You are on page 1of 14

MỞ ĐẦU

Khái niệm toàn cầu hóa xuất hiện vào đầu thế kỷ 18 với sự phát triển của các
phương tiện giao thông (máy bay, ô tô, v.v.) và đặc biệt là sự ra đời của công nghệ
thông tin. Sự ra đời của toàn cầu hóa đã thổi bùng lên những tranh cãi sôi nổi và
làm thay đổi những thách thức trong nghiên cứu toàn cầu hóa. Cuộc tranh cãi đầu
tiên liên quan đến những người ủng hộ và những người phản đối. Những người
phản đối toàn cầu hóa cho rằng nó làm nổi bật sự bất công và bất bình đẳng giữa
nước giàu và nước nghèo, giữa xã hội có thu nhập cao và thu nhập thấp. Trong khi
đó, các luật sư nhấn mạnh những lợi ích mà toàn cầu hóa mang lại cho cuộc sống
con người. Ngoài ra, còn có những tranh cãi về định nghĩa toàn cầu hóa. Chỉ đến
cuối thế kỷ 20, nhiều người mới bày tỏ sự đồng tình với quan điểm toàn cầu hóa.
Ví dụ, cựu Chủ tịch Quỹ Ford Susan Berresford đã từng đưa ra khái niệm toàn cầu
hóa vào năm 1997 như sau: “Toàn cầu hóa phản ánh mức độ ảnh hưởng toàn cầu
lớn hơn so với trước đây, và có một số khác biệt với thuật ngữ ‘quốc tế’. Điều này
có nghĩa là tầm quan trọng của biên giới quốc gia đang giảm đi và quyền sở hữu
đang gia tăng xuyên biên giới của quốc gia này hay quốc gia khác trong một khu
vực nhất định. Trong khi đó, nhà kinh tế học Joseph Stiglitz lập luận rằng toàn cầu
hóa là xóa bỏ các rào cản đối với thương mại tự do và làm cho nền kinh tế thế giới
hội nhập hơn. Tuy nhiên, quan điểm của Anthony Giddens có lẽ là toàn diện và nổi
tiếng nhất. Quan điểm của Giddens rộng hơn và toàn diện hơn khi Giddens nhấn
mạnh thời gian và không gian của quá trình toàn cầu hóa, đồng thời cũng nhấn
mạnh rằng công nghệ là động lực chính thúc đẩy toàn cầu hóa. Tiểu luận này minh
họa nội dung khái niệm toàn cầu hóa của Anthony Giddens và các ví dụ thực tế
dựa trên luận điểm của ông về toàn cầu hóa.
I. Anthony Giddens
Anthony Giddens sinh ngày 18 tháng 11 năm 1938 tại Edmonton, Luân Đôn.
Anthony Giddens là người đầu tiên trong gia đình học đại học. Ông học tại Đại học
Hull và Trường Kinh tế Luân Đôn, sau đó giảng dạy tại Đại học Leicester.
Anthony Giddens là một trong những nhà lý thuyết vĩ đại của xã hội học đương
đại. Từ giữa năm 1990 đến 1, ông là giáo sư tại Đại học Cambridge và năm 2003 là
giám đốc của Trường Kinh tế Luân Đôn. Giddens là cố vấn của Đảng Lao động
Anh trong thập kỷ qua và có mối quan hệ thân thiết với Thủ tướng Anh Tony
Blair. Ông là người đồng sáng lập của Polity Publishing. Giddens hiện là thành
viên của Life College, Đại học Cambridge và Giáo sư danh dự tại LSE. Ông ấy là
người nắm giữ hơn chục bằng tiến sĩ danh dự và gần đây đã được trao tặng nghĩa
vụ trọn đời với tư cách là Nam tước Giddens của Southgate.
Trong suốt sự nghiệp học thuật lâu dài và có ảnh hưởng của mình, Anthony
Giddens đã xuất bản hơn 30 cuốn sách và 200 bài báo, tiểu luận và phê bình. Gần
như chắc chắn rằng ông đã gặp phải nhiều vấn đề với mức độ thành tựu này và do
đó đã đóng một vai trò quan trọng trong một số phát triển quan trọng nhất của lý
thuyết xã hội hiện đại. Mặc dù ông chủ yếu được biết đến với tư cách là một nhà xã
hội học, nhưng có lẽ đúng hơn nếu coi công trình của ông là một tập hợp các
nguyên tắc trong khoa học xã hội, bao gồm tâm lý học, ngôn ngữ học, kinh tế học,
nghiên cứu văn hóa và khoa học chính trị. Do đó, cách tiếp cận đa ngành của ông
cho phép ông bình luận về rất nhiều vấn đề và tạo ra một mô hình số lý thuyết của.
