You are on page 1of 27

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

---------oOo---------

BÀI TẬP LỚN


Kinh tế đầu tư 1

ĐỀ TÀI: Phân tích vai trò của đầu tư với tăng trưởng
kinh tế và liên hệ thực tiễn tại Việt Nam
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Phương Anh - 11220422

Nguyễn Hoàng Quỳnh Chi - 11220996

Đỗ Minh Hiển - 11222259

Nguyễn Ngọc Linh - 11223602

Nguyễn Thiện Quang - 11225448

Nguyễn Quang Tùng - 11226744

Lớp : DTKT1106(123)CLC_01

Giảng viên hướng dẫn : Phạm Văn Hùng

Hà Nội, 10/2023

1
LỜI CẢM ƠN

Tiểu luận có thể được xem là một công trình nghiên cứu khoa học nhỏ. Em
xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến thầy Phạm Văn Hùng, người đã
dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho em vốn kiến
thức quý báu, cảm ơn thầy đã giúp đỡ và hướng dẫn em tận tình trong suốt thời
gian viết bài tiểu luận này, tạo cho em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận,
phân tích và giải quyết vấn đề.

Thành công luôn đi kèm với nỗ lực, trong vòng nhiều tuần, nghiên cứu đề tài
“Vai trò của đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế” bọn em cũng đã gặp không
ít khó khăn, thử thách nhưng nhờ có sự giúp đỡ của thầy mà em đã vượt qua.
Chúng em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để
hoàn thành bài tiểu luận này nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng em rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía thầy
để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn.

2
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN 2

NỘI DUNG 4

I. Định nghĩa 4

1.1. Khái niệm đầu tư 4

1.2. Theo định nghĩa của kinh tế học 4

1.3. Theo định nghĩa tài chính 4

1.4. Theo pháp luật quy định 5

1.5. Phân loại các hoạt động đầu tư 5


1.6. Khái niệm đầu tư phát triển 5

II. Ảnh hưởng của đầu tư tác động tới quy mô sản lượng nền kinh tế 5
2.1. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế 5
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư 6
2.3. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế 7
2.4. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế 7
2.5. Giải quyết các vấn đề của xã hội 8
III. Các mô hình lý thuyết chứng minh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng
trưởng kinh tế 8
3.1. Các mô hình phổ biến 8
3.2. Các mô hình phù hợp với nền kinh tế Việt Nam 11
IV. Thực tiễn tác động của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam 12
4.1. Việt Nam trước khi mở rộng vốn đầu tư 12
4.2. Việt Nam sau khi mở rộng vốn đầu tư 13
4.3. Các hoạt động đầu tư nước ngoài 17
V. Bài học rút ra cho đầu tư tại Việt Nam 20
5.1. Bài học rút ra cho Việt Nam 20
5.2. Liên hệ bản thân sinh viên 22
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

3
NỘI DUNG

I. Định nghĩa

1.1. Khái niệm đầu tư

Đầu tư là việc sử dụng những nguồn lực có sẵn (gọi chung là vốn) như tiền
bạc, vật chất, nhân công, thời gian,... nhằm thu được lợi nhuận và lợi ích kinh tế
trong tương lai, lớn hơn rất nhiều so với những gì đã bỏ ra.

Hiểu rộng hơn, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại, thực hiện một
kế hoạch hoạt động, để thu về khoản lợi ích lớn hơn trong tương lai Hoặc có thể dễ
hiểu hơn là quá trình tiền đẻ ra tiền.

1.2. Theo định nghĩa của kinh tế học

Theo định nghĩa của kinh tế học, đầu tư (investment) thường được hiểu là
việc sử dụng tiền, tài sản, hoặc nguồn lực khác để mua và tạo ra các tài sản thực sự
(như máy móc, nhà xưởng, cơ sở hạ tầng, cổ phiếu, trái phiếu, vv.) với hy vọng thu
được lợi nhuận hoặc tạo ra giá trị trong tương lai. Đây là một khía cạnh quan trọng
của hoạt động kinh tế và thường được xem là động lực chính đằng sau sự phát triển
và tăng trưởng của một nền kinh tế

Trong ngữ cảnh kinh tế học, đầu tư có thể chia thành hai loại chính:
 Đầu tư Cá Nhân
 Đầu tư Doanh Nghiệp

1.3. Theo định nghĩa tài chính

Đầu tư tài chính có thể hiểu đó là một hình thức đầu tư thông qua giao dịch
mua bán các loại như cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, ngoại hối hoặc các công cụ
tài chính khác,... để thu lại nguồn lợi nhuận từ những khoản tiền vốn bạn bỏ ra với
mục đích đầu tư.Đây là một khía cạnh quan trọng của tài chính và quản lý tài sản,
và nó liên quan đến việc phân bổ tài sản và nguồn vốn của cá nhân, tổ chức hoặc
doanh nghiệp để tạo ra giá trị và đạt được mục tiêu tài chính.

Đầu tư trong lĩnh vực tài chính có thể bao gồm nhiều hình thức khác nhau:
 Đầu tư Tài Chính
 Đầu tư Bất Động Sản
 Đầu Tư Doanh Nghiệp
 Đầu Tư Hưu Trí
 Đầu Tư Giáo Dục

4
1.4. Theo pháp luật quy định
Hình thức đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn để thực hiện hoạt
động kinh doanh thông qua các hình thức cụ thể như: thành lập tổ chức kinh tế;
góp vốn, mua cổ phần; đầu tư hợp đồng, dự án...
Đầu tư là một hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại (như tài chính, vật
chất, lao động, trí tuệ, thời gian…), để đạt được lợi nhuận và lợi ích kinh tế lớn
hơn trong tương lai so với nguồn lực đã bỏ ra. Đầu tư thường đi kèm với các quy
tắc và điều kiện liên quan đến việc đăng ký đầu tư, quản lý rủi ro, quyền sở hữu,
bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, và thuế.

1.5. Phân loại các hoạt động đầu tư


 Theo mục tiêu tài chính
 Theo loại tài sản
 Theo thời hạn đầu tư
 Theo mức độ rủi ro
 Theo lĩnh vực kinh doanh

1.6. Khái niệm đầu tư phát triển

Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư
này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh
hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế, đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ. Hình thức đầu tư này đóng vai
trò rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển của nền kinh tế tại mỗi
quốc gia.

Nói một cách rõ ràng hơn, đầu tư phát triển chính là việc chỉ dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (nhà xưởng, thiết bị) tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng…) gia tăng năng lực
sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.

II. Ảnh hưởng của đầu tư tác động tới quy mô sản lượng nền kinh tế
2.1. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế:

Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR
(Incremental Capital-Output Ratio).

Hệ số ICOR là hệ số gia tăng vốn-sản lượng. Hệ số ICOR cho biết muốn có


một đồng sản lượng thì phải cần bao nhiều đồng vốn đầu tư

Mô hình tăng trưởng kinh tế dài hạn được diễn đạt cách đơn giản như sau:

5
g = (I /Y ).(1/ ICOR )
 g là tốc độ tăng trưởng kinh tế
 (I/Y) chính là tỉ lệ đầu tư trên GDP.

Ta có thể thấy: Mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào
mức đầu tư. Hệ số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.

Theo một số nghiên cứu của các nhà kinh tế, hiệu quả đầu tư (ICOR) giải
thích hơn ba phần tư (77,4%) trong khi đó tỉ lệ đầu tư trên GDP (I/Y) giải thích chỉ
khoảng một phần tư (25,5%) sự khác biệt về kết quả tăng trưởng dài hạn của các
nước. Do đó muốn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế dài hạn thì điều quan trọng
nhất là phải cải thiện hiệu quả đầu tư, chứ không phải tìm cách để tăng tỉ lệ đầu tư
lên cao.

