You are on page 1of 46

GIÁO PHẬN QUI NHƠN

CHỦNG VIỆN THÁNH GIUSE – QUI NHƠN

ĐIỀU RĂN THỨ V: CHỚ GIẾT NGƯỜI


“TÔN TRỌNG SỰ SỐNG”

Họ và tên – thánh: Phaolô Huỳnh Tín Trọng


Năm :3

Người hướng dẫn: Lm. Gioakim Nguyễn Tấn Đạt


MỤC LỤC

MỤC LỤC..................................................................................................................................................1

DẪN NHẬP................................................................................................................................................3

CHƯƠNG 1: Thực trạng về sự sống con người trong thế giới hôm nay....................................................5

Kết luận chương 1..............................................................................................................................10

CHƯƠNG 2: Bảo vệ sự sống theo dòng lịch sử cứu độ...........................................................................11

2.1 Kinh Thánh Cựu ước.....................................................................................................................11

2.2 Kinh Thánh Tân Ước.....................................................................................................................16

Kết luận chương 2..............................................................................................................................20

CHƯƠNG 3: Những tội nghịch với điều răn thứ V..................................................................................21

3.1 Hủy diệt sự sống...........................................................................................................................21

3.1.1 Giết người..............................................................................................................................21

3.1.2 Phá phôi thai..........................................................................................................................26

3.1.3 Phá thai..................................................................................................................................42

3.1.4 Tự sát.....................................................................................................................................48

3.1.5 Chết êm dịu...........................................................................................................................48

3.2 Những tội xúc phạm đến sự sống.................................................................................................53

3.2.1 Không tôn trọng sức khỏe.....................................................................................................53

3.2.2 Hủy hoại cơ thể......................................................................................................................53

3.2.1 Lạm dụng cơ thể người trong khoa học.................................................................................53

CHƯƠNG 4: GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI................................................................................................54

4.1 Phẩm giá của sự sống: hồng ân của Chúa.....................................................................................54

4.2 Sự thánh thiêng (Con người là hình ảnh của Thiên Chúa)............................................................54

4.3 Sự sống bất khả xâm phạm (Chỉ Thiên Chúa mới là chủ sự sống).................................................54

CHƯƠNG 5: MỤC VỤ BẢO VỆ SỰ SỐNG.................................................................................................55

5.1 Giáo dục đức tin...........................................................................................................................55

5.1.1 Rao giảng lời Chúa, giáo huấn của Giáo hội về sự thiêng liêng của sự sống con người.........55
1
5.1.2 Thực thi các bí tích nhằm nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cho các tín hữu........................57

5.1.3 Tư vấn, đồng hành với những người đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn để giúp họ tôn trọng
sự sống...........................................................................................................................................57

5.2 Mục vụ tại các gia đình.................................................................................................................57

5.2.1 Thăm viếng và động viên những người bệnh tật, người già neo đơn....................................57

5.2.2 Hướng dẫn các gia đình xây dựng môi trường yêu thương, tôn trọng sự sống.....................57

5.2.3 Tham gia các hoạt động ủng hộ trẻ em mồ côi, người già neo đơn, người tàn tật................57

5.3 Mục vụ trong xã hội......................................................................................................................57

5.3.1 Tổ chức các buổi nói chuyện, giảng dạy về giá trị sự sống cho giới trẻ..................................57

5.3.2 Phối hợp với các tổ chức xã hội triển khai các dự án nhân đạo.............................................57

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................................58

2
DẪN NHẬP
Sự sống con người là một hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban tặng. Từ lúc thụ thai cho đến
lúc trút hơi thở cuối cùng, mỗi con người đều mang trong mình hình ảnh Thiên Chúa và có phẩm
giá bất khả xâm phạm. Vì vậy, bảo vệ sự sống là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy nhiều nơi trên thế giới, sự sống con người vẫn chưa được tôn trọng đúng mức.
Về mặt sinh học, sự sống bị đe dọa bởi chiến tranh, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, thiên
tai và nạn đói. Về mặt xã hội, sự bất công, bạo lực và xung đột khiến cuộc sống con người trở nên
mong manh. Về mặt tinh thần và đạo đức, sự suy đồi đạo đức, chủ nghĩa vô thần và việc coi trọng
vật chất đang làm mai một những giá trị đích thực của nhân loại.
Những vấn nạn xã hội như phá thai, nghiện ngập, tệ nạn xã hội cũng khiến cuộc sống con
người ngày càng tê tái, mất phương hướng. Sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật cũng tiềm
ẩn những mối nguy hại cho nhân phẩm và sự toàn vẹn của con người.
Trước thực trạng đáng báo động về tình trạng phá thai, giết hại thai nhi, hủy hoại phôi
người, lạm dụng y khoa để cướp đi sinh mạng, chiến tranh gây ra diệt chủng... đang ngày càng gia
tăng, Giáo hội Công giáo luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ sự sống từ lúc thụ thai
cho đến lúc chết tự nhiên. Điều này được thể hiện rõ ràng qua dòng lịch sử cứu độ của Thiên Chúa,
từ Cựu Ước cho đến Tân Ước.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã ban hành một điều luật để bảo vệ tính thiêng liêng của sinh
mạng con người. Đó là lệnh cấm giết người, thể hiện sự tôn trọng tuyệt đối đối với sự sống mà
Thiên Chúa đã ban cho mỗi con người. Lệnh cấm này được Chúa nhắc đến trong thập giới cụ thể
là điều răn thứ 5. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu dạy về tình yêu thương vô điều kiện và cho thấy
mọi người đều có phẩm giá như nhau. Sau khi Chúa phục sinh, các Tông đồ tiếp tục loan truyền
Tin Mừng và lên án việc giết trẻ sơ sinh. Như vậy, từ Cựu Ước đến Tân Ước cho ta thấy về sự
thiêng liêng của sự sống ngày càng rõ ràng hơn. Dù vẫn còn hạn chế, nhưng Giáo Hội sơ khai vẫn
thể hiện rõ lập trường bảo vệ sự sống của mình.
Qua các thời đại, Giáo hội Công giáo luôn nhất quán lập trường bảo vệ sự sống và lên án
mọi hành vi xâm phạm đến sinh mạng con người. Các giáo hoàng như Giáo hoàng Gioan Phaolô II
đã nhiều lần lên tiếng bảo vệ những người yếu thế, phê phán việc phá thai và kêu gọi xây dựng nền
văn hóa tôn trọng sự sống.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều thách thức đối với việc bảo vệ sự sống. Một
số tội phạm chống lại điều răn thứ năm cần được đặc biệt lưu tâm gồm: phá thai, giết người, phá
hủy phôi người, chết êm dịu và tự sát. Những hành vi này đều vi phạm giáo huấn của Giáo hội về
phẩm giá con người và sự thiêng liêng của sự sống.

3
Hơn nữa việc không tôn trọng sức khỏe, hủy hoại thân thể người khác hoặc lạm dụng thân
thể con người trong nghiên cứu khoa học cũng đang đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội. Đây
là lúc Giáo hội cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc loan báo Tin Mừng sự sống để giáo dục đức tin
và hun đúc lương tâm cho các tín hữu.
Việc bảo vệ và tôn vinh sự sống là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người. Qua các thời
đại, Giáo hội Công giáo luôn nhất quán lập trường bảo vệ sự sống và lên án mọi hành vi xâm phạm
đến sinh mạng con người. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đặt ra cho xã hội hiện đại trong
việc tôn trọng và bảo vệ mọi sự sống. Để thực hiện trách nhiệm này, mỗi chúng ta cần chung tay
nâng cao nhận thức, đồng hành cùng những mảnh đời bất hạnh, xây dựng môi trường yêu thương
và tôn trọng sự sống.

4
CHƯƠNG 1: Thực trạng về sự sống con người trong thế giới hôm nay
Trong thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng về sự sống), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đã chỉ ra rằng các tội ác mà điều răn thứ 5 đã tố cáo và nghiêm cấm, chẳng những không thu hẹp
lại, mà còn lan rộng mãi với đà tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, đến độ ngày càng làm phát sinh
thêm nhiều hình thức mới xâm phạm phẩm giá và sự sống con người. Đây là một thực trạng đau
lòng mà thời đại chúng ta đang phải đối mặt.
Theo lời cảnh báo của Đức Thánh Cha, các hành vi xâm phạm đến sinh mạng con người
ngày càng được thực hiện phổ biến và tràn lan, nhân danh quyền tự do cá nhân và sự tiến bộ của xã
hội.
Hành vi phá thai đang ngày càng được coi là bình thường. Phụ nữ có thai không mong
muốn thậm chí còn đòi luật pháp phải bảo đảm quyền phá thai của họ, mà không hề quan tâm đến
sinh mạng của đứa trẻ đang nằm trong bụng mẹ. Điều đáng sợ là nhiều nơi trên thế giới đang dần
hợp pháp hóa việc phụ nữ có quyền quyết định số phận của thai nhi. Các bào thai không còn được
coi trọng và tôn trọng đúng mức là một sinh mạng con người, mà thường bị xem nhẹ như một vật
cản trở đối với người mẹ mà họ có thể loại bỏ đi chỉ để giải quyết một vấn đề của cá nhân.
Một xu hướng đáng báo động khác là việc sử dụng các phôi thai người để nghiên cứu. Các
nhà khoa học coi đó như nguồn tế bào quý giá để phát triển y học, mà không hề quan tâm đến việc
hủy diệt mạng sống.
Hơn thế nữa, việc cho phép bệnh nhân chết nhẹ nhàng bằng cách ngưng điều trị cuối đời
hay phục vụ để lấy nội tạng cũng ngày càng phổ biến ở các nước phương Tây. Nhiều bệnh viện
thậm chí còn khuyến khích người nhà bệnh nhân chọn cách chấm dứt sớm sự sống của người thân
để rút ngắn nỗi đau đớn.
Những hành vi trên không những không bị phê phán mà còn được tung hô là sự tiến bộ của
y khoa và bằng chứng cho quyền tự do cá nhân. Chính sự im lặng và thờ ơ của công luận đã tiếp
tay cho nạn diệt chủng âm thầm này. Hơn thế nữa những hành vi đó còn cho thấy sự suy đồi
nghiêm trọng về mặt đạo đức của xã hội. Sự sống con người không còn được coi là thánh thiêng
nữa. 1
Ngoài ra, dịch bệnh và chiến tranh cũng là những nguyên nhân không thể không kể đến khi
nói về hiện tượng coi thường và hủy hoại sinh mạng con người.
Trong thời kỳ dịch bệnh hoành hành, rất nhiều sinh mạng đã bị cướp đi do thiếu thuốc men,
trang thiết bị y tế và sự quan tâm chăm sóc. Những người nghèo khó, sống ở vùng sâu vùng xa là

1
Xem GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Evangelium vitae (Tin mừng về sự sống), 25-03-1995.
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 102-
104.
5
đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Thậm chí có trường hợp họ còn bị cách ly, ruồng bỏ và đối xử tàn
nhẫn, vô nhân đạo. Điều đó cho thấy sinh mạng của họ không được coi trọng như những người
giàu có và quyền lực.
Đặc biệt trong đại dịch Covid-19 vừa qua, đã đặt ra thách thức lớn đối với hệ thống y tế của
nhiều quốc gia. Với tình trạng quá tải của nhiều bệnh viện nên chúng ta đã chứng kiến nhiều
trường hợp bệnh nhân cao tuổi bị bỏ mặc, thiếu thuốc men và chết trong cô đơn. Không những thế,
nhiều người cao tuổi đã phải một mình chống chọi với căn bệnh nguy hiểm này ngay tại nhà. Họ bị
coi là gánh nặng và mạng sống của họ không đáng được cứu chữa như những bệnh nhân trẻ tuổi
khỏe mạnh hơn. Điều đó cho thấy sinh mạng người già không còn được trân trọng.
Bên cạnh đó, theo số liệu mới của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết: khoảng 15 triệu
người đã chết trong hai năm đầu tiên của đại dịch COVID-19. Đó là khoảng 2,7 lần con số được
chính thức báo cáo cho cơ quan của các quốc gia. Sự khác biệt dựa trên ước tính về ‘tỷ lệ tử vong
vượt mức’, bao gồm cả những trường hợp tử vong mà hệ thống báo cáo quốc gia bỏ sót. Các số
liệu, được công bố hôm nay, là số liệu mới nhất trong một loạt các ước tính về số người chết do đại
dịch toàn cầu, mà các nhà dịch tễ học và các chuyên gia y tế công cộng cho rằng cần thiết để đánh
giá các quyết định được đưa ra và lập kế hoạch hiệu quả hơn cho các sự kiện trong tương lai.2
Tương tự, hậu quả của chiến tranh cũng là nạn diệt chủng hàng loạt. Hàng triệu người dân
vô tội đã bỏ mình trong chiến tranh chỉ vì những mục đích chính trị. Vì mục tiêu chiến thắng, các
phe phái không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, kể cả xóa sổ cả làng mạc hay thành phố. Một lần nữa,
sinh mạng con người bị coi nhẹ hơn bất cứ thứ gì.

Chiến tranh không chỉ đem lại sự tàn phá về vật chất mà còn gây ra những hậu quả vô cùng
thảm khốc đối với sinh mạng con người. Trong chiến tranh, bom đạn không hề phân biệt được giữa
binh lính và thường dân, giữa người già trẻ lớn bé. Bom đạn có thể giết bất cứ ai không kể giới tính
hay độ tuổi. Hàng triệu người dân vô tội, kể cả trẻ em, phụ nữ, người già... đã ngã xuống trong đau
đớn chỉ vì những mục đích chính trị. Các phe phái còn sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn nhẫn, phi
nhân đạo để giành chiến thắng. Họ xóa sổ cả làng mạc, thảm sát tù binh, hãm hiếp phụ nữ... Những
hành động tàn bạo đó cho thấy mạng sống con người không còn được tôn trọng. Sinh mạng người
dân thường trở thành nạn nhân vô tội và bị coi nhẹ như những con số thống kê chiến tranh. Một lần
nữa, giá trị của sinh mạng con người bị đặt dưới lợi ích quân sự. Những kẻ cầm quyền mù quáng,
để chiến thắng đối phương bằng mọi giá, họ sẵn sàng hy sinh bao sinh linh. Chiến tranh càng ngày

2
Xem DAVID ADAM, 15 million people have died in the pandemic WHO says, ngày truy cập: 13-10-2023;
https://www.nature.com/articles/d41586-022-01245-6

6
càng trở nên tàn bạo và khốc liệt hơn. Nó không chỉ cướp đi sinh mạng mà còn để lại những vết
thương lòng không bao giờ xóa nhòa. Chúng ta cần lên án mạnh mẽ mọi hành động xâm phạm
nhân phẩm và sinh mạng con người, đặc biệt là trong chiến tranh.
Điển hình là cuộc xung đột Nga-Ukraine đang diễn ra. Từ khi Nga mở chiến dịch quân sự
tấn công Ukraine hồi cuối tháng 2/2022 đến nay, hàng ngàn thường dân Ukraine đã thiệt mạng.
Các thành phố của Ukraine như Mariupol, Kharkiv... trở thành bình địa, người dân sống trong sợ
hãi và cảnh thiếu thốn. Hàng triệu người dân Ukraine buộc phải sơ tán, sống trong cảnh màn trời
chiếu đất. Một lần nữa, bom đạn không phân biệt giữa binh lính và dân thường. 3
Theo Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc, kể từ khi chiến sự nổ ra vào tháng 2-
2022, gần 10.000 thường dân đã thiệt mạng, gần 18.000 dân thường đã bị thương. Lầu Năm Góc
ước tính có tới 70.000 binh sĩ Ukraine thiệt mạng và khoảng 100.000 đến 120.000 người bị
thương, trong khi hơn 120.000 binh sĩ Nga thiệt mạng và có tới 180.000 người bị thương. 4
Một ví dụ khác là cuộc xung đột kéo dài giữa Israel và Palestine. Qua nhiều thập kỷ, hàng
ngàn người Palestine, trong đó đa phần là trẻ em và phụ nữ, đã thiệt mạng dưới bom đạn của quân
đội Israel. Họ sống trong khủng hoảng nhân đạo kéo dài.
Trong nhiều thập kỷ qua, hàng nghìn thường dân Palestine, trong đó phần lớn là phụ nữ và
trẻ em, đã thiệt mạng dưới những đợt không kích của quân đội Israel. Con số nạn nhân Palestine
cao gấp 3-4 lần so với phía Israel. Đặc biệt, theo thống kê mới nhất, tính từ khi xung đột tại dải
Gaza hôm 7/10 vừa qua, đến nay, số người chết đã tăng lên 7.650 người trong khi số người bị
thương là hơn 19.450 người. Cơ sở hạ tầng bị phá hủy nghiêm trọng.5
Người Palestine sống trong tình trạng thiếu thốn, đói nghèo và sợ hãi triền miên. Họ không
có quyền tự do đi lại và bị phân biệt đối xử. Trẻ em Palestine lớn lên giữa mùi thuốc súng và tiếng
bom. Đây là một thảm họa nhân đạo kéo dài mà cộng đồng quốc tế chưa thể giải quyết triệt để.
Những cuộc chiến tranh gần đây cho thấy giá trị sự sống con người vẫn đang bị coi thường.
Chúng ta cần lên án mạnh mẽ mọi hành động vi phạm nhân quyền, đặc biệt là quyền sống. Các
nước cần tôn trọng luật pháp quốc tế, không sử dụng vũ lực và tìm kiếm giải pháp hòa bình.
Như vậy, dịch bệnh và chiến tranh cũng là hai nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng coi
thường và tiêu diệt sinh mạng con người một cách hàng loạt. Điều đó cần phải được lên án và ngăn
chặn.