Các lý thuyết giúp giải thích các khía cạnh quan trọng của sự phát triển xã hội ở
cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu. Phong cách viết của Giddens trừu tượng và
phức tạp, sử dụng cách tiếp cận dựa trên kịch bản để làm cho tác phẩm của anh ấy
dễ tiếp cận hơn. Các tác phẩm chính của ông bao gồm: Cấu trúc giai cấp của các xã
hội tiến bộ (1973), Quy tắc mới về phương pháp nghiên cứu xã hội học (1976),
Một số nghiên cứu về lý thuyết xã hội và chính trị (1977), Những vấn đề trung tâm
của lý thuyết xã hội (1979) và Thành lập xã hội (1984) . . , Con đường thứ ba
(1998), v.v…
II. Khái niệm toàn cầu hóa của Anthony Giddens
1. Mức độ của quá trình toàn cầu hóa
Anthony Giddens tiếp cận khái niệm toàn cầu hóa theo một cách rất khác. Ông tin
rằng các tổ chức, quốc gia, nhóm và cá nhân sẽ củng cố mối quan hệ vì các sự kiện
và hiện tượng xảy ra ở một nơi có thể có tác động ở bất kỳ đâu trên thế giới. Quá
trình toàn cầu hóa đã bắt đầu từ lâu trong lịch sử hình thành trái đất và không chỉ
giới hạn trong xã hội ngày nay. Có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa,
nhưng có một xu hướng chung là trong các cuộc tranh luận lớn hiện nay về toàn
cầu hóa, các bên đều nhất trí rằng thế giới đã thay đổi một cách chóng mặt. Chúng
ta hiện đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể trong thương mại xuyên biên giới đối
với hàng hóa vật chất và thậm chí còn gia tăng lớn hơn trong thương mại dịch vụ
và thông tin xuyên biên giới. Tuy nhiên, theo quan điểm của Giddens, điều quan
trọng là ông tin rằng toàn cầu hóa là một quá trình liên quan đến những thay đổi về
nhiều mặt, chẳng hạn như xã hội, văn hóa, chính trị, ... và là một sai lầm nếu chúng
ta chỉ tập trung định nghĩa, nghiên cứu, đánh giá toàn cầu hóa trên khía cạnh kinh
tế. Nói cách khác, toàn cầu hóa gắn liền với những thay đổi mang tính hệ thống vĩ
mô trong nền kinh tế thế giới, nhưng nó cũng gắn liền với hiện tại, làm thay đổi
cuộc sống và tâm trạng hàng ngày của con người.

2. Động cơ toàn cầu hóa


Theo Giddens, cuộc cách mạng thông tin đang thúc đẩy toàn cầu hóa. Hầu hết mọi
thứ đang thay đổi khi giao tiếp trở nên nhanh hơn và thuận tiện hơn. Nó thâm nhập
vào kết cấu của cuộc sống hàng ngày, giữ cho các cá nhân đoàn kết và có trách
nhiệm, đồng thời cho phép tổ chức lại các thể chế khác. Kết quả của sự chuyển đổi
này có thể được tóm tắt theo hai cách: toàn cầu hóa làm giảm sự phụ thuộc vào
chính phủ các quốc gia; Ngoài ra, việc tạo ra các khu vực giao thoa kinh tế, văn
hóa và chính trị mới. Ngoài ảnh hưởng của truyền thông, các yếu tố kinh tế như tập
đoàn đa quốc gia, nền kinh tế điện tử… cũng song hành với cuộc cách mạng thông
tin.
3. Một số ý nghĩa quan trọng của toàn cầu hóa:
Liên quan đến tác động của bất bình đẳng đối với phúc lợi cá nhân, Giddens bác bỏ
giả định phổ biến rằng toàn cầu hóa kinh tế và thương mại tự do khiến mọi thứ trở
nên tồi tệ. Ông lập luận rằng sự bất bình đẳng toàn cầu về thu nhập và tiền lương
đã tăng lên, nhưng định nghĩa đó cũng bao gồm các chỉ số định tính về chất lượng
cuộc sống, chẳng hạn như tỷ lệ biết chữ hoặc tuổi thọ. Nói cách khác, bất bình
đẳng toàn cầu đã thực sự giảm. Giddens tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu
hóa và phân phối thu nhập. Theo Giddens, các nước giàu phải giúp tối đa hóa tác
động tích cực của toàn cầu hóa, nhưng chính phủ các nước nghèo cũng phải tham
gia vào quá trình chuyển đổi kinh tế. Tách khỏi nền kinh tế thế giới hoàn toàn
không phải là một lựa chọn cho các nước đang phát triển.