Ví dụ để minh họa mối quan hệ trên:

 Algeria có tỉ lệ đầu tư cao hơn cả Hàn Quốc nhưng chỉ đạt được tốc độ tăng
trưởng gần bằng ½ của Hàn Quốc trong 30 năm 1970-2000. Trong giai đoạn
1960-1985, Argentina, Jamaica, Zambia có tỉ lệ đầu tư cao ngang bằng Hàn
Quốc, Đài Loan (khoảng 25% trên GDP) nhưng Hàn Quốc, Đài Loan có tốc
độ tăng trưởng cao hơn gấp 4 lần các nước trên
 Sau hơn hai thập kỷ đổi mới, VN đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, thay
đổi từ nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển trở thành nước đang phát
triển và xếp vào nhóm quốc gia có thu nhập trung bình Tuy nhiên, kết quả
thực nghiệm minh chứng tác động đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế
VN trong ngắn hạn không có ý nghĩa thống kê. Điều này hàm ý: Việc cắt
giảm đầu tư công để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát tình hình lạm phát cao
hiện nay có lẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
trong ngắn hạn. Cụ thể, nghiên cứu này cho thấy vốn đầu tư trên GDP của
khu vực công tăng 1% thì làm cho chỉ số tăng trưởng kinh tế tăng khoảng
0,197%, trong khi đó tác động từ khu vực ngoài quốc doanh là 0,43% và từ
khu vực FDI là 0,32%.

2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư

Thu thập bình quân đầu người ban đầu: theo quy luật lợi ích biên giảm dần
với tích lũy vốn những nước có thu nhập thấp hơn thì lợi tức vốn cao hơn, những
nước có thu nhập bình quân đầu người thấp thì ICOR phải thấp.

Chất lượng thể chế: thể chế tác động lên hiệu quả đầu tư ở 3 khía cạnh:

6
 Giảm chi phí giao dịch
 Giảm sự không chắc chắn trong hoạt động kinh tế
 Ảnh hưởng lên cấu trúc khuyến khích của nền kinh tế

Tăng trưởng xuất khẩu: Xuất khẩu cao thì ICOR thấp. Các biến liên quan
đến ổn định kinh tế vĩ mô

Lạm phát làm gia tăng sự không tiên liệu được trong quá trình ra quyết định
kinh tế, nguồn lực phân bổ bị bóp méo và hiệu quả giảm đi.

Trình độ phát triển của hệ thống tài chính: được cho là ảnh hưởng tích cực
lên hiệu quả đầu tư vì hệ thống tài chính có thể phân bổ nguồn vốn đầu tư hiệu quả
hơn là các cá nhân riêng lẻ.

2.3. Đầu tư tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế

Tham gia vào quá trình tăng trưởng gồm nhiều yếu tố và các tác nhân,
nhưng tham gia trực tiếp là các nhân tố sản xuất gồm lao động, vốn vật chất, vốn
con người, vốn tài nguyên (môi trường) và tiến bộ công nghệ. Tiến bộ công nghệ
một mặt ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng và năng suất của các nhân tố còn lại, mặt
khác đóng góp vào Tổng năng suất các nhân tố (TFP).

Các nhân tố sản xuất đóng góp vào quá trình tạo tăng trưởng, hình thành nên
mô hình tăng trưởng của 1 nước, và như vậy cũng có nghĩa là đóng góp vào tạo
phúc lợi. Do đó, đầu tư vào hình thành các loại tài sản vốn này là cần thiết để có
tăng trưởng.

Tác động của đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua
một số lĩnh vực sau:

 Khoa học và công nghệ: yếu tố công nghệ đóng vai trò quan trọng đối với
các nước đang phát triển bởi hai lí do sau đây. Thứ nhất, công nghệ làm tăng
hiệu quả sử dụng vốn, qua đó tác động trực tiếp tới năng suất lao động. Thứ
hai, tiến bộ công nghệ thường được du nhập vào các nước đang phát triển
bằng con đường nhập khẩu vốn và hàng hóa trung gian.
 Để thu được lợi ích từ tiến bộ công nghệ mới thì trình độ của lực lượng lao
động phải đạt được mức độ nhất định. Do đó, tốc độ phổ biến, chuyển giao
CN sẽ nhanh hơn nếu như vốn con người cũng được tăng cả về số lượng và
chất lượng

2.4. Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

7
Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối trên
phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền
kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.

Đối với cơ cấu ngành, vốn đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng
ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến
tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền
đề vật chất để phát triển các ngành mới

Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất mát cân
đối về phát triển giữa các vũng lãnh thổ, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về
tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị

2.5. Giải quyết các vấn đề của xã hội

Đầu tư làm xuất hiện những ngành sản xuất mới gắn liền với chuyên môn
hóa và phân công lao động xã hội mới, làm cho nền kinh tế phát triển năng động và
hiệu quả hơn. Hàng triệu việc làm mới được tạo ra, góp phần xoá đói giảm nghèo
và giảm tỷ lệ thất nghiệp.

Đầu tư tác động đến phát triển nguồn nhân lực: nâng cao dân trí, trình độ
hiểu biết, ý thức của người dân. Đầu tư góp phần bảo tồn, tôn tạo, trùng tu những
giá trị lịch sử, thiên nhiên, văn hóa,… xây dựng hình ảnh của đất nước.

III. Các mô hình lý thuyết chứng minh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng
trưởng kinh tế

3.1. Các mô hình phổ biến

Cho đến nay, đã có rất nhiều mô hình nghiên cứu và chỉ ra vai trò của hoạt
động đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, ví dụ như:

a) Mô hình lí thuyết Tân cổ điển

Lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển là lí thuyết kinh tế chỉ ra cách mà tốc
độ tăng trưởng kinh tế ổn định từ sự kết hợp của ba yếu tố: lao động, vốn và công
nghệ.

Lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển nói rằng trạng thái cân bằng ngắn hạn là
kết quả từ sự thay đổi số lượng lao động và vốn trong hàm sản xuất.

8
Lí thuyết cũng cho rằng thay đổi công nghệ có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và
tăng trưởng kinh tế không thể tiếp tục nếu không có tiến bộ công nghệ.

Lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển phác thảo 03 yếu tố cần thiết cho nền kinh
tế đang phát triển. Đó là lao động, vốn và công nghệ.

Tuy nhiên, lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển làm rõ rằng trạng thái cân bằng
ngắn hạn tạm thời khác với trạng thái cân bằng dài hạn - không đòi hỏi bất kì yếu
tố nào trong ba yếu tố này.

Lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển đặt ra rằng việc tích lũy vốn trong một nền
kinh tế và cách mọi người sử dụng vốn đó, là rất quan trọng đối với tăng trưởng
kinh tế. Hơn nữa, mối quan hệ giữa vốn và lao động của một nền kinh tế quyết
định sản lượng của nền kinh tế. Cuối cùng, công nghệ làm tăng năng suất lao
động và tăng khả năng đầu ra của lao động. Do đó, hàm sản xuất của lí thuyết tăng
trưởng tân cổ điển được sử dụng để đo lường sự tăng trưởng và cân bằng của một
nền kinh tế.
Hàm sản xuất là: Y = AF (K, L).
Trong đó: Y: tổng sản phẩm quốc nội GDP của một nền kinh tế
K: vốn trong một nền kinh tế