3
Xem WIKIPEDIA, Nga xâm lược Ukraina 2022, ngày truy cập: 13-10-2023; https://vi.wikipedia.org/wiki/Nga_x
%C3%A2m_l%C6%B0%E1%BB%A3c_Ukraina_2022
4
TRỌNG NHÂN, Thế giới như chưa đủ tang thương, ngày truy cập: 13-10-2023; https://hanoimoi.vn/the-gioi-nhu-chua-du-tang-
thuong-646438.html
5
Xem HỒNG NHUNG, Số người chết tại Gaza tăng lên hơn 7000, dư luận kêu gọi bảo vệ dân thường, ngày truy cập: 14-10-
2023; https://vov.vn/the-gioi/so-nguoi-chet-tai-gaza-tang-len-hon-7000-du-luan-keu-goi-bao-ve-dan-thuong-post1055747.vov
7
Theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, gốc rễ sâu xa nhất của vấn nạn xâm phạm sự sống
chính là do sự sai lệch trong cách nhìn nhận về con người. Trước hết, xuất phát từ quan niệm sai
lầm về tự do cá nhân. Theo đó, con người chỉ tôn sùng quyền tự do cho bản thân mình mà không
hề quan tâm đến hạnh phúc và quyền lợi của người khác trong xã hội. Họ cho rằng mình có quyền
quyết định số phận của bất cứ ai, kể cả những sinh linh vô tội đang nằm trong bụng mẹ hay những
bệnh nhân hấp hối. Chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ đã làm méo mó bản chất của tự do thực sự. Thứ đến,
họ không còn tin vào các chuẩn mực đạo đức khách quan và cho rằng mọi giá trị đều tương đối.
Họ cho rằng không có điều gì tuyệt đối đúng hay sai về mặt đạo đức cả. Mọi giá trị chỉ là tương
đối và có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh. Vì thế, việc giết người hay phá thai hoàn toàn có thể
được biện minh là "đúng" nếu như nó phục vụ lợi ích của cá nhân hay tập thể nào đó. Bên cạnh đó,
sự mất niềm tin vào Thiên Chúa và công trình sáng tạo của Người. Khi không còn tin rằng mỗi con
người là một tuyệt tác do chính Thiên Chúa tạo dựng và ban sự sống, con người sẽ không còn tôn
trọng và trân quý sinh mạng của chính mình cũng như của những người khác. Sự sống bị đồng
nhất hóa như một hiện tượng tự nhiên vô nghĩa và vô giá trị. Cuối cùng, chủ nghĩa duy vật đã đánh
đồng con người với vật chất, tước đoạt nhân tính của họ. Con người trở thành "công cụ" phục vụ
lợi ích và mục đích của những kẻ mạnh hơn. Những ai yếu thế, bệnh tật hay không còn "giá trị sử
dụng" sẽ bị loại bỏ một cách dễ dàng.6
Những biểu hiện trên cho thấy sự suy đồi nghiêm trọng về mặt đạo đức và luân lý của xã
hội. Con người dường như đã mất dần lương tâm và khả năng phân biệt thiện ác. Họ coi việc xâm
phạm đến sự sống là điều bình thường và thậm chí còn đòi hỏi được pháp luật bảo vệ. Đây quả
thực là một nguy cơ lớn đối với xã hội loài người
Trước thực trạng đáng báo động đó, Giáo hội đã và đang nỗ lực ngăn chặn bằng cách liên
tục lên tiếng bảo vệ sự thánh thiêng của sự sống, đồng thời rao giảng và truyền bá Tin Mừng về sự
sống. Bởi vì Tin Mừng sự sống chính là trọng tâm của sứ điệp Đức Kitô. Chúa Giêsu đã phán Ta
đến để cho người ta được sống, và được sống dồi dào 7. Người muốn nói đến sự sống đời đời,
trong đó mọi giây phút cuộc đời đều có ý nghĩa và giá trị.
Với tư cách là con cái Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đều có bổn phận tôn trọng và bảo
vệ sự sống. Đó là ý nghĩa của Tin Mừng sự sống mà Giáo hội đang rao giảng. Chúng ta cần xây
dựng một nền văn hóa mới dựa trên tình yêu thương và sự tôn trọng sự sống của mọi người. Đó
chính là con đường để khắc phục những sai lầm và thách đố hiện nay đối với giá trị sự sống con
người.

6
Xem GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Evangelium vitae (Tin mừng về sự sống), 25-03-1995.
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 106-
110.
7
GIOAN, sách Tân Ước, chương 10, câu 10.
8
Kết luận chương 1

Qua chương 1, chúng ta nhận thấy tình trạng coi thường và xâm phạm đến sinh mạng con
người ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Cụ thể, các hành vi như phá thai, giết chết nhân đạo, dịch
bệnh, chiến tranh... đang diễn ra phổ biến và ngày một gia tăng. Điều đó cho thấy sự cấp bách phải
có những giải pháp mang tính căn cơ và lâu dài, chứ không chỉ mang tính nhất thời, để có thể khắc
phục triệt để vấn nạn này.
Trong số các giải pháp mang tính căn cơ và lâu dài ấy, vai trò của các tôn giáo, đặc biệt là
Giáo hội Công giáo, là vô cùng quan trọng. Bởi vì, với tư cách là một tổ chức tôn giáo - xã hội có
ảnh hưởng sâu rộng trong suốt dòng lịch sử nhân loại, Giáo hội Công giáo có thể đóng góp đắc lực
trong việc thay đổi nhận thức và hành động của con người đối với vấn đề bảo vệ sự sống.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về vai trò và những đóng góp cụ thể của Giáo hội Công giáo
trong việc bảo vệ sự sống, chúng ta cần nghiên cứu sâu về lịch sử hoạt động của Giáo hội qua các
giai đoạn khác nhau. Chính vì vậy, Chương 2 sẽ tập trung phân tích các giai đoạn lịch sử quan
trọng cũng như đóng góp của Giáo hội trong từng giai đoạn ấy cho công cuộc bảo vệ sự sống.

9
CHƯƠNG 2: Bảo vệ sự sống theo dòng lịch sử cứu độ
Sự sống là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi con người. Từ khi tạo dựng
nên vũ trụ và muôn loài, Thiên Chúa đã khẳng định giá trị thiêng liêng của mỗi sinh mạng. Thế
nhưng, do sa ngã vào tội lỗi, nhân loại dần quên đi ý nghĩa cao cả ấy và nhiều lần đưa nhau đến
diệt vong.
Tuy nhiên, Thiên Chúa chưa bao giờ bỏ rơi con người. Ngài liên tục can thiệp vào tiến trình
lịch sử để cảnh tỉnh và nhắc nhở họ về giá trị của sự sống. Đó chính là nội dung chính của công
cuộc cứu độ nhân loại mà Kinh Thánh ghi lại.
Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem Thiên Chúa đã thể hiện thông điệp bảo vệ sự sống ấy như
thế nào trong dòng lịch sử cứu độ nhân loại qua hai giai đoạn Cựu Ước và Tân Ước
2.1 Kinh Thánh Cựu ước
Khi tạo dựng ra vũ trụ và muôn loài, trong số tất cả các thọ tạo, Thiên Chúa dành sự quan
tâm đặc biệt nhất đến loài người. Điều này được thể hiện rõ ràng qua lời phán của Ngài: “Chúng ta
hãy làm nên con người giống hình ảnh chúng ta” (x St 1, 26). Như vậy, con người được dựng nên
giống hình ảnh Thiên Chúa, có phẩm giá vô cùng trọng đại, là tinh hoa trong công cuộc sáng thế
của Đấng Tạo Hóa.
Hơn thế nữa, chính Thiên Chúa là Đấng đã thổi hơi sự sống cho con người, biến họ thành
sinh vật hữu linh có linh hồn bất tử (x St 2, 7). Như vậy, sinh mạng con người là thánh thiêng và
vô cùng quý giá. Bởi lẽ sự sống bắt nguồn từ chính Thiên Chúa và mang hình ảnh của Ngài, nên
nó phải được tôn trọng tuyệt đối.
Thế nhưng, chỉ sau một thời gian ngắn kể từ khi được tạo dựng, con người đã phạm tội,
làm xúc phạm đến sự thánh thiêng của sự sống. Cain đã giết chết người em Abel do lòng ghen tị (x
St 4, 8). Đó là vụ giết người đầu tiên trong lịch sử loài người, mở ra một kỷ nguyên bạo lực và đẫm
máu.
Trước thực trạng ấy, Thiên Chúa đã buộc phải can thiệp vào tiến trình lịch sử để giáo dục
con người về giá trị của sự sống. Ngay sau vụ giết người đầu tiên của Cain, Thiên Chúa đã trừng
phạt anh ta bằng cách trục xuất khỏi mảnh đất canh tác, phải lang thang khắp nơi trên mặt đất. Đây
thực sự là hình phạt nặng nề và khắc nghiệt đối với Cain, khi phải sống cuộc đời du mục, không có
nơi để yên ổn sinh sống và ca`nh tác. Tuy nhiên, Chúa vẫn cảnh báo các người khác đừng giết
Cain, và đặt dấu hiệu trên Cain để bảo vệ sinh mạng anh ta 8. Thông điệp ở đây rất rõ ràng: Dù Cain
là kẻ giết người, Thiên Chúa vẫn tôn trọng sự sống của anh ta, và cấm người khác xâm phạm tính

8
Xem CỰU ƯỚC, sách Sáng Thế, chương 4, câu 15.
10
mạng của Cain. Điều này cho thấy ngay từ buổi đầu lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã đặt vấn đề
bảo vệ sự sống lên hàng đầu.
Thế nhưng, nhân loại vẫn tiếp tục lạc lõng trong tội lỗi, không tôn trọng sự sống và sát phạt
lẫn nhau. Trước tình cảnh bạo lực lên đến mức báo động, tính mạng con người chẳng được xem
trọng, Thiên Chúa buộc phải can thiệp bằng hồng thủy trước khi quá muộn. Giữa lúc đạo đức suy
đồi, chỉ riêng Nô-ê và gia đình vâng theo Thiên Chúa nên được cứu rỗi khỏi thảm họa - điều đó
khẳng định đức tin luôn đem lại phần thưởng xứng đáng (x St 6, 9 – 22). Hơn thế nữa, trận hồng
thủy còn thể hiện sự công bằng của Tạo hóa: kẻ ác bị trừng trị đích đáng còn người lành được che
chở. Đồng thời, Thượng Đế cũng cảnh tỉnh nhân loại nói chung rằng mạng người vô cùng thiêng
liêng và quý giá - xúc phạm đến nó là đại tội cần phải đền trả thích đáng. Bài học sâu sắc ấy ngụ ý
rằng chỉ có đặt nền móng trên sự tôn trọng lẫn nhau, con người mới có thể hướng tới hòa bình.
Sau khi trận hồng thủy đi qua và Nô-ê cùng gia đình bước ra khỏi tàu, Thiên Chúa đã phán
với ông:
Nhưng Ta sẽ đòi mỗi con vật phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi;
Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em
mình. Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người
theo hình ảnh Thiên Chúa.9
Đây thực sự là lời cảnh tỉnh mạnh mẽ của Thiên Chúa đối với Nô-ê và cả nhân loại sau này.
Ngài khẳng định mạng sống con người thật thánh thiện và quý giá, bởi chính Thiên Chúa đã dựng
nên con người theo hình ảnh của mình. Bất cứ hành động nào xâm phạm sinh mạng người khác
đều là tội ác ghê gớm, sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt thích đáng. Đây là lần thứ hai Thiên Chúa phán
dạy rõ ràng về giá trị vô vàn của mạng người sau sự kiện Cain giết Abel.
Qua hai biến cố lớn là vụ Cain giết Abel và trận hồng thủy, Thiên Chúa đã lên tiếng mạnh
mẽ để cảnh báo nhân loại về hậu quả của việc xem thường sinh mạng con người. Cũng chính từ
đó, Ngài khởi đầu gieo trồng vào lòng người hạt giống lương tâm, để nhận biết sự thiêng liêng của
sự sống và học cách tôn trọng nó. Đó là bước khởi đầu cho tiến trình lịch sử cứu độ của Thiên
Chúa.
Tiếp nối công cuộc cứu độ ấy, Khi Thiên Chúa kêu gọi Abraham, Ngài đã truyền cho ông
dâng con mình là Isaac làm của lễ (x St 22, 1 – 2). Đây là thử thách nặng nề bởi Isaac vừa là con
trai sinh ra trong tuổi già của Abraham, vừa là hy vọng phước lành của ông (x St 21, 1 – 7). Nhưng
khi ông vâng lời và sắp sát tế Isaac, Thiên Chúa đã can thiệp, ngăn ông giết con và yêu cầu dâng
một con chiên thế (x St 22, 11 – 13). Sự can thiệp này một lần nữa nhấn mạnh sinh mạng con
người là vô cùng quý giá, kể cả vì mục đích tôn giáo, cũng không được quyền hy sinh nó. Thiên

9
CỰU ƯỚC, sách Sáng Thế, chương 9, câu 5-6.
11
Chúa muốn nhắn gửi đến các thế hệ sau rằng mạng người là thiêng liêng, không ai có thể xâm
phạm.
Sau đó, khi Chúa dẫn dắt dân Israel thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập dưới sự lãnh đạo của
Môisen, Ngài đã truyền dạy họ 10 điều răn quan trọng để xây dựng nên một xã hội Israel tiến bộ và
văn minh. Trong 10 điều răn ấy, điều răn thứ 5 mà Chúa đặc biệt nhắc đến là: Ngươi không được
giết người10. Lần thứ ba Thiên Chúa công bố rõ ràng lệnh cấm giết người, để nhấn mạnh tầm quan
trọng của vấn đề này. Đây chính là nền tảng đạo đức căn bản của xã hội Israel cổ đại - một xã hội
coi trọng sự sống con người. Bên cạnh đó, trong bộ Luật Lê-vi mà Chúa truyền dạy, có rất nhiều
quy định nhằm bảo vệ sinh mạng người dân, đặc biệt là phạt nặng kẻ giết người. Chẳng hạn luật:
chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã làm cho người khác mang tật thế nào, thì
người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy 11. (Lv 24:20) nhằm hạn chế tối đa bạo lực vô cớ gây nguy hại
đến sinh mạng người khác. Luật này ra đời dựa trên sự việc một người Israel làm nhục và nguyền
rủa Danh Thánh của Chúa, bị Đức Chúa phán xử phải bị ném đá chết. Tuy nhiên, Chúa cũng ra
lệnh rằng người Do Thái chỉ được quyền trả mắt đền mắt, răng đền răng chứ không được giết
người khi bị tấn công. Những quy định này thể hiện sự tôn trọng cao độ đối với sinh mạng con
người trong luật pháp của Israel cổ đại.
Không chỉ được thể hiện qua luật pháp, việc bảo vệ sinh mạng con người còn được các vị
lãnh đạo tiên tri của Israel thực hiện. Chẳng hạn, tiên tri Samuel tuy được Thiên Chúa xức dầu làm
vua Israel thay vì Saul, nhưng ông vẫn tôn trọng và bảo vệ sinh mạng của vua Saul, dù bản thân
ông từng bị Saul truy đuổi giết chết 12. Hành động cao đẹp này thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc
của các bậc tiền bối Israel, coi sự sống là quý giá và không được tước đoạt mạng sống kẻ khác một
cách bừa bãi.
Có lẽ một trong những minh chứng rõ ràng và cảm động nhất về việc Thiên Chúa can thiệp
bảo vệ sự sống của dân tộc Israel là câu chuyện họ thoát khỏi âm mưu diệt chủng của Haman, được
ký thuật trong sách Ét-te. Khi Haman âm mưu tiêu diệt toàn bộ người Do Thái đang sống lưu vong
tại Ba Tư, Thiên Chúa đã lật ngược tình thế, giúp người Do Thái thoát nạn diệt chủng và trừng trị
kẻ thù của họ. Cụ thể, Ngài đã khiến vua A-suê-rô say mê nhan sắc của nàng Ét-te người Do Thái,
người sau này trở thành Hoàng hậu và có địa vị cao trong triều. Nhờ vậy, Ét-te đã lật tẩy âm mưu
của Haman, cứu sống cho dân tộc mình và trừng trị hung thủ 13.
Sự can thiệp đầy quyền năng và kỳ diệu của Thiên Chúa đã một lần nữa giải cứu dân Do
Thái khỏi diệt vong. Điều này minh chứng mạnh mẽ rằng dù Israel có phạm tội, xa cách Chúa,

10
CỰU ƯỚC, sách Xuất Hành, chương 20, câu 13.
11
CỰU ƯỚC, sách Lê-Vi, chương 24, câu 20.
12
Xem Cựu Ước, sách Sa-mu-en, quyển 1, chương 24, câu 2 – 13.
13
Xem Cựu Ước, sách Ét-te, chương 7 – 9.
12
Ngài vẫn mãi là Đấng che chở và bảo vệ dân tộc mình. Thiên Chúa luôn đứng về phía công lý và
sự sống, sẵn sàng ra tay để giải cứu những ai trông cậy vào Ngài.
Như vậy, qua nhiều giai đoạn lịch sử cứu độ khác nhau, Thiên Chúa liên tục chứng tỏ mình
là Đấng bảo vệ sự sống. Từ thuở khai thiên lập địa, Ngài đã khẳng định sinh mạng con người thật
thánh thiêng và quý báu biết bao. Ngài đã can thiệp, thay đổi cục diện lịch sử để bảo vệ dân Ngài
khỏi diệt vong.
Điều đó nhắc nhở chúng ta hãy noi gương tổ phụ, biết quý trọng và gìn giữ sự sống của mọi
người - dù là bạn hay thù địch. Chỉ có lòng tôn trọng cao cả mạng sống tha nhân, chúng ta mới
thực sự tôn vinh Thiên Chúa là Đấng ban sự sống muôn đời. Mỗi chúng ta cần ý thức rõ ràng rằng
mạng sống là quà tặng vô giá của Thiên Chúa ban, chúng ta không có quyền cướp đi sinh mạng
của người khác.

13
2.2 Kinh Thánh Tân Ước.
Sách Tân Ước ra đời với mục đích ghi chép lại cuộc đời, lời dạy và công cuộc cứu chuộc
tội lỗi cho nhân loại của Chúa Giêsu. Các sách Tân Ước đều nhất quán ca ngợi và khẳng định giá
trị vô cùng quý báu của mỗi sinh mạng con người. Chúa Giêsu đã dạy rằng mỗi người phải hết
lòng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như chính mình (x Mt 22:37-39). Điều đó cho
thấy tất cả mọi người đều là anh chị em ruột thịt của nhau, có cùng phẩm giá, địa vị và giá trị nhân
phẩm như nhau, không ai cao cả hay thấp hèn hơn ai. Tình yêu thương phải được đối xử một cách
bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giai cấp, chủng tộc hay tôn giáo.
Ngoài ra, trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đã nâng cao và mở rộng giáo lý của Cựu
Ước về điều răn "Chớ giết người".
Trước tiên, Ngài nhắc lại lời Luật Môi-se cấm tội giết người và trừng phạt kẻ phạm tội ấy.
Tiếp đó, Chúa Giêsu dạy rằng không chỉ hành động giết người là sai, mà ngay cả việc nổi giận,
căm ghét và muốn trả thù người khác cũng đã vi phạm điều răn này. Bởi lẽ, sự giận dữ và hận thù
chính là nguồn gốc dẫn đến tội giết người. (x Mt 5, 21 – 22)
Chúa Giêsu còn đi xa hơn khi yêu cầu các môn đệ phải quảng đại đưa cả má bên kia để kẻ
thù đánh, thậm chí còn phải yêu thương những kẻ thù ghét mình. Chính bản thân Ngài cũng đã tự
nguyện chịu đóng đinh trên thập giá mà không hề tự vệ hay trả thù. Khi Phêrô rút gươm định chiến
đấu, Chính người đã không tự vệ và bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao 14.
Như vậy, qua lời dạy và gương sáng của mình, Chúa Giêsu cho thấy bản chất của tội giết
người không chỉ là hành động cướp đi mạng sống của người khác. Sự giận dữ, thù hận và mọi ý
định xấu trong lòng cũng đều vi phạm điều răn thứ năm và có thể dẫn đến tội giết người.
Thánh Gioan Tông Đồ cũng khẳng định điều này khi viết: "Phàm ai ghét anh em mình là kẻ
sát nhân" (1 Ga 3,15). Chính sự thù hận và hận thù người khác mới là nguồn gốc sâu xa nhất của
tội ác giết người.
Do đó, điều răn thứ năm không chỉ cấm giết người, mà còn cấm mọi hành vi, lời nói và ý
nghĩ trong lòng có thể dẫn đến tội ác ấy. Đây chính là sự vi phạm nghiêm trọng lệnh truyền của
Chúa Giêsu về việc yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù của mình.
Qua lời dạy và hành động, Chúa Giêsu đã khẳng định giá trị vô cùng quý báu của mỗi
mạng sống con người. Chúa đã chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và rao giảng Tin Mừng cứu rỗi
để cứu vớt linh hồn của mọi người. Đồng thời, Ngài cũng để lại nhiều lời dạy sâu sắc về lòng nhân
ái, sống yêu thương và chăm sóc người khốn khó. Tiếp nối Chúa, các Thánh Tông đồ cũng kêu gọi
mọi người nên sống thánh thiện, tránh xa điều ác và đối xử công bằng, chia sẻ yêu thương với

14
X. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM UỶ BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Sách giáo lý…, op.cit., số 2262.
14
nhau. Như vậy, xuyên suốt Tân Ước, tinh thần tôn trọng và bảo vệ sự sống đã được khẳng định
mạnh mẽ. Đây chính là nền tảng đạo đức vững chắc để mỗi người ý thức được trân trọng và gìn
giữ sự sống - món quà vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng.

