You are on page 1of 10

MỘT SỐ HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO, CẦM

QUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương thức
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận diện một cách
nghiêm túc, khoa học.
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng.
Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 91 năm,
trong đó có hơn 75 năm cầm quyền; tuy nhiên, khái niệm về đảng cầm quyền, nội dung,
phương thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề còn mới mẻ, thậm chí trong
một thời gian dài, vấn đề này không được đặt ra nghiên cứu một cách bài bản, đúng
mức. Đến Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm
quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền; các nguy cơ cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”(2). Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục chỉ rõ “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới”(3).
Hiện nay, trong Đảng vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và
cầm quyền của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm vụ xuyên
suốt của Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và cả sau khi
giành được chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” rộng hơn nội hàm
khái niệm “Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho rằng, khái niệm “Đảng lãnh đạo” không
gắn với quyền lực chính trị, đó chỉ là sự tác động, định hướng, tuyên truyền, vận động, thuyết
phục, tạo ảnh hưởng của Đảng đối với hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Có ý kiến
đi sâu hơn về học thuật thì cho rằng, nói “Đảng cầm quyền” là đề cập đến quyền lực chính trị
của Đảng sau khi giành được chính quyền, nghĩa là vai trò lãnh đạo, kỹ năng lãnh đạo của
Đảng đối với chính quyền nhà nước. Vì vậy, sau khi giành được chính quyền, cần nhấn mạnh
một cách cụ thể vai trò, trách nhiệm và các cách thức để Đảng kiểm soát, điều hành bộ máy
chính quyền nhà nước. Nếu chỉ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo chung, thì chưa thể hiện hết vai
trò, trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Vậy, vấn đề đặt ra là “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền” có phải là hai khái
niệm đồng nhất? Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải chăng phương thức
lãnh đạo cũng là phương thức cầm quyền của Đảng? Theo đó, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đồng nghĩa với nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng? Những bất cập trong nhận
thức này dẫn đến những hạn chế nhất định về xác định nội dung, phương thức lãnh đạo cũng
như nội dung, phương thức cầm quyền; hạn chế trong việc xác định chủ trương, đường lối,
giải pháp lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Vì thế, những vấn đề như: Là một đảng lãnh đạo
trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải làm gì? Đảng phải lãnh đạo như thế nào? Là một
đảng duy nhất cầm quyền, Đảng cần phải “cầm”, “nắm” những gì? Đảng cầm quyền bằng
những phương pháp, cách thức nào? Làm thế nào để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
cầm quyền của Đảng?... đều cần có sự phân định và luận giải tường minh.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Mục đích tối thượng, cao nhất của Đảng Cộng sản chân chính cầm quyền là vì hạnh
phúc, lợi ích của nhân dân. Đảng ta đã xác định, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có
lợi ích nào khác. Theo đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đều phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng
của nhân dân. Một trong những cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý cán bộ,
đảng viên cần luôn tâm niệm là: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải
từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(4). Tuy nhiên, trong việc hoạch định chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn có những bất cập so
với yêu cầu này. Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu
đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự
báo những tác động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định
cụ thể về việc lấy ý kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị
quyết. Tương tự như vậy, một số chính sách công mới chỉ được ban hành dựa trên
những nhận thức và mong muốn chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, sự tham
gia đề xuất và góp ý của người dân và doanh nghiệp với tư cách là đối tượng thụ hưởng,
chịu sự tác động của chính sách còn rất hạn chế; vì vậy, khó tránh khỏi tình trạng “vừa đá
bóng, vừa thổi còi”, “lợi ích nhóm”, cục bộ. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức
trực tiếp tham gia xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật còn hạn chế. Bên cạnh đó, do
tầm nhìn và ý chí chủ quan, nên có chính sách đưa vào thực thi đã nảy sinh nhiều bất cập
hoặc hiệu lực, hiệu quả thực thi không cao. Một số dự thảo luật đưa ra Quốc hội thảo luận
chưa tạo được sự đồng tình, thống nhất cao.

Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Lịch sử lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy tầm quan
trọng và sức mạnh to lớn của công tác tư tưởng của Đảng, trong cách mạng giải phóng dân
tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước bối cảnh, tình
hình mới có nhiều biến đổi mau lẹ, khó lường, sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, trình độ dân trí và dân chủ
ngày càng được nâng cao, đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận của Đảng cần phải được đổi mới
mạnh mẽ. Các văn kiện của Đảng những năm gần đây đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế,
yếu kém, bất cập của công tác tư tưởng, lý luận nói chung, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn nói riêng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “Công tác lý luận chưa
theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều
vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ
trương, chính sách của Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã
hội”(5). Văn kiện Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được
một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới”(6). Văn kiện Đại hội XI của Đảng
nhấn mạnh: “Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”(7). Tiếp đến, Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt
ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho
hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”(8). Văn kiện
Đại hội XII của Đảng còn nhấn mạnh: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý
luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như
thiếu sắc bén, chưa thuyết phục... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa
đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”(9). Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh
những hạn chế, bất cập này.

Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống
chính trị được xác định là một phương thức lãnh đạo đặc biệt quan trọng; đồng thời, cũng là
cách thức cầm quyền tất yếu của Đảng. Đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản
lý chủ chốt các cấp, các ngành vừa thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo chức danh, chức vụ,
vị trí việc làm được pháp luật quy định; nhưng với tư cách là cán bộ, đảng viên của Đảng,
vừa có trách nhiệm quán triệt, tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị
quyết của Đảng.
Tuy nhiên, như Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã nhận định: “nhìn tổng thể, đội
ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở
nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế… Thiếu những cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi, những nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh
vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều
cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp;... trình độ ngoại ngữ, kỹ
năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không
ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng
lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng
vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Không ít cán bộ quản lý doanh
nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ
chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà
nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng
cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm
được ngăn chặn, đẩy lùi(10).
Nghị quyết số 26-NQ/TW còn nhấn mạnh: Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển
của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những
khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong
công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước(11).
Cùng với những bất cập như trên trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, công tác
đảng viên và đội ngũ đảng viên của Đảng cũng có những hạn chế, bất cập, tạo nguy cơ đe dọa
sự tồn vong của Đảng và chế độ. Đó là, vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý
tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; động cơ vào Đảng không đúng đắn, ý thức chấp
hành kỷ luật đảng không nghiêm; việc nêu gương, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên
trước quần chúng còn hạn chế. Còn có những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng cơ hội,
thực dụng trong các tổ chức đảng cần được nhanh chóng nhận diện rõ và có giải pháp khắc
phục kịp thời.
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
của Đảng.
Trong những năm gần đây, Đảng ta đã rất coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật đảng. Công tác này đã đạt được những kết quả rất quan trọng, từ việc xây dựng,
ban hành các quy chế, quy định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng, được đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao. Mặc dù vậy, Đại hội XIII của
Đảng nhận định, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
trong tình hình mới; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Công tác kiểm tra ở
một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của
nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan
tham mưu, giúp việc của cấp ủy chưa đi vào nền nếp. Công tác giám sát ở các cấp chưa
thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả phát
hiện, cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số
nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo còn chậm.

=>> Có thể khẳng định, những hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng nêu trên, ở các mức độ khác nhau đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực,
hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến uy
tín của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, cùng với việc nhận diện những
hạn chế, bất cập, việc nghiên cứu, tìm kiếm, đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng và
cấp bách, đòi hỏi phải phát huy nhiều hơn nữa vai trò, trách nhiệm, trí tuệ của các cấp ủy, tổ
chức đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng./.
---------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr. 217
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 199
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr.
