You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊN

KHOA KINH TẾ
-------------    -----------

BÀI TIỂU LUẬN

Môn học: Tài chính tiền tệ


Tên tiểu luận: Sự phát triển của thị trường tài chính tiền tệ trong bối
cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Minh Đức

Sinh viên: Nguyễn Vũ Hậu

Mã sinh viên: 10922215 Lớp: 109222

Ngành: Quản trị kinh doanh

Hưng Yên, tháng 12 năm 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................4
I. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH(TTTC).........................5
1. Khái niệm về thị trường tài chính:......................................................5
2. Cơ sở hình thành thị trường tài chính:................................................6
3. Chức năng của thị trường tài chính:....................................................7
4. Phân loại thị trường tài chính:.............................................................8
II. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ.....................................................................12
1. Khái niệm và cơ cấu của thị trường tiền tệ.......................................12
1.1 Khái niệm....................................................................................12
1.2 Cơ cấu của thị trường tiền tệ.......................................................12
1.3. Các chức năng của TTTT...........................................................13
III. THỊ TRƯỜNG VỐN..........................................................................14
1. Khái niệm và cơ cấu tổ chức của thị trường vốn..............................14
1.1. Khái niệm thị trường vốn...........................................................14
1.2. Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn.............................................14
IV. MỐI LIÊN QUAN GIỮA THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VÀ THỊ
TRƯỜNG VỐN..................................................................................................15
V. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM.......16
1. Thị trường tiền tệ:.............................................................................16
a) Thị trường vốn ngắn hạn:..............................................................16
b) Thị trường liên ngân hàng.............................................................16
2. Thị trường hối đoái:..........................................................................18
3. Thị trường chứng khoán (thị trường vốn):........................................20
a) Những thành tựu đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam
.....................................................................................................................20
2
b) Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam................21
VI. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH
TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................................22
1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế...................22
2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền
kinh tế..............................................................................................................23
3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh q trình tự do hóa tài chính
và hội nhập quốc tế..........................................................................................23
KẾT LUẬN...............................................................................................26

3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài sự phát triển của thị trường tài chính tiền tệ trong bối
cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là thành quả của một quá
trình học tập và nghiên cứu nghiêm túc, độc lập dưới sự hướng dẫn của thầy
Hoàng Minh Đức khoa Kinh Tế Trường Đại học sư phạm kĩ thuật Hưng Yên.Tất
cả nội dung trong bài tiểu luận không có bất kỳ sự gian lận hay sao chép của
người khác, đó là sản phẩm do chính em đã đạt được sau quãng thời gian học tập
tại trường. Các số liệu và minh chứng được trình bày trong báo cáo là hoàn toàn
đúng sự thật. Nếu có bất kì vướng mắc hay vấn đề nào phát sinh tôi xin được
chịu trách nhiệm trước hội đồng kỷ luật của khoa và nhà trường.

4
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính ngày càng trở nên một trong những lĩnh vực được nhân dân
và xã hội quan tâm đặc biệt, vì nó góp phần tạo ra những tiến bộ to lớn có ý nghĩa
quyết định đối với lịch sử văn minh của loài người bằng cách thúc đẩy thương mại và
các hoạt động kinh tế phát triển. Hàng ngày . hàng tuần, hàng năm, xã hội vá nền kinh
tế tồn tại , sinh hoạt và phát triển dựa trên những giao dịch liên quan đến lĩnh vực này

Để hiểu rõ vấn đề này, tiểu luận tập trung phân tích “Sự phát triển của thị
trường tài chính tiền tệ trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0.”

Đây là một lĩnh vực hết sức hấp dẫn và chứa nhiều kiến thức hết sức phong phú
vì vậy trong quá trình thực hiện không khỏi tránh những sai sót. Do đó mong được sự
đóng góp của giảng viên để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Trước khi đi vào phân tích thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, chúng
ta cần làm rõ khái niệm về thị trường tài chính và những vấn đề mang tính chất lý luận
chung về thị trường tài chính.

5
I. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH(TTTC)
1. Khái niệm về thị trường tài chính:

TTTC là sự thể hiện nhạy cảm mọi hoạt động của thị trường hàng hóa và dịch
vụ . Nó được ví như một “ nền kinh tế tượng trưng” hay một nền kinh tế phái sinh từ
nền kinh tế thực ; nó đo lường và phản ánh hiệu quả kinh doanh và hiện trạng của kinh
tế thực. Vì thế có quan điểm cho rằng TTTC là yếu tố cơ bản nhất của kinh tế thị
trường hiện tại .TTTC ra đời đã làm đa dạng hóa và phức tạp hóa mọi hoạt động tài
chính. Nó không chỉ nhận một cách thụ động các ảnh hưởng của nền kinh tế mà còn
gây ra nhiều tác động đáng kể đến sự phát triển của nền kinh tế. Và như thế , nó có
những vai trò nhất định đối với sự vận hành kinh tế và trở thành công cụ đắc lực giúp
nhà nước quản lí hiệu quả nền kinh tế..