15
Kết luận chương 2

Xuyên suốt lịch sử cứu độ nhân loại được ghi lại trong Kinh Thánh, chúng ta thấy rõ thông
điệp ý nghĩa về việc tôn trọng và bảo vệ mọi sự sống. Thông điệp này xuất phát từ chính Thiên
Chúa - Đấng đã dựng nên con người theo hình ảnh của mình và ban cho họ một linh hồn bất tử. Do
đó, mỗi sinh mạng đều mang dấu ấn thiêng liêng của Đấng Tạo Hóa và cần được tôn trọng tuyệt
đối.
Thế nhưng, chỉ sau một thời gian ngắn, nhân loại đã sa vào tội lỗi và quay lưng lại với
Đấng ban sự sống. Họ dần xem thường sinh mạng đồng loại và gây ra muôn vàn tội ác. Trước thực
trạng đó, Thiên Chúa đã nhiều lần can thiệp vào lịch sử để cảnh tỉnh và nhắc nhở con người về ý
nghĩa thiêng liêng của sự sống. Ngài trừng phạt những kẻ vô nhân đạo và lựa chọn những người có
lương tâm để bảo tồn sự sống.
Sang đến Tân Ước, Chúa Giêsu và các vị Thánh Tông đồ cũng để lại nhiều lời dạy về tình
yêu thương vô bờ bến dành cho mọi người, cũng như cách sống nhân ái và thánh thiện để tôn vinh
sự sống. Họ đặt nền móng đạo đức vững chắc để mỗi người ý thức và trân trọng sự sống - món quà
vô giá của Thiên Chúa.
Như vậy, xuyên suốt lịch sử Cứu Độ, Thiên Chúa đã liên tục thể hiện thông điệp ý nghĩa về
việc tôn trọng và bảo vệ sự sống. Đây chính là nền tảng đạo đức phổ quát mà mỗi người chúng ta
đều cần học hỏi và noi theo.
Tuy nhiên, bên cạnh những lời dạy cao đẹp đó, trong thực tế cuộc sống luôn tồn tại nhiều
trường hợp vi phạm lệnh truyền thánh thiêng “Chớ giết người”. Điều đó đặt ra thách thức lớn lao
đối với nhân loại trong việc thực thi lời Chúa dạy và xây dựng một xã hội tôn trọng sự sống.
Chính vì vậy, để hiểu rõ hơn thực trạng đáng buồn đó, chương tiếp theo sẽ phân tích cụ thể
các tội nghịch điều răn “Chớ giết người” dưới nhiều hình thức như phá thai, giết người, tự sát... Hy
vọng qua đó, chúng ta sẽ ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm bảo vệ sự sống của mình cũng như của
người khác.

16
CHƯƠNG 3: Những tội nghịch với điều răn thứ V

3.1 Hủy diệt sự sống.


3.1.1 Giết người
Trong xã hội hiện đại, các vụ giết người vẫn thường xuyên xảy ra, gây nên nỗi kinh
hoàng và bất an cho người dân. Đây là một tội ác ghê gớm, bị lên án gay gắt bởi luật pháp
cũng như đạo đức xã hội. Vậy tại sao giết người lại là một tội ác? Kinh Thánh dạy gì về tội
giết người? Đó có phải là tội lỗi không thể tha thứ? Trong phần này sẽ cố gắng làm rõ một số
vấn đề liên quan.
Giết người trực tiếp:
Giết người trực tiếp là hành vi mang tính cố ý cao, trực tiếp nhằm vào việc cướp đi
sinh mạng của nạn nhân. Có hai khía cạnh cần làm rõ của định nghĩa này:
Một là, giết người trực tiếp luôn hàm ý sự cố ý. Kẻ thủ ác nhằm thẳng vào sinh
mạng con người như một mục tiêu của chính nó. Việc cướp đi mạng sống là đích đến cuối
cùng mà chúng muốn hướng tới. Điều này hoàn toàn trái ngược với những vụ giết người
ngẫu nhiên hay không chủ ý khác.
Hai là, ngoài mục đích trực tiếp là sát hại, giết người có thể còn nhằm phục vụ một
đích đến khác. Chẳng hạn, người ta có thể giết để cướp tài sản, hoặc giết để bịt đầu mối tội
ác. Nhưng dù sao, cái chết của nạn nhân vẫn luôn nằm trong kế hoạch và là phương tiện để
phục vụ mục đích đen tối đó.
Cụ thể, giết người để cướp của là hành vi nhắm thẳng vào tính mạng nạn nhân chỉ
vì mục đích chiếm đoạt tài sản. Động cơ của nó là tham lam, sẵn sàng hy sinh sinh mạng
người khác để thoả mãn ham muốn vật chất của bản thân. Đây là dạng giết người ích kỷ và
thiếu đạo đức nhất.
Một dạng khác là giết để bịt miệng nhân chứng nhằm che giấu tội ác. Kẻ thủ ác giết
đi người biết quá nhiều manh mối về hành vi phạm pháp của chúng. Mục đích là để đối phó
với pháp luật, tránh bị truy tố, xét xử. Động cơ này cũng rất đáng lên án vì nó đặt quyền lợi
của bản thân lên trên sinh mạng người khác.
Cuối cùng, còn có thể kể đến giết con không muốn nuôi. Đứa con vô tội bị cha mẹ
đẻ ra đành lòng vứt bỏ. Điều này cho thấy sự vô trách nhiệm và thiếu nhân tính một cách
đáng sợ. 15

15
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 121.
17
Như vậy, tất cả các dạng giết người trực tiếp nói trên đều đáng bị lên án gay gắt.
Bởi chúng phản bội nhân tính sâu thẳm nhất của con người - sự tôn trọng đối với sinh mạng
đồng loại.
“Điều răn thứ năm coi việc giết người cách trực tiếp và có chủ ý là một tội trọng.
Kẻ sát nhân và đồng lõa phạm cùng một tội kêu thấu tới trời đòi báo thù (x. St 4, 10). Tội
giết trẻ thơ (x. GS 51), giết anh em, giết cha mẹ, giúp người phối ngẫu, là những tội ác đặc
biệt nghiêm trọng, vì các dây liên kết tự nhiên bị phá hủy. Sự quan tâm tới nòi giống hoặc
tới sự chăm sóc sức khỏe cộng đồng không thể biện minh cho bất cứ việc giết người nào,
dù do công quyền ra lệnh”16
Qua đó cho ta thấy, giết người là một trong những tội ác khủng khiếp nhất mà con
người có thể gây ra cho đồng loại. Vậy nên hành vi đó đã và luôn bị lên án một cách rất
nghiêm khắc xuyên suốt lịch sử loài người. Nhưng tại sao nó lại tàn nhẫn và gây hệ lụy đến
thế? Căn cứ vào bản chất cốt lõi của nó, có 4 hậu quả nghiêm trọng sau có thể đưa ra:
Trước hết, hành vi giết người đã vi phạm thẳng thừng lệnh cấm của Đấng Tạo Hóa:
“Ngươi không được giết người”. Điều này cho thấy sự bất tuân hoàn toàn đối với ý chí tối
thượng của Thiên Chúa – Đấng vốn là nguồn gốc và chủ tể của sự sống. Giết con người là
xâm phạm thẩm quyền tuyệt đối ấy của Ngài.
Thứ đến, hành vi trên xâm hại đến quyền thiêng liêng nhất của con người – quyền
được sống. Đây là quyền tối thượng cho phép họ hiện hữu và hoàn thành ý nghĩa cuộc đời.
Quyền này thuộc về mỗi cá nhân nên tuyệt đối không ai có thể vi phạm.
Hơn nữa, tội ác ấy còn phá vỡ mối liên kết yêu thương giữa mọi người. Nó đập tan
tinh thần nhân ái, cộng đồng, phá hỏng mọi quan hệ huynh đệ đích thực.
Cuối cùng, sát nhân còn hoàn toàn trái nghịch với các nhân đức công bằng, bác ái.
Thay vì yêu thương, kẻ giết người lại hằn học và hung tàn. Đó là điều hoàn toàn phi nhân
tính.
Như vậy, có thể thấy giết người trực tiếp chính là tận cùng của sự tàn bạo, vô nhân
đạo. Nó phá hủy hoàn toàn những giá trị thiêng liêng nhất của nhân loại nên xứng đáng bị
lên án nặng nề nhất. Sự tàn nhẫn của nó đã được minh chứng qua 4 hậu quả trên.
Do đó, mọi hình thức giết người trực tiếp và cố ý đều bị lên án. Không có lý do gì
để biện minh cho hành động tàn ác này. Dù vì lệnh truyền từ trên, giết người vô tội vẫn
hoàn toàn trái với luật luân lý.
a) Giết người gián tiếp:

16
Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2268.
18
Ngoài hành vi giết người trực tiếp, còn có một hình thức giết người mang tính gián
tiếp. Điều này đề cập đến những hành vi không trực tiếp nhắm vào tính mạng của nạn nhân,
nhưng có thể dẫn đến cái chết của họ.17
Cụ thể, sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo chỉ rõ: “điều răn thứ năm cũng cấm
những hành động cố ý gây chết người cách gián tiếp. nếu không có lý do nghiêm trọng phải
luật Luân Luân lý cấm không được phép đặt một người vào chỗ nguy tượng cũng như
không được phép từ chối giúp đỡ một người đang lâm nguy” 18. Nghĩa là những hành động
có chủ ý đặt nạn nhân vào hoàn cảnh nguy hiểm, dễ dẫn tới tử vong mặc dù không trực tiếp
giết hại họ.
Chẳng hạn, có những bà mẹ đẻ con nhưng lại nhẫn tâm bỏ rơi chúng ngay từ lúc
mới sinh. Hành động đó khiến trẻ con phải chịu cảnh đói rét, dễ mắc bệnh hay bị thú dữ vồ
xé... từ đó dẫn đến cái chết thương tâm. Mặc dù không trực tiếp sát hại con đẻ nhưng việc
bỏ mặc cho trẻ chết đói, chết rét vẫn mang tính chất giết người gián tiếp.
Hay như trường hợp tài xế say rượu, cố tình lạng lách đường công cộng. Hắn ta có
thể đâm phải người đi bộ khiến họ tử vong tại chỗ. Mặc dù hắn không có mục đích trực tiếp
sát hại ai, song hành vi liều lĩnh của hắn vẫn dẫn đến cái chết của người vô tội. Đó cũng
được xếp vào loại giết người gián tiếp.19
Bên cạnh đó, việc từ chối cứu trợ, giúp đỡ người đang lâm nguy là giết người gián
tiếp. Như dụ ngôn Người Samari nhân hậu, Chúa Giêsu đã lên án gay gắt thái độ vô trách
nhiệm của những người làm ngơ trước hoàn cảnh khốn cùng của đồng loài. Cụ thể, thầy tế
lễ và người Lê-vi khi thấy nạn nhân bị cướp đánh gục bên đường đã “bỏ qua chỗ khác”, từ
chối cứu giúp mặc cho người đó đang hấp hối. 20
Với Giáo huấn của sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, đó chính là hành vi giết
người gián tiếp. Bởi lẽ, dù không đích thân ra tay cướp đi mạng sống nạn nhân, nhưng việc
làm ngơ trước tính mạng con người đang rơi vào hiểm nguy cũng đồng nghĩa với gián tiếp
xô người ta đến chỗ chết 21. Do đó, từ chối cứu trợ, giúp đỡ kẻ khác khi có đầy đủ khả năng
làm điều đó cũng bị coi là tội lỗi nghiêm trọng. Bởi nó phản bội tinh thần bác ái, trách
nhiệm đối với mạng sống quý giá của con người – giá trị vốn rất thiêng liêng theo Giáo lý.
Qua câu chuyện dụ ngôn ấy, Chúa Giêsu đã mở rộng khái niệm về tội sát nhân, kể
cả những hành vi gián tiếp nhưng thể hiện thái độ coi thường sinh mạng người khác. Điều
đó nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm hơn đối với đồng loại.

17
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 123.
18
Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2269
19
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 124.
20
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 125.
Xem Luca, sách Tân Ước, chương 10, câu 25 - 37.
21
Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, số 2269
19
Như vậy, nhìn chung giết người gián tiếp là hành vi đáng lên án. Bởi bản chất nó
vẫn là sự coi thường giá trị của sinh mạng con người, vốn rất thiêng liêng, quý giá. Chỉ
trong một số trường hợp đặc biệt nhằm bảo vệ giá trị cao cả hơn, giết người gián tiếp mới
được xem xét.
3.1.2 Phá thai
Ngày nay, khi mà nhiều giá trị đạo đức truyền thống đang dần bị phai mờ, thì việc quay
trở lại tìm hiểu các chuẩn mực và khuôn khổ đạo đức của các tôn giáo lớn là vô cùng quan
trọng. Điều đó không chỉ giúp chúng ta định vị lại đạo lý phổ quát trong thời đại ngày nay,
mà còn là chìa khóa để giải quyết những vấn nạn đạo đức gây tranh cãi. Một trong số đó là
vấn đề phá thai - một thách đố nan giải đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Trong phần mục
này mong muốn góp phần làm sáng tỏ một phần nào quan điểm của Công Giáo đối với vấn
đề phá thai thông qua việc nghiên cứu một số khía cạnh có liên quan.
I. Thực trạng phá thai Việt Nam.
Số liệu thông kê. Theo thống kê, mỗi năm Việt Nam có khoảng 1,4 triệu ca phá
thai. Con số này chiếm tới 30% ở lứa tuổi vị thành niên. Riêng tại TP.HCM đã có
141.269 ca phá thai được ghi nhận tại các bệnh viện phụ sản công lập trong năm 1997
22
.Theo ước tính của các bác sĩ, có tới 40% phụ nữ mang thai ở Việt Nam đi phá thai.
Nếu so sánh, tỷ lệ này gấp đôi so với số liệu thống kê chính thức và cao gấp 8-10 lần so
với các nước phương Tây.23
Những vấn đề đáng lo ngại. Một là, tỷ lệ phá thai ở vị thành niên chiếm tới 30%
rất đáng báo động 24. Hai là, ngoài con số thống kê chính thức, vẫn còn hàng trăm ngàn
ca phá thai không được kiểm soát ở các cơ sở y tế tư nhân. Ba là, thai trên 22 tuần vẫn

22
Xem Định Hướng – Tập san nghiên cứu và nghị luận – phát hành tại nước Pháp, số 28, mùa thu 2001, trang 23.
23
Theo báo cáo năm 2001 của nước Pháp, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng phá thai diễn ra với quy mô rất lớn và đáng
báo động. Cụ thể, mỗi năm có tới 1,4 triệu ca phá thai được ghi nhận, trong đó 30% là ở độ tuổi vị thành niên. Đây là một tỷ lệ
cực kỳ cao và rất đáng lo ngại, cho thấy vấn nạn phá thai tràn lan không chỉ ở phụ nữ trưởng thành mà ngay cả ở lứa tuổi còn quá
nhỏ. Cụ thể hơn, riêng tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1997 đã có tới 141.269 ca phá thai chính thức được ghi nhận. Điều này
chưa kể hàng trăm ngàn ca khác xảy ra tại các cơ sở y tế tư nhân không được kiểm soát. Như vậy, tổng số ca phá thai thực tế còn
cao hơn nhiều so với con số thống kê.
Về tỷ lệ, các báo cáo từ bệnh viện cho thấy có tới 40% số phụ nữ mang thai tại Việt Nam đã từng phá thai ít nhất một lần. Con số
này gấp đôi so với thống kê chính thức và còn cao gấp 8-10 lần so với hầu hết các nước phương Tây. Điều này cho thấy tình
trạng phá thai tại Việt Nam thực sự diễn ra phổ biến và lạm dụng ở mức báo động, vượt xa so với các nước trên thế giới.
Đặc biệt, có một số điểm đáng lo ngại xung quanh vấn đề này. Thứ nhất, tỷ lệ phá thai ở lứa tuổi vị thành niên lên tới 30% là con
số cảnh báo nghiêm trọng về các vấn nạn xã hội như quan hệ tình dục sớm, mang thai ngoài ý muốn. Thứ hai, bên cạnh những ca
phá thai chính thức, vẫn còn hàng trăm ngàn ca phá thai bí mật, không kiểm soát xảy ra mỗi ngày. Thứ ba, thai nhi trên 22 tuần
vẫn đang bị phá bỏ tại nhiều bệnh viện tư vì mục đích thương mại. Thứ tư, nhiều bệnh viện hoạt động vi phạm quy định nhưng
không bị xử lý, khiến tình trạng càng trở nên tồi tệ.
Như vậy, có thể thấy thực trạng phá thai đang diễn ra hết sức phổ biến tại Việt Nam, với quy mô lớn, tỷ lệ cao, xảy ra ở mọi lứa
tuổi, đặc biệt nghiêm trọng ở tuổi vị thành niên. Điều này không chỉ gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe mà còn đe dọa trực
tiếp đến tương lai dân số và sự phát triển bền vững của đất nước.
24
Xem BÁO SÀI GÒN GIẢI PHÓNG, Báo động tình trạng nạo phá thai ở tuổi học sinh, sinh viên, ngày truy cập: 5-12-2023;
https://tytphuongtamphu.medinet.gov.vn/chuyen-muc/bao-dong-tinh-trang-nao-pha-thai-o-tuoi-hoc-sinh-sinh-vien-cmobile7528-
122468.aspx#
20
được phá bỏ tại các bệnh viện tư vì mục đích kinh tế. Bốn là, nhiều bệnh viện tư hoạt
động không đúng quy định nhưng không bị xử lý.25
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng phổ biến. Theo các chuyên gia, đời sống tình
dục của giới trẻ thay đổi nhanh trong khi các dịch vụ CSSK chưa theo kịp. Giới trẻ ít
được tư vấn về biện pháp tránh thai phù hợp. Bên cạnh đó, hệ thống y tế công cộng hoạt
động kém hiệu quả. Các bệnh viện tư lợi dụng sơ hở trong quản lý để thực hiện các ca
phá thai muộn vì mục đích thương mại.26
II. Khái niệm phá thai.
Theo ĐMG Matthêô Nguyễn Văn Khôi, phá thai được định nghĩa là "tìm cách trục
xuất phôi hoặc thai nhi còn non ra khỏi lòng mẹ, trước khi nó có khả năng sống sót ngoài tử
cung người mẹ" hoặc "bằng cách giết chết bào thai trước khi lấy ra khỏi bụng mẹ". Sách
thần học luân lý chuyên biệt 2 cũng đưa ra định nghĩa tương tự khi nói rằng phá thai là "lấy
khỏi bụng mẹ một con người không thể sống được dựa vào một phương pháp nào đó của
con người". Như vậy, cả hai sách đều thống nhất rằng phá thai là hành động làm cho thai
nhi phải rời khỏi tử cung trước khi có khả năng tồn tại, dẫn đến cái chết của thai nhi.
Ngoài khái niệm chung về phá thai, chúng ta có thể phân loại phá thai thành hai
hình thức các hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Trong phá thai trực tiếp, người thực hiện có