L: số lượng lao động phổ thông trong một nền kinh tế

A: định lượng mức độ công nghệ của nền kinh tế

Tuy nhiên, do mối quan hệ giữa lao động và công nghệ, hàm sản xuất của
nền kinh tế thường được viết lại thành Y = F (K, AL).
b) Mô hình lý thuyết Keynes
Lý thuyết kinh tế đề xướng bởi nhà kinh tế người Anh John Maynard
Keynes (1883-1946) và những người theo sau. Keynes quan niệm rằng chính phủ
nên sử dụng sức mạnh ngân sách để duy trì sự tăng trưởng và ổn định về kinh tế,
và vượt qua những chu kỳ suy thoái thường xảy ra trong đa số các nền kinh tế
phương Tây.
Kinh tế học Keynes là một lí thuyết kinh tế về tổng chi tiêu trong nền kinh tế
và những ảnh hưởng của nó đến sản lượng và lạm phát. Kinh tế học Keynes đã
được sử dụng để đưa ra định nghĩa rằng hiệu quả kinh tế tối ưu có thể đạt được và
sự suy thoái kinh tế được ngăn chặn bằng cách đến tác động đến tổng cầu thông
qua chính sách của chính phủ nhằm ổn định hoạt động và can thiệp vào nền kinh
tế.
9
Theo quan điểm của Keynes về đầu tư, mỗi sự gia tăng vốn đầu tư đều kéo
theo sự gia tăng về nhân công và tư liệu sản xuất. Do vậy sẽ tăng việc làm và nhu
cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Từ đó sẽ làm tăng thu nhập. Đến lượt mình, tăng thu
nhập lại làm tăng đầu tư mới. Đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới. Quá trình này
thể hiện qua một đại lượng gọi là số nhân đầu tư.
Số nhân đầu tư là đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa mức gia tăng thu
nhập và mức gia tăng đầu tư. Số nhân đầu tư thể hiện sự gia tăng đầu tư sẽ làm thu
nhập tăng như thế nào.
• m = dY/dI
Với giả thiết I = S
• m = dY/dS -> m = dY/(dY-dC) -> m = 1/(1- dC/dY) -> m = 1/(1-c)
Với c là xu hướng tiêu dùng cận biên

c) Mô hình Harrod- Domar


Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một
cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã
cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng ở các nước phát
triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xét
mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của
bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ
nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
Cụ thể, mô hình Harrod-Domar đặt ra mối liên hệ giữa đầu tư và tăng trưởng
kinh tế dựa trên chỉ số ICOR, với ICOR là một chỉ số cho biết muốn có thêm một
đơn vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị
vốn đầu tư trong kỳ đó, và được tính theo công thức:
V1
ICOR=
G1−G 0
Trong đó:
ICOR – Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư;
V1 – Vốn đầu tư thực hiện của năm nghiên cứu;
G1 – Tổng sản phẩm trong nước của năm nghiên cứu;
G0 – Tổng sản phẩm trong nước của năm trước năm nghiên cứu

d) Mô hình Robert Solow


Mô hình tăng trưởng kinh tế Solow là mô hình lý thuyết tập trung vào vai trò
của những thay đổi về công nghệ đối với quá trình tăng trưởng kinh tế. Đây là mô
hình tăng trưởng ngoại sinh, một mô hình kinh tế về tăng trưởng kinh tế dài hạn
được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế học tân cổ điển.

10
Mô hình tăng trưởng kinh tế Solow được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng
kinh tế dài hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng
trưởng dân số và sự gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ
Mô hình Solow sử dụng một hàm sản xuất trong đó sản lượng là một hàm
của tư bản và lao động, với điều kiện tư bản có thể thay thế cho lao động với mức
độ hoàn hảo thay đổi có lợi suất giảm dần. Bởi vậy, nếu tư bản tăng so với lao
động thì mức gia tăng sản lượng ngày càng trở nên nhỏ hơn. Theo giả định như
vậy về tỷ lệ sản lượng/tư bản thay đổi, thì khi khối lượng tư bản của một nước tăng
lên, quy luật lợi suất giảm dần sẽ phát huy tác dụng và tạo ra mức tăng ngày càng
nhỏ của sản lượng. Vì thế tăng trưởng kinh tế không những đòi hỏi phải đầu tư để
mở rộng khối lượng tư bản. Đặc biệt, tiến bộ công nghệ (kỹ thuật, quy trình,
phương pháp sản xuất mới và sản phẩm mới) đóng một vai trò quan trọng trong
việc đối phó với quy luật lợi suất giảm dần của tư bản khi khối lượng tư bản tăng
lên

e) Quan điểm "vicious circle of poverty" (vòng tròn ác độc của nghèo đói)
Ragnar Nurkse, một nhà kinh tế người Estonia, đã đề xuất quan điểm này
trong cuốn sách "Problems of Capital Formation in Underdeveloped Countries"
(Các vấn đề về hình thành vốn ở các nước đang phát triển) năm 1953
Một số yếu tố kinh tế và xã hội trong các nước đang phát triển tạo ra một
vòng tròn tiêu cực của nghèo đói, khiến họ rơi vào tình trạng khó khăn và khó có
thể thoát ra khỏi nó
Thiếu vốn : thiếu vốn dẫn đến nguồn lực giảm, hạn chế khả năng tạo ra tài
sản mới và công việc làm
 Thiếu cơ sở hạ tầng:
 Thiếu nguồn lao động chất lượng
 Tăng trưởng tự nhiên cao
Tất cả các yếu tố này tương tác với nhau để tạo ra một vòng tròn tiêu cực
3.2. Các mô hình phù hợp với nền kinh tế Việt Nam
a) Mô hình Harrod- Domar
Mô hình Harrod-Domar là một mô hình kinh tế phát triển tập trung vào mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư. Trong bối cảnh của nền kinh tế Việt
Nam, áp dụng mô hình này có thể có những điểm sau:
 Đánh giá tác động của đầu tư công: Mô hình Harrod-Domar cho rằng đầu tư
công có thể tạo ra tác động nhân quả lớn đối với tăng trưởng kinh tế. Việc
tăng cường đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, và các ngành công
nghiệp quan trọng có thể thúc đẩy tăng trưởng.
 Khả năng tạo việc làm: Đầu tư công thường đi kèm với việc tạo ra việc làm
mới thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các dự án phát triển. Điều này

11
có thể giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp và cải thiện tình hình lao động trong nền
kinh tế.
 Thúc đẩy sản xuất và tăng cầu tiêu dùng: Việc đầu tư công thường đi đôi với
việc tăng cường sản xuất, đặc biệt trong các lĩnh vực hạ tầng và công
nghiệp. Khi sản xuất tăng, có thể dẫn đến tăng cầu tiêu dùng do người lao
động có thêm thu nhập, từ đó tạo đà tăng trưởng tiêu dùng.
 Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế dài hạn: Đầu tư công có thể tạo ra một sức mạnh
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực có thể tạo ra nền tảng cho sự phát triển bền
vững.
 Kích thích đầu tư tư nhân: Việc tăng cường đầu tư công thường đi kèm với
một môi trường kinh doanh tích cực hơn, có thể thúc đẩy các doanh nghiệp
tư nhân hơn nữa tham gia đầu tư và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, để thực hiện mô hình này thành công, cần có sự quản lý hiệu quả
của các nguồn lực, tránh lãng phí và đảm bảo rằng các dự án đầu tư được triển khai
một cách có trách nhiệm và mang lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế.
b) Mô hình Robert Solow
Mô hình tăng trưởng của Robert Solow, còn được gọi là mô hình tăng
trưởng dựa trên tiến bộ công nghệ, giải thích mối quan hệ giữa đầu tư và tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn thông qua các yếu tố như sau:
 Tích luỹ vốn: Mô hình Solow nhấn mạnh việc tích luỹ vốn (bao gồm cả vốn
vật chất và vốn nhân lực) làm động lực chính để tăng trưởng kinh tế. Đầu tư
vào cơ sở hạ tầng, giáo dục, nâng cao chất lượng lao động là cần thiết để tạo
nên sự tăng trưởng dài hạn.
 Hiệu suất năng suất lao động: Một yếu tố quan trọng khác trong mô hình
Solow là hiệu suất năng suất lao động. Đây là khả năng tăng cường sản xuất
mỗi đơn vị lao động thông qua tiến bộ công nghệ, cải thiện quy trình sản
xuất và hệ thống quản lý.
 Hội tụ đến Điểm cân bằng: Mô hình Solow cho rằng các nền kinh tế có thể
tiến tới một điểm cân bằng, nơi tốc độ tăng trưởng kinh tế hội tụ về mức độ
ổn định dài hạn, không còn tăng trưởng nhanh như ban đầu khi tiềm năng
của việc tích luỹ vốn và tiến bộ công nghệ giảm dần.
 Áp dụng chính sách kinh tế: Dựa trên mô hình Solow, việc áp dụng chính
sách kinh tế thông minh có thể giúp tối ưu hóa tích luỹ vốn và nâng cao hiệu
suất năng suất lao động. Chính sách này có thể bao gồm việc đầu tư vào
nghiên cứu phát triển, cải thiện giáo dục, hỗ trợ doanh nghiệp và tạo điều
kiện cho sự tiến bộ công nghệ.
 Cân nhắc về tương lai: Mô hình Solow cũng nhấn mạnh việc cân nhắc về
tương lai, tức là việc đầu tư vào các nguồn lực và công nghệ để tạo ra sự

