You are on page 1of 23

1

MỤC LỤC
1.1. Khái niệm về đầu tư.......................................................................................2
1.2. Đặc điểm cuả hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp Việt Nam...........2
1.2.1. Đầu tư phát triển.....................................................................................3
1.2.1.1. Khái niệm.............................................................................................3
1.2.1.2. Đặc điểm chung của đầu tư phát triển..........................................3
1.2.1.3. Đặc điểm đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp Việt Nam..6
1.2.2. Đầu tư thương mại................................................................................9
1.2.2.1. Khái niệm.........................................................................................9
1.2.2.2. Đặc điểm của đầu tư thương mại trong các doanh nghiệp Việt
Nam 9
1.2.3. Đầu tư tài chính...................................................................................10
1.2.3.1. Khái niệm.......................................................................................10
1.2.3.2. Đặc điểm của đầu tư tài chính trong các doanh nghiệp Việt
Nam 10
2.1. Các vấn đề cơ bản của hoạt động đầu tư công...........................................11
2.1.1. Khái niệm.............................................................................................11
2.1.2. Mục tiêu................................................................................................11
2.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư công tại Việt Nam 12
2.2.1. Đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng đang có
xu hướng giảm trong thời gian gần đây. 12
2.2.2. Tỷ lệ vốn vay tài trợ cho đầu tư công gia tăng. 13
2.2.3. Đầu tư công vẫn tập trung lớn vào các hoạt động kinh tế. 14
2.2.4. Hoạt động đầu tư công có nhiều khác biệt lớn trong phân bổ theo
các nhóm ngành 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
2

PHẦN I ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về đầu tư
Hoạt động đầu tư (gọi tất là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài
chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp
hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền kinh tế nói chung. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các
kết quả đầu tư, có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.

Đầu tư theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Các kết quả đạt được có
thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn
lực.

Đầu tư theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đêm lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.

Từ đây có khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các nguồn
lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất kinh
doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích kinh tế xã
hội.

1.2. Đặc điểm cuả hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp Việt Nam
3

Hoạt động đầu tư được chia làm 3 hình thức chính: đầu tư phát triển, đầu tư thương
mại và đầu tư tài chính.
1.2.1. Đầu tư phát triển
1.2.1.1. Khái niệm
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc sử dụng vốn trong hiện
tại và hoạt động nào đó, là việc đánh đổi lợi ích trước mắt lấy lợi ích lâu dài nhằm
tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới và vì mục tiêu phát triển.
Xét về bản chất, đầu tư phát triển chính là đầu tư tài sản vật chất (nhà xưởng,
thiết bị...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng, sức lao động...) trong đó người có tiền
bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho
mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và
mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống
của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa
nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự
hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực hoạt động của
các cơ sở đang tồn tại và bổ sung tài sản.
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia,
là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật
chất,kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt
động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm
cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất ,kỹ thuật hiện
có. Và vì thế, là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh
nghiệp. Do đó, đầu tư phát triển có vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp.

1.2.1.2. Đặc điểm chung của đầu tư phát triển


4

Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm
khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn
của hoạt động đầu tư phát triển.
Bởi trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các công trình dở dang.
Do vốn lớn nên các nhà đầu tư cần phải cân nhắc lựa chọn đầu tư vào đâu cho có
hiệu quả cao nhất, phải nghiên cứu thị trường…
Vốn lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng đến chi phí sử
dụng, quản lý vốn (thời gian, chi phí, kết quả, chất lượng) và khả năng cạnh tranh
trên thị trường nếu vốn nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội cạnh
tranh.
Thứ hai, hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khia các thành quả của nó
phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng. Nó phụ thuộc vào giai
đoạn thực hiện đầu tư.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn hoặn thanh lý
tài sản cũng kéo dài. Điều này chịu tác động của cung cầu thị trường, của các yếu
tố đầu vào hay đầu ra của dự án.
Thời gian thực hiện đầu tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự
đoán ảnh hưởng đến quá trình thực hiện: môi trường, điều kiện tự nhiên, pháp lý,
kinh tế, chính trị. Điều này có thể thay đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư.