330
(5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 629
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 65
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2011, tr. 172 - 173
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 67, 192 - 193
(10) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47 – 48
(11) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 50
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/
2018/824220/nhung-thanh-tuu-va-mot-so-han-che%2C-bat-cap-trong-phuong-thuc-lanh-dao
%2C-cam-quyen-cua-dang.aspx
5- Một số nhiệm vụ giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ
quan nhà nước thông qua tổ chức đảng và đảng viên
Trong giai đoạn tới, để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tiếp tục thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI và khoá XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng
thời thực hiện tốt hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đặc biệt qua tổ chức đảng và đảng viên
trong cơ quan nhà nước, hướng tới xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự chủ, hội nhập, vì
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, cần thực hiện tốt một số nhiệm
vụ và giải pháp sau:
5.1- Hoàn thiện nhận thức về phương thức lãnh đạo, đồng bộ hóa các quy định
làm nền tảng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thông qua tổ
chức đảng và đảng viên
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về phương thức lãnh
đạo của Đảng thời kỳ mới trong cơ quan, tổ chức nhà nước như chủ trương của Đại hội
XI đã nêu: Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn
đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận,
đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; khắc phục một số
mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận. Tạo môi trường dân chủ thảo luận,
tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá nhân và tập thể
trong nghiên cứu lý luận... Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý
luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn. Tổng kết 30 năm
đổi mới đất nước.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết tốt sự
phân định, mối quan hệ phân công, phối hợp giữa các thiết chế tổ chức, giữa cá nhân và tập
thể trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và trong điều hành, quản lý của Nhà nước, cần phân
biệt thẩm quyền, trách nhiệm giữa người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng với người
đứng đầu chính quyền trong quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị và phải được
xem là điểm mấu chốt của sự phân định đặc trưng lãnh đạo của Đảng và tổ chức Đảng với
đặc trưng điều hành, quản lý của Nhà nước và cơ quan nhà nước.
Đối với vấn đề hệ thống tổ chức đảng, tuy bước đầu, các tổ chức đảng đã được
thành lập tương ứng với các cơ quan nhà nước nhưng một số mô hình như đảng bộ khối ở cấp
Trung ương và cấp tỉnh đã có bộc lộ những bất cập về tổ chức, hoạt động trên thực tiễn phải
rà soát, tiến hành nghiên cứu thực tế, nếu cần thiết thì cơ cấu lại mô hình tổ chức, điều
chỉnh chức năng, nhiệm vụ các tổ chức này cho phù hợp với thực tế yêu cầu, đòi hỏi bảo
đảm sự thiết thực, đúng với quy định tại Khoản 1, Điều 10, Điều lệ Đảng (khoá XII):
“Hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của
Nhà nước”.
- Hoàn thiện quy chế hoạt động của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng viên trong các
cơ quan nhà nước, quy chế phối hợp giữa ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp uỷ cơ
quan; quy chế phối hợp giữa ban cán sự đảng, đảng đoàn, cấp uỷ với thủ trưởng, tập
thể lãnh đạo cơ quan nhà nước và tổ chức thực hiện, công tác. Tăng cường cơ chế kiểm
tra, giám sát, kiểm soát hoạt động của người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ chốt
là người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhà nước trong thực thi chức trách, nhiệm vụ, nhất là
trong công tác cán bộ. Trong đó, chú trọng vai trò gương mẫu của người đứng đầu cấp uỷ, tổ
chức đảng, đồng thời là người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhà nước.

Quy định cụ thể vấn đề “xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị…” ([1]). Đây
là nội dung quan trọngđã được nêu trong nhiều nghị quyết về xây dựng Đảng, đặc biệt trong
nhiệm kỳ IX và X do còn thiếu quy định về chế độ trách nhiệm, chưa xác định rõ cơ chế trách
nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách
nhiệm là một trong những hạn chế, yếu kém nổi bật. Điều này cho thấy, nguyên tắc “tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức.

