You are on page 1of 34

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG


---o0o---

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


Học phần: Tài chính quốc tế (FN261)

ĐỀ TÀI: Hãy trình bày về tự do hoá tài chính


(financial liberalization)

Giáo viên hướng dẫn : Ngô Khánh Huyền


Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hương
Mã sinh viên : A43676
Chuyên ngành : Quản trị kinh doanh

HÀ NỘI – 2022
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH.............................1


1.1. Khái niệm tự do hóa tài chính...............................................................................1
1.1.1. Khái niệm tài chính...........................................................................................1
1.1.2. Khái niệm tự do hóa tài chính...........................................................................1
1.2. Phân loại tự do hóa tài chính.................................................................................1
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính...........................................................................2
1.4. Nội dung của tự do hóa tài chính..........................................................................3
1.4.1. Tự do hóa lãi suất.............................................................................................3
1.4.2. Tự do hóa tỷ giá................................................................................................3
1.4.3. Tự do hóa giao dịch vốn...................................................................................4
1.4.4. Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác
trên thị trường tài chính..............................................................................................4
1.5. Nhân tố tác động và điều kiện cần thiết dẫn đến thành công của quá trình tự
do hóa tài chính.............................................................................................................5
1.5.1. Nhân tố tác động...............................................................................................5
1.5.2. Điều kiện để tự do hóa thành công...................................................................5
CHƯƠNG 2. NHỮNG KHÍA CẠNH VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH.....................7
2.1. Điểm mạnh, điểm yếu của tự do hóa tài chính....................................................7
2.1.1. Điểm mạnh........................................................................................................7
2.1.2. Điểm yếu...........................................................................................................8
2.2. Cơ hội và thách thức của tự do hóa tài chính......................................................9
2.2.1. Cơ hội và lợi ích của tự do hóa tài chính.........................................................9
2.2.2. Thách thức của tự do hóa tài chính................................................................11
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM...................................................................................................................13
3.1. Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính và những bài học rút ra đối với
Việt Nam.......................................................................................................................13
3.2. Thực trạng cải cách và tự do hóa tài chính ở Việt Nam...................................15
3.2.1. Thực trạng tự do hóa lãi suất..........................................................................17
3.2.2. Thực trạng Tự do hóa hoạt động của các ngân hàng thương mại và định chế
tài chính....................................................................................................................17
3.2.3. Thực trạng tự do hóa giao dịch vốn................................................................18
3.2.4. Thực trạng giao dịch ngoại hối......................................................................20
3.3. Mức độ tự do hóa tài chính hiện nay..................................................................20
3.4. Xu hướng tự do hóa tài chính..............................................................................21
3.4.1. Xu hướng tự do hóa tài chính hiện nay...........................................................21
3.4.2. Xu hướng tự do hóa tài chính của Việt Nam trong thời gian tới....................21
CHƯƠNG 4. KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH CHO QUÁ
TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM..............................................23
4.1. Tiến trình tự do hóa tài chính.............................................................................23
4.2. Khuyến nghị cho quá trình tự do hóa tài chính tại Việt Nam..........................24
4.3. Giải pháp chính sách cho quá trình tự do hóa tài chính tại Việt Nam............26
KẾT LUẬN.....................................................................................................................1
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt


ADB Asia Development Bank Ngân hàng phát triển Châu Á
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm nội địa
IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Organization for Economic
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Cooperation and Development
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH ẢNH

Hình 3.1: Diễn biến lãi suất VND (%).......................................................................17


Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng...........................18
Bảng 3.1: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Triệu USD)..............................................19
LỜI MỞ ĐẦU

Qua nhiều thập niên kiềm chế tài chính nặng nề, các quốc gia nhận thức rõ các
giá phải trả, đồng thời, với những điều kiện mới của môi trường toàn cầu, các nước cố
gắng tạo cho mình những giải pháp tự do hóa tài chính để làm tăng tính cạnh tranh
trong hệ thống tài chính, từ đó cải thiện hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực.
Các nước đều có những sự khác biệt nhất định như: yếu tố cơ bản của kinh tế vĩ
mô; trình độ phát triển của hệ thống tài chính; mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp
lý; năng lực điều hành, quản trị v.v... là những vấn đề cần quan tâm khi lựa chọn các
biện pháp và trình tự tự do hóa tài chính. Mục đích chính là tối đa hóa những lợi ích
của tự do hóa tài chính đồng thời giảm thiểu được những thiệt hại mà tự do hóa tài
chính mang theo. Tự do hóa tài chính giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt
và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh,
mang lại động lực phát triển cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng,
chất lượng cao. Những lợi ích tiềm năng của tự do hóa tài chính là rất lớn, nhưng bên
cạnh đó cũng có những mặt trái được cho là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ và khủng
hoảng tài chính.
Vậy để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng tìm hiểu tại sao chúng ta cần tự do hóa tài
chính? Tự do hóa tài chính mang lại những cơ hội và thách thức gì cho các quốc gia
tham gia?
Trong quá trình làm bài, em đã cố gắng làm rõ vấn đề và phân tích rõ những cơ
hội và thách thức của tự do hóa tài chính, đồng thời tìm hiểu thực trạng, xu hướng và
những vấn đề đặt ra để tự do hóa tài chính ở Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến
nghị và giải pháp. Do đây là một vấn đề lớn và kiến thức còn rất hạn chế nên chắn hẳn
bài tiểu luận còn có nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ cô. Em xin chân
thành cảm ơn.
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

1.1. Khái niệm tự do hóa tài chính


1.1.1. Khái niệm tài chính
Theo quan điểm khoa học đương đại: Tài chính là các quan hệ lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể khác nhau được biểu hiện bằng tiền.
Bản chất là quan hệ lợi ích kinh tế.
Phương thức quan hệ: Thông qua các hoạt động cụ thể như: tham gia đầu tư, sản
xuất, phân phối theo các quan hệ tỷ lệ hoặc khuôn khổ giới hạn nhất định.
Nội dung quan hệ lợi ích: Doanh thu, lợi nhuận, lợi tức, thuế.
Hình thức biểu hiện lợi ích: Được đo bằng tiền dưới nhiều loại phương tiện khác
nhau như: tiền mặt, tiền trên tài khoản, tiền điện tử, các loại giấy tờ có giá thông qua
các công cụ chủ yếu là lãi suất, tỷ giá, giá cả.
1.1.2. Khái niệm tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính trong tiếng Anh được gọi là Financial Liberalization.
Tự do hóa tài chính là một khái niệm rộng và đa đạng, tuy nhiên có thể hình dung
được vấn đề qua khái niệm sau đây:
- Thứ nhất, tự do hóa tài chính đó là sự xóa bỏ đi các hạn chế, định hướng hay
ràng buộc trong quá trình phân bổ nguồn lực tín dụng. Mọi điều tiết trong quá trình
phân bổ này được đặt trên nền tảng cơ chế giá; nghĩa là các tổ chức tài chính được
quyền tự do xác định lãi suất – tiền gửi và cho vay.
- Điều này cũng bao hàm việc xóa bỏ mức trần lãi suất cũng như các ràng buộc
khác trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được (ví dụ như các khoản tín dụng ưu
đãi).
- Thứ hai, tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh tranh trong
các hoạt động tài chính mang tính chất trung gian, điều này đồng nghĩa với việc chấm
dứt sự phân biệt đối xử về pháp lí giữa những loại hình hoạt động khác nhau.
- Hay theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF): "Tự do hoá tài chính là quá trình giảm
thiểu và cuối cùng là huỷ bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ
thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn
theo quy luật thị trường".
1.2. Phân loại tự do hóa tài chính
Chia theo chiều dọc thì tự do hoá tài chính chủ yếu hàm ý tự do hóa trên thị
trường tiền tệ và tự do hóa trên thị trường vốn. Chia theo chiều ngang, tự do hóa tài

