You are on page 1of 23

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

KHOA TRUYỀN THÔNG VÀ VĂN HÓA ĐỐI NGOẠI


---------------***---------------

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ


HỌC PHẦN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người

Giảng viên hướng dẫn: T.S Nguyễn Văn Nguyên

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 7

Lớp học phần: TTHCM-TTQT49.7_LT

Hà Nội - Tháng 04/2024


Bảng phân công và đánh giá công việc

STT Họ và tên MSSV Phần việc đảm nhận Nhóm trưởng
nhận xét

1 Lê Ngọc Duy TTQT49C11599 Giá trị của tư tưởng Hồ Hoàn thành
Chí Minh về con người; 100%
Thuyết trình

2 Vũ Hải Huyền TTQT49A51676 Cơ sở hình thành tư Hoàn thành


tưởng Hồ Chí Minh về 100%
con người

3 Phùng Phương Linh TTQT49C41743 Giá trị của tư tưởng Hồ Hoàn thành
Chí Minh về con người; 100%
Kết luận

4 Phạm Trần Gia Linh TTQT49C11712 Quan niệm của Hồ Chí Hoàn thành
Minh về con người, 100%
thuyết trình

5 Lê Thị Kim Ngân TTQT49C11782 Quan điểm của Hồ Chí Hoàn thành
Minh về vai trò của con 100%
người

6 Trần Minh Nguyệt TTQT49C11805 Cơ sở hình thành tư Hoàn thành


tưởng Hồ Chí Minh về 100%
con người, thuyết trình

7 Phan Sĩ Mạnh TTQT49C11761 Giá trị của tư tưởng Hồ Hoàn thành
Chí Minh về con người; 100%
Kết luận

8 Nguyễn Huy Minh TTQT49C11842 Quan điểm của HCM về Hoàn thành
Quang xây dựng con người 100%

9 Bùi Anh Thắng TTQT49C11859 Làm slide thuyết trình, Hoàn thành
trình bày tiểu luận, làm 100%
game

10 Trần Quỳnh Trang TTQT49C11912 Làm slide thuyết trình, Hoàn thành
trình bày tiểu luận, làm 100%
game
MỤC LỤC
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI. 1
1. Cơ sở thực tiễn.............................................................................................1
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX............... 1
1.2. Bối cảnh lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX...................2
2. Cơ sở lý luận................................................................................................ 3
2.1. Giá trị truyền thống dân tộc.................................................................3
2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại..................................................................3
2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin........................................................................4
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI...................4
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người.................................................4
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người............................... 8
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người............................... 10
3.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người:.............................................. 10
3.2. Nội dung của việc xây dựng con người:............................................ 11
III. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI.......... 14
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong đấu tranh giành độc
lập.................................................................................................................. 14
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.......................................................................................................... 15
3. Hạn chế và khó khăn..................................................................................17
4. Giải pháp....................................................................................................17
IV. KẾT LUẬN..................................................................................................18
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................19
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1. Cơ sở thực tiễn
1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có
nhiều biến động. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một nước
phong kiến độc lập với nền nông nghiệp lạc hậu. Năm 1858, thực dân Pháp xâm
lược nước ta, Việt Nam trở thành quốc gia nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Sau
một thời gian dài đàn áp, Pháp đã hoàn thành việc bình định quân sự, thiết lập
chế độ đô hộ. Chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc
xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền
bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Trong bối cảnh đó các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu Cần vương
do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo diễn ra sôi nổi suốt những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đều thất bại. Hệ tư tưởng phong
kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử. Việt Nam đã làm cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới
sắp ra đời.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có
sự chuyển biến và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản
bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải
phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cùng vào thời điểm lịch sử đó, các
“tân thư”, “tân văn”, “tân báo” và những ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở
Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong trào yêu nước của nhân dân ta
chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu Nho học có tư tưởng
tiến bộ, thức thời đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước
chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Song chủ trương cầu ngoại
viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ
trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân trí trên cơ sở đó

1
mà lần lần tính chuyện giải phóng… của Phan Chu Trinh cũng không thành
công. Còn con đường khởi nghĩa của người anh hùng Hoàng Hoa Thám thì vẫn
mang nặng “cốt cách phong kiến”, chưa phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng
đắn. Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi
theo một con đường mới.

