You are on page 1of 62

TRẢ LỜI CÂU HỎI ÔN TẬP

MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


Câu 1: Phân tích những điều kiện Kinh tế- Xã hội cho sự ra đời chủ nghĩa
xã hội không tưởng.
Trả lời:
- Khái niệm: Chủ nghĩa xã hội không tưởng là dùng để chỉ những học thuyết,
những quan điểm phản ánh khát vọng về việc giải phóng xã hội khỏi tình
trạng người áp bức, bóc lột người và xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng
ấm no hạnh phúc. Nhưng do những hạn chế lịch sử, những học thuyết,
những quan điểm này không thể chỉ ra được cách thức và lực lượng xã hội
thực hiện những khát vọng đó. Vì thế những học thuyết này là không tưởng.
+Chủ nghĩa xã hội không tưởng ra đời khi con người có ý thức. Nó thể
hiện qua câu truyện cổ tích, sử thi. Nó thể hiện khát vọng công bằng, tự
do, khát vọng chinh phục tự nhiên. Nó còn đóng góp việc hình thành tôn
giáo. Tuy vậy theo Engels thì chủ nghĩa này vẫn chưa chín muồi vì lý
luận chưa chín muồi đó chính là phù hợp với tình trạng chưa chín muồi
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp
chưa chín muồi.
+ Theo những người Marxist, chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán
sâu sắc chủ nghĩa tư bản và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của giai cấp côgn
nhân. Tuy nhiên, nó khôn thấy được bản chất của chủ nghũa tư bản,
không vạch ra được con đường giải phóng nhân dân lao động và phủ
nhận đấu tranh giai cấp.
- Điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời Chủ nghĩa xã hội không tưởng.
+ Cơ sở kinh tế: Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đến
một thời điểm, do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã hình thành chế
độ sở hữu tư nhân về ruộng đất và các tư liệu sản xuất chủ yếu khác. Đây
chính là cơ sở kinh tế của sự phân chia giai cấp, phân chia giàu nghèo,
tình trạng bất công, nạn người áp bức, bóc lột người; là điều kiện kinh tế
cho sự xuất hiện, hình thành những tư tưởng mang tính xã hội chủ nghĩa.
+ Cơ sở xã hội: Trong xã hội có phân chia giai cấp, mâu thuẫn giai cấp
và cuộc đấu tranh giai cấp chính là cơ sở xã hội làm nảy sinh những
nguyện vọng, mong muốn xóa bỏ tình trạng bất công nạn người áp bức
bóc lột người. Có thể nói những nguyện vọng, những tư tưởng này đều có
tính chất xã hội chủ nghĩa.
=》Kết luận: Trải qua các thời kỳ, từ thời cổ đại tung đại rồi đến cận
đại những nguyện vọng mong ước mang tính xã hội chủ nghĩa nói trên
của tầng lớp lao khổ bị áp bức bọc lột đã được thực hiện dưới nhiều hình
thức. Đặc điểm chung của những tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong các thời
kỳ này là không tưởng, không chỉ ra được chính xác, đúng đắn những
biện pháp cũng như những lực lượng xã hội tiền hành biến những ước
mơ, nguyện vọng tốt đẹp nói trên thành hiện thực.
Câu 2: Phân tích những giá trị lịch sử của Chủ nghĩa xã hội không tưởng
thể hiện qua một số quan điểm của các nhà không tưởng?

Trả lời:

- Định nghĩa Chủ nghĩa xã hội không tưởng :

Chủ nghĩa xã hội không tưởng là khái niệm dùng để chỉ những học
thuyết, những quan điểm phản ánh khát vọng về việc giải phóng xã hội
khỏi tình trạng người áp bức, bóc lột người và xây dựng một xã hội bình
đẳng, ấm no, hạnh phúc. Nhưng do hạn chế lịch sử, những học thuyết,
những quan điểm này không thể chỉ ra được cách thức và lực lượng xã
hội thể hiện những khát vọng đó. Vì thế những học thuyết này là không
tưởng.

- Những giá trị lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng :

+ Phê phán chủ nghĩa tư bản

( ví dụ: Tômát Morơ(1478- 1535), Tômađô Campanenla (1568-1639),


Grắccơ Babớp (1760- 1797), Hăngri Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê, Rôbớt
Ôoen.)

Quan điểm kinh tế của Saint Simon:

 Ông phê phán chủ nghĩa tư bản là xã hội tạo ra tầng lớp người giàu có
và một tầng lớp người nghèo khổ; một xã hội như thế là một xã hội
hoàn thiện, không tốt đẹp vì nó diễn ra sự bóc lột lẫn nhau, hơn thế
nữa nó còn diễn ra sự lừa bịp nhau, tự do cạnh tranh, chèn ép lẫn
nhau; về phía Nhà nước thì không chăm lo, cải thiện đời sống của
người lao động.

->Khi phân tích kết cấu của xã hội tư bản, ông đã gọi chung giai cấp công
nhân, các nhà tư bản và thương nhân là những nhà công nghiệp, còn tầng
lớp khác như quý tộc, thầy tu, cha cố được ông gọi là giai cấp không sinh
lợi.
Quan điểm kinh tế của Charles Fourier:

->Theo ông, chủ nghĩa tư bản là xã hội đã phung phí lao động dẫn tới
hình thành đội quân lớn những người không sản xuất, vì ông cho rằng chỉ
có lao động thực tế cần thiết cho xã hội mới là lao động sản xuất.

->Nguồn gốc của sự đau khổ là thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, thương
nghiệp là ăn cắp, nói dối, lừa đảo, đầu cơ nâng giá… Vì vậy phải thủ tiêu
chế độ tư bản chủ nghĩa.

->Theo ông, sự vô chính phủ trong sản xuất sẽ đẻ ra cạnh tranh giữa các
nhà kinh doanh và không tránh khỏi các cuộc khủng hoảng cũng như sự
bần cùng của những người lao động. Sự nghèo đói là do sự thừa thãi sinh
ra, nỗi bất hạnh của quần chúng là không có việc làm.

->Ông cho rằng, tập trung sản xuất cao sẽ đẻ ra độc quyền tư bản và độc
quyền tất yếu sẽ thay thế cạnh tranh tự do.

Quan điểm kinh tế của Robert Owen:

->Ông đã đả kích một cách gay gắt chế độ tư hữu, coi đó là nguyên nhân
của mọi tai họa trongxã hội tư bản, bởi vì nó đẻ ra lòng ích kỷ, chủ nghĩa
cá nhân, sự cạnh tranh, tình trạng vô chính phủ trong sản xuất và phân
phối. Trong xã hội tư bản, đồng tiền là mục đích cao nhất.

->Những thảm họa do chủ nghĩa tư bản gây lên (ngày lao động bị kéo dài,
tăng cường độ lao động, thất nghiệp, sử lạm dụng lao động phụ nữ và trẻ
em…) là do con người và lao động của họ bị mất giá, là do đồng tiền
dưới chủ nghĩa tư bản gây ra.

->Trong lĩnh vực phân phối, ông cho rằng: phân phối qua đồng tiền và
thương nghiệp là có hại cho xã hội; tham gia vào việc phân phối này có
rất nhiều người trung gian như thương nghiệp, chủ ngân hàng, kẻ đầu
cơ… Tất cả họ đều làm ra giá trị, song họ lại làm tăng nó vì những chi
phí đủ loại. Ông đi đến đề cao trao đổi bằng hiện vật trực tiếp.

+ Nêu những luận điểm có giá trị tương lai

( ví dụ: Quan điểm kinh tế của Saint Simon:


->Chế độ tương lai được ông gọi là hệ thống công nghiệp mới trong đó
sẽ thực hiện nguyên tắc “mỗi người làm theo năng lực, mỗi năng lực sẽ
được trả công theo lao động”.

->Trong xã hội tương lai, theo ông sẽ không có bóc lột lẫn nhau nữa, thay
thế cho sự bóc lột đó là sự “bóc lột” thế giới tự nhiên, “bóc lột” vật phẩm,
tình trạng người thống trị sẽ được thay thế bằng sự thống trị của người
đối với tự nhiên.

->Theo ông, trong xã hội tương lai sẽ không còn Nhà nước, chính quyền
sẽ được chuyển vào tay các nhà công nghiệp và các nhà bác học.

->Con đường cải tạo xã hội cũ là mong chờ vào những biện pháp tinh
thần, bằng việc kêu gọi lòng tốt của tất cả các giai cấp trong xã hội. Chứ
không nhằm vào việc cải tạo các cơ sở kinh tế của xã hội cũ.

Quan điểm kinh tế của Charles Fourier:

->Qua các tác phẩm của mình, ông mong muốn xây dựng một xã hội
tương lai – xã hội xã hội chủ nghĩa. Ở đó đời sống của nhân dân sã được
cải thiện hoàn toàn, những tệ nạn của xã hội tư sản không còn nữa, chế độ
dựa trên nền sản xuất tập thể - hiệp hội sản xuất.

->Xây dựng xã hội mới phải trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 là “chủ
nghĩa bảo đảm, nửa hiệp hội”; giai đoạn 2 là “chủ nghĩa xã hội, hiệp hội
giản đơn”; giai đoạn 3 là “sự hòa hợp, hiệp hội phức tạp”. Trong đó, giai
đoạn 1 và 2 là những giai đoạn chuẩn bị những điều kiện cơ sở vật chất
kỹ thuật cần thiết, là giai đoạn xây dựng một nền sản xuất lớn, phá vỡ sản
xuất nhỏ. Giai đoạn 3 là giai đoạn phát triển cao nhất, ở đó mọi thành
viên xã hội đều được phát huy đầy đủ mọi năng lực của mình.

->Cơ sở để xây dựng xã hội mới là nền đại sản xuất. Nhưng ông lại coi
nông nghiệp là cơ sở của nền sản xuất xã hội, còn công nghiệp dù quan
trọng đến đâu cũng là thứ 2, giữ vai trò bổ sung cho nông nghiệp.

 Theo ông, nâng cao năng suất lao động là sự hăng say lao động của
con người mới trong xã hội mới, từ đó mới có khả năng xóa bỏ nhà
nước, quân đội, cảnh sát và các cơ quan quyền lực khác.

Quan điểm kinh tế của Robert Owen:


->Cơ sở của chế độ sở hữu công cộng trong xã hội tương lai là “tiền lao
động” và “trao đổi công bằng”; và điều kiện cho việc thực hiện chế độ
này là sự dồi dào về sản phẩm.

->Theo ông, việc trao đổi công bằng các sản phẩm được sản xuất ra đem
trao đổi tại cửa hàng trao đổi công bằng, ở đây đồng tiền không còn làm
chức năng thước đo giá trị nữa mà thay thế cho nó là “lao động chi phí”.
Đồng tiền đã bị loại bỏ khỏi lưu thông, trao đổi và “tiền lao động” xuất
hiện. Thực chất của “tiền lao động” cũng là một thứ phiếu chứng nhận lao
động chi phí vào việc sản xuất hàng hóa, từ đó mà người lao động nhận
được những thứ hàng hóa mà họ cần cho tiêu dùng.

->Chế độ “trao đổi công bằng” không đem lại kết quả, không thể thủ tiêu
được tiền tệ trong khi còn sản xuất và lưu thông hàng hóa.

->Dự án kế hoạch xây dựng hợp tác xã: Ông chủ trương xây dựng thị trấn
công bằng mang tính chất hợp tác xã. Một thị trấn cộng đồng là một đơn
vị kinh tế, là tổ chức cơ sở của xã hội mới tương lai.

->Ông coi nông nghiệp là cơ sở của các cộng đồng, nhưng sự tiến bộ của
công nghiệp, khoa học kỹ thuật sẽ là nét chủ yếu của xã hội tương lai.
Trong xã hội tương lai, không có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn,
giữa lao động chân tay và lao động trí óc.

 Theo ông, việc chuyển lên “một tương lai sán lạn, hấp dẫn , có tổ chức
và hạnh phúc”, không phải bằng những biện pháp bạo lực mà bằng
“phương pháp hòa bình và hợp lý”.

+ Thức tỉnh tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân

( ví dụ: Tômát Morơ (TK16-17); Grắc Babớp (TK18); Xanh Ximông, Sác
lơ Phuriê và Rôbớt Ô-oen (TK19).)

+ Nêu lên những tư tưởng nhân đạo, nhân văn

(ví dụ: .Trong các tư tưởng của Môrenly đều thể hiện tính hướng thiện,
muốn thức tỉnh mọi người hãy từ kinh nghiệm sống trong bất hạnh của
mình mà vươn tới xã hội mới, trong đó mọi người đều bình đẵng bằng
cách tuân theo những tiêu chuẩn, tài năng, đạo đức và không ngừng hoàn
thiện luật lệ xã hội, sao cho ngày càng phù hợp với quy luật của tự nhiên.)

- Là một trong những tiền đề lý luận cho CNXHKH


Câu 3: Phân tích những hạn chế và nguyên nhân những hạn chế của Chủ
nghĩa xã hội không tưởng. Cho ví dụ cụ thể.
a) Định nghĩa :
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là khái niệm dùng để chỉ những học thuyết,
những quan điểm phản ánh khát vọng về việc giải phóng xã hội khỏi tình
trạng người áp bức, bóc lột người và xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng,
ấm no, hạnh phúc. Nhưng, do những hạn chế lịch sử, những học thuyết,
những quan điểm này không thể chỉ ra được cách thức và lực lượng xã hội
thực hiện những khát vọng đó. Vì thế những học thuyết này là không tưởng.
b) Những hạn chế:
⁃ Một là, chủ nghĩa xã hội không tưởng không giải thích được bản chất của
các chế độ nô lệ làm thuê. Đặc biệt là nó không thấy được bản chất của chế
độ tư bản chủ nghĩa, chưa khám phá ra được quy luật ra đời, phát triển và
diệt vong của các chế độ đó, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản nên cũng không chỉ
ra được con đường, biện pháp đúng đắn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới.
⁃ Hai là, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không phát hiện ra lực lượng xã
hội tiên phong có thể thực hiện cuộc chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản-lực lượng xã hội đã được
sinh ra, lớn lên và phát triển cùng với nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa,
đó là giai cấp công nhân.
⁃ Ba là, chủ nghĩa xã hội không tưởng muốn cải tạo xã hội bằng con đường
cải lương chứ không phải bằng con đường cách mạng.
*) Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trên của chủ nghĩa xã hội không
tưởng một phần là do bản thân các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng, nhưng
cơ bản là do điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ quy định. Đó là, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chưa phát triển đến độ chín muồi, công
nghiệp lớn chỉ mới xuất hiện ở nước Anh, nên chưa bộc lộ mâu thuẫn kinh tế
cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; giai cấp công nhân hiện
đại chưa trưởng thành, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân còn ở
trình độ thấp, nên mâu thuẫn xã hội còn ẩn dấu chưa bộc lộ hẳn, quan hệ giai
cấp và sự đối lập giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản còn ít phát triển.
Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: ”Hoàn cảnh lịch sử ấy cũng đã quyết
định quan điểm của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội. Tương ứng
với một trình độ chưa trưởng thành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, với
những quan hệ giai cấp chưa chín muồi, là một lý luận chưa chín muồi”.
Ngày nay, người ta không thể đòi hỏi gì hơn ở những nhà xã hội chủ nghĩa
không tưởng khi mà những hạn chế của họ hoàn toàn do những điều kiện
lịch sử khách quan quy định.
Mặc dù chủ nghĩa xã hội không tưởng có nhiều giá trị, song nó mắc phải
những hạn chế nên nó chỉ có vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất
định. Khi cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai cấp tư
sản phát triển tới quy mô rộng lớn, đòi hỏi phải có một lý luận khoa học và
cách mạng soi đường, khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời thì các trào lưu
của chủ nghĩa xã hội không tưởng trở nên lỗi thời, bảo thủ, thậm chí còn
mang tính chất phản động, cản trở phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động chống giai cấp tư sản.

Câu 4:
Phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề lý luận cho sự
ra đời Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Trả lời:
- Định nghĩa Chủ nghĩa xã hội khoa học theo nghĩa hẹp
+ Theo nghĩa hẹp: Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp
thành của chủ nghĩa Mác – Lênin gồm: Triết học Mác - Lênin,Kinh tế chính
trị học Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã

Những điều kiện kinh tế - xã hội:


- Sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản :
+ Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được
những bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế.
+ Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm
cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan
hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
+ Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho
những nhà dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ
nghĩa tư bản, để đề ra lý luận khoa học và cách mạng.

- Sự trưởng thành của giai cấp công nhân:


+ Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại
trưởng thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là
một lực lượng xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả
năng giải quyết những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
+ Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt
đầu có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa
học hướng dẫn. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi
nghĩa công nhân thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công
nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844; phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848.
Những phong trào đó có tính quần chúng và mang hình thức chính trị.

Những tiền đề lý luận: (4 tiền đề)


+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng- phê phán:
Chủ nghĩa xã hội không tưởng- phê phán là cơ sở lý luận cho sự ra đời của
CNXHKH, như Ăng ghen đã khẳng định CNXHKH “ là sự tiếp nối H.Xanh-xi-
mông, S.Phu- ri- ê, R.Ô- oen”
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử:
+ Trên cơ sở kế thừa " hạt nhân hợp lý" và lọc bỏ quan điểm duy tâm thần bí
của phép biện chứng. V.Ph.Heghen; kế thừa những giá trị duy vật và lọc bỏ
quan điểm siêu hình của triết học L.phoi-ơ-bắc, đồng thời tiếp thu những
thành tựu của Khoa Học Tự Nhiên (ba phát minh vĩ đại: Học thuyết tiến hóa
Đacuyn, Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, Học thuyết tế bào)
C.Mác và Ăngghen đã xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng lý giải quá trình vận động và phát
triển xã hội. loài người.C.Mác đã có phát kiến vĩ đại trong triết học đó là
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với phát kiến vĩ đại này.C.Mác và Ph.Ăng ghen
đã khẳng định về mặt triết học,sự sụp đổ của chế độ tư bản chủ nghĩa và sự
chiến thắng của chế độ XHCN đều tất yếu như nhau.
- Học thuyết về giá trị thặng dư
+Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử kovào việc nghiên cứu nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. C.Mác đã xây dựng nên tác phẩm “ Tư bản”, một công trình
nghiên cứu vĩ đại,trong đó “học thuyết về giá trị thặng dư” là hạt nhân cơ
bản, là phát kiến thứ 2 của C.Mác.
+Trong bộ tư bản Mác đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử
để nghiên cứu hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ nghĩa , phát hiện ra những
quy luật kinh tế của sự vận động xã hội tư sản , chỉ ra bản chất và điều kiện
sống còn của chủ nghĩa tư bản là bóc lột giá trị thặng dư, chỉ ra những mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, khẳng định tính tất yếu diệt vong của chủ
nghĩa tư bản, tính tất yếu chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản.

- Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân:
+ Với học thuyết này,Mác và Ăng ghen đã khẳng định giai cấp công nhân là
giai cấp gắn liền và đại diện cho LLSX tiên tiến trong nền kinh tế TBCN .
Chính vì vậy “ GCCN sẽ là LLXH quyết định xoá bỏ quan hệ SX
TBCN.”,Là lực lượng xã hội duy nhất có khả năng lãnh đạo toàn xa hoi xây
dựng một phương thức sản xuất mới có trình độ phát triển cao hơn về chất
so với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Câu 5: Phân tích những quan điểm cơ bản do C.Mác và Ph.Ăngghen nêu ra
trong thời kỳ hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học. (1844 -1848)
Trả lời:
- Quan điểm về tính tất yếu của sự thay thế xã hội Tư bản chủ nghĩa bằng
xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt tất yếu dẫn đến
xóa bỏ xã hội tư bản chủ nghĩa.
Phân tích mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, C.Mac viết: " Vì xã hội
có quá thừa văn minh, có quá nhiều tư liệu sinh hoạt... Những lực lượng sản
xuất mà xã hội sẵn có, không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa; trái
lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cái quan hệ sở hữu
lúc đó đang cản trở sự phát triển của chúng; và mỗi khi những lực lượng sản
xuất xã hội khắc phục được sự cản trở ấy thì chúng lại xô toàn thể xã hội tư sản
vào tình trạng rối loạn và đe dọa sự sống còn của sở hữu tư sản. Nhưng quan hệ
tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải đã được tạo
ra trong lòng nó nữa". Chính những điều này khiến chủ nghiac tư bản càng phát
triển thì mâu thuẫn kinh tế và mâu thuẫn xã hội ngày càng cao, ngày càng gay
gắt.
-Mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt, tất yếu dẫn
đến xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ hình thành quan hệ sản xuất mới, là cơ sở kinh
tế cho một chế độ xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa tiến bộ hơn, tốt đẹp
hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
-Từ những phân tích khoa học như trên, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa
học đã rút ra kết luận: hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ
được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó là một quá
trình lịch sử - tự nhiên.
- Sự thay thế này được thực hiện thôg qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà
hai tiền đề vật chất của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và sự
trưởng thành của giai cấp công nhân. - Quan điểm về giải pháp xóa bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa là cách mạng xã hội chủ nghĩa; tính tất yếu của giải pháp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, nguyên nhân sâu xa của những cuộc cách
mạng xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo quy luật chung của
sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất lỗi thời, không còn phù hợp bằng một quan hệ hệ sản xuất
tiên tiến hơn, tất yếu phải dẫn đến cách mạng xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: " Từ chỗ là những hình ảnh thức phát triển của các lực lượng sản xuất,
những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi
đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội".hộ
-Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là từ khi máy hơi nước ra đời lực lượng sản
xuất ngày càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hóa cao, mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Mâu thuẫn về mặt kinh tế nói trên đã quy định cách mạng xã hội
chủ nghĩa để xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là một giải pháp tất yếu.
-Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ
tư bản ngày càng gay gắt, tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng
quy định xã hội không tự nó tác động mà phải thôg qua hoạt động của con
người. Mâu thuẫn về mặt kinh tế được thể hiện thông qua mâu thuẫn về mặt xã
hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa muốn nổ ra, giai cấp vô sản phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của
mình, thực hiện việc tuyên truyền vận động nhân dân lật đổ chính quyền nhà
nước của giai cấp tư sản để xây dựng nhà nước của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
- Những cuộc đấu tranh của công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra ngay từ
khi chủ nghĩa tư bản ra đời. Quy mô những cuộc đấu tranh của công nhân chống
lại giai cấp tư sản ngày càng mở rộng và chuyển dần từ những cuộc đấu tranh tự
phát lên trình độ đấu tranh tự giác. Chỉ khi nào giai cấp công nhân nhận thức
được rằng, chỉ có xóa bỏ chế độ nô lệ làm thuê, giải phóng giai cấp mình và giải
phóng toàn xã hội bằng một cuộc cách mạng thắng lợi triệt để, họ mới được giải
phóng thật sự.
- Giai cấp công nhân phải nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình, của việc
thực hiện xóa bỏ trật tự của chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập nên chế độ xã hội
chủ nghĩa; phải nhận thức được " giải phóng giai cấp công nhân phải là sự
nghiệp của bản thân giai cấp công nhân".
- Nguyên lý của CNXHKH trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng cộng
sản:
+ Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, cũng như sự phát triển của học
thuyết ấy đều có quan hệ trực tiếp với sự phát triển kinh tế của xã hội, với
những mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng, với cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản.
+ Nhưng “ cũng như mọi học thuyết mới, chủ nghĩa xã hội trước hết phải xuất
phát từ những tài liệu tư tưởng đã tích lũy từ trước”. Ph.Ăngghen thừa nhận
rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời như là “sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội từ không tưởng trở thành khoa học”. Như vậy, chủ nghĩa xã hội nguyên thủy
là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng.
+ (V.I.Lênin: Toàn tập, tiếng việt, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tập 23, tr 56).

Câu 6:
Phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăng ghen nêu ra trong
thời kỳ phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học (1848 – 1871).
Trả lời:
- Luận điểm giai cấp vô sản phải đập tan bộ máy nhà nước của gai cấp tư sản
và thiết lập bộ máy nhà nước của giai cấp vô sản:
+ “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử
nhất định của sản xuất” và đó là giai đoạn xuất hiện chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất.
+ Sau này Ph. Ăng-ghen đã làm rõ hơn: “Quy luật phân công lao động là cái
làm cơ sở cho sự phân chia thành giai cấp”.
+ Ngoài ra, Ph. Ăng-ghen còn bổ sung, chiến tranh và cướp bóc đã đẩy nhanh
quá trình phân hóa giai cấp: “Nhưng điều đó hoàn toàn không loại trừ việc sử
dụng bạo lực, cướp bóc, mánh khóe và lừa bịp trong sự hình thành các giai cấp,
và không cản trở giai cấp thống trị, một khi đã nắm được chính quyền sẽ củng
cố địa vị của nó trên lưng các giai cấp lao động và biến việc quản lý xã hội
thành việc bóc lột quần chúng”.
-C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận bàn đến liên minh công - nông và đi đến kết
luận rằng, những cuộc cách mạng sắp tới chỉ có thể thu được những thắng lợi
nếu giai cấp nông dân ủng hộ những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nếu
không thì bài “đơn ca” cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài “ai điếu”.
Về nội dung của liên minh công - nông, không chỉ dừng ở sự liên minh về chính
trị, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ sự liên minh về kinh tế giữa giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân. Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì liên
minh về kinh tế là liên minh cơ bản, thường xuyên và lâu dài, là cơ sở cho liên
minh trên các lĩnh vực khác.
-Ý Nghĩa:
+) Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong khối liên minh. Đây
là vấn đề có tính nguyên tắc để có thể từng bước thực hiện mục tiêu, lợi ích của
liên minh trên lập trường của giai cấp công nhân.
+) Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện để khối liên minh bền vững, lâu dài.
+) Kết hợp và giải quyết đúng đắn lợi ích của cả hai giai cấp, vì xét cho cùng
quan hệ giữa công nhân và nông dân là quan hệ giữa hai chủ thể lợi ích, mà
trong đó hệ thống lợi ích kinh tế là cơ sở quyết định nhất và nhạy cảm nhất. Họ
liên kết với nhau trước hết là nhằm thoả mãn các nhu cầu kinh tế, mưu cầu sự
sống, thoát khỏi nghèo nàn.
-Vai Trò :
Trong GCND, có một bộ phận cốt lõi là tiểu nông. Về kinh tế, mỗi gia đình
nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, cho thấy tính liên kết
giữa họ rất ít. Về xã hội, quan hệ xã hội của họ có tính chất dòng họ, địa
phương, làng xã, khiến tầm nhìn, suy nghĩ của người nông dân rất hạn chế. Về
văn hóa - tư tưởng, sống trong những điều kiện kinh tế - xã hội như vậy, nên
trình độ học vấn của nông dân rất thấp kém, tư tưởng bảo thủ và họ không có hệ
tư tưởng riêng. Chính đặc điểm kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng đã quy định
vị trí, vai trò của GCND trong xã hội tư bản là tầng lớp trung gian, họ có thể
ngả theo GCVS và cũng có thể ngả theo GCTS. Vấn đề là trên thực tế ai đem lại
và bảo vệ lợi ích cho họ.
Ph. Ăng-ghen cũng đã nhận diện hai mặt tích cực và tiêu cực của người nông
dân (chủ yếu là tiểu nông). Một mặt, họ là người lao động, đây là mặt tích cực,
cách mạng của nông dân, vì với tư cách là người lao động trong xã hội cũ họ bị
bóc lột, có nhu cầu muốn giải phóng khỏi chế độ người bóc lột người, vì vậy họ
sẵn sàng đi theo GCCN làm cách mạng. Mặt khác, họ lại là người tư hữu nhỏ,
đây là mặt tiêu cực, hạn chế của người nông dân. Vì tư hữu nhỏ nên họ có thái
độ lừng chừng, nửa vời, không muốn đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), thỏa mãn
với những gì đạt được, sợ đi lên CNXH sẽ xóa tư hữu nhỏ của họ. Những phân
tích về đặc điểm, vai trò của GCND mà C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã chỉ ra
không chỉ cho thấy sự cần thiết phải liên minh giữa GCVS và GCND, mà còn
cần thiết cho việc giáo dục, giác ngộ GCND trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
– Luận điểm về cách mạng không ngừng, và chiến lược sách lược của giai
cấp công nhân về cách mạng không ngừng:
+ Mác và Ăngghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng về cách
mạng không ngừng. Hai ông quan niệm rằng: cuộc cách mạng của giai
cấp công nhân phát triển không ngừng nhưng phải trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau trong phạm vi một nước cũng như toàn thế giới. Mỗi giai
đoạn có những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể, tạo tiền đề cho giai đoạn phát
triển tiếp theo. Tư tưởng đó thể hiện tính giai đoạn và tính liên tục của sự
phát triển cách mạng.
+ Mác và Ăngghen trong Lời kêu gọi của Ban Chấp hành trung ương gửi
liên đoàn những người Cộng Sản tháng 3 năm 1850 đã nhấn mạnh: “Lợi
ích của chúng ta và nhiệm vụ của chúng ta là làm cho cách mạng tiến lên
không ngừng cho đến khi những giai cấp ít nhiều là hữu sản bị gạt ra
khỏi địa vị thống trị, cho đến khi giai cấp vô sản giành được chính quyền
Nhà nước, cho đến khi tổ chức liên hiệp những người vô sản không chỉ
riêng cho một nước, mà cả trong tất cả các nước thống trị trên thế giới sẽ
phát triển đến mức là sự cạnh tranh giữa những người vô sản trong
những nước ấy sẽ chấm dứt,và chí ít thì những lực lượng sản xuất có tính
chất quyết định cũng sẽ được tập trung vào trong tay những người vô
sản. Đối với chúng ta, vấn đề không phải là làm thay đổi chế độ tư hữu,
mà là thủ tiêu chế độ đó, không phải là xóa nhòa các mâu thuẫn giai cấp
mà là thủ tiêu các giai cấp, không phải là hoàn thiện xã hội hiện tồn, mà
là xây dựng một xã hội mới”.
– Bộ Tư bản đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Chủ nghĩa xã hội khoa
học:
+ Bộ “Tư bản” (1867), đánh dấu sự phát triển vượt bậc của chủ nghĩa xã
hội khoa học , nêu bật bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, phát hiện
những quy luật vận động phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản,
khẳng định trên cơ sở khoa học địa vị kinh tế - xã hội và sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân.
+ Công trình khoa học lớn nhất, đặc trưng nhất của chủ nghĩa Mác là Bộ
“Tư bản” . Trong bộ sách này, Mác đã phân tích một cách toàn diện và
sâu sắc về chủ nghĩa tư bản với tính cách là một hình thái kinh tế -xã hội ,
vạch ra các quy luật hình thành, phát triển và suy vong của nó. Ở đây,
người ta tiếp thu được cả ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác: Triết
học, Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó, Kinh
tế chính trị là phần chủ yếu nhất, trực tiếp nhất, qua đó thể hiện rõ nhất
nội dung và sức sống của các quan điểm triết học và chủ nghĩa xã hội
khoa học.
+Bộ “Tư bản” đã làm sáng tỏ quy luật hình thành tồn tại, phát triển và
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, đồng thời chỉ ra sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa và
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Câu 7:
Phân tích những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăng ghen nêu ra
trong thời kỳ chín muồi của Chủ nghĩa xã hội khoa học (1871 - 1895).
Thời kỳ thứ ba ( 1871 - 1895 ) : Thời kỳ chín muồi của chủ nghĩa xã hội khoa
học.
Qua thực tiễn đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pa - ri năm 1871 ,
C.Mác coi Công xã là một hình thức nhà nước của nêu lên ta giai cấp vô sản .
Cơ cấu tổ chức và hoạt động thực tế chứng tỏ Công xã Pa - ri là một nhà
nước khác hẳn các kiểu nhà nước của những giai cấp bóc lột trước đó . Nhà
nước Công xã là chính quyền trực tiếp của giai cấp công nhân , là hình thức nhà
nước tạo điều kiện giải phóng người lao động về kinh tế , không còn là công cụ
áp bức , đàn áp đa số nhân dân v ..v. như nhà nước từ sản nữa . Đây là một nhà
nước kiểu mới - nhà nước vô sản , do lực dân và vì dân .
Năm 1875 Mác viết tác phẩm “ Phê phán Cương lĩnh Gô ta ” . Đây là tác
phẩm nhằm phê phán cương lĩnh của Đảng xã hội Dân chủ Đức tại Đại hội hợp
nhất hai tổ chức của phong trào công nhân , đi ngược lại những nguyên tắc chủ
nghĩa Mác , Một trong những nội dung quan trọng của tác phẩm này là Mác đã
phát triển lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học , đưa ra những dự báo khoa học
về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai , đưa ra nguyên lý về thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và nguyên lý về hai giai đoạn phát triển
của xã hội công sản chủ nghĩa và sự khác nhau giữa hai giai đoạn đó .
Câu 8 : Phân tích quá trình phát triển của Lênin về tư tưởng CNXHKH
trong điều kiện lịch sử mới.
1. CNTB phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa
- Lê – nin định rõ địa vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc và xác nhận chủ
nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản , là đêm
trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa . Sự xã hội hóa cao độ của sản
xuất trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa của chủ nghĩa tư bản là mâu
thuẫn đối kháng hiển nhiên của quan hệ , sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất của xã
hội , Chủ nghĩa đế quốc đưa quần chúng thẳng tới cách mạng xã hội
chủ nghĩa , cách mạng này phá hủy chế độ tư bản và sáng tạo các
điều kiện tất yếu cho công cuộc xây dựng một xã hội mới , xã hội chủ
nghĩa.

- Dựa trên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa của chủ nghĩa tư bản mà xây
dựng một lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa , trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa , chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi cùng một
lúc trong tất cả các nước hoặc trong đa số các nước trên thế giới ; trải
lại , chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi trước hết ở riêng một nước tư
bản hoặc trong vài nước tư bản . Lý luận của Lê – nin về cách mạng
xã hội chủ nghĩa & mở một tiền đồ cách mạng cho những người vô
sản các nước ; nó kích thích tinh thần sáng tạo của họ trong việc tấn
công vào giai cấp tư sản nước họ ; nó dạy họ lợi dụng hoàn cảnh
chiến tranh đề tổ chức cuộc tấn công đó và củng cố lòng tin tưởng
của họ vào thắng lợi của cách mạng vô sản .

2. GCCN Nga bắt đầu phát triển và nổ ra đấu tranh chống CNTB ở Nga
- Đến đầu thế kỷ XX và trước thế chiến thứ nhất, Nga vẫn là nước theo
chế độ quân chủ chuyên chế dưới sự cai trị của Nga hoàng Nikolai II.
Sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những quan hệ tiền tư
bản chủ nghĩa, sự kết hợp giữa hình thái kinh tế tiên tiến nhất và lạc
hậu nhất đã làm cho nước Nga trở thành nơi tập trung cao độ các mâu
thuẫn của chủ nghĩa đế quốc.
- Với tình trạng kinh tế và tình hình xã hội tồn tại nhiều mối mâu thuẫn
như vậy làm cho đế quốc Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây
chuyền của chủ nghĩa đế quốc, tạo nên tiền đề chủ quan cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi.
3. Chủ nghĩa Mác đã thâm nhập vào nước Nga
- Vlađimia Ilịch Lênin ( 1870 - 1924 ) là người kế tục một cách xuất
sắc sự nghiệp vĩ đại của C. Mác và Ph . Ăngghen . Ông vừa bảo vệ sự
trong sáng , vừa phát triển toàn diện và làm giàu thêm lý luận chủ
nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới , chủ nghĩa tư bản chuyển sang
giai đoạn để quốc chủ nghĩa . Ông là người mácxit đầu tiên vận dụng
một cách sáng tạo những nguyên 1 của chủ nghĩa xã hội khoa học vào
thực tiễn đấu tranh xây dựng chính quyền cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động , cải tạo xã hội cũ và bắt đầu xây
dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực.
4.Trước cách mạng Tháng Mười
- Hoạt động lí luận : Trên cơ sở những di sản lý luận của C. Mác và Ph
Ăngghen , VI Lênin đã xây dựng một hệ thống lý luận mang tính
nguyên tắc cho các đảng mácxit kiểu mới của giai cấp công nhân . Đó
là những lý luận về chuyên chính vô sản , về chính đáng kiểu mới ; về
liên minh công - nông về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới lên cách mạng xã hội chủ nghĩa .
- Hoạt động thực tiễn : Lãnh đạo CM Nga dành chính quyền , thiết lập
chuyên chính vô sản .
5. Sau CM Tháng Mười
- Hoạt động lý luận : Với yêu cầu của công cuộc xây dựng chế độ
Lênin phân tích và làm rõ nội dung , bản chất của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội , về mối quan hệ giữa phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc với phong trào đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân , về những vấn đề mang tỉnh quy luật của sự nghiệp cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội , về vai trò của quần
chủng , v , v .
- Hoạt động thực tiễn : Lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH trong
hiện thực .