Hệ quả tiếp theo có thể kể đến là phong tục tập quán sẽ ít ảnh hưởng đến đời sống
của người dân. Phong tục địa phương đang dần bị thay thế bởi các yếu tố, văn hóa
và ý tưởng phổ quát và xuyên biên giới. Trên thực tế, quá trình này có sự khác biệt
đáng kể trong nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như liệu hôn nhân ngày nay, hôn nhân và
các cặp vợ chồng không còn phụ thuộc vào sự đồng ý của cha mẹ hay không. Giờ
đây chính họ là người quyết định đám cưới có diễn ra không, có diễn ra không,
mời ngày nào, mời ra sao và có quyền quyết định các vấn đề khác trong quá trình
cưới hỏi. Nói cách khác, một nền văn hóa trở nên dân chủ hơn khi mọi người có
quyền lựa chọn nó và tích hợp nó một cách thích hợp vào cuộc sống cá nhân của
họ.
Liên quan đến những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa, ông đã chú ý đến hai
điều. Đầu tiên, mọi người có thể trở nên nghiện những thứ liên quan đến xã hội
hiện đại. Điều này khá hợp lý và mỗi chúng ta đều có thể nhìn thấy bằng mắt
thường. Mọi người ngày càng dành nhiều thời gian hơn cho điện thoại thông minh,
máy tính, trung tâm giải trí và siêu thị. Giddens cũng cho rằng chủ nghĩa phi truyền
thống là điều kiện cực kỳ thuận lợi cho sự phụ thuộc ngày càng lớn vào các yếu tố
hiện đại, khi mọi người đều có nhiều quyền hơn để lựa chọn những gì họ muốn và
làm những gì họ.Thứ hai, chủ nghĩa chính thống, nơi một người thề trung thành
với một hệ tư tưởng hoặc tôn giáo. Xu thế toàn cầu hóa rõ ràng là hướng tới hội
nhập và cộng tác, nhưng với sự ra đời của công nghệ, các công ty lớn như Apple,
Twitter... và hòa bình thế giới để giảm thiểu xâm lược và chiến tranh, một số người
từng sống trong một cộng đồng năm cũng chung nỗi đau và cũng chính sự đau khổ
đó, sự chia rẽ và bè phái hình thành. Xã hội hiện đại và các thiết bị hiện đại cũng
củng cố các hành vi cực đoan, khiến cuộc sống trở nên khó lường.
4. Vai trò của chính phủ trong thời đại mới:
Như đã nói, sự phụ thuộc vào nền kinh tế và đời sống của người dân sẽ giảm bớt sự
phụ thuộc vào nhà nước. Tuy nhiên, theo Giddens, các chính phủ không hề lỗi thời
và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong toàn cầu hóa. Các chính phủ không
còn phải can thiệp quá sâu vào cấu trúc và định hướng của nền kinh tế; Tuy nhiên,
cần nhạy bén với tình hình hiện nay và quan tâm giải quyết những vấn đề cơ bản
của người lao động dễ bị tác động bởi quá trình toàn cầu hóa, đó là: B. Điều kiện
làm việc, thời giờ làm việc, mức lương tối thiểu, v.v.. Mức tối thiểu... Đối với kinh
tế quốc tế, sức mạnh của xã hội phải là sự cân bằng giữa: thị trường, chính phủ và
xã hội dân sự. Sẽ rất tệ nếu chỉ một trong ba yếu tố chi phối lấn át hai yếu tố còn
lại.
III. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA GIDDENS ĐỂ PHÂN TÍCH MỘT VÍ
DỤ TRONG THỰC TẾ: TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN VIỆT
NAM TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC
1. Trong lĩnh vực kinh tế
1.1. Tác động tích cực và cơ hội
Việt Nam luôn có một “nền kinh tế mở” để giao thương và hội nhập quốc tế. Điều
này có nghĩa là thị trường lao động ngày càng trở nên đa dạng và biến động để
thích ứng với xu thế toàn cầu hóa. Một là, toàn cầu hóa sẽ đồng hành với công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, dẫn đến sự chuyển dịch, thay đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng tiến bộ, hiện đại, hiệu quả. Ước tính tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ trong tổng GDP năm 2019 lần lượt là 12,5%, 39,25% và 49,25%. Các
ngành dịch vụ và công nghiệp có tỷ trọng lớn nhất, trong khi tỷ trọng của nông
nghiệp sớm hơn ngành tiếp tục đứng đầu ba nhóm ngành này. Điều này đã góp
phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta. Năm 2020, Việt Nam là một
trong số ít quốc gia ghi nhận mức tăng trưởng GDP dương vào thời điểm bùng
phát đại dịch COVID, điều này đã chứng tỏ lợi thế của Việt Nam trong mắt các
nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó có thể thấy rõ sự thay đổi trong việc phân bổ lại
việc làm từ các ngành ít định hướng xuất khẩu sang các ngành định hướng xuất
khẩu. Đầu những năm 2000, hầu hết người Việt Nam làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp. Sau đó, khi nền kinh tế Việt Nam mở cửa thương mại, các lĩnh vực "mới"
liên quan nhiều hơn đến thương mại và xuất khẩu bắt đầu thuê thêm công nhân.
Mặc dù nông nghiệp vẫn là ngành xuất khẩu và đã tiếp tục tăng giá trị xuất khẩu
tổng thể theo thời gian, nhưng đã giảm so với các ngành công nghiệp khác. Năm
2019, tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu là 152.530 người, trong đó hơn 50% là
sang Nhật Bản. Việc lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã làm giảm một
phần tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam. Tăng số lượng lao động xuất khẩu có tay nghề
cao sẽ mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn, đồng thời tạo điều kiện cải thiện đời sống
nhân dân.
Một tác động tích cực khác của toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam là cải
thiện cơ hội việc làm cho người lao động. Khi nhu cầu thích ứng với toàn cầu hóa
tăng lên, các “lĩnh vực mới” sẽ mở ra và các công ty sẽ “tìm kiếm” những nhân tố
phù hợp cho những “kỳ nghỉ” này. Sự khởi đầu của hội nhập quốc tế đã tạo ra “cầu
nối” cho các quốc gia và tạo điều kiện cho các chuyên gia và cán bộ cấp cao của
chúng ta làm việc cùng nhau, làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp hơn và
do đó đủ điều kiện để đào tạo thêm nguồn nhân lực. Ở Việt Nam, toàn cầu hóa
cũng đã làm thay đổi phần nào hình thức và chất lượng việc làm. Năm 2018, 44%
lao động Việt Nam là công nhân văn phòng, tăng từ 33% vào năm 2009 và giảm từ
dưới 20% vào một thập kỷ trước. Nó đang phát triển rất nhanh và lĩnh vực thương
mại chắc chắn đang đóng góp đáng kể, đó là một kết quả đáng hài lòng. Với tư
cách là nhân viên, như tên cho thấy, bạn có quyền hưởng lương đại diện cho một
nguồn thu nhập tương đối an toàn. Người lao động cũng được hưởng các phúc lợi
xã hội mà chúng tôi gọi là “việc làm chính thức”. Hiện nay, toàn cầu hóa đã dẫn
đến sự thay đổi và gia tăng cả về số lượng và chất lượng của dòng vốn chảy vào
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
yếu tố tốt để phát triển đất nước nếu chúng ta có cơ chế thu hút phù hợp. Chúng ta
sẽ tạo ra cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư quốc gia hợp lý. Các nhà đầu tư nước
ngoài sẽ tìm kiếm những ưu đãi trong điều kiện quốc gia và môi trường đầu tư để
xúc tiến chương trình đầu tư của mình. Cho đến nay, nước ta đã thu hút và sử dụng
một lượng vốn nước ngoài tương đối lớn, ngoài các nguồn vốn này, vốn quốc gia
cũng được huy động. Chủ động hướng tới toàn cầu hóa, các doanh nghiệp Việt
Nam đang dần có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận bình đẳng với công nghệ,
vốn nước ngoài và nguồn nhân lực từ bên ngoài. Một thị trường mở rộng có nghĩa
là chúng ta có quyền tiếp cận một thị trường lớn hơn, nơi 150 thành viên WTO xử
lý 85% thương mại hàng hóa thế giới và 90% thương mại dịch vụ.
Về phía người tiêu dùng, người tiêu dùng được tiếp cận với những sản phẩm “nội”,
“ngoại” chất lượng cao nhất và sẽ tiêu dùng theo hướng hiện đại, thông minh. Đặc
biệt, đại dịch đã khiến hoạt động mua sắm của người tiêu dùng chuyển từ tiêu dùng
có kế hoạch và có ý thức sang tiêu dùng bền vững và hợp lý. Nhìn chung, từ góc
độ kinh tế, Việt Nam cần nỗ lực để có chỗ đứng trong chuỗi sản xuất và cung ứng
toàn cầu, ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh nền kinh tế và công nghiệp số. Trong
thời kỳ hậu COVID-19, những cơ hội đang mở ra cho Việt Nam không thể bỏ lỡ.