1.2. Bối cảnh lịch sử thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trong khi con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bờ bến phải đi tới,
việc cứu nước như trong đêm tối “không có đường ra” thì lịch sử thế giới trong
giai đoạn này đang có những chuyển biến to lớn.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc
quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ
nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.
Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ
nghĩa thực dân tại các nước Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh, sự bóc
lột phong kiến trước kia vẫn được duy trì và bao trùm lên nó là sự bóc lột tư bản
chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai
cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa vào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế
giới với đỉnh cao là Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Chính cuộc cách
mạng vĩ đại này đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á”. Cách mạng Tháng
Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô viết, mở ra một
thời kỳ mới trong lịch sử loài người.
Cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng
về sự giải phóng các dân tộc bị áp bức, “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc địa của đế quốc Nga đã được tự do,
được hưởng quyền dân tộc tự quyết, hình thành nên các quốc gia độc lập và dẫn

2
đến sự ra đời của Quốc tế cộng sản (tháng 3 năm 1919) do V.I. Lênin đứng đầu,
trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô
sản thế giới. Phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây
và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa Phương Đông càng có
quan hệ mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.

2. Cơ sở lý luận
2.1. Giá trị truyền thống dân tộc
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường;
đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan yêu đời, cần cù,
thông minh, sáng tạo... Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở
thành một chiến sĩ cộng sản.
Truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc tới quá
trình hình thành nhân cách và bản lĩnh của người thanh niên Nguyễn Tất Thành.
Chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá trị văn hoá dân tộc Việt Nam là tiền
đề tư tưởng quan trọng của Nguyễn Tất Thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường
cứu nước.

2.2. Tinh hoa văn hoá nhân loại


Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán
quan điểm của các trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ kim, đông, tây;
tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập, tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của
các cuộc cách mạng... để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến các
giá trị tư tưởng nhân loại trở thành tư tưởng của mình. Đặc biệt, Người đã kế

3
thừa, phát triển các giá trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo,
chủ nghĩa Tam dân và văn hóa tư sản…

2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin


Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu
nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học
và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải
quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã
có nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Trong ba nguồn gốc trên, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và là động
lực thúc đẩy Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư
tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách
mạng đúng đắn.
Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu là sản phẩm của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu có và sâu sắc thêm chủ
nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.

4
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan niệm về con người. Theo Người, con người là một chỉnh thể
thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, là chủ thể của các mối quan hệ xã hội
trong lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã
hội. Đối với Người, giải phóng con người, đem lại hạnh phúc cho con người là mục
đích cao nhất, là giá trị nhân văn nhất. “Nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp cũng như mọi
vấn đề khác, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước,
thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức…”.
Con người là một thực thể mang tính xã hội: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia
đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả
loài người”. Con người ở đây vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là những cộng đồng
người cụ thể trong xã hội. Trong cộng đồng con người Việt Nam, quan hệ gia đình,
anh em, họ hàng là rất quan trọng; Hơn nữa, nét độc đáo trong cộng đồng người Việt
Nam là quan hệ đồng bào, cùng một nguồn gốc “con Rồng cháu Tiên”. Hồ Chí Minh
rất coi trọng sức mạnh cộng đồng người Việt Nam, tìm mọi cách để bồi dưỡng và phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Con người là người lao động, nhân dân lao động - chủ thể đích thực sáng tạo ra
lịch sử xã hội. Hồ Chí Minh đã tiếp thu quan điểm Mác - Lênin đặt con người trong
lịch sử sản xuất vật chất để xem xét. Người khẳng định con người là chủ thể sáng tạo
mọi giá trị vật chất, tinh thần; lao động sáng tạo của người là giá trị cao nhất, nhân bản
nhất của con người. Ở Việt Nam, đó là công nhân, nông dân trí thức, bộ đội.., họ là
chủ thể sáng tạo xã hội mới. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng “trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân”. Người yêu cầu cán bộ phải biết ơn những người dân
lao động bình thường vì cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, phương tiện chúng ta sử
dụng là do công sức lao động của nhân dân sáng tạo ra. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo lịch sử xã hội là một trong những cơ sở lý luận
để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam với đặc
trưng cơ bản hàng đầu là một xã hội do nhân dân, mà trước hết là nhân dân lao động,
làm chủ. Trong hoạch định đường lối chính sách, Đảng và Nhà nước phải luôn xuất

