You are on page 1of 7

MỘT

Kể từ năm 1901, Giải thưởng Nobel đã vinh danh những người đàn ông và phụ nữ
từ khắp nơi trên thế giới vì những thành tựu nổi bật về vật lý, hóa học, y học, văn
học và công việc vì hòa bình. Nền tảng của giải thưởng được đặt vào năm 1895 khi
Alfred Nobel viết di chúc cuối cùng, để lại phần lớn tài sản cho việc thành lập Giải
thưởng Nobel.

Alfred Nobel sinh ra ở Stockholm vào ngày 21 tháng 10 năm 1833. Cha ông,
Immanuel Nobel là một kỹ sư và nhà phát minh, người đã xây dựng những cây cầu
và tòa nhà ở Stockholm. Liên quan đến công việc xây dựng của mình, Immanuel
Nobel cũng đã thử nghiệm các kỹ thuật khác nhau để nổ đá. Thành công trong các
dự án kinh doanh và công nghiệp của mình, vào năm 1842, Immanuel Nobel đã có
thể đưa gia đình mình đến St. Petersburg. Ở đó, các con trai của ông được giáo dục
hạng nhất bởi các giáo viên tư nhân. Việc đào tạo bao gồm khoa học tự nhiên,
ngôn ngữ và văn học. Đến năm 17 tuổi, Alfred Nobel đã thông thạo tiếng Thụy
Điển, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức. Mối quan tâm chính của ông
là văn học và thơ ca Anh cũng như hóa học và vật lý. Cha của Alfred, người muốn
các con trai của mình tham gia vào công việc kinh doanh của mình với tư cách là
kỹ sư, không thích mối quan tâm của Alfred đối với thơ ca và nhận thấy con trai
mình khá sống nội tâm.

C
Để mở rộng tầm nhìn của Alfred, cha anh đã gửi anh ra nước ngoài để đào tạo
thêm về kỹ thuật hóa học. Trong thời gian hai năm, Alfred Nobel đã đến thăm
Thụy Điển, Đức, Pháp và Hoa Kỳ. Tại Paris, thành phố mà anh yêu thích nhất, anh
làm việc trong phòng thí nghiệm tư nhân của Giáo sư TJ Pclouze, một nhà hóa học
nổi tiếng. Ở đó, anh gặp nhà hóa học trẻ người Ý Ascanio Sobrero, người ba năm
trước đó đã phát minh ra nitroglycerine, một chất lỏng dễ nổ. Nhưng nó được coi là
quá nguy hiểm để có thể sử dụng thực tế. Mặc dù sức nổ của nó vượt xa thuốc súng
rất nhiều nhưng chất lỏng sẽ phát nổ theo cách rất khó lường nếu chịu nhiệt và áp
suất. Alfred Nobel rất quan tâm đến nitroglycerine và làm thế nào nó có thể được
ứng dụng thực tế trong công trình xây dựng. Ông cũng nhận ra rằng các vấn đề an
toàn cần phải được giải quyết và phải phát triển một phương pháp để kiểm soát
việc kích nổ nitroglycerine.

Sau khi trở về Thụy Điển vào năm 1863, Alfred Nobel tập trung phát triển
nitroglycerine làm chất nổ. Một số vụ nổ, trong đó có vụ nổ (1864) khiến anh trai
ông là Emil và một số người khác thiệt mạng, đã thuyết phục chính quyền rằng
việc sản xuất nitroglycerine là cực kỳ nguy hiểm. Họ cấm thử nghiệm thêm
nitroglycerine trong giới hạn thành phố Stockholm và Alfred Nobel phải chuyển
cuộc thử nghiệm của mình sang một chiếc sà lan neo đậu trên Hồ Malaren. Alfred
không nản lòng và vào năm 1864, ông đã có thể bắt đầu sản xuất hàng loạt
nitroglycerine. Để làm cho việc xử lý nitroglycerine an toàn hơn Alfred Nobel đã
thử nghiệm với các chất phụ gia khác nhau. Ông nhanh chóng phát hiện ra rằng
trộn nitroglycerine với kieselguhr sẽ biến chất lỏng thành một hỗn hợp sệt có thể
tạo hình thành các thanh có kích thước và hình dạng phù hợp để nhét vào các lỗ
khoan. Năm 1867, ông được cấp bằng sáng chế cho vật liệu này với tên gọi thuốc
nổ. Để có thể kích nổ các thanh thuốc nổ, ông cũng đã phát minh ra một ngòi nổ
(nắp nổ) có thể đánh lửa bằng cách đốt cầu chì. Những phát minh này được thực
hiện cùng lúc với việc máy khoan khí nén được đưa vào sử dụng rộng rãi. Những
phát minh này cùng nhau làm giảm đáng kể chi phí nổ đá, khoan đường hầm, xây
dựng kênh mương và nhiều hình thức xây dựng khác.

Thị trường thuốc nổ và đầu nổ phát triển rất nhanh và Alfred Nobel cũng chứng tỏ
mình là một doanh nhân và nhà kinh doanh rất khéo léo. Trong nhiều năm, ông đã
thành lập các nhà máy và phòng thí nghiệm ở khoảng 90 địa điểm khác nhau tại
hơn 20 quốc gia. Mặc dù sống ở Paris phần lớn cuộc đời nhưng ông vẫn thường
xuyên đi du lịch. Khi không đi du lịch hoặc tham gia các hoạt động kinh doanh,
bản thân Nobel đã làm việc tích cực trong nhiều phòng thí nghiệm khác nhau của
mình, đầu tiên là ở Stockholm và sau đó là ở những nơi khác. Ông tập trung vào
phát triển công nghệ nổ cũng như các phát minh hóa học khác bao gồm các vật liệu
như cao su tổng hợp và da, tơ nhân tạo, v.v. Tính đến thời điểm qua đời năm 1896,
ông đã có 355 bằng sáng chế.