Thứ tư, thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính
rủi ro cao. Vì vậy cần phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các
rủi ro như: Trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu, những
rủi ro nào có thể xảy ra nhất. Trong trường hợp thuận lợi nhất thì hiệu quả đạt được
bao nhiêu để bù lại trong trường hợp rủi ro. Tuy nhiên đối với những yéu tố rủi ro
bất định, bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận
5

Thứ năm, các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử
dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng năm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại
vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim tự tháp cổ Aicập, Nhà thờ La
Mã ở Rôm, Vạn lý thường thành ở Trung Quốc, Ăngcovat của Campuchia…). Điều
này nói lên giá trị lớn của các thành quả hoạt động đầu tư phát triển.

Thứ sáu, các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình
xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều
kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng
như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.

Thí dụ: qui mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có mỏ
than tùy thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than. Nếu trữ lượng than của mỏ ít
thì qui mô của nhà máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hang năm
hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án.
Vì thế cần có chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư đúng đắn và đầu tư phải theo
quy hoạch, kế hoạch, cần phải có cơ sở khoa học để lựa chọn địa điệm thực hiện dự
án để có thể khai thác tối đa lợi thế của địa diểm mà doanh nghiệp hoạt động trên
đó. Nếu công trình không tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế không chỉ một hai năm, mà lâu dài.

Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi
hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn
thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư) có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự
án dược soạn thảo với chất lượng tốt. Đó là quá trình thực hiện đầu tư và quá trình
vận hành khai thác.
6

Quá trình thực hiện đầu tư ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm, đến giá thành
chi phí xây dựng (giá đất) như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm đựoc
chi phí san bằng...

Quá trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cao nếu địa
lý thuận lợi. Phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình, chi phí vận chuyển và
chi phí cung cấp sản phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra.

Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư, địa bàn, môi trường
sống,…

1.2.1.3. Đặc điểm đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp Việt Nam

Thứ nhất, quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư
thường rất lớn. Các kênh tạo vốn từ nhà nước như ngân sách, tín dụng đầu tư phát
triển không ngừng gia tăng trong thời gian theo sự gia tăng nói chung của nền kinh
tế, lượng vốn này chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư xã hội. 70% còn lại chúng ta
dựa vào huy động trong dân cư, doanh nghiệp và thu hút vốn nước ngoài. Tuy
nhiên, những kênh huy động vốn như vậy không ổn định và phụ thuộc nhiều vào
tình hì nh kinh tế thế giới.

Nhu cầu vốn rất lớn, tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả sử dụng vốn của các
doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư phát triển chưa cao. Chúng ta vẫn chưa quan
tâm đầy đủ việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn kể cả ngân sách, nguồn đầu tư
trong nước cũng như nước ngoài. Điều này xuất phát từ các tác động chung như các
cơ chế chính sách, vấn đề cơ sở hạ tầng,…

Về nguồn vốn nhân lực, chúng ta đang ở trong tinh trạng lao động thừa về
lượng và thiếu về chất. Nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được
7

yêu cầu của nguồn nhân lực có khả năng cạnh tranh quốc tế về trình độ, thể lực,
tính chuyên nghiệp, kỹ thuật, khả năng thích ứng với thay đổi,… Ngoài ra, nguồn
lực này còn bị hạn chế bởi tỷ lệ lao động có kỹ năng thấp, mất cân đối về cơ cấu
lao động theo trình độ, kỹ năng, lao động chất xám thiếu và yếu về chất lượng, thể
lực kém, tác phong công nghiệp và kỹ thuật chưa cao.

Thứ hai, thời kỳ đầu tư kéo dài. Thủ tục hành chính đang là rào cản lớn đối
với các cá nhân và doanh nghiệp, gây tổn thất và ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh quốc tế của nền kinh tế. Công tác cải cách thủ tục hành chính dù được xem
trọng trong thời gian qua, song sự cải thiện chỉ có mức độ. Trong những năm qua,
nhiều thủ tục đã được xóa bỏ và tiết kiệm được chi phí tuân thủ cho người dân và
doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhiều kết quả còn mang tính hình thức, chưa thực sự cắt
giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính.

Hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư và giám sát đầu tư đã khá hoàn thiện,
tuy nhiên tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, chậm tiến độ ở hầu hết dự án vẫn diễn
ra. Chậm tiến độ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng chi phí, làm
giảm hoặc không còn hiệu quả đầu tư của dự án.

Thứ ba, thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài Tình trạng buông
lỏng việc thực hiện công tác giám sát đầu tư còn nhiều tồn tại. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng công trình cũng như thời gian vận hành các kết quả đầu tư
sau này.

Thứ tư, các thành quả của đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được xây dựng.

Quy hoạch hiện nay còn tồn tại rất nhiều yếu kém như chất lượng chưa cao,
chưa có tầm nhìn xa, chưa theo kịp những thay đổi khách quan trên thị trường thế
8

giới, quy hoạch ngành, vùng, lãnh thổ chưa ăn khớp, gắn kết, tính cục bộ trong quy
hoạch đã gây ra sự lãng phí trong nguồn lực do sự phát triển chồng chéo, dư thừa
công suất. Những câu chuyện về nhà máy đường không có mía, về cảng biển không
có tàu lại một lần nữa được đề cập đến như minh chứng cho việc làm quy hoạch tùy
tiện, không có tầm nhìn, thiếu chiến lược, không tính tới các yếu tố vùng.

Thứ năm, đầu tư phát triển có độ rủi ro cao

Khi nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu chững lại và kém thuận lợi, lạm phát cao,
cạnh tranh gay gắt, sự khan hiếm nguồn lực tài chính cùng những áp lực về lãi suất
cao, những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu,
các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với nhiều rủi ro trong kinh doanh. Một yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thành công, khả năng vượt qua tình trạng khó
khăn hiện nay, thậm chí là khả năng tồn tại của các doanh nghiệp trong nước chính
là việc họ có hay không một cơ chế nhận diện, kiểm soát và hạn chế rủi ro. Nếu
làm tốt hơn thì nhiều doanh nghiệp có thể biến rủi ro thành cơ hội cho mình.

Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, điểm yếu của họ là chưa bài bản trong cơ
chế quản lý và quản trị xuất phát từ quy mô còn nhỏ. Các doanh nghiệp này thường
phụ thuộc vào các cá nhân lãnh đạo, thường là chủ sở hữu, trong việc nhận diện và
kiểm soát rủi ro. Vai trò của các cá nhân này rất quan trọng và phụ thuộc nhiều vào
bản năng cũng như độ nhạy bén của họ trong hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh
nghiệp trong nhóm này có khả năng biến rủi ro thành cơ hội và thành công, nhưng
cũng có không ít doanh nghiệp hàm chứa nguy cơ thất bại cao khi vấn đề quản lý
rủi ro không được thực hiện một cách bài bản.

Đối với các doanh nghiệp tư nhân, thực tế cho thấy, chỉ có một số ít tập đoàn tư
nhân áp dụng bài bản các bước quản lý rủi ro, phần còn lại vẫn đang trong giai
9

đoạn chuyển đổi tư duy, các quyết định kinh doanh và ứng phó rủi ro vẫn chưa
hoàn toàn thoát khỏi ý chí chủ quan của các chủ sở hữu.

Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phần lớn các doanh nghiệp
này có lợi thế khi có các mô hình quản lý và ứng phó rủi ro của các công ty, tập
đoàn nước ngoài. Đối với một số doanh nghiệp đầu tư độc lập thì các nhà đầu tư và
quản lý, dựa trên kinh nghiệm từ các thị trường tiên tiến hơn, chủ động hơn trong
việc định hướng và phát triển cơ chế và các bước quản lý rủi ro bài bản hơn. Họ
cũng có điều kiện để sử dụng các công cụ quản lý rủi ro một cách thuần thục và
hiệu quả hơn. Tuy nhiên vẫn có một số mối quan tâm nhất định. Sự giám sát và báo
cáo cho tập đoàn ở nước ngoài không phải lúc nào cũng có thể thực hiện trên quy
mô đầy đủ, khi các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước, dưới áp lực các chỉ tiêu
ngắn hạn có thể bỏ qua hoặc thiếu chú trọng đến một vài bước nào đó.

