You are on page 1of 27

LỊCH SỬ ĐẢNG

Chương 1
Câu 1: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước Nguyễn ái Quốc lại lựa chọn con đường
cách mạng vô sản?

Những năm 20 của thế kỷ XX là những năm rất quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước, có
thể gọi là những năm bản lề trong lịch sử cận đại Việt Nam gắn chặt với tên tuổi của Nguyễn Ái
Quốc”. Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức về cách
mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn con đường đúng đắn cho dân tộc
ta, “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”, bởi vì:

Thứ nhất, đến cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, con đường cứu nước của Việt Nam đi vào giai
đoạn bế tắc, việc cứu nước như trong đêm tối không có đường ra. Những con đường cứu nước mà
Người biết đến từ rất sớm đều bị thất bại do nó có nhiều hạn chế, sai lầm lớn: con đường cứu nước
theo ý thức hệ phong kiến đã thất bại. Năm 1897, ngọn lửa Hương Sơn tắt, phong trào Cần Vương
thất bại chấm dứt thời kỳ đấu tranh dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu mang đậm tư tưởng Nho
giáo. Đến thế kỷ XX, cầm vũ khí đánh Pháp tương đối quy mô chỉ còn có Hoàng Hoa Thám ở Yên
Thế. Mà Hoàng Hoa Thám thì không thể đề ra cho mình một phương lược nào mới, nếu thắng lợi
cũng lại thực hiện tư tưởng “khôi phục Đại Nam y cựu” mang nặng cốt cách phong kiến. Trong khi
lịch sử đã vượt qua mức ấy rồi, yêu cầu chính trị bắt đầu rộng hơn, nước Việt Nam độc lập trở lại
không thể là một nước quân chủ chuyên chế nữa. Thất bại của phong trào này đầu thế kỷ XX chứng
tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân, sự thất bại hoàn toàn của nó trước các nhiệm vụ lịch sử.

Con đường cứu nước của những sĩ phu yêu nước tiến bộ cũng lần lượt thất bại. Ngọn cờ tiên phong
được “Duy tân hội” phất lên đó là vào đầu thế kỷ XX với tư tưởng: phải duy tân, không duy tân thì
không quang phục được. Và chỉ có một con đường duy tân sang Nhật học hỏi (Đông du) cũng chính
là đi cầu viện. Điều này không khác nào là “đuổi hùm cửa trước rước sói” cửa sau. Kết quả là Phan
Bội Châu nhận ra rằng: “đồng văn đồng chủng” không bằng “đồng bệnh”, tư tưởng chủng tộc lùi
bước trước tư tưởng dân tộc. Trái ngược với đường lối của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh chủ
trương cách mạng theo đường lối ôn hoà. Tư tưởng cốt lõi là “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, dựa vào Pháp mà
đi lên. Song dù có bạo động hay bất bạo động, dù theo đường lối của Phan Bội Châu hay Phan Châu
Trinh thì kết quả cuối cùng đều bị thực dân Pháp phá hoại, bắt giam những người lãnh tụ hoặc tìm
mọi cách ly khai họ ra khỏi phong trào và lợi dụng tư tưởng của họ. Con đường của Nguyễn Thái
Học theo hệ ý thức tư sản cũng thể hiện sự bất lực trước những nhiệm vụ lịch sử dân tộc.

Như vậy, dù rất kính trọng các bậc anh hùng tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không bằng lòng
với đường đi nước bước của họ và không muốn đi theo vết mòn lịch sử. Người không tán thành
hoàn toàn cách làm của một người nào vì Người thấy rõ những hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản
mà họ dựa vào để chống thực dân Pháp đã trở nên lỗi thời, yếu kém hơn rất nhiều so với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đó. Do đó Người không lựa chọn con đường cứu nước
của họ và tự quyết định con đường nên đi.

Thứ hai, cách mạng vô sản là không triệt để:


Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn: Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác
ái và quyền con người của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách
mạng Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại độc lập và hạnh phúc
thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). “Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là
cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”

Thứ ba, con đường cách mạng chỉ có thể là con đường cách mạng vô sản
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người đã bôn ba khắp năm châu, và bước
đầu có những nhận thức về bạn và thù. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi,
chủ nghĩa Mác – Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười
như tiếng sét đã đánh thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự đem lại lợi ích
cho đông đảo quần chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến bộ của hình thức cách mạng này.

Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận:
“trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân
chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.

Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin đăng trên báo nhân đạo. người tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp
về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong
trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin.

Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành việc gia nhập
quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm
thấy con đường cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”

Nếu như luận cương của Lênin làm cho Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
III, lựa chọn con đường cách mạng vô sản thì một loạt những sự kiện chính trị sau đó đã góp phần
củng cố vững chắc thêm niềm tin ấy. Đó là việc đọc được điều thứ 8 trong 21 điều kiện kết nạp vào
Quốc tế Cộng sản làm Nguyễn ái Quốc thật sự tâm đắc bởi vì nó khẳng định sự giúp đỡ, tinh thần
đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản ở các nước đế quốc đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc:
“Về vấn đề thuộc địa và dân tộc bị áp bức thì các Đảng ở các nước của giai cấp tư sản có thuộc địa
và áp bức các dân tộc khác, phải có một đường lối đặc biệt rõ ràng minh bạch. Đảng nào muốn gia
nhập Quốc tế III đều buộc phải thẳng tay vạch mặt những thủ đoạn xảo trá của bọn đế quốc nước
mình ở các thuộc địa…”,