5
phát từ lợi ích của nhân dân lao động. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước nếu không còn phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân đều phải bãi bỏ.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa con người cá
nhân và con người xã hội. Người khẳng định chủ nghĩa xã hội không hề phủ nhận cá
nhân, không chà đạp lên lợi ích cá nhân; mà ngược lại, hơn hẳn bất kì một chế độ xã
hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt
nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân. Hồ Chí Minh không chỉ nhấn
mạnh mà còn rất quan tâm đến con người tập thể, con người thuộc một tầng lớp nhân
dân cụ thể trong xã hội. Người thấu hiểu nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng, chia sẻ niềm
vui tầng lớp nhân dân, từ nông dân, công nhân, bộ đội, phụ nữ, thanh niên đến các cụ
phụ lão, các cháu nhi đồng… Trong chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ động
viên, phát huy tinh thần tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà còn khơi dậy
những phẩm chất tốt đẹp trong mỗi con người cụ thể, làm cho những đức tính tốt đẹp
đó “nảy nở như hoa mùa xuân”. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người
cá nhân và con người xã hội, Hồ Chí Minh quan tâm giải quyết mối quan hệ lợi ích.
Người đã biết kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích gần và lợi ích
xa, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần… tạo nên động lực nhằm tích cực hóa nhân tố
con người. Từ đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra các chính sách xã hội xuất phát từ
lợi ích của các tầng lớp người, để tập hợp, tổ chức, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp
nhân dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy nhanh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được xem xét trong sự thống nhất giữa
tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại. Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh
không chỉ đề cập đến “người phương Đông”, “người châu Á”, “người châu Âu”... mà
còn đề cập một cách cụ thể hơn đến “người da vàng”, “người da trắng”, “người da
đen”, “người Đông Dương”, “người Pháp”, “người Việt Nam”… Như vậy, con người
bao giờ cũng thuộc về một chủng tộc, sắc tộc, dân tộc, thuộc về một quốc gia nhất
định. Bên cạnh việc nói đến con người dân tộc, Người đặc biệt chú ý con người giai
cấp như “người bị áp bức”, “người bóc lột”, “tên tư bản”, “nhà độc tài”, “công nhân”,
“nông dân”, “thế thuyền”. Người khẳng định, trên thế giới này, chỉ có hai giống người
là giống người bóc lột và giống người lao động và nhấn mạnh tình hữu giai cấp.

6
Người luôn tự đặt mình về phía các giai cấp lao động, nói lên tiếng nói phản đối áp
bức, bóc lột, đấu tranh để giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá.
Trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người có điểm tương đồng với quan
điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng nét độc đáo ở Hồ Chí Minh
là Người xem xét con người từ truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ một
nước thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Nếu bắt đầu từ những điều
rộng lớn, từ lý luận cao siêu thì có thể rất khó đi vào lòng dân. Xuất phát từ truyền
thống dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm “Người” một cách ngắn gọn, mộc
mạc, dễ hiểu, để qua đó làm cho mọi người hiểu rằng: “Vậy là, dù màu da có khác
nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc
lột”. “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song, số người ấy có thể chia thành hai
hạng: người Thiện và người Ác”. Đối với những người bị bóc lột thì đoàn kết, yêu
thương. Đối với hạng người bóc lột thì phải kiên quyết đánh đổ. Chúng ta thấy, đây
chính là tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, trong đó, Người nhấn mạnh:
“Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của toàn dân”. Con người được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh
đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả. “Người là gốc của làng nước”.
Hồ Chí Minh luôn luôn có tư tưởng kính trọng nhân dân. Tư tưởng đó được
biểu hiện trong thực tế thông qua nếp sống thanh bạch, ứng xử có văn hoá, chân thành
lắng nghe ý kiến nhân dân, trân trọng thành tích chiến đấu, lao động, công tác của các
tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh luôn động viên khuyến khích nhân dân, coi nhân dân
là vĩ đại. Từ tư tưởng kính trọng nhân dân Hồ Chí Minh không xa rời nhân dân, không
dành đặc quyền, đặc lợi cho mình. Mọi tư tưởng, hành động của Người đều vì lợi ích
nhân dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại cho dân, ta phải hết sức
tránh. Chúng ta phải yêu dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.
Hồ Chí Minh luôn trân trọng sinh mệnh con người, rất chú trọng tiết kiệm sức
người. Nối tiếp truyền thống nhân đạo của dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Người luôn bảo vệ con người, hạn chế đến mức thấp nhất sự hy sinh
xương máu của nhân dân. Để bảo vệ sinh mệnh của nhân dân, Người chủ trương lập
chiến khu, sơ tán nhân dân lúc có chiến tranh. Trong cách mạng tháng Tám 1945,