1.2.2. Đầu tư thương mại


1.2.2.1. Khái niệm
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi
mua và khi bán.
1.2.2.2. Đặc điểm của đầu tư thương mại trong các doanh nghiệp Việt
Nam
- Đầu tư thương mại không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét
đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính cho người đầu tư trong
quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hang hóa giữa người bán
với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ.
- Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của
cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng
10

thu cho ngân sách nhà nước, tăng tích lũy vốn cho phát triển sản xuất, kinh
doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.

- Trong đầu tư thương mại có sự chuyển giao quyền sở hữu.

- Đầu tư thương mại là điều kiện quan trọng và là cầu nối để thúc đẩy đầu tư
phát triển

1.2.3. Đầu tư tài chính


1.2.3.1. Khái niệm
Đầu tư tài chính là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền ra để cho vay hoặc
mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi xuất định trước hoặc cổ tức tuỳ thuộc vào
kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị sử dụng vốn.

1.2.3.2. Đặc điểm của đầu tư tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam
- Làm tăng tài sản tài chính của chủ đầu tư. tái sản đó là tiền, cổ phiếu mà sau
thơì gian kinh doanh sẽ thu được tiền.
- Không trực tiếp làm tăng tài sản hữư hình của nền kinh tế.
- Hiện tượng đầu tư đựoc xem là hiện tượng đầu tu chuyển dịch cụ thể làm
chuyển quyền sở hữu và chuyển quyền sử dụng,…
- Đầu tư tài chính là một kênh huy động vốn rất quan trọng của đầu tư phát
triển
11

PHẦN II: ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Các vấn đề cơ bản của hoạt động đầu tư công
2.1.1. Khái niệm

Đầu tư công là việc sử dụng vốn Nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách Nhà
nước, vốn tín dụng nhà nước cho đầu tư phát triển, vốn của doanh nghiệp nhà nước,
…) để đầu tư vào các chương trình và dự án không vì mục tiêu lợi nhuận và (hoặc)
không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.

Vốn Nhà nước trong đầu tư công bao gồm:

- Vốn NSNN chi cho đầu tư phát triển theo quy định của Luật Ngân sách Nhà
nước.
- Vốn huy động của Nhà nước từ trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền
địa phương, công trái quốc gia.
- Các nguồn vốn khác trừ vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.

Hoạt động đầu tư công gồm toàn bộ các quá trình:

- Lập, phê duyệt kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công.


- Triển khai thực hiện dự án
- Quản lý khai thác, sử dụng dự án
- Đánh giá sau đầu tư.
2.1.2. Mục tiêu
- Tạo mới, nâng cấp, củng cố năng lực hoạt động của nền kinh tế thông qua
giá trị gia tăng giá trị các tài sản công, thông qua đó nâng cao năng lực phục
vụ của hệ thống hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội dưới hình thức sở hữu toàn
dân được cải thiện và gia tăng.
- Thực hiện một số mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia, của ngành, vùng và các địa phương, thông qua đó giải quyết được
12

nhiều vấn đề xã hội, văn hóa, môi trường, phát triển bền vững.( cụ thể có thể
kể đến các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 135, 136,
chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường, các
chương trình đầu tư hạ tầng giao thông, xây dựng, kiên cố hóa trường học,
trạm y tế, bệnh viện, kênh mương nội đồng, trồng rừng phủ xanh đồi trọc,…
- Điều tiết nền kinh tế thông qua việc tác động đến thành tố chi tiêu chính phủ
trong tổng cầu của nền kinh tế: AD = C + I + G + NX.

2.2. Đặc điểm của đầu tư công tại Việt Nam


2.2.1. Đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng đang có xu
hướng giảm trong thời gian gần đây.