1
chính được phân làm hai cấp độ: Tự do hóa tài chính nội địa hay tự do hoá tài chính
trong nước và tự do hóa tài chính quốc tế hay tự do hóa tài chính với nước ngoài.
- Tự do hóa tài chính trong nước: Cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự
do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính
trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ được điều
hành theo tín hiệu thị trường.
Trước tự do hóa, nhà nước nắm giữ toàn bộ hệ thống ngân hàng và các công ty
bảo hiểm. Do đó, ngoài hình thức sở hữu nhà nước, không có một hình thức sở hữu
nào khác. Quá trình tự do hóa đưa đến sự song song tồn tại giữa khu vực nhà nước và
khu vực tư nhân. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, định chế
khác của nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty bảo hiểm, công ty
tài chính dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau được thành lập. Phạm vi hoạt động
của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính này cũng không bị hạn chế. Tư nhân hóa ở
mức độ hợp lý là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của tiến trình tự do
hóa nội bộ.
- Tự do hóa tài chính với nước ngoài: Loại bỏ kiểm soát vốn, và các hạn chế
trong quản lý ngoại hối bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao dịch
vốn. Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất và cần thiết phải kiểm soát
quá trình tự do hóa lãi suất, cụ thể là:
+ Xác định thời điểm bắt đầu và tốc độ tự do hóa lãi suất căn cứ vào những
tiến bộ đạt được trong cải cách khu vực doanh nghiệp nước ngoài và khu vực ngân
hàng.
+ Quyết định lộ trình và trật tự tiến hành tự do hóa lãi suất của các công cụ tài
chính khác nhau để không gây ảnh hưởng xấu tới hệ thống ngân hàng.
+ Ngân hàng Trung ương cần có chiến lược chỉ đạo chính sách tiền tệ trong
khuôn khổ hệ thống tài chính đã tự do hóa.
+ Chuẩn bị những công cụ tài chính mới sau khi thực hiện tự do hóa tài chính.
Mở cửa cạnh tranh đòi hỏi cho phép các chủ thể nước ngoài hoạt động trên lãnh
thổ quốc giá (đều được người ta gọi là quyền thành lập), tạo cho các chủ thể này
những điều kiện hoạt động như những chủ thể trong nước. Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa là chấm dứt mọi quy định hay giám sát các hoạt động cung cấp dịch vụ. Tự
do hóa đòi hỏi phải tăng cường cơ sở hạ tầng quy chế và các cơ quan giám sát.
1.3. Bản chất của tự do hóa tài chính
Thực chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính tuân theo cơ chế vốn có
của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ nhà nước sang thị trường, mục
tiêu là tìm kiếm sự phối hợp hiệu quả giữa nhà nước và thị trường trong việc thực hiện
2
các chính sách xã hội ... mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế. Do đó, kết quả của tự do hóa tài
chính thường được thể hiện bằng tỷ lệ tăng cung tiền (tiền gửi và tiền mặt tại các ngân
hàng thương mại) trên thu nhập quốc dân.
Ngoài ra, tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc
về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này
được thay thế bởi một cơ chế tỷ giá: Tự do hóa mang lại cho các định chế tài chính
quyền tự do xác định mức lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi suất.
Trên lý thuyết, tự do hóa dẫn đến chấm dứt các mức lãi suất trần lãi suất cũng như
những ràng buộc trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động được. Tự do hóa cũng
chấm dứt những kênh cấp vốn ưu đãi.
Ngoài việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm
dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh tế cũng được xem là một
khía cạnh của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên tự do hóa tài chính không có nghĩa là
chấm dứt mọi quy định hay giám sát của hoạt động tài chính. Ngược lại tự do hóa đồi
hỏi phải tăng cường cơ sở hạ tầng quy chế và các cơ quan giám sát. Việc đặt ra các
quy định là cần thiết để đảm bảo cho sự vận hàng hiệu quả của các thị trường tài chính
và ngân hàng.
1.4. Nội dung của tự do hóa tài chính
Bao gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại, tự do hóa giao dịch vốn, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính
trên thị trường tài chính.
1.4.1. Tự do hóa lãi suất
Tự do hoá lãi suất trong tiếng Anh được gọi là Interest Rate Liberalization.
Khái niệm: Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính.
Tự do hoá lãi suất là cơ chế lãi suất trong đó có rất ít hoặc không có sự can thiệp của
các cơ quan chức năng vào việc hình thành lãi suất mà lãi suất được hình thành trên cơ
sở thị trường, vận động theo qui luật cung cầu.
Biểu hiện: Tự do hoá lãi suất là hạt nhân của quá trình tự do hóa tài chính. Tự do
hóa lãi suất thể hiện bằng việc cho phép các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng được tự do quyết định mức lãi suất huy động vốn và cho vay; ngân hàng trung
ương sử dụng cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp thay cho cơ chế điều hành lãi suất
trực tiếp.
1.4.2. Tự do hóa tỷ giá
Tỷ giá là giá cả của tiền và phản ánh tổng hòa tương quan mức giá chung xã hội
trên thị trường trong nước so với thị trường nước ngoài.

3
Khái niệm: Tự do hóa tỷ giá là một quá trình tiến tới cho phép tỷ giá được xác
định dựa trên quan hệ cung cầu thị trường.
Biểu hiện: Tự do hóa tỷ giá được thể hiện ở một số khía cạnh: bỏ việc ấn định tỷ
giá, các biện pháp quản lý hành chính về ngoại tệ được loại bỏ và các công cụ mang
tính thị trường được sử dụng, tỷ giá được xác định dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ.
1.4.3. Tự do hóa giao dịch vốn
Giao dịch vốn là những giao dịch liên quan đến chuyển dịch vốn giữa người cư
trú và người không cư trú của một quốc gia.
Khái niệm: Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp
dụng đối với những giao dịch này. Tự do hóa giao dịch vốn cho phéo các dòng vốn
vào ra được lưu chuyển tự do theo nguyên tắc thị trường (các dòng vốn được tự do lưu
chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao). Các hoạt động
này diễn ra tự nhiên không hạn chế bởi biên giới quốc gia mà theo hướng giảm tối đa
sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường.
Biểu hiện:
- Cho phép người không cư trú sở hữu các tài sản tài chính trong nước ở cả đang
giấy tờ nợ hoặc cổ phiếu
- Cho phép người người cư trú nắm giữ tài sản tài chính nước ngoài.
- Cho phép cả người cư trú và người không cư trú được tự do nắm giữ và trao đổi
các tài sản tài chính trên thị trường nội địa. Đây là mức độ cao nhất của tự do hóa các
giao dịch vốn, đồng thời cũng là mức độ cao nhất của tự do hóa tài chính.
1.4.4. Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác
trên thị trường tài chính
Khái niệm: Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài
chính khác trên thị trường tài chính nghĩa là xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của chính
phủ vào quá trình hoạt động các tổ chức này, để các tổ chức này hoạt động theo quy
luật thị trường.
Biểu hiện:
- Loại bỏ kiểm soát lãi suất.
- Giảm dự trữ bắt buộc.
- Giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước đối với các quyết định cho vay của các
ngân hàng, xóa bỏ tín dụng chỉ định đối với các ngân hàng thương mại.
- Tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh.
- Sự mở rộng hơn nữa các định chế tài chính trong nước và gia nhập của các tổ
chức của các tổ chức tài chính nước ngoài tăng lên.

4
1.5. Nhân tố tác động và điều kiện cần thiết dẫn đến thành công của quá trình tự
do hóa tài chính
1.5.1. Nhân tố tác động
- Sự phát triển của ngành công nghệ thông tin
Với sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, cơ hội trao đổi xuyên biên giới
ngày càng nhiều. Sự ra đời của các sản phẩm thông tin, đặc biệt là Internet, đã làm
giảm chi phí giao dịch, cung cấp các kênh mới cho thương mại và hạ thấp các rào cản
gia nhập đối với các doanh nghiệp nhỏ, ở xa về mặt địa lý. Các doanh nghiệp có thể
được liên lạc trên toàn thế giới.
- Nhu cầu xây dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh và hiệu quả
Chính phủ các nước ngày càng nhận ra rằng chủ nghĩa bảo hộ không phải là cách
tốt nhất để đạt được các mục tiêu và chính sách của họ. Sự can thiệp bóp méo thị
trường của chính phủ đã dẫn đến việc phân bổ vốn không hiệu quả, dẫn đến nhiều
khoản nợ xấu, khiến các trung gian tài chính dễ bị tổn thương. Mặt khác, phát triển
kinh tế đòi hỏi các thể chế tài chính mạnh và hiệu quả và đáng tin cậy để tăng niềm tin
của người tiêu dùng và nhà đầu tư và buộc các chính phủ phải thực hiện nhiều cải cách
thị trường để mở rộng. Cải cách theo hướng này sẽ giúp các quốc gia thu được nhiều
lợi ích lớn. Điều này củng cố xu hướng hướng tới tự do hóa ở cấp độ toàn cầu.
- Xét khía cạnh khách quan: Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế là nhân tố thúc đẩy
tự do hóa tài chính
- Xét khía cạnh chủ quan: Tự do hóa tài chính còn bị tác động bởi ý muốn chủ
quan của chính các quốc gia trong việc điều hành nền kinh tế.
1.5.2. Điều kiện để tự do hóa thành công
Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng
bước các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt
Nam muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh
hoạt.
Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:
- Cơ chế thị trường được vận hành tốt;
- Môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh;
- Sự đầy đủ và đồng bộ của khuôn khổ pháp lý;
- Ổn định đáng tin cậy;
- Năng lực, sự phát triển của các định chế tham gia thị trường;
- Năng lực quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc của chính phủ và tiết kiệm quốc gia
cao;

5
- Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế;
- Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả;
- Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc yêu cầu dự trữ, phân hạng tài sản
và báo cáo, phân tán rủi ro … Việc giám sát chặt chẽ sẽ giúp tránh nguy cơ xảy ra
khủng hoảng ngân hàng. Ở Chi lê do việc thiếu giám sát dẫn đến cuộc khủng hoảng
ngân hàng vào giai đoạn 1981 - 1983.