7
Người đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tạo thời cơ, nắm thời cơ để phát động cách
mạng ít đổ máu nhất. Người đã phát triển sáng tạo nghệ thuật biết đánh thắng từng
bước, quyết tâm tổ chức quần chúng đấu tranh giành thắng lợi cho cách mạng. Trong
giờ phút hiểm nghèo của cách mạng, Người kêu gọi cán bộ, chiến sĩ, quân dân:
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Người luôn quan tâm đến chính sách khoan thư
sức dân, an dân, dưỡng dân, đưa tiết kiệm lên thành quốc sách, kiên quyết chống tham
ô, lãng phí. Người giáo dục cán bộ phải biết quý trọng tài sản của nhân dân. Hồ Chí
Minh luôn luôn tin tưởng vào mặt tốt, mặt tiến bộ của con người, tin tưởng sức mạnh
tuyệt đối của nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhìn nhận mặt tiến bộ, tính cực của con người và tin
tưởng ở con người, kể cả những người lầm đường lạc lối. Hồ Chí Minh trân trọng
phần thiện, dù nhỏ nhất, ở mỗi người. Ở Hồ Chí Minh, lòng khoan dung đối với con
người là rộng lớn và cao cả. Người nhìn nhận con người trong tính đa dạng, như năm
ngón tay dài ngắn khác nhau, như mấy mươi triệu con người Việt Nam có người thế
này, người thế khác nhưng có điểm chung đều là con người Việt Nam, cùng con Lạc,
cháu Hồng và ít nhiều đều yêu nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tin tưởng vô hạn vào sức
mạnh của toàn dân được tổ chức, đoàn kết trong đấu tranh cách mạng. Trong Thư gửi
các bạn cùng hoạt động ở Pháp, Người viết: “Chúng ta phải làm gì? (…) Đối với tôi,
câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn
luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”. Trong hoàn cảnh chiến tranh vô
cùng khốc liệt, Người kêu gọi nhân dân: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn nữa. Song, nhân dân Việt Nam quyết không sợ…”; Còn non, còn
nước, còn người; Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay ”.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người
Con người là mục tiêu của cách mạng: Thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước của
dân tộc, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình và được soi sáng bởi
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng, để giải
phóng con người, cần phải đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội. Các cuộc đấu tranh này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau và chỉ có như
vậy, con người mới được giải phóng hoàn toàn.

8
Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc
lập cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân tộc Việt
Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa. Giải phóng giai cấp là xóa
bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp khác; xóa bỏ sự bất công, bất
bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tế - xã hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dần dần
thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều kiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai cấp
và xác lập một xã hội không có giai cấp. Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển
thành một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất
phát triển cao và bền vững, văn hóa tiên tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội đó phát triển
cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa. Giải phóng con
người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nô dịch con người, xóa bỏ các điều kiện xã
hội làm tha hóa con người, làm cho mọi người được hướng tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát huy khả năng sáng tạo, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản
thân, phát triển toàn diện theo đúng bản chất tốt đẹp của con người. Con người trong
giải phóng con người là cá nhân mỗi con người, và phạm vi thế giới là giải phóng loài
người.
Các "giải phóng" đó kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần
giải phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc
mở đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Con người là động lực của cách mạng: Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn
quý nhất, động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. "Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh
đoàn kết của nhân dân". Vì vậy: “Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến
to, từ gần đến xa, đều thế cả". Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là
những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản
nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó
chính là gốc, động lực cách mạng. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: Dân ta tốt lắm.
Người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách
mạng, vào Đảng, không sợ gian khổ, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo,

9
chở che, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng. Ðối với dân tộc
Việt Nam, con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ thể của lịch sử, là chân lý cụ thể,
sinh động được Hồ Chí Minh củng cố và nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý
nhân sinh này đã được phát huy và đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện
đại của dân tộc.
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
3.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người:

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã gây ra nhiều hậu quả nặng nề lên đất nước và
nhân dân ta. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lên án: “Không những đầu độc nhân dân An Nam bằng rượu và thuốc phiện, mà
còn thi hành chính sách ngu dân để trị”. Chính vì vậy, việc xây dựng con người luôn là
một chủ trương quan trọng trên con đường hoạt động Cách mạng của Người.
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách vừa lâu dài của sự
nghiệp cách mạng và có ý nghĩa chiến lược. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người
cần phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Mượn lời của Quản Trọng,
Người đã nói: “Vì lợi ích trăm năm thì phải ‘trồng người’”. “Trồng người” phải được
tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được
những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt, “Trồng người” phải
được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa
là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Người coi việc ươm trồng những con người xã hội chủ nghĩa, việc bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là công việc trọng đại của đất nước, của dân tộc, của
Đảng. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con
người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vế câu “Trước hết cần
phải có những con người xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu rằng, việc có những con
người với những nét tiêu biểu của xã hội chủ nghĩa như lý tưởng, đạo đức, lối sống,
tác phong xã hội chủ nghĩa là tiên quyết. Những con người này sẽ đóng vai trò những
người đi trước, làm gương lôi cuốn người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người có ý nghĩa vĩnh hằng trong đời
sống kinh tế văn hóa của dân tộc, mang một ý nghĩa cao cả, sâu sắc. Người đề cập đến

