You are on page 1of 6

James Chadwick: Người phát hiện neutron

Quốc Lê (Theo APS Physics)

08/05/2020 07:41

Tính đến năm 1920, các nhà vật lý biết rằng phần lớn khối lượng nguyên tử nằm
trong một hạt nhân ở trung tâm, và phần lõi trung tâm này chứa các proton. Vào
tháng 5 năm 1932, James Chadwick tuyên bố hạt nhân nguyên tử cũng chứa một
hạt mới không mang điện gọi là neutron.

James Chadwick (1891 – 1974). Ảnh: Britannica.


Chadwick sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động tại Manchester (Anh) vào năm
1891. Khi còn nhỏ, tính cách của Chadwick khá nhút nhát nhưng tài năng vượt trội của cậu
bé trong lớp học luôn khiến các thầy cô chú ý. Tại trường Đại học Manchester, Chadwick theo
học ngành vật lý và trở thành cộng sự của Ernest Rutherford trong các nghiên cứu phóng xạ
khác nhau.
Năm 1914, Chadwick quyết định tới Đức để làm việc cùng nhà vật lý Hans Geiger. Đáng tiếc
là khi ông vừa tới Đức, Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cùng cảnh ngộ với nhiều
công dân Anh khác đang sống ở nước Đức thời bấy giờ, ông bị đưa vào trại giam Ruhleben ở
ngoại ô Berlin và trải qua 4 năm tiếp theo tại đây. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn
dừng các nghiên cứu khoa học của ông. Để không cảm thấy nhàm chán, ông và một số bạn
tù thành lập một câu lạc bộ khoa học. Họ diễn thuyết cho nhau nghe, cũng như thuyết phục
các lính canh cho phép họ tạo ra một phòng thí nghiệm nhỏ.

Mặc dù nhiều loại hóa chất để làm thí nghiệm rất khan hiếm, nhưng nhờ sự trợ giúp của lính
canh, Chadwick thậm chí đã mua được cả một loại kem đánh răng phóng xạ có mặt trên thị
trường Đức vào thời điểm đó. Bằng cách sử dụng một số lá thiếc và gỗ, ông chế tạo thành
công máy quang điện và thực hiện một số thí nghiệm đơn giản.

Sau chiến tranh, Chadwick trở về Anh và hoàn thành luận án tiến sĩ tại Đại học Cambridge
vào năm 1921 nhờ sự hướng dẫn của Rutherfor – nhà khoa học lúc đó là Giám đốc Phòng thí
nghiệm Cavendish của Đại học Cambridge. Giờ đây, Chadwick có thể tiếp tục nghiên cứu về
hiện tượng phóng xạ bằng những máy móc và dụng cụ khoa học hiện đại, thay vì sử dụng lá
thiếc và kem đánh răng như thời kỳ còn ở Đức. Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm trợ lý
Giám đốc Phòng thí nghiệm Cavendish.

Rutherford phát hiện hạt nhân nguyên tử vào năm 1911 và chứng minh sự tồn tại của proton
vào năm 1919. Tuy nhiên, dường như phải có một thứ gì đó trong hạt nhân ngoài proton. Ví
dụ, nguyên tố Heli (He) có số hiệu nguyên tử [số proton được tìm thấy trong hạt nhân của
một nguyên tử] là 2 nhưng nguyên tử khối bằng 4. Một số nhà khoa học cho rằng, nguyên tố
Heli phải có thêm các proton trong hạt nhân cùng với một số lượng tương đương electron để
triệt tiêu điện tích tăng lên. Năm 1920, Rutherford đề xuất giả thuyết một electron và một
proton có thể kết hợp với nhau để tạo thành một hạt trung tính mới trung hòa về điện , và
loại hạt này rất khó phát hiện. Tuy nhiên, ông không đưa ra được bằng chứng nào để xác
thực giả thuyết của mình.