Muốn vậy, phải ưu tiên phát triển các mạng lưới kết nối Việt Nam với thế giới theo
cả hai phương thức “cứng” và “mềm”.
1.2. Tác động tiêu cực và thách thức
Bên cạnh tác động của xuất khẩu lao động, điều này cũng đặt ra thách thức cho
chúng ta khi ngày càng có nhiều kẻ buôn người và lừa đảo xuất hiện. Nhiều lao
động Việt Nam tại Malaysia bị cắt hợp đồng lao động, bị ngược đãi, đánh đập, bỏ
đói và kêu gọi can thiệp để trở về Việt Nam. Có rất nhiều cơ sở và công ty dụ dỗ
người lao động Việt Nam trộm cắp tài sản của họ hoặc đưa người lao động sang
châu Âu bất hợp pháp. Và khi mức độ “ưu tiên” dành cho các công ty nước ngoài
càng cao, thì càng có nhiều “ông chủ” công ty có ảnh hưởng to lớn đến các bên
liên quan.
Một tác động tiêu cực gây tranh cãi là việc tuyển dụng nhiều hơn cho một số công
việc nhất định khiến các công ty phải sa thải công nhân khi họ “không” làm việc.
Có vấn đề “cung cầu”, việc làm “tay nghề cao”, đào tạo riêng biệt thì thiếu nhân
lực, thế nhưng, những việc làm đòi hỏi “tay nghề thấp”, chỉ cần trình độ học vấn cơ
bản thì lại bị dư thừa. Bởi nếu một công ty chấp nhận thuê lao động phổ thông, tức
là những người không đáp ứng được yêu cầu của công việc, công ty sẽ phải đối
mặt với năng suất lao động thấp, năng suất thấp hơn mong đợi và tốn kém chi phí
chi trả nhân công. Họ đã góp phần gây ra nạn thất nghiệp trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay.
Theo một cách nào đó, đây là câu chuyện của Việt Nam về lao động làm công ăn
lương: chúng ta thấy tỷ lệ việc làm phi chính thức đang giảm trên toàn thị trường.
Tuy nhiên, hầu hết việc làm ở Việt Nam vẫn là phi chính thức. Trong cả năm 2020,
số lao động phi chính thức là 20,3 triệu người không tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc (hoặc bất kỳ chương trình nào trong lĩnh vực này). , tăng 119,1 nghìn lượt.
người, số người có việc làm chính thức là 15,8 triệu người, giảm 21,1 nghìn người.
người so với người năm 2019. Hiện năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức
thấp và đây là yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế, nhất là về chất lượng tăng trưởng,
năng suất và sức cạnh tranh; nó là nguyên nhân chính và tiềm ẩn của lạm phát; Đó
là một trong những nguyên nhân gây mất cân đối kinh tế vĩ mô (thâm hụt thương
mại, thâm hụt cán cân thanh toán) và làm giảm thu nhập, sức mua của người dân
có khả năng chi trả. Nền kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt với sự tác động
trực tiếp và nhanh chóng của những biến động kinh tế bên ngoài, thị trường khu
vực và thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá, nhất là những biến động có tác động lớn;
Những thay đổi trong dòng hàng hóa, tài chính và đầu tư quốc tế và tệ hơn nữa là
nó bị ảnh hưởng và bị ảnh hưởng rất nhanh bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và
tài chính khu vực và toàn cầu.
Nếu ở Việt Nam chúng ta chưa bao quát được những ngành đòi hỏi nền tảng vững
chắc, trình độ và phương pháp cao và những ngành chúng ta hiện chưa có hoặc
không có lợi thế so sánh thì có rất nhiều ngành mà đất nước lẽ ra có tiềm năng lớn
nhưng lại tụt hậu. . Ví dụ như nông nghiệp. Năm 2020, Việt Nam xuất khẩu gần 40
tỷ USD nông sản và 10 tỷ USD thủy sản, nhưng hầu hết các yếu tố đầu vào như
thức ăn, phân bón, giống… đều thuộc về các công ty nước ngoài chiếm thị phần
lớn. Chỉ một công ty cổ phần Việt Nam (100% vốn Thái Lan, chuyên sản xuất thức
ăn chăn nuôi) dự kiến lãi đột biến 1 tỷ USD năm 2021. Việt Nam phải đối mặt với
thách thức cạnh tranh khốc liệt với các công ty và sản phẩm nước ngoài không chỉ
ở thị trường nước ngoài mà còn ở thị trường nội địa Việt Nam.Trong khi các liên
doanh của Việt Nam là công ty vừa và nhỏ, công nghệ thấp, năng lực tài chính hạn
chế thì chúng ta phải cạnh tranh với các công ty lớn, công nghệ tiên tiến, tiềm lực
tài chính cao. , có những sản phẩm thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Tại Việt
Nam, các doanh nghiệp nhà nước tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu phần
lớn hiện đang ở công đoạn công nghệ thấp, gia công, lắp ráp.