Việt Nam được coi là một trong những nước có tỷ lệ đầu tư/GDP cao nhất trên
thế giới và đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng đầu tư, cao hơn hẳn FDI
và đầu tư tư nhân. Thật vậy, từ năm 1995 đến nay, tỷ trọng đầu tư công trong tổng
vốn đầu tư luôn luôn ở mức trên 39%. Do đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn nên bất
kỳ sự thay đổi về tốc độ tăng trưởng đầu tư công đều ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng tổng mức đầu tư. Tuy vậy, từ mức đỉnh điểm 59,8% năm 2001, tỷ trọng đầu
tư công đã đi theo xu hướng giảm dần cho đến năm 2008 và đứng ở mức 39,9%
trong năm 2014. Xu hướng sụt giảm này bắt đầu từ năm 2001 là do sự gia tăng
mạnh mẽ của đầu tư ngoài nhà nước. Hơn nữa, chính phủ có chủ trương giảm tỷ
trọng đầu tư công nhằm khuyến khích và đa dạng hóa các nguồn vốn trong nền
kinh tế. Năm 2014, tỷ trọng đầu tư tư nhân đã gần như đạt mức tương đương với
đầu tư công.

Tỷ trọng đầu tư công giảm xuống một phần là do tốc độ tăng trưởng đầu tư
công chậm lại. Có thể thấy trong hình là tốc độ tăng trưởng dầu tư công đạt mức
đỉnh 22,6% vào năm 2009, với tổng vốn đầu tư tăng 9,6% trong năm đó, trước khi
13

tăng chậm lại trong năm sau và ở mức khoảng 8,2% năm 2014, thấp hơn tốc độ
tăng trưởng tổng đầu tư. Hơn nữa trong giai đoạn nghiên cứu, đầu tư công tăng
chậm hơn trong khi tổng đầu tư tăng trưởng nhanh hơn. Điều đáng chú ý là sự biến
động cao của FDI trong giai đoạn này.

2.1.2. Tỷ lệ vốn vay tài trợ cho đầu tư công gia tăng.
Đầu tư công phần lớn được tài trợ thông qua ngân sách nhà nước (từ thu ngân
sách thường xuyên), chiếm hơn 40% trên tổng vốn đầu tư công. Đáng chú ý là đầu
tư công đã tăng lên trong giai đoạn đến 2006-2010, đạt mức đỉnh 55,8%, và giảm
xuống còn 47,9% trong giai đoạn 2011-2014. Đến năm 2014, đầu tư công được tài
trợ bằng vốn vay xấp xỉ nguồn vốn tài trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Xu
hướng này là do sự nỗ lực nhằm giảm sự phụ thuộc của đầu tư công vào ngân sách
nhà nước của Chính phủ và cũng làm giảm áp lực về chi tiêu Chính phủ nhưng lại
dẫn đến hệ quả là tích lũy nợ theo thời gian.
14

2.1.3. Đầu tư công vẫn tập trung lớn vào các hoạt động kinh tế.
Đầu tư công có thể được chia thành ba nhóm hoạt động chính, cụ thể là các
hoạt động kinh tế, xã hội và hành chính. Các hoạt động kinh tế bao gồm các hoạt
động liên quan đến kinh tế như các hoạt động sản xuất, xây dựng, giao thông vận
tải, các dịch vụ lưu trú và ăn uống, bất động sản, tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.
Các hoạt động xã hội bao gồm các hoạt động liên quan đến con người như các hoạt
động chuyên môn, khoa học và kỹ thuật, giáo dục và đào tạo, sức khỏe con người
và công tác xã hội, nghệ thuật và giải trí. Các hoạt động hành chính là các hoạt
động của Chính phủ như quản trị công, quốc phòng, an ninh bắt buộc. Trong gần
hai thập kỷ, các hoạt động kinh tế chiếm khoảng 80% tổng đầu tư công, gấp tám
lần so với các hoạt động xã hội (xem Bảng 1).
15

Hơn nữa, tỷ trọng của các hoạt động xã hội đã giảm từ 16,4% trong giai đoạn
2001-2005 xuống 12,2% trong thời kỳ 2011-2013. Xu hướng đi xuống này cho
thấy chính sách chi tiêu của Chính phủ đang tập trung chủ yếu vào các hoạt động
kinh tế, trong khi đó lại giới hạn chi tiêu cho các hoạt động xã hội.