Không gian kinh tế trong cơ chế thị trường không chỉ bao gốm các mối
quan hệ cung cầu về hàng hóa , mà đã xuất hiện và ngày càng phát triển quan
hệ tiền tệ .Quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu vận động nguồn vốn từ nơi
thừa sang nơi thiếu, chủ yếu diễn ra tại các thi trường tài chính .Thuật ngữ “ thị
trường tài chính” được sử dụng để phân biệt thị trường mua bán , giao dịch các
loại chứng khoán với các thị trường khác (thị trường hàng hóa, thị trường sức
lao động…)

Cần lưu ý là thị trường tài chính khó định nghĩa một cách rõ ràng .Ở Việt Nam ,
nhiều thuật ngữ kinh tế chưa được xác định rõ, thuật ngữ TTTC có nhiều nghĩa , tùy
theo tác giả hay cơ quan sử dụng nó .Trong bài này , TTTC xin được hiểu như sau:

“Thị trường tài chính là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các sản phẩm tài
chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các chủ thể
trong nền kinh tế”. Trong đó, các chủ thể thừa vốn thì tìm kiếm lợi nhuận thông qua
hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh và các nhu cầu đầu tư khác. Việc hình thành quá trình giao lưu vốn giữa những
chủ thể thừa vốn và thiếu vốn đã tạo nên một thị trường với đầy đủ cơ chế như trong
một nền kinh tế thị trường. Đồng thời, do sản phẩm trên thị trường là sản phẩm tài
chính, có tính nhậy cảm và ảnh hưởng đến mọi thành phần trong nền kinh tế nên thị

6
trường tài chính là thị trường bậc cao. Do đó, thị trường tài chính phải là loại thị
trường bậc cao, chỉ tồn tại và hoạt động trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.

Thị trường tài chính có 3 yếu tố cơ bản:

Đối tượng của thị trường tài chính : đó là những nguồn cung và cầu về vốn
trong xã hội của các chủ thề kinh tế như nhà nước ,doanh nghiệp các tổ chức xã
hội ,các định chế tài chính trung gian và công chúng.

Công cụ của thị trường tài chính: đây là nguồn sống cho hoạt động của thị
trường bao gồm các loại cộng trái nhà nước, các loại chứng khoán do doanh nghiệp
phát hành ,các loại trái phiếu của các định chế tài chính trung gian phát hành , các loại
giấy tờ có giá như kì phiếu , séc…

Chủ thề của thị trường tài chính: đây là nhửng pháp nhân và thể nhân đại diện
cho những nguồn cung và cẩu về vốn tham gia trên thị trường tài chính.

Vậy, thị trường tài chính hình thành trên cơ sở nào?

2. Cơ sở hình thành thị trường tài chính:

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển luôn xuất hiện nguồn cung và
cầu về vốn đầu tư.Sự kết nối giữa cung và cầu về vốn được thực hiện dưới nhiều hình
thức.

Hình thức đơn giản nhất và cũng tồn tại lâu đời nhất là những quan hệ vay
mượn trực tiếp giữa các tầng lớp dân cư hoặc quan hệ tín dụng thương mại giữa các
doanh nghiệp .Song với hình thức này qui mô vốn vận động không lớn và phạm vi
điều tiết vốn không rộng vì chủ yếu chỉ diễn ra trên cơ sở quen biết và tín nhiệm giữa
hai chủ thể trong quan hệ tín dụng.

Hình thức thứ hai tương đối phổ biến đó là sự ra đời và phát triển của
các tồ chức tài chính trung gian như ngân hàng thương mại ,các tổ chức tín dụng , các
công ty tài chính. Hoạt động của các tở chức này thật sự là nhịp cầu giao lưu giữa cung
và cấu vốn vì chúng vừa là ngưới đi vay vừa là người cho vay.

7
Hình thức thứ ba được phát triển khi mà chủ thể đại diện cho nhu cầu vốn đầu
tư không muốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà họ sẽ chủ động tìm kiếm
nguồn vốn đầu tư bổ sung bằng cách phát hành các chứng từ có giá. Phát triển sớm
nhất là những tờ công trái do ngân sách nhà nước phát hành để huy động vốn nhằm
thỏa mãn nhu cầu chi và sau này khi các doanh nghiệp cần tập trung vốn đầu tư thì các
loại cổ phiều, trái phiếu ra đời ngày càng nhiều trong nền kinh tế.

Sự có mặt của các loại chứng từ có giá đã thu hút sự quan tâm của giới đầu tư vì
không những nó đa dạng và phong phú về chủng loại, người đầu tư sẽ biết được chính
xác đường đi đồng vốn mình, mặc khác với đặc điểm có thể mua bán các chứng từ có
giá dễ dàng trên thị trường nên người đầu tư cảm thấy họ không bị bó buộc trong một
phạm vi hạn hẹp.Trên thực tế một thị trường giao dịch các loại chừng từ có giá đã hình
thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ mà người ta đã dùng thuật ngữ thị trường tài
chính để chỉ ra nơi diễn ra các hoạt động mua bán các chứng từ có giá trong nền kinh
tế.

Như vậy, có thể nói sự ra đời và phát triển của các loại chứng từ có giá và quá
trình giao lưu chuyển nhượng chúng trong nền kinh tế vừa có tác dụng giải quyết nhu
cầu vốn đầu tư cho các chủ thề vay vốn vừa là cơ sở hình thành thị trường tài chính.

