà nước, nguyên nhân hình thành và bản chất của độc quyền
nhà nước
Độc quyền nhà nước
Độc quyền nhà nước là kiểu độc quyền trong đó nhà nước nắm giữ vị thế độc
quyền trên cơ sở duy trì sức mạnh của các tổ chức độc quyền ở những lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 40


Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, độc quyền nhà nước được hình
thành trên cơ sở cộng sinh giữa độc quyền tư nhân, độc quyền nhóm và sức
mạnh kinh tế của nhà nước, sự chi phối của tầng lớp tư bản độc quyền đối với
bộ máy nhà nước.
Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa
Một là, tích tụ và tập trung vốn càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng
cao, sinh ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi phải có một sự điều tiết xã hội
đối với sản xuất và phân phối từ một trung tâm là nhà nước.
Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số
ngành mới có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nhưng các tổ
chức độc quyền tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh, do vốn đầu
tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ
tầng. Vì vậy, nhà nước phải đứng ra đảm nhận, tạo điều kiện cho các tổ chức
độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.
Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo,
làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội. Trong điều kiện như vậy
đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những mâu thuẫn
đó, như các chính sách trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập, phát triển phúc
lợi xã hội, ...
Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của
các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và
xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi nhà
nước phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.
Ngoài ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới và tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước
vào đời sống kinh tế.
Bản chất của độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản
Phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền tư nhân và tiếp tục duy trì, phát
triển CNTB.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự thống nhất của ba quá trình gắn
bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò
can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân
với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và làm cho bộ máy
nhà nước ngày càng phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 41


Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành
một tập thể tư bản khổng lồ. Nhà nước là chủ sở hữu những doanh nghiệp,
cũng tiến hành kinh doanh. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ nhà nước không chỉ
can thiệp vào nền sản xuất xã hội, mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí
nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các đòn bẩy kinh tế vào
tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất.
b) Tác động của độc quyền trong nền kinh tế thị trường
*Những tác động tích cực
Thứ nhất, độc quyền tạo ra khả năng to lớn trong việc nghiên cứu và triển
khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật.
Các tổ chức độc quyền có khả năng tập trung được các nguồn lực, đặc biệt
là nguồn lực về tài chính trong việc nghiên cứu và triển khai các hoạt động
khoa học kỹ thuật, mang lại lợi nhuận độc quyền, qua đó thúc đẩy sự tiến bộ kỹ
thuật.
Thứ hai, độc quyền làm tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh
tranh cho tổ chức độc quyền.
Thứ ba, độc quyền tạo được sức mạnh góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo hướng sản xuất lớn hiện đại.
Với ưu thế của mình, độc quyền có điều kiện đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế
trọng tâm, mũi nhọn, tập trung, quy mô lớn, do đó thúc đẩy nền kinh tế thị
trường phát triển theo hướng sản xuất tập trung, quy mô lớn, hiện đại.
* Những tác động tiêu cực
Thứ nhất, độc quyền xuất hiện làm cho cạnh tranh không hoàn hảo gây thiệt
hại cho người tiêu dùng và xã hội.
Độc quyền luôn áp đặt giá bán hàng hóa cao và giá mua thấp, thực hiện sự
trao đổi không ngang giá, hạn chế khối lượng hàng hóa… tạo ra sự cung cầu
giả tạo về hàng hóa, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và xã hội.
Thứ hai, độc quyền có thể kìm hãm sự tiến bộ kỹ thuật, theo đó kìm hãm sự
phát triển kinh tế, xã hội.
Vì lợi ích độc quyền, hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế chỉ được
thực hiện khi vị thế độc quyền của chúng không có nguy cơ bị lung lay. Do vậy,
mặc dù có khả năng trong nghiên cứu, phát minh các sáng chế khoa học, kỹ
thuật, nhưng các tổ chức độc quyền không tích cực thực hiện các công việc đó.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 42


Thứ ba, khi độc quyền nhà nước bị chi phối bởi nhóm lợi ích cục bộ hoặc khi
độc quyền tư nhân chi phối các quan hệ kinh tế - xã hội, sẽ gây ra hiện tượng
làm tăng sự phân hóa giàu nghèo.
Với địa vị thống trị kinh tế của mình, độc quyền có khả năng và không ngừng
bành trướng sang các lĩnh vực chính trị, xã hội, kết hợp với các nhân viên chính
phủ để thực hiện mục đích lợi ích nhóm, kết hợp với sức mạnh nhà nước hình
thành độc quyền nhà nước, chi phối cả quan hệ, đường lối đối nội, đối ngoại
của nhà nước.
2. Quan hệ cạnh tranh trong trạng thái độc quyền
Sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu cạnh tranh, mà làm cho cạnh tranh
trở nên đa dạng, gay gắt hơn. Các loại cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền
gồm:
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các doanh nghiệp ngoài độc
quyền
- Cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau
- Cạnh tranh trong nội bộ tổ chức độc quyền.

II. LÝ LUẬN CỦA LÊNIN VỀ CÁC ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA ĐỘC QUYỀN VÀ
ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
1. Lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền
a) Các tổ chức độc quyền có quy mô tích tụ và tập trung tư bản lớn
Tích tụ và tập trung sản xuất cao, biểu hiện số lượng các xí nghiệp lớn chiếm
tỷ trọng nhỏ, nhưng nắm giữ các lĩnh vực sản xuất chủ yếu của nền kinh tế,
nắm số lượng công nhân lớn và sản xuất phần lớn tổng sản phẩm xã hội.
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao đã trực tiếp dẫn đến hình thành
các tổ chức độc quyền. Bởi vì, một mặt, do số lượng các doanh nghiệp lớn ít
nên có thể dễ dàng thoả thuận với nhau; mặt khác, khuynh hướng thoả hiệp với
nhau để nắm lấy địa vị độc quyền.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các tổ chức độc quyền hình
thành theo liên kết ngang - liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành,
nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát
triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau.
Các hình thức tổ chức độc quyền cơ bản từ thấp đến cao, bao gồm:

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 43


Cartel (Các-ten), Syndicate (Xanh-đi-ca), Trust (Tờ-rớt), Consortium
(Côngxoóc-xi-om).
- Cartel các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giá cả, sản
lượng hàng hóa, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán, ... nhưng độc lập cả về
sản xuất và lưu thông hàng hóa. Hình thức này không vững chắc. Trong nhiều
trường hợp, một số thành viên thấy không thuận lợi, đã rút ra khỏi Cartel.
- Syndicate. Các nhà tư bản vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về
lưu thông hàng hóa (mọi việc mua, bán do một ban quản trị chung của
Syndicate đảm nhận). Mục đích của Syndicate là thống nhất đầu mối mua và
bán để thu lợi nhuận độc quyền cao.
- Trust. việc sản xuất, tiêu thụ hàng hóa đều do một ban quản trị chung
thống nhất quản lý. Các nhà tư bản tham gia Trust trở thành những cổ đông để
thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.
- Consortium là hình thức có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc
quyền trên. Tham gia Consortium gồm các nhà tư bản lớn, các Syndicate, các
Trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ
thuật.
Hiện nay, đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có những
biểu hiện mới, đó là sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên
cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
b) sức mạnh của các tổ chức độc quyền do tư bản tài chính và hệ thống tài
phiệt chi phối
Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ, tập trung ở mức độ cao, thì
các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho các doanh nghiệp
công nghiệp lớn. Trong điều kiện đó, các ngân hàng vừa và nhỏ phải tự sáp
nhập vào các ngân hàng lớn hoặc phải phá sản trước quy luật khốc liệt của
cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.
Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng làm cho
ngân hàng có vai trò mới: khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội.
Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng “cử” đại diện của
mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử
dụng tiền vay hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào
công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng mạnh mẽ của ngân
hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công
nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Quá trình độc quyền hoá trong công
nghiệp và ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau làm nảy sinh một loại hình
tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 44
V.I.Lênin viết: "Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân
hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên
minh độc quyền các nhà công nghiệp" .
Sự phát triển của tư bản tài chính dần dần dẫn đến sự hình thành một nhóm
nhỏ chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, gọi là tài phiệt (hay đầu sỏ tài
chính, trùm tài chính).
Các tài phiệt thực hiện sự thống trị của mình thông qua “chế độ tham dự”. Nhờ
có “chế độ tham dự” và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích, nên
bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, mà các tài phiệt có thể khống chế và điều
tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài "chế độ tham dự", tài phiệt còn sử dụng những hoạt động như lập
công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán,
đầu cơ ruộng đất... để thu lợi nhuận độc quyền cao.
Về mặt chính trị, do thống trị được về kinh tế, tài phiệt chi phối các chính
sách đối nội, đối ngoại của nhà nước.
c) Xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến
Xuất khẩu tư bản là đầu tư tư bản ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt
giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp là hình thức xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại
những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp kinh doanh,
biến nó thành một chi nhánh của “công ty mẹ” ở chính quốc.
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay, mua cổ phần,
cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán…
Xét về chủ thể xuất khẩu, thì xuất khẩu tư bản được chia thành: xuất khẩu tư
bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.
+ Xuất khẩu tư bản tư nhân do tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này
thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay vốn ngắn và thu
được lợi nhuận độc quyền cao.
+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước dùng nguồn vốn của mình, đầu tư;
hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về
kinh tế, chính trị và quân sự.
d) Cạnh tranh để phân chia thế giới là tất yếu giữa các tập đoàn độc quyền

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 45


Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng
lên cả về quy mô và phạm vi, tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh
tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền
quốc tế.
Các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền trên trường quốc
tế tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị
độc quyền. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng
Cartel, Syndicate, Trust quốc tế.
đ) Lôi kéo, thúc đẩy các chính phủ vào việc phân định khu vực lãnh thổ ảnh
hưởng là cách thức để bảo vệ lợi ích độc quyền
Do sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của các cường quốc tư bản,
tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại lãnh thổ thế giới sau khi đã chia
xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến hai cuộc chiến tranh thế giới
Khi hệ thống thuộc địa kiểu cũ sụp đổ và tan rã, các cường quốc chuyển sang
thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ
kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển.
2. Lý luận của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế của độc quyền nhà nước trong chủ
nghĩa tư bản
a) Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước
Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phái. Đứng đằng
sau các đảng phái này là một lực lượng có quyền lực rất hùng hậu, đó chính là
các Hội chủ xí nghiệp. Các Hội chủ này hoạt động thông qua các đảng phái
của giai cấp tư sản. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã gọi
chúng là “những chính phủ đằng sau chính phủ”, “một quyền lực thực tế đằng
sau quyền lực” của chính quyền.
Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham
gia vào bộ máy nhà nước; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ
được “cài cắm” vào ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ
trọng yếu. Sự thâm nhập lẫn nhau này đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối
quan hệ giữa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước.
b) Sự hình thành, phát triển sở hữu nhà nước
Sở hữu độc quyền nhà nước có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư
bản độc quyền. Sở hữu nhà nước đan kết với sở hữu độc quyền tư nhân trong
quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội.
Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần
cho hoạt động của bộ máy nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong công
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 46
nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong đó, ngân
sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất.
Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng
doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các doanh
nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; mua cổ phần của các doanh nghiệp tư
nhân; mở rộng doanh nghiệp nhà nước.
Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, mở rộng sản xuất, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, tạo điều kiện cho việc di chuyển tư bản của các tổ
chức độc quyền đầu tư vào các ngành sản xuất kinh doanh khác nhau, chuyển
từ những ngành ít lãi sang những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn một cách
dễ dàng, thuận lợi. Thứ ba, làm chỗ dựa cho sự điều tiết kinh tế theo những
chương trình nhất định.
Cùng với sự phát triển của sở hữu nhà nước thì thị trường nhà nước cũng
hình thành và phát triển. Nhà nước bao mua sản phẩm của các doanh nghiệp
độc quyền thông qua những hợp đồng được ký kết, đặc biệt là các đơn đặt
hàng quân sự. Các hợp đồng ký kết với nhà nước giúp cho các tổ chức độc
quyền tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa đảm bảo lợi nhuận ổn định, vừa
khắc phục được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược.
c) Độc quyền nhà nước trở thành công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế
Hệ thống điều tiết của nhà nước bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống
chính sách, công cụ. Sự điều tiết được thực hiện dưới nhiều hình thức như:
hướng dẫn, kiểm soát, uốn nắn những lệch lạc bằng các công cụ kinh tế và các
công cụ hành chính - pháp lý, bằng cả ưu đãi và trừng phạt; bằng những giải
pháp chiến lược dài hạn như lập chương trình, kế hoạch tổng thể phát triển kinh
tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã hội, ... và bằng cả
các giải pháp ngắn hạn.
Các chính sách kinh tế của nhà nước là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết
như chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về
tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại. Các công
cụ chủ yếu của nhà nước để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh
tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ, tín dụng, các doanh nghiệp nhà
nước… Bộ máy điều tiết gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Bên cạnh
bộ máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình thức
khác nhau, thực hiện "tư vấn" nhằm "lái" đường lối phát triển kinh tế theo mục
tiêu riêng của các tổ chức độc quyền.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 47


Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự
dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước
nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế.
Ngày nay, sự điều tiết nhà nước còn thể hiện ở việc ban hành và thực hiên
một hệ thống các chính sách xã hội nhằm hạn chế những khuyết tật của cơ
chế thị trường, giải quyết các mâu thuẫn giai cấp xã hội, thực hiện sự công
bằng xã hội.