25
Thực trạng phá thai tại Việt Nam chứa đựng nhiều vấn đề đáng báo động và cần được giải quyết gấp rút.
Thứ nhất, theo thống kê từ Trung tâm bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em thuộc Sở Y tế TP.HCM, tỷ lệ phá thai ở độ tuổi vị thành
niên chiếm tới 30% tổng số ca. Đây là tỷ lệ cực kỳ cao, cho thấy vấn nạn phá thai ở lứa tuổi còn quá nhỏ đang hoành hành, đe
dọa nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản sau này của các em. Theo các chuyên gia, nguyên nhân chủ yếu là do các em thiếu hiểu
biết và ý thức về giới tính, quan hệ tình dục sớm dẫn đến mang thai ngoài ý muốn (Arthur Erken, đại diện UNFPA).
Thứ hai, ngoài con số thống kê chính thức hàng năm, vẫn còn hàng trăm ngàn ca phá thai không được kiểm soát xảy ra tại các cơ
sở y tế tư nhân không có giấy phép. Theo ông Arthur Erken, con số thực tế có thể lên đến 1 triệu ca mỗi năm. Việc thiếu kiểm
soát, giám sát chặt chẽ này khiến phá thai trở thành "dịch vụ thương mại" với chi phí rẻ, làm gia tăng nguy cơ lây nhiễm và đe
dọa tính mạng người phụ nữ.
Thứ ba, hiện nay tại một số bệnh viện tư, thai nhi đã lớn hơn 22 tuần vẫn bị phá bỏ vì mục đích kinh tế. Điều này hoàn toàn trái
với quy định của Bộ Y tế và đạo đức nghề nghiệp. Theo Theo các chuyên gia y tế, phá thai ở giai đoạn này gây tổn thương
nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh sản và sức khỏe tinh thần của người phụ nữ.
Thứ tư, các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều bệnh viện, phòng khám hoạt động sai quy định nhưng không có biện pháp xử
lý triệt để. Điều này khiến tình trạng vi phạm càng trở nên trầm trọng và khó kiểm soát.
Như vậy, có thể thấy thực trạng phá thai tại Việt Nam gây lo ngại trên nhiều phương diện, cả về số lượng, đối tượng, hậu quả và
những vi phạm pháp luật, đạo đức xung quanh vấn đề này. Cần có sự vào cuộc quyết liệt và đồng bộ của các cấp chính quyền
cũng như toàn xã hội để khắc phục những vấn nạn trên.
26
Theo lời của ông Arthur Erken, đại diện quỹ dân số Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng phá
thai diễn ra phổ biến như hiện nay là do:
Thứ nhất, đời sống tình dục của giới trẻ có những thay đổi lớn trong thời gian gần đây, với xu hướng quan hệ sớm hơn, kết hôn
sớm hơn nhưng thiếu hiểu biết về tránh thai. Trong khi đó, các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và tư vấn phòng tránh thai hiện
chưa theo kịp để đáp ứng nhu cầu của giới trẻ. Điều này khiến họ dễ rơi vào tình trạng mang thai ngoài ý muốn.
Thứ hai, hệ thống y tế công cộng hoạt động kém hiệu quả, không cung cấp đủ các dịch vụ phòng tránh thai, phá thai an toàn với
chi phí phải chăng cho người dân, nhất là giới trẻ. Điều này khiến họ buộc phải tìm đến các cơ sở y tế tư nhân, vốn không được
kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, lợi dụng sơ hở trong quản lý nhà nước, nhiều cơ sở y tế tư nhân đã cung cấp dịch vụ phá thai muộn, thậm chí phá thai
già vì mục đích thương mại, bất chấp đạo đức hay sức khỏe của phụ nữ. Việc này vô tình khuyến khích phá thai và khiến thực
trạng càng thêm nghiêm trọng.
Như vậy, có thể thấy cả những nguyên nhân sâu xa về định kiến xã hội, những thiếu sót trong chính sách, cũng như động cơ vụ
lợi đều góp phần dẫn đến thực trạng đáng báo động về phá thai như hiện nay tại Việt Nam. Để thay đổi được cần sự nỗ lực, đồng
bộ từ phía cả Nhà nước và toàn xã hội.
21
chủ đích và mục đích rõ ràng là giết chết hay loại bỏ thai nhi, coi đây là mục tiêu chính của
hành vi 27. Mặt khác, phá thai gián tiếp là trường hợp thai nhi bị giết hoặc đẩy ra ngoài chỉ
đơn thuần như một hậu quả tất yếu, không cố ý của một hành vi khác. Điển hình như
trường hợp phải cắt bỏ tử cung đang mang thai để điều trị bệnh ung thư, khiến cho thai nhi
phải chết theo 28.
III. Giáo huấn của Giáo Hội về phá thai.
Giáo huấn Thánh Kinh. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là đấng tạo dựng mọi sự
sống (Tv 100,3). Mạng sống con người được Thiên Chúa theo dõi bằng tình yêu và bảo vệ
bởi luật "Chớ giết người" của Ngài (Xh 20,13). Do đó, sự sống con người là thánh thiêng
và bất khả xâm phạm từ lúc thụ thai cho đến khi chết. Điều gì thánh thiêng thì vượt quá
quyền lực của con người và chỉ có thể được luật Thiên Chúa bảo vệ. Từ những ngày đầu,
Công giáo đã xem phá thai là trọng tội giết người 29 và kết án gay gắt.30
Lập trường của Giáo hội Công giáo. Giáo hội Công giáo luôn xem phá thai là tội
giết người thực sự. Công đồng Vatican II khẳng định: "Kể từ khi thụ thai, tay phải bảo vệ
sự sống một cách hết sức cẩn thận; phá thai và giết hại trẻ em là những tội ác không thể
diễn tả hết được". Đức các Giáo hoàng từ Phaolô VI, Gioan Phaolô II cũng đều tuyệt đối
lên án và bác bỏ phá thai.31
Tại sao phá thai bị coi là tội giết người. Theo Công giáo, con người là giống hình
ảnh Thiên Chúa, sự sống của con người là thánh thiêng. Phá thai là cố ý ngăn chặn sự sống

27
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 128.
28
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 128.
29
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 130.
30
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là Đấng tạo dựng ra muôn loài vạn vật, trong đó có con người. Chính Thiên Chúa là Đấng "dựng
nên ta và ta thuộc về Người" (Tv 100,3). Mỗi con người chúng ta là một tác phẩm của tay Thiên Chúa, được Ngài dệt nên ngay
từ trong lòng mẹ (Tv 139,13). Vì vậy, mạng sống của con người là thánh thiêng, không ai có quyền xâm phạm. Chính Thiên
Chúa phán rằng: "Chớ giết người" (Xh 20,13). Luật cấm giết người này được mở rộng ra cho cả những đứa trẻ chưa sinh, vì
ngay từ khi còn là bào thai, đã là một con người.
Chính vì thế, Giáo hội Công giáo quan niệm rằng mạng sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ nghiêm ngặt ngay từ giây
phút đầu tiên của sự thụ thai. Phá thai là một hành vi cố ý xâm phạm vào sự thánh thiêng đó, chấm dứt một mạng sống đang hình
thành, nên bị coi là một tội ác, một tội giết người ghê gớm (xem sách thần học luân lý chuyên biệt 2, trang 289 – 290). Đó là lý
do Giáo hội Công giáo luôn lên án mạnh mẽ đối với hành động phá thai ngay từ buổi đầu hình thành của mình.
31
Giáo hội Công giáo có lập trường nhất quán xuyên suốt lịch sử rằng phá thai là một tội ác nghiêm trọng, là hành vi giết người.
Cụ thể, Công Đồng Vatican II long trọng tuyên bố: Kể từ lúc thụ thai, phải tuyệt đối bảo vệ sự sống. Mọi hành động phá thai và
sát hại trẻ em đều là những tội ác ghê gớm, không thể diễn tả hết bằng lời (xem sách công đồng Vatican II, hiến chế mục vụ về
hội thánh trong thế giới ngày này, đoạn 51).
Quan điểm của Giáo hội Công giáo về phá thai như đã nêu ở trên có sự kế thừa và phát triển xuyên suốt. Điều này thể hiện qua
việc nhiều Giáo hoàng liên tiếp tái khẳng định và làm sâu sắc thêm lập trường của Giáo hội.
Trong Tông huấn Humanae Vitae, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã mở rộng phạm vi của việc cấm phá thai. Ngài chỉ rõ mọi hành
động phá thai trực tiếp, cho dù là vì bất kỳ mục đích gì kể cả chữa bệnh, đều là trái với luân lý và giáo lý Công giáo. Bởi lẽ
không có bất cứ lý do nào chính đáng để cố ý phá hủy một sinh mạng đang hình thành, dù chỉ mới ở giai đoạn phôi thai (xem
ĐGH PHAOLÔ VI, tông huấn Humanae vitae, 1968, đoạn 14).
Đức Gioan Phaolô II cũng nhắc lại và nhấn mạnh yếu tố thiêng liêng, thánh thiêng của sự sống ngay khi vừa thụ thai để củng cố
luận cứ cho việc cấm đoán phá thai. Sự sống là thánh thiêng ngay từ ban đầu, do đó không thể bị xâm phạm dưới bất kỳ hình
thức nào (xem ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, bài giảng lễ tại Capital Mall Washington, 7/10/1979).
Như vậy, với Giáo hội Công giáo, phá thai là hành vi sát hại một sinh mạng người, xâm phạm điều thiêng liêng, nên bị lên án là
tội giết người nghiêm trọng. Đó là lập trường nhất quán và không hề thay đổi của Giáo hội.
22
của một con người, do đó là xâm phạm điều thánh thiêng, vi phạm luật Thiên Chúa và bị
coi là giết người. Dù còn trong bào thai, đó cũng đã là một con người, nên phá bỏ là cấu xé
một sinh mạng con người. Chính vì thế mà phá thai bị Công giáo lên án là tội sát nhân.32
Như vậy, dựa trên Kinh Thánh và truyền thống, Công giáo luôn nhìn nhận sự thánh
thiêng của sự sống từ lúc thụ thai và vì thế, việc phá thai bị coi là tội giết người. Đây là lập
trường nhất quán và kiên định của Giáo hội Công giáo qua nhiều thế kỷ.
IV. Các lập luận biện minh cho phá thai và phản bác.
Giữa xu hướng phá thai ngày càng phổ biến, Giáo Hội Công Giáo vẫn một mực
phản đối mọi hình thức phá thai. Theo quan điểm của Giáo hội, mỗi sinh mạng, kể cả thai
nhi, đều thiêng liêng và xứng đáng được tôn trọng. Chỉ trong những trường hợp cực kỳ
hiếm hoi khi phải lựa chọn giữa tính mạng của thai nhi và người mẹ, Giáo hội mới chấp
nhận can thiệp gián tiếp. Vậy tại sao Giáo hội lại khư khư bám trụ vào lập trường đó, thậm
chí còn coi mọi hình thức phá thai trực tiếp là tội ác?
Đối với chỉ dẫn mang tính ưu sinh, người ta cho rằng có thể phá thai nếu dự đoán
thai nhi sẽ sinh ra bị dị tật, khuyết tật. Tuy nhiên, các xét nghiệm y học hiện đại chỉ dự
đoán được xác suất, khả năng, chứ không thể khẳng định một cách tuyệt đối. Do đó, vẫn
hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp thai nhi dù được dự báo nguy cơ cao vẫn sinh ra hoàn
toàn bình thường33. Hơn thế nữa, theo quan điểm của Giáo hội Công Giáo, mọi sinh mạng
người đều thiêng liêng và đáng được tôn trọng, bất kể là người khỏe mạnh hay khuyết tật 34.
Chính vì thế, chỉ dẫn mang tính ưu sinh không thể biện minh được cho việc phá thai.35
32
Theo giáo lý của Công giáo, con người được Thiên Chúa tạo dựng nên theo hình ảnh và giống của Ngài (xem sách giáo lý của
Hội Thánh Công Giáo, đoạn 1). Điều đó đồng nghĩa con người có phần thánh thiêng trong bản chất. Và sự sống của con người
cũng thánh thiêng, bởi nó là món quà vô giá do chính Thiên Chúa ban tặng.
Khi một phôi thai được hình thành trong cơ thể người mẹ, dù chỉ mới là một bóng hình không rõ ràng, Giáo hội cũng đã coi đó là
một con người. Bởi vì theo quan niệm của Công giáo, con người có một linh hồn bất tử và nhân vị độc lập ngay từ giây phút đầu
tiên của sự sống. Cho nên, dù chỉ là một phôi thai, đó cũng đã là một con người thực thụ.
Khi có hành động phá bỏ, cố ý ngăn chặn quá trình phát triển của thai nhi, thì đó chính là xâm phạm vào sự thánh thiêng của
mạng sống con người. Nó vi phạm luật của Thiên Chúa và bị coi là tội giết người. Bởi vì dù còn trong bào thai, đó cũng đã là
một con người. Và hủy diệt nó cũng giống như giết hại một sinh mạng con người khác vậy.
Chính vì thế, Công giáo luôn kết án mạnh mẽ mọi hành vi phá thai như một tội ác tày trời. Bởi nó đồng nghĩa với việc hủy hoại
một linh hồn thánh thiêng và một mạng sống con người vô tội.
33
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 287.
34
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 128 –
129.
35
Đối với chỉ dẫn mang tính ưu sinh, người ta lập luận rằng nếu thai nhi được dự đoán có nguy cơ cao bị dị tật, khuyết tật thì có
thể phá thai để tránh sinh con khuyết tật. Tuy nhiên, các xét nghiệm y học hiện đại, kể cả những kỹ thuật tiên tiến nhất, cũng chỉ
có thể dự đoán được xác suất, nguy cơ mà thai nhi có khả năng mắc bệnh dị tật, chứ không thể khẳng định một cách chắc chắn
100% thai nhi sẽ chắc chắn bị bệnh. Các xét nghiệm chỉ ra xác suất cao hay thấp dựa trên thống kê, khả năng di truyền, chứ
không phải là kết quả chính xác.
Do đó, hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp thai nhi mặc dù được chẩn đoán có nguy cơ cao bị dị tật bẩm sinh, nhưng thực tế khi
sinh ra vẫn hoàn toàn bình thường. Nguyên nhân là bởi các xét nghiệm chỉ dự đoán xác suất và khả năng, chứ không phải kết
quả chắc chắn. Do đó, nếu phá thai chỉ dựa trên các xét nghiệm dự báo nguy cơ, rất có thể sẽ lỡ giết nhầm những thai nhi hoàn
toàn bình thường.
Hơn nữa, theo quan điểm của Giáo hội Công Giáo mọi sinh mạng người đều thiêng liêng và đáng được tôn trọng, bất kể đó là
thai nhi hay người lớn, khỏe mạnh hay khuyết tật. Mỗi người đều là một con người độc nhất vô nhị, đều xứng đáng được quyền
23
Tương tự, chỉ dẫn cá tính đạo đức dựa trên các nguyên nhân như thai nhi do hiếp
dâm hoặc loạn luân để cho phép phá thai cũng không thuyết phục. Bởi lẽ thai nhi hoàn toàn
vô tội, không nên phải gánh chịu hậu quả cho những hành vi sai trái của người khác. Hơn
nữa, bất kể hoàn cảnh ra đời có khó khăn đến đâu, thai nhi vẫn xứng đáng được sinh ra và
được nuôi dưỡng 36. Việc phá thai sẽ không giải quyết được vấn đề mà chỉ khiến cho vấn đề
phức tạp hơn. Do vậy, lập luận cá tính đạo đức cũng vô căn cứ.37
Đối với lập luận cho phép phá thai vì lý do kinh tế, xã hội, thực tế đã chứng minh
người giàu có, được bảo đảm về mặt tài chính lại là nhóm phá thai nhiều nhất chứ không
phải người nghèo khó. Dù gặp khó khăn về kinh tế, các gia đình hoàn toàn có thể cố gắng
vượt qua, nuôi dưỡng con cái 38. Sự nghèo khó chắc chắn không thể biện minh cho việc cố
ý cướp đi sinh mạng của một người. Chính vì thế, lập luận xã hội cũng hoàn toàn không
thuyết phục.39
Cuối cùng, ngay cả khi vì lý do sức khỏe, tính mạng của người mẹ mà đưa ra lập
luận cho phép phá thai cũng không thể chấp nhận 40. Bởi theo Đức Giáo Hoàng PiÔ XI đã