3. Chức năng của thị trường tài chính:

Chức năng đầu tiên, cũng là chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính
là khơi thông các nguồn vốn và dẫn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế xã
hội. Để thực hiện được chức năng này, thị trường phải tạo ra các kênh huy động vốn từ
nơi thừa, như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tở chức đồn thể xã hội, Chính
phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu vốn, như: các đơn
vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình, …

Chức năng thứ hai của thị trường tài chính là kích thích tiết kiệm và đầu tư. Thị
trường tạo ra sân chơi, để những người có tiền nhàn rỡi có cơ hội đầu tư như nhau và
được tự do tham gia vào thị trường để tìm kiếm những nơi đầu tư có suất sinh lợi cao
nhất, tạo thành thói quen tích lũy tiền tệ một cách thường xuyên hơn, là một nguồn đầu
vào không thể thiếu của thị trường. Nếu thị trường không kích thích được người dân
tích lũy và tham gia vào thị trường như là một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế thì thị
trường đó sẽ không thể hoạt động tốt. Đồng thời, nhà đầu tư trên thị trường khi tìm
8
kiếm nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đầu tư phải nhận thức được việc sử dụng
vốn sao cho có hiệu quả nhất, có hiệu suất sử dụng đồng vốn cao nhất để bảo toàn vốn,
sinh lời và tích lũy. Chính vì vậy, thị trường tài chính có chức năng nâng cao năng suất
và hiệu quả hoạt động của tồn bộ nền kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế xã hội.

Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính thanh khoản cho
các tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ dàng chuyển hóa các tài sản tài
chính thành tiền mặt và được thực hiện ở thị trường thứ cấp, là thị trường mua bán,
giao dịch cổ phiếu và các giấy tờ có giá đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Tính thanh
khoản ở thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút nhiều chủ thể tham gia vào thị
trường và giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ dàng chuyển đổi danh mục đầu tư
theo nhu cầu. Do đó, mỗi thị trường khác nhau có tính thanh khoản khác nhau, phụ
thuộc vào trình độ phát triển các định chế tài chính của thị trường ấy. Nếu các cơ chế
của thị trường thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các công cụ tài chính lưu
thông thông suốt. Ngoài ra, thị trường tài chính còn có chức năng định giá tài sản tài
chính, phân phối vốn trên thị trường theo tín hiệu của thị trường.

Tùy thuộc vào các chức năng khác nhau của thị trường cũng như các tiêu
chí phân loại khác nhau, thị trường tài chính cũng có nhiều cách phân loại khác nhau.
Nhưng tựu trung lại, thị trường tài chính thường có ba cách phân loại cơ bản: theo thời
hạn, tính chất luân chuyển vốn và theo cơ cấu của thị trường.

4. Phân loại thị trường tài chính:

Dựa trên nhiều tiêu thức phân loại mà có thể nhìn thị trường tài chính theo
những cấu trúc khác nhau:

Căn cứ vào cơ cấu tở chức, thị trường tài chính được phân thành thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp.

- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành lần đầu các chứng từ có giá để huy
động và tập trung vốn. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà
9
phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường
sơ cấp có đặc điểm là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát
hành, tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho toàn bộ nền
kinh tế. Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thường là Kho bạc,
Ngân hàng Nhà nước, Công ty phát hành, Tập đoàn bảo lãnh phát hành, …Thị trường
sơ cấp thường diễn ra trong một thời gian nhất định.

- Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán trao đổi các chứng từ có giá
đã phát hành lần đầu. Trên thị trường này, các nhà đầu tư chuyển nhượng quyền mua
bán chứng khốn và điều đó làm cho chứng khốn đã phát hành có tính thanh khoản.
Khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh
doanh chứng khốn chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền chỉ vận chuyển
giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận
quan trọng của thị trường chứng khốn, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Giao
dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá giao dịch chứng
khoán do cung - cầu trên thị trường quyết định.

Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị
trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ
cấp; vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp.
Ngược lại, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường
sơ cấp; vì nếu không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính
thanh khoản cho chứng khoán thì rất khó để phát hành và thu hút nhà đầu tư trên thị
trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý
thuyết. Trên thực tế, tổ chức thị trường không phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là
thị trường thứ cấp. Vì tại một thị trường có thể cùng diễn ra đồng thời hoạt động mua
bán chứng khoán mới phát hành và chứng khoán mua bán lại. Điều cần quan tâm là
phải coi trọng thị trường sơ cấp vì đây là thị trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt
chẽ thị trường thứ cấp để bảo vệ thị trường tài chính ởn định.

Căn cứ vào cách thức huy động vốn, thị trường tài chính được phân
thành thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn.

- Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán nợ.
Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, …) là các thỏa thuận có tính
10
hợp đồng. Trong đó, người vay vốn thanh tốn cho người giữ công cụ một khoản tiền
cố định trong những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới kỳ hạn cuối
cùng thì thanh tốn giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh tốn, công cụ nợ được chia làm
ba loại khác nhau:

- Công cụ nợ ngắn hạn.

- Công cụ nợ trung hạn.

- Công cụ nợ dài hạn.

Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và
lãi suất cố định. Người sở hữu công cụ nợ không có quyền biểu quyết trong
quản trị điều hành của bên vay.

- Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán
vốn. Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu tư,
…Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần
trên cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chia
cổ tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ. Chính vì
vậy mà giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng cổ tức có thể cao
hoặc thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhưng họ có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành doanh nghiệp vì họ là chủ sở
hữu. Người giữ chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn người giữ chứng khoán nợ trong
trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Người giữ chứng khoán nợ được ưu tiên thanh
tốn nợ trước.

Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ phái sinh. Đây là
thị trường phát hành và mua bán các chứng khoán phát sinh, như: chứng quyền, quyền
chọn, hợp đồng tương lai, …

Căn cứ vào thời gian vận động của vốn, hay nói cách khác là kỳ hạn
thanh toán của các chứng từ giao dịch trên thị trường ,thị trường tài chính được phân
thành: thị trường tiền tệ, thị trường vốn.

Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có không gian vật lý.
Vì vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể thức sau:

11
- Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa.

- Thị trường thường trực và thị trường huy động.

- Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường lưu lượng chứng khoán.

Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta muốn hướng
đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính tại Việt Nam cũng đã được
hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam,
tiểu luận này chỉ tập trung phân tích hai thị trường trong phân loại theo thời gian vận
động của vốn. Đó là thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

12
II. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1. Khái niệm và cơ cấu của thị trường tiền tệ

1.1 Khái niệm

- Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá ngắn
hạn. Các chứng từ có giá ngắn hạn như: tín phiếu Kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa
các Ngân hàng, thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, … Đây là thị
trường nhằm thỏa mãn những nhu cầu vốn trong ngắn hạn. Căn cứ theo mục đích này
của thị trường mà không cần quan tâm đến thời hạn của các chứng từ có giá, khái niệm
trên được hiểu theo nghĩa của thị trường mở thì thị trường tiền tệ là thị trường giao
dịch, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá.

1.2 Cơ cấu của thị trường tiền tệ

Ở các nước thông thường TTTT đều cấu thành bởi hai bộ phận thị trường có
các chức năng khác nhau:

Thị trường sơ cấp (Primary market): là thị trường mua bán lần đầu các chứng
khoán

Thông thường là thị trường đấu thầu chứng khoán nợ ngắn hạn của chính phủ
như tín phiếu kho bạc ,trái phiếu chính phủ.

Thị trường thứ cấp(Secondary market): là thị trường mua bán các loại chứng
khoán có giá. Hiểu theo nghĩa hẹp là thị trường lien ngân hàng, hiểu theo nghĩa rộng là
thị trường mua bán lại các chứng khoán nợ ngắn hạn.

Giữa hai thị trường có mối lien hệ đặc biệt:

Thị trường sơ cấp là thị trường tạo ra các công cụ hàng hóa chứng khoán
có khả năng chuyển nhượng , mua bán ở thị trường thứ cấp .Ở thị trường sơ cấp nói
chung giá cả của các chứng khoán thực chất là khoản tiền mà người cho vay chuyển
cho người vay.

Vì vậy thị trường sơ cấp là thị trường phát hành ra các giấy tờ có giá .Giấy có
giá là một tờ giấy ghi lời hứa trả của người phát hành nó ,là sẽ hoàn trả lại khoản tiền
xin vay vào một thời điểm cụ thể trong tương lai và các khoản lãi đã được ấn định.

13
Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán lại các giấy tờ có giá đã được phát
hành để tạo thanh khoản cho người chủ sở hữu khi họ cần tiền mặt.Một thị trường có
tính thanh khoản càng cao càng tạo ra động lực phát triển cho thị trường sơ cấp , bởi vì
người mua CK trên thị trường sơ cấp được đảm bảo rằng bất cứ lúc nào cần tiền cũng
có thể chuyển sang tiền mặt bằng cách bán lại CK đó trên thị trường thứ cấp.

Có 3 khía cạnh cần xem xét ở một thị trường :

-Thị trường đáng tin cậy

-Hàng hóa có chất lượng

-Pháp chế hữu hiệu hóa cho thị trường, bảo vệ nhà đầu tư

1.3. Các chức năng của TTTT

a. Huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đưa đến người cần sử dụng.

Nhờ vào chức năng lưu thông hàng hóa của tiền tệ mà có thể huy động được
các nguồn vốn đang ở dạng nằm yên cất trữ đưa vào quá trình sản xuất. Đặc điểm trên
của tiền tệ đã hình thành nên việc mua bán quyền sử dụng tiền tệ dưới dạng này sang
dạng khác trên một thị trường gọi là TTTT.Chính trên thị trường này mà người có tiền
chưa chưa cần sử dụng có thể gặp được đối tác là người cần sử dụng để hai bên có thể
đạt được mục tiêu đem lại lợi ích cho cả hai bên.

b. Tạo thanh khoản cho nền kinh tế

Chức năng này xuất phát từ chức năng thanh toán của tiền tệ.Khi một người sở
hữu một số giấy tờ có giá ,lúc cần tiền để thanh tốn ,trả nợ hay tiêu dùng ,người đó có
thể đem chúng ra bán trên TTTT một cách dễ dàng để thu tiền mặt về.Tính thanh
khoản là một trong những đặc trưng quan trọng nhất của TTTT.

c. Ổn định và điều hòa lưu thông tiền tệ

Từ hai chức năng trên , tiền sẽ được điều từ nơi thừa đến nơi thiếu để tạo ra một
sự cân bằng thỏa mãn các nhu cầu xã hội.Không có TTTT thì việc điếu hòa tiền tệ sẽ
không thể thực hiện được, vì lượng cung về tiền sẽ không thể tìm ra được lượng cầu
đầy đủ.NHTU thông qua thị trường mở sẽ mua vào hoặc bán ra các trái phiếu chính
phủ hoặc các công cụ khác có tác dụng bơm hoặc hút tiền tệ lưu thông nhằm điều hòa
khối lượng tiền trong lưu thông làm cho TTTT hoạt động hiệu quả và ổn định hơn.
14
III.THỊ TRƯỜNG VỐN
1. Khái niệm và cơ cấu tổ chức của thị trường vốn

1.1. Khái niệm thị trường vốn

- Thị trường vốn là một bộ phận quan trọng của TTTC , hoạt động của nó nhằm
huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành những nguồn
vốn lớn tài trợ dài hạn cho các doanh nghiệp , các tổ chức kinh tế và nhà nước để phát
triển sản xuất ,tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.