Thứ tư, con đường cách mạng vô sản đã có tiền lệ, đã trở thành hiện thực ở nước Nga và để lại
nhiều bài học kinh nghiệm. Chính con đường cách mạng vô sản đã đưa đến thắng lợi vang dội của
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đánh đổ chủ nghĩa tư bản ở nước Nga. Lần đầu tiên trong
lịch sử cách mạng thế giới, thành quả cách mạng đã đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động
lên nắm chính quyền. Con đường cách mạng ấy không là lý thuyết chung chung mà đã trở thành
hiện thực ở nước Nga rộng lớn thì ai dám chắc nó không có cơ hội thành công ở một nước thuộc địa
trong đó có Việt Nam. Thực tế lịch sử Việt Nam sau này đã chứng minh sự lựa chọn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế III toàn đúng đắn, sáng suốt với biểu hiện là sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam,
với thắng lợi của cách mạng tháng Tám (1945),

Trên đây chính là lý do tại sao Nguyễn ái Quốc trong quá trình đi tìm đường cứu nước lại chọn con
đường cách mạng vô sản. Và với nội dung con đường cách mạng vô sản mà Người xây dựng được
trong thời gian này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt con đường cách mạng Việt Nam sau
này. Và thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam sau đó đã chứng minh cho sự lựa chọn đúng đắn và
sáng suốt của Người. Đây không chỉ là con đường cách mạng Việt Nam mà nó còn rất phù hợp với
con đường cách mạng giải phóng cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc nói chung. Vì vậy, nó được
phong trào cách mạng một số nước thuộc địa và phụ thuộc học tập và noi theo.

Câu 2: Chứng minh sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu
Mùa xuân năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại, chấm dứt
thời kỳ khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo, mở ra thời kỳ đấu tranh và giành thắng lợi
dưới sự lãnh đạo của một chính đảng tiên tiến, gắn kết phong trào cách mạng Việt Nam với phong
trào cách mạng thế giới... Đảng ra đời là sự lựa chọn tất yếu khách quan của lịch sử. Thực tiễn quá
trình vận động thành lập Đảng đã chứng minh điều đó.

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp
công nhân nước ta đã trưởng thành “đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp công nhân Việt
Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ
nghĩa Mác – Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản.

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương
lĩnh đúng đắn, Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta,
là nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp giành độc lập,
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng
hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới.

Tính tất yếu lịch sử:


– Về lý luận:
Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh đặt ra yêu cầu
bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân
chống chủ nghĩa tư bản. Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và
trở thành chủ nghĩa Mác -Lênin. Chủ nghĩa Mác -Lênin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản.
Sự ra đời của đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống áp bức, bóc lột.

Kể từ khi chủ nghĩa Mác -Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu nước và phong trào
công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.

– Về thực tiễn:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong
trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt
Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Hình thành giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp
công nhân Việt Nam, giai cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam. Chính sách thống trị
của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư sản Việt Nam.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở
những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược
và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến, trong
đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm
lược. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trong thời kì này là:

+ Phong trào Cần Vương (1885-1896): Ngày 13-7-1885, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương.
Phong trào Cần Vương phát triển mạnh ra nhiều địa phương ở Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì. Ngày
1/1/1888, vua Hàm nghi bị Pháp bắt nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục đến năm 1896.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên Thế đã đánh thắng
Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại. Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên
Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
+ Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của
nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không thành công.

Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không
đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.

Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của
tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương
pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành
hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục
chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến
tới khôi phục độc lập. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện
pháp bạo lực để đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Đại biểu cho xu
hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội; động viên
lòng yêu nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân
chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu
tranh vũ trang và cầu viện nước ngoài.

Ngoài ra, trong thời kì này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh khác như:
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách trú” (1919); Phong trào
chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội
đồng thành phố… đòi cải cách tự do, dân chủ…

Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm 1923); Đảng
Thanh niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm
1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7/1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân
Đảng (tháng 12/1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy
phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc
dân Đảng.

Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi
nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kì này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng
trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ
quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn
ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan điểm tập hợp lực
lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh
Pháp… nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trò của mình trong
cuộc đấu tranh giành độc lập và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế
về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực
lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân)
nên cuối cùng đã không thành công. Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc
gia tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp tư
sản trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử
dân tộc Việt Nam đặt ra.Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối
thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên
cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, và chính sự phát triển của phong trào yêu
nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng
Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã
chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách
mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm
vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu
cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.