Trong lúc Chadwick thực hiện nhiều dự án nghiên cứu khác, ông vẫn suy nghĩ về vấn đề nói
trên. Vào khoảng năm 1930, một số nhà nghiên cứu – bao gồm nhà vật lý người Đức Walter
Bothe và sinh viên của ông tên là Becker – bắt đầu bắn phá nguyên tố Beri (Be) bằng hạt
alpha có nguồn gốc từ Poloni (Po) để nghiên cứu các bức xạ phát ra. Họ cho rằng bức xạ có
khả năng xuyên thấu ở mức độ cao phát ra từ Beri trong thí nghiệm là các photon năng
lượng cao. Chadwick nhận thấy một số đặc điểm kỳ lạ của loại bức xạ này. Ông nhận định,
nó có thể bao gồm các hạt trung tính, giống những hạt mà Ruthherford đề xuất trước đó.

Chadwick đặc biệt bị thu hút bởi thí nghiệm của hai nhà khoa học Frédéric và Irène Joliot-
Curie. Khi họ chiếu bức xạ bí ẩn [có nguồn gốc từ việc bắn phá Beri bằng hạt alpha] vào một
tấm chắn làm bằng sáp parafin, bức xạ đánh bật proton ra khỏi các nguyên tử hydro trong
tấm chắn với vận tốc rất lớn. Joliot-Curie tin bức xạ này phải là các photon năng lượng cao
(tia gamma), nhưng Chadwick nghĩ rằng lời giải thích đó không phù hợp. “Không có khối
lượng, photon sẽ không thể đánh bật các hạt nặng như proton ra khỏi tấm chắn”, Chadwick
lập luận.

Năm 1932, Chadwick cố gắng thực hiện các thí nghiệm tương tự, và ông tin chắc rằng bức xạ
phát ra từ Beri thực chất là các hạt trung hòa về điện. Bằng cách thay thế tấm chắn sáp
parafin bằng nhiều chất khác như Heli, Nitơ và Liti, Chadwick tính toán khối lượng của loại
hạt mới chỉ lớn hơn một chút so với khối lượng proton. Bởi vì hạt mới không mang điện nên
chúng có khả năng đâm xuyên vào một tấm chắn tốt hơn so với proton.

Tháng 2/1932, sau khi Chadwick tiến hành các thí nghiệm khoảng hai tuần, ông công bố một
bài báo trên tạp chí Nature với tiêu đề “The Possible Existence of a Neutron” (Có khả năng
tồn tại hạt neutron), trong đó ông đưa ra bằng chứng để chứng minh bản chất của bức xạ bí
ẩn là các hạt neutron thay vì hạt photon năng lượng cao. Tháng 5/1932, ông công bố bài báo
thứ hai trên Kỷ yếu của Hội Hoàng gia có nội dung chi tiết hơn với tiêu đề “The Existence of a
Neutron” (Sự tồn tại của hạt neutron).

Năm 1934, Chadwick hợp tác với Maurice Goldhaber để đo chính xác khối lượng của neutron.
Họ khẳng định neutron là một hạt hạ nguyên tử mới. Nó không phải sự kết hợp giữa một
proton và một electron như Rutherford đề xuất ban đầu.

Việc phát hiện neutron đã thay đổi quan điểm của giới khoa học về cấu tạo nguyên tử, và
Chadwick được trao giải thưởng Nobel cho khám phá này vào năm 1935. Không lâu sau, các
nhà nghiên cứu nhận thấy neutron – một hạt không mang điện nhưng có kích thước khá lớn
– có thể dùng để thăm dò hạt nhân của nhiều nguyên tố. Họ cũng nhận ra quá trình bắn phá
Urani (U) bằng neutron sẽ dẫn đến sự phân hạch của hạt nhân Urani. Phản ứng phân hạch
giải phóng một mức năng lượng khổng lồ có thể dùng để tạo ra vũ khí hạt nhân.

Trong cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Chadwick là người đứng đầu nhóm nghiên cứu
của Anh làm việc cho Dự án Manhattan của Mỹ nhằm chế tạo bom nguyên tử. Năm 1948,
ông trở thành hiệu trưởng trường Đại học Gonville & Caius, Cambridge (Anh) và giữ chức vụ
này cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1958.

Chadwick qua đời tại nhà riêng năm 1974. Để tưởng nhớ đến công lao của ông trong việc
phát hiện neutron, người ta dùng tên ông đặt cho một miệng hố trên Mặt trăng và Phòng thí
nghiệm Chadwick tại Đại học Liverpool (Anh).