sống và phát triển. Chính vì thế, ngay cả khi thai nhi được dự báo có nguy cơ cao bị dị tật bẩm sinh, việc phá thai cũng không thể
biện minh được. Lập luận mang tính ưu sinh không thể biện hộ cho việc cướp đi sinh mạng của một thai nhi, cho dù họ có vấn
đề về sức khỏe hay không.
Như vậy, chỉ dẫn mang tính ưu sinh hoàn toàn không thể biện minh thuyết phục cho việc phá thai. Các xét nghiệm y học chỉ
mang tính dự đoán khả năng, trong khi mọi sinh mạng đều thiêng liêng và đáng được tôn trọng. Do đó, lập luận này không thể
chấp nhận được.
36
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 288.
37
Đối với chỉ dẫn cá tính đạo đức, người ta cho rằng có thể phá thai đối với những thai nhi mang trong mình nguyên nhân như do
bị hiếp dâm hoặc loạn luân. Lập luận này cho rằng những đứa trẻ sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy sẽ là gánh nặng về
mặt tinh thần, đạo đức cho người mẹ. Tuy nhiên, lập luận này vẫn không thuyết phục vì những lý do sau:
Thứ nhất, thai nhi hoàn toàn vô tội và không có lỗi trong việc mình được thụ thai. Dù hoàn cảnh ra đời của chúng thế nào, thai
nhi vẫn đáng được sinh ra và được chăm sóc, nuôi dưỡng. Chúng không nên phải gánh chịu hậu quả cho những hành động sai
trái mà chúng hoàn toàn vô can.
Thứ hai, bất kể hoàn cảnh ra đời của thai nhi có éo le, khó khăn đến đâu, chúng vẫn xứng đáng được sinh ra. Mỗi đứa trẻ đều
mang đến niềm vui và hạnh phúc riêng cho gia đình cũng như xã hội. Việc phá thai sẽ cướp đi cơ hội sống của chúng và khiến
vấn đề càng thêm phức tạp chứ không giải quyết được gì.
Thứ ba, thay vì phá thai, người mẹ hoàn toàn có thể nuôi dưỡng đứa trẻ hoặc nhờ các cơ sở xã hội khác lo cho trẻ. Điều này vừa
giúp trẻ có cơ hội sống, vừa giảm gánh nặng cho người mẹ.
Như vậy, ta thấy chỉ dẫn cá tính đạo đức không thể biện minh thuyết phục cho việc phá thai. Lập luận này vô căn cứ vì bản chất
tội lỗi không nằm ở thai nhi mà ở những người khác. Do đó, ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn, thai nhi vẫn xứng đáng được
sinh ra và được chăm sóc, nuôi dưỡng.
38
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 288.
39
Đối với lập luận cho phép phá thai vì lý do kinh tế, xã hội, người ta thường nói rằng việc có thêm một đứa trẻ sẽ là gánh nặng
quá lớn cho gia đình hay xã hội. Tuy nhiên, lập luận này hoàn toàn không có cơ sở với những lý do sau:
Thứ nhất, thực tế cho thấy nhóm phá thai nhiều nhất lại là những người giàu có, được đảm bảo về mặt tài chính chứ không phải
là người nghèo. Điều này cho thấy lý do kinh tế không phải là nguyên nhân chính dẫn đến phá thai. Phá thai xuất phát từ những
vấn đề sâu xa hơn chứ không đơn thuần là vấn đề tài chính.
Thứ hai, ngay cả khi gia đình gặp khó khăn về kinh tế, họ vẫn hoàn toàn có thể cố gắng vượt qua, kiếm tiền nuôi con. Có rất
nhiều gia đình nghèo vẫn nuôi được con cái trong điều kiện éo le. Do đó, lý do kinh tế không thể biện minh cho việc cố ý cướp
đi sinh mạng của một người.
Thứ ba, nếu gia đình quá khó khăn, họ hoàn toàn có thể nhờ đến sự trợ giúp của các tổ chức xã hội, cộng đồng giáo xứ để chăm
sóc đứa trẻ. Giết chết một sinh mạng vô tội chỉ vì lý do kinh tế là điều không thể chấp nhận được.
Như vậy, ta thấy lập luận cho phép phá thai vì lý do xã hội, kinh tế là hoàn toàn không có cơ sở. Sự nghèo khó không bao giờ có
thể biện minh cho tội giết người. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, mỗi đứa trẻ đều xứng đáng được quyền sống và được nuôi
dưỡng. Do đó, lập luận xã hội này không thể chấp nhận được.
40
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 288.
24
khẳng định mọi hành vi phá thai trực tiếp đều bị coi là giết người 41, kể cả trong trường hợp
nhằm mục đích cứu mẹ. Lý do là bởi thai nhi cũng là một con người, cũng xứng đáng được
quyền sống như mẹ của mình. Chỉ trong một số ít trường hợp cực kỳ hạn chế khi chỉ còn
cách can thiệp gián tiếp mới có thể cứu được mẹ, Giáo hội mới cho phép biện pháp này.
Ngoài ra, mọi hình thức phá thai trực tiếp đều bị cấm.42
Như vậy, qua phân tích các lập luận biện minh cho phá thai có thể thấy không có lý
lẽ nào thực sự thuyết phục được. Dù vì bất kỳ mục đích gì, giết chết một sinh mạng đang
phát triển là điều không thể chấp nhận về mặt đạo đức. Việc phá thai trực tiếp luôn bị coi là
một tội ác, vi phạm luật tự nhiên và luật Chúa. Chỉ trong một số trường hợp giới hạn cực kỳ
hạn chế, can thiệp gián tiếp mới được phép để cứu mẹ khỏi nguy tử. Ngoài ra, mọi hình
thức phá thai trực tiếp đều không thể biện minh và chấp nhận được.
V. Kết luận
Mọi sinh mạng con người, kể cả thai nhi, đều thiêng liêng và đáng được tôn trọng.
Việc phá thai cố ý can thiệp vào quá trình phát triển của thai nhi, ngăn cản sự ra đời của
một con người. Điều này vi phạm quyền tối thượng được sống của thai nhi. Do đó, phá thai
trực tiếp luôn là một hành động vô đạo đức, bất kể lý do và hoàn cảnh.
Các luận cứ biện minh cho phép phá thai như vì lý do y tế, kinh tế, xã hội... đều
không thực sự thuyết phục. Bởi dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, một sinh mạng cũng đáng
được tôn trọng. Chỉ trừ những trường hợp hiếm hoi nhằm cứu sống người mẹ mà buộc phải
can thiệp gián tiếp, thai nhi mới có thể bị hy sinh. Ngoài ra, mọi hình thức phá thai trực tiếp
khác đều không thể biện minh và phải bị lên án.
Như vậy, lập trường của Công Giáo về vấn đề này là hoàn toàn phù hợp với đạo lý
và nhân bản. Giá trị sự sống của mỗi con người là thiêng liêng và xứng đáng được bảo vệ
tối đa.
3.1.3 Tự sát
Cuộc sống hiện đại đang đặt ra nhiều thách thức lớn lao đối với con người. Bên
cạnh những thành tựu vật chất đáng kinh ngạc, xã hội ngày càng bộc lộ những vấn nạn
41
Xem PIÔ XI, diễn văn trước Liên hiệp y sinh học “thánh Luca”, 12-11-1944, VI.
Xem PIÔ XI, diễn văn trước Liên hiệp Công Giáo Italia các bà hộ sinh, 29-10-1951, II.
42
Đối với lập luận cho phép phá thai vì lý do sức khỏe, tính mạng của người mẹ, đây có vẻ là lý lẽ mạnh nhất và gây nhiều tranh
cãi nhất. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo vẫn nhất quán khẳng định:
Thứ nhất, mọi hình thức phá thai trực tiếp đều bị coi là hành động giết người, cho dù là vì mục đích cứu mẹ. Bởi lẽ, thai nhi cũng
là một con người, một sinh mạng độc lập, không ai có quyền quyết định sống chết của người khác, kể cả để cứu mạng sống của
mẹ đẻ. Mạng sống của mỗi người đều bình đẳng và thiêng liêng như nhau.
Thứ hai, Giáo hội chỉ chấp nhận can thiệp gián tiếp để cứu mẹ trong một số ít trường hợp cực kỳ hạn chế, khi đó là cách duy
nhất để cứu sống người mẹ. Ngoài những trường hợp hiếm hoi đó, mọi hình thức phá thai trực tiếp khác đều bị Giáo hội lên án
và cấm đoán.
Như vậy, ngay cả lý do sức khỏe, tính mạng của người mẹ cũng không thể biện minh cho việc phá thai trực tiếp. Đó vẫn sẽ là
hành động sát hại một sinh mạng vô tội và vi phạm luật Chúa. Chỉ trong một số trường hợp ngoại lệ cực kỳ hiếm hoi, biện pháp
can thiệp gián tiếp mới được Giáo hội cho phép để cứu mẹ. Ngoài ra, mọi lý lẽ khác đều không thể biện minh cho việc phá thai.
25
sâu sắc về mặt tinh thần. Một trong số đó là hiện tượng ngày càng nhiều người chọn cách
kết liễu cuộc đời mình, từ bỏ hy vọng và lựa chọn cái chết như một lối thoát.
Trước thực trạng đau lòng đó, cần có những cách tiếp cận sâu sắc, đa chiều để tìm
ra nguyên nhân và giải pháp. Bài viết sẽ phân tích về vấn đề tự sát từ nhiều khía cạnh như
nguyên nhân, thực trạng, các quan điểm đạo đức khác nhau.
I. Khái niệm và thực trạng tự sát
Tự sát được định nghĩa là việc trực tiếp lấy đi mạng sống của chính mình dựa trên
quyết định cá nhân 43. Như vậy, tự sát chính là hành động cố ý, trực tiếp nhắm vào việc
kết liễu sinh mạng của bản thân.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp tự kết liễu sinh mạng đều được coi là tự sát.
Chẳng hạn, trường hợp một người buộc phải tự tay thi hành án tử hình do chính quyền ra
lệnh thì không được xem là tự sát theo nghĩa đen 44. Bởi lẽ, đây không phải là quyết định
dựa trên ý chí và sự lựa chọn của cá nhân.
Ngoài ra, các nhà tâm lý còn chỉ ra rằng bên trong mỗi con người đều tiềm ẩn xu
hướng muốn tự sát. Đặc biệt là trong hoàn cảnh éo le, đau khổ triền miên mà con người
không thể chịu đựng thêm được nữa. Lúc đó, họ có thể nảy sinh ý định kết liễu bản thân
như một cách giải thoát. Thất vọng chính là động cơ phổ biến nhất dẫn tới quyết định tự
sát 45.
Tự sát có 2 hình thức chính.
Tự sát trực tiếp là hình thức nhắm thẳng tới cái chết như một mục đích hay giải
pháp cứu cánh để thoát khỏi đau khổ, dựa trên sự lựa chọn và quyết định hoàn toàn tự do
của cá nhân 46. Đây là hành vi tự giết mình một cách có chủ đích.47
Tự sát gián tiếp là hình thức gián tiếp dẫn đến cái chết của bản thân, thông qua một
hành động nào đó vốn không nhắm trực tiếp đến mục đích cướp đi sinh mạng 48. Ví dụ:
liều mình cứu người khác hay vì lý tưởng mà chấp nhận hy sinh tính mạng.49
43
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 148.
44
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 149.
45
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 151.
46
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 149.
47
Tự sát trực tiếp là hình thức mà ở đó, con người có ý định và hành động nhắm thẳng vào việc kết liễu sinh mạng của chính mình.
Cụ thể, tự sát trực tiếp chính là cách mà con người chủ động lựa chọn cái chết như một mục đích, hay là phương án cuối cùng để
thoát khỏi đau khổ một cách triệt để.
Trong trường hợp này, quyết định ý định tự vẫn hoàn toàn xuất phát từ bên trong con người, dựa trên sự đánh giá và lựa chọn
độc lập, tự chủ của bản thân. Chính vì thế, cái chết trong hình thức tự sát trực tiếp là hoàn toàn do con người tự gây ra cho mình.
Họ tự tay, một cách có chủ ý và trực diện nhất kết thúc sinh mệnh của chính mình.
Có thể thấy, yếu tố đặc trưng của loại hình tự sát trực tiếp là sự tự nguyện, chủ động và trực diện trong việc lựa chọn cái chết để
chấm dứt cuộc sống. Nó là dạng thức tự vẫn mang tính cố ý rõ ràng nhất và không có sự môi giới hay gián tiếp nào khác ngoài ý
chí của cá nhân.
48
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 150.
49
Tự sát gián tiếp là hình thức gián tiếp dẫn đến cái chết của bản thân, thông qua một hành động nào đó vốn không nhắm trực tiếp
đến mục đích cướp đi sinh mạng. Ví dụ, một người lính cứu hỏa lao vào tòa nhà đang bốc cháy để cứu người mặc dù biết rõ
mình có thể bị ngạt khói và chết cháy. Người lính cứu hỏa ấy không hề có ý định tự sát, mà chỉ vì lòng dũng cảm, trách nhiệm
26
Thực trạng tự sát. Theo các thống kê gần đây, tỷ lệ tự sát trên thế giới có xu
hướng gia tăng đáng báo động. Cụ thể, tỷ lệ tự sát ở nam giới cao gấp 2.2 lần so với nữ
giới 50. Điều này cho thấy nam giới dễ rơi vào trầm cảm, thất vọng và có xu hướng tìm
đến cái chết hơn. Bên cạnh đó, thống kê cũng chỉ ra rằng người không theo tôn giáo có tỷ
lệ tự sát cao hơn so với tín đồ các tôn giáo 51. Điều này khẳng định niềm tin tôn giáo có
tác dụng ngăn chặn xu hướng tự sát rất lớn. Ngoài ra, dân cư thành thị cũng có tỷ lệ tự sát
cao hơn dân cư nông thôn, cho thấy áp lực cuộc sống hiện đại cũng là nguyên nhân khiến
con người dễ nghĩ đến cái chết.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tự sát chủ yếu là do các rối loạn về tâm lý, trầm cảm,
mất hy vọng 52. Khi không giải quyết được những rối loạn tâm lý, con người dễ rơi vào
cảm giác tuyệt vọng, không còn thấy ý nghĩa của cuộc sống nữa. Chính lúc đó, họ tìm đến
cái chết như một lối thoát. Tuy nhiên, nếu có được niềm tin tôn giáo vững chắc, con người
sẽ có khả năng vượt qua những khó khăn thử thách để tìm ra ý nghĩa sống. Họ tin tưởng
vào sự quan phòng của Thượng đế, biết rằng cuộc sống này chỉ là hành trình chuẩn bị cho
cuộc sống vĩnh hằng sau này. Chính điều đó giúp họ kiên cường chiến đấu với khổ đau,
thay vì lựa chọn cái chết.
Như vậy, tôn giáo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc ngăn chặn xu hướng
tự sát. Thực tế đã chứng minh rằng những người có đời sống tâm linh, đức tin tôn giáo
mạnh mẽ thì ít khi nghĩ đến việc kết liễu đời mình. Họ luôn tìm thấy hy vọng và lý do để
tiếp tục sống, vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.
Từ đó ta thấy vấn nạn tự sát chẳng những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh mạng
và sức khỏe tinh thần của cá nhân, mà còn tác động xấu tới người thân, cộng đồng xung
quanh. Do đó, đây là vấn đề xã hội cần được quan tâm.
II. Đánh giá đạo đức về tự sát
1. Quan điểm của Công giáo

cứu người mà bất chấp nguy hiểm.