Qua quá trình sàng lọc, lựa chọn của lịch sử đã khẳng định chỉ có giai cấp công nhân mà đội
tiên phong là Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất đủ sức nắm quyền lãnh đạo phong trào cách
mạng tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi. Đến nay Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất nắm quyền lãnh đạo vẫn là sự kế thừa
tính tất yếu lựa chọn của lịch sử và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Câu 3: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo là cương lĩnh đúng đắn và
sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính dân tộc tính giai cấp và tính nhân văn?
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện rõ nét và sinh
động về tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong việc vận dụng CNMácLN, truyền thống dân tộc,
kinh nghiệm của nước ngoài một cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng đặt ra và được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta,
thông qua tại Hội nghị thành lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).
Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ ra
phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng cho việc xác định lý luận, đường lối,
phương pháp cách mạng và những nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân VN.
Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm
dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời đại với những luận điểm sau nổi bật.
Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến lên xã hội
cộng sản. (Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội cộng sản.)
Hai là, trong cách mạng tư sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống
phong kiến. (Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành khắng khít
không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng
đầu.)
Ba là, xác định lực lượng cách mạng, bao gồm: giai cấp công - nông là gốc, những người yêu nước
trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng. (Đảng phải vận động, thu phục giai cấp mình
để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng cách mạng
bao gồm : thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là những
người yêu nước trong các giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.)
Bốn là, lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Năm là, về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành chính quyền bằng bạo lực cách
mạng.
Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên thế giới để
chống chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và sáng tạo: vừa vận dụng
đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp ứng chính xác những yêu cầu
khách quan của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh giai cấp và đoàn kết toàn
dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, xác
định rõ chủ trương "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản". Cuộc cách mạng này đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, nhân dân được các quyền dân chủ, tự do, hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xuyên suốt các chủ trương đường lối cách mạng Việt Nam
từ khi Đảng ta ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ: xác
định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân. Sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn thể
nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng ta nêu ra tư tưởng cần xây
dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng cách mạng
Việt Nam bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân có thể
đoàn kết được, có thể tạo nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến.
Câu 4: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc (1930-1945)?

Thứ nhất, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở chủ
nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách
mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Trước
năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị, áp bức hơn 80 năm của chủ
nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc của nhân dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một
đường lối chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương" của các sĩ
phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến làm nền
tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ của
giai cấp tư sản dân tộc cũng nhanh chóng lộ rõ sự yếu hèn, thất bại trước các nhiệm vụ lịch sử. Chỉ
có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động
cách mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội là giành được
những thắng lợi vẻ vang.
Từ một người yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã
sớm nhận ra rằng, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, một học
thuyết cách mạng và khoa học nhất về con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng con người. Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn
đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam: "không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản". Trải qua thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong
phú và tiếp thu chân lý khoa học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được
nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác
ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh
phúc.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời cuộc,
nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn
những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Đầu thế kỷ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, chính sách áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp đã làm tích tụ những
mâu thuẫn gay gắt giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân và bè lũ tay sai. Những
mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng con đường cách mạng bạo lực và thực hành cuộc cách
mạng không ngừng, cách mạng “đến nơi”. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối
quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác định rõ "chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh oanh liệt và
thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng
Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới
của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền
với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đảng đã
đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái
của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng
của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".
Thứ ba, Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ, phương
pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Trong thực tiễn, Đảng
luôn kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết
chớp lấy, kịp thời tổ chức, động viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị
Trung ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng chiến lược đấu
tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam
đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại
trận, phát-xít Nhật sửa soạn đầu hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ
cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,
dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập".
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẩn trương
lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng
với bảo vệ chính quyền cách mạng; trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho
bảo vệ. Trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác Hồ
đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình
là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó,
làm chuyển hoá thế trận, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn.
Câu 5: Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945?

*Tính chất:Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang
tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam”. “Cách mạng Tháng Tám Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của
nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho nước Việt Nam thành một nước
độc lập tự do”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết
mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc xâm
lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự do
của quần chúng nhân dân.
Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt Minh với những
tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên
trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn
dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình thức
cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên
giải đất Việt Nam đều thảy được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ
giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít. “Nó chống
lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các
lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm lược”.
Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Do
Cách mạng Tháng Tám, một phần ruộng đất của đế quốc và Việt gian đã bị tịch thu, địa tô được
tuyên bố giảm 25%, một số nợ lưu cữu được xoá bỏ.
Cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, xóa bỏ
chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có
ruộng”, “chưa xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xoá bỏ những tàn tích phong
kiến và nửa phong kiến để cho công nghiệp có điều kiện phát triển mạnh... quan hệ giữa địa chủ và
nông dân nói chung vẫn như cũ. Chính vì thế Cách mạng Tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng
tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính nhân văn, hoàn
thành một bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp
bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
*Ý nghĩa:

Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp
bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm
chính quyền toàn quốc”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một
thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ
bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bước lên địa vị
người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc
địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh
cho những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây,
Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ
nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng lợi ở
một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam mà còn là là
chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ
mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng
và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai
cấp công nhân ở “chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về cách mạng giải phóng dân tộc.
Kinh nghiệm:Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều
kinh nghiệm quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Trong cách mạng thuộc địa,
phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác
lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh công nông, cần khơi dậy tinh thần dân
tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên
trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi
nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của V.I.Lênin trong tác phẩm Tổng kết một cuộc tranh
luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “lò lửa khởi nghĩa dân tộc”.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng, ra
sức xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ
trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận ở
những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên chớp đúng thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả
nông thôn và thành thị, giành chính quyền toàn quốc.
Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi ích giai cấp và dân tộc;
vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đúng
đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần
chúng và với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.
Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ
động, sáng tạo của đảng bộ các địa phương.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử dân tộc
sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hoá của dân tộc. Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời, dù phải trải qua muôn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh
đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu của toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững
bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách mạng
1930-1945, Đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà
nước dân chủ nhân dân.
Chương 2
Câu 6: Vì sao sau CMT8 1945, VN rơi vào tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”?
*Tình hình thế giới:

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng loạt các nước được Hồng Quân Liên Xô giải phóng đã xây
dựng đất nước theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ra đời góp
phần làm cho Chủ nghĩa xã hội đang dần phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hệ thống xã
hội chủ nghĩa được mở rộng và trở thành thành trì cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và bảo vệ hòa bình của toàn thế giới.