Câu 9 : Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về tính tất yếu
của sự thay thế xã hội Tư bản chủ nghĩa bằng xã hội Cộng sản chủ nghĩa
Bài làm
- Phân tích hai quy luật khách quan quy định sự chuyển biến tất yếu của
các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử loài người.

Hai quy luật khách quan quy định sự chuyển biến tất yếu của các hình thái kinh
tế- xã hội trong lịch sử loài người : Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
LLSX và QHSX và Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT .
Xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử , trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển
của xã hội loài người nói chung , của chủ nghĩa tư bản nói riêng , đã trên cơ sở
phân tích sự phát triển những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản - mâu
thuẫn giữa sự sản xuất ngày càng mang tính chất xã hội , trong khi chiếm hữu
lại mang tính chất tự nhận tư bản chủ nghĩa - C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát
hiện ra xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người là xã hội tư bản chủ nghĩa
tất yếu sẽ bị thay thể bởi một xã hội mới mà C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là xã hội
cộng sản chủ nghĩa. .

- Phân tích mâu thuẫn cơ bản của xã hội Tư bản chủ nghĩa ngày càng gay
gắt , tất yếu dẫn đến sự thay thế xã hội Tư bản chủ nghĩa bằng xã hội
CSCN
Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt , tất yếu dẫn
đến xóa bỏ QHSX cũ hình thành quan hệ QHSX mới , là cơ sở kinh tế cho một
chế độ xã hội mới xã hội CSCN tiến bộ hơn , tốt đẹp hơn chế độ tư bản chủ
nghĩa .

- Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản này nảy sinh từ mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
Chính sự phát triển của các mâu thuẫn trên đây đã khiến cho sự tự phủ định của
CNTB là một quá trình không thể đảo ngược được và sự thay thế CNTB bằng
một xã hội tương lai tốt đẹp hơn CNTB trở thành một điều tất yếu .

- Quan điểm này đã khắc phục hạn chế của Chủ nghĩa xã hội không tưởng
là không chỉ ra được tính tất yếu của sự thay thế , xóa bỏ Chủ nghĩa Tư
bànbằng xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Vì vậy , trước Phê phán Cương lĩnh Gota , những gì C. Mác và Ph . Ăngghen
nói về xã hội tương lai đều là những điều nói về cả giai đoạn đầu của xã hội
cộng sản chủ nghĩa ( mà chứ không phân biệt một cách rạch ròi điểm nào nói về
chủ nghĩa xã hội , điểm nào nói về chủ nghĩa cộng sản theo cách hiểu về các
khái niệm này được hình thành từ sau Phê phán cương lĩnh Gôta).
- Phân tích kết luận về sự phát triển của các HT KT - XH là quá trình lịch sử tự
nhiên C. Mác coi lực lượng sản xuất cùng với cơ sở hạ tầng ( những quan hệ sản
xuất cấu thành cơ sở kinh tế của một xã hội nhất định ) và kiến trúc thượng tầng
là những yếu tổ hợp thành không thể thiếu được của một hình thái kinh tế - xã
hội nhất định , đồng thời ông cũng coi mối quan hệ biện chứng trong quá trình
vận động của các yếu tố đó chính là nội dung những quy luật phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử .Mác đã rút ra kết luận “ có sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên ” .
Câu 10: Phân tích quan điểm của CNXHKH về giải pháp xóa bỏ chế độ
TBCN bằng Cách mang XHCN ?
Bài làm:
-Khái niệm về CMXHCN
+Nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa có 2 thời kỳ: Cách mạng về chính trị
với nội dung chính là thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và tiếp theo là thời
kỳ giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải
tạo xã hội cũ về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản
+Nghĩa hẹp: Là cuộc cách mạng chính trị được kết thúc bằng việc giai cấp
công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền ,thiết lập được
nhà nước chuyên chính vô sản nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động
-Tính tất yếu của giải pháp CMXHCN:
+Nguồn gốc sâu xa của CM là do mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời
+Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của CM vì:
•Thứ nhất, đấu tranh giai cấp còn là động lực phát triển xã hội thời bình.
•Thứ hai, các cải cách xã hội tiến bộ nhất định mà các giai cấp thống trị
lỗi thời thực hiện không phải là "ban ơn" mà chính là kết quả đấu tranh
bền bỉ của quần chúng lao động cùng với các lực lượng tiến bộ trong
nước và trên thế giới
•Thứ ba, đấu tranh giai cấp đặc biệt là để lại những dấu ấn sâu sắc trong
lĩnh vực tinh thần tinh tế và nhạy cảm của đời sống xã hội •Thứ tư, không
những có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng lỗi lời và phản
động mà còn cải tạo chính bản thân các giai cấp cách mạng •Thứ năm,
đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của xã hội có giai cấp
nhưng là động lực mạnh mẽ nhất của xã hội có giai cấp
Câu 11:Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về vai trò tiên
phong và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Quan điểm về vai trò tiên phong và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Một
trong những nội dung quan trọng của lý thuyết Chủ nghĩa xã hội khoa học là
quan điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân . Có thể nói phạm trù sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của Chủ nghĩa xã
hội khoa học.)
. Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cáp công nhân
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày trong “ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ” , cũng như
trong bộ “ Tư bản ” . Trong các tác phẩm này hai ông đã chỉ rõ các điều kiện
khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Thứ nhất , do địa vị kinh tế - xã hội khách quan , giai cấp công nhân là con
đẻ , là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa , là giai cấp gắn Với , đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất . Và
do đó , nó là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa .
Sau khi giành chính quyền , giai cấp công nhân , đại biểu cho sự tiến bộ của lịch
sử , là lực lượng duy nhất có khả năng lãnh đạo toàn xã hội xây dựng một
phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai , do địa vị chính trị - xã hội , giai cấp công nhân , con đẻ của nền
sản xuất công nghiệp hiện đại , được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp
tiến bộ , đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh . Bị giai
cấp tư sản áp bức , bóc lột nặng nề , họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai
cấp tư sản , và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất , có khả
năng đoàn kết thống nhất giai cấp và đi đầu trong cuộc đấu tranh chống lại chế
độ áp bức , bóc lột tư bản chủ nghĩa. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân

Như phân tích ở trên , C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định , giai cấp công
nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất , có khả năng tổ
chức và lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa , giải phóng
nhân loại khỏi áp bức bất công và mọi hình thức bóc lột . Từ đó có thể nói , sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa , giải
phóng công nhân , nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi chế độ người
bóc lột , áp bức người ; xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa một chế độ xã hội tiến
bộ , văn minh hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.

Câu 12: Phân tích quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học dư báo về giai
đoạn đầu của chủ nghĩ cộng sản( chủ nghĩa xã hội)

*Cơ sở khoa học và tính chất dự báo


-cơ sở khoa học:
+Mác và Ăngghen đã vận dụng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sư phương pháp biện chứng duy vật để phân tích sự chuyển
biến tất yếu tùe chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và dự báo về xã hội cộng
sản chủ nghĩa tương lai
+Mác và Ăngghen đxa xuất phát tùe hiện thực phân tích hiện thực xã hội tư
bản chủ nghĩa chỉ ra xu hướng phát triển tất yếu chỉ ra khả năng có thể xảy ra
trong tương lai. Đồng thời, Mác và Ăngghen cũng đã kế thừa được những kết
quả nghiên cứu về lịch sử phát triển xã hội loài người để nghiên cứu xã hội tư
bản chủ nghĩa.
-Tính chất dự báo
+Tính khoa học: Những dự báo về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai của
Mác và Ăngghen hoàn toàn không phải là những tưởng tượng vô cản cứ mà là
những kết luận dựa trên những học thuyết khoa học và điều kiện hiện thực của
xã hội tư bản chủ nghĩa đương thời.
+Tính cách mạng: Mác và Ăngghe đã vận dụng các nguyên lý, quy luật của
phép biện chứng duy vậy để chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời chế độ xã hội cộng
sản chủ nghĩa thay thế cho chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa
+Tính khả năng:Có thể xảy ra hay không phụ thuộc vào những điều kiện lịch
sử cụ thể

*Theo chủ nghĩa Mác từ xã hội TBCN lên xã hội CSCN phải trải qua 2 giai
đoạn

-Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản


+về kinh tế, sau khi chế độ tư bản chủ nghĩa bị lật đổ ở giai đoạn đầu của chủ
nghĩa cộng sản chế độ tư hữu vẫn còn tồn tại.
+về chính trị, trong giai đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa nhà nước vẫn tồn
tại nhưng không phải nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa mà là nhà nước "
nửa nhà nước " , nhà nước đang trên đường đi đến chỗ tự tiêu vong.
- giai đoạn chủ nghĩa cộng sản hoàn chỉnh
+Đặc trưng t1: Lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ cao
+Đặc trưng t2: Chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, không
còn phân chia giai cấp, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ.
+Đặc trưng t3: Nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên
phạm vi toàn xã hội.
+Đặc trung t4: Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai không còn tồn tại
nền sản xuất hàng hóa , không còn tồn tại tiền tệ.
+Đặc trưng t5: Nền sản xuất đã có thể thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên
trong xã hội.

Câu13: Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học dự báo về giai
đoạn thứ 2 ( giai đoạn hoàn chỉnh) của Chủ Nghĩa Cộng Sản

*Xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của chủ nghĩa
cộng sản) là một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây.
Thứ nhất, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại
công nghiệp được phát triển lên từ những tiền đề vật chất - kỹ thuật của nền
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng của nó,
phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ
công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ
nghĩa. Nên đại công nghiệp cơ khí đã từng là cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội
phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó
phải là nền sản xuất đại công nghiệp phát triển lên từ tiền đề vật chất - kỹ
thuật của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, có trình độ cao hơn so với
trình độ nền công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen có
nhận định rằng: sau khi giành được chính quyền nhà nước, "giai cấp vô sản
sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để tìm từng bước một đoạt lấy toàn
bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản
xuất vào trong tay nhà nước.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấy tư liệu
sản xuất từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy vào trong tay
nhà nước để phục vụ cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội xã hội chủ
nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ.

Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể; người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã
hội, do đó không còn tình trạng người bóc lột người.
Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ
chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa,
không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho
ngựời lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích
toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra được cách thức tổ
chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo
của đảng cộng sản và quản lý thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vật chất - kỹ thuật là nền đại
công nghiệp ở trình độ phát triển cao, do vậy đòi hỏi một kỷ luật lao động
chặt chẽ trong từng khâu, từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã hội theo
những quy định chung của luật pháp.
C.Mác. Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng: lao động được tổ chức có kế
hoạch, trên tinh thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao
như vậy, một mặt đòi hỏi phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động,
mặt khác phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của
người sản xuất nhỏ.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có
những hạn chế nhất định, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động là tất yếu. Mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản
phẩm tiêu dùng có giá trị tương đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao
động mà họ đã tạo ra cho xã hội. Ngoài phương thức phân phối theo lao
động là phương thức cơ bản nhất, người lao động còn được phân phối theo
phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước
xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao
thông. V.V..Đó là những công trình phúc lợi, phục vụ cho mọi người trong
xã hội. Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
- xã hội trong xã hội chủ nghĩa, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội.
Thư năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản
chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước xã
hội chủ nghĩa là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp những thế
lực phản động, những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội

Câu 14: phân tích quan điểm về CNXHKH về thời kỳ quá độ lên CNXH
Trả lời:
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc,
triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó
bắt đầu từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính
quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành
công mọi cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa về vật chất - kỹ thuật, kinh tế, văn
hoá, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả
về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc
thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa (hoàn thành giai đoạn đầu, giai đoạn xã hội
chủ nghĩa).
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lịch sử tất yếu mà bất cứ quốc
gia nào lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, kể cả những nước đã có nền
kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển
cao, nhưng vẫn còn cần thời gian để cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới,
xây dựng nền văn hoá mới, kiến trúc thượng tầng mới. Tuy nhiên, đối với
những nước có lực lượng sản xuất phát triển cao thì thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể ngắn hơn so với những nước lên chủ
nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nền kinh tế kém phát triển (các nước tiền tư
bản hoặc các nước nông nghiệp lạc hậu)
Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Theo
V.I.Lênin, tính tất yếu khách quan phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa
và cách mạng vô sản quy định. Phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa chỉ ra
đời sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp vô sản giành được chính
quyền và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Hơn nữa, sự phát triển của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không thể ngay một lúc
có thể hoàn thiện được. Để phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng
kiến trúc thượng tầng mới, cần phải có thời gian, phải có thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Từ sự phân tích như vậy, V.I. Lênin cho rằng, nếu như cách mạng
tư sản thắng lợi đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến
lên chủ nghĩa tư bản, thì cách mạng vô sản thắng lợi mới chỉ là sự khởi đầu cho
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hai kiểu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: quá độ trực tiếp và quá độ gián
tiếp
- Thời kỳ quá độ trực tiếp, đối với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ
nghĩa xã hội. Thời kỳ quá độ trực tiếp chỉ có đối với những nước tư bản chủ
nghĩa đã đạt trình độ phát triển cao hết mức trong khuôn khổ hình thái kinh tế -
xã hội của nó. Trong thực tiễn, cho đến nay, thời kỳ quá độ trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội từ xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển tột bậc chưa từng diễn ra. Tuy
nhiên, Mác và Ăngghen cũng dự báo, sự quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản đã
phát triển cao lên chủ nghĩa cộng sản được tiến hành qua hai bước:
- Bước 1: giai cấp công nhân lãnh đạo và tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư sản.
- Bước 2: giai cấp công nhân sử dụng bộ máy chính quyền nhà nước (chuyên
chính vô sản) làm hai nhiệm vụ:.
+ Nhiệm vụ thứ nhất: trấn áp bằng bạo lực sự phản kháng của giai cấp tư sản.
+ Nhiệm vụ thứ hai: đồng thời thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao
hơn so với chủ nghĩa tư bản, có năng suất lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư
bản. - Thời kỳ quá độ gián tiếp: được thực hiện ở những nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội từ trình độ kinh tế - xã hội phát triển thấp: trình độ kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa phát triển trung bình, tiền tư bản, thậm chí từ những nước trình độ
kinh tế - xã hội nông nghiệp lạc hậu (thực dân nửa phong kiến như ở Việt Nam).
Cụ thể, nói đến thời kỳ quá độ gián tiếp là nói đến các nước xã hội chủ nghĩa
trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây,
Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba, Triều Tiên hiện nay đều là các xã hội trải qua
thời kỳ quá độ gián tiếp với những trình độ khác nhau. Khi nghiên cứu lịch sử
phát triển xã hội loài người, C.Mác đã chú ý đến trường hợp hai xã hội thời cổ
đại “tác động qua lại làm nảy sinh ra một cái gì mới, một sự tổng hợp”, “kết hợp
cả hai” phương thức sản xuất và cùng tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn. Đó là trường hợp người Giéc-manh từ xã hội công xã nguyên thủy bỏ qua
xã hội nô lệ, cùng người La Mã từ xã hội chiếm hữu nô lệ đi lên xã hội phong
kiến. Từ khi người Giéc-manh bắt đầu lấn át người La Mã vào thế kỷ thứ II và
đánh đổ chế độ nô lệ vào thế kỷ thứ V, họ chỉ mất 300 năm để từ cuối công xã
nguyên thủy bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến, trong khi
nếu tồn tại riêng biệt, thì để phát triển lên chế độ phong kiến, người Giéc-manh
phải trải qua xã hội chiếm hữu nô lệ hàng nghìn năm. Từ cách tiếp cận này C.
Mác cũng chỉ ra, khi một số nước tư bản chủ nghĩa ở châu Âu có trình độ công
nghiệp khác nhau tác động qua lại, thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất ở nước có trình độ thấp vẫn có thể gây xung đột chính trị gay
gắt, khiến cho cách mạng vô sản sớm nổ ra, những nước có trình độ phát triển
kinh tế - xã hội thấp vẫn có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thời kỳ quá
độ gián tiếp. Khi phân tích tình hình nước Nga Sa hoàng đương thời, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng lịch sử có thể lặp lại (như trường hợp người Giéc-manh từ
xã hội công xã nguyên thủy bỏ qua xã hội nô lệ, tiến lên chế độ phong kiến đã
nói ở trên), khi các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến phương Tây có thể làm cách
mạng vô sản thành công rồi bước vào thời kỳ quá độ trực tiếp để tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thì nước Nga và các nước tiền tư bản chủ nghĩa, trình độ kinh tế -
xã hội phát triển thấp sau khi cách mạng vô sản thành công thì cũng có thể thực
hiện thời kỳ quá độ gián tiếp, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 15:
Phân tích quan điểm của Chủ nghĩa xã hội khoa học về liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trả lời:
Những nhận định của Mác, Ăngghen, Lênin về các giai cấp công nhân, nông
dân và tầng lớp trí thức Khi nghiên cứu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, chúng ta đã đề cập tương đối đầy đủ về những đặc diểm cơ bản và vai trò
của giai cấp công nhân. Trong phần này chúng ta chỉ phân tích những nhận định
của Mác, Ăngghen, Lênin về giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. - Về giai
cấp nông dân: Là giai cấp của những người lao động sản xuất vật chất trong
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp… trực tiếp sử dụng (canh tác) một tư liệu
sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất ra
nông sản, lương thực, thực phẩm… Theo Lênin giai cấp nông dân có “bản chất
hai mặt”: Một mặt và là mặt cơ bản nhất, họ là những người lao động. Mặt
khác, họ là những người tư hữu nhỏ. Tuy nhiên, tính chất tư hữu của nông dân
khác về cơ bản với tính chất tư hữu của các giai cấp bóc lột. Người nông dân
không dựa trên tư hữu nhỏ của họ để bóc lột các giai cấp và tầng lớp xã hội
khác. Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng, mà tư tưởng của họ phụ
thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Do đó, khi chưa được giai
cấp công nhân giác ngộ cách mạng thì người nông dân dễ dao động về tư tưởng,
dễ bị ngộ nhận về chính trị và manh động trong các cuộc đấu tranh tự phát.
Với những đặc điểm nêu trên, giai cấp nông dân không có khả năng tự giải
phóng khỏi các chế độ tư hữu, bóc lột, áp bức, càng không thể là giai cấp lãnh
đạo xã hội trong các cuộc cách mạng giải phóng. Tuy nhiên, giai cấp nông dân
là lực lượng sản xuất và là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất trong các
quốc gia sản xuất nông nghiệp; thể hiện tập trung nhiều truyền thống lịch sử và
bản sắc dân tộc. Khi được giác ngộ, giai cấp nông dân có khả năng trở thành lực
lượng cách mạng to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa. - Về tầng lớp trí thức: Chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm
trí thức là một “tầng lớp xã hội đặc biệt”. Tầng lớp trí thức gồm những người
lao động trí óc, có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động chuyên sâu
trong lĩnh vực lao động của mình. Người trí thức có phương thức lao động đặc
thù, chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân. Do vậy, họ phải thường xuyên thể hiện
và nâng cao khả năng tư duy khoa học độc lập. Người trí thức hoạt động trong
các lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên,
khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, văn học nghệ thuật, lãnh đạo
và quản lý v.v.. Sản phẩm lao động trực tiếp nhất của tầng lớp trí thức là những
giá trị lý luận, những hệ thống lý thuyết khoa học; những giá trị tinh thần…
Ngày nay, khi khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
của xã hội thì vai trò của tầng lớp trí thức ngày càng trở nên quan trọng. Tầng
lớp trí thức không có hệ tư tưởng riêng, vì không có phương thức sản xuất riêng
và không có địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của tầng lớp trí
thức phụ thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế lịch sử, dù
không có hệ tư tưởng riêng, tầng lớp trí thức ở chế độ xã hội nào cũng đóng vai
trò “khai sáng”, giúp giai cấp thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị. Khi xã hội còn tồn tại sự phân chia giai cấp, còn
tồn tại dân tộc… thì trí thức bao giờ cũng là trí thức của giai cấp, của dân tộc.
Nhờ đó mà trí thức thể hiện được vai trò lịch sử, vai trò xã hội của mình. Vai trò
của trí thức là rất quan trọng ở mọi chế độ xã hội, đặc biệt là vai trò trang bị tri
thức văn hóa, khoa học, nâng cao dân trí v. v.. Trí thức không bao giờ tồn tại
với tư cách một giai cấp, “siêu giai cấp” hoặc “phi giai cấp”. Tính giai cấp của
trí thức thể hiện ở chỗ họ đem vốn kiến thức của mình phục vụ cho giai cấp
thống trị nào trong xã hội. Trong các chế độ tư hữu, đại đa số trí thức cũng là
những người lao động bị áp bức, bóc lột (tuy hình thức và mức độ bị bóc lột
không hà khắc và nặng nề như giai cấp công nhân và nông dân phải chịu đựng).
Nhưng tầng lớp trí thức không thể tự giải phóng mình khỏi các chế độ tư hữu,
áp bức, bóc lột; càng không thể trở thành lực lượng xã hội độc lập để lãnh đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, tầng lớp trí thức có điều kiện thể hiện là một
lực lượng cách mạng quan trọng, có nhiều đóng góp to lớn.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức đều là
những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội to lớn với những
đặc điểm và vai trò xác định. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như
cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể thành công nếu ba lực lượng xã hội này
tách rời nhau, không được tổ chức lại thành một lực lượng xã hội thống nhất
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.
Vấn đề liên minh ba lực lượng xã hội nói trên được đặt ra từ yêu cầu khách
quan của sự nghiệp cách mạng chung của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
tầng lớp trí thức và của toàn dân tộc.
- Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết thực tiễn các phong trào công nhân ở châu
Âu, nhất là ở Anh và ở Pháp giữa và cuối thế kỷ XIX, từ đó đã khái quát thành
một hệ thống lý luận khoa học về cách mạng vô sản, trong đó có lý luận về liên
minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông chỉ ra rằng, nhiều cuộc
đấu tranh của công nhân đã bị thất bại, tổn thất, trở thành những bài “đơn ca ai
điếu” 16, chủ yếu là vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn đồng minh tự
nhiên” của mình là giai cấp nông dân. Như vậy, xét dưới góc độ chính trị, trong
một chế độ xã hội có phân chia giai cấp, chính cuộc đấu tranh giai cấp giữa các
giai cấp có lợi ích đối lập nhau đặt ra nhu cầu tất yếu khách quan là mỗi giai cấp
đều phải tìm cách liên minh với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác có những lợi
ích phù hợp với mình để tập hợp lực lượng thực hiện những mục tiêu và lợi ích
chung; đó là quy luật mang tính phổ biến và là động lực lớn cho sự phát triển
của các xã hội có phân chia giai cấp. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân phải liên minh với giai cấp
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động để tạo sức mạnh tổng hợp đảm bảo
cho thắng lợi triệt để, hoàn toàn của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận
dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về liên minh
giai cấp vào hoàn cảnh lịch sử mới - chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa - V.I.Lênin đã khẳng định liên minh công - nông là vấn đề có
tính nguyên tắc để bảo đảm cho thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã chủ trương mở rộng khối liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp xã hội khác, coi đây là một
hình thức liên minh đặc biệt thực hiện không chỉ trong giai đoạn đấu tranh giành
chính quyền, mà còn phải được thực hiện trong suốt quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc
biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người
lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản,
tiểu chủ, nông dân, trí thức, v.v..), hoặc với phần lớn những tầng lớp đó, liên
minh nhằm chống lại tư bản, liên minh nhằm lật đổ hoàn toàn tư bản, tiêu diệt
hoàn toàn sự chống cự của giai cấp tư sản và những mưu toan khôi phục của
giai cấp ấy, nhằm thiết lập và củng cố vĩnh viễn chủ nghĩa xã hội” 17 . Xét từ
góc độ kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và tầng lớp lao động khác vừa là lực lượng sản xuất cơ bản,
vừa là lực lượng chính trị - xã hội to lớn. Nếu thực hiện tốt liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác,
trong đó trước hết là với tầng lớp trí thức thì không những xây dựng được cơ sở
kinh tế vững mạnh mà chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa cũng ngày càng được
củng cố vững chắc. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cùng với tất yếu
chính trị - xã hội (như đã nêu ở trên), tính tất yếu kinh tế của liên minh lại nổi
lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự thắng lợi hoàn toàn của chủ
nghĩa xã hội. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là với tầng lớp trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là sự liên kết, hợp tác, hỗ trợ lẫn
nhau … giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của
các chủ thể trong khối liên minh, đồng thời tạo động lực thực hiện thắng lợi
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Câu 16/ Hãy so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa Chủ nghĩa xã hội
không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học ?.
Trả lời: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một xã hội với nền tảng phát triển dựa trên những
nghiên cứu khoa học và thiết thực trong cuộc sống.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng:
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống những quan điểm, tư tưởng về
giải phóng xã hội, giải phóng con người; xây dựng một xã hội mới tổ đẹp không
có áp bức, bóc lột, đảm bảo do gi người thực sự có độc sống bình đẳng, hạnh
phúc, nhưng lại đưa ra con đường, biện pháp sai lầm, đó là bằng giáo dục,
thuyết phục và tuyên truyền hòa bình... do lý tưởng của
ho.
+ Sự giống nhau giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và Chủ nghĩa xã hội
khoa học:
- Gống nhau ở mục tiêu, cùng có mục tiêu là phủ nhận, muốn xóa bỏ chế độ
TBCN và xây dựng một dế độ xã hội mới, đế độ XHCN tiến bộ hơn.
Sự khác nhau giữa Chủ nghĩa xã hội không tưởng và Chủ nghĩa xã hội
khoa học:
- CNXH không tưởng, mặc dù phê phán Chế độ TBCN rất gay gắt, vạch trần
những bất công, tình trạng người áp bức bóc lột người nhưng không đi ra được
bản chất của CNTB, nguyên nhân cơ bản của những bất công, tình trạng người
áp bức bóc lộ người.
Trong khi đó, CNXH khoa học nhờ có học thuyết giá trị thăng dư đã chỉ ra được
nguồn gốc, nguyên nhân của những bất công, tinh trạng người áp bức bóc lột
người của để độ TBCN. CNTB sống được là nhờ bóc lột giá trị thặng dư do giai
cấp công nhân tạo ra trong quá trình làm thuê do giai cấp tư sản.
- CNXH không tưởng mặc dù có mục tiêu là xóa bỏ chế độ TBCN nhưng không
chỉ ra tính tất yếu, không đi ra đúng đắn con đường biện pháp để xóa bỏ chế độ
đó.
Trong khi đó, dựa vào những quan điểm khoa học của Chủ nghĩa duy vật lịch sử
(nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất; nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng; học thuyết Hình thái kinh tế-xã hội ), CNXH khoa học đã khẳng
định tính tất yếu của việc xóa bỏ để độ TBTN, khẳng định biện pháp tiến
hànhánh mạng để xóa bỏ để độ đó,
- CNXH không tưởng do hạn chế về thế giới quan duy tâm, do hạn chế có tính
lịch sử về những điều kiện kinh tế xã hội khách quan nên đã không đi ra đúng
đắn lực lượng xã hội đến hành công cuộc xóa bỏ dể độ TBCN và lực lượng xã
hội tiến hành công cuộc xây dựng chế độ xã hội XHCN.
Trong khi đó, dựa vào những quan điểm khoa học của Chủ ghĩa duy vật lịch sử,
CNXH khoa học đã chỉ ra đúng đắn tiến hành công cuộc xóa bỏ để độ TBCN và
tiến hành công cuộc xây dựng chế độ xã hộ XHCN là sứ mệnh lịch sử của giai
cấp vô sản.

Câu 17: phân tích quá trình xây dựng CNXH ở nước Nga, Xô -Viết giai
đoạn thực hiện chính sách cộng sản mới thời chiến 1918-1921

1. Hoàn cảnh ra đời của Chính sách kinh tế mới.


Cuối năm 1920, nước Nga Xô Viết ra khỏi nội chiến, chuyển sang xây dựng
chế độ xã hội mới trong điều kiện hoà bình song với những khó khăn to lớn: hậu
quả của chiến tranh đế quốc và nội chiến đã tàn phá nền kinh tế nặng nề, tình
hình kinh tế - xã hội rối ren, nông dân ở nhiều nơi tỏ ra bất mãn với chính sách
“Cộng sản thời chiến”, thể hiện ở cuộc bạo loạn ở Crôn- Xtat. Chính sách Cộng
sản thời chiến là một biện pháp bắt buộc trong hoàn cảnh nước Nga cuối năm
1918 nội chiến nổ ra có sự can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc do Anh,
Pháp cầm đầu nhằm bóp chết Nhà nước Xô viết non trẻ. Trong điều kiện chiến
tranh và kinh tế bị tàn phá, thực hiện khẩu hiệu mà V.I.Lênin nêu ra: “Tất cả
cho tiêu diệt kẻ thù”, Chính sách Cộng sản thời chiến ra đời nhằm động viên
mọi nguồn lực vật chất, lực lượng để phục vụ cho chiến tranh. Chính sách cộng
sản thời chiến bao gồm:
- Trưng thu lương thực thừa của nông dân, nhà nước độc quyền mua bán lúa mì
để cung cấp cho thành thị và quân đội.
- Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm công nghiệp.
- Cấm buôn bán trao đổi sản phẩm trên thị trường nhất là lúa mì, thực hiện chế
độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho người tiêu dùng.
- Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động toàn dân, với nguyên tắc không làm
thì không ăn.

Thực hiện chính sách này, kết quả là phần lớn sản phẩm tập trung vào tay Nhà
nước, nhờ đó nước Nga Xô viết đã có điều kiện để dành chiến thắng trong cuộc
chiến tranh nội chiến có sự can thiệp của bên ngoài.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Chính sách này tỏ ra không phù hợp trong điều
kiện mới, nông dân tỏ ra bất bình, do kéo dài việc cấm buôn bán trao đổi, thu
hẹp phạm vi lưu thông hàng hoá, xoá bỏ quan hệ hàng hoá-tiền tệ.
Trước tình hình trên, tháng 3/1921,V.I. Lênin đã vạch ra Chính sách kinh tế mới
thay cho Chính sách cộng sản thời chiến, được trình bầy đầu tiên trong tác phẩm
“Bàn về thuế lương thực”

2. Nội dung chủ yếu của Chính sách kinh tế mới (NEP)
Đó là việc khôi phục và phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước và các thành phần kinh tế khác, coi đó là những biện
pháp quá độ, những mắc xích trung gian để chuyển sang CNXH, là phương
thức để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đây là những hình thức và ph-
ương pháp mới xây dựng CNXH thay cho Chính sách cộng sản thời chiến đã tỏ
ra không phù hợp với điều kiện đã thay đổi.

Có thể khẳng định, NEP là đổi mới nhận thức về CNXH với sự thừa nhận sự tồn
tại của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, kinh tế
thị trường, thực hiện sự trao đổi giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp
và nông nghiệp, thay chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế lư-
ơng thực, chú trọng kích thích lợi ích vật chất và coi đó động lực quan trọng để
phát triển kinh tế, sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Dưới
đây là các nội dung chủ yếu của NEP:

a. Thuế lương thực.


Việc ra đời của chính sách thuế lương thực - sự khởi đầu của NEP - đã đánh dấu
sự chuyển biến mới về chất trong minh liên công- nông ở nước Nga lúc bấy giờ.
Theo Lênin, trong điều kiện nước Nga lúc này "đó là một trong những vấn đề
chính trị chủ yếu"[1]. Trước hết Lê nin cho rằng để khôi phục và phát triển kinh
tế, cần dùng những biện pháp cấp tốc và cương quyết nhất để cải thiện đời sống
của nông dân và phát triển mạnh lực lượng sản xuất của họ. Bởi vì, theo V.I.
Lênin, "muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mì và nguyên
liệu. Đứng về phương diện của toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà
nói thì hiện nay "trở ngại lớn nhất là ở đó. Thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm
sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách
nâng cao lực lượng sản xuất của họ"[2]. Đồng thời, Lê nin cũng phê phán quan

điểm muốn cải thiện đời sống công nhân bằng cách khác, theo Người, đó
là việc đặt lợi ích phường hội của công nhân lên trên lợi ích giai cấp của họ, có
nghĩa là chỉ nhìn lợi ích trước mắt, lợi ích nhất thời, lợi ích cục bộ của công
nhân mà hy sinh lợi ích toàn thể của giai cấp công nhân, của nền chuyên chính
vô sản, của sự liên minh với nông dân.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, theo Lênin, phải áp dụng Chính sách thuế l-
ương thực. Nội dung chính của chính sách này là:
- Nhà nước xác định trước và ổn định mức thuế lương thực cho nông dân (th-
ường chỉ bằng 1/2 so với trước đó).
- Người nông dân sau khi đã đóng góp thuế lương thực theo quy định, được tự
do bán sản phẩm của mình để mua những sản phẩm công nghiệp cần thiết; nếu
sản xuất càng nhiều thì sau khi đóng thuế, người nông dân bán ra càng nhiều và
thu nhập càng cao.
Chính sách này đã đem lại kết quả quan trọng trong việc khôi phục và phát triển
nền kinh tế của nớc Nga sau chiến tranh.

b.Khôi phục và phát triển quan hệ trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và
công nghiệp.
Lênin xem vấn đề trao đổi hàng hoá như một hình thức chủ yếu của mối quan
hệ kinh tế giữa thành thị và nông thôn, như một tiền đề cần thiết để xây dựng
thành công CNXH. Khác với cơ chế giao nộp, trưng thu của Chính sách cộng
sản thời chiến trước đây, cơ chế trao đổi sản phẩm kinh tế hàng hoá cho phép
đạt được mục tiêu như:
Một là, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân, của
xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá sẽ thúc đẩy quá trình phân công lao động
trong nông nghiệp khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển.
Hai là, đây là con đường để Nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách
chắc chắn, sản xuất lương thực càng mang tính chất hàng hoá sẽ khuyến khích
nông dân mở rộng diện tích canh tác, thâm canh. Kết quả là tổng số lương thực
của xã hội tăng lên, khối lượng lương thực vào tay Nhà nước qua con đường
trao đổi và thu thuế cũng ngày càng tăng.
Ba là, làm sống động các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị
và nông thôn.
Như vậy, V.I Lê nin đã cụ thể hoá quan điểm "bắt đầu từ nông dân" trong hai
chính sách: thuế lương thực và trao đổi hàng hoá. Từ đó cho thấy chính sách
thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư tưởng chuyển sang kinh doanh lương
thực. Theo Người, để thực hiện trao đổi sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp
cần giải quyết hai vấn đề:

- Thứ nhất, nguồn hàng hoá công nghiệp để trao đổi.