10
“việc trồng người” là vì lợi ích của nhân dân, của chính con người, vì thắng lợi Chủ
nghĩa xã hội mà Người tiến hành để đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
3.2. Nội dung của việc xây dựng con người:

Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Trong đó, “hồng” là chỉ một người có tính giác ngộ cao về chủ nghĩa cộng
sản, trình độ hiểu biết chuyên sâu về chính trị; “chuyên” là trình độ chuyên môn về
ngành nghề nào đó, là năng lực để thực hiện một nhiệm vụ, chức danh nào đó. Đây là
những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng và có
tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa. Người thường xuyên huấn luyện,
xây dựng con người toàn diện gồm những khía cạnh sau:
Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình
vì mọi người, mọi người vì mình”:
Chủ tịch Hồ Chí Minh thẳng thừng phê phán chủ nghĩa cá nhân, cho rằng chủ
nghĩa cá nhân là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Nhà nước Việt Nam là của tất cả những
người lao động. Chính vì vậy, ta cần nhận thức rõ tầm quan trọng của nhân dân lao
động, nhân dân lao động ta là những người làm chủ đất nước. Từ đó kết luận cụ thể về
vai trò trách nhiệm của từng cá nhân: Đã là người chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc
nước như chăm lo việc nhà. Người công nhân phải yêu quý máy móc như yêu quý con
mình, người nông dân phải yêu quý trâu bò của hợp tác xã như bản thân của mình.
Mọi người phải biết giữ gìn của công, phải chăm lo việc tập thể như chăm lo việc gia
đình. Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi
chờ. Mỗi người phải ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ
đi trước, lội nước đi sau”. Ai cũng phải là một chiến sĩ dũng cảm phấn đấu xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc:
Đất nước Việt Nam vẫn đang trong thời kì phát triển, chính vì thế, người dân
cần phải có tinh thần tự lực cánh sinh, liên tục nỗ lực, cố gắng lao động sản xuất. Con
người xã hội chủ nghĩa cần phải cần cù, chịu khó, chịu khổ. Xã hội chủ nghĩa cần
được xây dựng dựa trên việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Cần biết quý trọng sức
người, bài trừ tham ô, tránh lãng phí tài sản của Nhà nước, tập thể; chính vì thế, cán
bộ và đảng viên cần phải nâng cao tinh thần phụ trách, “cần kiệm liêm chính”, không

11
xâm phạm tới tài sản Nhà nước, tập thể và của nhân dân. Trong mọi công việc phải
tính toán, cân nhắc cẩn thận: “Thì giờ là vàng bạc”. Kiên quyết chống thói hội họp lu
bù, mất thì giờ, hại sức khỏe mà không kết quả thiết thực.
Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng
Người đã nhận định: “Trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có
lòng yêu nước”. Nhờ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc là vô cùng mạnh
mẽ; nên mỗi khi đất nước lâm nguy, Người đều có cách thức khơi dậy tình yêu nước
từ nhân dân để kêu gọi tham gia kháng chiến, bảo vệ độc lập dân tộc. Bên cạnh đó,
Chủ tịch cũng luôn nhắc nhở nhân dân phát huy tinh thần quốc tế cao cả. Ngoài các
nước xã hội chủ nghĩa, Người còn phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các
nước ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh để giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc đấu
tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, đồng thời lên tiếng phản đối mạnh mẽ
những hành động xâm lược.
Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương:
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ phải có "Cách
làm việc có khoa học". Theo Người, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi đặt kế
hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực; có óc tổ chức, chia công, xếp việc cho rõ ràng; tổ chức
động viên toàn dân ra thi hành và khéo kiểm soát để tổng kết, rút kinh nghiệm, phê
bình, khen thưởng. Ngược lại, thói tùy tiện, chủ quan, duy ý chí, thiếu kế hoạch, luộm
thuộm, không có hiệu quả là đối lập với phong cách khoa học. Chủ tịch cũng yêu cầu
cán bộ phải có tinh thần sáng tạo, tìm tòi cái mới, ủng hộ và thực hiện cái mới.
Thứ hai, Phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấm
nhuần triết lý nhân nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn bó với dân chúng, tin tưởng
vào vai trò của họ, và luôn phê phán thái độ xa lánh dân chúng. Hồ Chí Minh luôn
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc gắn bó với quần chúng, hướng về con người và
giá trị của chủ nghĩa xã hội. Phong cách này không chỉ làm tăng sự đồng thuận xã hội
mà còn góp phần tạo ra một nhân cách lớn và đồng cảm giữa lãnh tụ và quần chúng.
Thứ ba, Phong cách dân chủ là nét đặc trưng nổi bật trong phong cách làm
việc của Hồ Chí Minh. Người luôn yêu cầu cán bộ phải đặt mình trong tập thể, lắng
nghe ý kiến của tập thể, và mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Hồ