Thị trường vốn là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các chứng khoán và các
giấy ghi nợ trung hoặc dài hạn thường từ một năm trở nên.Công cụ trao đổi trên thị
trường vốn đa số là các chứng khoán , nên thị trường vốn còn được gọi là thị trường
chứng khoán (TTCK).Nội dung của các mối quan hệ về giao lưu vốn dài hạn trên
TTCK được thể hiện tập trung bằng các hoạt động kinh doanh CK trên TTCK. Vậy,
TTCK là nơi mua bán giao dịch các loại chứng khoán đã được phát hành và đang lưu
hành trên thị trường.

1.2. Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn

Thị trường sơ cấp : đây là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát
hành . Thị trường sơ cấp tạo điều kiện tăng qui mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng
chứng khoán vào lưu thông.Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hóa cho thị
trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.

Thị trường thứ cấp : Là thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu các loại chứng
khoán đã phát hành và lưu thông trên thị trường .Thị trường thứ cấp không làm thay
đổi qui mô vốn đầu tư trong nền kinh tế.Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hòa ,
lưu thông các nguồn vốn , đảm bảo chuyển hóa các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn,
để đầu tư và phát triển kinh tế .Nhờ có thị trường thứ cấp,những người có vốn nhàn rỡi
tam thời có thể n tâm đầu tư vào chứng khoán, vì khi cần tiền , họ có thể bán lại các
chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên TTCK.

15
IV. MỐI LIÊN QUAN GIỮA THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VÀ THỊ
TRƯỜNG VỐN
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên TTTC cùng
thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế , do đó các nghiệp vụ hoạt
động ổ cả trên hai thị trường có mối lien quan bổ sung và tác động hỗ tương.

Lãi suất trên TTTT có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán các chứng
khoán trên thị trường vốn.Nếu lãi suất ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao ,điều này
sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao và rủi
ro thấp hơn là mua chứng khoán. Mặt khác các biến đổi về giá cả và lãi suất trên TTTT
thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá
của cổ phiếu và trái phiếu.Chẳng hạn như một chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi ,
căn cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng.Hay khi định
giá trị cổ phiếu hoặc trái phiếu tại một thời điểm nào đó trên thị trường , người ta phải
tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên TTTT.Giữa lãi suất thị trường
và giá trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch : khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn
lãi suất trái phiếu sẽ sụt giảm và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống
thấp hơn lãi trái phiếu.

Ngược lại , các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản
ánh các hiện tượng tốt hay xấu , đã đang hoặc xảy ra trên TTTT. Đối với thị trường
vốn ,việc duy trì một lãi suất ồn định không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn
định của thị trường. Trên thực tế các hoạt động của TTTT và thị trường vốn được thực
hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu
hoản chỉnh của một thị trường tài chinh.

16
V. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT
NAM
1. Thị trường tiền tệ:

a) Thị trường vốn ngắn hạn:

(Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ) Nhìn chung, thị
trường này chưa thực sự phát triển và Ngân hàng Nhà nước (NHTW) chưa thực sự
đóng vai trị can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của NHTW: lãi
suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ thị trường mổ,
lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các
công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc... thiếu linh
hoạt. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) và Tở chức tín dụng cạnh tranh với nhau
tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính
các NHTM.

b) Thị trường liên ngân hàng

Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái chiều và ba vấn
đề nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ
trong nền kinh tế tăng cao và sức ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng tiền
ra lưu thông.

Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng nhu cầu về tiền
đồng Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam (NHNN) phải đẩy mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra
lưu thông. Song cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông thì lại gặp phải sức ép của dư
luận về chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ.

Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam càng tăng mạnh,
lớn nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm, các NHTM cổ phần và doanh
nghiệp cổ phần gấp rút phát hành cổ phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007 về
tăng vốn điều vốn lệ theo nghị quyết đại hội cổ đông biểu quyết nhất trí từ đầu năm.
Cổ đông là người Việt Nam ở nước Ngoài, cổ đông nước Ngoài phải chuyển tiền về

17
Việt Nam để góp vốn. Một bộ phận khác người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về
cho người thân vay mượn hoặc đầu tư hộ vào các loại trái phiếu khác nhau.

Bên cạnh đó là tiền từ nước ngoài chuyển về đầu tư vào thị trường trường bất
động sản. Một nguồn vốn ngoại tệ quan trọng khác đó là vốn đầu tư gián tiếp vào thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thường sôi động vào cuối năm. Số vốn này
bao gồm cả việc mua chứng khoán trên Sở GDCK TP.HCM, Trung tâm GDCK Hà
Nội, cả số vốn mua cổ phần trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của các doanh
nghiệp Việt Nam.