6
CHƯƠNG 2. NHỮNG KHÍA CẠNH VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

2.1. Điểm mạnh, điểm yếu của tự do hóa tài chính


2.1.1. Điểm mạnh
- Thứ nhất, tự do hóa tài chính sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh, giúp khu vực dịch
vụ tài chính hoạt động hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp nâng cao năng lực hoạt
động của các tổ chức tài chính trong nước.
- Thứ hai, tự do hóa tài chính sẽ cải thiện hơn nữa chất lượng của các dịch vụ tài
chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng
những sản phẩm dịch vụ mới đa dạng tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
- Thứ ba, tự do hóa các dịch vụ tài chính mang lại nhiều cơ hội chuyển giao công
nghệ và giảm thiểu rủi ro hệ thống.
- Thứ tư, tự do hóa các dịch vụ tài chính tạo điều kiện thiết lập các chính sách
kinh tế vĩ mô hiệu quả. Điều này phù hợp với điều kiện của một nền kinh tế mở, dựa
trên cơ sở phân bổ nguồn lực trên cơ sở sử dụng tốt nhất các lợi ích kinh tế trong nước
và quốc tế. Kết quả của nhiều nghiên cứu này cho thấy những lợi ích trên có tồn tại.
Một nghiên cứu năm 1997 của các nhà kinh tế do Ban thư ký WTO ủy quyền cho thấy
việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở các quốc gia có chính sách mở cửa sẽ có tác
động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế, tăng cường cạnh tranh và tăng hiệu quả. Điều
này giúp giảm đáng kể chi phí dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa các
loại hình dịch vụ và cung cấp cho khách hàng lộ trình tiếp cận dịch vụ nhanh nhất.
Việc mở cửa thị trường tài chính tại các quốc gia này cũng sẽ giúp tạo ra nhiều cơ hội
hơn cho các nhà đầu tư bằng cách củng cố các trung gian tài chính, nâng cao hiệu quả
hoạt động và giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở hầu hết các
nước cũng góp phần thúc đẩy Chính phủ các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản
lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách thức can thiệp vào thị trường đồng thời thúc đẩy
việc hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của Chính phải đối
với những lĩnh việc này.
- Thứ năm, tự do hóa tài chính sẽ giúp phân bổ nguồn lực hiệu quả cả trong nước
và toàn cầu. Tự do hóa lãi suất là quá trình mà các lực lượng thị trường xác định giá
của nguồn lực quan trọng nhất, đó là vốn. Do đó, nguồn lực khan hiếm này được phân
bổ cho những người đi vay hiệu quả nhất. Sự di chuyển tự do của vốn cho phép phân
bổ tiết kiệm toàn cầu hiệu quả hơn, hướng các nguồn lực đến những mục đích sử dụng
hiệu quả nhất.
- Thứ sáu, tự do hóa tài chính thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Sự đa dạng của các tổ chức và sản phẩm tài chính càng lớn thì hệ thống tài chính càng

7
hiệu quả và càng có nhiều khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Mức độ
chuyên nghiệp, quy mô và hiệu quả cao do cạnh tranh mang lại mang lại lợi ích cho
người tiêu dùng dưới dạng sản phẩm chất lượng cao, giá thành thấp. Điều này sẽ kích
thích tăng tiết kiệm quốc gia. Thanh khoản vốn cho phép các nhà đầu tư đạt được lợi
nhuận cao hơn. Tỷ lệ hoàn vốn cao hơn khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, điều này có
thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh hơn.
- Thứ bảy, tự do hóa tài chính sẽ giúp thúc đẩy cải cách quốc gia và nâng cao
chất lượng tăng trưởng. Mở cửa, hội nhập kinh tế nói chung và tự do hóa tài chính nói
riêng sẽ buộc các quốc gia phải cải cách và thích ứng với các chuẩn mực tiên tiến
chung của thế giới. Quá trình cải cách cần diễn ra trên tất cả các mặt, khung pháp lý
cần được thay đổi, bổ sung, hoàn thiện theo luật chơi chung…
- Thứ tám, tự do hóa tài chính tránh được chi phí kiểm soát vốn. Cho dù có hiệu
lực hay không, vẫn có những chi phí liên quan đến việc sử dụng các biện pháp kiểm
soát vốn. Trong quá trình tự do hóa, những chi phí này sẽ tránh được.
2.1.2. Điểm yếu
Ngoài những tác động tích cực nêu trên, quá trình tự do hóa tài chính sẽ làm cho
thị trường tài chính quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, dễ bị tổn thương
hơn trước các yếu tố rủi ro. Đặc biệt:
- Đầu tiên, tự do hóa tài chính có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng tài
chính. Mối lo ngại này bắt nguồn từ hai vấn đề:
+ Việc mở cửa thị trường tài chính trong nước chưa phát triển đầy đủ rất dễ bị
tấn công tài chính từ bên ngoài.
+ Hội nhập tài chính làm tăng nguy cơ phản ứng dây chuyền từ thị trường
nước ngoài tới khu vực tài chính trong nước.
Tự do hóa tài chính có thể làm tăng khả năng xảy ra khủng hoảng nếu quá trình
tự do hóa được tiến hành vội vàng, sai trình tự hoặc không có các biện pháp kiểm soát
vĩ mô ở cấp độ quốc gia và quốc tế
Mở cửa thị trường tài chính và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã từng là nỗi
ám ảnh tưởng như có mối quan hệ nhân quả đối với các nước thi hành chính sách này
trong khoảng thời gian trước đây. Do vậy, nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân
hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí,
nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hóa tài chính.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường tài chính không
phải là nguyên nhân thực sự duy nhất của các cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng.
Liệu cải cách và tự do hóa hệ thống tài chính có chỉ phơi bày và làm trầm trọng thêm
những yếu kém vốn đã tiềm ẩn trong các thể chế và chính sách kinh tế vĩ mô, từ đó
8
làm tăng nguy cơ khủng hoảng tài chính? Trên thực tế, việc mở cửa các cải cách tài
chính được thực hiện ở các quốc gia này đã không ngăn cản hoặc làm tổn hại đến
những lợi ích thực sự, mà chỉ giúp phơi bày những điểm yếu trong hệ thống tài chính
trong nước trước những mối đe dọa tiềm ẩn đối với hệ thống tài chính quốc tế.
- Thứ hai, tự do hóa tài chính có thể tước đi quyền điều tiết thị trường tài chính
của chính phủ. Bởi khi xảy ra biến cố, Chính phủ buộc phải hy sinh một số mục tiêu
kinh tế xã hội, siết chặt ngân sách, giảm các chỉ tiêu tăng trưởng và chương trình xã
hội, chấp nhận hỗ trợ giúp nước ngoài … Bên cạnh đó, tài chính thường được coi là
công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để
tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia.
- Thứ ba, tự do hóa tài chính có thể dẫn đến việc các thế lực bên ngoài thao túng
thị trường tài chính trong nước, đặc biệt là do khả năng cạnh tranh của hệ thống tài
chính trong nước đang giảm sút. Khi các công ty, tổ chức và doanh nghiệp nước ngoài
thao túng thị trường tài chính, họ sẽ tác động đến các chính sách của chính phủ và làm
cho các chính sách đó có lợi hơn. Ngoài ra, thị trường tài chính trong nước có thể trở
nên nhạy cảm hơn với những biến động của thị trường tài chính quốc tế, dẫn đến bất
ổn chính trị trong nước.
-Thứ tư, tự do hóa tài chính có thể dẫn đến rủi ro tỷ giá hối đoái, hay đúng hơn là
rủi ro phá giá đồng nội tệ, do chính sách tỷ giá hối đoái không phù hợp và sự dễ dàng
mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển vốn ra nước ngoài.
- Thứ năm, tự do hóa tài chính dẫn đến rủi ro rút tiền mặt do không có biện pháp
kiểm soát dòng vốn ngắn hạn.
- Thứ sáu, rủi ro vỡ nợ do tín dụng ngắn hạn được sử dụng để đầu tư dài hạn, như
trường hợp gần đây ở Thái Lan. Rủi ro này càng trầm trọng hơn do sự biến động của
tỷ giá hối đoái, giá bất động sản, đặc biệt là giá trị tài sản đảm bảo khoản vay ngân
hàng và giá chứng khoán.
2.2. Cơ hội và thách thức của tự do hóa tài chính
2.2.1. Cơ hội và lợi ích của tự do hóa tài chính
Tự do hóa thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, được thể hiện một cách
minh bạch và có cơ chế chính sách ổn định, sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi khác
nhau cho các quốc gia, cho bản thân lĩnh vực tài chính và cho các ngành liên quan và
nền kinh tế nói chung. Lợi ích của việc tự do hóa các hoạt động thương mại trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính có thể được nhìn thấy từ nhiều góc độ:
- Thứ nhất, ở cấp quốc gia, một hệ thống tài chính mạnh và sôi động có ý nghĩa
đặc biệt rất quan trọng đối với một nền kinh tế hội nhập nhằm tạo cơ sở cho thương
mại hàng hóa và dịch vụ đa dạng. Cam kết về dịch vụ tài chính sẽ giúp các nhà cung