III. BIỂU HIỆN MỚI CỦA ĐỘC QUYỀN, ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC TRONG
ĐIỀU KIỆN NGÀY NAY; VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
1. Biểu hiện mới của độc quyền
a) Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
Sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của
các xí nghiệp vừa và nhỏ. Những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời.
Đó là các Concern (Conson) và các Conglomerate (Công-gơ-lô-mê-rết).
Concern: Là tổ chức độc quyền đa ngành, thành phần của nó có hàng trăm xí
nghiệp có quan hệ với những ngành khác nhau và được phân bố ở nhiều nước.
Conglomerate: Là sự kết hợp của hàng chục những hãng vừa và nhỏ không có
sự liên quan trực tiếp về sản xuất hoặc dịch vụ cho sản xuất. Mục đích chủ yếu
của các Conglomerate là thu lợi nhuận từ kinh doanh chứng khoán.
Sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ là do: Thứ nhất, việc ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá
sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công. Thứ hai, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh là nhạy cảm đối với thay đổi trong sản
xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường; dễ đổi mới trang thiết
bị, kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí bổ sung; có thể kết hợp nhiều loại hình
kỹ thuật để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện kết
cấu hạ tầng hạn chế, …
Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát
triển. Đó là kết quả của sự thâm nhập của các công ty xuyên quốc gia vào các
nước này và sự ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại, khiến
cho chỉ một doanh nghiệp lớn, cũng đủ sức mạnh chi phối việc sản xuất và tiêu
thụ của cả một ngành mới ra đời ở một nước đang phát triển
b) Biểu hiện về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi và những biểu
hiện mới, đó là:
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 48
Trong nền kinh tế đã xuất hiện và phát triển nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt
là các ngành thuộc "phần mềm" như dịch vụ, bảo hiểm ... ngày càng chiếm tỷ
trọng lớn. Thích ứng với sự biến đổi đó, phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau
được mở rộng ra nhiều ngành, dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: công -
nông - thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc
phòng; ... Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp
hơn.
Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi. Cổ phiếu có mệnh
giá nhỏ được phát hành rộng rãi, khối lượng tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư có
thể mua được và trở thành các cổ đông nhỏ, ... kéo theo đó là "chế độ tham dự"
được bổ sung thêm bằng "chế độ uỷ nhiệm", nghĩa là những đại cổ đông được
"uỷ nhiệm" thay mặt cho đa số cổ đông có ít cổ phiếu quyết định phương
hướng hoạt động của công ty cổ phần.
Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới xâm nhập vào nền kinh tế
của các quốc gia khác, là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc
tế.
c) Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
- Hiện nay, xuất khẩu tư bản có những thay đổi lớn:
Thứ nhất, đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước phát triển
với nhau. Đó là do ở các nước này đã phát triển các ngành có hàm lượng khoa
học - kỹ thuật cao và hàm lượng vốn lớn, nên đầu tư vào đây thu được lợi
nhuận cao. Ở các nước đang phát triển có kết cấu hạ tầng lạc hậu, tình hình
chính trị kém ổn định, nên đầu tư có phần rủi ro và tỷ suất lợi nhuận của tư bản
đầu tư không còn cao như trước đây. Thứ hai, vai trò của các công ty xuyên
quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước
đang phát triển. Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen
giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên. Thứ tư, sự áp đặt mang
tính chất thực dân đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư
được đề cao.
d) Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc
quyền
Xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu
hướng khu vực hoá nền kinh tế. Sức mạnh và phạm vi bành trướng của các
công ty xuyên quốc gia tăng lên đã thúc đẩy xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu
hoá kinh tế và sự phân chia phạm vi ảnh hưởng giữa chúng với nhau, đồng thời
thúc đẩy việc hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền quốc tế.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 49


Xu hướng khu vực hoá, hình thành nhiều liên minh kinh tế khu vực. Việc phân
chia thế giới về kinh tế cũng có sự tham gia của một loạt nước đang phát triển
nhằm chống lại sức ép của các cường quốc tư bản. Tư bản độc quyền quốc tế
là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hoá thông qua các tổ chức kinh tế
quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực.
đ) Biểu hiện mới về sự phân chia lãnh thổ ảnh hưởng dưới sự chi phối của các
tập đoàn độc quyền
Các cường quốc tư bản vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách
thực hiện "chiến lược biên giới mềm", ra sức bành trướng "biên giới kinh tế"
rộng hơn biên giới địa lý, ràng buộc, chi phối các nước kém phát triển.
Những cuộc chiến tranh thương mại, sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên trong
hoặc đằng sau, trực tiếp hoặc gián tiếp các cuộc đụng độ đó, chính là các
cường quốc tư bản.
2. Biểu hiện mới của độc quyền nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản
a) Những biểu hiện mới về cơ chế quan hệ nhân sự
Thể chế đa nguyên trong phân chia quyền lực nhà nước trở thành phổ biến. Tại
các nước tư bản phát triển xuất hiện cơ chế thỏa hiệp để cùng tồn tại, cùng
phân chia quyền lực giữa các thế lực tư bản độc quyền.
b) Những biểu hiện mới về sở hữu nhà nước
Chi tiêu ngân sách thuộc quyền của giới lập pháp. Dự trữ quốc gia được sử
dụng trong những tình huống đặc biệt, cổ phần nhà nước trong các ngân hàng
và công ty lớn trở thành phổ biến.
Vai trò của đầu tư nhà nước ngày càng tăng lên. Các tập đoàn độc quyền
hưởng lợi cao khi thực hiện các đơn đặt hàng trong các dự án đầu tư của nhà
nước.
c) Biểu hiện mới trong vai trò công cụ điều tiết kinh tế của độc quyền nhà nước
Về chính trị, các chính phủ được tổ chức như một công ty cổ phần với sự
tham gia của các đảng đối lập nhưng vẫn đảm bảo quyền lực khống chế của
giai cấp tư sản độc quyền.
Viện trợ ưu đãi từ nguồn lực nhà nước cho nước ngoài có xu hướng gia tăng.
Nước tiếp nhận chỉ nhận được một phần ít ỏi bằng ngoại tệ, còn đa phần là
hàng hóa, công nghệ, thiết bị và chuyên gia của các nước cung cấp. Điều này
có lợi rất lớn cho các tập đoàn độc quyền.
3. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản
a) Vai trò tích cực
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 50
-Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
- Chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội; sản xuất tập trung với quy
mô lớn, hợp lý; chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc; mối liên
hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực, giữa các quốc gia ngày
càng chặt chẽ… làm cho các quá trình sản xuất liên kết với nhau và phụ thuộc
lẫn nhau thành một hệ thống.
b) Những giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản
- Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu là vì lợi ích của thiểu số
giai cấp tư sản
Mục đích này không phù hợp với thời đại phát triển của cách mạng công
nghiệp hiện đại, không phù hợp với yêu cầu của trình độ xã hội hóa cao của lực
lượng sản xuất, với quy luật phát triển của xã hội loài người.
- Chủ nghĩa tư bản đã và đang tiếp tục tham gia gây ra chiến tranh và xung đột
ở nhiều nơi trên thế giới.
Sang đầu thế kỷ XXI, hàng chục các cuộc chiến tranh cục bộ, chiến tranh khu
vực, chiến tranh sắc tộc và chiến tranh thương mại vẫn liên tiếp xảy ra, trong
đó hoặc đứng bên trong hay đằng sau, hoặc trực tiếp hay gián tiếp, hoặc ngấm
ngầm hay công khai đều có “bàn tay” của các cường quốc tư bản.
- Sự phân hóa giàu nghèo trong lòng các nước tư bản và có xu hướng ngày
càng sâu sắc.
Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Mặc dù quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những chừng mực nhất
định cũng đã không ngừng được điều chỉnh, mở rộng để mang tính xã hội hơn
về hình thức cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.
Điều này cho thấy, nền sản xuất ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay vẫn có
những sự thích ứng và những sự phát triển nhất định.
Song, về thực chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nên bảo vệ lợi ích cho
thiểu số giai cấp tư sản. Vì vậy, trong xã hội tư bản hiện đại mẫu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản vẫn không được giải quyết. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản
càng phát triển, mâu thuẫn cơ bản ngày càng gay gắt và chủ nghĩa tư bản phát
triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 51
thay bằng một quan hệ sản xuất khác dựa trên sở hữu xã hội về tư liệu sản
xuất để phù hợp với trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất.
***************************************
Chương 5
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH
KINH TẾ Ở VIỆT NAM