12
tăng trưởng bền vững trong dài hạn thay vì chỉ tập trung vào tăng trưởng
ngắn hạn mà không bảo đảm được sự bền vững.
Mô hình Solow giúp hiểu rõ hơn về cách các yếu tố như đầu tư và tiến bộ
công nghệ tác động vào tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những yếu tố cần thiết để
duy trì tăng trưởng dài hạn và ổn định trong nền kinh tế.
IV. Thực tiễn tác động của đầu tư lên tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
4.1. Việt Nam trước khi mở rộng vốn đầu tư
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam thiếu đa dạng, hai loại hình kinh tế
chủ yếu trong thời kỳ này là xí nghiệp quốc doanh và tập thể, một số ít là loại hình
kinh tế cá thể, chưa có kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Khi
này, kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng rất lớn, Chính phủ kiểm soát mạnh mẽ toàn
bộ nền kinh tế và tài chính, quyết định về việc phân phối nguồn lực và đầu tư.
Chính mô hình kinh tế cơ địa hóa và sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước đã
làm giảm cạnh tranh, hiệu suất và năng suất trong sản xuất. Các doanh nghiệp và
nguồn lao động thường không được khuyến khích đạt được hiệu suất tối đa, tình
trạng thất nghiệp đặc biệt là trong nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản
đã tạo ra vấn đề xã hội nghiêm trọng. Bên cạnh đó, sự quản lý của chính phủ đã
dẫn đến việc sử dụng nguồn tài chính không hiệu quả, làm gia tăng khó khăn tài
chính và nợ công. giai đoạn 1976-1985, mức đầu tư công của Việt Nam chỉ đạt
khoảng 12-13% GDP rất thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á cùng
thời điểm.
Tóm lại, đầu tư công ở Việt Nam trước năm 1986 thường được thực hiện
dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước, tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng
quốc gia và thiếu sự minh bạch trong quản lý nguồn vốn và dự án. Điều này đã tạo
ra một loạt thách thức và hạn chế trong việc phát triển kinh tế của Việt Nam trong
giai đoạn này.
4.2. Việt Nam sau khi mở rộng vốn đầu tư
a) Bối cảnh đầu tư trong nước sau khi mở rộng vốn đầu tư
Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành gây đình trệ nền kinh tế
phát triển, Nhà nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế.
Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã
hội chủ nghĩa.
b) Những thay đổi trong chính sách đầu tư trong nước
Những thay đổi đầu tiên thể hiện từ Quyết định 80/HĐBT ngày 8/5/1988
mang lại những tác động tích cực như: Tập trung vốn ngân sách cho các công trình
lớn, xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi, bước đầu đa dạng hoá các nguồn
vốn,... Với quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động đầu tư để khuyến khích
đầu tư trong nước, Nhà nước ban hành Điều lệ quản lý ĐT và XD theo Nghị định
13
385/HĐBT ngày 7/11/1990, Quy chế quản lý theo nghị định 177/CP ngày
10/10/1994; giải quyết được một phần các thiếu sót của chính sách quản lý đầu tư
trước đó: Xác định đúng nguyên tắc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, thực hiện
đúng trình tự đầu tư và xây dựng, tất cả các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước
đều phải tham gia đấu thầu theo quy chế đấu thầu…
Các Luật Đầu tư trong nước được thay thế bằng Luật Đầu tư, các chính sách
quản lý đầu tư trong nước bắt đầu được quy định trong Luật Đầu tư 2005, Luật
Đầu tư 2014, Luật Đầu tư công 2014; Luật Đầu tư công 2019; Luật Đầu tư 2020;
Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư 2020.
Các phương thức quản lý hoạt động đầu tư được ban hành đã từng bước
mang lại thành tựu to lớn về kinh tế đất nước, xây dựng nền kinh tế Việt Nam bình
đẳng hơn, minh bạch hơn, công khai hơn, đáp ứng với yêu cầu của thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế.