9
cấp dịch vụ tài chính và các quốc gia trở nên hấp dẫn hơn, thu hút đầu tư thông qua các
kênh thương mại điện tử và công nghệ hỗ trợ. Và tạo điều kiện thúc đẩy thương mại
quốc tế.
Thương mại quốc tế vào thời điểm nhất định giúp một quốc gia có khả năng tiêu
dùng lớn hơn khả năng sản xuất. Về lâu dài, thương mại quốc tế giúp các nước trao đổi
hàng hóa, nguồn lực, phục vụ cho phát triển kinh tế.
Thương mại giữa các quốc gia thực chất là trao đổi ngang giá. Vì vậy, một giao
dịch thương mại bao giờ cũng có hai mặt: chuyển giao hàng hóa dịch vụ và thanh toán.
Tự do hóa tài chính thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho
mặt hàng thứ hai thông qua tự do chuyển tiền, tự do mua các tài sản ngoại tệ từ các
nguồn thu xuất khẩu, chủ động bảo hiểm tỷ giá
- Thứ hai, việc tự do hóa các dịch vụ tài chính tạo ra cơ hội việc làm, giải quyết
nạn thất nghiệp và phát triển lực lượng lao động trong các ngành dịch vụ phụ thuộc.
- Thứ ba, việc tự do hóa các dịch vụ tài chính cũng thúc đẩy tăng trưởng và tiếp
cận các công nghệ mới. Nó đã phát triển các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, hoạt động
chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ thông tin tài chính.
- Thứ tư, một thuận lợi khác của tự do hóa là các thị trường hội nhập đóng một
vai trò quan trọng trong việc xuất khẩu các dịch vụ tài chính. Ví dụ, Trung Quốc,
Hồng Kông, Singapore, Mexico và Brazil là những nhà cung cấp dịch vụ tài chính đa
dạng trong khu vực và quốc tế.
- Thứ năm, tự do hóa tài chính sẽ nâng cao hơn nữa chất lượng của các dịch vụ
tài chính được cung cấp. Đa dạng hóa sự lựa chọn, tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho
người tiêu dùng. Công ty được tiếp cận với các dịch vụ tốt hơn và giá cả rẻ hơn. Đồng
thời, trên cơ sở cạnh tranh lẫn nhau, lĩnh vực dịch vụ tài chính của hầu hết các nước
cũng góp phần thúc đẩy chính phủ các nước sở tại cải tiến phương thức điều hành kinh
tế vĩ mô, sửa đổi cách thức can thiệp vào thị trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn
thiện hành lang pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của Chính phủ đối với khu vực
dịch vụ này.
- Thứ sáu, theo nhiều nghiên cứu, tự do hóa tài chính có tác động đầu tiên và
mạnh mẽ đến hệ thống ngân hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống tài
chính quốc gia. Việt Nam có lợi thế mạnh và ưu thế hẳn so với các ngân hàng nước
ngoài nhờ mạng lưới chi nhánh rộng khắp, quan hệ khách hàng truyền thống và quan
trọng nhất là sự thấu hiểu tâm lý khách hàng thông qua những hiểu biết văn hóa mà
các ngân hàng nước ngoài không có được. Vì vậy, sự tham gia của các ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam sẽ tạo động lực để các ngân hàng Việt Nam nhanh chóng cải thiện
hoạt động của mình bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính cũng như đổi mới, hoạt

10
động và quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Ngành dịch vụ tài chính ở bất kỳ
quốc gia nào cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu các biện pháp bảo hộ bị dỡ bỏ đã thúc đẩy các
nhà cung cấp hoạt động với chi phí cao và lợi nhuận cao trong nhiều năm. Giao tiếp dễ
dàng hơn và việc dỡ bỏ các hạn chế vay và gửi tiền ở nước ngoài đã buộc các ngân
hàng quốc gia phải cắt giảm chi phí, ít nhất là đối với các ngân hàng lớn, và buộc họ
phải cải thiện chất lượng dịch vụ nếu không muốn mất vị trí của mình. Trong sự cạnh
tranh khốc liệt này, tất yếu sẽ có các tổ chức bị loại ra khỏi cuộc chiến do không đủ
sức mạnh hoặc không chịu đổi mới để thích nghi với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên, những
tổ chức còn tồn tại được sẽ có một sức mạnh mới lớn hơn trước kia rất nhiều, không
những đủ cạnh tranh trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường quốc tế. Bên cạnh
đó, sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài nổi tiếng thường kéo theo sự hiện diện
của mình tại các trung tâm tài chính tiên tiến để có thể cạnh tranh được với các dịch vụ
tài chính quốc tế mà các ngân hàng nước ngoài đang cung cấp cho khách hàng trong
nước thì các ngân hàng sẽ phải tìm cách xin giấy phép hoạt động tại các trung tâm nói
trên. Để làm được điều đó, thay vì thỏa mãn với các quy định trong nước tương đối
lỏng lẻo, các ngân hàng này sẽ gây áp lực với các nhà điều tiết trong nước phải nâng
cấp các quy định đó, như trường hợp Mê-xi-cô trong bối cảnh hiệp định tự do Bắc Mĩ.
Kết quả là, hệ thống tài chính đã được nâng cao tính cạnh tranh cả ở quy chế điều
tiết lẫn các thành phần tham gia hệ thống.
- Thứ bảy, tự do hóa tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ giúp cho người dân
trong nước tự do lựa chọn các dịch vụ bảo hiểm từ người cung cấp tốt nhất, hạn chế
dần sự bất cân xứng thông tin giữa người mua và người bán. Trong giao dịch chứng
khoán, việc tự do hóa các dịch vụ tài chính cùng với việc nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ
phần của người nước ngoài có thể giúp vực dậy thị trường Việt Nam vốn rất ảm đạm
trong những năm gần đây.
2.2.2. Thách thức của tự do hóa tài chính
- Thứ nhất, về trình độ công nghệ cho thấy các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính
nước ngoài luôn có ưu thế nổi trội hơn so với các tổ chức dịch vụ tài chính trong nước.
Chính vì vậy, chất lượng sản phẩm, kênh phân phối, các sản phẩm tiện ích và hệ thống
chăm sóc khách hàng luôn đạt được chất lượng cao nhất.
- Thứ hai, các tổ chức tài chính nước ngoài có ưu thế về nguồn chất xám, về khả
năng thu hút và đào tạo nguồn nhân lực, trong khi đó các tổ chức tài chính trong nước
không có được. Chúng ta có thể thấy rõ nét các khía cạnh như chế độ đãi ngộ, môi
trường làm việc, cơ hội thăng tiến và học tập mà người lao động có được khi họ làm
việc cho các tổ chức tài chính quốc tế.

11
- Thứ ba, về tiềm lực tài chính là một khía cạnh bất cân xứng giữa các tổ chức tài
chính trong nước và ngoài nước. Có thể thấy rõ nét, các tổ chức tài chính của Việt
Nam có quy mô nhỏ và hoạt động rời rạc chưa hình thành được các tập đoàn tài chính
lớn và có quy mô cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế.
- Thứ tư, các tổ chức tài chính trong nước chưa áp dụng đồng bộ và quán triệt các
tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế. Vì vậy, việc hòa nhập vào môi trường quốc tế chuyên
nghiệp chưa được thực hiện sâu rộng trong tiến trình hội nhập. Từ đó khả năng thu hút
nguồn lực tài chính với chi phí thấp, địa vị thương mại trên thị trường quốc tế chưa đạt
được hiệu quả cao.
- Thứ năm, các sản phẩm tài chính phái sinh là khái niệm khá mới mẻ trong hệ
thống ngân hàng nước ta và hầu như chúng được nghiên cứu và phát triển không đồng
bộ trong một số tổ chức tài chính đơn lẻ. Vì vậy, khả năng cạnh tranh về các sản phẩm
tài chính phái sinh rất thấp và đây cũng được coi là lĩnh vực cực kỳ nguy hiểm đối với
các tổ chức tài chính và nền kinh tế. Do đó, chúng ta cần phải đánh giá hết mức độ
phức tạp và tinh vi của giao dịch sản phẩm phái sinh, tránh hiện tượng đầu cơ, độc
quyền chiếm lĩnh thị trường của các tổ chức tài chính nước ngoài và từng bước nâng
cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tài chính trong nước.
- Thứ sáu, tự do hóa tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây khủng hoảng
tài chính nếu tiền trình tự do hóa được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc
thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.