I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM


1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
- Kinh tế thị trường không phát triển theo một phương án duy nhất (phát triển
thành kinh tế TBCN), cũng không theo một mô hình đơn nhất (thị trường tự do).
Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển kinh tế thị
trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác định,
hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân tộc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo các quy
luật của thị trường, đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội
mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có sự điều tiết
của nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nói định hướng là nói sự vận động theo một hướng đã xác định, nhằm đạt tới
một đích cụ thể. Hướng đi ấy, như Đảng đã khẳng định là: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nói định hướng XHCN trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường ở Việt
Nam là nền kinh tế đó được xây dựng trên cơ sở một hệ tư tưởng nhằm xác
định hướng đi bảo đảm mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Sự lựa
chọn đó xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Một là: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với xu
hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế gớii hiện nay
- Kinh tế thị trường là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ
biến thể hiện ở cấu trúc khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường. Do vậy,
đối với bất cứ quốc gia nào chưa trải qua kinh tế thị trường, để giải quyết được
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 52
vấn đề phát triển, trước hết phải phát triển kinh tế thị trường. Chỉ trên cơ sở đó,
mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, có điều kiện vật chất và tinh thần để đáp ứng
các mục tiêu xã hội và nhân văn.
- Kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu khách
quan. Bởi lẽ những điều kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
không hề mất đi thì việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải được thực
hiện thông qua thị trường.
- Trong quá trình tiến hoá về mô hình của kinh tế thị trường trên thế giới, các
mô hình xuất hiện sau đều phản ánh một xu hướng chung trong sự phát triển
của kinh tế thị trường. Đó là: 1) Ngày càng nhấn mạnh các mục tiêu xã hội -
con người; 2) Thừa nhận vai trò định hướng, tổ chức và điều tiết phát triển của
nhà nước.
Mỗi nước có những mô hình kinh tế thị trường khác nhau. Kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở VN là một nền KTTT phù hợp với VN, phản ánh trình độ
phát triển và điều kiện của VN.
Có thể khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự lựa
chọn cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan, là phương tiện cần
thiết để đi đến mục tiêu của CNXH nhanh và có hiệu quả.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt
tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh, nhưng những mâu thuẫn vốn có
của nó không thể nào khắc phục được trong lòng xã hội tư bản, nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự tiến hóa. Do vậy,
nhân loại muốn tiến lên, muốn tiếp tục phát triển thì không thể dừng lại ở kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với xu thế của
thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc, sự lựa chọn đó không hề mâu
thuẫn với tiến trình phát triển của đất nước.
Hai là: Do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển VN
theo định hướng XHCN
Thực tiễn cho thấy kinh tế thị trường là phương thức làm kinh tế có hiệu quả
so với các mô hình kinh tế phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của
các quy luật thị trường, nền kinh tế luôn phát triển theo hướng năng động, kích
thích tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng
sản phẩm và giá thành hạ. Sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 53


Phát triển kinh tế thị trường sẽ phá vỡ tính chất tự cấp, tự túc của nền kinh tế;
đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề; tạo việc làm cho
người lao động; tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp
phần từng bước cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ
và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng miền trong nước
và với nước ngoài; khuyến khích tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động
kinh tế; tạo cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực xã hội một cách hợp lý,
tiết kiệm…
Như vậy, có thể xem phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước
đi quan trọng nhằm xã hội hóa nền sản xuất xã hội, là bước đi tất yếu của sự
phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của
người dân Việt Nam.
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát
vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa khát vọng như vậy, việc thực
hiện kinh tế thị trường hướng tới những giá trị như vậy là tất yếu khách quan.
Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu
khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển. Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đẩy mạnh phân công lao
động xã hội, phát triển ngành nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển bảo đảm tăng năng xuất lao động, tăng số lượng,
chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần từng bước cải thiện và
nâng cao đời sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở
rộng giao lưu kinh tế.Như vậy, có thể xem phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là bước đi quan trọng nhằm xã hội hóa nền
sản xuất xã hội, là bước đi tất yếu của sự phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn, là bước quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Đặc trưng của KTTT định hướng XHCN ở VN
a)Về mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là hướng tới phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật; nâng cao đời sống nhân dân, thực
hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Mục tiêu đó bắt nguồn từ cơ sở kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ và là sự
phản ánh mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta đang
phấn đấu. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, quá