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa đã có sự thay đổi, đó là các
nước phát xít bị tiêu diệt, các nước đế quốc đại diện cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ do tham gia vào
cuộc chiến tranh hao người tốn của ngay từ đầu (Anh, Pháp) đã bị suy yếu, riêng có nước Mỹ nhân
cơ hội “làm giàu trong chiến tranh” đã trở thành đế quốc lớn nhất, có sức chi phối hệ thống đế quốc
chủ nghĩa trên thế giới.

Được sự cổ vũ của Thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga và cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của
Hồng Quân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh giành độc lập ở các
nước thuộc địa và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ. Sự thay đổi so
sánh lực lượng như vậy đã đem lại cho phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng
dân tộc những thuận lợi căn bản. Tuy nhiên với bản chất phản động, xâm lược, các nước đế quốc ra
sức chống phá phong trào cách mạng, tìm mọi cách chiếm lại các thuộc địa đã mất và tranh giành
thuộc địa lẫn nhau. Việt Nam là một trong những đối tượng tranh giành của chúng.

*Tình hình trong nước:

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã đưa nhân dân ta lên
làm chủ đất nước. Đảng ta được thành lập và được tôi luyện qua 15 năm lãnh đạo quần chúng đấu
tranh với thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám, chứng tỏ Đảng ta hoàn toàn có thể lãnh đạo
quần chúng đấu tranh trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời đã phải đối phó với nhiều kẻ thù. Theo
thoả thuận của Hội nghị Pốtxđam (7.1945),quân đội của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế
trong phe Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật đã kéo vào nước ta với những âm
mưu thâm độc. Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc với danh nghĩa Đồng
Minh giải giáp quân đội Nhật đã tràn vào đóng quân từ vĩ tuyến 16 đến biên giới Việt - Trung. Quân
tưởng tìm mọi cách phá hoại chính quyền cách mạng non trẻ vừa mới được thành lập ở nước ta để
đưa tay sai lên nắm chính quyền. Để thực hiện âm mưu đó, một mặt chúng tung ra thị trường các
đồng tiền mất giá của chúng, mặt khác chúng đòi đưa người vào trong chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa..

Theo gót quân Trung Hoa Dân quốc, các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt
Quốc) và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) về nước hòng cướp chính quyền của ta.
Dựa vào quân đội Trung Hoa Dân quốc bọn Việt Quốc, Việt Cách cướp phá chính quyền cách mạng
ở một số nơi như Yên bái, Vĩnh yên, Móng cái và gây rối loạn ở nhiều nơi, cướp của giết người, bắt
cóc tống tiền, xuất bản sách báo để tuyên truyền nói xấu cách mạng, gạt các bộ trưởng, đảng viên ra
khỏi chính phủ mới.

Ở phía Nam theo vĩ tuyến 16, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, hơn một vạn quân đội Anh
vào chiếm đóng, ra sức mở đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Được sự
ủng hộ của quân Anh, ngày 2 - 9 - 1945, quân Pháp đã xả súng bắn vào đồng bào ta đang mít tinh
mừng ngày độc lập ở Sài Gòn, làm 47 người chết, nhiều người bị thương. Ngày 23 - 9 - 1945, quân
Pháp đã tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.

Thêm vào đó, lúc này trên đất nước ta lúc này còn khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Trong đó, có một bộ phận theo lệnh của đế quốc Anh tấn công lực lượng vũ trang của ta, tạo điều
kiện cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng. Lợi dụng sự chiếm đóng của quân Trung Hoa
dân quốc - Anh, Pháp - Nhật trên đất nước ta, các thế lực phản động ở trong nước nổi dậy hoạt động
chống phá cách mạng. Có thể thấy, ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, ở nước ta xuất hiện
đồng thời nhiều kẻ thù hùng mạnh, chúng cấu kết với nhau nhằm thực hiện mưu đồ bóp chết chính
quyền cách mạng non trẻ, lập lại nền thống trị của chúng.

Đất nước ta vừa thoát ra khỏi cuộc sống nô lệ, sự thống trị, bóc lột của thực dân Pháp và phát xít
Nhật vẫn còn để lại hậu quả nặng nề. Hậu quả của chính sách vơ vét, bóc lột của Nhật-Pháp cùng
với thiên tai làm cho nền kinh tế nông nghiệp nước ta trở nên kiệt quệ. Hậu quả nạn đói do Nhật -
Pháp gây ra cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm hơn 2 triệu người chết đói vẫn chưa được khắc phục
thì nguy cơ nạn đói mới xuất hiện, đe dọa nghiêm trọng đời sống của nhân dân. Lũ lụt, hạn hán kéo
dài làm cho đồng ruộng không cày cấy được. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi được sản
xuất, nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt... Ngân
sách nhà nước trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là rách
nát. Chính quyền Cách mạng chưa nắm được ngân hàng Đông Dương. Quân Tưởng tung ra thị
trường các loại tiền mất giá làm cho tình hình tài chính của nước ta càng thêm rối loạn.