Một ví dụ khác là trường hợp một điệp viên chấp nhận tự sát để bảo vệ bí mật quốc gia, không để kẻ thù tra tấn khai thác. Dù
biết việc mình làm sẽ dẫn đến cái chết, người điệp viên vẫn quyết định làm vì lý tưởng phục vụ tổ quốc.
Những người chấp nhận hy sinh tính mạng để cứu người hay vì lý tưởng cao cả đều không hề có ý định tự sát. Họ chỉ chấp nhận
cái chết như một hệ quả tất yếu của hành động vị tha và cao cả của mình. Chính vì thế mà tự sát gián tiếp được chấp nhận về mặt
đạo đức.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng được coi là tự sát gián tiếp. Để được coi là hợp pháp về mặt luân lý, tự sát gián tiếp
phải đáp ứng một số tiêu chí: Thứ nhất, phải vì mục đích chính đáng và cao cả, không vì lợi ích cá nhân. Thứ hai, phải cân nhắc
kỹ lưỡng, đảm bảo lợi ích mang lại lớn hơn rủi ro và hậu quả. Thứ ba, phải là phương án tối hậu, sau khi đã cân nhắc mọi giải
pháp khác. Nếu không đáp ứng đủ các tiêu chí trên thì hành động đó không được coi là tự sát gián tiếp hợp pháp.
Như vậy, tự sát gián tiếp khác với tự sát trực tiếp ở chỗ nó không hề có mục đích trực tiếp nhắm đến việc cướp đi sinh mạng của
chính mình. Đó chỉ là hậu quả không mong muốn nhưng đành phải chấp nhận vì mục đích cao cả hơn. Chính vì thế mà trong
một số trường hợp nhất định, tự sát gián tiếp được chấp nhận dưới góc độ đạo đức.
50
Xem HOÀNG PHƯƠNG LY, tự tử là nguyên nhân số 1 dẫn đến tử vong của thanh thiếu niên 10~30 tuổi tại Hàn Quốc, ngày
truy cập: 18-12-2023; https://vietnam.ajunews.com/view/20220927133743195.
51
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 272.
52
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 274.
27
Lý do không được tự sát
Xúc phạm Thiên Chúa. tự sát là một tội lỗi vì nó xúc phạm đến Thiên Chúa. Cụ thể,
con người không có quyền làm chủ thân xác và sinh mạng của mình mà chỉ được quản lý
và hưởng dụng có trách nhiệm 53. Chủ nhân thực sự của sinh mạng con người là Thiên
Chúa. Do đó, tự sát là hành động xâm phạm quyền tối thượng của Thiên Chúa đối với
sinh mạng. Nó cũng thiếu sự tôn trọng và lòng tin vào Thiên Chúa, Đấng cai quản sinh
tử.54
Tội ác với người thân và xã hội. Hành vi tự sát còn bị coi là tội ác với người thân và
xã hội. Lý do là nó cắt đứt các mối quan hệ và trách nhiệm của người tự sát đối với những
người xung quanh 55. Điều này đặc biệt nghiêm trọng đối với những người có trọng trách
đối với cá nhân và cộng đồng. 56
Vi phạm nghĩa vụ tự yêu mình. Tự sát còn vi phạm nghĩa vụ phải yêu thương bản
thân và phấn đấu để hoàn thiện mình. Khi tự sát, con người từ chối cơ hội được phát triển
và hoàn thiện bản thân 57. Dù cuộc sống có khó khăn, nó vẫn mang lại cơ hội để con người
rèn luyện và hoàn thiện mình.58
53
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 273.
54
Theo Công giáo, con người không phải là chủ nhân tuyệt đối của cuộc sống, mà chỉ là người quản lý và hưởng dụng cuộc sống có
trách nhiệm. Trong sách Thần Học luân lý chuyên biệt 2 khẳng định rõ ràng rằng con người chỉ có quyền quản lý và hưởng
thụ cuộc sống của mình với trách nhiệm, chứ không phải làm chủ. Chủ nhân thực sự của sinh mạng con người chính là Thiên
Chúa. Chính Thiên Chúa là Đấng ban tặng sự sống cho mỗi người, và chỉ có Ngài mới có quyền quyết định về sự sống và cái
chết.
Bởi vậy, khi con người tự ý quyết định lấy đi mạng sống của chính mình thông qua hành vi tự sát, điều đó đã xâm phạm quyền
tối thượng của Thiên Chúa đối với sự sống con người. Hành động tự sát phản bội lại Thiên Chúa, vì con người đã tự mình xâm
phạm vào điều thiêng liêng nhất là sự sống do chính Thiên Chúa ban tặng. Đồng thời, hành vi đó cũng thể hiện sự thiếu tôn trọng
và niềm tin vào Thiên Chúa. Thay vì tin tưởng và phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa, người tự sát đã tự mình chấm dứt
sinh mạng, làm ngược lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa.
Như vậy, chính vì xúc phạm đến quyền năng tối thượng của Thiên Chúa đối với sự sống, cũng như thiếu sự tôn trọng và lòng tin
vào Thiên Chúa, mà tự sát bị Công giáo lên án là một tội lỗi nghiêm trọng. Quan điểm này xuất phát từ niềm tin về Thiên Chúa
là Đấng sáng tạo ra sự sống và do đó có quyền quyết định về sự sống ấy.
55
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 273.
56
Theo quan điểm của Công giáo, hành vi tự sát không đơn thuần là tội lỗi đối với Thiên Chúa, mà còn là một tội ác nghiêm trọng
với người thân và xã hội bởi nó đứt gãy các mối quan hệ và trách nhiệm của người tự sát đối với những người xung quanh (xem
KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 273).
Cụ thể, khi một người tự kết liễu đời mình, họ đã từ bỏ tất cả những trách nhiệm với gia đình và cộng đồng mà họ đang gánh
vác. Họ đã để mặc người thân, bạn bè phải gồng gánh nỗi đau đớn vô hạn khi mất đi một người thân yêu. Đặc biệt, đối với
những người có trọng trách lớn lao với xã hội như các bậc làm cha mẹ, người lãnh đạo, quan chức, thì hành động tự sát càng
thêm vô trách nhiệm và ích kỷ.
Chẳng hạn, khi một người cha, người mẹ đơn thân tuyệt vọng tự kết liễu đời mình, họ đã để lại đứa con thơ dại mồ côi cha/mẹ,
không nơi nương tựa. Hay khi một quan chức, người lãnh đạo có trọng trách lớn lao với đất nước quyết định tự sát, họ đã đẩy
cộng đồng vào khủng hoảng nhân sự nghiêm trọng. Những hành động như thế thể hiện sự vô trách nhiệm, coi thường sinh mạng
và quyền lợi của người khác.
Như vậy, Công giáo lên án tự sát không chỉ vì nó trái với Thiên Chúa mà còn bởi hành vi đó gieo rắc đau thương cho người thân
và làm lung lay trật tự, kỷ cương xã hội. Đó là một tội ác với những người xung quanh, nhất là đối với những ai có trọng trách
lớn lao với cộng đồng.
57
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 273 – 274.
58
Theo Công giáo, ngoài xúc phạm đến Thiên Chúa và gây tổn hại cho người khác, hành vi tự sát còn vi phạm nghĩa vụ thiêng
liêng của con người là phải yêu thương và hoàn thiện chính mình.
Cụ thể, khi quyết định tự vẫn, con người đã từ chối cơ hội được phát triển và hoàn thiện nhân cách của chính mình theo lời dạy
trong sách Thần Học luân lý chuyên biệt. Dù cuộc sống có khó khăn, vất vả đến đâu, nó vẫn tiềm ẩn cơ hội để mỗi người rèn
28
Các trường hợp ngoại lệ
Mặc dù Công giáo phản đối việc tự sát, nhưng cũng có một số trường hợp ngoại lệ
được cho phép. Đó là những trường hợp tự sát gián tiếp vì lý do chính đáng và cao cả 59.
Chẳng hạn như hy sinh bản thân để cứu người khác, vì lý tưởng phục vụ tổ quốc, hoặc vì
trung thành với đức tin Công giáo. Tuy nhiên, những trường hợp này cũng cần được cân
nhắc cẩn thận về tính chính đáng và tầm quan trọng.60
2. Các quan điểm khác
Khác với Công giáo hoàn toàn cấm đoán việc tự sát, một số hệ tư tưởng triết học và
tôn giáo bên ngoài Công giáo lại cho phép quyền tự sát dưới một số điều kiện nhất định.
Chẳng hạn, chủ nghĩa duy lý chủ trương quyền tự chủ tuyệt đối của con người đối
với cuộc đời mình 61. Họ cho rằng mỗi cá nhân có quyền quyết định khi nào và bằng cách
nào kết thúc cuộc đời của chính mình nếu họ thấy nó không còn ý nghĩa hoặc không còn
mang lại hạnh phúc. Điều này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Công giáo luôn
phủ nhận quyền tự sát của con người dưới mọi hình thức.
Tuy nhiên, ngay cả các triết thuyết công nhận quyền tự sát cũng đặt ra một số tiêu
chí đạo đức để hạn chế việc thực thi quyền đó. Cụ thể, quyết định tự sát cần phải vì lý do
chính đáng, không gây tổn hại cho người khác; đồng thời cũng phải được thực hiện hoàn
toàn tự nguyện chứ không phải do bị cưỡng bức hay lừa dối.
Chẳng hạn, chủ nghĩa duy lý cho rằng nếu một người muốn tự sát vì cuộc sống quá
đau khổ và vô nghĩa đối với họ, thì được phép làm như vậy. Tuy nhiên, họ vẫn yêu cầu
quyết định đó phải hoàn toàn tự nguyện, không vì bị ai đe dọa hay lừa gạt. Đồng thời,

luyện ý chí, trau dồi nhân đức và thăng hoa nhân tính của chính mình. Tuy nhiên, chọn cái chết dễ dàng, con người đã lựa chọn
con đường trốn tránh thử thách, từ bỏ trách nhiệm hoàn thiện bản thân mà Thiên Chúa giao phó.
Hành động đó cũng đi ngược lại lòng yêu mến chính mình một cách chân chính. Thay vì tự tin và kiên trì vượt qua gian nan để
chinh phục đỉnh cao nhân tính, người tự sát lại đánh mất niềm tin, đầu hàng trước khó khăn và kết liễu chính đời mình. Điều đó
thể hiện thiếu tự trọng và lòng can đảm sống, đi ngược lại giới răn yêu thương bản thân.
Như vậy, Công giáo tin rằng dù gian nan đến đâu, con người vẫn có bổn phận phấn đấu chinh phục đỉnh cao nhân tính và hoàn
thiện bản thân. Chọn cái chết đồng nghĩa với từ bỏ thánh ý Chúa và chối bỏ chính mình. Đó là lý do tại sao tự sát bị coi là vi
phạm nghĩa vụ thiêng liêng tự hoàn thiện nhân tính.
59
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 155 –
156.
Xem KARL H. PESCHKE, THẦN HỌC LUÂN LÝ CHUYÊN BIỆT. T2, 1986, quyển 2, tr 274 – 275.
60
Mặc dù theo nguyên tắc chung, Công giáo luôn phản đối mọi hành vi tự sát vì cho rằng đó là xâm phạm quyền tối thượng của
Thiên Chúa đối với mạng sống con người, nhưng trong một số trường hợp đặc biệt, Giáo hội vẫn chấp nhận việc hy sinh mạng
sống của chính mình vì những lý do chính đáng và cao cả hơn. Các trường hợp điển hình là hy sinh bản thân để cứu mạng người
khác, vì lý tưởng phục vụ Tổ quốc hay để bảo vệ đức tin Công giáo. Chẳng hạn, một người lính cứu hỏa dũng cảm lao mình vào
đám cháy để cứu người; một chiến sĩ trên chiến trường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng vì độc lập tự do cho dân tộc; hay một vị
tử đạo sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ niềm tin Công Giáo. Tuy nhiên, để có thể chấp nhận các hành động hy sinh bản thân
này, Giáo hội đặt ra các điều kiện như: hành động ấy phải vì mục đích chính đáng và cao cả, mang lại lợi ích lớn lao cho cộng
đồng; được thực hiện một cách hoàn toàn tự nguyện chứ không bị ép buộc; chỉ được xem xét sau khi đã cân nhắc mọi phương án
khác; và có sự cân bằng hợp lý giữa hy sinh cá nhân và lợi ích chung.
Như vậy, mặc dù khắt khe phản đối tự sát, Giáo hội vẫn mở ra cánh cửa khoan dung cho phép hy sinh bản thân trong những
trường hợp đặc biệt vì lý tưởng cao đẹp hơn.
61
Xem nhóm biên tập JASON SOUTHWORTH, RUTH TALLMAN, WILLIAM IRWIN, Saturday Night Live and Philosophy,
Wiley, 28/1/2020 tr 32.
29
người tự sát cũng không được gây tổn hại cho người khác, ví dụ như để lại gánh nặng cho
gia đình.
Như vậy, mặc dù công nhận quyền tự sát trong một chừng mực nào đó, các hệ tư
tưởng kia vẫn đặt ra những giới hạn về đạo đức cho quyền được tự quyết định sống chết
của con người. Sự khác biệt này so với Công giáo chỉ ra rằng vấn đề tự sát vẫn còn là đề
tài gây tranh luận về mặt đạo đức giữa các quan điểm triết học và tôn giáo khác nhau.
Ngoài Công giáo, một số quan điểm triết học và tôn giáo khác lại cho phép quyền tự
sát dưới một số điều kiện nhất định. Chẳng hạn, chủ nghĩa duy lý cho rằng con người có
quyền tự chủ với chính cuộc đời mình 62. Do đó họ có quyền quyết định kết thúc cuộc đời
khi thấy không còn ý nghĩa. Tuy nhiên, ngay cả những quan điểm này cũng yêu cầu quyết
định tự sát cần có lý do chính đáng, không gây tổn hại cho người khác, và được thực hiện
một cách tự nguyện, không bị ép buộc.
Nhìn chung, vấn đề tự sát vẫn còn có nhiều tranh luận về mặt đạo đức. Cần cân
nhắc một cách thận trọng từng trường hợp cụ thể, xem xét động cơ, hoàn cảnh cũng như
hậu quả của hành vi đó để đưa ra nhận định đạo đức thích hợp.
III. Kết luận
Qua đó đã chỉ ra một thực trạng đáng báo động là tỷ lệ tự sát ngày càng gia tăng,
ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội. Điều này phản ánh sự thiếu vắng niềm hy vọng và
lòng tin ở nhiều người khi phải đối mặt với khó khăn. Cộng đồng cần có trách nhiệm tìm
ra nguyên nhân sâu xa và đưa ra những giải pháp cụ thể để ngăn chặn xu hướng đáng
buồn này.
Vấn đề này cũng cho thấy sự khác biệt về nhận thức đạo đức giữa các quan điểm
tôn giáo và triết học. Do vậy, xã hội cần một cách tiếp cận nhân văn, khoan dung để thấu
hiểu nỗi đau của những người có suy nghĩ tiêu cực. Đồng thời, vai trò của đức tin tôn giáo
trong việc củng cố hy vọng và ý nghĩa sống cần được phát huy.
Từ đó có thể thấy việc giải quyết vấn nạn tự sát cần có cách tiếp cận đa chiều. Về
phía cá nhân, mỗi người cần trau dồi ý chí, rèn luyện sức khỏe tinh thần để vững vàng
vượt qua sóng gió cuộc đời. Về phía xã hội, cần tạo dựng môi trường lành mạnh, đoàn kết
và nhân văn để mọi người cảm thấy được chấp nhận, thông cảm và không bị cô lập. Đặc
biệt, vai trò của các tổ chức tôn giáo và tình nguyện trong việc đem lại hy vọng và ý nghĩa
sống cho người gặp khó khăn là vô cùng quan trọng. Chỉ khi toàn xã hội cùng chung tay,
thì vấn nạn tự sát mới có thể được ngăn chặn một cách hiệu quả.

62
Xem INSOO HYUN, Bioethics and the Future of Stem Cell Research, Nhà xuất bản Cambridge University Press, 2013, tr 72.
30
3.1.4 Chết êm dịu
Những câu chuyện day dứt lương tâm về bệnh nhân ung thư trong cơn hấp hối, những
người bị tai nạn liệt giường suốt đời hay trẻ sơ sinh dị tật bẩm sinh luôn khiến con người
phải đau đáu tự vấn. Liệu có phải chấp nhận kéo dài sự đau khổ vô nghĩa ấy hay lẽ ra chúng
ta đã có thể đưa ra một sự lựa chọn nhân văn, đạo đức hơn? Câu hỏi đạo lý gai góc đó vẫn
đang như một mũi tên treo lơ lửng trong tâm trí của nhiều người.
Tranh luận xung quanh vấn đề an tử (euthanasia) hay chết êm dịu vẫn diễn ra quyết liệt
trên khắp thế giới. Mặc dù bị Giáo hội Công Giáo và pháp luật hầu hết các quốc gia cấm
đoán, việc hợp pháp hóa an tử trong một số trường hợp nhất định vẫn nhận được sự ủng hộ
của không ít cá nhân và tổ chức. Có lẽ, chính tính nhân văn sâu xa đằng sau ý tưởng ấy đã
khiến nó trở thành vấn đề gây tranh cãi không dứt.
I. Giới thiệu
An tử là một khái niệm phức tạp và gây tranh cãi. Theo Từ điển Tiếng Việt, an tử
được định nghĩa là "hành động làm cho người bệnh nan y chết để khỏi đau đớn" 63. Tuy
nhiên, định nghĩa này chưa thực sự bao quát được ý nghĩa đầy đủ của khái niệm an tử.
Nguồn gốc của từ an tử bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “euthanasia” có nghĩa là “cái
chết tốt đẹp” hoặc “cái chết nhẹ nhàng” 64. Theo Tuyên ngôn về an tử của Giáo hội Công
giáo, ban đầu thuật ngữ này được dùng để chỉ một cái chết êm ái, không đau đớn, đáng
mơ ước 65. Tuy nhiên, đến thế kỷ 17, ý nghĩa của thuật ngữ chuyển dịch sang chỉ việc làm
giảm bớt đau đớn cho người bệnh hấp hối. Đến thế kỷ 20, an tử mang nghĩa tiêu cực
hơn66, ám chỉ việc giết người vì lý do nhân đạo.67
63
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 145.
64
Thuật ngữ “euthanasia” trong tiếng Anh là do Francis Bacon (1561-1626) tạo ra ở thế kỷ 17 và nói đến cái chết hạnh phúc, nhẹ
nhàng êm ái. Tuy nhiên euthanasia ngày nay không còn được hiểu theo nghĩa của Bacon trước kia nữa. (Xem GERALD
DWORKIN, R. G. FREY VÀ SISSELA BOK, Euthanasia and Physician-Assisted Suicide: For and Against, United Kingdom:
Cambridge University Press, 1998, tr 108.)
65
Xem THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC ĐIN, “Tuyên ngôn về An Tử” trong The Pope Speaks 25, 1980, tr 292
66
Xem TRẦN MẠNH HÙNG, Sự sống và quyền bất khả xâm phạm: nền tảng luân lý cho xã hội, Nhà xuất bản tôn giáo, 2020, tr
173 – 174.
67
Nguồn gốc của từ an tử có thể được truy nguyên từ từ "euthanasia" trong tiếng Hy Lạp cổ đại. Theo Từ điển Tiếng Hy Lạp-Anh
của Liddell & Scott, "euthanasia" bắt nguồn từ từ eu nghĩa là "tốt" và thanatos nghĩa là "cái chết". Như vậy, nguyên nghĩa của từ
này là "cái chết tốt" hoặc "cái chết nhẹ nhàng, dễ dàng".
Theo Tuyên ngôn về An tử của Giáo hội Công giáo được công bố năm 1980, ban đầu khái niệm an tử (euthanasia) chỉ được sử
dụng trong ý nghĩa tích cực - ám chỉ một cái chết êm ái, đẹp đẽ và không đau đớn. Cụ thể, trong thư gửi Attico (16,7,3), triết gia
La Mã Cicero đã sử dụng từ "euthanasia" với nghĩa tương đương với cái chết xứng đáng, vinh quang của một con người lương
thiện (Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr
143). Như vậy, ban đầu an tử mang hàm ý tích cực, ám chỉ một cái chết êm ái, đáng mơ ước mà ai cũng mong muốn.
Tuy nhiên, đến thế kỷ 17, ý nghĩa của từ an tử dần chuyển biến, không còn mang nghĩa ban đầu nữa mà chỉ các hành động của
bác sĩ nhằm làm giảm bớt những cơn đau cho người bệnh đang hấp hối. Đến thế kỷ 20, khái niệm này lại thay đổi sang nghĩa
tiêu cực hơn, biểu thị cho hành vi giết người vì lý do nhân đạo, đặc biệt là đối với những người bị bệnh nan y hoặc những người
già yếu. Sự thay đổi ý nghĩa này có thể do ảnh hưởng của các chương trình an tử không tự nguyện của Đức Quốc xã nhắm
vào những người yếu thế trong xã hội.
Như vậy, có thể thấy ý nghĩa của thuật ngữ an tử đã trải qua những thay đổi lớn từ thời Hy Lạp cổ đại đến thế kỷ 20, từ mang
hàm ý tích cực ban đầu sang ý nghĩa tiêu cực về sau. Sự chuyển biến về ngữ nghĩa này cần được hiểu trong bối cảnh lịch sử để
31
Theo định nghĩa hiện đại, an tử được hiểu là hành động cố ý kết thúc cuộc sống của
một người bị bệnh nan y hay bị thương tật không thể cứu chữa, nhằm mục đích giải thoát
họ khỏi đau đớn và khổ sở 68. Có hai hình thức an tử chính: An tử tự nguyện là người
bệnh tự nguyện yêu cầu và đồng ý cho người khác giúp mình chết để thoát khỏi đau đớn.
An tử phi tự nguyện là kết thúc cuộc sống của người bệnh mà không có sự đồng ý của
họ, thường áp dụng cho trẻ sơ sinh dị tật nặng hoặc bệnh nhân thực vật.69
Bên cạnh đó, khái niệm an tử còn có mối liên hệ chặt chẽ với một số khái niệm
khác như tự sát và đình chỉ điều trị. Do đó, cần phân biệt rõ ràng an tử với những khái
niệm này.
Theo Tuyên ngôn về An Tử do Giáo hội Công giáo công bố năm 1980, an tử là một
khái niệm cần được phân biệt rõ ràng với hành động tự sát. Cụ thể, tự sát đề cập đến hành
vi một cá nhân tự ý quyết định kết thúc cuộc sống của chính mình. Đây là hành động do
bản thân người đó lựa chọn và thực hiện nhằm chấm dứt sự tồn tại của chính mình.
Trong khi đó, an tử lại là hành vi can thiệp từ bên ngoài nhằm kết thúc cuộc sống
của một người khác, cho dù được sự đồng ý của người đó hay không. Chủ thể thực hiện
an tử không phải là bản thân người có cuộc sống bị kết thúc, mà là một chủ thể thứ ba can
thiệp từ bên ngoài. Điều này phân biệt an tử với hành động tự sát ở chỗ tác nhân và đối
tượng của hành động hoàn toàn khác nhau.
Từ đó có thể thấy sự khác biệt rõ ràng giữa an tử và tự sát nằm ở chỗ: tự sát là do
chính bản thân quyết định kết thúc cuộc đời của mình; trong khi đó an tử lại là hành động
can thiệp từ bên ngoài để kết thúc cuộc sống của người khác.
Ngoài sự khác biệt với hành động tự sát, an tử cũng cần được phân biệt rõ ràng với
hành động đình chỉ điều trị kéo dài sự sống của bệnh nhân. Đình chỉ điều trị đề cập đến

có cách nhìn đúng đắn hơn về khái niệm an tử.