2.1.4. Hoạt động đầu tư công có nhiều khác biệt lớn trong phân bổ theo các
nhóm ngành
Nhìn chung, ngành có tỷ trọng đầu tư công cao nhất là vận tải, kho bãi và thông
tin liên lạc, trong khi ngành có tỷ trọng đầu tư công thấp nhất là ngành hoạt động
dịch vụ hỗ trợ và hành chính. Trong khi tỷ trọng đầu tư công được duy trì tương đối
ổn định trong ngành điện, khí, nước, giao thông vận tải, kho bãi và thông tin truyền
thông và các lĩnh vực nghệ thuật và vui chơi giải trí thì tỷ trọng cho các ngành nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, khai thác khoảng sản và khai thác đá, chế tác, y tế
và công tác xã hội lại giảm đáng kể. Đây là những ngành có tốc độ tăng trưởng khá
ổn định, không chịu ảnh hưởng nhiều từ tác động khủng hoảng tài chính trên thế
giới và là ngành đảm bảo an ninh lương thực quan trọng đối với một nước đông
dân như Việt Nam nhưng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Những ngành
16

khác mang tính xã hội và dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục cũng chiếm tỷ trọng
đầu tư khá khiêm tốn và gần như không thay đổi trong suốt thời gian qua.
Bảng 2: Cơ cấu đầu tư công phân theo ngành cấp 1 theo thời gian (%)
Ngành 2000- 2006- 2011-
2005 2010 2013

1. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 9,2 6,5 5,7

2. Khai khoáng và khai thác đá 7,1 7,5 5,6

3. Chế tác 14,1 10,1 11,2

4. Cấp điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí, cấp 17,1 17,3 16,8
nước, thoát nước thải, quản lý chất thải và các hoạt động
khắc phục hậu quả

5. Xây dựng 4,4 5,0 6,2

Ngành 2000- 2006- 2011-


2005 2010 2013

6. Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa xe có động cơ và xe máy 2,4 2,1 2,9

7. Các hoạt động dịch vụ lưu trú và ăn uống 0,9 0,8 1,5

8. Giao thông vận tải, kho bãi; thông tin và truyền thông 22,2 23,0 21,5

9. Các hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 0,6 1,1 1,9

10. Các hoạt động chuyên môn, khoa học và kỹ thuật 1,1 1,6 2,1

11. Các hoạt động bất động sản 0,9 2,0 2,9

12. Hoạt động dịch vụ hành chính và hỗ trợ 0,4 0,7 1,5

13. Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị - xã 4,0 7,2 5,6
hội, các tổ chức đoàn thể, hành chính công, quốc phòng,
an ninh bắt buộc
17

14. Giáo dục và đào tạo 2,6 3,1 5,0

15. Sức khỏe con người và các hoạt động công tác xã hội 5,0 4,6 3,1

16. Nghệ thuật, vui chơi giải trí 2,3 2,8 2,1

17. Các hoạt động khác 5,7 4,6 4,4

Tổng 100 100 100


Nguồn: Tổng cục Thống kê

Hầu hết đầu tư công được phân bổ cho ngành điện, vận tải và kho bãi, thông tin
và truyền thông mà có thể huy động được đầu tư từ các nguồn khác (xem Bảng 4).
Điều này sẽ hạn chế khả năng đầu tư từ xã hội và khiến các ngành này không có
năng lực cạnh tranh, phụ thuộc nhiều vào đầu tư nhà nước. Tỷ trọng đầu tư công
cho các ngành này là khá cao, ví dụ, đầu tư công chiếm 67% tổng vốn đầu tư cấp
điện, 60% tổng đầu tư trong ngành giao thông vận tải.
Bảng 3: Tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư theo ngành qua các năm
(%)
Ngành 2000- 2006- 2011-
2005 2010 2013

1. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 53,1 38,8 39,8

2. Khai khoáng và khai thác đá 77,0 37,7 32,2

Ngành 2000- 2006- 2011-


2005 2010 2013

3. Chế tác 35,9 21,2 20,0

4. Cấp điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí, 84,2 58,9 67,3
cấp nước, thoát nước thải, quản lý chất thải và các hoạt
động khắc phục hậu quả
18

5. Xây dựng 56,3 49,2 51,5

6. Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa xe có động cơ và xe 27,4 18,1 18,6
máy