Tất cả số ngoại tệ đó phải chuyển sang nội tệ, tức là đồng Việt Nam. Song
NHNN Việt Nam với tư cách người mua bán cuối cùng can thiệp trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng thì hạn chế mua vào.

Những nguồn vốn ngoại tệ lớn tiếp theo đó là vốn đầu tư trực tiếp nước Ngoài,
vốn ODA và nguồn thu từ khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam.

Về kim ngạch xuất nhập khẩu, đến hết tháng 11/2007, Việt Nam đạt kim ngạch
nhập khẩu 54,11 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất khẩu
tăng 20, nhập siêu 9,0 tỷ USD và dự báo cả năm 2007 cũng dừng ở mức 9,0 tỷ USD.
Do nhập siêu nên thu hút một lượng vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, cung ngoại tệ vẫn
dồi dào thể hiện tập trung ở thặng dư cán cân vãng lai, đến nay chưa có con số thống
kê được công bố chính thức.

Nguồn thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay, chỉ riêng 6 tháng đầu năm
2007, NHNN đã mua vào 9 tỷ USD để tăng quỹ dự trữ, tương ứng cung ứng ra lưu
thông 144.000 tỷ đồng. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, phát biểu tại cuộc hội thảo hai Luật
Ngân hàng, tổ chức sáng ngày 29/11/2007 tại TP.HCM thì con số này của cả năm
2007 không thấp hơn 12 tỷ USD. Như vậy số tiền đồng Việt Nam cung ứng ra lưu
thông qua kênh mua ngoại tệ lên tới gần 200.000 tỷ đồng. Với việc mua vào một khối
lượng lớn USD đã làm cho quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia hiện nay lên tới 20 tỷ
USD.

Song mua khối lượng lớn như vậy nhưng lượng cung USD hiện nay trên thị
trường vẫn đang rất lớn, nếu không mua vào, tỷ giá VND/USD giảm mạnh và các
NHTM trở nên tình trạng thừa vốn USD, nhưng khan hiếm đồng Việt Nam.

18
Cũng do tình trạng thiếu hụt đồng Việt Nam, nên có thời điểm lãi suất cho vay
qua đêm trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã lên tới 12%/năm, thậm chí có thời
điểm lên tới 18%/năm, cao hơn lãi suất cho khách hàng vay vốn. NHNN thông qua
nghiệp vụ thị trường mở mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn cung ứng hơn 10.000 tỷ
đồng cho các NHTM, nhưng không thấm gì so với nhu cầu khan hiếm tiền đồng Việt
Nam hiện nay của thị trường tiền tệ. Cũng chính do tình trạng đó, nên hiện nay các
NHTM đang đẩy mạnh huy động vốn trong nền kinh tế bằng nhiều biện pháp khác
nhau, như tăng chi phí khuyến mãi, tăng lãi suất, từ đó tạo áp lực tăng lãi suất cho vay
và từ đó góp phần tạo thêm áp lực gia tăng lạm phát.

Bởi vậy, trong điều hành chính sách tiền tệ cần có chiến lược dài hạn, chủ động
hơn, đảm bảo khoa học và sát thông lệ quốc tế. Cần tham khảo và học hỏi kinh nghiệm
của các nước trong khu vực, như: Trung Quốc, Philippines,… có điều kiện giống Việt
Nam nhưng họ không lúng túng như nước ta.

2. Thị trường hối đoái:

Tỷ giá hối đoái sụt giảm gần đây chủ yếu do áp lực giảm cung ứng tiền VND
trong lưu thông để kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, nhiều định chế tài chính lớn đều
đưa ra nhận định, khả năng tỷ giá VND/USD sẽ theo chiều hướng đi xuống trong thời
gian từ nay đến hết năm 2007.

Tuy nhiên ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng, tỷ giá hối đối sẽ không mất hơn 0,5% trong
những tháng còn lại của năm (từ đầu năm đến nay tỷ giá giảm 0,5%). NHNN sẽ có
động thái can thiệp khi đồng USD giảm dưới mức 16.000 VND/USD.

Thị trường đang xuất hiện tình trạng khan hiếm tiền đồng, tỷ giá sụt giảm. Vậy
tại sao NHNN vẫn chưa có động thái tích cực trong việc hút USD về?

Đây là một bài tốn đã được NHNN tính tốn, vì nếu tiếp tục tung VND hút USD
về thì lượng tiền trong lưu thông sẽ gia tăng, kéo theo lạm phát. Điều này cho thấy,
nếu NHNN không thực hiện chủ trương trên, tốc độ lạm phát còn cao hơn.

Nhiều khả năng, tốc độ lạm phát của Việt Nam trong năm nay sẽ cao hơn mức
tăng trưởng của nền kinh tế, khó đạt được mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đã đề

19
ra. Như vậy, để kiềm chế lạm phát buộc NHNN phải hạn chế việc đưa tiền ra. Theo
đó, Ngoài các chính sách khác, NHNN đành giảm hoặc ngưng mua USD.

Trên thị trường, lãi suất huy động VND đang chuyển động tăng do khan hiếm
VND, kéo theo lãi suất đầu ra tăng. Hậu quả là giá cả tăng, doanh nghiệp phải điều
chỉnh giá bán đảm bảo lợi nhuận, lúc này lạm phát sẽ còn cao hơn?