12
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CẢI CÁCH VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM

3.1. Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính và những bài học rút ra đối với
Việt Nam
Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử lý ngay từ
đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính – ngân hàng, góp
phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng.
Các biện pháp tự do hóa tài chính thường là nguyên nhân thực sự của các cuộc khủng
hoảng tài chính.
Có nhiều cách tiếp cận để tự do hóa tài chính. Trong đó, các nước OECD đang
tập trung vào tự do hóa các dòng vốn, đầu tiên là tự do hóa đầu tư nước ngoài trực
tiếp, cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn; ADB sẽ dựa vào rủi ro để đánh giá và xây
dựng lộ trình tự do hóa tài chính với mục tiêu cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn;
Cách tiếp cận của IMF cũng khá phức tạp, tính đến tất cả các vấn đề cải cách vi mô, cơ
cấu, xây dựng thể chế, các chính sách kinh tế vĩ mô và cơ chế tỷ giá hối đoái để tạo ra
một lộ trình tự do hóa.
Đối với Trung Quốc, một lộ trình tự do hóa tài chính đã được xây dựng dựa trên
cách tiếp cận của ADB. Nhiệm vụ mở cửa thị trường tài chính của Trung Quốc dựa
trên việc nhận ra những điểm yếu trong hệ thống tài chính ngân hàng, đánh giá mức độ
rủi ro và thực hiện tự do hóa một cách thận trọng, thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
trước, sau đó thúc đẩy đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán và cuối
cùng là tự do hóa. nợ nước ngoài, cụ thể là:
- Giải quyết nợ xấu để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng;
- Xây dựng thể chế để có hệ thống luật pháp công khai minh bạch;
- Từng bước tự do hóa tài chính nội địa;
- Từng bước tự do hóa lãi suất;
- Tổ chức lại và củng cố các tổ chức tín dụng để tăng cường năng lực cạnh tranh;
- Thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng linh hoạt hơn;
- Giải quyết khó khăn tài khóa để giảm bớt tình trạng thất nghiệp.
Tự do hóa tài khoản vốn là mục tiêu cuối cùng, nhưng Trung Quốc vẫn chưa đủ
điều kiện nên cần thực hiện với sự giám sát hạn chế, đặc biệt đối với dòng vốn ngắn
hạn vào và ra thị trường chứng khoán. Trong quản lý nợ nước ngoài, chính phủ xác
định hạn mức nợ trung và dài hạn hàng năm, xác định thời hạn hoàn trả khoản vay và
loại khoản vay, đồng thời phân bổ chúng cho các ngành và khu vực.

13
Trong quá trình tự do hóa tài chính, việc kiểm soát dòng vốn được nhiều quốc gia
đặc biệt quan tâm, nhằm mục đích đảm bảo tính chủ động của chính sách tiền tệ và
giảm bớt áp lực đối với tỷ giá hối đoái. Kiểm soát dòng vốn cũng nhằm bảo vệ sự ổn
định tài chính, tiền tệ trước tình trạng các dòng vốn chảy vào đang diễn ra mạnh mẽ,
đặc biệt là các dòng vốn ngắn hạn có nguy cơ lạm phát. Tuy nhiên, kiểm soát dòng
vốn cũng có mặt hạn chế của nó:
- Kiểm soát luồng vốn, nhất là những hạn chế toàn diện được áp dụng, có thể gây
trở ngại cho các giao dịch vốn và giao dịch vãng lai;
- Các biện pháp kiểm soát có thể đòi hỏi chi phí hành chính khá lớn nhằm đảm
bảo thực thi có hiệu quả;
- Các biện pháp kiểm soát vốn nhằm bảo vệ thị trường trong nước có thể dẫn đến
việc trì hoãn điều chỉnh những chính sách cần thiết;
- Các biện pháp kiểm soát vốn có thể làm nảy sinh những nhận thức tiêu cực về
thị trường, quốc gia áp dụng phải tốn kém hơn và khó khăn hơn trong việc tiếp cận
nguồn vốn nước ngoài.
Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy, việc kiểm soát luồng vốn ra thường được
quan tâm nhiều hơn. Sau khủng hoảng (rối loạn) tài chính, một số nước như Tây Ban
Nha, Malaysia, Thái Lan tái thực hiện kiểm soát luồng vốn ra trước áp lực lớn về tỷ
giá, mục tiêu là ngăn chặn đầu cơ và ổn định thị trường ngoại hối trong bối cảnh dự trữ
ngoại hối giảm mạnh, các cơ quan tiền tệ trong nước có khoảng thời gian nhất định để
khắc phục những mất cân bằng về kinh tế vĩ mô và thực hiện cải cách hệ thống ngân
hàng. Trong đó, Tây Ban Nha phải thỏa thuận với các nước thành viên trong hệ thống
về quyết định thay đổi tỷ giá, Thái Lan áp dụng cơ chế “neo” tỷ giá tại thời điểm áp
đặt kiểm soát, Malaysia thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước.
Nhằm hạn chế luồng vốn ra, Malaysia thực hiện đánh thuế vào lợi nhuận từ đầu tư
gián tiếp không kể cổ tức và lãi thu được, thu nhập liên quan đến các giao dịch vãng
lai và các luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài; Thái Lan yêu cầu các tổ chức tài chính
hạn chế và đình chỉ các giao dịch với người không cư trú (bao gồm cho vay đồng baht
qua giao dịch hoán đổi, giao dịch kỳ hạn về đồng baht và bán đồng baht lấy ngoại tệ),
phải thanh toán bằng đô la Mỹ đối với giao dịch mua hối phiếu bằng đồng baht trước
kỳ hạn và những công cụ nợ khác, cấm các nhà đầu tư cổ phiếu nước ngoài chuyển
vốn về nước bằng đồng baht (nhưng được tự do chuyển vốn bằng ngoại tệ), người
không cư trú phải áp dụng tỷ giá nước ngoài khi chuyển đổi lợi nhuận bằng đồng baht
thu được từ việc bán chứng khoán.
Về kiểm soát luồng vốn ra, kinh nghiệm của các nước cho thấy:

14
- Để đảm bảo hiệu quả, các kiểm soát phải toàn diện và cần được tiến hành một
cách bắt buộc đồng thời với cải cách và điều chỉnh chính sách cần thiết. Hiệu quả của
những kiểm soát này dường như bị hạn chế trong những thị trường phức tạp;
- Bên cạnh những tác động tích cực, các biện pháp kiểm soát có thể dẫn đến phản
ứng tiêu cực hơn từ các thị trường tài chính quốc tế và làm suy giảm lòng tin của các
nhà đầu tư quốc tế;
- Các kiểm soát không có tác dụng bảo vệ kéo dài khi phải đối mặt với động cơ
tránh kiểm soát, nhất là chênh lệch thu nhập hấp dẫn và kỳ vọng lớn của thị trường vào
việc giảm tỷ giá hối đoái;
- Khả năng kiểm soát hoạt động thị trường nước ngoài có thể là phương tiện để
hạn chế luồng vốn vào và ngăn chặn các áp lực đầu cơ;
- Các biện pháp hiệu quả hạn chế rủi ro của các giao dịch hợp pháp, bao gồm đầu
tư trực tiếp nước ngoài và các giao dịch phòng ngừa liên quan đến thương mại, nhưng
có thể làm tăng chi phí tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
Đối với Việt Nam, quá trình tự do hóa tài chính cần được thực hiện theo những
định hướng cơ bản sau:
- Tự do hóa tài chính phải được tiến hành theo lộ trình thích hợp, đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững;
- Tự do hóa phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá và được tiến hành
trước một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế;
- Tự do hóa tài chính phải chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo an
ninh tiền tệ quốc gia;
- Tự do hóa tài chính phải được tiến hành cùng với việc tự do hóa kinh tế và
thương mại.
3.2. Thực trạng cải cách và tự do hóa tài chính ở Việt Nam
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm
1986, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Theo đó, hệ thống
ngân hàng cũng không ngừng được cải cách nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ và sử
dụng các nguồn lực tài chính. Hiệu quả tức thời và kết quả của quá trình này là tiền tệ
hóa sâu sắc các nguồn lực kinh tế và các quan hệ kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là cải
cách kinh tế đã, đang và sẽ tiếp tục gắn chặt với tự do hóa tài chính trong mối quan hệ
hỗ trợ lẫn nhau, mở ra tiềm năng và cơ hội phát triển cho hệ thống ngân hàng.
Với sự ra đời của Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về Ngân hàng,
hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5 năm 1990) đã dẫn đến sự hình thành

15
hệ thống ngân hàng hai cấp. Theo đó, ngân hàng thương mại thực hiện nhiệm vụ kinh
doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng; Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và chức năng của Ngân hàng Trung ương. Cho đến nay, hệ
thống pháp luật ngân hàng đã được hoàn thiện một cách cơ bản với việc ban hành Luật
Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng vào tháng 12 năm 1997. Quá trình
tự do hóa tài chính đã diễn ra theo từng giai đoạn cụ thể và đã đạt được những kết quả
đáng khích lệ, bao gồm:
- Hình thành và phát triển hệ thống điều hành tiền tệ dựa trên cơ sở thị trường với
hệ thống các công cụ gián tiếp;
- Chính sách tiền tệ được đổi mới căn bản và có trật tự theo hướng tăng cường
các công cụ và phương thức điều hành gián tiếp, phù hợp với sự phát triển của các tổ
chức và cơ sở hạ tầng tài chính;
- Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và đã được tự do hóa theo cơ
chế thị trường (từ lãi suất áp đặt sang “trần – sàn”, đến khống chế trần và cuối cùng là
lãi suất thỏa thuận);
- Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ nhiều loại giấy
phép theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập quốc tế, bước
đầu đã đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính, của Luật Doanh nghiệp trong
việc phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tạo ra sự thông thoáng hơn
cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối đã được
tiến hành theo hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần
trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho
doanh nghiệp và người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp ngân hàng nhà
nước có điều kiện tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách theo mô hình ngân hàng
trung ương hiện đại;
- Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều chỉnh, đến
tỷ giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường;
- Từ tháng 12/2005, các giao dịch vãng lai đã được tự do hóa hoàn toàn và các
giao dịch vốn đã được nới lỏng đáng kể với việc ban hành Pháp lệnh Ngoại hối. Hiện
nay, các giao dịch vốn, nhất là dòng vốn ra vẫn được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm
bảo sự ổn định của hệ thống tài chính và giảm thiểu rủi ro do việc rút vốn ồ ạt ra nước
ngoài;
- Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối tượng
khách hàng sang tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế và tách bạch hoạt động
cho vay chính sách với cho vay thương mại;