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 54


trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp.
b)Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, trên cơ sở
chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động của quá trình
đó trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Sở hữu về mặt pháp lý được xem là quan hệ giữa người với người về đối
tượng sở hữu. Thông thường về mặt pháp lý, sở hữu được ghi trong hiến pháp,
luật của nhà nước, nó khẳng định ai là chủ thể của đối tượng sở hữu.
Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập. Sở hữu luôn hướng tới
lợi ích kinh tế, chính nó là động lực cho hoạt động kinh tế.
Sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu về hình thức, phạm vi mức độ là
do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Sự biến động của quan hệ sở hữu xét cả về mặt chủ thể và
đối tượng sở hữu.
Đối tượng sở hữu: Trong xã hội cộng sản nguyên thủy là cái sẵn có trong tự
nhiên (vật). Đến xã hội nô lệ, cùng với sở hữu vật là sở hữu người nô lệ. Xã hội
phong kiến đối tượng sở hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ lao động…)
trong xã hội tư bản, đối tượng sở hữu không chỉ về mặt hiện vật mà quan trọng
hơn về mặt giá trị, mặt tiền tệ. Ngày nay, cùng với sở hữu về mặt hiện vật và
giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú trọng nhiều đến sở hữu công nghiệp,
sở hữu trí tuệ, giáo dục…
Quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu
và sản xuất ra của cải vật chất. Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội phát
sinh, tồn tại và phát triển trong quá trình chiếm hữu, mà khi xem xét dưới góc
độ pháp lý nó bao gồm 3 bộ phận cấu thành chủ thể, khách thể và nội dung.
Các hình thức sở hữu
Hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó, do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, có sản phẩm dư thừa, có lực lượng chiếm làm của riêng nên xuất hiện tư
hữu. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó xuất hiện tất yếu do yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất và quy trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Sở
hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác liên doanh liên kết tự nguyện phát
hành mua bán cổ phiếu v.v…
Khái quát lại thì có hai hình thức cơ bản: Công hữu và tư hữu. Còn lại là kết
quả của sự kết hợp giữa chúng với nhau.
Quyền sở hữu là gì?
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 55
Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý. Nó có nhiệm vụ xác lập và bảo vệ
quyền của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Chế độ sở hữu là gì?
Phạm trù sở hữu khi được thể chế hoá thành quyền sở hữu được thực hiện
thông qua cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu được Nhà
nước xác lập và được ghi nhận trong hiến pháp.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế được đặc trưng
bởi những hình thức sở hữu nhất định tương ứng với nó là vấn đề tổ chức quản
lý và phân phối.
Đại hội XI xác định có 4 thành phần kinh tế: thành phần kinh tế nhà nước;
thành phần kinh tế tập thể; thành phần kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân) và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước được thể hiện trước hết và chủ yếu ở sức mạnh định hướng, hỗ trợ phát
triển và điều tiết nền kinh tế chứ không phải ở quy mô và sự hiện diện của các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước ở tất cả hoặc hầu hết các ngành, các lĩnh
vực.
c) Về quan hệ quản lý nền kinh tế
Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền
XHCN, sự làm chủ và giám sát của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị
trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Đảng lãnh đạo nền kinh tế thông qua cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế
- xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn trong từng thời kỳ, là yếu tố quan
trọng bảo đảm tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua pháp luật, các chiến lược, kế
hoạch, quy hoạch và cơ chế chính sách, cùng các công cụ kinh tế trên cơ sở
tôn trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng xã
hội XHCN. Nhà nước chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, tạo môi trường để phát triển đồng bộ các loại thị trường, khuyến khích
các thành phần kinh tế phát huy mọi nguồn lực để mở mang kinh doanh.
Thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ quản lý kinh tế, nhà nước tác
động vào thị trường nhằm bảo đảm tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ
mô; khắc phục những khuyết tật của thị trường. Nhà nước hỗ trợ thị trường
trong nước khi cần thiết, hỗ trợ các nhóm dân cư có thu nhập thấp, gặp rủi ro
trong cuộc sống…
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 56
d) Về quan hệ phân phối
Thực hiện phân phối công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng
các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ thể kinh tế (phân phối đầu vào),
đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông
qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Trong các hình thức phân phối đó, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
tế, phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh định hướng
XHCN của nền kinh tế thị trường.
đ) Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát
triển của kinh tế thị trường.
Đây là đặc trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bởi tiến bộ và công bằng xã
hội vừa là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa
là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
phải hiện thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện công bằng xã hội không chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu
nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo ra những điều kiện, tiền
đề cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: Giáo dục, y tế, việc làm... Nhà nước
vừa phải quan tâm đầu tư thỏa đáng vừa phải coi trọng huy động các nguồn lực
trong nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội và mỗi người.
Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với
bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường
hiện đại, văn minh. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều
yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.
II. HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam
a) Thể chế và thể chế kinh tế
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 57
Thể chế là những quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm
điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội.
Thể chế kinh tế là hệ thống quy tắc, luật lệ, bộ máy quản lý và cơ chế vận
hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất
kinh doanh và các quan hệ kinh tế.
Các bộ phận cơ bản của thể chế kinh tế bao gồm: Hệ thống pháp luật về
kinh tế của nhà nước và các quy tắc xã hội được nhà nước thừa nhận; hệ thống
các chủ thể thực hiện các hoạt động kinh tế; các cơ chế, phương pháp, thủ tục
thực hiện các quy định và vận hành nền kinh tế.
b) Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là hệ thống đường lối, chủ
trương chiến lược,luật pháp, cơ chế, chính sách, các quy định, quy tắc, chế
định, điều tiết hành vi của mọi chủ thể, mọi quá trình diễn ra trong nền kinh tế
nhằm tạo điều kiện cho sự hình thành, vận hành thông suốt và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Lý do phải thực hiện hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Thứ nhất, do thể chế còn chưa đồng bộ
Thứ hai, hệ thống thể chế chưa đầy đủ.
Thứ ba, hệ thống thể chế còn kém hiệu lực, hiệu quả, thiếu các yếu tố thị
trường và các loại thị trường
2. Nội dung hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN ở VN
a) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp
Hoàn thiện thể chế về sở hữu cần thực hiện các nội dung sau:
Một là, thể chế hóa đầy đủ quyền tài sản để quyền tài sản được giao dịch
thông suốt; bảo đảm hiệu lực thực thi và bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu tài
sản.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai để huy động và sử dụng hiệu
quả đất đai, khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng phí.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên
thiên nhiên.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn nhà nước, sử dụng có hiệu quả
các tài sản công; phân biệt rõ tài sản đưa vào kinh doanh và tài sản để thực
hiện mục tiêu chính sách xã hội.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 58


Năm là, hoàn thiện hệ thống thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến
khích đổi mới, sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ.
Sáu là: Hoàn thiện khung pháp luật về hợp đồng và giải quyết tranh chấp
dân sự theo hướng thống nhất, đồng bộ. Phát triển hệ thống đăng ký các loại
tài sản, nhất là bất động sản.
Bảy là, Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia.
- Hoàn thiện thể chế phát hiển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp cần thực hiện:
Một là, thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Mọi doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường,
bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về đầu tư, kinh doanh, xóa bỏ các rào cản đối
với hoạt động đầu tư, kinh doanh; bảo đảm đầy đủ quyền tự do kinh doanh của
các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy định; xóa bỏ các rào cản đối với
hoạt động đầu tư, kinh doanh.
Ba là, hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; xử
lý dứt điểm tình trạng chồng chéo các quy định về điều kiện kinh doanh.
Bốn là, rà soát, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, đầu tư công và các quy
định pháp luật có liên quan, kiên quyết xóa bỏ các quy định bất hợp lý.
Năm là, hoàn thiện thể chế về các mô hình sản xuất kinh doanh, nâng cao
hiệu quả của các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp, các
nông lâm trường.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy các thành phần kinh tế, các khu
vực kinh tế phát triển đồng bộ để góp phần xác lập trình độ phát triển dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Trong đó cần tạo thuận lợi
để phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế,
Thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công
nghệ hiện đại và năng lực quản trị tiền tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát
triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Bảy là, hoàn thiện thể chế thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài theo
hướng chủ động lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài có chuyển giao công
nghệ và quản trị hiện đại, có cam kết liên kết, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 59


tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, phù hợp với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế
và các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế.
b) Hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại
thị trường
Một là, hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường.
Các yếu tố thị trường như hàng hóa, giá cả, cạnh tranh, cung cầu ... cần phải
được vận hành theo nguyên tắc thể chế kinh tế thị trường. Muốn vậy, hệ thống
thể chế về giá, về thúc đẩy cạnh tranh, về chất lượng hàng hóa, dịch vụ... cần
phải được hoàn thiện để thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường.
Hai là, hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các
loại thị trường
Các loại thị trường cơ bản như thị trường hàng hóa, thị trường vốn, thị trường
công nghệ, thị trường hàng hóa sức lao động... cần phải được hoàn thiện. Đảm
bảo sự vận hành thông suốt, phát huy tác động tích cực, cộng hưởng của các
thị trường đối với sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
c) Hoàn thiện thể chế để đảm bảo gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến
bộ và công bằng xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế
Xây dựng hệ thống thể chế để có thể kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế
nhanh và bền vững với phát triển xã hội bền vững, thực hiện tiến bộ xã hội, tạo
cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội tham gia và hưởng thụ công bằng thành
quả của quá trình phát triển.
Xây dựng và hoàn thiện thể chể về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện
nay cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh hệ thống pháp luật và các thể
chế liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Hai là, thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong
hợp tác kinh tế quốc tế, không để bị lệ thuộc vào một số ít thị trường. Nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia, tiềm lực của các doanh nghiệp trong nước. Xây
dựng và thực hiện các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản ứng nhanh
nhạy trước các diễn biến bất lợi trên thị trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia -
dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển của đất nước.
d) Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và
hệ thống chính trị
Xây dựng hệ thống thể chế đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế của nhà nước, phát huy vai
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 60
trò làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
III. CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế
a) Lợi ích kinh tế
Khái niệm
Lợi ích bắt nguồn từ nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy
sinh lợi ích. Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất mà chủ thể có được khi thực hiện
các hoạt động kinh tế.
Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất xã hội.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách
quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ
thống quan hệ sản xuất quyết định.
Biểu hiện của lợi ích kinh tế
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành:
Lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các
thành phần kinh tế đó.
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế
của người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập
như: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí...
Vai trò của lợi ích kinh tế
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế -
xã hội.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác. Trong hệ
thống các lợi ích kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, thì lợi ích kinh tế
giữ vai trò quyết định nhất, chi phối các lợi ích khác. Khi lợi ích kinh tế được
thực hiện thì nó tạo cơ sở, tiền đề để thực hiện các lợi ích khác.
Lợi ích kinh tế là cơ sở, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của mỗi con
người nói riêng, cũng như xã hội nói chung. Lợi ích kinh tế là động lực của các
hoạt động kinh tế, của sự phát triển xã hội.
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 61
b) Quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích là sự thiết lập những tương tác giữa các chủ thể, giữa các bộ
phận hợp thành nền kinh tế, giữa quốc gia với các quốc gia khác nhằm mục
tiêu xác lập các lợi ích kinh tế.
Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ
thống, trong đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác.
Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế của
người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách
biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng lấn át của lợi ích kinh tế
này đối với lợi ích kinh tế khác. Do đó, nó có thể gây nên những xung đột nhất
định, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế
Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng
tốt. Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của các quốc gia.
Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội . Quan hệ
sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí,
vai trò của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt
động kinh tế - xã hội. Do đó, không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ
sản xuất và trao đổi.
Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước . Chính sách phân phối
thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của
các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, tức là
lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh
mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường
Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động
Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động thể hiện tập trung ở lợi nhuận. Lợi
ích kinh tế của người lao động thể hiện tập trung ở thu nhập (trước hết là tiền
lương, tiền thưởng). Lợi ích kinh tế của 2 đối tượng này vừa thống nhất, vừa
mâu thuẫn với nhau.
Sự thống nhất thể hiện: nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động
kinh tế trong điều kiện bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận; đồng thời, họ sẽ
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 62
tiếp tục sử dụng lao động nên người lao động cũng thực hiện được lợi ích kinh
tế của mình. Về phía người lao động, nếu người lao động tích cực làm việc, lợi
ích kinh tế của họ được thực hiện thông qua tiền lương được nhận, đồng thời,
góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động.
Sự mâu thuẫn thể hiện, tại một thời điểm nhất định, thu nhập của người sử
dụng lao động tăng lên thì tiền lương của người lao động giảm xuống và ngược
lại. Vì lợi ích của mình, người sử dụng lao động luôn tìm cách cắt giảm tới mức
thấp nhất các khoản chi phí trong đó có tiền lương của người lao động để tăng
lợi nhuận; người lao động đấu tranh đòi tăng lương. Nếu mâu thuẫn không
được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng xấu tới các hoạt động kinh tế.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao
động đã thành lập các tổ chức riêng. Công đoàn là tổ chức quan trọng nhất
bảo vệ quyền lợi người lao động. Người sử dụng lao động có các nghiệp đoàn,
hội nghề nghiệp… Trong xã hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cần phải tuân
thủ các quy định của pháp luật.
Hai là, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động
Trong cơ chế thị trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa
là đối thủ của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế
giữa họ. Những người sử dụng lao động liên kết và cạnh tranh với nhau trong
ứng xử với người lao động, với những người cho vay vốn, cho thuê đất, với nhà
nước, trong chiếm lĩnh thị trường…
Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người sử
dụng lao động làm cho họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả là các các
doanh nghiệp có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội và các rủi ro khác sẽ bị
thua lỗ, phá sản….
Những người sử dụng lao động không chỉ cạnh tranh trong cùng một ngành,
mà còn cạnh tranh giữa các ngành. Sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế giữa những người sử dụng lao động biểu hiện tập trung ở lợi nhuận bình
quân mà họ nhận được. Quan hệ chặt chẽ về lợi ích kinh tế giữa những người
sử dụng lao động làm cho họ trở thành đội ngũ doanh nhân. Trong cơ chế thị
trường, đội ngũ này đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội nên
cần được tôn vinh, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động
Nếu có nhiều người bán sức lao động, người lao động phải cạnh tranh với
nhau. Hậu quả là tiền lương của người lao động bị giảm xuống, một bộ phận
người lao động bị sa thải. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau,

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 63


họ có thể thực hiện được các yêu sách của mình (ở một chừng mực nhất định)
đối với giới chủ (những người sử dụng lao động).
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, những người lao động đã
thành lập tổ chức riêng. Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao
động trong giải quyết các mối quan hệ là rất cần thiết nhưng phải dựa trên các
quy định của pháp luật.
Bốn là, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội
Trong cơ chế thị trường, lợi ích cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người
lao động, người sử dụng lao động đều là thành viên của xã hội nên mỗi người
đều có lợi ích cá nhân và có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Nếu người lao
động và người sử dụng lao động thực hiện được các lợi ích kinh tế của mình, thì
họ đã góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội.
Ngược lại, nếu giữa người lao động và người sử dụng lao động nảy sinh mâu
thuẫn không giải quyết được; hoặc họ cộng tác với nhau làm hàng giả, hàng
nhái, trốn thuế… thì lợi ích kinh tế của xã hội sẽ bị tổn hại.
Lợi ích xã hội đóng vai trò định hướng cho lợi ích cá nhân và các hoạt động
thực hiện lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội là cơ sở của sự thống nhất giữa các lợi
ích cá nhân, tạo ra sự thống nhất trong hoạt động của các chủ thể khác nhau.
Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng ngành, cùng lĩnh vực, liên kết với
nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng (lợi ích cá nhân, tổ
chức) của họ hình thành nên “lợi ích nhóm”. Đó là các hiệp hội ngành nghề,
các tổ chức chính trị, xã hội, các nhóm dân cư chung một số lợi ích theo vùng,
theo sở thích... Đó là mô hình liên kết giữa 4 nhà trong nông nghiệp: nhà nông –
nhà doanh nghiệp – nhà khoa học – nhà nước; mô hình liên kết trên thị trường
nhà ở: nhà doanh nghiệp kinh doanh bất động sản – ngân hàng thương mại –
người mua nhà...
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” nếu phù hợp với lợi ích quốc gia, không gây
tổn hại đến các lợi ích khác cần được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện vì đất
nước có thêm động lực phát triển; ngược lại, khi chúng mâu thuẫn với lợi ích
quốc gia, làm tổn hại các lợi ích khác thì cần phải ngăn chặn.
Trong thực tế, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có sự tham gia của công chức,
viên chức hoặc các cơ quan công quyền nhiều khả năng sẽ tác động tiêu cực
đến lợi ích xã hội và các lợi ích kinh tế khác vì quyền lực nhà nước sẽ bị lạm
dụng và phục vụ cho lợi ích của các cá nhân. Điều cần lưu ý, “lợi ích nhóm” và
“nhóm lợi ích” tiêu cực thường không lộ diện. Vì vậy, việc chống “lợi ích nhóm”
và “nhóm lợi ích” tiêu cực vô cùng khó khăn. Để bảo đảm sự thống nhất giữa lợi