12
Chí Minh tin rằng cần có nhiều người để trở thành một tập thể lãnh đạo, bởi mỗi
người chỉ nhìn thấy một phần của vấn đề. Chủ tịch thường khuyến khích các cán bộ
bày tỏ ý kiến và góp ý, và tin rằng dân chủ là chìa khóa giải quyết mọi khó khăn, đồng
thời nhấn mạnh rằng sự đồng thuận và quyết tâm trong thực hiện công việc chỉ đạt
được thông qua bàn bạc, tập thể và dân chủ, tránh xa tình trạng chuyên quyền và áp
đặt từ các nhân vật lãnh đạo.
Cuối cùng là Phong cách nêu gương. Đối với bản thân, Người luôn tôn trọng
việc tự kiểm điểm và phê bình, không tự cao tự đại. Đối với người khác, Người luôn
giữ thái độ khiêm nhường, không dối trá. Đối với công việc, Người luôn giữ nguyên
tắc "dĩ công vi thượng", coi công việc cộng đồng là trên hết. Hồ Chí Minh luôn là một
tấm gương đạo đức mẫu mực, thể hiện sự nhất quán giữa lời nói và hành động, giữa
công việc và đời sống cá nhân. Hồ Chủ tịch tin rằng việc giáo dục bằng nêu gương là
cách tốt nhất để xây dựng Đảng, tổ chức cách mạng và con người mới. Trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, từ gia đình đến cơ quan, mỗi người đều có thể là tấm gương cho
người khác học tập và noi theo. Điều quan trọng là phải có trách nhiệm tự tu dưỡng và
trở thành một người có đời sống trong sáng, đồng thời là tấm gương giúp nhân dân
nhìn vào làm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Phương pháp xây dựng con người:
Trước tiên, mỗi cá nhân cần có ý thức tự rèn luyện, tu dưỡng và hoàn thiện bản
thân, cùng với đó là kết hợp xây dựng thể chế vững vàng, khoa học, nhằm tạo dựng
nên một nền dân chủ vững mạnh. Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
nêu gương những người tài, đặc biệt là những người đứng đầu. Người cho rằng phải
“tu thân, chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ”, điều này có nghĩa là
người cầm đầu, nếu muốn lãnh đạo đất nước, quần chúng, cần phải có đạo đức, luôn
hoàn thiện và nghiêm khắc với chính bản thân. Một khi người dẫn đầu đã kiệt xuất sẽ
có thể điều hành hiệu quả, đồng thời làm gương cho nhân dân noi theo.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng giáo dục. Người nhắc nhở:
“Hiền, dữ đâu phải tính sẵn, đều là do giáo dục mà nên”. Chính vì vậy, việc chú trọng
và định hướng giáo dục một cách hiệu quả ngay từ sớm là vô cùng cần thiết, là tiền đề
vững vàng cho việc xây dựng nên một con người tốt đẹp về sau.

13
Đặc biệt, Người cũng chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn
thể quần chúng. Thông qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”,
“Người tốt việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý
kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. Hồ Chí Minh đã đề xuất
việc xây dựng con người thông qua việc cải cách giáo dục, tạo điều kiện cho mọi
người có cơ hội học tập và phát triển, đồng thời tạo ra môi trường xã hội công bằng và
công lý.
III. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được dựa trên thế giới quan duy vật
triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời được vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính vì xuất
phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, Hồ Chí Minh luôn nêu cao sức mạnh
của quần chúng nhân dân, đồng thời nhấn mạnh tính tất yếu và tầm quan trọng
của việc phát triển toàn diện con người. Những yếu tố này đã góp phần làm nên
chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cao cả trong cốt cách
của nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng về con
người của Đảng ta luôn nhất quán với tư tưởng về con người của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, thể hiện qua chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng trong
suốt quá trình lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tư tưởng ấy
tiếp tục được Đảng ta quán triệt vận dụng xuyên suốt trong sự nghiệp xây dựng
và đổi mới đất nước hiện nay.
1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong đấu tranh giành độc
lập
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi con người là vốn quý nhất, là nguồn
lực nội sinh quan trọng nhất quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng trong bất kỳ thời kỳ và