2. Trong lĩnh vực chính trị
2.1. Tác động tích cực và cơ hội
Sự phát triển nhanh chóng của toàn cầu hóa đã dẫn đến sự ra đời của nhiều liên
minh chính trị và kinh tế quan trọng và hùng mạnh, như Liên hợp quốc (UN), Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), Liên minh Châu Âu (EU) và Tổ chức Thế giới
(WTO), hay một tổ chức mà trong đó ta là nước thành viên đó là Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN). Việc thành lập các tổ chức này không chỉ nhằm giúp
đỡ nhau thực hiện các mục tiêu chung mà còn nhằm ổn định tình hình chính trị của
các nước trong khối bằng cách “kết bạn” với các thành viên khác. Giữa các quốc
gia có sự hợp tác, đàm phán dễ dàng hơn khi nảy sinh các vấn đề không chỉ về
chính trị mà về mọi mặt, đảm bảo dễ dàng kiểm soát tình hình chính trị. Sự phát
triển của toàn cầu hóa còn giúp chúng ta hòa nhập vào nhiều đời sống chính trị
khác nhau, từ đó so sánh, học hỏi những điều tích cực, phù hợp với thực tiễn của
một nước, để vận dụng một cách sâu sắc, sáng tạo nhằm chuyển mình đi lên của
đất nước. Ngoài ra, chúng ta dễ dàng học hỏi và tăng cường hội nhập với các nước
có chung mục tiêu chính trị để đạt được những mục tiêu chung có lợi hơn, to lớn
hơn.
2.2. Tác động tiêu cực và thách thức
Toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, nhất là trong
việc duy trì sự ổn định của nền kinh tế trong bối cảnh thế giới mở. Sự xâm nhập và
chống đối chính trị trong và ngoài nước trong thời kỳ toàn cầu hóa cao đã gây ra
nhiều tác động tiêu cực, chẳng hạn như sự xuất hiện của các bộ phận chống Đảng,
xuyên tạc lịch sử, sự nổi lên của tình trạng bất ổn dân sự và sự bất ổn nhất định của
chính quyền. Hệ thống văn hóa chính trị của Đảng. Những bộ phận này đặc biệt
ảnh hưởng đến các bạn trẻ còn non nớt, khả năng nhìn nhận vấn đề còn non yếu,
kéo theo nhiều hệ lụy về sau. Bên cạnh những tác động tích cực mà hội nhập mang
lại trong điều kiện tham gia các liên minh kinh tế và chính trị, vẫn có những trường
hợp các nước thành viên trong liên minh can thiệp, chi phối các quyết định chính
trị của nước ta với mục đích hạn chế những ảnh hưởng đó. Toàn cầu hóa, nhất là
toàn cầu hóa kinh tế, đòi hỏi phải xóa bỏ các rào cản, độc quyền làm gia tăng hiện
trạng quan liêu, tham nhũng, độc đoán, chuyên quyền và dân chủ trong chính
trị.Ngoài ra, còn có một số hoạt động chính trị phi pháp khác như rửa tiền, cấu kết
với các tổ chức “đen” ở các nước, không chỉ dẫn đến nhũng nhiễu trong chính trị
mà ở mọi lĩnh vực ở nước ta. Chủ đề này cũng đặt ra nhiều thách thức liên quan
đến giáo dục chính trị phù hợp với lứa tuổi.
3. Trong lĩnh vực xã hội
3.1. Tác động tích cực và cơ hội
Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đòi hỏi lực lượng lao động có tay nghề cao,năng
động, sáng tạo và nhạy bén với công việc. Ngoài ra, toàn cầu hóa củng cố mối
quan hệ giữa giao lưu kinh tế, văn hóa tạo điều kiện cho người lao động giao lưu,
tương tác, kết hợp tư tưởng tiến bộ, tư duy năng động và lối sống văn minh hiện
đại từ các quốc gia phát triển. Nó giúp người lao động Việt Nam đạt được trình độ
giáo dục cao hơn và chất lượng hơn. Từ đó có cuộc sống tốt hơn, năng động, cởi
mở, nhạy bén và linh hoạt trong công việc.