Di sản nặng nề nhất mà chính quyền thực dân để lại là hậu quả của chính sách cai trị“ngu dân“ của
chúng. Hơn 90% dân ta không biết chữ, các tệ nạn mê tín dị đoan...phổ biến ở nông thôn. Chính
quyền Cách mạng non trẻ, chưa được củng cố, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo việc củng cố chính
quyền, lực lượng vũ trang còn non trẻ, trang bị thô sơ thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Hoàn cảnh mới
đã đặt cách mạng nước ta trong tình thế rất hiểm nghèo. Cả thù trong, giặc ngoài làm cho khó khăn
chồng chất, đe dọa trực tiếp đến sự tồn tại của Nhà nước Cách mạng, vận mệnh dân tộc trong đặt
trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình này yêu cầu Đảng ta phải khéo léo, quyết tâm để
đoàn kết toàn thể nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng vừa đạt được.

Câu 7: Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là
kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính.”
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân:
“toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính.” thể hiện qua đường lối kháng chiến của
Đảng ta trong thời kỳ này.
Ngày 12/12/1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, ngày
19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và tác phẩm “Kháng
chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh được hoàn thành (năm 1947). Nội dung cốt
lõi của đường lối và tư tưởng chỉ đạo kháng chiến là “toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính”.
Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Tính chất của kháng chiến lúc này vẫn là “cuộc cách mạng giải phóng. Cuộc cách mạng ấy
đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập”.
Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xác định ngay từ đầu: “Vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”.
Đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng là ngọn đèn soi đường, là tiếng kèn xung
trận, động viên, dẫn dắt và tổ chức nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong những năm tháng kháng
chiến lâu dài, gian khổ nhưng anh dũng, quật cường.

Câu 8: Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là đại hội hoàn chỉnh đường lối chiến
lược cách mạng hai miền Nam - Bắc?
Tháng 9-1960 , Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn
văn khai mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “ Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta .
Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực hiện đồng thời
hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng , cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam
thuộc hai chiến lược khác nhau , có mục tiêu cụ thể riêng , song trước mặt đều hướng vào mục tiêu
chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ: Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả
nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò
quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà , hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước.
Về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương ( hay phương châm ) kiên quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi ích
của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song ta phải luôn
luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai
liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên
đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước
nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh cách mạng gay
go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng
lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là
từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một
quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt . Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con
đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về
tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ
nền sản xuất nhô lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta
là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết
với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững
mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến
lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp
chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của
cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.

Câu 9: Hiệp định Paris 1973 là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm” và là cơ hội lớn cho
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ý kiến của anh chị về nhận
định trên?
Theo em, “Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” là thành quả
của cuộc đấu tranh ngoại giao kiên định của Việt Nam với Mỹ trong suốt 4 năm, là thắng lợi của sự
kết hợp tài tình giữa quân sự và ngoại giao theo phương châm “vừa đánh vừa đàm”. Đây là phương
châm chiến lược độc đáo của Đảng, là sự kết tinh, kế thừa truyền thống “ngoại giao tâm công” của
ông cha ta và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Hiệp định Paris đồng thời là cơ hội lớn cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn với Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Từ mùa thu 1967, phía Mỹ đã nhận thấy “khó thắng và có thể thua”. Thế trận ngoại giao đã thay đổi
hẳn. Mỹ phải chống đỡ với sức ép từ nhiều phía. Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, quân
ta giành thắng lợi to lớn trên hai mặt trận: về quân sự, ta làm chuyển biến thế trận, đảo lộn chiến
lược của Mỹ; về chính trị, đòn Tết Mậu Thân đã gây một chấn động chính trị và tâm lý mạnh mẽ,
sâu sắc trong lòng nước Mỹ. Nội bộ chính giới, chính quyền Mỹ rối ren, dao động. Ý chí xâm lược
của đế quốc Mỹ bị một đòn choáng váng, báo chí và dư luận đồng loạt đòi đi vào đàm phán.

Ngày 31/3/1968, Tổng thống Giônxơn tuyên bố đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ
tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử đại diện thảo luận biện pháp chấm dứt chiến tranh. Cùng dịp này,
Giônxơn tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ mới. Tuyên bố của Giônxơn đánh dấu sự thừa nhận
thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất,
đánh dấu một bước thay đổi có ý nghĩa, xuống thang chiến tranh, thăm dò giải pháp hòa bình.Với
tuyên bố của Giônxơn, Bộ Chính trị đã cân nhắc, nếu chúng ta bác bỏ thì hơi cứng, không lợi về dư
luận, nếu nhận ngồi đàm phán thì hơi sớm, khó tạo sức ép với phía Mỹ bởi Việt Nam chưa có những
thắng lợi bước đầu trên mặt trận quân sự, hoàn toàn không có gì để mặc cả với Mỹ. Đồng thời cũng
cần có thêm thời gian để dư luận thế giới hiểu và nhận thức đúng đắn về vấn đề chiến tranh Việt
Nam, thấy được âm mưu phản động của Mỹ trong việc xâm lược Việt Nam và khát vọng hòa bình,
độc lập dân tộc, tự do dân chủ hết sức chính đáng của nhân dân ta. Nhưng nếu chậm hơn thì ta sẽ bất
lợi nhiều mặt và cũng khó lợi dụng được nội tình của Mỹ trong cuộc bầu cử sắp tới. Trong tuyên bố,
Chính phủ ta khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng rằng ta tiếp xúc với mục đích xác định việc Mỹ chấm
dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc, lúc đó mới bắt đầu cuộc nói chuyện: Đó là một cái khóa rất
hiệu quả. Vì vậy, Bộ Chính trị quyết định nhận bắt đầu cục diện “vừa đánh vừa đàm” lúc này là
thích hợp nhất. Ngày 31/10/1968, Tổng thống Giônxơn tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ném bom miền
Bắc.