Thí nghiệm phát hiện hạt nhân nguyên tử


Quốc Lê (Theo Science History, APS Physics)

10/11/2019 07:15
Năm 1911, Ernest Rutherford phát hiện hạt nhân nguyên tử khi thực hiện thí
nghiệm bắn phá một lá vàng mỏng bằng chùm hạt alpha phát ra từ radium. Khám
phá này là tiền đề để Rutherford xây dựng mô hình hành tinh nguyên tử sau này.

Ernest Rutherford và thí nghiệm tán xạ hạt alpha. Ảnh: Biography.


Ernest Rutherford sinh ra ở New Zealand vào năm 1871, trong một gia đình gồm 12 người
con. Ngay từ lúc còn nhỏ, ông đã phải làm việc tích cực để giúp cha mẹ canh tác ruộng đồng.
Nhờ thành tích học tập xuất sắc ở trường trung học, ông giành được một suất học bổng của
Đại học New Zealand. Sau khi tốt nghiệp, ông tiếp tục nhận một học bổng khác để trở thành
nghiên cứu sinh tại Đại học Cambridge (Anh) vào năm 1894. Thời điểm biết tin mình có thể
sang Anh du học, ông đang ở ngoài vườn giúp cha nhổ khoai tây. “Đây sẽ là những củ khoai
cuối cùng con nhổ trên cánh đồng này”, Rutherford mừng rỡ nói với cha.

Trong thời gian ở Đại học Cambridge, Rutherford làm việc trong Phòng thí nghiệm Cavendish
cùng với J.J. Thomson, người phát hiện ra electron. Tài năng của Ruthherford nhanh chóng
được công nhận với nhiều công trình nghiên cứu nổi bật và ông trở thành giáo sư của Đại học
McGill ở Montreal (Canada) vào năm 1898. Tại đó, ông xác định bức xạ alpha và beta là hai
loại bức xạ riêng biệt, đồng thời nghiên cứu một số tính chất của chúng, mặc dù ông không
biết bản chất của hạt alpha là hạt nhân nguyên tử Heli (He 2+).

Năm 1901, Rutherford và nhà hóa học Frederick Soddy phát hiện nguyên tố phóng xạ có thể
phân rã thành một nguyên tố khác. Khám phá này mang lại cho Rutherford giải thưởng
Nobel Hóa học năm 1908. Nhưng trong suốt sự nghiệp nghiên cứu khoa học, Rutherford
thường nói về mình là một nhà vật lý, không phải nhà hóa học.
Phát hiện hạt nhân nguyên tử

Năm 1907, Rutherford trở về Anh, công tác tại Đại học Manchester. Năm 1909, Rutherford
và học trò tên là Ernest Marsden thực hiện thí nghiệm về tán xạ hạt alpha. Rutherford dùng
một nguồn phóng xạ alpha, cụ thể là radium, đặt trong một hộp bằng chì có khe hở hẹp để
tạo ra chùm hạt alpha nhỏ. Ông bắn chùm hạt alpha vào một lá vàng cực mỏng sao cho nó
có thể xem như một lớp nguyên tử vàng. Sau lá vàng ông đặt một màn chắn huỳnh quang
hình vòng cung phủ hợp chất kẽm sunfua (ZnS). Hợp chất này sẽ phát sáng khi va chạm với
các hạt tích điện – trong thí nghiệm này là hạt alpha.

Rutherford giao nhiệm vụ cho Marsden quan sát và ghi chép vị trí của những chấm sáng trên
màn chắn khi hạt alpha va đập với nó trong căn phòng tối. Dựa vào vị trí xuất hiện những
chấm sáng, Rutherford nhận thấy đa số hạt alpha bay xuyên qua lá vàng mỏng với hướng di
chuyển không đổi. Một số hạt alpha bị lệch hướng, chứng tỏ có va chạm trước khi bay ra khỏi
lá vàng.

Điều thú vị là có một số rất ít hạt alpha bật ngược trở lại với góc tán xạ lớn hơn 90 độ do va
chạm trực diện với một vật mang khối lượng nào đó. “Điều này giống như bạn bắn súng vào
một tờ giấy mỏng và thấy vài viên đạn quay ngược về phía bạn”, Rutherford mô tả lại kết
quả thí nghiệm một cách đầy hình tượng.