b) Những thành tựu đạt được nhờ những thay đổi trong cơ chế quản lý đầu tư trong
nước
* Giai đoạn 1986-2000
Những đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được sự hưởng ứng rộng rãi của
quần chúng nhân dân, khơi dậy tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế
để phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm
cho xã hội. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó:
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Nếu so với tốc độ tăng chung của
kinh tế thế giới và sự giảm sút nhanh của các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Đông Âu và Liên Xô khi chuyển sang kinh tế thị trường, thì các tốc độ tăng trên
của nền kinh tế Việt Nam là một kết quả đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế từng bước
chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Năm 2000, tỷ
trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm
phần trăm so với năm 1986; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng
7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành nông nghiệp đã giải quyết
vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam
từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới.
Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân
mỗi năm trong thời kỳ 1986-2000 đạt 11,09%. Những sản phẩm công nghiệp quan
trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất
lượng. Sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng
gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6 lần… Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm
hơn đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ
14
tiên tiến và thay đổi phương án sản xuất theo yêu cầu của thị trường. Do sản xuất,
kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã được
kiềm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng 3 chữ số
mỗi năm trong 3 năm, 1986-1988, đã giảm xuống chỉ còn tăng một chữ số trong
thời kỳ 1993-2000. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác
được củng cố và tăng cường. Tại thời điểm 01/4/1999, cả nước có 90% số trẻ em
14 tuổi tốt nghiệp tiểu học; 94% dân số trong độ tuổi 15-35 biết chữ. Sau 10 năm
nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành chương trình mục tiêu
chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong
thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm cho đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh góp phần làm cho công
cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn này đạt được những kết quả
đáng kể. Đến năm 1998 tỷ lệ nghèo giảm xuống chỉ còn 37,4%.
* Giai đoạn 2001-2020
Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế – xã hội
là Chiến lược 2001-2010 và Chiến lược 2011-2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” theo phương châm
“Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình
đẳng cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển”. Do tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn,
thách thức, nền kinh tế – xã hội nước ta đã có những biến đổi quan trọng, đạt được
nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế liên tục tăng trưởng đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình
thấp. Quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm
2001. Tốc độ tăng GDP tương đối cao, bình quân năm trong giai đoạn 2001-2010
tăng 7,26%, đạt xấp xỉ tốc độ tăng 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế – xã hội 1991-2000, đây là một thành tựu phát triển kinh tế rất quan trọng
của đất nước ta trong giai đoạn này. Trong giai đoạn 2011- 2019, GDP tăng
6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng cao nhất kể từ năm
2008. Trong giai đoạn 2016-2019, NSLĐ toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao
hơn tốc độ 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế nước ta đã bước
đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản
xuất, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng lao động qua
đào tạo của các ngành kinh tế đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế
– xã hội và hội nhập quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và
sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới.
Năm 2019, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng số vốn
đăng ký đạt 38.951,7 triệu USD, tương ứng gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai
đoạn 1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành kênh huy động vốn quan
15
trọng cho sự phát triển kinh tế- xã hội, có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thêm
nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ cho nền kinh tế.
Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong
thời kỳ này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia:
Xoá đói giảm nghèo và Việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu
quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo
bền vững giai đoạn 2016-2020. Điều này đã góp phần quan trọng giúp cho công
cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong thời kỳ này đạt được nhiều kỳ tích. Do
hội nhập kinh tế sâu rộng, kinh tế – xã hội của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nhờ có các biện pháp
đối phó chủ động từ Trung ương tới địa phương, tác động y tế của dịch bệnh không
nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác. Kinh tế vĩ mô và tài khóa giữ được ổn
định, với mức tăng trưởng GDP ước tính đạt 1,81%, trong 6 tháng đầu năm 2020.
Đại dịch Covid-19 cho thấy quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư để khuyến
khích các hoạt động đầu tư trong nước vẫn cần phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn
để kinh tế phục hồi trong thời gian sau Đại dịch, như cải thiện môi trường kinh
doanh, thúc đẩy kinh tế số, nâng cao hiệu quả đầu tư công.
*Giai đoạn 2021 đến nay
Năm 2021, đất nước gặp vô vàn khó khăn, thách thức do dịch COVID-19. Tuy
nhiên, thực hiện phương châm thích ứng an toàn, linh hoạt kiểm soát hiệu quả dịch
bệnh nên dù trong bối cảnh khó khăn đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn có những
“điểm sáng” đáng ghi nhận. Sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế trước và sau
đợt dịch lần 4 thể hiện tính năng động của thị trường và năng lực thích ứng, sáng
tạo của các doanh nghiệp. Sáu tháng đầu năm 2021, nền kinh đã có sự khởi sắc khi
tăng trưởng của nhiều địa phương đạt mức khá cao; tăng trưởng GDP của nền kinh
tế quý I/2021 đạt 4,72% và quý II/2021 đạt 6,73%. Khi đại dịch cơ bản được kiểm
soát, tăng trưởng kinh tế trong quý IV/2021 đã phục hồi khá nhanh chóng, với mức
tăng trưởng GDP ước đạt 5,22% (cao hơn tốc độ tăng 4,61% của quý IV/2020). Sự
phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế giữa 2 đợt dịch đã cho thấy nội lực và tiềm
năng phát triển của nền kinh tế.
Khả năng ứng phó, sức sống của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện khắc
nghiệt của đại dịch chính là điểm sáng nổi bật của bức tranh kinh tế Việt Nam năm
2021. Trong đợt dịch COVID-19 lần 4, các doanh nghiệp Việt Nam đã chung vai
gánh vác hỗ trợ người dân, đảm bảo an sinh xã hội, đồng thời kiên trì chống chọi
với dịch bệnh, giữ chân người lao động, bám trụ sản xuất với nhiều hình thức sáng
tạo. Nhiều doanh nhân còn tham gia góp ý, phản biện chính sách với chính quyền
các cấp trong việc thực hiện “mục tiêu kép”, kiến tạo các giải pháp phát triển kinh
16
tế trong điều kiện “bình thường mới”. Năm 2021, bình quân mỗi tháng đã có
13.300 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Điều này thể hiện nỗ
lực tái cấu trúc và thích ứng của khu vực doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khu vực
nông nghiệp tiếp tục phát huy vai trò “bệ đỡ” của nền kinh tế. Trong bối cảnh dịch
bệnh, có những thời điểm chuỗi cung ứng và tiêu thụ sản nông sản bị đứt gãy, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá, đạt 2,9%,
đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã đạt mức kỷ lục mới, với tổng giá trị 668,5
tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020. Điểm sáng của ngoại thương năm 2021 là
kết quả của sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch, đồng thời cũng
là kết quả của sự nắm bắt thời cơ từ các Hiệp định thương mại (FTA) được các
doanh nghiệp Việt Nam tận dụng có hiệu quả. Phát triển kinh tế số được coi là
điểm nhấn của kinh tế Việt Nam năm 2021. Trong điều kiện dịch bệnh bùng phát,
mọi hoạt động về an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe, cung ứng hàng hóa thiết yếu,
giáo dục đào tạo, đến việc duy trì sản xuất và liên kết chuỗi cung ứng hàng hóa
giữa các địa phương, giữa trong nước với nước ngoài, đều được kích hoạt và thực
hiện thông qua chuyển đổi số (digital transformation) và kinh tế số (digital
economy). Trong năm 2021, theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, quy mô
của nền kinh tế số Việt Nam ước đạt 21 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2020. Còn
theo Báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á” của Google, Temasek và Bain &
Company (10/11/2021), quy mô của nền kinh tế số của Việt Nam trong khu vực
Đông Nam Á năm 2021 tương đương với Malaysia (đứng sau Indonesia, Thái
Lan), dự báo đến năm 2025 sẽ đạt 57 tỷ USD, vươn lên vị trí thứ 2 trong khu vực
(chỉ sau Indonesia). Bảo vệ sức khỏe, thực hiện an sinh xã hội cho người dân, đồng
thời duy trì sản xuất kinh doanh để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, là
mục tiêu trung tâm và cũng là điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam năm
2021. Tình hình kinh tế – xã hội từ đầu năm 2022 đến tháng 11/2022 của nước ta
tiếp tục tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, tuy nhiên tốc độ tăng có xu
hướng chậm lại. Tuy vậy với quyết tâm duy trì sự ổn định để phát triển kinh tế – xã
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ, ngành và địa phương tích cực
triển khai các nhiệm vụ, giải pháp. Nhờ đó, kinh tế – xã hội nước ta trong 11 tháng
năm 2022 vẫn giữ vững sự ổn định, các cân đối vĩ mô được đảm bảo, lạm phát
trong tầm kiểm soát. Ngành công nghiệp tiếp tục duy trì tăng trưởng, chỉ số sản
xuất (IIP) tháng 11/2022 ước tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11
tháng năm 2022, chỉ số IIP tăng 8,6%; trong đó nhiều ngành công nghiệp trọng
điểm tăng trưởng cao.
Hoạt động thương mại dịch vụ tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ năm trước, đặc
biệt ở các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành. Tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 ước tăng 2,6% so với tháng trước và
tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2022 tăng 20,5%
17
so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận tải hành khách và hàng hóa tăng trưởng
cao so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2022, khách quốc tế đến
nước ta đạt 2.954,2 nghìn lượt người, gấp 21,1 lần cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hóa đảm bảo kết nối hàng hoá với thế giới và có mức thặng dư tích cực. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, tính chung 6 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu hàng hóa ước đạt 316,65 tỷ USD.
4.3. Các hoạt động đầu tư nước ngoài
a) Bối cảnh hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Trước 1986, Việt Nam không có hoạt động đầu tư nước ngoài, chỉ có các
nguồn viện trợ không hoàn lại của các quốc gia thuộc khối Xã hội Chủ nghĩa.