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 64


ích cá nhân và lợi ích xã hội, việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu
cực phải được thực hiện quyết liệt, thường xuyên.
Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Có 2 phương thức cơ bản để thực hiện lợi ích kinh tế:
- Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường.
- Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trò
của các tổ chức xã hội (nhằm khắc phục hạn chế của phương thức thứ nhất)
2. Vai trò nhà nước trong bảo đảm hài hòa các quan hệ lợi ích
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế
của các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn được hạn chế, tránh được va chạm,
xung đột; mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều
rộng và chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần
thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
a) Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không
ngừng mở rộng. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trước
hết là giữ vững ổn định về chính trị.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng
được môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ được lợi ích chính đáng của
các chủ thể kinh tế, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, hệ thống pháp luật còn phải tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc
tế.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Nhà nước phải đưa ra được các
chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Tạo lập
môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. Đó là môi
trường trong đó con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật;
giữ chữ tín…
b) Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các chủ thể là khách quan, nhưng mặt
khác phải điều tiết sự chênh lệch thu nhập quá lớn. Vì sự phân hóa xã hội thái
quá có thể dẫn đến căng thẳng, tạo xung đột xã hội. Phân phối không chỉ phụ
thuộc vào quan hệ sở hữu mà còn phụ thuộc vào sản xuất, vào sự phát triển

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 65


của lực lượng sản xuất. Do vậy, phát triển lực lượng sản xuất là điều kiện vật
chất để thực hiện ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối.
c) Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với
sự phát triển xã hội
Trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như buôn
lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng… tồn tại khá phổ biến. Để
chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh
tế, trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Thứ hai, nhà
nước phải kiểm soát được thu nhập của công dân, trước hết là thu nhập của
cán bộ, công chức nhà nước. Thứ ba, xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp
và thực thi luật pháp thật sự nghiêm túc. Thứ tư, phải công khai, minh bạch mọi
cơ chế, chính sách và quy định của nhà nước... Thứ năm, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
d) Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Khi các mâu thuẫn phát sinh cần được giải quyết kịp thời. Muốn vậy, các cơ
quan chức năng của nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm phát hiện mâu
thuẫn và chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó. Nguyên tắc giải quyết mâu
thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là phải có sự tham gia của các bên liên quan, có
nhân nhượng và phải đặt lợi ích đất nước lên trên hết. Khi có xung đột giữa các
chủ thể kinh tế, cần có sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên
quan, đặc biệt là nhà nước.
***************************************
Chương 6
CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
I. CÔNG NGHIỆP HÓA. HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Khái quát cách mạng công nghiệp và công nghiệp hóa
a) Khái quát về cách mạng công nghiệp
Công nghiệp theo nghĩa hẹp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế
quốc dân có nhiệm vụ khai thác tài nguyên, chế biến nguyên nhiên liệu để tạo
ra các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Sản xuất công nghiệp được tiến
hành theo quy trình và tổ chức chặt chẽ, dựa vào sự phát triển ngày càng cao
của KH-KT mang tính chủ động của con người, ít phụ thuộc vào thiên nhiên.
Công nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao hàm tất cả những hoạt động
kinh tế mang tính công nghiệp và được tổ chức ở phạm vi rộng. Tức là tư duy,

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 66


kiểu cách, phương pháp, tác phong công nghiệp xâm nhập và chi phối hoạt
động tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý của các lĩnh vực.
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ
của tư liệu lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công
nghệ trong quá trình phát triển của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về
phân công lao động xã hội cũng như tạo bước phát triện năng suất lao động
cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ
thuật - công nghệ đó vào đời sống xã hội.
Khái quát lịch sử các cuộc cách mạng công nghiệp
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (Cách mạng 1.0)
Khởi phát từ nước Anh, bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX.
Tiền đề của cách mạng công nghiệp lần thứ nhất:
Từ thế kỷ XV, kinh tế hàng hóa ở Tây Âu đã phát triển khá mạnh, đặc biệt từ
thế kỷ XVII – XVIII, với sự phát triển của công trường thủ công tư bản.
Về mặt chính trị - xã hội, cuộc cách mạng tư sản Anh (1640-1689) đã đưa
giai cấp tư sản lên cầm quyền, mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Giai
cấp tư sản Anh đã thực hiện những biện pháp thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp và thương mại, tạo điều kiện cho cuộc cách mạng công nghiệp thành
công.
Nội dung cơ bản: Chuyển từ lao động thủ công thành lao động sử dụng máy
móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng năng lượng nước và hơi
nước.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai (Cách mạng 2.0)
Diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Nội dung cơ bản: sử dụng năng lượng điện và động cơ điện, để tạo ra các
dây chuyền sản xuất có tính chuyên môn hoá cao, chuyển nền sản xuất cơ khí
sang nền sản xuất điện - cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong
sản xuất.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai cũng đã tạo ra những tiến bộ vượt
bậc trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Các nhà khoa học cũng tìm ra
những nguồn năng lượng mới như: năng lượng nguyên tử, gió, mặt trời... trong
đó năng lượng nguyên tử ngày càng được sử dụng rộng rãi.
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai:
Nâng cao hơn nữa năng suất lao động, tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, từ nông nghiệp sang
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 67
công nghiệp - dịch vụ, thương mại, đồng thời dẫn đến quá trình đô thị hoá,
chuyển dịch dân cư từ nông thôn sang thành thị.
Đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển
biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba (Cách mạng 3.0)
Bắt đầu từ khoảng những năm đầu thập niên 60 đến cuối thế kỷ XX.
Nội dung cơ bản
Sử dụng công nghệ thông tin để tự động hoá sản xuất. Các tiến bộ về hạ
tầng điện tử, máy tính và số hoá vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất
bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân và Internet.
Chuyển từ công nghiệp điện tử - cơ khí, sang công nghệ số. Sản phẩm với
sự chuyên môn hoá cao, cùng với sự phát triển của mạng Internet, máy tính
điện tử, điện thoại DĐ. Những tiến bộ kỹ thuật – công nghệ nổi bật là hệ thống
mạng, máy tính cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot công
nghiệp.
Vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ ba
Công nghệ kỹ thuật số và Internet đã kết nối giữa doanh nghiệp với doanh
nghiệp, giữa doanh nghiệp với cá nhân và giữa các cá nhân với nhau trên
phạm vi toàn cầu, dần hình thành một “thế giới phẳng”; tạo điều kiện để
chuyển biến các nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0)
Hình thành trên cơ sở cuộc cách mạng số, gắn với sự phát triển và phổ biến
của Internet kết nối vạn vật (Internet of Things – IoT). Cách mạng 4.0 được phát
triển ở ba lĩnh vực chính là vật lý, công nghệ số và sinh học. Công nghệ số với
những công nghệ nổi bật là Internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, trí thông minh
nhân tạo.
Vai trò của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0)
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được dự báo sẽ có quy mô vô cùng lớn và
lan truyền với tốc độ nhanh chóng và mạnh mẽ. Nó sẽ làm thay đổi nhận thức
của con người trong nhiều lĩnh vực, tái tạo lại thế giới mà chúng ta đã biết, giúp
chúng ta có những định hướng đúng đắn trong tương lai; làm thay đổi hệ thống
sản xuất, chuyển sản xuất từ tập trung sang phân cấp. Trí thông minh nhân tạo
làm thay con người trong nhiều quá trình sản xuất, tạo ra sự tương tác giữa con
người với công nghệ và sản phẩm. Công nghệ thông tin và truyền thông thông
minh giúp trao đổi và trả lời các thông tin để quản lý quá trình sản xuất.