- Thứ hai, mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế hàng hoá để thực hiện NEP với sự
phục hồi và kích thích xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa của sản xuất hàng
hoá nhỏ.
Lê nin cho rằng: Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là sự
phát triển không tránh khỏi. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại
cho cách mạng, tuy nhiên, không được coi thường, buông lỏng sự kiểm tra,
kiểm soát sự phát triển ấy.

c. Sử dụng các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Lênin chỉ ra rằng, trong một nước như nước Nga, kinh tế tiểu nông chiếm ưu thế
thì hễ có trao đổi tự do buôn bán, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự
phát triển tiểu tư sản, có tính tự phát tư bản chủ nghĩa. Đó là một chân lý sơ
đẳng của kinh tế chính trị. Vấn đề là ở chỗ, thái độ của nhà nước vô sản cần
như thế nào?
Chính sách đúng đắn nhất như Lê nin khẳng định là giai cấp vô sản cung cấp
cho tiểu nông tất cả những sản phẩm công nghiệp mà họ cần dùng do những
công xưởng lớn xã hội chủ nghĩa sản xuất ra để đổi lấy lúa mì và nguyên liệu.
Nhưng hoàn cảnh lúc này không cho phép chính quyền Xô Viết làm được điều
đó. Vậy cần phải làm thế nào? Theo Lê nin có hai cách giải quyết:
- Hoặc là tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao
đổi tư nhân không phải là quốc doanh, tức là của thương nghiệp tư bản chủ
nghĩa và tiểu thương, mà sự trao đổi này là xu hướng không thể tránh khỏi khi
có hàng triệu người sản xuất nhỏ, Lênin cho rằng "Chính sách ấy là một sự dại
dột và tự sát đối với Đảng nào muốn áp dụng nó".
- Hoặc là tìm cách hướng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ
nghĩa tư bản nhà nước. Lê nin cho rằng đây là chính sách có thể áp dụng được
và duy nhất hợp lý.
Người nhiều lần khẳng định: chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến so với
thế lực tự phát tư sản, nó gần CNXH hơn kinh tế của sản xuất hàng hoá nhỏ và
tư bản tư nhân. Người đã tìm ra những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước
ở nước Nga lúc bấy giờ như: tô nhượng, hợp tác xã, đại lý, hợp đồng cho thuê.
Tuy khác nhau, song các hình thức này đều nhằm khôi phục và phát triển nền
kinh tế hàng hoá của Nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ, bảo
đảm sự thắng lợi của CNXH một cách vững chắc.
Rõ ràng, cơ chế kinh tế của thời kỳ Chính sách kinh tế mới mang tính chất quá
độ, gián tiếp, theo hướng "không đập tan cơ cấu kinh tế và xã hội cũ,

thương nghiệp, tiểu nông, công nghiệp nhỏ, chủ nghĩa tư bản, mà là chấn hưng
thương nghiệp bằng cách Nhà nước điều tiết những cái đó nhưng chỉ trong
chừng mực chúng sẽ được phục hồi lại"[3]. Cơ chế này hoàn toàn khác với cơ
chế kinh tế có tính chất mệnh lệnh trực tiếp của chính sách cộng sản thời chiến
được thi hành trước đó.
Trong thời Lênin, các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước gồm có:
- Hình thức thứ nhất là tô nhượng, theo Lênin "là sự liên minh, một hợp đồng
kinh tế với tư bản tài chính ở các nước tiên tiến"[4]. Ý nghĩa chính trị được
Lênin xem xét trong hình thức tô nhợng - hình thức quan trọng nhất của chủ
nghĩa tư bản nhà nước: Tô nhượng là một sự liên minh do một bên này ký kết
để chống lại bên kia và chừng nào mà chúng ta chưa đủ mạnh thì phải lợi dụng
sự thù địch giữa chúng với nhau để đứng vững được.Vì vậy, "tô nhượng tức là
tiếp tục chiến tranh trên lĩnh vực kinh tế, nhưng ở đây chúng ta không làm cho
lực lượng sản xuất của chúng ta bị phá hoại, mà lại làm cho lực lượng đó phát
triển lên"[5].
- Hình thức thứ hai là hợp tác xã (HTX) của người tiểu nông, đây là một hình
thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì thông qua hình thức này, tạo điều kiện
cho việc kiểm kê kiểm soát, nhưng nó khác với hình thức tô nhượng ở chỗ: tô
nhượng dựa trên cơ sở đại công nghiệp, còn chế độ HTX dựa trên cơ sở tiểu
công nghiệp sản xuất thủ công. Theo Lênin việc chuyển từ tiểu sản xuất hàng
hoá nhỏ sang sản xuất lớn là bước quá độ phức tạp, bởi vì giám sát một kẻ được
tô nhượng là việc dễ, nhưng giám sát các xã viên HTX là việc khó, đó là quá
trình lâu dài dựa trên nguyên tắc tự nguyện.
- Hình thức thứ ba của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong lĩnh vực thương mại,
Nhà nước thu hút tư bản thương mại, trả hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà
nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ.
- Hình thức thứ tư là Nhà nước cho nhà tư bản thuê xí nghiệp, vùng mỏ khu
rừng, đất đai.
Lênin đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện một
nước còn tồn tại phổ biến nền sản xuất hàng hoá nhỏ, khẳng định "ở đây không
phải là CNTB nhà nước đấu tranh với CNXH mà là giai cấp tiểu tư sản cộng với
chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà n-
ước với chủ nghĩa xã hội"[6]; "chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến to
lớn dù phải trả học phí, là một việc làm đáng giá, điều ấy không những không
làm cho chúng ta bị diệt vong, trái lại có thể đưa chúng ta đến CNXH bằng con
đường chắc chắn nhất"[7].
Như vậy, trong tư duy kinh tế của Lênin thì Chính sách kinh tế mới gắn liền

với sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước, Lênin đã phát hiện tính quy luật
của việc chuyển hoá kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân lên chủ nghĩa xã hội thông
qua hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
V.I.Lênin đã nêu chức năng mới của Nhà nước vô sản trong phát triển kinh
tế như: điều tiết việc mua bán hàng hoá và luư thông tiền tệ, tổ chức thương
nghiệp nhà nước bán buôn, bán lẻ, phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các
quan hệ tín dụng, coi thương nghiệp là mắt xích quan trọng trong việc triển khai
NEP. Sở dĩ Lênin coi thương nghiệp là mắt xích trong triển khai NEP bởi vì
mục tiêu quan trọng của NEP là thiết lập sự liên minh kinh tế giữa giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân, trong điều kiện kinh tế lạc hậu phân tán thì thương
nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất giữa chúng.

3. Ý nghĩa của việc vận dụng Chính sách kinh tế mới.


V.I Lênin đã bảo vệ và phát triển học thuyết của Mác - Ăngghen, nâng lên trình
độ cao mới trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn cao là chủ
nghĩa đế quốc trong hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Kế
thừa học thuyết của C.Mác trong điều kiện mới, V.I Lênin đã sáng tạo ra lý
luận khoa học về chủ nghĩa đế quốc, khởi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Người đã xác định kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, đề ra Chính
sách kinh tế mới (NEP), phác hoạ những đường nét cơ bản của sự quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế chậm phát triển.
Khi vạch ra chính sách kinh tế mới, Lênin đã khẳng định: "Chúng ta buộc phải
thừa nhận toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi căn
bản"[8]. Những quan điểm của Lênin trong chính sách kinh tế mới về phát triển
kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ kinh tế thị trường,
sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước dường như mâu thuẫn với quan niệm của
Mác và Ăngghen khi cho rằng chủ nghĩa cộng sản xoá bỏ buôn bán, cùng với
việc xã hội nắm lấy tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá cũng bị loại trừ.
Thực ra phải hiểu điều kiện lịch sử cụ thể của những quan điểm của các nhà
kinh điển, điều khẳng định ở trên của Mác và Ăngghen là những dự đoán về
giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của
nó, tức là chủ nghĩa xã hội. Điều này Mác đã khẳng định: Đó là một xã hội vừa
thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội về mọi phương diện -
kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt
lòng ra... Các nhà kinh điển đã chỉ ra một cách đúng đắn về mặt phương pháp
luận khi cho rằng cơ sở để xoá bỏ

chế độ tư hữu là lực lượng sản xuất phải được phát triển đến một trình độ nhất
định với trình độ xã hội hoá cao, chứ không phải chỉ bằng quyết định mệnh lệnh
hành chính hay mong muốn chủ quan.
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường và như vậy
phải trải qua chế độ tư hữu trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan,
biện chứng của sự phát triển mà Lênin đã vận dụng sáng tạo trong NEP. Chính
vì không nhận thức và vận dụng được quy luật này, nhiều nước xã hội chủ nghĩa
cũ như Liên Xô và Đông Âu trước đây đã chủ trương nhanh chóng xoá bỏ chế
độ tư hữu, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, không thừa nhận
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hoá - tiền
tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo hướng nội là
chủ yếu, không tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò
của dịch vụ trong nền kinh tế. Tư duy này đã kìm hãm sự phát triển dẫn đến
khủng hoảng trầm trọng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật,
đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bước ngoặt của quá trình
Đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh tế của Đảng ta, khẳng định quá trình
chuyển từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn của nước ta là quá trình chuyển hoá
nền kinh tế còn mang nhiều tính tự túc cấp thành nền kinh tế hàng hoá, khẳng
định sự cần thiết của việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã
hội, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá -
tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế quản lý kinh tế mới. Như vậy nhận thức
của Đại hôi VI mặc dù chưa đạt tới nhận thức về kinh tế thị trường, song đã đặt
nền tảng cho sự phát triển của Đảng ta ở các đại hội sau.
Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện,
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "sản xuất
hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của
nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng"[9]
Chỉ đến Đại hội IX (tháng 4/2001) Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm
kinh tế thị trường định hướng XHCN, khẳng định phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô hình
kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển, vừa có những đặc điểm chung
của kinh tế thị trường hiện đại, vừa có những đặc

điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Sự khẳng định
của Nghị quyết Đại hội IX về mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận so
với mô hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước được xác định tại Đại hội VIII. Đại hội XI
đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung phát triển năm 2011) quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, lý luận về phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
qua 30 năm Đổi mới, tham khảo kinh nghiêm quốc tế, Đại hội XII của Đảng đã
bổ sung hoàn thiện và xác định cụ thể hơn khái niệm nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh mới. Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục
tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giũ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp
luật, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn
lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược quy hoạch, kế hoạch phù hợp với
cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh;
sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng
và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường;
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát
triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định mục tiêu “Đến
năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; đảm bảo tính đồng bộ
giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường ”[10].

Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăng ghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã
hội cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này
đòi hỏi các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của
Mác, Ăngghen trong điều kiện cụ thể của nước mình. ChínhV.I Lênin xuất phát
từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: "Chúng ta không hình dung một thứ chủ
nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài
học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được" [11]
Trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của mỗi nước cần tránh khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo
điều, tả khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị méo mó.
Thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên
Xô cũ và thực tiễn Việt Nam thời kỳ trước đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Cuộc
sống cho thấy mô hình chủ nghĩa xã hội cũ với tính kế hoạch hoá tập trung cao
độ, tập trung đẩy mạnh cải tạo, phát triển quan hệ sản xuất mà không chú trọng
đầy đủ đến vai trò của lực lượng sản xuất, coi nhẹ yếu tố khuyến khích vật chất
gắn với sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ và kinh tế thị trường đã làm cho mô
hình này không có sức sống và lâm vào khủng hoảng sâu sắc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhận định bài học
đầu tiên qua tổng kết 30 năm Đổi mới là “Trong quá trình đổi mới phải chủ
động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại,vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”[12].
Trong 35 năm Đổi mới, Đảng ta đã vận dụng, phát triển sáng tạo Chính sách
kinh tế mới của Lênin trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực và chủ động
hội nhập quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, do vậy đã đạt được
những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế và xã hội, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế; tạo ra các tiển đề quan trọng để tiếp tục phát triển
đất nước trong thời gian tới.
Trước những yêu cầu, đòi hỏi mới của thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng đã bổ
sung nhiều nhận thức định hướng mới trong quan điểm về thể chế phát triển,
nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, hình thành các mô hình kinh
tế mới, phát triển các thành phần kinh tế nhất là kinh tế tư nhân được coi là
động lực quan trọng. Trong Chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 đã xác định “Lấy cải cách, nâng cao
chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đầy đủ, đồng bộ, hiện
đại, hội nhập và thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để
thúc đẩy phát triển đất nước...Phát triển nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế và
các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực
quan trọng của nền kinh tế”[13].
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng
hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, môi trường tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm
năng và nguồn lực, là động mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước”. Đồng thời chủ trương cần tiếp tục “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo môi trường thuận
lợi để huy động phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thúc đẩy đầu tư,
sản xuất kinh doanh; nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế”

Câu 18 : Phân tích quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Nga
Xô viết giai đoạn thực hiện chính sách Kinh tế mới ( 1921 - 1924 ) .

* Nội dung , quá trình thực hiện của Chính sách kinh tế mới là:
+ Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa thay vào đó là thuế lương thực.
+ Những xí nghiệp nhỏ trước đây bị quốc hữu hóa, nay cho tư nhân thuê hay
mua lại để kinh doanh tự do (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng).
+ Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp
+ Cho phép mở rộng trao đổi hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nghiệp và nông nghiệp, cho thương nhân được tự do hoạt động (chủ yếu trên
lĩnh vực bán lẻ) để góp phần khôi phục kinh tế, củng cố lại lưu thông tiền tệ
trong nước, chú trọng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, phát triển kinh tế hàng hóa.
+ Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
+ Thực hiện chế độ hạch toán kinh doanh trong các xí nghiệp quốc doanh.
Chính sách kinh tế mới (NEP) do Lê-nin đề xướng, bao gồm các chính sách chủ
yếu về nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và tiền tệ.
* Trong nông nghiệp: Thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thu thuế
lương thực.
* Trong công nghiệp:
- Tập trung khôi phục công nghiệp nặng, cho phép tư nhân được thuê hoặc xây
dựng những xí nghiệp loại nhỏ (dưới 20 công nhân) có sự kiểm soát của Nhà
nước.
- Khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, kinh doanh ở Nga.
- Nhà nước nắm các ngành kinh tế chủ chốt như công nghiệp, giao thông vận
tải, ngân hàng, ngoại thương.
- Nhà nước chấn chỉnh việc tổ chức, quản lí sản xuất công nghiệp, phần lớn các
xí nghiệp chuyển sang chế độ tự hạch toán kinh tế, cải tiến chế độ tiền lương
nhằm nâng cao năng suất lao động.
* Trong thương nghiệp và tiền tệ:
- Tự do buôn bán, trao đổi, mở lại các chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ
giữa thành thị và nông thôn.
- Năm 1924, phát hành đồng rúp mới.
⟹ Bằng việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, chỉ sau một thời gian ngắn, nền
kinh tế quốc dân của nước Nga Xô viết đã có những chuyển biến rõ rệt.

*Đánh giá quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới
Chính sách kinh tế mới đã tạo điều kiện phát triển lực lượng sản xuất, vì nó đáp
ứng được yêu cầu của các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là
nền kinh tế hàng hóa và có nhiều thành phần. Nhờ đó, trong một thời gian ngắn,
Nhà nước Xô-viết đã khôi phục được nền kinh tế quốc dân bị chiến tranh tàn
phá; đã tiến được một bước dài trong việc củng cố khối liên minh công nông;
một nhà nước công nông nhiều dân tộc đầu tiên trên thế giới đã được thành lập,
đó là Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết (tháng chạp năm 1922).
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn. Đối với các nước tiến lên
CNXH đều cần thiết vận dụng nội dung cơ bản của chính sách kinh tế mới,
chẳng hạn như vấn đề quan hệ hàng hóa
- tiền tệ, phát triển kinh tế hàng hóa, nguyên tắc liên minh công nông, phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần v.v..
Chính sách kinh tế mới được thực hiện trong các ngành kinh tế và lấy việc khôi
phục nông nghiệp làm nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề cấp bách trước mắt. Nhờ
đó kinh tế Xô-viết ngày càng phát triển. Đến cuối năm 1922 Liên Xô đã vượt
qua được nạn đói và đến năm 1925, nông nghiệp Liên Xô đã vượt mức trước
chiến tranh, cung cấp 87% sản phẩm.
Ngành đại công nghiệp được phục hồi. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1925
so với năm 1913 đạt 75,5% và đến năm 1926 thì khôi phục được 100%. Kế
hoạch điện khí hóa tiến hành có hiệu quả, ngành điện và cơ khí chế tạo vượt
mức trước chiến tranh, nhiều xí nghiệp công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực
phẩm đã đạt và vượt mức trước chiến tranh.
Trong việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, V.I.Lê-nin coi thương nghiệp là
"mắt xích" trọng yếu trong chuỗi dây xích các sự biến lịch sử mà Nhà nước phải
đem toàn lực ra mà nắm lấy nó. Do đó, thương nghiệp đã được tăng cường
mạnh mẽ (về nội thương: tổng mức lưu chuyển hàng hóa năm 1926 đã bằng 2
lần năm 1924; về ngoại thương: mở rộng quan hệ buôn bán với hơn 40 nước -
thực hiện nguyên tắc độc quyền ngoại thương).
Ngân sách nhà nước đã được củng cố lại: năm 1925 - 1926 ngân sách nhà nước
tăng lên gần 5 lần so với năm 1922 - 1923.
Năm 1921, ngân hàng nhà nước được lập lại, đã tiến hành các đợt đổi tiền vào
các năm 1922, 1923. Giá trị đồng rúp đã được nâng lên đáng kể , có tác dụng rõ
rệt trong việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, góp phần khôi phục nhanh
chóng nền kinh tế. Thực tiễn đó đã bác bỏ những luận điệu của kẻ thù của Nhà
nước Xô-viết và của những bọn hoài nghi khác coi Chính sách kinh tế mới như
một chính sách quay về chủ nghĩa tư bản.

Câu 19 : Trình bày luận điểm của V.I.Lênin :” Thông qua hình thức hợp
tác xã đưa nông dân vào con đường xã hội chủ nghĩa”
Lênin đã đề ra một cách toàn diện cương lĩnh thực hiện hợp tác hóa : chứng
minh tính chất và vai trò của hợp tác xã,chính sách,biện pháp hợp tác hóa,đề
xuất những điều kiện nhằm thực hiện hợp tác hóa...
Tư tưởng và kế hoạch về hợp tác hóa của Lênin là kết quả chín muồi nhất của
chính sách kinh tế mới.
Phương pháp quá độ trực tiếp,trước khi có chính sách kinh tế mới là phương
pháp tách rời tình hình thực tế của nước Nga tiền tư bản, không tìm ra được con
đường đúng đắn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông.
Khi thực hiện chính sách kinh tế mới,Lênin đã tìm ra được con đường đúng
đắn là thông qua thương nghiệp để thích ứng và giúp cho lực lượng sản xuất
tiểu nông phát triển, xây dựng chủ nghãi xã hội thông qua các hợp tác xã, để
hướng dẫn tiểu nông lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin đã nêu lên nhiều biện pháp thực hiện hợp tác hóa :
- Thứ nhất, cần phải giúp đỡ các hợp tác xã về mặt tài chính.Lênin nhấn
mạnh,sự quan tâm giúp đỡ hợp tác xã phải là sự giúp đỡ thuần túy vật chất.Nhà
nước cần phải cấp vốn cho các hợp tác xã vay nhiều hơn cho các xí nghiệp tư
nhân vay,thậm chí ngang với vốn cấp cho công nghiệp nặng.
- Thứ hai, cần phải động viên quần chúng nông dân tham gia thực sự tự giác vào
phong trào hợp tác hóa, cần tìm ra một phương thức khen thưởng giúp đỡ một
cách đầy đủ các hợp tác xã,đồng thời cần phải thường xuyên kiểm tra tình hình
tham gia của nông dân.
- Cuối cùng,cần phải tiến hành công tác văn hóa đối với nông dân.Điều kiện để
thực hiện thành công hợp tác hóa là cần phải nâng cao trình độ văn hóa cho
nông dân.