14
cuộc cách mạng nào, khi yếu tố con người được phát huy và đặt lên hàng đầu,
nhân dân Việt Nam luôn biết cách “chuyển bại thành thắng”, chuyển tình thế
khó khăn thành thời cơ thuận lợi để phát triển, trong đó con người là động lực
trung tâm.
Không chỉ khẳng định vai trò của con người và sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, Đảng ta đã thực
hiện nhiều chủ trương, chính sách nhằm khơi gợi và phát huy sức mạnh to lớn
đó trên thực tế. Nhờ đó, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, mặc dù tiềm lực kinh tế và quân sự của đất nước còn nhiều hạn chế,
nhân dân Việt Nam triệu người như một đã đồng sức, đồng lòng đứng lên đánh
bại quân xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước, thống nhất Tổ quốc và đi lên
chủ nghĩa xã hội. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Sử ta dạy cho
ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập
tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc
Bước vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để giữ vững nền độc lập,
tự do của đất nước, Đảng ta đã chú trọng “phát huy sức sáng tạo của mọi tầng
lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”. Mọi
chủ trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng,
phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ công dân; phát huy mọi tiềm năng thế mạnh của con người để
vừa tập trung phát triển kinh tế, vừa tăng cường quốc phòng, an ninh, tạo cơ sở
nền tảng vững chắc bảo vệ thành quả của độc lập tự do trong điều kiện mới.
Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa VII, Đảng ta nhấn mạnh: “Con người là
vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của
chế độ ta”. Qua đó khẳng định cần phát triển toàn diện yếu tố con người, xây
dựng xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ tốt đẹp và tiến bộ giữa con
người với con người trong sản xuất và đời sống. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã

15
khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con người và con người luôn giữ vị trí trung
tâm trong phát triển kinh tế, xã hội, “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Nhất quán tư tưởng phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: Con người là trung tâm
của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển, “Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một
đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi
thế cạnh tranh quan trọng nhất bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững”. Đại hội XII của Đảng đề ra những định hướng lớn trong xây dựng, phát
triển văn hóa, con người: “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
phải trở thành một mục tiêu chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị
văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển
về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm
xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”.
Hiện thực hóa quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, sau hơn 30
năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển
con người, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Quá trình đổi mới luôn xuất
phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, qua đó giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Từ một đất nước lạc hậu, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở
thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; kinh tế - xã hội có bước phát
triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị xã hội ổn định; quốc
phòng an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững;… Những
thành tựu nêu trên vừa chứng minh sức mạnh to lớn của con người Việt Nam,

16
vừa khẳng định giá trị của độc lập, tự do; đồng thời, tạo nền tảng vững chắc để
giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc.
3. Hạn chế và khó khăn
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được còn tồn tại một số hạn chế, đặt ra
nhiều khó khăn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Vấn đề nghiêm
trọng nhất trong số đó là sự suy thoái về đạo đức, lối sống và tư tưởng chính trị
ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền
vững của đất nước. Bên cạnh đó, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
mang lại không ít thách thức, đòi hỏi sự sáng tạo trong vận dụng và phát huy
nhân tố con người, trong đó có việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có
khả năng ứng dụng và phát triển công nghệ mới. Thêm vào đó, tình hình thế
giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn
định, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và các cuộc xung đột liên quan đến
lợi ích, chủ quyền quốc gia, làm cho việc bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc trở
nên khó khăn hơn.
4. Giải pháp
Trước những khó khăn, thách thức đó, cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí minh về phát huy nhân tố con người, khơi dậy mọi nguồn lực,
mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giữ vững
và phát huy giá trị của độc lập, tự do. Để thực hiện điều đó, cần tập trung thực
hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Cần xây
dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trên các vấn đề cốt lõi như
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã
hội, nghĩa vụ công dân. Đồng thời, cần phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp
hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, ảnh hưởng xấu đến xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam.