b) Các chính sách đầu tư nước ngoài


Ngày 29/12/1987, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội VIII, Quốc hội thông qua Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây được coi là bước ngoặt lịch sử, là văn bản
pháp lý quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài, tạo điều
kiện mời gọi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua vào cuối năm 1987 cho phép
nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp sở hữu 100% vốn. Điều khoản này
thay cho cam kết rằng Việt Nam coi trọng lợi ích của nhà đầu tư. Tuy nhiên, sau 10
năm, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 với đặc điểm là mô hình
pháp lý đầu tiên về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không tránh khỏi những hạn
chế nhất định cần được khắc phục trong điều kiện mới, khi đất nước bước vào giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Nhằm tạo ra môi trường pháp lý an toàn, hấp dẫn để thu hút đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cải
cách thủ tục hành chính, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Quốc hội Khoá IX, kỳ
họp thứ 10 đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào ngày
12.11.1996 thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và hai Luật
sửa đổi, bổ sung năm 1990, 1992. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 tiếp
tục được bổ sung thành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 qua kỳ họp
Quốc hội lần thứ 7 Quốc hội Khóa X. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm
1996 bổ sung năm 2000 có những cải thiện đáng kể, cải thiện những khuyết điểm,
nêu ra những quy định cụ thể, rõ ràng hơn, nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào những mục tiêu trọng điểm, những lĩnh vực ưu tiên phục
vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn tiếp theo,
các Luật Đầu tư nước ngoài được quy định ngay trong Luật Đầu tư. Những nội
dung như: quy định về hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh; quyền và
nghĩa vụ của nhà đầu tư; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; khuyến
18
khích và ưu đãi đầu tư, quản lý nhà nước về đầu tư tại Việt Nam và đầu tư từ Việt
Nam ra nước ngoài;… được quy định ngay trong Luật Đầu tư 2005 và tiếp tục
được hoàn thiện, quy định trong các Luật Đầu tư kế tiếp.
c) Những thành tựu đạt được từ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
*Các hoạt động đầu tư tại Việt Nam bằng vốn từ nước ngoài
Chặng đường hơn 30 năm thu hút FDI kể từ 1987 đến nay, chúng ta đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Trong giai đoạn đầu, FDI đóng vai trò như một “cú
hích”, tạo sự đột phá, vừa bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, vừa
khơi dậy các nguồn lực trong nước, để khai thác, tận dụng các tiềm năng, lợi thế,
đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn, khủng hoảng. Tuy nhiên, trong hơn 2
năm kể từ năm 1988 đến tháng 5/1990, chỉ có 213 giấy phép đầu tư được cấp, với
tổng vốn đăng ký gần 1,8 tỷ USD. Chỉ trong vòng 7 năm tiếp theo đó, đã có 2.230
dự án đăng ký đầu tư vào Việt Nam, với 16,244 tỷ USD vốn đăng ký và 12,98 tỷ
USD vốn thực hiện.. Mục tiêu thu hút FDI giai đoạn 1995-2010 là hướng vào xuất
khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại tệ, tạo việc làm, nâng cao năng lực quản lý, đóng
góp ngân sách… Giai đoạn từ 2011 đến 2018, đặc biệt là ở thời điểm hiện tại,
trong bối cảnh nền kinh tế đã có bước phát triển (tăng trưởng GDP bình quân 6-
7%/năm), trở thành nước có thu nhập trung bình, có độ mở lớn, hội nhập sâu…,
FDI vẫn giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Lũy
kế đến 2020, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần
(GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,53 tỷ USD. Vốn thực hiện của dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 19,98 tỷ USD. Trong năm 2021, mặc dù dịch
Covid -19 đang diễn biến phức tạp nhưng vốn FDI vào Việt Nam vẫn đạt 31,15 tỷ
USD, tăng 9,2% so với năm 2020. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài
đang đặt niềm tin rất lớn vào môi trường đầu tư Việt Nam. Bước sang năm 2022,
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được kỳ vọng sẽ khởi sắc trở
lại nhờ những chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn và chủ trương mở cửa trở lại nền
kinh tế sau hai năm đóng cửa bởi dịch bệnh Covid-19. Tổng vốn đầu tư nước ngoài
đăng ký vào Việt Nam tính đến 20/3/2022 đạt 8,91 tỷ USD. Vốn đăng ký cấp mới
có 322 dự án được cấp phép với số vốn đăng ký đạt 3,21 tỷ USD, tăng 37,6% về số
dự án và giảm 55,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Các hoạt động
của doanh nghiệp vốn FDI đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tại Việt Nam. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần phát triển nhiều ngành dịch vụ
chất lượng cao, như tài chính - ngân hàng, kiểm toán, vận tải biển, logistics, giáo
dục - đào tạo, y tế, du lịch...; tạo ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa,
tiêu dùng, kích thích hoạt động thương mại nội địa; chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số địa
phương; từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị
toàn cầu. Ngoài ra, việc thu hút và sử dụng FDI trong 30 năm qua đã hỗ trợ quá
trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
19
* Nhà đầu tư Việt Nam thực hiện đầu tư ra nước ngoài
Bên cạnh các dự án đầu tư trong nước, các doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam
cũng có quyền sử dụng vốn hợp pháp để thực hiện các hoạt động đầu tư tại các
quốc gia ngoài Việt Nam. Các hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp
Việt Nam được quy định tại Luật Đầu tư 2005 và tiếp tục được hoàn thiện đến nay
và được quy định trong Luật Đầu tư 2020 Trong tháng 12 năm 2021. Trong năm
2021, có 61 dự án được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mới, với tổng vốn
đăng ký đạt trên 409 triệu USD (tăng 28,6% so với cùng kỳ) và 22 lượt dự án điều
chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn điều chỉnh giảm trên 776 triệu USD (giảm gần 3,9
lần so với cùng kỳ). Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 15 ngành.
Trong đó hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ dẫn đầu với 1 dự án mới và
3 lượt dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đạt trên 420,8 triệu USD, tăng 6,7 lần
so với năm 2020. Ngành bán buôn, bán lẻ đứng thứ 2, tiếp theo là các ngành nông,
lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo,… Có 26 quốc gia, vùng lãnh
thổ nhận đầu tư của Việt Nam trong năm 2021. Dẫn đầu là Hoa Kỳ với 4 dự án đầu
tư mới và 3 dự án điều chỉnh vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 307,3 triệu
USD, tăng 4,4 lần so với năm 2020. Đứng thứ hai là Singapore với tổng vốn đầu tư
trên 141,7 triệu USD, tăng gần 3,6 lần so với năm 2020. Tiếp theo lần lượt là
Campuchia, Israel… với vốn đầu tư đạt 89,4 triệu USD và gần 71,6 triệu USD.
Lũy kế đến 20/12/2021, Việt Nam đã có 1.448 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu
lực với tổng vốn đầu tư Việt Nam trên 20,9 tỷ USD. Đầu tư của Việt Nam ra nước
ngoài tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng (32,3%); nông, lâm nghiệp,
thủy sản (16%). Các địa bàn nhận đầu tư của Việt Nam nhiều nhất lần lượt là Lào
(24,8%); Campuchia (13,6 %); Venezuela (8,7%);…

V. Bài học rút ra cho đầu tư tại Việt Nam


5.1. Bài học rút ra cho Việt Nam
Trên cơ sở kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực và để hoàn thành các
mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 29/2021/QH15, trong thời gian tới, Việt Nam cần
lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, cần thay đổi quan điểm về đầu tư công, thực hiện xã hội hoá,
khuyến khích tư nhân cùng tham gia đầu tư công với mục tiêu công phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội trừ lĩnh vực nhạy cảm liên quan tới an ninh, quốc phòng. Nhà
nước cần tạo cơ hội bình đẳng hơn nữa cho các nguồn vốn đầu tư khác của xã hội,
tạo ra các cơ chế hiệu quả để huy động tối đa các nguồn vốn tư nhân, giảm dần sự
phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách. Chính phủ rút dần các dự án đầu tư công, tăng
cường tính cạnh tranh, mở rộng mức độ dịch vụ công. Đối với thị trường, mở rộng
đối tượng tham gia, xóa bỏ độc quyền của DNNN, khuyến khích vốn đầu tư của xã
hội. Đối với những lĩnh vực đan xen giữa Chính phủ và thị trường, sản phẩm dịch
vụ công, khuyến khích đầu tư theo hình thức công tư (PPP). Còn trên cơ sở phân