5.2- Đổi mới hoạt động của tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước
- Cần làm tốt và quản lý nghiêm chế độ sinh hoạt trong Đảng. Đây là hoạt động có
vai trò tác dụng to lớn đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảm bảo
cho tổ chức đảng và mỗi đảng viên thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình do cần phải
lãnh đạo mọi vấn đề liên quan đến thực hiện nhiệm vụ sao cho sát hợp với đường lối, quan
điểm của Đảng, sát với thực tế, làm cho các mặt công tác đạt hiệu quả cao. Đây cũng được
xem là môi trường rèn luyện ý thức và bản lĩnh đảng viên, là nơi thực hành trực tiếp văn hóa
Đảng. Theo đó, yêu cầu trước hết là sinh hoạt phải có kế hoạch, chương trình và nội dung cụ
thể. Trong sinh hoạt, tổ chức đảng phải thảo luận quán triệt đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ của cơ quan và các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Thảo luận
quyết nghị các nội dung công tác của tổ chức đảng để lãnh đạo cơ quan, đơn vị thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Định hướng và tổ chức các
hoạt động thực hiện của cán bộ đảng viên và quần chúng trong đơn vị đạt hiệu quả cao.
Không được biến buổi sinh hoạt đảng thành hoạt động hành chính đơn thuần; bám sát các yêu
cầu hay nói cách khác là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt: “Phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo
tập thể, cá nhân phụ trách... Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân
chủ và tập thể”([2]), “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình”([3]) nhằm tạo sức sống, sức chiến đấu cho tổ chức đảng; là kênh
nhận diện các vấn đề phát sinh trong tổ chức Đảng và đề ra biện pháp giải quyết được kịp
thời.
Công tác cán bộ phải được làm bài bản, bởi những tổ chức đảng, đảng viên có
trách nhiệm với Đảng: Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: “công
tác cán bộ đặc biệt quan trọng, là then chốt của mọi then chốt”. Tuy Trung ương đã có
quy định, hướng dẫn về từng khâu của công tác cán bộ nhưng nếu cấp ủy, tổ chức đảng và
cán bộ, đảng viên có trách nhiệm thực hiện máy móc, thiếu trách nhiệm thì hậu quả khôn
lường. Nhận thức đây là vấn đề hệ trọng, ngay tại Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm gương thực hiện công tác cán bộ một cách khoa học, phát
huy tính dân chủ tập trung. Từ đó, đòi hỏi Từ đó, yêu cầu mỗi tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên có trách nhiệm cần tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
Đồng thời, với việc tổ chức khâu đánh giá và xử lý cán bộ yếu kém; các cơ chế, chính sách đã
lạc hậu phải được rà soát, loại bỏ để xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách đổi mới mạnh
mẽ công tác cán bộ, trọng tâm là đánh giá cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức
danh, tiêu chí đánh giá cán bộ làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố
trí, sử dụng đội ngũ cán bộ; quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp
ủy, tổ chức đảng, đồng thời là người đứng đầu cơ quan, tổ chức nhà nước. Trong công tác cán
bộ, một số khâu cần nghiên cứu, sửa đổi quy định, hướng dẫn theo hướng tăng cường tính
dân chủ, tập thể trong thảo luận, giới thiệu nhân sự; việc lấy phiếu tín nhiệm phải tiến hành
công khai, minh bạch, bảo đảm dân chủ thực chất; quy định cơ chế thực hiện lấy phiếu tín
nhiệm đối với cán bộ, đảng viên, người giữ chức vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp.
Khi đã có kết quả cụ thể cần có biện pháp xử lý kết quả phù hợp. Mạnh dạn xem xét, cho thôi
giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác nếu cán bộ không còn được tín
nhiệm. Kết hợp với thí điểm tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy trình giới
thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án
hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Tiếp tục thực
hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là
người địa phương; thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ trì cấp trên nói chung
phải qua chức vụ lãnh đạo quản lý chủ trì ở cấp dưới. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương
bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm để hoàn thiện chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực
tiếp bầu bí thư cấp ủy có số dư; Thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn giới thiệu để
bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu nhân sự để
bầu cử, bổ nhiệm cấp phó.
- Tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cũng như
khuynh hướng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng trong quản lý hành chính nhà nước
mà phải kết hợp hoạt động lãnh đạo của Đảng với quản lý của nhà nước. Vì đường lối,
chính sách của Ðảng không thay cho luật pháp, Đảng không nên và không thể làm thay cho
cơ quan hành chính nhà nước. Các nghị quyết của Đảng không mang tính quyền lực pháp lý.
Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước không thể tách rời sự lãnh đạo
của Đảng. Không cứng nhắc tách bạch hoạt động lãnh đạo của Đảng với thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn mà mỗi tổ chức đảng, đảng viên trong thực hiện vai trò lãnh đạo của tổ chức
đảng cần linh hoạt, đề cao kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn gắn với tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa đảng với nhân dân. Từ đó đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu và có đề
xuất giải pháp, biện pháp mới nhằm củng cố phương hướng, cách thức giúp cho Đảng làm tốt
hơn vai trò lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan nhà nước trong tình
hình hiện nay.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng trong hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua hoạt
động của tổ chức đảng và đảng viên. Thông qua kiểm tra, giám sát để xác định rõ mặt tốt,
hiệu quả, tính thực tế của các chủ trương, chính sách mà Đảng đề ra. Từ đó, phát huy, nhân
rộng những mặt tích cực, hiệu quả, kịp thời khắc phục, sửa chữa khiếm khuyết trong công tác
lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: ”Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự
giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của các cán bộ và đảng viên”([4]). Nếu không có kỷ luật,
không thống nhất về tư tưởng và hành động. ”Đảng sẽ xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật
lỏng lẻo, công việc bê trễ”([5]). Từ việc phải tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở
cương vị nào, mỗi cấp uỷ dù ở cấp nào cũng phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của Đảng,
của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước. Bác coi lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như
không có lãnh đạo. Kiểm tra, giám sát giúp cho các cấp lãnh đạo biết được nghị quyết, chỉ
thị, quy định, kết luận của Đảng, của cấp uỷ có đúng, có phù hợp với thực tiễn hay không,
giúp cho tổ chức đảng, người lãnh đạo, quản lý biết được việc triển khai thực hiện như thế
nào. Từ đó, mà có giải pháp giúp nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn tình trạng lạm quyền, độc đoán, gia trưởng.
Nếu cần thiết thì bằng sức mạnh của tổ chức, bằng kỷ cương, kỷ luật của Đảng gắn với kỷ
luật hành chính để bảo đảm mọi tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ hiến
pháp và pháp luật.
Để cụ thể hóa nội dung này, cần nghiên cứu tăng thẩm quyền để ủy ban kiểm tra các
cấp thực hiện nhiệm vụ ngày càng tốt, hiệu quả hơn; giúp tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong cơ quan nhà nước, trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội, từ hoạch định, tuyên truyền, giáo dục, tổ chức thực hiện trên thực tế tới việc
chấp hành, nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu.

5.3- Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên nói chung và
đảng viên giữ vị trí chủ chốt trong cơ quan nhà nước nói riêng
Người cán bộ, đảng viên trước hết phải nhận thức sâu sắc Đảng là một tổ chức
cách mạng, vào Đảng là để phấn đấu hy sinh cho cách mạng, cho Đảng, cho dân chứ
không phải để tìm kiếm lợi ích riêng tư, danh vọng, địa vị. Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Từ đó, mỗi đảng viên, cán bộ phải tự tu dưỡng, tự rèn luyện, nêu
cao lòng trung thành, chấp nhận hy sinh, tự giác thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, trách nhiệm
của mình đối với Đảng, với Nhà nước, phục vụ và làm gương tốt cho quần chúng.