Công việc bận rộn và du lịch không còn nhiều thời gian cho cuộc sống riêng tư. Ở
tuổi 43, ông cảm thấy mình như một ông già. Lúc này, anh quảng cáo trên một tờ
báo “Quý ông lớn tuổi giàu có, học vấn cao, tìm người phụ nữ lớn tuổi, thông thạo
ngoại ngữ, làm thư ký và giám sát gia đình”. Người nộp đơn đủ tiêu chuẩn nhất
hóa ra lại là một phụ nữ Áo, nữ bá tước Bertha Kinsky. Sau một thời gian ngắn làm
việc cho Nobel, cô quyết định trở lại Áo để kết hôn với Bá tước Arthur von
Suttner. Bất chấp điều này, Alfred Nobel và Bertha von Suttner vẫn là bạn bè và
vẫn viết thư cho nhau trong nhiều thập kỷ. Trong những năm qua Bertha von
Suttner ngày càng chỉ trích cuộc chạy đua vũ trang. Cô đã viết một cuốn sách nổi
tiếng, Lay Down Your Arms và trở thành một nhân vật nổi bật trong phong trào
hòa bình. Không còn nghi ngờ gì nữa, điều này đã ảnh hưởng đến Alfred Nobel khi
ông viết di chúc cuối cùng gồm có Giải thưởng dành cho những cá nhân hoặc tổ
chức thúc đẩy hòa bình. Vài năm sau cái chết của Alfred Nobel, Storting (Quốc
hội) Na Uy quyết định trao giải Nobel Hòa bình năm 1905 cho Bertha von Suttner.

Alfred Nobel qua đời tại San Remo, Ý, vào ngày 10 tháng 12 năm 1896. Khi di
chúc của ông được mở ra, người ta ngạc nhiên rằng tài sản của ông được sử dụng
cho các Giải thưởng Vật lý, Hóa học, Sinh lý học hoặc Y học, Văn học và Hòa
bình. Người thực hiện di chúc của ông là hai kỹ sư trẻ, Ragnar Sohlman và Rudolf
Lilljequist. Họ bắt đầu thành lập Quỹ Nobel như một tổ chức để quản lý các tài sản
tài chính mà Nobel để lại cho mục đích này và điều phối công việc của các Tổ
chức trao giải. Điều này không phải là không có khó khăn vì di chúc bị người thân
phản đối và bị chính quyền ở nhiều quốc gia thẩm vấn.

Sự vĩ đại của Alfred Nobel nằm ở khả năng kết hợp trí tuệ sâu sắc của nhà khoa
học và nhà phát minh với động lực hướng tới tương lai của nhà công nghiệp. Nobel
rất quan tâm đến các vấn đề xã hội và liên quan đến hòa bình, đồng thời giữ những
quan điểm được coi là cấp tiến trong thời đại của ông. Ông rất yêu thích văn học và
đã viết thơ và viết kịch cho riêng mình. Giải thưởng Nobel đã trở thành một phần
mở rộng và đáp ứng những lợi ích cả đời của ông.

Câu hỏi 17
Câu hỏi 1-6
Những câu sau đây có phù hợp với thông tin được đưa ra trong bài đọc không?
Trong ô 1-6, chọn
TRUE nếu câu phát biểu đúng

FALSE nếu câu phát biểu sai

KHÔNG GIÚP nếu thông tin không được đưa ra trong đoạn văn

Câu 1. Giải Nobel đầu tiên được trao vào năm 1895.
Câu 2. Cha của Nobel muốn con trai mình có được một nền giáo dục tốt hơn những
gì ông đã có.
Câu 3. Nobel là một doanh nhân thành đạt.
Câu 4. Bertha von Suttner được chính Nobel chọn cho giải hòa bình đầu tiên.
Câu 5. Quỹ Nobel được thành lập sau cái chết của Nobel.
Câu hỏi 6. Sự tham gia xã hội của Nobel không phổ biến vào những năm 1800.

Câu hỏi 18
Câu hỏi 7. Điều nào sau đây có thể thay thế tốt nhất cụm từ “mở rộng tầm nhìn của
Alfred” trong đoạn C?
A. cho Alfred thấy cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp
B. hạn chế sự tiếp xúc của Alfred với thế giới

C. duy trì trình độ hiểu biết hiện tại của Alfred

D. cung cấp cho Alfred thêm kinh nghiệm

Câu hỏi 19
Câu 8. Hạng mục nào sau đây KHÔNG phải là hạng mục giải thưởng Nobel?
A. Hoá học
B. tâm thần học
C. Văn học và hòa bình
D. Vật lý

Câu hỏi 20
Câu hỏi 9. Có thể suy ra rằng phát minh nổi tiếng nhất của Alfred Nobel là ______.

A. thuốc nổ
B. lụa tổng hợp
C. động cơ hơi nước
D. nitroglycerin

Câu hỏi 21
Câu 10. Từ nào dưới đây miêu tả về Alfred Nobel kém chính xác nhất?
A. tầm thường
B. có tầm nhìn xa trông rộng
C. vị tha
D. đổi mới

You might also like