Quân dân hai miền đã giành được những thắng lợi to lớn trên chiến trường miền Nam cũng như tại
hai nước bạn Lào, Campuchia. Thắng lợi vang dội trên chiến trường cùng với thiện chí cao của ta
trên bàn đàm phán đã tạo ra được làn sóng phản chiến trên khắp nước Mỹ và tranh thủ được sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Từ tháng 7/1970, Tổng thống Ních-xơn đã phải
ra lệnh rút dần quân khỏi miền Nam Việt Nam. Điều này càng khẳng định tính đúng đắn và sự thành
công bước đầu rất quan trọng trong việc thực hiện nghệ thuật kết hợp “đánh - đàm” của Đảng ta.

Thắng lợi quân sự quan trọng cuối năm 1971 đã buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, từ bỏ yêu sách
đòi ta rút quân khỏi miền Nam, và ta đã thực hiện được phương châm trong đàm phán tại Hội nghị
Pa-ri là: “quân Mỹ rút ra, quân ta ở lại”. Tuy nhiên, ý đồ thực dân mới của Mỹ không thay đổi. Tổng
thống mỹ Ních-xơn chủ trương ngồi vào bàn đàm phán chỉ để đạt mục tiêu duy trì và củng cố chính
quyền Thiệu ở miền Nam làm công cụ thực hiện âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh”, né tránh sức
ép của công luận và chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới. Mỹ sử dụng chiêu bài “đàm
phán không điều kiện” và các thủ đoạn như “ngừng bắn”, “ngừng bắn tại chỗ”, “ngừng bắn toàn
Đông Dương”, “hai bên cùng xuống thang chiến tranh”, “hai bên cùng rút quân”… nhằm thực hiện
đàm phán trên thế mạnh, vừa đàm phán vừa đe doạ ta.

Đến giữa năm 1972, sau cuộc Tổng tiến công Xuân Hè, ta đã phá “Việt Nam hóa” một bước quan
trọng, thế và lực ta tốt lên; Níchxơn lại cần có tiến bộ trong đàm phán để phục vụ bầu cử. Nắm
những nhân tố có ý nghĩa thời cơ đó, Bộ Chính trị quyết định đưa đàm phán đi vào giai đoạn kết
thúc. Ngày 8/10/1972, đoàn đàm phán của ta đưa ra đề nghị hòa bình có tính chất ngả bài dưới hình
thức một dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Đây là một
quyết sách sắc bén, có ý nghĩa quyết định bảo đảm yêu cầu “đánh cho Mỹ cút”, còn vấn đề chính
quyền Sài Gòn sẽ giải quyết ở bước sau. Nhờ vậy, Ngày 20/10/1972, Tổng thống Ních-xơn gửi thư
cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định “Văn bản của Hiệp định bây giờ có thể xem như đã
hoàn thành” và thỏa thuận sẽ ký vào ngày 31/101972.

Tuy nhiên, sau khi tái đắc cử Tổng thống, ngày 22 và 23/10/1972, Ních-xơn đã cố tình trì hoãn việc
ký Hiệp định bằng việc đề nghị hai bên gặp riêng để “bàn thêm” và đòi sửa đổi hầu hết các vấn đề
thực chất trong tất cả các chương của Hiệp định theo đòi hỏi của Chính quyền Sài Gòn. Đến giữa
tháng 12/1972, đàm phán bế tắc, Mỹ dùng B52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng nhằm gây sức ép. Ta
đánh bại cuộc tập kích lớn này của Mỹ với chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Thất bại liên
tiếp trên chiến trường miền Nam, tổn thất nặng nề trong chiến dịch ném bom bắn phá miền Bắc và
bị dư luận quốc tế lên án mạnh, ngày 29/12/1972, Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc và ngồi
vào bàn đàm phán. Ngày 27/1/1973, Hiệp định Pari về Việt Nam được chính thức ký kết.

Hiệp định Pari là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại
giao. Với Hiệp định, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt
dính líu quân sự, đồng thời mở ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”,
tạo tiền đề để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước bằng Đại thắng mùa Xuân 1975.

Như vậy, quá trình thực hiện phương châm “vừa đánh, vừa đàm”, Việt Nam đã giành thắng lợi từng
bước: từ buộc Mĩ xuống thang trên chiến trường miền Bắc đến xuống thang trên chiến trường chính
và cuối cùng là phải kí Hiệp định chấm dứt chiến tranh, chấm dứt dính líu quân sự, làm cho chế độ
và Quân đội Sài Gòn ở miền Nam không còn chỗ dựa, bị suy yếu nghiêm trọng, ngày càng lún sâu
vào khủng hoảng và sụp đổ hoàn toàn chỉ 2 năm sau đó, tạo cơ hội cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
của ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN
HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1975-2018)