68
Xem TRẦN MẠNH HÙNG, Sự sống và quyền bất khả xâm phạm: nền tảng luân lý cho xã hội, Nhà xuất bản tôn giáo, 2020, tr
178 – 179.
69
Theo định nghĩa hiện đại, an tử được hiểu là hành động cố ý can thiệp vào quá trình sống tự nhiên của con người nhằm kết thúc
sớm cuộc sống của mộts người bị bệnh nan y hay bị thương tật không thể cứu chữa. Mục đích của hành động này là nhằm giải
thoát bệnh nhân khỏi những cơn đau đớn, khổ sở triền miên do căn bệnh hiểm nghèo hoặc chấn thương nghiêm trọng gây ra.
Có hai hình thức an tử chính được các nhà đạo đức học và luật học phân biệt:
Thứ nhất là an tử tự nguyện. Trong trường hợp này, chính bệnh nhân là người tự nguyện đề nghị và đồng ý cho người khác can
thiệp để kết thúc sớm cuộc đời của mình. Họ có đủ năng lực nhận thức và khả năng ra quyết định, do đó việc yêu cầu an tử là
hoàn toàn tự nguyện. Mục đích của đề nghị này là nhằm giải thoát bản thân khỏi những cơn đau đớn về thể xác và tinh thần do
căn bệnh nan y gây ra. Đây được xem là hình thức an tử ít gây tranh cãi nhất.
Thứ hai là an tử phi tự nguyện. Trong trường hợp này, người quyết định về việc an tử không phải là bệnh nhân mà là người thân
hoặc bác sĩ. Hình thức này thường được áp dụng cho những đối tượng không có khả năng tự quyết định về sự sống của mình.
Điển hình là trẻ sơ sinh bị dị tật nặng, bệnh nhân thực vật hoàn toàn mất ý thức và khả năng nhận thức. Do không thể biết chắc ý
muốn của bệnh nhân, nên hình thức an tử phi tự nguyện gây ra nhiều tranh luận, phản đối về mặt đạo đức.
Như vậy, an tử được hiểu theo nghĩa hiện đại là hành vi can thiệp cố ý vào quá trình sống tự nhiên của con người để kết thúc
sớm cuộc đời người bệnh nặng, nhằm mục đích nhân đạo. Tùy theo bệnh nhân có đồng ý hay không mà an tử được phân thành
hai hình thức chính là an tử tự nguyện và an tử phi tự nguyện.
32
việc không tiếp tục duy trì các biện pháp can thiệp y tế nhằm kéo dài sự sống cho bệnh
nhân khi những biện pháp này không còn phù hợp với tình trạng sức khỏe hiện tại của họ.
Trái lại, an tử lại mang hàm ý chủ động và trực tiếp hơn. Cụ thể, an tử ám chỉ các
hành động cố ý can thiệp nhằm gây ra cái chết cho người bệnh, với mục đích giải thoát họ
khỏi những cơn đau đớn do bệnh tật khủng khiếp. Như vậy, an tử có ý định trực tiếp nhắm
tới việc kết thúc sự sống, trong khi đình chỉ điều trị chỉ đơn thuần ngừng các biện pháp y
tế nhân tạo.70
Do đó, có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm an tử và đình chỉ điều trị
nằm ở chỗ: ý định và phương tiện sử dụng. An tử mang tính chủ động và trực tiếp nhắm
tới cái chết; trong khi đình chỉ điều trị chỉ đơn thuần là ngừng các biện pháp y tế nhân tạo
mà không có ý định kết thúc sự sống. Sự phân biệt này giúp làm sáng tỏ hơn bản chất của
cả hai khái niệm.
Tóm lại, khái niệm an tử đã trải qua nhiều thay đổi về ý nghĩa trong suốt chiều dài
lịch sử, từ mang hàm ý tích cực ban đầu sang ý nghĩa tiêu cực về sau. Tuy vậy, hiện nay
an tử thường được hiểu theo nghĩa hẹp là hành động can thiệp y tế nhằm kết thúc cuộc
sống của người bệnh nan y, viện cớ vào lý do nhân đạo. Đồng thời, an tử cũng có những
đặc điểm khác biệt rõ ràng so với các khái niệm liên quan như tự sát và đình chỉ điều trị.
Việc phân biệt rõ ràng các khái niệm sẽ giúp tránh gây nhầm lẫn, từ đó đưa ra những phân
tích và lập luận chính xác hơn về vấn đề an tử.
II. Giáo Huấn của Giáo Hội
Vấn đề về an tử là một chủ đề gây tranh cãi sôi nổi trong xã hội. Theo quan điểm
của Giáo hội Công giáo, an tử bị coi là hành động trái với đạo lý và bị cấm đoán. Sự phản
đối mạnh mẽ này bắt nguồn từ cả Kinh Thánh, Truyền thống lẫn lý luận Thần học của
Giáo hội.
Căn cứ vào Kinh Thánh và Truyền Thống Giáo Hội. “từ buổi bình minh của
mình, truyền thống giáo hội công giáo la mã đã luôn phân biệt hành vi tự động với hành vi
tự tử. Vậy ngay từ những thế kỷ đầu tiên, Giáo hội Công giáo luôn Minh nhiên và Kiên
quyết chống lại hành vi tự tử và trợ giúp tự tử” 71.
70
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 141 –
142.
71
DAVID C. THOMASMA, Assisted Death and Martyrdom, Christian Bioethics 4, 1998, tr 122 – 142.
Đoạn văn trích dẫn trên cho thấy quan điểm của Công giáo phản đối an tử và trợ tử có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử.
Cụ thể, ngay từ thời kỳ sơ khai của đạo Thiên Chúa, Giáo hội Công giáo đã phân biệt rõ ràng giữa hành động tự sát (suicide) và
tự vẫn (martyrdom). Tự vẫn ở đây được hiểu là sự hy sinh bản thân vì đức tin, chẳng hạn như các vị tử đạo. Trong khi đó, hành
vi tự sát lại bị coi là trái với giáo lý và đạo đức Công giáo.
Sự phân biệt này có thể bắt nguồn từ chính Kinh Thánh, ví dụ sách Cựu Ước đã lên án mạnh mẽ hành động tự sát còn Tân Ước
ca ngợi tinh thần tự hy sinh vì Chúa của các vị tử đạo. Do đó, ngay từ thế kỷ thứ nhất và thứ hai, các nhà thần học Công giáo như
Thánh Clementê thành Alexandria hay Tertulianô... đã chống lại mọi hình thức kết liễu sinh mạng của bản thân hay người khác.
Tiếp nối truyền thống này, suốt chiều dài lịch sử, Giáo hội Công giáo luôn thể hiện thái độ kiên quyết và nhất quán phản đối mọi
hình thức an tử hay trợ tử. Điều này cũng trở thành nền tảng đạo đức cho Giáo hội trong việc đối diện với các vấn đề liên quan
đến sinh, lão, bệnh, tử.
33
Lập trường chống đối an tử. Điển hình là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngài
đã khẳng định: “Việc làm chết êm dịu vi phạm nghiêm trọng lề luật của Thiên Chúa, vì đó
là việc giết chết một con người cách cố ý và không thể chấp nhận về mặt luân lý” 72.
Theo Giáo hội, sự sống con người là thánh thiêng và phải được tôn trọng cho đến
giây phút cuối cùng, dù trong hoàn cảnh nào. Chủ trương giết chết nhân đạo để tránh đau
đớn cho người bệnh như an tử và trợ tử về bản chất là ích kỷ, thiếu tình thương và kiên
nhẫn đối với người đau khổ. Đó không phải là lòng trắc ẩn chân thực. Hơn nữa, chủ
trương đó còn xem thường giá trị của đau khổ và ý nghĩa của nó trong cuộc sống.
Cùng quan điểm đó, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn khôi khẳng định: “Trực tiếp làm
cho người bệnh, chết để khỏi đau đớn Dù bất cứ lý do gì hay bằng cách nào, cũng là tội
giết người không thể chấp nhận được về phương diện luân lý” 73.
Giết người dù vì lý do gì cũng là tội ác, xúc phạm tới Thiên Chúa và phẩm giá con
người. Cho dù bệnh nhân có đồng ý, việc trợ tử cũng vẫn là sai trái vì đi ngược lại mục
đích của nghề y "chữa bệnh cứu người". Giáo hội khuyến khích cách tiếp cận nhân văn
hơn là đồng hành cùng người bệnh trong lúc khó khăn, giảm nhẹ đau đớn cho họ bằng
thuốc men chứ không loại bỏ họ.
Như vậy, lập trường của Công giáo là kiên quyết phản đối mọi hình thức an tử, cho
dù được thực hiện vì lý do gì đi nữa.74

Nhìn chung, vấn đề an tử vẫn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi trong xã hội. Tuy
nhiên, qua phân tích các luận cứ từ Kinh Thánh, Truyền thống và Lý luận Thần học, có
thể thấy Giáo hội Công giáo nhất quán phản đối mạnh mẽ mọi hình thức an tử. Sự phản
đối này bắt nguồn từ đức tin Công giáo vào giá trị tuyệt đối của mọi sinh mạng người

Như vậy, có thể thấy lập trường của Công giáo về an tử và trợ tử bắt nguồn sâu xa từ Kinh Thánh và Truyền thống. Điều này tạo
nên sự nhất quán và bền vững cho lập luận luân lý của Giáo hội Công giáo qua nhiều thế kỷ lịch sử cho đến ngày nay.
72
GIOAN PHAOLÔ II, Evangelium vitae, số 65.
Xem CÔNG ĐỒNG VATICANO II, Lumen gentium, số 25.
73
Xem MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 145.
74
Lập trường của Giáo hội Công giáo phản đối mọi hình thức an tử là hoàn toàn hợp lý và nhất quán với giáo lý Công Giáo cũng
như luật pháp Thiên Chúa. Sở dĩ Giáo hội Công giáo lại có lập trường cứng rắn như vậy là vì:
Thứ nhất, an tử vi phạm giáo lý cơ bản của Công Giáo rằng con người được Thiên Chúa tạo dựng, và mạng sống con người
thuộc về Thiên Chúa. Do đó, việc tự ý cắt ngắn mạng sống của chính mình hay người khác là xâm phạm đến quyền của Thiên
Chúa. Điều này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khẳng định khi gọi an tử là “vi phạm nghiêm trọng lề luật của Thiên
Chúa”.
Thứ hai, an tử còn vi phạm giáo lý cơ bản khác của Công giáo là mọi người đều bình đẳng, và không ai có quyền quyết định sự
sống và cái chết của người khác dù là vì lý do gì. Đây cũng chính là lý do Giáo hội Công giáo phản đối mạnh mẽ việc áp đặt hay
ép buộc an tử đối với bất kỳ cá nhân nào.
Thứ ba, Giáo hội Công giáo xem trọng mọi sinh mạng người, cho rằng ngay cả khi cơ thể suy giảm do bệnh tật hay tuổi tác thì
mạng sống đó vẫn có giá trị tuyệt đối. Chính vì thế mà Giáo hội Công giáo lên án mạnh mẽ hành động giết người dưới bất cứ
hình thức nào kể cả an tử.
Cho nên lập trường của Giáo hội Công giáo phản đối an tử một cách nhất quán và kiên quyết, xuất phát từ niềm tin vào giá trị
tuyệt đối của mọi sinh mạng người cũng như sự tôn trọng đối với quyền của Thiên Chúa. Đây là lập trường luân lý vững chắc
được Giáo hội Công giáo duy trì xuyên suốt chiều dài lịch sử và vẫn không hề thay đổi.
34
cũng như sự tôn trọng Thiên Chúa là Đấng ban sự sống. Chính vì lập trường vững chắc đó
mà Giáo hội Công giáo luôn kiên định chống lại mọi nỗ lực hợp pháp hóa an tử. Điều đó
thể hiện sự nhất quán trong đường lối đạo đức của Giáo hội qua nhiều thế kỷ lịch sử.
III. Phân tích đạo đức
Trong xã hội ngày nay, khi khoa học tiến bộ vượt bậc, con người đang dần nắm
quyền kiểm soát các khía cạnh của cuộc sống, kể cả sinh tử. Điều này dẫn đến một số
quan điểm cho rằng an tử và trợ tử là những giải pháp nhân đạo, giúp con người thoát
khỏi đau đớn hấp hối. Tuy nhiên, quan điểm trên đã bị Giáo hội Công giáo phản bác mạnh
mẽ, khẳng định tính vô đạo đức tận gốc rễ của các hành vi này. Xét trên nhiều khía cạnh,
từ luân lý đến nhân quyền, chắc chắn cần có những băn khoăn nghiêm túc về bản chất phi
đạo đức sâu xa của việc chủ động kết liễu mạng sống con người.
Bản chất vô đạo đức của an tử.
Xét về mặt nhân quyền. An tử và trợ tử cũng vi phạm nhân quyền căn bản của con
người đó là quyền được sống. Theo Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948, "Mọi người
đều có quyền được sống, được tự do và được an toàn cá nhân" 75. Mặc dù có thể tranh luận
về quyền tự do lựa chọn cái chết, nhưng không ai có quyền cướp đi sinh mạng của một
con người khác, kể cả vì mục đích nhân đạo.
Hơn nữa, những người yếu thế, nghèo khó dễ bị ép buộc phải tự sát hoặc bị sát hại
dưới hình thức an tử/trợ tử. Điều này vi phạm nguyên tắc bình đẳng về quyền sống của
mọi người. Chính vì vậy, các quốc gia dân chủ hiện đại đều cấm an tử và trợ tử. Cho phép
thực hành điều này sẽ mở đường cho nhiều hệ lụy tiêu cực khác như giết người hợp pháp,
thậm chí diệt chủng.
Các lý do phản đối.
Mâu thuẫn với lòng bác ái và giá trị của đau khổ. Thay vì kiên nhẫn đồng hành
cùng bệnh nhân đến phút cuối cùng, an tử và trợ tử lại chọn cách dễ dàng nhất là kết thúc
sự sống của họ. Đây là biểu hiện của thiếu lòng bác ái với những người đau khổ. Hơn nữa,
Kitô giáo tin rằng đau khổ có ý nghĩa tích cực, giúp con người hoàn thiện và gần gũi với
Thiên Chúa hơn. Do đó, việc loại bỏ đau khổ bằng an tử/trợ tử là phủ nhận giá trị của nó
trong cuộc sống.76
75
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (TNQTNQ), thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 ở Cung Chaillot tại Paris, điều 3.
76
Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, an tử và trợ tử là những hành động trái ngược hoàn toàn với tinh thần bác ái mà Chúa
Giêsu đã dạy. Thay vì kiên nhẫn đồng hành, chia sẻ gánh nặng với người bệnh cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, thì an tử và
trợ tử lại chọn cách dễ dàng nhất là kết liễu sự sống của họ.
Lòng trắc ẩn thực sự đòi hỏi sự hy sinh và chịu đựng chứ không phải sự trốn chạy. Bỏ mặc người bệnh khi họ cần sự đồng hành
nhất chính là biểu hiện của sự thiếu lòng nhân ái và cảm thông với đau khổ của tha nhân. Thái độ ấy càng trái ngược hơn khi
xuất phát từ những người thân trong gia đình hay chính bác sĩ, những người có trách nhiệm chăm sóc bệnh nhân tận tình nhất.
Hơn thế nữa, Giáo hội nhìn nhận rằng đau khổ có một giá trị riêng mà an tử và trợ giúp không thể công nhận. Theo quan điểm
Kitô giáo, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã tôn vinh và thăng hoa giá trị của đau khổ con người. Đau khổ giúp con người hoàn
thiện bản thân, sống gần gũi với Thiên Chúa hơn. Chính vì thế, cố gắng xóa bỏ mọi đau khổ bằng cách kết liễu sinh mạng là điều
không thể chấp nhận được.
35
Biểu hiện của nền văn hóa chết. Cho phép an tử và trợ tử sẽ dẫn tới nguy cơ lạm
dụng rất lớn. Người già, trẻ em, người nghèo, người khuyết tật có thể bị ép buộc phải
chọn cái chết vì lợi ích kinh tế của gia đình hay xã hội. Điều này sẽ biến sự sống con
người thành vật hy sinh cho lợi ích vật chất, một đặc điểm của nền văn hóa xem thường
sự sống mà Giáo hội Công giáo phản đối.77
Tóm lại Cho phép an tử và trợ tử đồng nghĩa với việc mở cửa cho cái ác, đánh mất
những giá trị cốt lõi của nhân loại. Nó không chỉ vi phạm luật pháp và giáo lý, mà còn xóa
nhòa ranh giới giữa thiện và ác, giữa sự sống và cái chết. Hậu quả của việc hợp pháp hóa
an tử và trợ tử là những tổn thương không thể đong đếm được đối với xã hội loài người.
IV. Kết luận
Có thể nhận thấy Giáo hội Công giáo luôn nhất quán phản đối mọi hình thức an tử.
Sự phản đối mạnh mẽ này xuất phát từ niềm tin sâu sắc của Giáo hội vào sự thiêng liêng
của mọi sinh mạng, cũng như sự tôn trọng Thiên Chúa với tư cách là Đấng ban sự sống.
Cả Kinh Thánh, Truyền thống và Lý luận Thần học đều đưa ra những lập luận chặt chẽ,
thuyết phục để bác bỏ tính đạo đức của an tử.
Tuy vậy, xét về khía cạnh nhân văn, an tử dường như vẫn chứa đựng những tình
cảm trắc ẩn và cố gắng giải thoát cho con người khỏi cơn đau đớn vô vọng. Sự khác biệt
này chỉ ra rằng vấn đề còn nhiều tầng ý nghĩa phức tạp, cần được tiếp tục đào sâu và
chiêm nghiệm.
Nhưng dù thế nào, qua hàng ngàn năm lịch sử, Giáo hội Công giáo vẫn một lòng
bảo vệ những giá trị luân lý cốt lõi đã định hình nền tảng đức tin – điều đó cho thấy sự
vững vàng và sáng suốt trong mọi thử thách thăng trầm.
3.2 Những tội xúc phạm đến sự sống.
3.2.1 Tôn trọng sức khỏe
I. Sức khỏe con người theo quan điểm Công giáo.
Lập trường của Kitô giáo về những vấn đề sức khỏe và bệnh tật. Theo lập
trường Kitô giáo, con người được coi là một thực thể toàn vẹn bao gồm cả linh hồn và thể
xác. Con người được mời gọi phát triển cả về mặt thể chất và tinh thần trong mối liên hệ
77
Theo Giáo hội Công giáo, việc cho phép thực hiện an tử và trợ tử sẽ mở đường dẫn tới nguy cơ lạm dụng cực kỳ lớn. Khi giết
người trở thành điều có thể chấp nhận được về mặt pháp lý và đạo đức, người yếu thế như người già, trẻ em, người nghèo khó
hay người khuyết tật sẽ rất dễ bị ép buộc phải chọn cái chết.
Họ có thể bị gia đình hoặc xã hội xem như gánh nặng và áp lực buộc phải tự sát hay chịu an tử/trợ tử vì lý do giảm bớt gánh
nặng kinh tế. Giá trị cuộc sống con người sẽ bị đặt lên bàn cân với lợi ích vật chất và tiền bạc. Những người yếu thế sẽ trở thành
nạn nhân cho quyền lực và tham vọng của những người mạnh. Điều này sẽ biến con người thành phương tiện sử dụng, thành vật
hy sinh để phục vụ lợi ích.
Chính vì thế, Giáo hội Công giáo chỉ trích gay gắt thực trạng trên, coi đó như biểu hiện của nền văn hóa coi thường sự sống và
nhân phẩm con người. Họ cảnh báo rằng chấp nhận an tử và trợ tử sẽ dẫn tới hậu quả đạo đức khôn lường, biến xã hội thành một
"nền văn hóa của cái chết", trong đó sinh mạng con người trở thành vô giá trị. Đó là điều Giáo hội kiên quyết phản đối.
36
với Thiên Chúa. Mục đích tối thượng của đời người là phát triển một cách hài hòa các khả
năng về trí tuệ, tinh thần và siêu nhiên.
Trong quan điểm đó, sức khỏe không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của bệnh tật hay
năng lực làm việc về mặt thể chất. Sức khỏe được hiểu là tình trạng hài hòa tốt nhất giữa
các khả năng của con người, cho phép thực hiện trọn vẹn ơn gọi và định mệnh vĩnh cửu.
Vì vậy, đánh giá và tôn trọng sức khỏe không chỉ áp dụng cho sức khỏe thể chất mà
còn áp dụng cho sức khỏe tinh thần và linh hồn. Câu nói "Tinh thần lành mạnh trong thân
xác mạnh khỏe"78 không có nghĩa sức khỏe tinh thần hoàn toàn phụ thuộc vào sức khỏe
sinh học. Thực tế, có nhiều người có tinh thần mạnh mẽ dù thể chất yếu đuối và ngược lại.
Một người thân xác khỏe mạnh nhưng tinh thần suy nhược vẫn được xem là đau yếu hơn
so với người có thể xác yếu nhưng tinh thần vững vàng.
Tuy nhiên, cũng cần công nhận rằng tội lỗi và các thói hư tật xấu có thể gây ra bệnh
tật, và ngược lại bệnh tật có thể khiến tinh thần trở nên bi quan, chán nản. Sự cân bằng về
tinh thần cũng phần nào lệ thuộc vào sự cân bằng về thể chất. Nhưng với những người có
sức khỏe tinh thần cao, họ có thể dễ dàng vượt qua những yếu đuối của cơ thể.
Sức khỏe thể lý, sức khỏe thể chất là một yếu tố quan trọng cho sự hài hòa toàn
diện của con người. Sức khỏe là một giá trị thực sự, vì nó liên quan mật thiết đến sự sống
- giá trị tối thượng của con người. Sức khỏe chính là sự sống trong trạng thái trọn vẹn, đầy
đủ sức sống. Ngược lại, bệnh tật là tình trạng thiếu sót về sự sống.
Hơn nữa, sức khỏe thể chất còn liên quan đến sự phát triển toàn diện của con người
về cả linh hồn và thể xác. Bệnh tật có thể gây trở ngại cho sự phát triển hài hòa đó. Đối
với người Công giáo, sức khỏe còn là con đường bình thường để thánh hóa bản thân, giúp
con người có thể phục vụ và hiến dâng chính mình tốt nhất.
Tuy vậy, sức khỏe không phải là một giá trị tuyệt đối. Thay vào đó, cần chấp nhận
cả sức khỏe và bệnh tật như là thánh ý Thiên Chúa. Ngay cả trong bệnh tật, con người vẫn
có thể thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đồng loại, qua đó phát triển bản
thân hướng tới đích đời đời. Bệnh tật giúp con người nhận ra sự mong manh của cuộc
sống trần thế, khiến hướng về sự sống vĩnh cửu.
Tuy nhiên, chấp nhận bệnh tật không có nghĩa là không chống chọi lại nó. Thiên
Chúa ban sự sống là một ân huệ cao quý, đồng thời cũng truyền cho con người bảo tồn và
phát huy sự sống ấy. Vì vậy, con người có bổn phận luân lý phải làm tất cả những gì cần
thiết để chống chọi lại bệnh tật. Chính Chúa Giêsu cũng đã chữa lành bệnh tật cho mọi
người khi còn sống trên trần gian.