3.2. Tác động tiêu cực và thách thức
Kể từ khi đất nước bắt đầu hội nhập, nền kinh tế của chúng ta đã trở nên sôi
động, kiên cường và thúc đẩy quá trình đô thị hóa, nhưng đồng thời cũng làm tăng
tỷ lệ thất nghiệp. Nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng, nhưng cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Vì thế có nhiều nhà máy sản xuất và doanh nghiệp phải thu hẹp quy
mô hoặc phá sản. Tình trạng này làm tăng số lượng người thất nghiệp hoặc lao
động bán thời gian. Trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, quá trình hội nhập
sẽ đòi hỏi lực lượng lao động lành nghề. Nếu người lao động Việt Nam không
được đào tạo và có trình độ, đang gặp khó khăn về mặt công nghệ và quản lý, tỷ lệ
thất nghiệp không những không giảm mà còn có rủi ro gia tăng.
Thất nghiệp và thiếu việc làm cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đếnsự
phân hóa giàu nghèo – trục phân tầng xã hội. Khoảng cách giàu nghèo, tội phạm
quốc tế và tệ nạn xã hội, v.v. Đây là những vấn đề gây khó khăn cho các quốc gia
dân tộc. Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo là rất thực tế . Người
nào lao động giỏi, biết tính toán, nhạy bén làm giàu chính đáng; ngược lại ai lười,
không có vốn, không biết làm ăn để rồi nghèo đi. Nhưng ở Việt Nam, trong những
năm qua, bên cạnh những người giàu có hợp pháp, có rất nhiều người giàu
có thông qua hối lộ, gian lận, buôn lậu và bắt cóc trong giai đoạn "rõ ràng, không
rõ ràng" của cơ chế thị trường. Điều đáng lo ngại là số người làm giàu theo cách
này không hề ít. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà tham nhũng được coi như
"quốc loạn" nămtại Việt Nam. Nếu việc thúc đẩy con đường hợp pháp để trở nên
giàu có là xứng đáng, đây là con đường nên đi thì làm giàu bất chính phải nhanh
chóng bị loại bỏ. Bởi vì hành vi này không chỉ xấu, bòn rút tiền làm suy yếu nền
kinh tế, mà làm tổn thương các giá trị xã hội.
Thiếu việc làm, khoảng cách giàu nghèo, là một trong những nguyên nhân của các
tệ nạn xã hội và tội phạm. Bên cạnh nạn thất nghiệp và khoảng cách giàu nghèo
ngày càng lớn, tệ nạn xã hội và tội phạm xuyên biên giới cũng là thách thức lớn
đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. Hiện tại bản chất hoạt động của các tệ
nạn xã hội này ngày càng tinh vi và có tổ chức hơn. Việc tổ chức diễn ra với quy
mô lớn hơn. Tình hình tội phạm có nhiều biểu hiện phức tạp. Trong khi tổng số vụ
phạm pháp hình sự không tăng đột biến thì số vụ án nghiêm trọng lại tăng nhanh
và chiếm tỷ lệ cao. Cần lưu ý rằng trong những năm gần đây, cùng với sự phát
triển của giao lưu kinh tế quốc tế, tội phạm có yếu tố nước ngoài cũng gia tăng
đáng kể. Đó là hiện tượng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam và người Việt
Nam phạm tội ở nước ngoài. Phát hiện một số loại tội phạm nguy hiểm chưa từng
có ở Việt Nam như: mua bán người, mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Trung
Quốc - Campuchia, vận chuyển, nhập lậu ma túy từ nước ngoài. Người nước ngoài
vào Việt Nam và từ Việt Nam đi nước ngoài, cướp biển, tham ô, rửa tiền, khủng
bố, bắt giữ con tin... Do mở rộng giao lưu, xuất nhập cảnh Việt Nam thuận lợi hơn
trước nên nhiều đối tượng phạm tội ở nước ngoài sau đó vào Việt Nam lẩn trốn,
thậm chí nhiều đối tượng tiếp tục phạm tội tại Việt Nam. Ngược lại, một số tội
phạm đã phạm tội nghiêm trọng Việt Nam và sau đó tìm cách trốn ra nước ngoài
để tránh sự trừng phạt của pháp luật Việt Nam.
Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên
thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng
giống như nhiều nước khác trên thế giới đang đứng trước những hiểm hoạ của
thiên tai, ô nhiễm môi trường,…đặc biệt là đại dịch Covid-19. Tóm lại, chính toàn
cầu hoá đang làm cho những vấn đề toàn cầu của thời đại tác động mạnh mẽ và
nhanh chóng đến các quốc gia dân tộc. Ngày nay, không một quốc gia dân tộc nào
có thể làm ngơ trước sự lan truyền một cách nhanh chóng và rộng rãi của các bệnh
dịch, như SARS, cúm gà, v.v.; của các nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, v.v..

KẾT LUẬN
Anthony Giddens là một trong những nhà xã hội học nổi tiếng thế giới về khái
niệm toàn cầu hóa. Ông cho rằng toàn cầu hóa là một quá trình không thể ngăn cản
được, và đó cũng là xu hướng tự nhiên của thế giới hiện đại. Theo ông, toàn cầu
hóa có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế và văn hóa xã hội của các quốc gia trên
thế giới.
Tuy nhiên, việc toàn cầu hóa cũng đem lại nhiều thách thức cho các quốc gia, bao
gồm Việt Nam. Đối với Việt Nam, toàn cầu hóa đã mang lại cơ hội lớn để mở rộng
thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư từ các nước phát triển. Tuy nhiên, điều này
cũng gây ra sự cạnh tranh gay gắt trong kinh tế và ảnh hưởng đến sản xuất nội địa.
Trong lĩnh vực kinh tế, toàn cầu hóa đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam, bao
gồm mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài và tạo ra những cơ
hội việc làm mới. Tuy nhiên, điều này cũng đem lại sự cạnh tranh khốc liệt và áp
lực để nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ phục vụ cho thị trường quốc tế.
Ngoài ra, toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng đến giá cả của hàng hóa, đặc biệt là khi
Việt Nam nhập khẩu nhiều nguyên liệu và máy móc từ các quốc gia phát triển.
Trong lĩnh vực chính trị, toàn cầu hóa đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
sự hội nhập và tăng cường mối quan hệ đối tác giữa Việt Nam và các quốc gia
khác. Điều này có thể giúp Việt Nam mở rộng không chỉ thị trường kinh doanh mà
còn là mối quan hệ đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong lĩnh vực xã hội, toàn cầu hóa đã đem lại sự tiến bộ và thay đổi phong cách
sống của người dân Việt Nam. Ngoài ra, internet và công nghệ thông tin đóng vai
trò quan trọng trong việc kết nối các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, toàn cầu hóa
cũng gây ra một số vấn đề xã hội mới như việc đô thị hóa, phân hoá giàu nghèo và
di cư.
Toàn cầu hóa đã có tác động rất lớn đến Việt Nam ở các lĩnh vực kinh tế, chính trị
và xã hội. Tóm lại, cho dù Anthony Giddens có quan điểm tích cực về toàn cầu
hóa, nhưng đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, toàn cầu hóa đem
lại cả những cơ hội và thách thức. Việc quản lý và định hướng sử dụng hiệu quả cơ
hội từ toàn cầu hóa là điều rất quan trọng để Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững
trong thời gian tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tỵ, Nguyễn Thị. "Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế ở Việt Nam."
2. Cường, Trần Văn. "Thách thức của quá trình toàn cầu hóa đối với các nước
đang phát triển: những vấn đề Quốc tế hiện đại." (2022).
3. Th.s Nguyễn Thị Đào. “Những tác động của toàn cầu hóa đến Việt Nam”
4. Đỗ, Hoàng Long. “Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam”. Diss. Đại học Kinh tế Quốc Dân, 2009.
5. Anatoly, Sokolov. "Văn hoá Việt Nam: Toàn cầu hoá và thị trường." (2020).
6. Quyết, Nguyễn. "Ảnh hưởng của toàn cầu hóa kinh tế và tăng trưởng kinh tế lên
tỷ lệ thất nghiệp: Thực tiễn tại Việt Nam." Tạp chí khoa học Đại học Mở Thành
phố Hồ Chí Minh – Kinh tế và quản trị kinh doanh 9.3 (2014): 130-142.
7. Hòa, Trần Thị. "Nhìn nhận những vấn đề của toàn cầu hóa thời kì hậu chiến
tranh lạnh qua sự kiện đại dịch Covid-19." Tạp chí Khoa học và Công nghệ 9.3
(2020).
8. Doãn, Hùng. "Tổng quan đề tài khoa học cấp Nhà nước:" Nghiên cứu tác động
xã hội của di cư quốc tế đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế".
(2015).

You might also like