16
- Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần kinh tế và tổ
chức tài chính trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ hoạt động cung ứng dịch vụ
độc quyền của ngành ngân hàng sang thị trường tài chính đa ngành;
- Hệ thống thanh toán và thị trường tài chính đã được hình thành và phát triển,
góp phần hỗ trợ cho quá trình tự do hóa và cải cách khu vực tài chính – ngân hàng,
lòng tin của công chúng vào VND và hệ thống ngân hàng ngày càng được tăng cường.
3.2.1. Thực trạng tự do hóa lãi suất
Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được cập nhật và tự do hóa từ lãi suất điều
tiết theo “thấp trần” sang điều hành “cắt trần” theo cơ chế thị trường. Quá trình này
được đánh dấu vào tháng 5 năm 2000 khi Ngân hàng Nhà nước chính thức chuyển cơ
chế lãi suất trần sang cơ chế lãi suất linh hoạt.

Hình 3.1: Diễn biến lãi suất VND (%)


Giai đoạn từ 2001 đến nay có nhiều biến động và phải thích ứng với nền kinh tế
toàn cầu, nhưng nhìn chung cơ chế kiểm soát lãi suất của Việt Nam đang đi đúng
hướng, từng bước tiến tới mục tiêu đánh giá nhập tịch của mình.
3.2.2. Thực trạng Tự do hóa hoạt động của các ngân hàng thương mại và định chế
tài chính
Việc kiểm soát hoạt động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính
được Ngân hàng Nhà nước dần nới lỏng, tạo điều kiện cho các chủ thể này hoạt động
độc lập và bình đẳng.
Các tổ chức tín dụng đã được quyền chủ động trong các quyết định cho vay, loại
bỏ chỉ định tín dụng, mở rộng hoạt động dịch vụ tài chính tới mọi thành phần kinh tế
và các tổ chức tài chính, hệ thống thanh toán đang nhanh chóng mở rộng cả trong nước
và quốc tế, được phát triển và góp phần vào quá trình tự do hóa tài chính.

17
Hình 3.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Cùng với sự thăng trầm của thị trường chứng khoán, hoạt động của các công ty
chứng khoán cũng có những biến chuyển tích cực. Từ con số 3 công ty mới thành lập
năm 2000 đã tăng lên 78 công ty vào năm 2007, đến năm 2009 con số này đã tăng lên
105 công ty. Tuy nhiên, trong số đó hoạt động thực sự ổn định và có hiệu quả chỉ có
15 công ty, chiếm thị phần môi giới trên 55%.
Từ năm 2011 đến nay, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã tiến hành cơ cấu lại
các công ty chứng khoán do ảnh hưởng của rủi ro hệ thống đối với thị trường chung và
hoạt động kém hiệu quả của một số công ty chứng khoán. Sau 5 năm tái cơ cấu, số
lượng công ty đầu tư giảm mạnh. Đặc biệt, chất lượng tài chính và hoạt động, độ tin
cậy hoạt động của tập đoàn được cải thiện đáng kể.
Quy mô của thị trường chứng khoán đang dần được cải thiện và số lượng tài
khoản được nắm giữ bởi các nhà đầu tư trong và ngoài nước ngày càng tăng. Những
thay đổi pháp lý sắp tới sẽ tạo cơ hội cho các công ty chứng khoán trở nên mạnh mẽ
hơn, nhưng cũng sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh và sự giám sát đối với các công ty
chứng khoán
3.2.3. Thực trạng tự do hóa giao dịch vốn
3.2.3.1. Vốn đầu tư trực tiếp
Khi Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
để tạo môi trường pháp lý, hoàn thiện môi trường đầu tư thì quá trình tự do hóa dòng
FDI đã hình thành và phát triển. Đây được xem là nguồn lực quan trọng cùng với
nguồn vốn trong nước để tăng trưởng kinh tế.

18
Bảng 3.1: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Triệu USD)
Năm Tổng số vốn đăng ký Tổng số vốn thực hiện
2006 12.044,0 4.100
2007 21.347,8 8.030
2008 71.726,0 11.500
2009 23.107,3 10.000
2010 19.886,1 11.000
2011 15.598,1 11.000
2012 13.013,0 10.460
2013 22.352,0 11.500
2014 21.920,0 12.500
2015 22.757,0 14.500
2016 24.400,0 15.800
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
Dòng vốn FDI tăng nhanh, đạt đỉnh vào năm 1996, lấy lại động lực trong cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á và đạt mức kỷ lục trong năm 2007-2008 vào khoảng
thời gian Việt Nam gia nhập WTO. Bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
cầu từ năm 2009 đến năm 2012, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút nhưng từ
năm 2013 đến nay, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng dần và đều.
Những thay đổi đáng kể về khung pháp lý như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,
Pháp lệnh Ngoại hối đã được ban hành tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài
tham gia thị trường trong nước và dòng vốn FDI ra nước ngoài, mở cửa ra thế giới bên
ngoài, đã phát triển.
3.2.3.2. Vốn đầu tư gián tiếp
Ở Việt Nam, đầu tư gián tiếp chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường chứng
khoán. Thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đóng góp
nhiều cho các công ty Việt Nam, sở hữu cổ phần và duy trì lượng trái phiếu chính phủ
phát hành, góp phần tạo tính thanh khoản cho thị trường.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 đã tác động tiêu cực đến khối ngoại,
nhưng khối này vẫn kích cầu mua ròng chứng khoán, làm tăng tỷ lệ mua bán trên thị
trường.

19
3.2.4. Thực trạng giao dịch ngoại hối
Pháp lệnh Ngoại hối 2005 là văn bản pháp lý cao nhất trong các hoạt động quản
lý ngoại hối của Việt Nam. Trong đó quy định các giao dịch vốn ra và vào Việt Nam
đều được thực hiện thông qua tài khoản ngoại tệ của một tổ chức tài chính.
Ngoài ra, tổ chức doanh nghiệp, tổ chức tài chính được vay, trả nợ bằng ngoại tệ
nhưng phải đăng ký khoản vay, mở và sử dụng tài khoản, rút vốn và chuyển tiền trả
nợ, báo cáo tình hình thực hiện khoản vay theo quy định của ngân hàng nhà nước. Mặc
dù hoạt động kinh doanh ngoại hối ngày càng phát triển nhưng vẫn chịu sự kiểm soát
của ngân hàng nhà nước.
Như vậy, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam đã đạt được một số thành
công, tuy nhiên, quá trình này mới chỉ tự do hóa một phần. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay thì việc tự do hóa tài chính là cấp thiết, song cũng không nên nóng
vội.
Việc tìm ra giải pháp, khuyến khích tính quyết liệt, hạn chế rủi ro và bảo đảm sự
lành mạnh, ổn định và phát triển của hệ thống tài chính phải dựa vào thực tiễn của các
nội lực kinh tế, chính trị, xã hội.
3.3. Mức độ tự do hóa tài chính hiện nay
Bài viết áp dụng chỉ số tự do hóa tài chính của các tác giả Abdul Abiad, Enrica
Detragiache và Thierry Tressel để đánh giá mức độ tự do hóa tài chính ở Việt Nam: đo
lường mức độ tự do hóa tài chính thông qua đánh giá các thành phần của tự do hóa tài
chính. Các tác giả Abdul Abiad, Enrica Detragiache và Thierry Tressel (2008) đã xác
định bảy thành phần của tự do hóa tài chính và định lượng chúng.
Bảy thành phần này bao gồm: Dỡ bỏ kiểm soát phân bổ tín dụng; Tự do hóa lãi
suất; Khuyến khích cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng; Cơ chế giám sát rủi
ro trong lĩnh vực tài chính; Tự do hóa sở hữu trong lĩnh vực ngân hàng; Tự do hóa tài
khoản vốn; Xóa bỏ những áp lực trên thị trường chứng khoán.
Theo đó, mỗi tiêu chí sẽ được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 3, trong đó 0
điểm cho mức độ kiểm soát và đàn áp hoàn toàn và 3 điểm cho mức độ tự do hóa hoàn
toàn. Như vậy, điểm tối đa của chỉ số tự do hóa tài chính sẽ là 21 điểm và điểm tối
thiểu là 0 điểm. Dựa trên thước đo tự do hóa tài chính của các tác giả Abdul Abiad,
Enrica Detragiache và Thierry Tressel (2008), bài viết đánh giá mức độ tự do hóa tài
chính của Việt Nam từ năm 2006 đến nay và nhận thấy: Khu vực tài chính của Việt
Nam hiện được đánh giá là ở mức khá. sân khấu mở. Theo tính toán của tác giả, năm
2016, điểm tự do hóa tài chính của Việt Nam vào khoảng 14/21 điểm.
Các năm 2008 - 2009 số điểm tăng nhẹ (12/21 điểm), năm 2010 giảm, 2011
(11/21 điểm) rồi tăng trở lại 12/21 điểm trong giai đoạn 2012-2014. Năm 2008-2009,