20
quyền giữa trung ương và địa phương, thì trung ương chỉ đầu tư những dự án lớn
trọng điểm đa lĩnh vực. Còn đối với những dự án thuộc khu vực địa phương, do địa
phương phụ trách, trung ương chỉ hỗ trợ chuyển chi từ ngân sách trung ương; Tối
ưu hóa chính sách đầu tư công, thời kỳ đầu các dự án là hỗ trợ từ ngân sách, từng
bước chuyển sang đầu tư, hỗ trợ lãi suất, quỹ đầu tư…
Thứ hai, Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh doanh,
ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện
pháp thúc đẩy giải ngân... tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính
sách phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, góp phần tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, để thu hút nguồn lực của các thành phần kinh tế, cả
trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Đặc biệt, trong thời đại cách mạng công
nghiệp 4.0, có thể khai thác tối đa và tận dụng hiệu quả các lợi thế của đầu tư nước
ngoài trong giai đoạn chuyển đổi theo hướng chất lượng và hiệu quả. Chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài cần cải cách theo hướng ưu tiên cao nhất cho công nghệ
cao, công nghệ nguồn hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, xây dựng môi trường
kinh doanh phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp trong kỷ nguyên số, cần phải
đem lại môi trường đầu tư ưu việt cùng các trải nghiệm vận hành với các giải pháp
số, trực tuyến cạnh tranh được với các đối thủ khác trong khu vực. Tiếp tục cải
cách hành chính hơn nữa trong giải quyết thủ tục đầu tư. Xử lý kịp thời vướng mắc
trong vấn đề cấp phép điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Đồng thời, tăng cường
hoạt động kiểm tra giám sát đối với các doanh nghiệp có vốn FDI nhằm đảm bảo
sự công bằng cho các doanh nghiệp trong nước và giữ vững mối quan hệ thân thiện
với các nước đầu tư. Cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy
trình, thủ tục kiểm soát chi với nguyên tắc thanh toán trước, kiểm soát sau. Rút
ngắn thời gian kiểm soát từ 7 ngày xuống còn 1 - 3 ngày làm việc, giảm thời gian
rút vốn nước ngoài xuống còn 1 ngày. Tăng cường thực hiện kiểm soát chi, rút vốn
và giải ngân qua hệ thống công nghệ thông tin. Khuyến khích làm việc trực tuyến
để tiết kiệm thời gian, chi phí và không gây phiền hà cho các bộ, cơ quan, địa
phương. Bên cạnh đó, xác định rõ vai trò của Chính phủ, trao quyền cho địa
phương, đưa những khoản nợ của địa phương vào dự toán ngân sách. Từ năm
2014, địa phương tự phát hành và tự trả nợ, tăng trách nhiệm của địa phương, xác
định trách nhiệm của chủ đầu tư dự án….VN cần phải xây dựng được một thể chế
có tính thị trường vững chắc, có một hệ thống luật pháp, quy tắc, chính sách, cấu
trúc và cách thức tiến hành... hoàn chỉnh để tạo lòng tin cho nhà đầu tư
Thứ ba, khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án dự kiến bố trí kế hoạch
đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 sớm; rà soát ưu tiên bố trí đủ vốn cho
các dự án chuyển tiếp, sắp xếp thứ tự ưu tiên khởi công mới các dự án trong năm
2023 bảo đảm tính khả thi về thủ tục đầu tư, thực hiện và giải ngân; hoàn thành
một số dự án trọng điểm, tạo động lực mới phát triển ngành, lĩnh vực và địa
phương. Để thúc đẩy tái cơ cấu đầu tư công giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 cần giảm
21
tối đa số lượng các dự án đầu tư mới, để tập trung cho dự án lớn, quan trọng. Đầu
tư đúng trọng tâm, trọng điểm, không theo thứ tự ưu tiên; đảm bảo nguyên tắc “đầu
tư công dẫn dắt đầu tư tư”. Để đầu tư công dẫn dắt và kích hoạt đầu tư của mọi
thành phần kinh tế và huy động được mọi nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát
triển, giải pháp quan trọng nhất để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công vẫn là tăng
cường vai trò của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án. Ban quản lý dự án phải chỉ
đạo triển khai quyết liệt, kiểm tra, giám sát; những khó khăn, vướng mắc cần liên
hệ ngay với các bộ, ngành giải quyết kịp thời.
Thứ tư, tổ chức triển khai quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu
tư công. Giải ngân đầu tư công có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, thúc đẩy giải
ngân đầu tư công cũng góp phần thực hiện chính sách tài khóa mở rộng có trọng
tâm, trọng điểm phối hợp hài hòa, hợp lý, chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các
chính sách khác để tiếp tục ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Giám sát và
xử lý các điểm nghẽn trong giải ngân đầu tư công, kiểm định chặt chẽ và có sự
kiểm tra chéo giữa các cơ quan chuyên ngành, bảo đảm hiệu quả đầu tư và kết quả
đầu ra của từng dự án; nâng cao chất lượng công tác trong giai đoạn chuẩn bị đầu
tư, chuẩn bị dự án, tránh để lãng phí, thất thoát. Thực hiện cơ chế phân công, phối
hợp rõ ràng, cụ thể về thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, đơn vị trong việc
hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án.
Thứ năm, để tối đa kế hoạch vốn đầu tư công, cần tăng cường quản lý đất
đai, nhất là nguồn gốc đất, quy hoạch sử dụng các loại đất, hạn chế tối đa việc điều
chỉnh phương án đền bù, bảo đảm tiến độ giải phóng mặt bằng đúng quy định cho
người dân, bảo đảm đúng pháp luật và hài hòa lợi ích của Nhà nước và người dân,
đảm bảo nhanh tiến độ thực hiện dự án, nhất là các dự án quan trọng quốc gia, dự
án trọng điểm; nghiên cứu và có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ khó khăn
cho các dự án chậm thực hiện, đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức
lan tỏa, tác động đối với nền kinh tế. Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tập
trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên; đẩy nhanh
tiến độ thi công; tiếp tục giải quyết những vấn đề đang còn vướng mắc trong Luật
Đầu tư công để đẩy nhanh phân cấp, phân quyền. Tách giải phóng mặt bằng và tái
định cư thành những đề án riêng. Đảm bảo rút ngắn thời gian, tiến độ để thực hiện
dự án. Thực hiện tạm ứng, nghiệm thu, thanh toán, thu hồi tạm ứng vốn đầu tư theo
đúng quy định; chủ động rà soát điều chuyển vốn theo thẩm quyền giữa các dự án
chậm giải ngân sang các dự án có khả năng giải ngân tốt hơn nhưng còn thiếu vốn
theo quy định pháp luật.
Thứ sáu, áp dụng các thông lệ quốc tế và kiến thức khoa học vào việc quản
lý đầu tư công. Có rất nhiều hướng dẫn tốt do các tổ chức quốc tế ban hành về khía
cạnh kỹ thuật quản lý đầu tư công cần được nghiên cứu và đưa vào các quy định
cho phù hợp.
22
Thứ bảy, cần tái cơ cấu đầu tư công theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư
công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả và
chất lượng của đầu tư công. - Đầu tư công trong nền kinh tế cần được thay đổi theo
hướng giảm bớt chức năng đầu tư để kinh doanh. Tập trung ưu tiên đầu tư công
cho phát triển kết cấu hạ tầng cũng như những nền tảng khác cho sự phát triển bền
vững như: đầu tư cho giáo dục đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội để phát triển nguồn
nhân lực có trình độ kỹ thuật cao; nâng cao năng lực quản lý và hiện đại hóa quản
lý nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội.
5.2. Liên hệ bản thân sinh viên
Thứ nhất, người trẻ cần có văn hóa sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường, hình thành ý chí tự thân lập nghiệp để sẵn sàng
cho tương lai. Thúc đẩy tinh thần sáng tạo và khởi nghiệp trong lớp trẻ là cách mà
họ có thể tạo ra giá trị và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Việc xây dựng ý tưởng
mới, khởi nghiệp sớm hoặc tham gia vào các dự án cộng đồng có thể giúp người
trẻ hiểu rõ hơn về quy trình kinh doanh và cách mà đầu tư có thể tạo ra giá trị.
Trong thời gian qua, giáo dục đại học ở Việt Nam quá chú trọng đến các ngành,
như kinh tế, tài chính, ngân hàng... khiến nhu cầu học các ngành này rất cao và học
sinh rời xa các ngành khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, nhu cầu tuyển dụng lao
động đối với một số ngành thuộc nhóm công nghệ, kỹ thuật, cơ khí và các ngành
liên quan đến toán học (STEM) ngày càng lớn, đặc biệt trong làn sóng khởi nghiệp
ở lĩnh vực công nghệ hiện nay.
Thứ hai, các DN khu vực tư cần nhân phát triển hướng đến tạo việc làm, thu
nhập cho người lao động, nhất là lực lượng lao động mới tham gia hướng đến tăng
trưởng bao trùm.
Thứ ba, các nhà đầu tư cần chú trọng vào các dự án có nhiều đổi mới sáng
tạo, phát triển các công nghệ, quy trình sản xuất mới. Theo đánh giá của Ngân
hàng Thế giới, chi phí cho nghiên cứu và phát triển của các DN Việt Nam chưa có
nhiều cải thiện cũng vì thế mà các nhà đầu tư có thể cân nhắc đầu tư vào các dự án
tiềm năng nhưng còn thiếu vốn để nghiên cứu. Từ đó góp phần nâng cao năng lực
khoa học - công nghệ cần tăng cường và mở rộng giúp các DN Việt Nam cải thiện
khả năng liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia chuỗi giá trị khu vực
và toàn cầu.