Hiện tượng trên không thể giải thích bằng mô hình nguyên tử đang thịnh hành vào thời điểm
đó gọi là “mô hình bánh pudding” do J.J. Thomson đề xuất. Trong mô hình nguyên tử của J.J.
Thomson, các electron được cho là bị mắc kẹt trong một khối vật chất tích điện dương, như
nho khô trong một cái bánh pudding. Nhưng kiểu sắp xếp này chỉ gây ra một góc tán xạ nhỏ,
không giống những gì Marsden đã quan sát.

Sau khi suy nghĩ kỹ về kết quả thí nghiệm, Rutherford đưa ra kết luận cuối cùng. Rutherford
cho rằng một số hạt alpha bị lệch hướng do chịu tác động của một lượng lớn điện tích dương
tập trung trong một không gian rất nhỏ ở trung tâm nguyên tử vàng. Các electron của
nguyên tử quay quanh lõi trung tâm, giống như các hành tinh quay quanh Mặt trời. Phần lõi
này được gọi là hạt nhân nguyên tử.

Rutherford thực hiện các phép toán để ước lượng kích thước của hạt nhân. Ông nhận thấy nó
chỉ lớn bằng khoảng 1/100.000 kích thước nguyên tử. Do đó, nguyên tử chủ yếu là không
gian trống.

Tháng 3/1911, Rutherford trình bày kết quả nghiên cứu tại một cuộc họp của Hội Văn học và
Triết học Manchester. Tháng 5/1911, ông xuất bản một bài báo về việc khám phá hạt nhân
nguyên tử trên tạp chí Philosophical Magazine. Trong đó, ông đề xuất mô hình hành tinh
nguyên tử với nội dung cơ bản như sau: (1) Nguyên tử gồm một hạt nhân chiếm thể tích cực
nhỏ ở chính giữa, tại đó tập trung điện tích dương và gần như toàn bộ khối lượng nguyên tử,
(2) Xung quanh hạt nhân có các electron chuyển động theo quỹ đạo giống như các hành tinh
quay quanh Mặt trời. (3) Tổng điện tích âm của các electron bằng tổng điện tích dương của
hạt nhân nên bình thường nguyên tử trung hòa về điện.

Tuy nhiên, hạn chế của mô hình hành tinh nguyên tử là nó không giải thích được tính bền
vững của các nguyên tử và sự tạo thành quang phổ vạch của chúng. Cụ thể, theo phương
trình Maxwell, electron bức xạ năng lượng liên tục dưới dạng sóng điện từ khi quay quanh
hạt nhân. Như vậy năng lượng và vận tốc của electron phải giảm dần theo thời gian và bị hút
về phía hạt nhân. Do đó nguyên tử không thể tồn tại bền vững, hoàn toàn trái ngược với
thực tế.

Năm 1913, nhà vật lý Niels Bohr người Đan Mạch vận dụng thuyết lượng tử ánh sáng vào hệ
thống nguyên tử, đề xuất một mẫu nguyên tử mới gọi là mẫu nguyên tử Bohr. Mô hình này
giải thích được sự tạo thành quang phổ vạch của các nguyên tử, đặc biệt là nguyên tử hydro.
Bohr vẫn giữ mô hình hành tinh nguyên tử của Rutherford, nhưng ông cho rằng hệ thống
nguyên tử bị chi phối bởi những quy luật đặc biệt có tính lượng tử mà ông đề ra dưới dạng
hai tiên đề: (1) Nguyên tử chỉ tồn tại trong một số trạng thái có năng lượng xác định gọi là
các trạng thái dừng. Khi ở trong các trạng thái dừng thì nguyên tử không bức xạ. (2) Trong
các trạng thái dừng của nguyên tử, electron chỉ chuyển động quanh hạt nhân trên những quỹ
đạo có bán kính hoàn toàn xác định gọi là các quỹ đạo dừng.

Mặc dù thí nghiệm của Rutherford không thể xác định được hạt nhân cấu tạo từ những hạt
nhỏ hơn bao gồm proton và neutron, nhưng khám phá của ông vẫn vô cùng quan trọng và
tiền đề cho sự phát triển của vật lý hạt nhân hiện đại sau này

Sơ đồ phân bố mức năng lượng lớp và phân lớp đầy đủ

You might also like