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 68


Vai trò của các cuộc cách mạng công nghiệp
Thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Thúc đẩy đổi mới phương thức quản trị phát triển
b) Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
Công nghiệp hoá là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho
nền kinh tế quốc dân, biến một nước có nền kinh tế kém phát triển thành nước
có nền kinh tế phát triển, thành nước công nghiệp hiện đại.
Nước công nghiệp là nước không những sản xuất công nghiệp, mà tư duy,
phương pháp, tác phong công nghiệp được thể hiện ở tất cả các lĩnh vực hoạt
động của đời sống kinh tế – xã hội và giữ vị trí chi phối.
Mô hình công nghiệp hóa cổ điển
- Dựa vào cách mạng kỹ thuật với tiêu chí cơ giới hóa, điện khi hóa, theo
đuổi hiệu quả và hiệu suất, trình độ chuyên môn hóa ngày càng cao, khai thác
thuộc địa.
- Chú ý nhiều đến mặt kinh tế, coi trọng tăng trưởng hơn phát triển, tăng
trưởng chủ yếu theo phương thức chiều rộng
- Xu thế đô thị hóa
- Thời gian thực hiện: hàng trăm năm
- Tạo ra bất công xã hội, phân cực giàu nghèo, thất nghiệp
- Lãng phí tài nguyên, hủy hoại môi trường
Mô hình công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung (kiểu Liên xô)
Thực hiện: Liên xô, Trung quốc, nhiều nước Đông Âu
Nhờ tập trung cao độ các nguồn lực, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà
Liên xô đã tạo ra một sức mạnh kinh tế vô cùng lớn
Nhược điểm:
- Cơ cấu kinh tế không cân đối
- Hy sinh nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, tiết chế tiêu dùng để tích lũy
Mô hình công nghiệp hóa Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs)
Dựa vào phát triển khoa học công nghệ mà không dựa vào thị trường
Thời gian: giữa XX
Thực hiện: các nước đang phát triển
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 69
Đặc điểm:
- Khắc phục những nhược điểm của công nghiệp hóa cổ điển
- Gắn kết với hiện đại hóa; kinh tế và công nghệ phát triển song song, phát
triển công nghệ thông tin, công nghệ cao, tiếp cận kinh tế tri thức
Phát triển bền vững, coi trong cả kinh tế, xã hội và môi trường
2. Tính tất yếu khách quan và nội dung của CNH, HĐH ở Việt Nam
a) Tính tất yếu khách quan của CNH, HĐH ở Việt Nam

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử
dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại; dựa trên sự
phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.
Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
bao gồm:
Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến
của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù ở
các quốc gia phát triển sớm hay các quốc gia đi sau.
Hai là, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách
quan, một quy luật KT mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật
tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các
yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật
(công nghệ) tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí
hoá.
CNXH - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa tư
bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình độ kỹ
thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:
GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 70
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và Việt
Nam đang tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b) Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản
xuất - xã hội lạc hậu sang nền sản xuất - xã hội tiến bộ.
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất - xã hội lạc hậu
sang nền sản xuất - xã hội hiện đại. Cụ thể là:
- Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
- Sẳn sàng thích ứng với tác động của bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4
II- HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
a) Khái niệm và sự cần thiết khách quan hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện
gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích
đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề chủ yếu:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan;
- Giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan;
- Giảm bớt các hạn chế đối với dịch vụ;
- Giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế;
- Điều chỉnh các chính sách thương mại khác;
- Triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu.
Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 71


Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các
nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và
kém phát triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách
với các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ
mô.
Bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
- Đó là sự liên hệ, phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh
tế quốc gia và nền kinh tế thế giới.
- Là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và
đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh
nhưng đồng thời cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn.
- Vừa tạo điều kiện thuận lợi vừa yêu cầu và gây sức ép đối với các quốc gia
trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế.
- Tạo điều kiện cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế
trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất.
- Tạo điều kiện cho sự di chuyển hàng hóa, công nghệ, sức lao động, kinh
nghiệm quản lý giữa các quốc gia.
Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để hội nhập hiệu quả, thành công.
Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập.
Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế
đối ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu
tư - quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ...
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt Nam
Tích cực Tiêu cực
Thúc đẩy xuất khẩu Nhập khẩu tăng mạnh
Tạo điều kiện mở rộng thị Chịu sức ép cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 72


trường, tiếp thu KHCN, thu hút nước ngoài, dẫn đến nhiều ngành trong
đầu tư nước ngoài, chuyển dịch nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở
cơ cấu kinh tế, nâng cao chất cửa thị trường (các mặt hàng nông sản, các
lượng nguồn nhân lực ngành dịch vụ…)
Tăng trưởng kinh tế, việc làm Không gian điều chỉnh chính sách bị thu
hẹp
Phát triển giáo dục, văn hóa, Thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm
xã hội
Thay đổi hệ thống pháp lý một Nông dân bị tổn thương từ những cam kết
cách rõ ràng, minh bạch hơn mở cửa thị trường trong lĩnh vực nông
nghiệp
Tái cấu trúc nền kinh tế Nguy cơ bản sắc DT, văn hóa DT bị xói
mòn
Hội nhập sâu rộng vào kinh tế Tình trạng buôn lậu, tội phạm xuyên quốc
khu vực, thế giới gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Nâng cao vị thế của Việt Nam Có thể tạo ra 1 số thách thức đối với quyền
trên trường quốc tế, thúc đẩy lực nhà nước, chủ quyền quốc gia
quan hệ với các đối tác chủ
chốt

6.2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong phát
triển của Việt Nam
a) Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại
b) Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp
c) Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện
đầy đủ các cam kết của VN trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực
d) Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
đ) Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
e) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ

GV. Nguyễn Minh Hiền_Khoa LLCT_UFM 73

You might also like