20
điểm số tự do hóa tài chính tăng lên khi năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập
WTO, song song với mức độ mở cửa dần dần trên mọi lĩnh vực trong những năm tiếp
theo.
Tuy nhiên, trong năm 2011, 2012, trước tình hình kinh tế vĩ mô có nhiều biến
động, có một số mặt, nhà nước quay trở lại kiểm soát chặt chẽ như: Tự do hóa tín
dụng, lãi suất. Giai đoạn sau, nền kinh tế dần ổn định, Việt Nam mở cửa mạnh mẽ hơn
khi tiếp tục đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, mở rộng khả năng cho người nước ngoài
tham gia vào thị trường Việt Nam (xem bảng).
Theo kết quả đánh giá của Tổ chức Heritage (www.heritage.org/index) về mức
độ tự do hóa kinh tế cho thấy, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có độ mở cửa còn
thấp so với trong khu vực và trên thế giới. Trong bảng xếp hạng năm 2016, Việt Nam
đang đứng thứ 131 trên thế giới, sau các nước Malaysia, Thái Lan, Philippines…
3.4. Xu hướng tự do hóa tài chính
3.4.1. Xu hướng tự do hóa tài chính hiện nay
Trong những năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào chính sách cũng như cơ cấu
hệ thống tài chính của mỗi nước.
Với nhiều sự biến động cụ thể và thậm chí là khủng hoảng tại một số quốc gia,
đặc biệt là các nền kinh tế Đông Á – một thời được coi là tồn tại sự phát triển bền
vững từ đó đã đã gây ra nhiều tranh luận về hệ thống quản lí tài chính của quốc gia.
Tuy nhiên, một xu thế được coi là một hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện
nay và được nhiều quốc gia thực hiện. Xu thế tự do hóa tài chính đó là từng bước tiến
hành tự do hóa hệ thống tài chính của đất nước.
Xu thế tự do hóa tài chính hiện nay đã và đang trở thành xu thế lớn của kinh tế
học hiện đại và được thể hiện trên thực tiễn qua nhiều khía cạnh, theo một đánh giá
của Tổng giám đốc Hiệp hội ngân hàng Pháp thì:
“Từ hơn 30 năm nay, một số lượng lớn các nước đang dấn thân vào con đường
tự do hóa hệ thống tài chính của quốc gia; nhưng với những biến động trong thời gian
gần đây, câu hỏi được đặt ra là nên tự do hóa như thế nào còn chưa có câu trả lời cụ
thể và do đó, rất cần có những tổng kết, kinh nghiệm để đúc kết thành những bài học
có tính chất nguyên tắc chung”.
Theo kết quả đánh giá mức độ tự do hóa kinh tế của Tổ chức Di sản, Việt Nam
được xếp vào nhóm quốc gia kém cởi mở so với khu vực và thế giới.
3.4.2. Xu hướng tự do hóa tài chính của Việt Nam trong thời gian tới
Triển vọng tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam

21
Tự do hóa tài khoản vốn có lẽ là điều không thể tránh khỏi cho Việt Nam trong
tương lai, khi nền kinh tế phát triển cao hơn, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, để tự do hóa an toàn và có tác dụng tích cực đến tăng trưởng kinh tế, cần
phải hiểu và thi hành những chính sách cần thiết để tạo tiền đề cho tự do hóa xảy ra
một cách trôi chảy.
So với Trung Quốc, một mặt, Việt Nam chia sẻ một số điểm tương đồng với
Trung Quốc như có một nguồn vốn FDI đổ vào khá dồi dào (tính theo tỷ trọng GDP
thì thậm chí còn lớn hơn của Trung Quốc); giá trị các tài sản tài chính (cổ phiếu, trái
phiếu) đang lên cao, theo sát diễn biến lạc quan của tăng trưởng kinh tế cao (khoảng
8%/năm); sự phụ thuộc vào tỷ trọng vốn đầu tư gián tiếp trong tổng các nguồn tài trợ
từ nước ngoài còn thấp; vai trò can thiệp và tham gia vào nền kinh tế của chính phủ rất
lớn, thông qua đầu tư nhà nước và khối doanh nghiệp nhà nước, làm cho thâm hụt
ngân sách luôn ở mức khá cao và luôn cần bổ sung thêm vốn.
Mặt khác, Việt Nam cũng có nhiều điểm giống các nước bị khủng hoảng tài
chính khi tự do hóa tài khoản vốn, như có lạm phát tương đối cao (gần 8% trong mấy
năm gần đây), lãi suất danh nghĩa VND cao, sự trữ ngoại hối còn hạn hẹp, thâm hụt tài
khoản vãng lai kinh niên, và nợ nước ngoài tương đối lớn. Ngoài ra, Việt Nam giống
tất cả các nước có liên quan ở điểm là hệ thống tài chính còn rất yếu kém, có tỷ lệ nợ
xấu cao, rủi ro hệ thống lớn, thông lệ cho vay bất cẩn, chế độ quản trị ngân hàng còn
yếu kém, và cơ chế tỷ giá còn cứng nhắc …
Với những đặc điểm này, có thể thấy rằng các điều kiện tiền đề cho tự do hóa tài
khoản vốn ở Việt Nam một cách an toàn là chưa tồn tại hoặc chưa đầy đủ, nhất là
những điều kiện tiền đề về nền kinh tế vĩ mô lành mạnh, cũng như một hệ thống tài
chính và hạ tầng cơ sở giám sát vững chắc. Quan trọng không kém, chính phủ Việt
Nam và người dân Việt Nam có ít kinh nghiệm ban đầu về tự do hóa tài khoản vốn (ví
dụ: cho phép đầu tư trực tiếp/gián tiếp nước ngoài - một hiện tượng mới được đề xuất).

22
CHƯƠNG 4. KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH CHO QUÁ
TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM

4.1. Tiến trình tự do hóa tài chính


Tự do hóa tài chính được tiến hàng sau tự do hóa thương mại. Tiến trình tự do
hóa tài chính trải qua những bước sau:
- Bước 1: Cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết để phát
triển cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
- Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có
sự quản lý của nhà nước.
Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất của tự
do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn đêr cho cung cầu vốn trên
thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các
công cụ để tiến hành theo định hướng.
Tự do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ
khó đòi, tiến hàng tư nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng các
chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng.
Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá chính thức
của ngân hàng trung ương.
- Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn cơ
chế phân bổ quota và những rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
- Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn.
Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế đối với các giao
dịch này như xóa bỏ hoàn toàn những quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các
nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn về nước với
các khoản đầu tư dài hạn - ngắn hạn thông qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cho các
doanh nghiệp trong nước tự do tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế thông qua phát
hành cổ phiếu.
Đối với người dân tự do hóa nguồn vốn cho phép họ thực hiện các hoạt động ở
nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia các hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi
nhuận cao.
Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu các công ty khác nhau, các dòng
vốn được tự do di chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang những nơi có tỷ suất sinh
lợi cao.