Việc khan hiếm tiền đồng chỉ là nhất thời. Trên thực tế, hiện còn nhiều ngân
hàng đang dư vốn khả dụng và chưa giải ngân kịp. Điều này được chứng minh, gần
đây nhiều nhà băng phải chạy đua giải ngân để đảm bảo chỉ tiêu cuối năm, trong đó
đáng chú ý là cho vay mua bất động sản; gia tăng hạn mức, thời gian, đồng thời giảm
lãi suất đầu ra để thu hút khách hàng.

Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam năm nay dự báo sẽ lên đến 30 -
40%. Như vậy, nếu tăng thêm cung tiền, khả năng tín dụng tăng trưởng nóng còn cao
hơn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.

Lãi suất qua đêm có những thời điểm lên đến 16 - 17%/năm và hiện vẫn
duy trì trên mức 10%/năm, cao gần gấp 3 lần so với trước, thưa ông?

Về căn bản, mức tăng trưởng tín dụng đang gia tăng nóng, tính thanh khoản
trên thị trường liên ngân hàng chỉ biến động trong một thời gian ngắn. Có thể gần đây,
nhu cầu thanh tốn hàng hóa của khách hàng tăng mạnh nên họ cần đến vốn ngân hàng.

Từ đó, các ngân hàng đổ xô vay trên thị trường liên ngân hàng khiến lãi suất
qua đêm biến động. Nhưng sau Tết Dương lịch, tính thanh khoản của thị trường liên
ngân hàng sẽ ổn định trở lại.

Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc dự báo và quản trị rủi ro thanh khoản của
một số ngân hàng còn yếu kém. Nếu các ngân hàng xây dựng được bảng cân đối tài
sản đến từng ngày, chắc chắn sẽ không xảy ra hiện tượng khan hiếm tiền đồng như
thời gian gần đây.

Tỷ giá hối đoái sẽ biến động như thế nào trong thời gian tới và NHNN sẽ có
động thái điều chỉnh vào lúc nào? Với tỷ giá hối đoái, nếu đã biến động thì sẽ mạnh
hơn cả lãi suất, có thể lên đến 5 - 10%. Nếu kinh doanh trên thị trường hối đoái mà
không có dự báo trước dẫn đến lỡ là chuyện bình thường. Người mua cuối cùng bao
giờ cũng là NHNN.
20
Nếu thấy cần, NHNN sẽ mua vào và ngưng mua khi thấy không cần thiết. Tuy
nhiên, khi tỷ giá xuống mức 16.000 VND/USD sẽ có điều chỉnh ngay, vì nếu để tỷ giá
xuống thấp sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước Ngoài.

Do đó, nhiều khả năng tỷ giá chỉ có thể sụt giảm xuống mức xấp xỉ
16.000 VND/USD. Hiện nay mức giảm của tỷ giá là 0,5%, nên mức tối đa chỉ xuống
khoảng 1% cho cả năm 2007.

Thực tế, NHNN có mua vào USD và lượng USD hút về từ đầu tháng 8 đến nay
đạt gần 6 tỷ USD. Nhưng do vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp vào Việt Nam tăng
nhanh, cung dội, trong khi cầu yếu đã góp phần làm tỷ giá suy giảm.

3. Thị trường chứng khoán (thị trường vốn):

a) Những thành tựu đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam

Về tổ chức và phát triển thị trường: Thị trường chứng khoán có tổ chức phá
triển nhanh về quy mô, tổng mức vốn hóa trên thị trường ngày càng tăng. Doanh
nghiệp và chính phủ đã sử dụng thị trường chứng khoán như một kênh đẩy mạnh việc
thu hút vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.

Khung pháp lý, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán
từng bước được hoàn thiện.

Tính công khai, minh bạch của các tở chức niêm yết được tăng cường, hoạt
động sản xuất kinh doanh có bước phát triển khá về quy mô, doanh số và lợi nhuận
Thị trường chứng khoán đã làm gia tăng uy tín của công ty niêm yết.

Thị trường chứng khoán góp phần tạo sự thành công của chương trình cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước kết nối với niêm yết và đăng ký giao dịch.

Thị trường chứng khoán tạo điều kiện nâng cao trình độ quản lý, đều hành hoạt
động nghiệp vụ chun mơn trong lĩnh vực chứng khoán.

Góp phần đa dạng hóa va phát triển các định chế tài chính trung gian.

Thị trường chứng khoán giúp đẩy mạnh việc phở biến kiến thức về chứng
khoán và thị trường chứng khoán trong công chúng.

Thị trường chứng khoán từng bước thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế.

21
b) Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam.

Thị trường chứng khoán chưa thật sự khẳng định được vai trò của một kênh huy
động vốn chủ lực trong nền kinh tế hiện nay.

Môi trường pháp lý chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng
khoán Việt Nam phát triển, thể chế cho hoạt động thị trường còn chưa hoàn chỉnh.

Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành
quản lý thị trường còn nhiều hạn chế.

Quy mô thị trường chứng khoán còn nhỏ, hàng hóa giao dịch với số lượng chưa
nhiều, chất lượng chưa cao. Chỉ số VN-Index chưa thực sự trở thành phong vũ biểu
của nền kinh tế.

Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường chứng khoán còn mất cân đối gây
nên những biến động cho thị trường. Thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự
ổn định, vững chắc, kể cả hoạt động giao dịch mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc
vào tâm lý đầu tư ngắn hạn.

Tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, hoạt động
của thị trường tự do còn rộng.