7. Các hoạt động dịch vụ lưu trú và ăn uống 24,1 14,3 23,6

8. Giao thông vận tải, kho bãi; thông tin và truyền thông 79,4 57,6 59,1

9. Các hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 43,9 30,5 32,3

10. Các hoạt động chuyên môn, khoa học và kỹ thuật 75,7 66,1 59,2

11. Các hoạt động bất động sản 32,6 21,1 20,6

12. Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị-xã 82,7 92,7 100,0
hội, các tổ chức đoàn thể, hành chính công, quốc phòng,
an ninh bắt buộc

13. Giáo dục và đào tạo 81,3 83,5 72,0

14. Sức khỏe con người và các hoạt động công tác xã hội 81,4 60,7 64,8

15. Nghệ thuật, vui chơi giải trí 81,1 78,9 54,0

16. Các hoạt động khác 22,3 16,5 13,3


Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hầu hết đầu tư công được phân bổ cho ngành điện, vận tải và kho bãi, thông tin
và truyền thông mà có thể huy động được đầu tư từ các nguồn khác (xem Bảng 4).
Điều này sẽ hạn chế khả năng đầu tư từ xã hội và khiến các ngành này không có
năng lực cạnh tranh, phụ thuộc nhiều vào đầu tư nhà nước. Tỷ trọng đầu tư công
cho các ngành này là khá cao, ví dụ, đầu tư công chiếm 67% tổng vốn đầu tư cấp
điện, 60% tổng đầu tư trong ngành giao thông vận tải.
19

Bảng 3: Tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư theo ngành qua các năm
(%)
Ngành 2000- 2006- 2011-
2005 2010 2013

1. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 53,1 38,8 39,8

2. Khai khoáng và khai thác đá 77,0 37,7 32,2

Ngành 2000- 2006- 2011-


2005 2010 2013

3. Chế tác 35,9 21,2 20,0

4. Cấp điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí, 84,2 58,9 67,3
cấp nước, thoát nước thải, quản lý chất thải và các
hoạt động khắc phục hậu quả

5. Xây dựng 56,3 49,2 51,5

6. Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa xe có động cơ và xe 27,4 18,1 18,6
máy

7. Các hoạt động dịch vụ lưu trú và ăn uống 24,1 14,3 23,6

8. Giao thông vận tải, kho bãi; thông tin và truyền 79,4 57,6 59,1
thông

9. Các hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 43,9 30,5 32,3

10. Các hoạt động chuyên môn, khoa học và kỹ thuật 75,7 66,1 59,2

11. Các hoạt động bất động sản 32,6 21,1 20,6
20

12. Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị-xã 82,7 92,7 100,0
hội, các tổ chức đoàn thể, hành chính công, quốc
phòng, an ninh bắt buộc

13. Giáo dục và đào tạo 81,3 83,5 72,0

14. Sức khỏe con người và các hoạt động công tác xã 81,4 60,7 64,8
hội

15. Nghệ thuật, vui chơi giải trí 81,1 78,9 54,0

16. Các hoạt động khác 22,3 16,5 13,3

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Như vậy, có thể thấy rằng kể từ năm 1995, chính sách đầu tư công ở Việt Nam
đã thay đổi một cách đáng kể. Trong giai đoạn 1995-2000, phạm vi đầu tư công
được mở rộng và mức độ đầu tư tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra nhiều chính sách
liên quan đã được ban hành và triển khai thực hiện. Các chính sách đó bảo gồm
Luật Đầu tư nước ngoài (ban hành và sửa đổi vào năm 1996-2000) và Luật Doanh
nghiệp năm 1999, thay thế cho Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1994. Tốc độ tăng
trưởng trung bình năm của nhà đầu tư nhà nước đạt 19,4% và tốc độ tăng trưởng
GDP ở mức cao nhất (trung bình ở mức 7% mỗi năm). Hiệu quả đầu tư cao nhất
trong thời kỳ từ năm 1996 đến năm 1998.
21