23
4.2. Khuyến nghị cho quá trình tự do hóa tài chính tại Việt Nam
Để tối đa hóa lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời giảm thiểu rủi ro liên
quan đến tự do hóa tài chính, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị sau:
- Thứ nhất, tăng cường tính lành mạnh của khuôn khổ chính sách kinh tế vĩ mô
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa tài chính thành
công.
Để có một khuôn khổ chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh, hiệu quả chính sách
kinh tế vĩ mô cần được phối hợp chặt chẽ và nâng cao. Mục đích của việc phối hợp
chặt chẽ chính sách kinh tế vĩ mô là làm cho hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô hoạt
động hiệu quả, từ đó tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô mà chính phủ có thể kiểm
soát được. Một mặt, đây là cơ sở để tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, mặt khác là
tiền đề để đối phó với những tác động bất lợi có thể xảy ra.
- Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế. Chúng ta cần hoàn thiện hệ
thống pháp luật để tạo hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả, minh bạch, tạo sân chơi
bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các nhà hoạch định chính sách cần
tạo ra một khung pháp lý rõ ràng và hợp lý với các luật cơ bản về tài sản, đất đai, phá
sản và nền kinh tế thị trường dân sự.
- Thứ ba, phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính:
- Thị trường tiền tệ: Cần phát triển thị trường tiền tệ an toàn, hiệu quả, đồng bộ
và mang tính cạnh tranh cao nhằm tạo cơ sở quan trọng cho hoạch định và điều hành
chính sách tiền tệ, huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính, giảm
thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng.
- Thị trường ngoại hối: Cải thiện hoạt động của thị trường ngoại hối và mở rộng
các đối tượng tham gia thị trường một cách hợp lý. Nâng cao công tác quản lý dự trữ
ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước để tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường vận hành.
- Thị trường vốn: Tiếp tục củng cố và phát triển thị trường vốn, từng bước hoàn
thiện cơ cấu, cải tiến lề lối làm việc. Mở rộng hơn nữa các kênh cung ứng vốn cho thị
trường, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo điều kiện thu hút nhiều nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư tổ chức…
- Thứ tư, tái cấu trúc hệ thống tài chính để đồng thời tích hợp và hoàn thiện hệ
thống ngân hàng và các định chế khác trên thị trường tài chính Việt Nam.
Các định chế tài chính (đặc biệt là Ngân hàng Thương mại - kênh cung ứng vốn
chính trong nền kinh tế Việt Nam) cần phải chuẩn bị các điều kiện cần và đủ về tài
chính, năng lực quản trị kinh doanh, chiến lược hội nhập và cạnh tranh trong môi
trường mới. Hệ thống tài chính tiền tệ trong nước phải được củng cố và hỗ trợ, cơ cấu
lại toàn diện trước khi tự do hoá hoàn toàn.
24
Vấn đề giám sát các ngân hàng cần phải được quan tâm đặc biệt. Bên cạnh đó,
cần đẩy mạnh việc sắp xếp lại hệ thống các định chế tài chính theo hướng sáp nhập các
định chế tài chính có quy mô nhỏ, hình thành một số tổ chức tài chính có quy mô vừa
và lớn; nâng cao yêu cầu về vốn pháp định đối với các trung gian tài chính; đề cao chất
lượng, hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo an toàn tài chính vì lợi ích của các nhà đầu tư.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiến hành rà soát tổng thể và đối chiếu toàn
bộ các quy định và văn bản luật hiện hành với các cam kết và yêu cầu của các hiệp
định quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính. Nhiệm vụ này cần được
tiến hành để xác định các lỗ hổng pháp lý, các trở ngại, các khác biệt và mâu thuẫn
giữa hệ thống các quy định pháp lý.
- Thứ năm, công tác thu thập, phân tích và cung cấp thông tin cần được cải tiến
nhằm nâng cao tính minh bạch thông tin.
Chất lượng thông tin chính là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến và
làm trầm trọng thêm các vụ hoảng loạn của thị trường. Thông tin chính xác từ cấp vĩ
mô lẫn vi mô mới đem lại những quyết định chính xác. Ở cấp độ vi mô, nếu tính minh
bạch tài chính của các ngân hàng và công ty chỉ đạt ở mức thấp, chuẩn mực kế toán và
định mức tín nhiệm không đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế, các nhà đầu tư sẽ rất khó khăn
trong việc đưa ra các quyết định chính xác. Hệ quả tất yếu là khi các định chế đầu tư
hay những người cho vay nhận thức được bản chất thực sự của thông tin, họ sẽ lập tức
điều chỉnh danh mục đầu tư để rút vốn khỏi quốc gia hoặc ngừng việc cho vay ngắn
hạn, tạo ra sự đảo chiều đột ngột của dòng vốn với quy mô lớn, dễ dàng châm ngòi cho
một sự hoảng loạn thị trường dẫn tới khủng hoảng. Vì thế, cải thiện cơ chế cung cấp
thông tin, nâng cao chất lượng thông tin là một yêu cầu cấp thiết khi hội nhập tài
chính.
- Thứ sáu, cải thiện hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Để góp phần tạo thuận lợi cho tiến trình tự do hóa tài chính cần nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của nền kinh tế, có như vậy mới khơi thông dòng vốn vào không phải
chỉ về mặt chính sách mà còn thuận lợi cả trên thực tế sử dụng vốn. Các giải pháp cần
được thực hiện đồng bộ để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng,
khắc phục những yếu kém, khai thông những điểm nghẽn của tăng trưởng, thúc đẩy
phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Đồng thời, ở tầm vi mô, các doanh nghiệp
cũng cần hiểu rõ khi hội nhập, doanh nghiệp mình đứng trước những cơ hội và thách
thức nào, đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu của chính mình để có thể tự tin tham
gia vào sân chơi chung này.

25
4.3. Giải pháp chính sách cho quá trình tự do hóa tài chính tại Việt Nam
Cho tới nay, Việt Nam đã đi được hơn nửa chặng đường tự do hóa tài chính và tự
do hóa tài chính là lựa chọn hợp lý trong điều kiện thực hiện các cam kết hội nhập
trong khuôn khổ WTO, gắn tự do hóa tài chính và cải cách khu vực tài chính trong một
lộ trình thống nhất. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể về cải cách và
phát triển khu vực tài chính. Vì vậy, cần tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn
đề chủ yếu sau đây:
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, chính
sách thương mại, chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác;
- Đổi mới căn bản hệ thống thiết chế an toàn và giám sát tài chính theo các thông
lệ và chuẩn mực quốc tế;
- Có biện pháp hợp lý và linh hoạt về kiểm soát các luồng vốn, nhất là nguồn vốn
ra và nguồn vốn ngắn hạn vào thị trường chứng khoán;
- Đẩy nhanh tiến độ cải cách ngân hàng nhằm nâng cao tiềm lực tài chính, làm cơ
sở để đổi mới công nghệ và trình độ chuyên môn quản lý, góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam;
- Đẩy nhanh tiến độ cải cách doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp Nhà
nước theo hướng cổ phần hóa, góp phần giảm gánh nặng đối với Ngân sách Nhà nước.
Đồng thời, nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các Luật thuế nhằm củng cố nguồn
thu ngân sách trong khi nguồn thu thuế bị giảm mạnh trong quá trình thực hiện các
cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ;
- Thực hiện các biện pháp chuẩn bị cho mở cửa thương mại nhằm đáp ứng yêu
cầu của WTO và AFTA, trong đó chú trọng đến việc đơn giản hóa và minh bạch hóa
các chính sách thuế, thủ tục hải quan, thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu, mở rộng đối
tượng được phép tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ;
- Nâng cao năng lực điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá theo nguyên tắc thị trường
nhằm hạn chế rủi ro thị trường đối với khu vực tài chính trong quá trình tự do hóa;
- Quan tâm phát triển hệ thống thanh toán và dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính
theo hướng hiện đại hóa, đồng thời tăng cường quản lý, giám sát nhằm tạo môi trường
thuận lợi cho các hoạt động tài chính diễn ra thông suốt và an toàn;
- Chính sách đầu tư nên tập trung vào việc giảm thiểu bảo hộ các ngành thay thế
nhập khẩu, đồng thời khuyến khích đầu tư vào các ngành xuất khẩu và các ngành sản
xuất có hàm lượng công nghệ cao;
- Trong quá trình tự do hóa tài chính, cần xử lý sớm, ngay từ đầu những vấn đề
liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính, nhất là hệ thống ngân hàng và thị
trường chứng khoán.
26
KẾT LUẬN

Có thể nói, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tự do hóa tài chính
là xu thế tất yếu và mang lại nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia, nhất là các nước đang
phát triển. Nhờ tự do hóa tài chính, nhiều nước đang phát triển đã thu hút được lượng
vốn đầu tư rất lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện đại từ các nước công nghiệp
phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu. Việt Nam đang ngày
càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế thông qua việc ký kết các hiệp định,
tham gia vào các tổ chức quốc tế. Cùng với quá trình hội nhập đó, các quốc gia nói
chung và Việt Nam nói riêng đã nỗ lực chọn cho mình những giải pháp tự do hóa tài
chính để gia tăng tính cạnh tranh trong hệ thống tài chính, từ đó cải thiện hiệu quả
phân bổ và sử dụng nguồn lực, đem lại những lợi ích thiết thực cho bản thân mình.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Thăng Long đã đưa
môn học Tài chính quốc tế vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Cô Ngô Khánh Huyền đã dạy dỗ, truyền đạt những
kiến thức quý báu, những kinh nghiệm và câu chuyện cuộc sống cho em trong suốt
thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Tài chính quốc tế của cô,
em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm
túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để em có thể vững
bước sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Ngọc Sơn (2010), Tự do hóa tài chính – Một xu hướng mang tính toàn cầu, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
2. Trần Thị Thái Hà (2006), Tự do hóa tài chính: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và
những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu đặc biệt, mã số QG.04.25, Đại
học Quốc gia Hà Nội;
3. John Williamson và Molly Mahar (1998), A Survey of Financial Liberalization,
Essays in International Finance, No 211, 11/1998, Department of Economics,
Princeton University, New Jersey, US;
4. Abdul Abiad, Enrica Detragiache, và Thierry Tressel (2008), A New Database of
Financial Reforms, IMF Working Paper, WP/08/266.
5. Tự do hóa tài chính ở Việt Nam, Con đường và bước đi; Viện Nghiên cứu quản lý
Kinh tế trung ương;
6. TS. Bùi Thị Thanh Tình, TS. Lê Ngọc Lân; (2015); Đặc điểm chủ yếu của tiến trình
tự do hóa tài chính trên thế giới; Học viện Ngân hàng;
7. Website: hsx.vn; hsx.vn; vnep.org.vn; sbv.gov.vn

You might also like