Hệ thống các tổ chức trung gian và hổ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài
chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ.

Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các thị
trường giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán còn bất cập trước sự phát triển
quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại.

Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin
học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn yếu.

Thị trường chứng khoán còn thiếu khả năng tiếp cận với thị trường chứng
khoán thế giới trong xu thế hội nhập.

Chưa có kinh nghiệm trong quản lý chính sách.

Từ thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, để củng cố và phát triển,
chúng ta phải thực sự nâng cao vai trị của thị trường tài chính trong bối cảnh Việt Nam
hiện nay.
22
VI. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao
trong vòng năm năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn
đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho
phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi
nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và
phát triển có vai trị rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp
phát triển của đất nước.

1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế

Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng
thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống Ngân
hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong
xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, …Lãi suất huy
động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn mà các Ngân hàng
thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi suất thực dương, tức là
phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo
hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ nguồn vốn huy động này, các Ngân
hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi dào cho nền kinh tế thông qua hoạt
động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành
và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn.

Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong
muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một
kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản
tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư
sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là
nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự
kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai. Mặt khác, nhà đầu tư cần vốn chỉ phải bỏ
ra chi phí rất thấp nhưng có thể huy động nguồn vốn lớn, tức thì, không bị bó hẹp như
cơ chế cho vay. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư

23
từ những dự án kinh tế có sức sinh lời cao. Điều quan trọng là cần phải khơi thông cơ
chế hoạt động cho thị trường chứng khoán phát triển.

2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế

Các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp
khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực
tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước Ngoài. Đối với nguồn
lực tài chính trong nước, cần phát triển đa dạng các dịch vụ về tài chính để những
khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỡi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn là đưa vào cất trữ.
Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để. Đối với nguồn lực tài
chính bên Ngoài, cần có chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra bằng cơ chế giám
sát hơn là các biện pháp quản lý hành chánh, để thu hút nguồn lực tài chính lớn của
các tập đồn nước Ngoài.

Thị trường tài chính phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai,
minh bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải
thực sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút
vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên đổi
mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội cũng
được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá trị thị
trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu tư vào các
doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, thị trường tài chính có vai trị kích thích việc sử
dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.

3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh q trình tự do hóa tài chính và hội
nhập quốc tế

Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị kinh tế -
xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy nhiên,
ngày nay với tốc độ tự do hóa tồn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng
lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa
thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vì thế mà
hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu
hướng tự do hóa tài chính.

24
Đối với tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau:

- Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường quyết
định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Tự
do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đối, có tác động mạnh đến
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế.

- Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện tại của Việt
Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương ứng với một rổ
tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam hơn là neo chặt vào
dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành
lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động trong một giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá
chính thức của Ngân hàng Nhà nước.

Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng
bước và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như:

- Tự do hóa giao dịch vãng lai

- Tự do hóa giao dịch vốn

- Thực hiện chuyển đổi đồng bản tệ

Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với
các giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính
qua biên giới của công dân nước sở tại và nước Ngoài; các luồng vốn nước ngoài được
tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là lớn mạnh và
đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng tiền chuyển đổi tự
do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển đổi sang những ngoại
tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế theo tỷ giá hối đoái thị
trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc gia.

Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có
thể hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập
quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế thương mại. Những vùng,
miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của nhau thông
qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính được tự do hóa.
25
Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua bán hàng hố và dịch
vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài chính của hai nước được
liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế
mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính tồn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự
hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân
hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của
các Ngân hàng hay tở chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường
thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, Ngoài thực hiện
các hoạt động và dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là
người ở đó, cũng được thể hiện thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị
trường. Từ đó mà tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội
nhập, đan xen vào nhau.

Tóm lại, việc hình thành thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong công
cuộc xây dựng phát triển đất nước. Đây là thị trường tiền đề cho mọi hoạt động của
nền kinh tế xã hội được diễn ra, bắt đầu từ việc tạo lập nguồn vốn đến nâng cao hiệu
quả kinh tế xã hội và cuối cùng là hội nhập và nền kinh tế thế giới. Cho nên, thị trường
tài chính cần được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, có cơ chế giám sát phù
hợp nhằm hạn chế những tác hại, rủi ro khi có khủng hoảng tài chính.

26
KẾT LUẬN
Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế tồn cầu. Chính vì vậy, vấn đề
xây dựng một thị trường tài chính vững mạnh, ổn định và phát triển cần phải được tổ
chức và có những bước đi thích hợp. Chính phủ với vai trò quản lý và là người xây
dựng hành lang pháp lý cho thị trường tài chính phát triển, cần phải có những chính
sách thông thống để thị trường tài chính phát huy hết vai trị của nó, giúp cho nền kinh
tế Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, nhất là khi hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Thị trường tài chính ngày nay mang tính tồn cầu, vượt ra khỏi ranh giới giữa các
quốc qia, tính hội nhập cũng rất mạnh mẽ nên rất khó trong quản lý, đặc biệt là cơ chế
giám sát, sao cho vừa mang tính đặc thù riêng theo những điều kiện chính trị, kinh tế,
xã hội của mỗi nước vừa mang tính hội nhập quốc tế, vừa đảm bảo an toàn cho thị
trường tài chính trong nước vừa mang tính chất tự do hóa.

27

You might also like