Thứ tư là, đầu tư tư nhân vẫn còn nhiều bất cập, có những biểu hiện của hiện
tượng đầu tư nước ngoài và đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân trong nước. Trong
nhiều ngành, các nhà đầu tư có thể tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực như như
điện tử, ô-tô, xe máy,.... Bên cạnh đó, cần có sự chuẩn bị trước các tác động ngoại
cảnh (khủng hoảng, suy thoái) cũng như các hiệu ứng thái quá của kinh tế thị
trường (đầu cơ, chạy theo lợi nhuận, lợi ích nhóm,...).

23
Thứ năm, Về phía người đầu tư, đầu tư vào bản thân thông qua việc học
hành và phát triển kỹ năng là yếu tố quan trọng nhất. Lớp trẻ cần chú trọng vào
việc học tập, rèn luyện kỹ năng mềm và kỹ năng chuyên môn để trở thành những
nguồn lực chất lượng cho tương lai, góp phần tạo nền tảng cho sự phát triển kinh
tế: (1) Nghiên cứu và phân tích thị trường tài chính: Hiểu rõ về cơ cấu thị trường
tài chính, xu hướng và biến động giá cả, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến thị
trường. Điều này giúp bạn đưa ra các quyết định đầu tư thông minh hơn. (2) Quản
lý rủi ro: Tìm hiểu cách đánh giá và quản lý rủi ro trong đầu tư. Điều này bao gồm
việc xác định các loại rủi ro, đo lường chúng và áp dụng các chiến lược đa dạng
hóa để giảm thiểu rủi ro. (3) Học về các loại đầu tư: Hiểu rõ về các loại đầu tư
khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, và các sản phẩm đầu tư khác.
Tìm hiểu về cách phân tích, định giá và chọn lựa các cơ hội đầu tư phù hợp. (4) Áp
dụng phương pháp đầu tư thông minh: Học và áp dụng các phương pháp đầu tư
thông minh như phân tích cơ bản, kỹ thuật, và các chiến lược đầu tư dựa trên dữ
liệu. (5) Nắm vững kiến thức về kinh tế: Hiểu rõ về cơ bản của kinh tế học và cách
các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến các cơ hội đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
(6) Tư duy chiến lược: Phát triển khả năng tư duy chiến lược để đưa ra các quyết
định đầu tư dựa trên những thông tin và phân tích logic. (7) Theo dõi tin tức và xu
hướng: Theo dõi tin tức kinh tế, tài chính và các xu hướng thị trường để cập nhật
thông tin mới nhất và điều chỉnh chiến lược đầu tư nếu cần. (8) Thực hành và học
hỏi từ kinh nghiệm: Tham gia các hoạt động thực tế như giao dịch giả lập, thực tập
hoặc làm việc với các chuyên gia đầu tư để học hỏi từ kinh nghiệm thực tế.

24
KẾT LUẬN

Áp dụng đầu tư vào tăng trưởng kinh tế là một chiến lược quan trọng và cần
thiết để thúc đẩy sự phát triển bền vững của một quốc gia hoặc khu vực. Việc đầu
tư không chỉ tạo ra cơ hội tăng cường sản xuất, mà còn góp phần vào việc nâng cao
chất lượng cuộc sống, giảm độ nghèo đói, và tạo ra các nguồn lực cần thiết cho sự
phát triển tương lai.

Đầu tư vào tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra qua nhiều hình thức như đầu tư
công, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài và việc nâng cao năng lực sản xuất thông
qua việc nâng cao hạ tầng, phát triển công nghệ, và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao. Các hoạt động đầu tư này không chỉ tạo ra nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế mà còn thúc đẩy sự đổi mới và cải tiến trong các lĩnh vực khác nhau.

Tuy nhiên, việc áp dụng đầu tư vào tăng trưởng kinh tế cũng đặt ra nhiều
thách thức. Sự quản lý hiệu quả, sự minh bạch và tính bền vững của các dự án đầu
tư là điều cần thiết để đảm bảo rằng nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả
và mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng. Ngoài ra, cần phải xem xét và giảm
thiểu rủi ro cũng như tận dụng cơ hội trong quá trình đầu tư để đạt được tăng
trưởng kinh tế bền vững.

Tóm lại, việc áp dụng đầu tư vào tăng trưởng kinh tế là chìa khóa quan trọng
để thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thực
hiện các chiến lược đầu tư này một cách thông minh, bền vững và có trách nhiệm
để đảm bảo rằng lợi ích của việc đầu tư này được lan tỏa và cung cấp giá trị gia
tăng cho xã hội.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam (18/04/2023)

PGS, TS NGUYỄN VĂN THÀNH - PGS, TS TRẦN KIM CHUNG

https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/
content/mot-so-van-de-ly-luan-thuc-tien-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-o-viet-nam

2. Đầu tư công Việt Nam năm 2022 và gợi ý một số giải pháp cho thời gian
tới ( 18/01/2023 )
PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình
https://tapchinganhang.gov.vn/dau-tu-cong-viet-nam-nam-2022-va-goi-y-mot-so-
giai-phap-cho-thoi-gian-toi.htm

3. Tác động của đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: Góc
nhìn thực nghiệm từ mô hình ARDL ( 11/12-2014)

PGS.TS. TRẦN NGUYỄN NGỌC ANH THƯ & ThS. LÊ HOÀNG PHONG

https://www.uef.edu.vn/newsimg/tap-chi-uef/2014-11-12-19/1.pdf

4. Giáo trình kinh tế đầu tư (2023)

26
PGS.TS Từ Quang Phương- PGS.TS Phạm Văn Hùng

27

You might also like