CÂU 20: Trình bày luận điểm củA V.I.Lênin: “Phát triển đại công
nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa và điện khí hóa trên cơ sở phát triển
kinh tế tiểu nông”.
- Quan điểm của Lê nin về cách thức khôi phục và phát triển công nghiệp,
thực hiện điện khí hóa mà không tính đến nhu cầu của nông dân, không chú ý
đến nền kinh tế tiểu nông mà áp dụng những “biện pháp cách mạng” “tả
khuynh”, bóp nghẹt và giết chết sản xuất nhỏ, “trực tiếp và hoàn thành đập tan
chế độ cũ và thay thế nó bằng một chế độ xã hội và kinh tế mới”, thì chẳng khác
nào giết gà để lấy trứng, là biện pháp thoát ly thực tế , và không thể hoàn thành
nhiệm vụ khôi phục và phát triển công nghiệp, thực hiện điện khí hóa.
- Căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười,
chính sách kinh tế mới đã thay đổi căn bản phương pháp và con đường khôi
phục và phát triển công nghiệp, thực hiện điện khí hóa. Con đường biện pháp
đúng đắn đó là, nhượng bộ những nông dân làm nghề buôn bán, cho phép nông
dân buôn bán tự do, ủng hộ mạnh mẽ sự phát triển lực lượng sản xuất của kinh
tế tiểu nông, khôi phục và phát triển công nghiệp, thực hiện điện khí hóa trên cơ
sở nâng cao lực lượng sản xuất của tiểu nông.
Câu 21: Trình bày luận điểm của V.I.Lênin :" Học tập và sử dụng những
gì có giá trị của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
-Quan điểm của Lênin về tính hai mặt của nền văn minh tư sản: Phân tích
nền văn minh tư bản chủ nghĩa , Lênin đưa ra nhận định, văn minh tư bản chủ
nghĩa có tính hai mặt : nếu so sánh với xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai thì
chủ nghĩa tư bản là lạc hậu , lỗi thời; nhưng nếu so sánh với tình trạng lạc hậu,
trì trệ, quan liêu của những xã hội tiền tư bản như nước Nga lúc đó thì chủ nghĩa
tư bản lại là tiến bộ , cách mạng . Do đó nước Nga cần phải khéo lợi dụng
những thành tựu văn minh của chủ nghĩa tư bản để khắc phục tình trạng lạc hậu,
trì trệ , quan liêu của chế độ trung cổ tiền tư bản ; đồng thời cũng phải đứng ở
tầm cao của văn minh xã hội chủ nghĩa tương lai để phân tích tính hạn chế lịch
sử và tính hạn chế giai cấp của văn minh tư bản chủ nghĩa . Từ phân tích trên ,
Lênin đã nêu lên quan điểm: "Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước
ngoài : Chính quyền Xô viết + trật tự đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức
các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ ....+ + = tổng số = chủ nghĩa xã
hội "
- Lênin còn nhấn mạnh :" Chủ nghĩa cộng sản sinh ra từ chủ nghĩa tư bản , chỉ
có dùng những cái do chủ nghĩa tư bản để lại thì mới có thể xây dựng nên chủ
nghĩa cộng sản được ".
-Lênin chủ trương cần nghiên cứu và học tập những kinh nghiệm quản lí hành
chính , kinh nghiệm tố chức sản xuất , kinh doanh của các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển ở phương Tây , đặc biệt là phải tận dụng những thành tựu văn
hoá của chủ nghĩa tư bản để khắc phục sự ngu muội , lạc hậu , chủ nghĩa quan
liêu do chế độ nông nô và chế độ gia trưởng tạo ra ở nước Nga tiền tư bản.
Lênin viết : "Trong lúc ta bàn tán huyên thuyên về văn hoá vô sản và quan hệ
của văn hoá vô sản với văn hoá tư sản , thì những sự việc đã cho ta những số
liệu chứng tỏ rằng ngay cả về mặt văn hoá tư sản ở nước ta , tình hình cũng rất
kém . Thật ra không có gì đáng ngạc nhiên cả , còn rất lâu chúng ta mới đạt
được một trình độ tiểu học cho toàn dân ,... Những số liệu đó chứng tỏ rằng
chúng ta còn phải làm bao nhiêu việc to lớn cấp thiết nữa mới đạt đến trình độ
một nước văn minh thông thường ở Tây Âu được " . Đồng thời Lênin nhấn
mạnh : " Dù sao cũng phải đi xa hơn , đống thời lấy lại tất cả những gì là thật sự
quý báu của khoa học châu Âu và châu Mỹ ; Đó là nhiệm vụ trước nhất và chủ
chốt nhất của chúng ta".
-Quan điểm của Lênin về vấn đề học tập và sử dụng những gì có giá trị
của chủ nghĩa tư bản: Tư tưởng của Lênin về việc học tấp và tận dụng những
thành quả văn minh của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội đến nay
vẫn còn ý nghĩa thời sự , cấp thiết đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở các nước tiền tư bản , kinh tế , văn học lạc hậu.
Câu 22: Điều kiện bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghi , xã hội :
cách mạng văn hóa và cải cách bộ máy lãnh đạo và quản lý.
- Về cách mạng văn hóa :Lênin luôn coi văn hóa , giáo dục là điều kiện và là
sự bảo đảm không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội .
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội , Lênin đã nhấn mạnh điều
kiện quan trọng hàng đầu để nâng cao năng suất lao động chính là nâng cao
trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân . Lênin viết : “ Chỉ cần hiểu và nhớ
rằng , không thể nào thực hiện điện khí hóa trong khi chúng ta còn có những
người mù chữ. Lênin nhấn mạnh , cần phải làm cho mỗi người “ hiểu rằng điều
đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại , và nếu họ
không có nên học vấn đó , thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là nguyện vọng mà
thôi”.
- Về cải cách bộ máy lãnh đạo và quản lý : Lênin đã bán nhiều về vấn đề cải
tạo các cơ quan đảng và nhà nước , vấn đề xây dựng nền chính trị trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã khi Lênin viết : “ Hiện nay chúng ta có hai nhiệm
vụ chủ yếu có ý nghĩa đánh dấu thời đại . Nhiệm vụ thứ nhất là cải tạo bộ máy
quản lý hoàn toàn vô giá trị mà thời đại cũ đã để lại toàn bộ cho chúng ta .
Nhiệm vụ thứ hai của chúng ta là tiến hành công tác văn hóa trong nông dân ” .
Về nhiệm vụ thứ nhất , cải tạo bộ máy quản lý , Lênin đề xuất những biện
pháp sau :
Thứ nhất , cải cách chính trị trong đảng , mở rộng số lượng ủy viên trung ương
, đặc biệt số ủy viên là công nhân ; kết hợp Ban Kiểm tra trung ương với Bộ
Dân ủy thanh tra công nông đã được cải tổ để xây dựng hệ thống kiểm tra nhân
dân lớn mạnh .
Thứ hai , cải tạo bộ máy nhà nước , xây dựng cơ quan nhà nước tinh giản và
hiệu quả cao theo đúng tinh thần “ Thà ít mà tốt ” .
Rất tiếc là sau khi Lênin qua đời , những biện pháp của Lênin để cải tổ bộ máy
lãnh đạo và quản lý đã không được thực hiện
Câu 23 : Phân tích quan điểm của Xta-lin về công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở liên xô giai đoạn
1924 đến 1936?
- Quan điểm của Xta-lin về công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa

Để xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa xã hội ,đại hội XIV Đảng Cộng sản
Liên Xô đã đề ra đường lối chung thực hiện công nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Xta-lin chỉ rõ, phương pháp công nghiệp hóa của Liên Xô căn bản không
giống với phương pháp công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Công nghiệp hóa các
nước tư bản chủ nghĩa thường bắt đầu từ công nghiệp nhẹ,còn Liên Xô thì bắt
đầu từ công nghiệp nặng.
- Quan điểm của Xta-lin về vấn đề phát triển công nghiệp nặng tốc độ
cao:
Xta-lin không những chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng mà còn
nhấn mạnh đến phát triển công nghiệp nặng tốc độ cao.
Theo Xta-lin,công nghiệp hóa với tốc độ cao không chỉ là đòi hỏi cấp bách
của đất nước mà còn khả năng khách quan.Xta-lin đã đưa ra bốn điều kiện thuận
lợi 1) tài nguyên khoáng sản và nông nghiệp có thể thỏa mãn nhu cầu phát triẻn
kinh tế ;
2) có chính quyền Xô viết được đông đảo nhân dân lao động ủng hộ;
3) nền kinh tế kế hoạch có thể tránh được khủng hoảng;
4)sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản.
- Mặt tích cực của đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm của Xta-lin:

Thời kỳ đầu công nghiệp hóa cho thấy tốc độ phát triển công nghiệp Liên Xô
đã vượt xa các nước tư bản chủ nghĩa.
Dưới sự lãnh đạo của Xta-lin,Liên Xô đã tiến hành công nghiệp hóa thực sự
nhanh chóng.Khi hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (bắt đầu từ năm
1921),tỷ trọng công nghiệp trong kinh tế quốc dân đã đạt đến 70%, khi hoàn
thành kế hoạch 5 năm lần thứ hai,tỷ trọng đó lên đến 77.4%.Năm 1937 giá trị
sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã vượt Đức,Anh,Pháp,đứng đầu Châu Âu
và đứng thứ 2 trên thế giới.Đặc biệt là đã xây dựng được một hệ thống công
nghiệp có đủ các ngành,lấy công nghiệp nặng làm trung tâm,thực hiện được
bước nhảy vọt “ biến nước lạc hậu thành nước tiên tiến,nước nông nghiệp thành
nước công nghiệp”.
Tích lũy cao,tốc độ cao,ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là phương thức
công nghiệp hóa mà Liên Xô đã áp dụng trong điều kiện lịch sử đặc biệt của
một nước lạc hậu về kinh tế đứng trước sự uy hiếp của chủ nghĩa đế quốc.
Đường lối đó đã có tác dụng quan trọng trong việc thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, vượt qua được những khó khăn,thách
thức bất khả kháng của hoàn cảnh lịch sử Liên Xô lúc đó : bị cô lập trong sự
bao vây , đe dọa xâm lược của các nước tư bản nhưng đường lối đó cũng phải
trả một cái giá rất đắt.
- những hạn chế của đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa theo quan
điểm của Xta-lin:

Vì coi nhẹ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nên đã tạo ra sự mất cân đối kéo
dài trong tỉ lệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành trong
nội bộ công nghiệp,nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Câu 24: Phân tích quan điểm của Xta-lin về tập thể hoá nống nghiệp trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô giai đoạn 1924 đến 1936
- Sự khác biệt giữa đường lối xây dựng hợp tác xã của lênin với đường lối tập
thể hóa nông nghiệp nhanh chóng của xta-lin:..............

-Kết quả của đường lối tập thể hoá nông nghiệp nhanh chóng của Xta-lin :
Việc tập thể hoá nông nghiệp hoàn toàn đã mang lại hậu quả nghiêm trọng cho
kinh tế Liên Xô . Chế độ nông trang tập thể lấy tổ hợp lao động làm hình thức tổ
chức cơ bản , không những không thúc đẩy được nông nghiệp phát triển , mà
trái lại vì trình độ tổ chức và quản lí kém kéo dài , không phát huy được tính
tích cực của nông dân làm cho sản xuất trì trệ , mãi đến đầu những năm 50 thế
kỷ XX , sản lượng lương thực hàng năm mới vượt qua mức trước chiến tranh
thế giới lần thứ nhất.

Câu 25 : phân tích quan điểm của Xta-lin về thể chế chính trị xã hội chủ
nghĩa ở Liên xô.

Từ đại hội 14 Đảng cộng sản Liên xô đã từ bỏ chính sách kinh tế mới. Về
vấn đề này, Xta-lin viết :”chúng ta giữa chính sách kinh tế mới , chính là vì
chính sách đó phục vụ cho sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội.bao gồm nó thôi
không phục vụ cho sự nghiệp của chủ nghĩa xã hội nữa, thì khi ấy chúng ta sẽ
vứt nó đi. Lênin đã nói rằng việc đặt ra chính sách kinh tế mới là một việc làm
đúng đắn và lâu dài, nhưng Lênin không bao giờ nói rằng Chính sách đó đặt ra
để thi hành mãi mãi”. Và thế là Xta-lin đã từ bỏ chính sách kinh tế mới đưa ra
những quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội thực hiện quá độ trực tiếp.

· Về chế độ một Đảng.Theo Xta-lin , ở Liên xô đã không còn giai cấp bóc
lột nữa, chỉ còn hai giai cấp là công nhân và nông dân, mà hai giai cấp này có
lợi ích cơ bản hoàn thành nhất trí, tương thân, tương ái,. Do đó ở Liên xô không
có cơ sở xã hội cho sự tồn tại nhiều Đảng.

· Về vấn đề quan hệ giữa Đảng với chính quyền và các tổ chức quần
chúng.Xta-lin khẳng định đã là công cụ của chuyên chính vô sản. Trong hệ
thống ảnh chuyên chính vô sản Đảng là lực lượng lãnh đạo chủ yếu. Chỉ có đào
mới có thể thống nhất và lãnh đạo tổ chức quần chúng nhân dân tiến hành công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội I đến thẳng dạng hoàn toàn. Ông chỉ rõ tổ chức
quần chúng nhân dân bao gồm công đoàn, xô viết, hợp tác xã, đoàn thanh niên
và rất nhiều chi nhánh của những tổ chức này ở trung ương và địa phương.
Nhưng khẳng định ảnh không thể và không nêu làm thay chức năng của công
đoàn xô viết và các tổ chức quần chúng khác. Ông chỉ ra cần phải có sự phân
công, phân nhiệm giữa Đảng và Chính quyền. Càng không được bao biện làm
thay xô viết, làm thêm chức năng của cơ quan chức năng chính quyền nhà nước
và cơ quan quản lý. Tuy nhiên thực tế chính ông đã không phân biệt rạch ròi
giữa Đảng và nhà nước, hiện tượng Đảng bao biện làm thay chính quyền rất phổ
biến và làm một trong những nguyên nhân của tình trạng tập trung cao độ trong
hệ thống chính trị ở Liên xô .

· Về vấn đề thể chế chính trị tập trung cao độ. Không có sự phân biệt rõ
ràng về chức năng giữa Đảng và Chính quyền là nguyên nhân hình thành chế độ
tập trung cao độ của Đảng trong toàn bộ đời sống chính trị thực tế của nhà nước
Liên xô. Đã có hậu quả làm cho nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp chế xã
hội chủ nghĩa bị phá hoại nghiêm trọng. Làm cho một số người lãnh đạo bất
chấp pháp luật, giải thích và vận dụng pháp luật theo ý riêng, chị Thiện phá hoại
pháp chế chế. Dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng khác của chế độ tập trung cao
độ là sự phát triển của chủ nghĩa quan liêu.mặc dù ông đã đưa ra những biện
pháp tích cực khắc phục những hậu quả nói trên nhưng vì không thay đổi được
một cách văn bản thể chế chính trị quá độ tập trung nên những biện pháp này
không có nhiều hiệu quả.

Câu 26: Phân tích nội dung và đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã
hội Liên Xô

· Đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô trong kinh tế:

Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người trên cơ sở
điều kiện kinh tế - xã hội phát triển , mà xét đến cùng là trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất . Chủ nghĩa xã hội là xã hội có nền kinh tế phát triển
cao , với lực lượng sản xuất hiện đại , quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất , được tổ chức quản lý có hiệu quả , năng suất lao động
cao và phân phối chủ yếu theo lao động . VILênin cho rằng : “ từ chủ nghĩa tư
bản , nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội , nghĩa là chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người.

Tuy nhiên , trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa , chủ nghĩa xã
hội , theo Ph.Ăngghen không the ngay lập tức thủ tiêu chế độ tư hữu . Trả lời
câu hỏi : Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không ?
Ph.Ăngghen dứt khoát cho rằng : “ Không , không thể được cũng y như không
thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết
để xây dựng nền kinh tế công hữu . Cho nên cuộc cách mạng của giai cấp vô
sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra , sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội
hiện nay một cách dần dần , và chỉ khi nào đã tạo nên một khối lượng tư liệu
cần thiết cho việc cải tạo đó là khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu ” .

Cùng với việc từng bước xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để nâng
cao năng suất lao động cần phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn , tổ
chức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm , nghĩa là phải tạo ra quan hệ sản xuất
tiến bộ , thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . VI Lênin cho
rằng : “ thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản , nghĩa là nâng cao
năng suất lao động và do đó ( và nhằm mục đích đó ) phải tổ chức lao động theo
một trình độ cao hơn.

Đối với những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản di lên chủ nghĩa xã hội ,
để phát triển lực lượng sản xuất , nâng cao năng suất lao động , VILênin chỉ rõ
tất yếu “ Trong một nước tiểu nông , trước hết các đồng chí phải bắc những
chiếc cầu như phải “ bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc ” xuyên qua chủ nghĩa
tư bản nhà nước vững chắc , đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước , tiến lên
chủ nghĩa xã hội “ dưới chính quyền xô-viết thì chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ có
thể là à chủ nghĩa xã hội ” . Đồng thời , VILênin chỉ rõ những nước chưa trải
qua chủ nghĩa tư bản dị lên chủ nghĩa xã hội cần thiết phải học hỏi kinh nghiệm
từ các nước phát triển theo cách thức : “ Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt
của nước ngoài : Chính quyền Xô - viết trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và
cách tổ chức các tơ - rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. ++ = 2
( tổng số ) = chủ nghĩa xã hội ” .

Đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội liên xô trong chính trị:

-CNTB dựa trên chế độ tư hữu, thì CNXH xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập
chế độ công hữu trên phạm vi toàn xã hội.

- CNTB vận hành theo thị trường tự do, thiếu sự quản lý điều tiết của Nhà
nước thì chủ nghĩa xã hội xóa bỏ thị trường tự do, quản lý nền kinh tế theo kế
hoạch; Nhà nước trực tiếp điều hành mọi hoạt động của đời sống kinh tế - xã
hội.

- CNTB xâm lược, áp bức, bóc lột các nước thuộc địa phụ thuộc, thì CNXH
giúp các nước này đấu tranh chống tư bản đế quốc, giành độc lập dân tộc.

- CNTB gây ra chiến tranh đế quốc thì CNXH chống lại chiến tranh đế quốc.

· Đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghũa xã hội liên xô trong văn hóa:

-Tính ưu việt , sự ổn định và phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa không chỉ
thể hiện ở lĩnh vực kinh tế , chính trị mà còn ở lĩnh vực văn hóa - tinh thần của
xã hội . Trang chủ nghĩa xã hội , văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội , mục
tiêu , động lực của phát triển xã hội , trọng tâm là phát triển kinh tế , văn hóa đã
hun đúc nên tâm hồn , khí phách , bản lĩnh con người , biển con người thành
con người chân , thiện mỹ . VILLênin , trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước Nga Xô - viết đã luận giải sâu sắc về văn hóa vô sản " - nền văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa , rằng , chỉ có xây dựng được nền văn hóa vô sản mới giải
quyết được mọi vấn đề từ kinh tế , chính trị đến xã hội , con người . Người
khẳng định : “ ... nếu không hiểu rõ rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về nền
văn hóa được sáng tạo ra trong toàn bộ quá trình phát triển của loài người và
việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể xây dựng được nền văn hóa vô sản thì
chúng ta không giải quyết được vấn đề . Đồng thời , V. I. Lênin cũng cho rằng ,
trong xã hội xã hội chủ nghĩa , những người cộng sản sẽ làm giàn tri thức của
mình bằng tổng hợp các tri thức , văn hóa mà loài người đã tạo ra : “ Người ta
chi có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự
hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra . Do vậy , quá
trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải biết kế thừa những giá trị văn
hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại , đồng thời , cần chống tư tưởng , văn hóa
phi vô sản , trái với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của loài
người , trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội .

Câu 27: Phân tích quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm
1937 đến năm 1991.
1.Giai đoạn hoàn thành, củng cố, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội (1937-
1985).
Trong giai đoạn củng cố, hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã đứng
trước hàng loạt vấn đề cần phải giải quyết để chuyển sang trạng thái chất lượng
mới của chủ nghĩa xã hội phát triển, trong hoàn cảnh lịch sử mới, cụ thể là
những vấn đề sau đây:
Những nhân tố phát triển theo chiều rộng ( tài nguyên phong phú, nhân lực
dồi dào, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội được động viên, phát huy cao
độ) trước đây đóng vai trò quan trọng, nay đã giảm sút hoặc đã không còn tồn
tại nữa. Điều kiện khai thác tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. Đòi hỏi
phát triển nền kinh tế theo chiều sâu ( dựa vào khoa học công nghệ tiên tiến, nền
kinh tế tri thức) đã trở thành cấp bách.
Trong nền kinh tế quốc dân, do đường lối nghiêng về phát triển công
nghiệp nặng, không chú trọng nông nghiệp và công nghiệp; các ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng của xã hội.
Hệ thống quản lý chậm được đổi mới trước yêu cầu của nền kinh tế đang cần
chuyênt mạnh sang con đường phát triển theo chiều sâu.
Liên Xô đã tiến hành một số cải cách nhằm khắc phục những khiếm
khuyết trên đây và đã đạt một số kết quả nhất định. Các nhược điểm, khuyết
điểm, mâu thuẫn bị tích động ngày càng nhiều và không được giải quyết.
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế dần dần bị sụt giảm: nếu trong vòng 20
năm ( từ 1951 đến 1970) tốc độ tăng trưởng trung bình là 5,1% thì từ năm 1971-
1975 tốc độ tăng trưởng chỉ còn 3,0%, từ năm 1976 đến 1980 tốc độ tăng
trưởng sụt giảm chỉ còn 1,9% đến giai đoạn 1981-1985 ttốc độ tăng trưởng tiếp
tục giảm sút xuống tới 1,8%. Nền kinh tế Liên Xô dần dần tụt hậu so với nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa phương Tây. Tình thế này đã buộc Liên Xô phải tiến
hành cải tổ.
2.Giai đoạn cải tổ và suy sụp ( 1985-1991)
Sự suy giảm trong phát triển kinh tế, sự trì trệ trong phát triển xã hội, những
khó khăn ngày càng tăng trong cuộc sống đã làm cho cải tổ trở thành một tất
yếu khách quan và đã được chính thức quyết định tại Hội nghị toàn thể Uỷ ban
trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô họp vào tháng 4 năm 1985. Sau đó, Đại hội
XXVII và các Hội nghị trung ương tiếp theo đã cụ thể hoá nội dung của đường
lối cải tổ với một số nội dung sau:
Tiến hành việc cải tổ nền kinh tế theo hướng chuyển từ phát triển theo
chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu trên cơ sở tiến bộ khoa học kĩ thuật; đề
ra chiến lược tăng tốc với mục tiêu đến cưới thế kỷ, thu nhập quốc dân phải tăng
gấp đôi.
Khẳng định sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất, chế độ quản lý kinh
doanh hiện hành với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện có; đòi hỏi
phải khắc phục itnhf trạng vô chủ ( công hữu một cách hình thức) đối với tư liệu
sản xuất.
Quyết định chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung ( quan liêu bao cấp)
sang cơ chế thị trường; thừa nhận sự tồn tại của quan hệ hàng hoá – tiền tệ và
vai trò của nó đối với quản lý kinh tế và đối với việc kích thích người sản xuất
quan tâm đến kết quả lao động và hiệu quả sản xuất.
Đề xuất nhiệm vụ phải cải cách căn bản quản lý , hoàn thiện và phát triển
thể chế chính trị.
Nhằm thực hiện đường lối trên, hàng loạt biện pháp đac được tiến hành
trong giai đoạn 1986-1989 và đã có tác dụng nhất định đến việc cải thiện tình
hình kinh tế. Tốc độ tăng trưởng đã hơi nhích lên đạt 2,2% ( so với 1,8% trong
giai đoạn 1981-1985). Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn chuyển biến chậm chạp, nhiều
mặt vẫn còn rất khó khăn. Đặc biệt, chủ trương “ tăng tốc” phát triển kinh tế
một cách chủ quan, nóng vội đã làm cho nền kinh tế xuống dốc nhanh chóng.
Việc tiến hành cải cách chính trị một cách thiếu thận trọng với những bước
đi không phù hợp với cải cách kinh tế đã làm cho kiến trúc thượng tầng trở nên
rệu rã, đời sống xã hội rối loạn, cải cách kinh tế đinh đốn. Ngoài ra đã xuất hiện
sự phá hoại từ bên trong, xuất phát từ những phần tử cơ hội nằm ngay trong cơ
quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, phản bội chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời với
sự phá hoại từ bên ngoài, xuất phát từ những thế lực thù địch, từ lâu đã tìm mọi
cách chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tất cả những yếu tố bất lợi nói trên cùng với rất nhiều sai lầm khác trong
quá trình cải tổ đã làm cho tình hình kinh tế - xã hội Liên Xô không những
không được cải thiện mà lại ngày càng ngày trở nên trầm trọng hơn, cuối cùng
dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.

Câu 28: Phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mục tiêu
tiên tiến lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam từ 1930 đến 1945.

-Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa đã rõ ràng và dứt khoát ngay
từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời làSự lựa chọn con đường cách mạng
vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đáp
ứng hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: làm thế nào để giải phóng dân
tộc khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân
dân; lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát triển
đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới. Nói cách khác, với việc lựa
chọn con đường cứu nước đúng đắn, chủ trương “làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, Nguyễn Ái Quốc đã giải
quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc kéo dài 2/3
thế kỷ: “Lịch sử dường như đã chuẩn bị sẵn cho dân tộc Việt Nam đi vào thời
kỳ hiện đại bằng miếng đất sẵn sàng được gieo trồng, và bằng những nông phu
sẵn hạt giống trong tay. Miếng đất ấy là nhân dân có truyền thống đấu tranh bất
khuất; giống đó là chủ nghĩa Mác - Lênin; người thứ nhất gieo giống đó là
Nguyễn Ái Quốc”
Sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của
Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở lý luận và khoa học, dựa trên thực tiễn vận
động và đòi hỏi của phong trào cách mạng Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, Người đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(5). Đường lối
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH được nêu lên trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên, phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn - lịch sử, phù hợp với
sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng
nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của đại đa số các tầng lớp nhân dân Việt
Nam: “Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc
thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa
chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của
Đảng ta trong lúc các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập
trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”.

Câu 29: Phân tích quá trình tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên miền bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975:
- Từ sau năm 1954 sau chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp , miền Bắc nước ta bước vào công cuộc xây dựng XHCN
- Sau Đại hội Đảng lần thứ II (1951), các hội nghị ban chấp hành Trung
ương ( khóa II ) bàn về con đường đi lên Cách mạng Việt Nam đều khẳng
định rằng nước ta phải trải qua nhiều giai đoạn mới có thể tiến lên XHCN
=> Quan điểm của Đảng ta về xây dựng CNXH cho đến khoảng đầu 1975
vẫn là cần thực hiện quá độ gián tiếp để tiến lên CNXH.
- Nhưng, từ hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 13 ( tháng 2 năm
1957 ) đã được thay thế bằng quan điểm “ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc” lên CNXH, thực hiện “ quá độ trực tiếp”.
- Kết quả của quá trình xây dựng CNXH từ năm 1960 đến 1975:
 Thành tựu:
 Chưa đầy 2 năm, đén cuối 1960 miền Bắc đã xây dựng được
41.401 hợp tác xã với 86% số hộ nông dân và 76% diện tích đất
ruộng đất ,…
 Công – thương nghiệp tư bản tư doanh cũng được tiến hành mạnh
mẽ. Đến cuối 1960 có 97% số hộ tư sản vào công tư hợp
doanh.cùng thời kỳ này có 87,9% số thợ thủ công và 45% số hộ
tiểu thương tham gia vào các hình thức hợp tác xã
 Quan hệ sản xuất mới CNXH được xác lập về cơ bản đã xóa bỏ
được chế độ người bóc lột người
 Tiềm lực về mọi mặt được tăng cường, đẩm bảo cho miền Bắc trở
thành hậu phương vững chắc của Cmang miền Nam và kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
 Hạn chế :
+Trong quá trình thực hiện cải tạo CNXH chúng ta đã phạm phải những sai
lầm về chủ trương, chính sách, chính sách lớn về chỉ đạo và tổ chức thực
hiện.
+ Chúng ta đã đồng nhất việc cải tạo với việc xóa bỏ các thành phần kinh tế cá
thể , thủ tiêu nền kinh tế nhiều thành phần. Mặt khác do tư tưởng chủ quan nóng
vội trong quá trình vận động hợp tác hóa nông nghiệp, chúng ta đã vi phạm
những quy tắc tuyệt đối với nông dân . Việc xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành
phần và “ trong sản xuất kinh doanh không áp dụng những quy luật của sản xuất
hàng hóa, đã tác động tiêu cực không ít đến đời sống kinh tế, hạn chế việc phát
triển lực lượng sản xuất”
Nguyên nhân của những hạn chế :
+Về khách quan: miền Bắc đi lên xd CNXH trong điều kiện xuất phát điểm còn
thấp kém. Mặt khác quá trinh tiến hành trong điều kiện đất nước có chiến
tranh. Chúng ta phải tập hợp sức người và sức của cho cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
của đế quốc Mỹ.
+Về chủ quan, Đảng và Nhà nước ta đã mắc một số sai lầm, bắt nguồn từ nhận
thức còn đơn giản, duy ý chí, chưa năm vững, đúng đắn quy luật vận động lên
chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nền sản xuất nhỏ, còn
mang tính tự cấp tự túc. Phương pháp tư duy của chúng ta còn giáo điều , rập
khuôn mô hình xd CNXH của Liên Xô , chưa xuất phát từ đầy đủ hoàn
cảnh ,điều kiện thực tế của nước ta.

Câu 30: Phan tíchh quá trình tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam giai đoạn 1976- 1986

- Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là sự kiện có ý nghĩa trọng đại đối với
lịch sử dân tộc Việt Nam, mở ra 1 kỷ nguyên mới : độc lập dân tộc, thống
nhất và cả nước đi lên CNXH .
- Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác định đường lối chung của CM XHCN trên toàn đất
nước ta : “ Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy làm chủ tập thể của
nhân dân lao động , tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng : CM về quan
hệ sản xuất , CM khoa học kỹ thuật , CM tư tưởng văn hóa . trong đó CM
khoa học kỹ thuật là then chốt, đẩy mạng CNH HDH XHCN là nhiệm vụ
rung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH”.
- Chủ trương đường của Đảng được thực hiện từ năm 1977 đến 1982:
 Đối với miền Nam , kế hoạch đặt ra phấn đấu phấn đấu đến hết
năm 1980 hoàn thành cơ bản cải tạo XHCN. Đối với miền Bắc “
đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN để tăng cường cơ sở vật chất
cho QHSX mới , củng cố và mở rộng kinh doanh …”
 Về cải tạo XHCN đối với công thương nghiệp, tháng 3/1977 Bộ
chính trị quyết định trong hai năm 1977- 1978 hoàn thành về cơ
bản đối vớicông thương nghiệp tư bản, tư doanh , trước hết là xóa
bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa
 Về phong trào hợp tác hóa ở miền Nam .đã có những taajo đoàn
nhưng hoạt động kém hiệu quả , các hợp tác xã thành lập nhưng
cũng nhanh chóng tan rã
 Về phát triển công nghiệp thời 1976-1980 tốc độ tăng bình quân là
0,6% . các chỉ tiêu mà Đại hội lần thứ IV đề ra đều không đạt
được..
 Nền kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng
- Dấu hiệu đổi mới bắt đầu từ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 6( khóa IV ) tháng 9/1979 thể hiện ở những nội dung sau :
1. Coi việc sản xuất nông lâm ngư nghiệp nhằm bảo đảm vững chắc
lương thực , thực phẩm và cung ứng cho công nghiệp là nhiệm vụ
quan trọng nhất
2. Ban hành chính sách khuyết khích sản xuất nông nghiệp
3. Đảm bảo quyền tự chủ cho các xí nghiệp, chủ trương kết hợp 3 lợi
ích nhà nước tập thể và người lao động
4. Kết hợp kế hoạch thị trường, khẳng định sự cần thiết tồn thị trường
tự do, khuyến khích sản xuất bung ra đúng hướng
5. Ở miền Nam duy trì 5 thành phần kinh tế : quốc doanh tập thể ,
công tư hợp doanh cá thể, tư bản tư nhân .
- Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ V (từ 27/3 đến 31/3/1982) đã khẳng
định ba thắng lợi cơ bản của cách mạng nước ta từ sau ngày giải phóng
miền Nam là: nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt nhà nước; đánh
thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới
phía Bắc; bước đầu khắc phục những hậu quả chiến tranh và thiên tai gây
ra. Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra những khó khăn, yêu kém của nền kinh
tế - xã hội nước ta và chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó. Do sai lầm
trong quản lý , sai lầm trong việc nóng vội đề ra một số chủ trương quá
lớn về chỉ tiêu, tốc độ trong các lĩnh vực xây dựng cơ bản …
- Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đại hội V đã đưa ra một số chủ
trương:
Một là, xác định “chặng đường trước mắt" có tầm quan hứ 6 đến 1990, trong đó
việc ôn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết.
Hai là, thừa nhận trong một thời gian nhất định ở miền Nam vẫn duy trì 5 thành
phần kinh tế. Tuy nhiên, Đại hội V vẫn chưa đưa ra được đường lối đổi mới
toàn diện, một số chủ trương còn chưa rõ ràng, dứt khoát. Điều này chứng tỏ,
cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ trong nội bộ Đảng còn có nhiều khó khăn,
phức tạp.
- Tháng 6 năm 1985, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lan thứ 8 (khóa
V) đã họp chuyên bàn về giá - lương - tiền đã khẳng định: “Không thể ổn
định tình hình kinh tế đời sống, cân up giá và lương". Phải dứt khoát xóa
bỏ cơ chể tập trung, hội chủ nghĩa.
- Như vậy, từ Hội nghị Ban chấp hành Trung ương trìn. lần thứ nướ lần thứ
8 (tháng 6 năm 1985), những chủ trương có tính chất đổi mới của Đảng
đã từng bước đi vào thực tiễn cuộc sống Đảng ta đã nhận thức ngày càng
rõ hơn sự cản trở phát triển kinh tế - xã hội của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp... mở chủ theo Tuy nhiên, cuộc tổng điều chỉnh
giá - lương - tiền đã không đem lại kết quả như mong muốn vì chuẩn bị
không chu đáo lại tiến hành nhanh và rộng theo ý chí chủ quan.
- Từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 8 năm 1986, Bộ Chính trị và Ban Bí thư
đã họp Hội nghị và đi đến kết luận cần phải có đường lối đổi mới toàn
diện nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
- Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa V do Tổng Bí thư
Trường Chinh trình bày đã tổng kết sâu sắc quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội từ sau ngày thống nhất đất nước và đề ra đường lôi đôi mới toàn
diện đất nước.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho
công cuộc đối mới toàn diện, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội phù
hợp với điêu kiện thực tế nước ta, tuân theo đúng những quy luật khách
quan
- 1982- 1986

Câu 31: Phân tích ý nghĩa của việc xác định đúng đắn những đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội và nêu những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Ý nghĩa của việc xác định đúng đắn những đặc trưng của CNXH:

+ Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản phải hình dung,
phác thảo được những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng đó phải
phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, đồng thời phản ánh được
nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại

+ Trong quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định đúng đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo những quan điểm cơ bản
của Chủ nghĩa xã hội khoa học, là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là cơ sở, là định
hướng để Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật nhằm hiện thực hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta

- Nêu 8 đặc trưng CNXH của Đảng CSVN:


+ Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh
+ Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
+ Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
+ Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
+ Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
+ Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
+ Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới.
Câu 32: Phân tích đặc trưng thứ nhất và thứ hai của chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể
hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm
Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân
giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự
do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải
hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt
Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân
Việt Nam sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện
ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế
thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của
quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể
hiện trong nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ
phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực
thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ
trực tiếp…”.
CÂU 33: phân tích đặc trưng thứ 3 và thứ 4 của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đặc trưng thứ ba : Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một xã hội có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Về lực lượng sản xuất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dượng không thể là cái gì khác ngoaid lực lượng sản xuất hiện đại với
khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, gắn liền với sự phát triển nền
kinh tế tri thức.
Về quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng trong hang đầu là phải xá lâpj được quan
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác lập quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuaatschinhs là xây dựng
một nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế
thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Đặt trưng thứ tư: CNXH Việt Nam là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính ưu việt về văn hóa của CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái
quát ở tính chất tiên tiến của nền văn hóa bao hàm những ghí trị mới, tiến
bộ, hiện đại,nhân văn cuae văn hóa nhân loài; ở việc giữ gìn bản sắc dân
tộc, những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc việt nam: chủ nghĩa
yêu nước việt nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập tự
do, tự cường dân tộc….
Hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn khách quan lôi cuốn nhiều quốc gia,
khu vực tham gia. Xu thế này, một mặt tạo cơ hội để mở rộng giao lưu,
tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia, mặt khác làm nẩy sinh nguy
cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc.
Trong bối cảnh quốc tế mà các chế độ chính trị- xã hội khác nhau cùng tồn tại,
vừa hợp ác vừa đấu tranh; trong giao lưu hợp tác và phát triển văn hóa,
tính ưu việt của CNXH mà chúng ta đang xây dựng phải được thể hiện
không chỉ bằng việc xác định tính ưu việt của đặc trưng về văn hóa vừa
nêu, mà còn phải hiện thực hóa đặc trưng đó trên thực tế.
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải
tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loài, vừa phải kế thừa,
phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người việt nam, xây dựng một nền
văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng. sự kết hợp hài hòa những giá
trị tiê tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu
việt của CNXH mà nhân dân ta đang xây dượng trên lĩnh vực văn hóa,
làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát sinh
Câu 34: Phân tích đặc trưng 5, 6 của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của
đảng cộng sản việt nam