17
Thứ hai, cần xây dựng môi trường tôn vinh những giá trị văn hóa truyền
thống, lịch sử. Cần tập trung giáo dục lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc, truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta, tuyên truyền
sâu rộng về những anh hùng, những tấm gương yêu nước tiêu biểu, khơi gợi
niềm tự hào về truyền thống, lịch sử dân tộc. Qua đó, giúp mỗi cá nhân nhận
thức được trách nhiệm của mình với Tổ quốc, với gia đình và xã hội.
Thứ ba, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống mọi
mặt của nhân dân; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần đẩy
mạnh phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, đồng thời huy động mọi nguồn lực để tạo bước đột phá trong xóa
đói, giảm nghèo, phát triển sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân.
Thứ tư, cần củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện. Cần tăng
cường tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước, coi trọng xây dựng tiềm lực
chính trị, thế trận lòng dân. Đồng thời, cần xây dựng và triển khai thực hiện có
hiệu quả các phương án phòng chống bạo loạn, gây rối, khủng bố; các phương
án đảm bảo an ninh chính trị, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh kinh tế, an
ninh thông tin.
Thứ năm, cần xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh. Sự lãnh đạo của
Đảng là yếu tố quyết định đối với quá trình phát huy tiềm năng, sức mạnh của
con người Việt Nam. Trước yêu cầu mới, Đảng cần không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, kết hợp chặt chẽ tự phê
bình và phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng đối với tổ chức đảng,
đội ngũ cán bộ, đảng viên; lắng nghe và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp,
sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm.

IV. KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược "trồng người" có giá
trị to lớn đối với dân tộc Việt Nam, là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt, mang

18
tính nhân văn sâu sắc và đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và
phát triển đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
bối cảnh chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Mỗi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách nhiệm góp
phần vào sự nghiệp vẻ vang ấy. Đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay, với tư cách
là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt và mang trên vai sứ mệnh cao cả, cần
phát huy tốt hơn nữa khả năng của mình để xứng đáng với truyền thống vẻ
vang, góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, đóng góp
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. PGS.TS. Trần Minh Trưởng, Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người phát triển toàn diện, Tạp chí Pháp luật về Quyền Con Người điện tử.
(https://qcn.hcma.vn/Content/gia-tri-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-con-ng
uoi-phat-trien-toan-dien-565814).
2. ThS. Trần Ngọc Ngân, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố
con người trong giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, VIỆN HÀN LÂM KHOA
HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM.
(https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/van-dung-tu-tuon
g-ho-chi-minh-ve-phat-huy-nhan-to-con-nguoi-trong-giu-vung-doc-lap-tu-do-cu
a-to-quoc-81).
3. TS. Nguyễn Thị Lương Uyên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi
mới, Tạp chí Lý luận chính trị điện tử.
(http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/4850-tu-tuon
g-ho-chi-minh-ve-xay-dung-con-nguoi-viet-nam-phat-trien-toan-dien-va-su-van
-dung-cua-dang-ta-trong-thoi-ky-doi-moi.html).

19
4. GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Trí thức Việt Nam với sự nghiệp đổi mới và
phát triển đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số, Tạp chí Cộng sản.
(https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31
Gf/content/tri-thuc-viet-nam-voi-su-nghiep-doi-moi-va-phat-trien-dat-nuoc-tron
g-boi-canh-chuyen-doi-so).
5. Lê Xuân Đức (2020), Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người, Báo Nhân
Dân điện tử.
(https://nhandan.vn/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-con-nguoi-post474133)
6. Nguyễn Hải Phú, Bàn về hồng và chuyên, Trang tin điện tử Đảng Bộ thành
phố Hồ Chí Minh
(https://thanhuytphcm.vn/tin-tap-chi/so-tay-xay-dung-dang-4-2016/ban-ve-hong
-va-chuyen-1463364277#:~:text=B%C3%A0n%20v%E1%BB%81%20h%E1%
BB%93ng%20v%C3%A0%20chuy%C3%AAn%20C%E1%BA%ADp%20nh%
E1%BA%ADt%3A%2009%3A04,m%E1%BB%99t%20nhi%E1%BB%87m%2
0v%E1%BB%A5%2C%20m%E1%BB%99t%20ch%E1%BB%A9c%20tr%C3
%A1ch%20n%C3%A0o%20%C4%91%C3%B3).
7. Cần - Kiệm - Liêm - Chính - Chí công vô tư, Trang thông tin điện tử thành
phố Hồ Chí Minh
(https://phuong6govap.gov.vn/noi-dung-tu-tuong-ho-chi-minh/can-kiem-liem-c
hinh-chi-cong-vo-tu).

20

You might also like