Trong giai đoạn 2001-2005, chính sách “mở rộng” đầu tư vẫn tiếp tục và khung
pháp lý cho đầu tư tiếp tục được cải thiện. Có một số luật mới được ban hành như
Luật Doanh nghiệp Nhà nước (2003); Luật Công ty và Luật Đầu tư (2005). Tuy
nhiên, đầu tư nhà nước trong giai đoạn này tăng trưởng chậm lại trong khi tốc độ
tăng trưởng GDP vẫn ở mức cao, khoảng 6,9% mỗi năm. Trong giai đoạn này, hiệu
quả đầu tư công bắt đầu giảm.
Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 cũng như lạm phát cao,
chính sách đầu tư công có đặc trưng là thắt chặt và có định hướng. Không có luật
mới được ban hành trong giai đoạn này. Hiệu quả đầu tư tiếp tục giảm nhanh và
giai đoạn này chứng kiến tính hiệu quả kém nhất.
Từ năm 2011 đến nay, chính sách đầu tư công thực hiện theo chủ trương mở
rộng và tăng cường quản lý. Nhiều luật và các văn đã được ban hành và sửa đổi
như Luật Doanh nghiệp (2013) và Luật Đầu tư công (2014). Từ năm 2011 Việt
Nam đã nỗ lực để tái cơ cấu nền kinh tế bao gồm đầu tư công. Chỉ thị số 1792/CT-
TTg ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý ngân sách chính phủ là một trong
những mốc quan trọng trong tái cơ cấu đầu tư công. Tuy nhiên, đầu tư của khu vực
Nhà nước không thể có hiệu quả kinh tế thuần túy cao như đầu tư của khu vực tư
nhân, bởi vì trong nhiều trường hợp mục đích của đầu tư công không phải nhằm
vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế. Ngay cả phần lớn doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), tuy có mục tiêu chính là sản xuất kinh doanh có lãi, nhưng vẫn còn phải
thực hiện một số mục tiêu “phi lợi nhuận” như tạo điều kiện phát triển cho các
vùng nghèo, có điều kiện khó khăn, sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng,
các sản phẩm và dịch vụ ít lãi… Nhưng không phải vì vậy mà có thể biện minh cho
việc đầu tư kém hiệu quả kéo dài của khu vực nhà nước do những nguyên nhân chủ
quan như chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý kém, thiếu trách nhiệm,
lãng phí, tham nhũng.
22

Bên cạnh đó, Chính phủ chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của
các DNNN, nhất là đối với việc đầu tư. Vốn đầu tư của các DNNN được coi là “tự
chủ” của doanh nghiệp, nên quá trình kiểm tra, kiểm soát chưa cao. Các Bộ cũng
không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của các DNNN. Quá trình cổ
phần hóa cũng tiến triển chậm, nên sự giám sát các DNNN cũng chưa chặt chẽ.
Nhiều DNNN vay nợ lớn để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh vực,
nhiều ngành nghề, phát triển các hoạt động ngoài ngành nghề chính, độc quyền và
có khả năng lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây thất thoát vốn, kinh doanh thua
lỗ, sử dụng chưa hiệu quả vốn đầu tư.
Một trong những nội dung quan trọng được Hội nghị Trung ương 3, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI và kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII đề cập tới là
vấn đề táo cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng. Trong đó, tái cấu trúc
đầu tư với trọng tâm là đầu tư công luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều tầng
lớp trong xã hội. Vấn đề tái cấu trúc đầu tư công luôn gắn với việc nâng cao hiệu
quả đầu tư là việc làm cần thiết không chỉ nhằm kiềm chế lạm phát mà vấn đề quan
trọng hơn là góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế quốc dân.
Để tận dụng hiệu quả lan tỏa của đầu tư công đối với việc nuôi dưỡng kích
thích sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân nói chung, cần tiến hành cải cách
DNNN một cách triệt để nhằm bảo đảm một môi trường cạnh tranh tự do bình đẳng
thực chất. Cải cách không chỉ vì sức ép hội nhập mà phải thay đổi vì sự phát triển
của quốc gia.
23

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Kinh tế đầu tư, PGS. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS. TS. Từ
Quang Phương, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.

2. Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát
triển trong công tác quản lý đầu tư.

3. Đầu tư phát triển và các loại đầu tư khác trong nền kinh tế, PGS. TS Nguyễn
Ngọc Mai, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

4. Vai trò của đầu tư công đối với nền kinh tế Việt Nam, Lê Thị Diễm Quỳnh,
Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia dangkykinhdoanh.gov.vn
ngày 07/01/2016.

You might also like