Việc nêu gương cần thể hiện cụ thể trước hết ở việc chấp hành chế độ, nền nếp sinh
hoạt, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng. Đồng thời, bản thân đảng viên phải có kế
hoạch hành động cụ thể, rõ ràng, sát với thực tế, đúng chức năng, nhiệm vụ được, có lộ trình,
thời gian thực hiện, bảo đảm điều kiện thực hiện, phân công rõ người, rõ việc, tránh rập
khuôn, sao chép, làm qua loa, làm cho xong chuyện. Bên cạnh đó, cần xem xét có quy định
về chế độ trách nhiệm, nghĩa vụ của đảng viên đối với tổ chức mình, đồng chí mình, cần có
biện pháp, chế độ đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng thế hệ kế cận. Mặt khác, đảng viên là cán
bộ, công chức phải gương mẫu, chủ động, tích cực, sáng tạo thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao để công chức không phải là đảng viên noi theo. Tích cực đấu tranh chống tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới trong công tác, tư tưởng cục bộ, địa phương, ngại khó, ngại khổ,
sự thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước tổ chức, nhân dân, chống tệ quan liêu, tiêu cực,
lãng phí, thực hành tiết kiệm, chống hình thức, xa hoa, quan liêu, xa dân.
Đối với người đứng đầu thì cần làm rõ: Trách nhiệm của người đứng đầu tổ
chức đảng về mọi mặt. Có thể nói thẩm quyền gắn liền với trách nhiệm (nghĩa vụ, bổn
phận). Nếu tách rời giữa thẩm quyền với trách nhiệm cũng như lẫn lộn, chồng chéo giữa thẩm
quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy với người đứng đầu cấp chính quyền, giữa cá
nhân với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị thì sẽ tự tạo ra cản trở việc thực hiện đúng thẩm
quyền, sẽ dẫn tới làm sai, làm trái thẩm quyền và tình trạng thoái thác trách nhiệm, không xử
lý khuyết điểm, thiếu sót, sai lầm theo đúng chế độ trách nhiệm. Hậu quả là làm yếu tổ chức
và làm hỏng cán bộ. Chú trọng thực hiện nguyên tắc quyền đến đâu trách nhiệm tới đó.
Giữ hai mặt quyền và nghĩa vụ phải được xác định tương thích với nhau. Thẩm quyền càng
cao trách nhiệm phải càng lớn. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải là người thực sự
“đứng mũi chịu sào”, nhận trách nhiệm cao nhất về việc thực hiện trách nhiệm, thẩm quyền,
phải chịu trách nhiệm cao nhất về những gì xảy ra trong cơ quan, tổ chức, địa phương mà
mình phụ trách.
Thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy là lãnh đạo, là cùng với tập
thể cấp ủy thực hiện sự lãnh đạo chính trị của Đảng theo đường lối, chủ trương, nghị quyết,
quyết sách của Đảng. Sự lãnh đạo chính trị ấy là toàn diện, các mặt, đảm bảo đúng quan
điểm, nguyên tắc, phương hướng chính trị, tăng cường lãnh đạo tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận, gắn với tuyên truyền, vận động, giáo dục và
kiểm tra, giám sát. Trong khi đó, thẩm quyền của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước
là cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng vào đời sống xã
hội, là quản lý bằng pháp luật, có cơ chế, chính sách phù hợp để thực hiện các mục tiêu mà
Đảng đã đề ra. Song, người đứng đầu cơ quan chính quyền cũng là người ở trong cấp ủy,
trong tập thể cấp ủy. Đó là chỗ cùng phải chịu trách nhiệm chung nhưng không biến thành sự
đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Theo Lênin, trách nhiệm phải thuộc về từng người một.
Người có thẩm quyền, có quyền quyết định và người đứng đầu có quyền quyết định cao nhất
nhưng phải chịu trách nhiệm về các quyết định đưa ra. Quyết sai, làm sai, gây hậu quả phải bị
xử lý theo trách nhiệm. Cán bộ có thẩm quyền đề cử, giới thiệu cán bộ vào bầu cử, bổ nhiệm
lãnh đạo, quản lý thì phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu, bố trí cán bộ, tiến cử người vào
bộ máy./.
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/thuc-trang-va-giai-phap-doi-moi-phuong-thuc-lanh-
dao-cua-dang-thong-qua-to-chuc-dang-va-dang-vien-trong-cac-co-quan-nha-nuoc.html
Trang Thông tin điện tử, Hội đồng Lí luận Trung ương

You might also like