Câu 10: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối mới về kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước độc lập thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi lớn: đất nước thoát khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến
quốc. Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp
phù hợp với tình hình mới của đất nước để phát triển. Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính
là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất "bung
ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Hội nghị đã tập trung vào những biện
pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh
những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển: ổn định
nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc lưu thông tự do; khuyến
khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình
thức (quốc doanh, tập thể, gia đình); sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản
xuất; sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối theo định suất,
định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam gây ra, do thiếu đồng
bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ trương đổi mới phát huy tác dụng,
những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua các thử thách rất phức tạp. Tư duy cũ về kinh tế
hiện vật còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Bên cạnh những tư duy cũ trên đây, trước đòi hỏi của
thực tiễn cuộc sống, cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục đẩy tới
tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy
kinh tế với chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một
giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh
sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh.
Điểm quan trọng là Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất
hàng hoá.
Tháng 8-1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã
xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế, từ đó, đưa ra “Kết luận đối với
một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”:
Một là, trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra
sức phát triển công nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc.
Hai là, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ba là, trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá phải
vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới
tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhìn một cách khái quát, những đổi mới tư duy kinh tế trên đây là những nhận thức về sự cần thiết
phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo ra động lực thiết thực cho người
lao động - đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... Những
tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ phận, chưa cơ bản và toàn
diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại
hội VI.

Câu 11: Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát triển mới về tư duy
lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng?

Nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến đổi sâu sắc trong hơn 30 năm đổi mới kể từ Đại hội VI (1986).
- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985): dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp; khẳng định thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây
là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.
- Đến Đại hội VII (6-1991): lần đầu tiên Đảng đề cập đến cơ chế thị trường với tư cách là cơ
chế vận hành nền kinh tế.
- Đến Đại hội VIII (6-1996): Đảng ta đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế hàng
hóa và CNXH: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát
triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”.
- Tại Đại hội IX (4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định hướng XHCN mới được chính
thức sử dụng trong các văn kiện của Đảng. Và cũng từ Đại hội này, Đảng xác định nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ đi lên CNXH, đồng thời làm rõ một số khía cạnh liên quan đến nội hàm của mô hình kinh
tế này.
- Đại hội XII đã xác định rõ: Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà
nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta là quá trình chuyển biến hết sức sâu sắc,
mang tính cách mạng. Việc vận dụng một cách độc lập, tự chủ và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Đảng ta có thể khái quát chung ở mấy
điểm như sau:
- Thứ nhất, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp
nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có thể nói đây là sự lựa chọn khách quan,
sáng tạo, độc lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Quá trình
đổi mới nhận thức này diễn ra từng bước và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn phát triển của
nền kinh tế và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn phát triển của nền
kinh tế nước nhà. Sau sự kiện sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, nhiều quốc gia
thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế, song Việt Nam căn cứ vào thực tế phát triển của mình,
đã hoàn toàn tự chủ, độc lập, sáng tạo trong xác lập mô hình kinh tế mới phù hợp, khai thác
được sức mạnh các nguồn lực tạo sự phát triển cho nền kinh tế nước nhà.

- Thứ hai, cùng với quá trình, bước đi đổi mới hợp lý, đó là sự độc lập, sáng tạo, có sơ sở khoa
học trong xác định mô hình kinh tế mới - mô hình kinh thế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo
những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối.Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế thị trường định hướng
XHCN là một dạng mô thức kinh tế mới, chưa từng có trong lịch sử phát triển của kinh tế thị
trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định
hướng XHCN là ‘cái đặc thù” của Việt Nam, tương thích với điều kiện, đặc điểm cụ thể của
Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới.

- Thứ ba, sự sáng tạo trong triển khai kinh tế thị trường định hướng XHCN, còn là ở chỗ, phát
triển kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Sự cạnh tranh mạnh mẽ với
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong nền KTTT đã góp phần làm phân hóa giàu nghèo, vì thế
mà nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội. Trong kinh tế thị trường định
hướng XHCN phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội. “Trình
độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã
hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế” và “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Đây là nét
sáng tạo của Đảng ta trong vận dụng các tư tưởng của các nhà kinh điển nhằm hiện thực hóa
mục tiêu của xã hội mới trong từng chặng đường phát triển kinh tế thị trường.

- Thứ tư, tự chủ, sáng tạo trong đổi mới phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam không chỉ là ở xác định nội dung, bước đi mà còn ở phương thức thực hiện. Việt Nam
thực hiện đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo phương cách tạo
sự phát triển để ổn định xã hội. Việt Nam là nước nghèo, hạ tầng kém phát triển, đời sống
của người dân khó khăn, do đó rất cần có sự phát triển kinh tế, tạo cơ sở, nguồn lực cho giải
quyết các vấn đề xã hội. Chính vì vậy trong đổi mới, Việt Nam bắt đầu từ đổi mới kinh tế,
sau đó mới thực hiện đổi mới đồng bộ giữa kinh tế với chính trị. Đây cũng là cách làm chủ
động, sáng tạo và hiệu quả của Việt Nam. Khác với chúng ta, Liên Xô trước đây đã thực hiện
quá trình cải cách, đổi mới chính trị, lấy đó làm cơ sở cho cải cách, đổi mới kinh tế. Và thực
tế Liên Xô đã mất cơ sở chính trị cho quá trình đổi mới, đẩy quá trình đổi mới kinh tế chệch
hướng (tư nhân hóa hàng loạt tài sản quốc gia, mà sau này chính quyền ông Putin phải điều
chỉnh).