Đặt trưng thứ 5: CNXH Việt Nam là một xã hội trong đó con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ
được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người
trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã
hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người,
cho con người và phát triển con người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội
chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực
hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung
và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết
thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội thể hiện trong đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con
người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện con người (đức,
trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những động lực để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ
đổi mới, đảng ta xác định một động lực rất quan trọng là giải quyết hài
hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. lợi ích thiết than mà mỗi
con người việt nam hiện nay mong đợi phản ánh nhu cầu về đời sống vật
chất, đời sống tinh thần và nhu cầu phát triển con người toàn diện. giải
quyết hài hòa các lợi ích, bảo đảm nhu cầu, lợi ích chính đáng của mỗi
con người, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là thể hiện tính ưu việt
của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.
. Đặc trưng thứ sáu: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một xã hội trong đó các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách
dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ
giữa các tộc người trong quốc gia ta dân tộc Việt Nam). Chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta đang xây dựng nhất thiết phải bảo đảm quyền bình đẳng
giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, về lịch sử ra đời sớm hay
muộn, trình độ phát triển cao hay thấp giữa các dân tộc. Đối lập với các
chế độ áp bức bóc lột người thường phân biệt, kỳ thị và chia rẽ các dân
tộc, chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng gắn liền với việc xây
dựng tình đoàn kết các dân tộc, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển,
từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa
các dân tộc hiện nay. Thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang
phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong
cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các
thế lực thù địch.
CÂU 35: phân tích đặt trưng thứ 7 thứ 8 của chủ nghĩa xã hội theo quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đặc trưng thứ bảy: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một xã hội có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng cộng sản lãnh đạo Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng
thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tính ưu việt của một xã hội
do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới
xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy
đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn
ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng
quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân.Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là biểu hiện cụ thể
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhà
nước ấy phải kế thừa những giá trị trong kiểu tổ chức nhà nước pháp
quyền và xã hội công dân với tư cách là giá trị của văn minh nhân loại
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Thành quả của công cuộc
đổi mới đã giúp Đảng và Nhà nước ta xác định kiểu tổ chức và hoạt động
mang tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là: Tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự
phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của trung ương.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp. Trong
quan hệ với Nhà nước, Đảng lãnh đạo để Nhà nước phát huy vai trò quản
lý chứ không bao biện làm thay Nhà nước. Đảng luôn luôn chịu sự giám
sát của nhân dân và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng ta đã khẳng định, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ
phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang
xây dựng thể hiện trong đặc trưng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là thành quả của việc vận
dụng, phát huy sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam hiện nay.
Đặc trưng thứ tám: Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một xã hội có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới Chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối
ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện
hội nhập quốc tế, đặc trưng này thể hiện tính ưu việt của đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta. Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp
tác giữa nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế. Đảng và Nhà
nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ
chức, diễn đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện
trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.Tám đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam nêu trên thể hiện tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng trong việc xác lập những
đường nét cơ bản mang sắc thái riêng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà
nhân dân ta đang xây dựng để từng bước hiện thực hóa đặc trưng đó trong
thực tiễn cuộc sống. Sự vận động và biến đổi của thế giới hiện nay, của
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục cung cấp thêm những cứ
liệu mới để bổ sung cho nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường để vận dụng một cách sáng tạo hơn nữa những quan điểm cơ
bản của Chủ nghĩa xã hội khoa học trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Câu 36: Phân tích sự đổi mới quan điểm của đcs Việt Nam về thời kì quá
độ lên cnxh
Trả lời:
- Tiến trình đổi mới của Việt Nam bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hếlà đổi mới
tư duy về chủ nghĩa xã hội và về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ thủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước.
Đối với nước ta, thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng,
trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm
vụ tương ứng.
- Nội dung của sự đổi mới quan niệm về thời kỳ quá độ gồm những điểm
như sau:
+ Đảng ta khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ .
bản thân việc khẳng định "từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua
một thời kỳ quá độ” không có gì mới. Bởi vì httưởng về thời kỳ quá độ đã được
Mác đưa ra trong tác phẩm
"phê phán Cương lĩnh Gô ta” và được Lênin nhắc lại trong nhiều tác phẩm này.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tính tất yếu của một thời kỳ đặc biệt,
thời kỳ quá độ, mà Việt Nam nhất thiết phải trải quá trong quá trình từ trình độ
tiền tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là một thời kỳ cải tiến các mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây
dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng ản xuất, quan hệ ản xuất và
kiến trúc thượng tầng. Không trải qua một thời kỳ quá độ như vậy thì không thể
đi tớ Chủ nghĩa xã hội được.
+ Khẳng định thời kỳ quá độ là một quá trình lịch sử lâu dài..
Trong thời kỳ trước đổi mới, nhất là khi mới bắt đầu công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta có một quan niệm sai lầm do rằng thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội chỉ là một quãng thời gian ngắn, khoảng mươi, mười lăm năm
là cùng. Quan niệm sai lầm này xuất phát từ tâm lý nóng vộ, chủ quan, duy ý
chí, muốn đốt cháy giai đoạn, muốn nhanh chóng kết thúc công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa, xóa bỏ sở hữu tư nhân, xây dựng để độ công hữu
Đại hội VI ( năm 1986), Đảng ta đã khẳng định thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam không những là một tất yếu khách quan, mà còn là một quá
trình lịch sử lâu dài, trải qua nhiều chặng đường, trong đó trặng đường đầu tiên
là bước quá độ nhỏ trong những bước quá độ lớn, mà nhiệm vụ của nó là chuẩn
bị những tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa nền kinh tế đất nước.
+ Nhận thức mới về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đxa có sự đổi mới trong nhận thức và trong thực tiễn. Trước thời kỳ đổi
mới, có quan điểm chính cho rằng có thể xây dựng quan hệ sản xuất đi trước
một bước so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất tiên
tiến sẽ kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ quan điểm trái quy luật
này đã dẫn đến chủ trương chính sách tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển
chỉ hai quan hệ sở hữu: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, các quan hệ sở hữu
tư nhân coi như bị xếp “ngoài vòng pháp luật”.
Với nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương mới
thay cho chủ trương chủ quan, duy ý chí, trái quy luật trước đây. Chủ trương với
đó là: "Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội... "

Câu 37: Phân tích sự đổi mới quan điểm của đảng Cộng Sản Việt Nam về
con đường lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trả lời:
-Những điều kiện khách quan của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
 Là một yếu tố khách quan đối với mọi nước đi lên CNXH đây là do đặc
điểm của sự ra đời phương thức vô sản Cách Mạng và đặc điểm của cuộc
Cách Mạng vô sản quyết định. (Cuộc cách mạng vô sản khác với các
cuộc cách mạng khác là khi giành được cách mạng chỉ là bước đầu, chủ
yếu là tham giavào công cuộc xây dựng, và đổi mới đất nước).
+ Điều kiện quốc tế:
 Là phải có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở các nướctiên tiến. Xây dựng
CNXH đặc biệt làsự giúp đỡ về vốn, công nghệ, kinhnghiệm quản lý.
 Giai cấp vô sản đó phải giành được chính quyền
 Phải có Đảng, Mác-Xít-Lênin-Nít lãnh đạo.
 Phải xây dựng được khối đoàn kết liên minh công-nông vững chắc.
+ Điều kiện tròn nước:
 lên CNXH ở Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển biện chứng của
lịch sử. Lênin đã chỉ rõ :” Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH. Đó là
điều không tránh khỏi. Sự quá độ đó còn phù hợp với xu hướng chung
của thời đại ngày nay-Thời đại mà nói chung chủ yếu là sự quá độ từ
CNTB lên CNXH”.
 Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN là sự lựa chọn có
tính lịch sử phù hợp với điều kiện. Đặc điểm tính theo đất nước phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân
Điều kiện khách quan:
Chúng ta quá độ đi lên CNXH trong điều kiện cuộc mạng công nghiệp hiện đại
trên thế giới đang phát triển hết sức mạnh mẽ làm cho lực lượng sản xuất mang
tính quốc tế hóa ngày càng cao và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các Quốc Gia
trong quá trình phát triển ngày càng lớn. Do đó các nước phải mở rộng kinh tế
với bên ngoài đó là xu thế tất yếu của thời đại trong quá trình đó cho phép
chúng ta có thể tranh thủ tận dụng được những thế mạnh từ bên ngoài, đặc biệt
là vốn, công nghệ tiên tiến hiện đại, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường
v.v....
Điều kiện chủ quan:
+ Giai cấp vô sản đó phải giành được chính quyền
+ Phải có Đảng, Mác-Xít-Lênin-Nít lãnh đạo.
+ Phải xây dựng được khối đoàn kết liên minh công-nông vững chắc

-Thực chất của cong đường lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Phân
tích hai khía cạnh của việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”(1). Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật chung
đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, phù hợp với
điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó là một tất yếu khách
quan, được thể hiện ở cả phương diện lý luận và phương diện thực tiễn.
*Về mặt lý luận: Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa là một kiểu quá độ gián tiếp (loại hình quá độ đặc biệt của đặc biệt). Khi
nghiên cứu về sự phát triển của lịch sử, C. Mác và Ph.Ăng ghen đã khẳng định,
lịch sử xã hội vừa phát triển theo con đường tuần tự, vừa phát triển theo con
đường nhảy vọt. Năm 1881, khi theo dõi tình hình nước Nga, C.Mác cho rằng
sự tồn tại đồng thời của nền kinh tế phương Tây đang thống trị trên thị trường
thế giới, cho phép nước Nga có thể áp dụng những thành tựu mà chế độ tư bản
đã đạt được mà không phải trải qua chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, Ph.Ăng ghen
đã đề cập đến một điều kiện tiên quyết cho khả năng tiến lên chủ nghĩa xã hội
của các nước lạc hậu như nước Nga lúc bấy giờ. Điều kiện đó chính là sự thắng
lợi của giai cấp vô sản ở các nước phương Tây. Là một thuận lợi có thể tránh
được những đau khổ mà các nước phương Tây đã trải qua.

Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đặc biệt là từ sau cách mạng tháng Mười
Nga vĩ đại (1917), kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin tiếp
tục khẳng định tính tất yếu quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát
triển chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản chủ nghĩa hoặc thuộc địa và
phụ thuộc. Ông viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các
nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết và qua những giai đoạn phát triển
nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa”(2). Với quan điểm đó, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn trong
việc xác định và lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam.

Trên cơ sở của chủ nghĩa Mác – Lênin, tính tất yếu của thời kỳ quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ
rất sớm. Trong Chính cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản. Ngay từ khi tìm ra con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã
lựa chọn loại hình quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng cách mạng không ngừng của
chủ nghĩa Mác – Lênin.

Về mặt thực tiễn: Trước khi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước đã có nhiều sĩ
phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã tìm đường cứu
nước. Tuy nhiên, chưa có ai tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, do con
đường mà họ lựa chọn không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử
Việt Nam. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đọc được “Luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa” của Lênin, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin thì con đường
giải phóng dân tộc mới đem lại kết quả – giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất
công. Vì vậy, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, lựa chọn con đường
phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là tất yếu và phù hợp.
Chủ nghĩa tư bản tuy đã có nhiều điều chỉnh về mặt lợi ích, giải quyết có hiệu
quả về phát triển kinh tế cũng như một số vấn đề xã hội. Tuy nhiên, bản chất
của chế độ áp bức, bóc lột thì không thay đổi, khoảng cách giàu nghèo, phân
biệt màu da, chủng tộc chưa được khắc phục; nhiều tệ nạn xã hội chưa được giải
quyết; khủng bố, gây chiến tranh vẫn là vấn đề nóng bỏng. Do vậy, chủ nghĩa tư
bản không phải là một xã hội mà tương lai của loài người muốn đạt tới.

Ngoài ra, điều kiện cần thiết cho phép chúng ta lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đó là: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã được thử thách, được khẳng định và trở thành nhân tố quan
trọng hàng đầu cho quá trình tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở nước ta; Nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân đã được thiết lập và củng cố qua công cuộc cứu quốc
và kiến quốc. Đây chính là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; liên minh giai cấp giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đã được thiết lập, phát
huy ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và sẽ tiếp tục được phát
huy vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân tộc để đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; sự giúp đỡ của phong trào
cách mạng thế giới và nhân loại tiến bộ mà trước hết là sự giúp đỡ của các nước
xã hội chủ nghĩa anh em.

Nhìn lại 30 năm đổi mới từ năm 1986 – 2016, Đảng ta đánh giá: “Đất nước ra
khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội từng bước hình thành, phát triển. Chính trị – xã hội ổn định;
quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ
mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất
nước được nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao”(3). Từ đó, khẳng định rằng quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam đã góp phần minh chứng
một chân lý của thời đại: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” và sự
lựa chọn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng của nhân dân ta là hoàn toàn
phù hợp và đúng đắn.

Câu 38 : phân tích quá trình thực hiện chính sách mở cửa hội nhập kinh tế
thế từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay của Đảng cộng sản Việt
Nam
Sau cách mạng tháng tám năm 1945 tư tưởng mở cửa về kinh tế hội nhập với
kinh tế thế giới của Đảng ta đã được thực hiện trong lời kêu gọi Liên hợp Quốc
tháng 12 năm 1946 của chủ tịch Hồ Chí Minh trong đó có những quan điểm mà
trong bối cảnh hiện nay vẫn rất đúng và thích hợp:

“Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và i hợp tác trong mọi lĩnh vực”

· Nước Việt Nam giành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản
nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ thuật của mình

· Nước Việt Nam sẵn sàng mở cửa các cả sân bay và đường sá giao thông cho
việc buôn bán và quá cảnh Quốc tế

· Nước Việt Nam chất lượng tham gia mọi tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự
lãnh đạo của Liên hợp Quốc

Sau chiến thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh đất nước thống nhất nước ta
đã thực hiện được một phần tư tưởng mở cửa kinh tế hội nhập với kinh tế thế
giới bằng việc tham gia liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa trong khối Hội đồng
tương trợ Kinh tế (SEV). Tuy nhiên về cơ bản đây vẫn là mối quan hệ đóng vì
các quan hệ kinh tế nói trên chủ yếu là quan hệ viện trợ và thương mại hạn hẹp
được thực hiện chủ yếu giữa các nước cùng khối xã hội chủ nghĩa cùng có mô
hình phát triển mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Đó chưa phải là các
quan hệ kinh tế đúng nghĩa là một quá trình mở cửa hội nhập nền kinh tế vào
tiến trình vận động phát triển của nền kinh tế thế giới.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chỉ thực sự được đẩy mạnh
từ khi Việt Nam tiến hành Đại hội toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 cùng với việc
bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước.

Đảng ta đã khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội
nhập quốc tế “độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế
có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây
dựng kinh tế độc lập tự chủ”

Quan điểm biện chứng này đã và đang là cơ sở lý luận cho việc triển khai tích
cực hơn nữa đường lối mở cửa đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ đối ngoại
chủ động hội nhập quốc tế và khu vực.

Câu 39: Phân tích quá trình thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập kinh
tế từ sau cách mạng t8- 1945 đến nay của đcs Việt Nam

Quá trình thực hiện chínhá mở cửa, hội nhập kinh tể từ sau Cách mạng Tháng 8
năm 1945 đến nay của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ngay sau Cách mạng tháng 8 (1945) thắng lợi, tư tưởng mở cửa về kinh tế
hội nhập với kinh tế thế giới của Đảng ta đã được thể hiện trong lời kêu gọi
Liên hợp quốc (tháng 12 năm 1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có
những điểm mà trong bối cảnh hiện nay vẫn rất đúng và thích hợp: "Việt Nam
sẵn sàng thực thi chínhá mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh
a) Nước ViệtNam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của Các nhà tư bản,
nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Vệ Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông
do việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam đã nhận tham gia một tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự
lãnh đạo của bên hợp quốc”
- Sau chiến thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đất nước thống nhất, nước
ta đã thực hiện được một phần tư tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế
thế giới bằng việc tham gia liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ
Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) do Liên Xô đứng đầu (1978).
Về cơ bản, đây vẫn là " mối quan hệ rộng* vì các quan hệ kinh tế ở trên chủ yếu
là quan hệ viện trợ và thương mại hạn hẹp, được thực hiện chủ yếu giữa các
nước dùng kỹ xã hội chủ nghĩa, cùng có mô hình phát triển - mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung. Đó chưa phải là các quan hệ kinh tế đúng nghĩa là một quá
trình mở cửa hội nhập nền kinh tế vào tiến trình vận động, phát triển của nền
kinh tế thế giới.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam chỉ thực sự được đẩy
mạnh kể từ khi Việt Nam tiến hành Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm
1986 cùng với việcbắt đầu công cuộc Đổi mới đất nước.
Quá trình mở cửa, hội nhập ngày càng tích cực, và rộng rãi vào nền kinh tế thế
giới, nơi đang bị các thế lực tư bản độc quyền xuyên quốc gia chi phối, cũng có
những điều gây lo ngại về việc mở cửa hội nhập liệu có giữ vững được độc lập
chủ quyền quốc gia, liệu hòa nhập có bị hòa tan hay không?
- Quan điểmcủa Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tựchủ và hội
nhập kinh tế quốc tế
Về văn đề này, Đảng ta đã khẳng định mở quan hệ về kinh tế tạo cơ sở cho hội
nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều
kiện cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ”
Quan điểm hiện chứng này đã và đang là cơ sở lý luận cho việc triển khai tích
cực ho nữa đường lối mở cửa, đa phưa hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ
động hội nhập qua và khu vực.

Bản đáp án của các em làm tốt.

You might also like