78
MATTHÊÔ NGUYỄN VĂN KHÔI, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, 2013, quyển 2, tr 169.
37
Người bệnh không bao giờ được thất vọng hay buông xuôi trong cuộc chiến chống
bệnh tật. Một thái độ thích thú đau khổ và bệnh hoạn là không phù hợp với tinh thần Công
giáo. Khuôn mẫu hoàn hảo nhất là người có được sự quân bình tuyệt vời giữa sức khỏe
thể chất và tinh thần.
Như vậy, cả sức khỏe lẫn bệnh tật đều có thể là phương tiện giúp con người phát
triển bản thân. Tuy nhiên, chúng không đứng trên cùng một bình diện. Sức khỏe là một
giá trị thiện tự thân, còn bệnh tật chỉ trở thành phương tiện tích cực khi con người biết đón
nhận nó trong tinh thần yêu thương và cống hiến.
Sức khỏe tinh thần. Con người là một thực thể vừa có phần xác vừa có phần hồn,
nên khi nói đến sức khỏe thể chất cần phải đề cập đến sức khỏe tinh thần. Sức khỏe tinh
thần liên quan đến khả năng hoạt động tốt và cân bằng của các khả năng tinh thần như lý
trí, ý chí, trí tưởng tượng, cảm xúc...
Một người có tinh thần cân bằng, có khả năng sử dụng lý trí và ý chí đúng mức để ý
thức, tự chủ và chịu trách nhiệm về hành động của mình thì được coi là có sức khỏe tinh
thần tốt. Ngược lại, kẻ mất khả năng đó, hay bị rối loạn các chức năng tinh thần sâu sắc
hơn đều bị xem là có vấn đề về tinh thần.
So với sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần còn quan trọng hơn. Bệnh tâm thần có
thể gây trở ngại lớn cho sự phát triển con người. Người điên hoàn toàn mất khả năng sử
dụng trí tuệ để trở thành con người đích thực.
Tuy nhiên, sức khỏe tinh thần tự nhiên chỉ là một phần của toàn bộ sức khỏe con
người. Con người còn có sức khỏe siêu nhiên, tức là sức khỏe của linh hồn. Linh hồn
được Thiên Chúa nâng lên bình diện siêu nhiên, có định mệnh hướng về sự sống đời đời
bên Thiên Chúa.
Do vậy, một người có thể lý tưởng về sức khỏe thể chất và tinh thần, nhưng sống
trong tội lỗi, vẫn bị coi là thiếu sức khỏe hoàn chỉnh. Họ thiếu sức khỏe siêu nhiên, thiếu
sự sống của Thiên Chúa do tách khỏi Ngài. Tội lỗi giết chết linh hồn hoặc khiến linh hồn
bị bệnh.
Sức khỏe siêu nhiên là sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để tâm linh
chi phối lý trí và ý chí con người. Đó là sống trong Chúa Giêsu Kitô. Tội lỗi phá hủy sự
sống siêu nhiên đó, nên Kinh Thánh gọi tội lỗi là bóng tối, sự nô lệ. Chính Chúa Giêsu
đến để chữa lành bệnh tật tinh thần do tội lỗi gây ra.
II. Sdsdsd
Con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Ngài, gồm phần xác và
phần hồn. Kinh Thánh ví von Thiên Chúa dùng bùn đất tạo nên con người rồi thổi sinh
38
khí cho con người trở thành sinh vật sống. Con người giống Thiên Chúa ở linh hồn bất tử.
Nhưng cả thân xác cũng tham gia vào phẩm giá là hình ảnh Thiên Chúa. Toàn bộ con
người, hồn và xác, là nơi ngự trị của Thánh Thần.
Nhờ có thân xác mà các yếu tố vật chất được nâng lên đỉnh cao nhất và có thể tôn
vinh Đấng Tạo Hóa. Sự trọn vẹn thân xác và khỏe mạnh là giá trị thực sự. Thiên Chúa
giao sức khỏe thể chất như một tài sản quý để con người gìn giữ. Thân xác cũng là tạo vật
tốt lành được mời gọi tham dự vinh quang phục sinh.
Vì vậy, con người cần tôn trọng đời sống thể xác như lời Thánh Phao-lô dạy. Thân
xác tồn tại để phục vụ Thiên Chúa và sẽ được sống lại như Đức Kitô. Do đó chúng ta nên
tôn vinh Thiên Chúa thông qua việc sử dụng thân xác của mình. Sự sống và sức khỏe là
ân huệ Thiên Chúa ban tặng. Con người có trách nhiệm chăm sóc và phát triển chúng
đúng mức, với sự thúc đẩy của bản năng tự bảo tồn.
Bổn phận dinh dưỡng. việc ăn uống đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm
bảo sức khỏe. Vì vậy, mỗi người cần ý thức điều chỉnh cách ăn uống của mình một cách
hợp lý dựa trên hai nguyên tắc chính là vệ sinh và bác ái.
Cụ thể, về mặt vệ sinh, chúng ta cần lựa chọn những thức ăn lành mạnh, đảm bảo
chất lượng và vệ sinh an toàn. Không sử dụng các thực phẩm ôi thiu, hết hạn hoặc nghi
ngờ nguồn gốc. Đồng thời, cách thức chế biến và bảo quản thực phẩm cũng phải đảm bảo
vệ sinh.
Về bác ái, chúng ta cũng cân nhắc đến nhu cầu và thể trạng của bản thân để có chế
độ dinh dưỡng hợp lý, không ăn quá ít gây thiếu chất hay ăn quá nhiều dẫn tới lãng phí.
Đặc biệt trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, cần biết tiết kiệm để dành dụm cho gia đình.
Ngoài ra, để đạt được chế độ dinh dưỡng lành mạnh và tránh lãng phí, mỗi người
cần có đức tiết độ. Không đam mê ăn uống, không thỏa mãn các dục vọng không lành
mạnh về ăn uống. Giữ cho bản thân biết điểm dừng và không để những thú vui trong ăn
uống chi phối, khống chế mình. Nhờ đó mà sức khỏe được đảm bảo, nguồn lực và của cải
không bị lãng phí vô ích.
Có thể thấy việc xây dựng một chế độ dinh dưỡng hợp lý dựa trên hai nguyên tắc vệ
sinh và bác ái là điều cốt yếu để bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho bản thân và mọi người.
Đồng thời, đức tiết độ giúp mỗi người kiểm soát và điều tiết các nhu cầu về ăn uống, ngăn
ngừa mọi thái quá.
III. Sdsdsdsds
IV. sdsdsd

39
3.2.2 Hủy hoại cơ thể
3.2.1 Lạm dụng cơ thể người trong khoa học

40
CHƯƠNG 4: GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
.
4.1 Phẩm giá của sự sống: hồng ân của Chúa.
4.2 Sự thánh thiêng (Con người là hình ảnh của Thiên Chúa).
4.3 Sự sống bất khả xâm phạm (Chỉ Thiên Chúa mới là chủ sự sống).

41
CHƯƠNG 5: MỤC VỤ BẢO VỆ SỰ SỐNG
.
5.1 Giáo dục đức tin.
5.1.1 Rao giảng lời Chúa, giáo huấn của Giáo hội về sự thiêng liêng của sự sống
con người.
Trong nỗ lực loan báo lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội, việc bảo vệ sự thiêng liêng của
mỗi mạng sống con người luôn được đặt lên hàng đầu. Điều này thể hiện rõ qua hai khía cạnh
chính: việc rao giảng lời Chúa và giảng dạy giáo lý về sự sống.
Về phương diện rao giảng lời Chúa, Giáo hội luôn nhấn mạnh các lời dạy trực tiếp từ
Thánh Kinh nhằm bảo vệ sự thiêng liêng của sự sống: “Ngươi chớ giết người” (Xh 20:13), “Ta đến
để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Những lời Chúa này một lần nữa khẳng định
mọi sinh mạng đều thánh thiêng, con người không được quyền xâm phạm tính mạng của đồng loại.
Bên cạnh đó, Giáo hội còn trích dẫn nhiều câu Kinh Thánh khác để minh họa cho giá trị vô
vàn của mỗi mạng sống con người. Chẳng hạn như: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ,
Ta đã biết ngươi” (Gr 1:5). Lời Thánh Kinh trên càng củng cố niềm tin rằng mỗi con người là một
tạo vật độc đáo do chính Thiên Chúa dựng nên và ban cho sự sống. Vì thế, mỗi sinh mạng đều vô
cùng quý giá và xứng đáng được tôn trọng tuyệt đối.
Các vị giảng thuyết trong Giáo hội cũng thường xuyên đưa ra các câu chuyện trong Kinh
Thánh để minh họa thêm về tầm quan trọng của việc bảo vệ sự sống. Chẳng hạn câu chuyện Chúa
trừng phạt vua Đavít vì tội giết người (2 Sm 12); hay việc Chúa trừng trị dân Israel vì tội làm thiêu
sống con cái (Lv 18:21). Những câu chuyện đó cho thấy mức độ nghiêm trọng khi con người xâm
phạm đến sinh mạng đồng loại. Chính vì thế, Giáo hội luôn kêu gọi mọi người hãy ý thức và tích
cực hành động để bảo vệ sự sống.
Bên cạnh việc rao giảng Lời Chúa, Giáo hội cũng rất chú trọng giảng dạy chi tiết về Giáo
lý liên quan đến sự sống con người. Cụ thể, các Giám mục đã trình bày cặn kẽ về quá trình hình
thành và phát triển của bào thai ngay từ lúc thụ thai để khẳng định đó chính là một con người. Họ
đã sử dụng rất nhiều hình ảnh, video clip, mô hình về sự phát triển của bào thai để minh họa cụ thể
và sinh động cho giáo lý này.
Các vị chủ chăn cũng chi tiết hoá các giai đoạn hình thành cơ quan trong cơ thể người: tuần
thứ nhất tim đập, tuần thứ 8 não bộ hoạt động, tuần thứ 12 các giác quan đã được hình thành...
Những bằng chứng khoa học ấy nhằm khẳng định bào thai là một con người đích thực, với quyền
sống riêng và bình đẳng. Do đó, việc phá thai là vi phạm luật Chúa và luật tự nhiên, tội ác tày trời.

42
Trong các văn kiện và bài giảng, Giáo hội luôn lên án mạnh mẽ tội phá thai. Giáo hội kêu
gọi mọi người hãy đứng lên bảo vệ cuộc sống non trẻ không thể tự vệ được. Đồng thời cũng phản
đối việc sử dụng các biện pháp tránh thai có tác dụng phá hủy như thuốc viên khẩn cấp. Bởi chúng
cũng xâm hại đến sự sống đang hình thành.
Giáo hội cũng chỉ ra cụ thể những sai lầm trong luận điểm của phe ủng hộ phá thai: Cho
rằng bào thai không phải con người, hoặc quyền tự do cá nhân quan trọng hơn quyền sống của thai
nhi... Giáo hội phân tích sâu sắc để bác bỏ hoàn toàn những luận điệu đi ngược lại đạo lý này.
Thay vào đó, Giáo hội đề xuất nhiều giải pháp tích cực như: tư vấn, hỗ trợ kinh tế, giúp đỡ nuôi
dạy con...để giúp phụ nữ mang thai khó khăn không phải nhờ đến phá thai.
Nhằm nâng cao nhận thức và lan tỏa mạnh mẽ hơn thông điệp bảo vệ sự sống, Giáo hội đã
vận động giáo dân tham gia nhiều hoạt động thiết thực như: quyên góp tài trợ cho các trung tâm
nuôi trẻ mồ côi, khuyết tật; tham gia hiến máu nhân đạo; nhận làm cha/mẹ nuôi; chăm sóc, hỗ trợ
các em nhỏ tại các mái ấm...
Bên cạnh đó, Giáo hội cũng tận dụng nhiều hình thức rao giảng phong phú, sinh động và
phù hợp với từng nhóm đối tượng giáo dân để lời Chúa và giáo huấn về bảo vệ sự sống được lan
tỏa sâu rộng: sử dụng mạng xã hội, tổ chức các buổi nói chuyện, sinh hoạt chủ đề về bảo vệ sự
sống; thiết kế các ấn phẩm truyền thông như sách mỏng, áp phích, video clip... phù hợp với giới
trẻ.
Như vậy, với những nỗ lực toàn diện và sáng tạo trong việc rao giảng Lời Chúa cũng như
giảng dạy về giáo lý liên quan đến sự sống, Giáo hội đã thực sự đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo vệ và nâng cao giá trị của mỗi mạng sống con người. Các hoạt động tích cực và ý
nghĩa của Giáo hội đã góp phần thay đổi nhận thức, thái độ của đông đảo tín hữu, thúc đẩy họ
chung tay hành động để bảo vệ sự sống - món quà vô giá từ Thiên Chúa ban tặng.

43
5.1.2 Thực thi các bí tích nhằm nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng cho các tín hữu.
5.1.3 Tư vấn, đồng hành với những người đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn để
giúp họ tôn trọng sự sống.
5.2 Mục vụ tại các gia đình.
5.2.1 Thăm viếng và động viên những người bệnh tật, người già neo đơn.
5.2.2 Hướng dẫn các gia đình xây dựng môi trường yêu thương, tôn trọng sự sống.
5.2.3 Tham gia các hoạt động ủng hộ trẻ em mồ côi, người già neo đơn, người tàn
tật.
5.3 Mục vụ trong xã hội.
5.3.1 Tổ chức các buổi nói chuyện, giảng dạy về giá trị sự sống cho giới trẻ.
5.3.2 Phối hợp với các tổ chức xã hội triển khai các dự án nhân đạo.

44
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (Tin mừng về sự sống).

[2] ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Luân lý Kitô giáo qua mười điều răn, Nhà xuất bản tôn giáo, quyển
2.

[3] https://www.nature.com/articles/d41586-022-01245-6

[4] M. P. a. D. H. T. Ojala, "A Comparative Study of Texture Measures with Classification Based on
Feature Distributions," pp. 51-59, 1996.

[5] C. M. Bishop, Pattern recognition and Machine Learning, 2006.

[6] T. N. Q. Hương, "Nhận diện biển số xe sử dụng đặc trưng LBP (Local Binary Parttern)," 2015.

[7] OpenCV, "https://docs.opencv.org/3.4/d1/d73/tutorial_introduction_to_svm.html".

[8] Wiki, "http://wiki.ros.org/," Open Source Robotics Foundation.

[9] L. S. C. A. M. A. M. Enrique Fernandez, "Learning ROS for Robotics Programming Second Edition," in
Learning ROS for Robotics Programming Second Edition, september 2013, 2013, pp. 23-40.

[10] Gazebo, "http://gazebosim.org/".

45

You might also like