Câu 12: So sánh đường lối công nghiệp hóa của Đảng thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi mới.
- Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất yếu, khách quan. Bởi vì,
công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ lâu, công
nghiệp hóa còn được đề cập trong chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại
nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…
- Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất
của xã hội thiếu thốn và thấp kém, năng suất lao động thấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu,
công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…

- Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

*Sự khác nhau:


- Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền
sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng chưa hình thành… do đó cần
phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được hiểu quá trình thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyển lao động bằng máy móc,
công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển hóa,đây là quá trình hiện đại hóa. Như vậy,
bối cảnh thế giới mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.Chính vì vậy, công nghiệp
hóa phải gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô hình công nghiệp hóa theo hướng rút
ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự (từ sử dụng lao động thủ công chuyển
sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình
nhảy vọt (lĩnh vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lập tức, phải đi trước đón đầu, hội
nhập với thời đại).

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội.
Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế, sử
dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan
hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế
giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác
hiệu quả thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại.

- Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn dân,
của mọi thành phần kinh tế mà trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực để thực hiện công
nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập trung của Nhà nước, theo kế hoạch của
Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế
thị trường, doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai
và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học
và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Con người là yếu tố cơ bản
tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để phát triển yếu tố con người cần đặc biệt
chú trọng phát triển giáo dục, đào tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi
phải đủ số lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Khoa học và công
nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh
tranh và tốc độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức
xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ
nội sinh.

- Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý
chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi
đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh
học.Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững. Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn
đề văn hóa – xã hội... vì mục tiêu phát triển con người, mọi người đều hưởng thành quả của sự phát
triển.

Câu 13: Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững đất nước.

Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Quan điểm này được thể hiện
qua mấy nội dung cơ bản sau đây:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.
Quan điểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu
nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người
Việt Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương
lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho văn hóa thấm sâu vào
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã
hội.
Để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chúng ta cần phải
mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa
các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp
sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi
thời, xa lạ với văn hóa. Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi
trọng nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị
văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là cơ sở tinh thần cho sự
ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã hội “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu
theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định:
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu
cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ
môi trường”, ngày nay không thể phát triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi
ích hôm nay mà làm tổn hại đến tương lai.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh tế
với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật
chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào
trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó
chính là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.
Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan trọng, vì nó là nhu cầu
phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn và là
cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc
đẩy con người đạt được niềm tin, sự khát vọng hạnh phúc.
Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.
Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên nhiên, thậm chí
còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính là nhờ
coi trọng yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong văn hóa, con người.
Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không thể tách rời, bỏ
qua cội nguồn, phát triển phải dựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh
nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngày bản thân sự phát
triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới
kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan niệm về phát
triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác
cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri thức, thông
tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp
ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển,
chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm
trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ có nguồn lực
này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không
được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng, thì
các nguồn lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào
trong phát triển.
Câu 14: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.

Trên cơ sở xác định được vị trí cầm quyền, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã khẳng định được vai trò
lãnh đạo đối với đất nước và dân tộc. Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở những điểm sau:

Về tư tưởng chính trị: Trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong nước và sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu, Đảng vẫn xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X cụ thể hóa: “Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng
của Đảng, và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”. Nhờ xác định được hệ tư tưởng và đường lối
đúng đắn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng đã dẫn dắt đất nước và dân tộc
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Về kinh tế: Trong thời kỳ đổi mới, Đảng không ngừng đổi mới nhận thức và tư duy lý luận về kinh
tế. Từ tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quan niệm về mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá lý luận cơ bản và sáng
tạo của Đảng, là thành quả lý luận quan trọng qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, xuất
phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Đảng chủ trương xây dựng kinh tế tri thức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển chiến lược
khoa học, công nghệ để sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ sau
Đại hội XI (1.2011), Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm đã tập
trung vào 3 đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với cải cách hành chính; xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; phát triển
kết cấu hạ tầng hiện đại và đô thị hóa.

Về văn hóa – xã hội: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ đổi mới là: gắn kinh tế
với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình
phát triển. Bên cạnh đó, Đảng xác định phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng
kinh tế và tiến bộ xã hội; xây dựng văn hóa và con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư
cho giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là đầu tư cho phát triển. Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về đối ngoại: Sự chuyển biến tư duy quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại là quan điểm “thực hiện
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”. Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế, Đảng chủ trương
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời mở
rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Thông điệp ngoại giao là “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của các tổ chức quốc tế”,
tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.

Thành tựu nổi bật trong hoạt động đối ngoại là: Phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù
địch, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa , đa dạng hóa. Chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã ký Hiệp ước đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn diện với hầu
hết các nước lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh, Ấn Độ, Ý, Hàn Quốc… Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực: văn hóa – xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo
và các lĩnh vực khác. Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo và các nước liên
quan như Trung Quốc và các nước ASEAN. Xúc tiến quan hệ thương mại, khai thác hiệu quả các cơ
chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các
nước phát triển; khai thác hiệu quả các khuôn khổ đã ký kết, đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do
song phương và đa phương. Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thu hút hàng chục tỷ USD vốn ODA, khoảng 250 tỷ
USD đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiến một bước dài trong hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc
gia nhập các diễn đàn kinh tế AFTA, APEC, WTO.

Về công tác xây dựng Đảng: Nhận thức lý luận về công tác xây dựng Đảng được nâng lên một
bước với việc xác định đầy đủ hơn bản chất của Đảng và xác định rõ hơn nền tảng tư tưởng của
Đảng cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, nội dung công tác xây dựng Đảng trong
điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế được nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt có ý nghĩa sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn
là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

You might also like