Professional Documents
Culture Documents
Thông tin có nhiều mức độ chất lượng khác nhau. Các số liệu, sự kiện hình ảnh
ban đầu thu thập được qua điều tra, khảo sát là các thông tin nguyên liệu, còn gọi
là dữ liệu(data). Thuật ngữ dữ liệu - data có xuất sứ từ chữ Latin datum ,có nghĩa là
"cái đã cho"hay sự kiện, nó có thể có dạng một con số, một sự trình bày hoặc hình
ảnh. Dữ liệu có thểcó hai dạng: dạng có cấu trúc như các biểu ghi, các cơ sở dữ
liệu; dạng phi cấu trúc nhưcác tệp văn bản, dạng này thường chiếm đến 80% lượng
dữ liệu của một tổ chức. Đặc trưng cơ bản của dữ liệu là chúng có thể tổ chức, lưu
trữ và lưu truyền trong các hệ thốngvà mạng lưới thông tin
Registers hay còn gọi là các thanh ghi, là những bộ nhớ có dung lượng nhỏ với tốc
độ truy cập cao nằm trực tiếp trong CPU và được sử dụng để lưu trữ tạm thời các
toán hạng, địa chỉ ô nhớ, kết quả tính toán hoặc thông tin điều khiển. Mỗi thanh ghi
phục vụ một mục đích cụ thể. Bộ đếm chương trình (PC), chỉ đến lệnh tiếp theo sẽ
được thực hiện là thanh ghi quan trọng nhất.
Opcode
Opcode là phần bộ nhớ chứa mã máy của bộ vi xử lý (không nhất thiết bắt buộc)
để thực thi các lệnh trong file thực thi.
RAM còn có tên gọi khác là bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên. Nó giúp lưu trữ dữ liệu tạm
thời của các chương trình đang hoạt động để CPU có thể nhanh chóng truy xuất và xử
lý. Dù dữ liệu được lưu trên bất kỳ ô nhớ nào của RAM thì hệ thống cũng có thể truy
cập tự do với tốc độ như nhau. Tuy nhiên, vì đây chỉ là bộ nhớ tạm thời nên khi bạn tắt
máy tính, tất cả dữ liệu trên RAM sẽ bị xóa sạch.
DRAM (Dynamic Random Access Memory) hay còn gọi là bộ nhớ động. Dữ liệu ở bộ
nhớ này sẽ dần bị mất và cần được nạp lại theo một chu kỳ nhất định. Mỗi khi đọc và
ghi lại dữ liệu thì Dram cần viết lại những nội dung ở ô nhớ của nó. DRAM đã được sử
dụng như bộ nhớ chính của máy tính đó.
SRAM (Static Random Access Memory) còn gọi là RAM tĩnh, bộ nhớ lưu trữ dữ liệu
nhanh cho việc khởi động. Khác với Ram động, SRAM có thể lưu giữ dữ liệu miễn là
còn nguồn điện cung cấp. Bộ nhớ này có tốc độ nhanh hơn DRAM và được dùng làm
bộ nhớ đệm (cache) cho máy tính.
ROM
Một loại bộ nhớ với chức năng đọc, được nhà sản xuất ghi sẵn và chứa những chương
trình giúp máy tinh có thể dễ dàng khởi động. ROM có chứa thông tin bảo mật như
BIOS, bo mạch chủ máy tính.
Bộ nhớ này là một phần khá quan trọng của bộ nhớ trong bởi máy tính có khởi động
được hay không là nhờ vào thiết bị này. ROM khác hẳn so với RAM làm cho dữ liệu sẽ
không bị mất khi bạn tắt máy, có thể đọc mà không thể thay đổi và sửa chữa.
Repeater là tên gọi chung cho thiết bị khuếch đại, truyền tín hiệu mạng đi xa
hơn. Có 2 loại Repeater là Lan Repeater và WiFi Repeater. Tuy nhiên, hiện
nay WiFi Repeater rất phổ biến nên tên gọi Repeater thường ám chỉ WiFi
Repeater.
Chế độ Access Point là khi bạn muốn kết nối router với nguồn Internet bằng cáp
Ethernet. Điều này khác với phương pháp kết nối Internet mặc định là cắm trực tiếp vào
nguồn Internet. Sử dụng chế độ Access Point cho phép bạn kết nối nó qua cáp
Ethernet với một router khác.
Chế độ này lý tưởng nếu bạn muốn mở rộng phạm vi WiFi, nhưng router bạn đang sử
dụng để mở rộng tín hiệu không quá xa router chính. Cáp sẽ đảm bảo bạn có được tốc
độ tốt nhất có thể giữa Access point và hub trung tâm, do đó, bạn không phải lo lắng về
bất kỳ điều gì làm nhiễu tín hiệu WiFi.
Hub được ra đời với mục đích kết nối các máy tính hoặc các thiết bị khác trong cùng một mạng
LAN, hoạt động như một trung tâm kết nối. Gói dữ liệu chỉ được truyền đến một cổng và nhờ hub
tạo ra nhiều bản sao và chuyển tiếp chúng đến các cổng khác và dữ liệu được truyền đến tất cả.
Bridge hay còn được gọi là cầu nối, là một thiết bị mạng kết nối nhiều mạng LAN (mạng cục
bộ) với nhau để tạo thành một mạng LAN lớn hơn. Quá trình tập hợp các mạng được gọi là quá
trình kết nối mạng.
Thiet bi internet
VigorAP 912C
Ngu
ồn: https://www.draytek.com/
Bridge có nguyên lý hoạt động trong suốt. Các máy tính thuộc các hệ thống mạng
khác nhau vẫn có thể gửi các thông tin trao đổi với nhau đơn giản mà không cần
biết đến sự có mặt của Bridge. Bridge chỉ kết nối được với những mạng cùng loại
và sử dụng cho những mạng tốc độ cao sẽ khó khăn nếu chúng nằm cách xa nhau.
2.2. Repeater
Trong các mạng có phạm vi rộng, tín hiệu truyền tải thường ở xa nguồn phát tín
hiệu rất yếu và bị suy hao trên đường truyền. Chính vì vậy, ta cần các thiết bị mạng
có khả năng khuếch đại tín hiệu để tín hiệu có thể truyền đi xa.
Trong mô hình OSI thì Repeater là thiết bị ở lớp 1 (Physical Layer). Repeater có
chức năng cung cấp năng lượng cho tín hiệu ở đầu ra và khuếch đại tín hiệu vật lý
ở đầu vào để có thể đến được điểm xa hơn trên mạng.
2.3. Hub
Hub là một thiết bị mạng có chức năng giống như một Repeater nhưng có nhiều
cổng (Hub có từ 4 đến 24 cổng). Với Hub, khi thông tin được đưa vào từ một cổng
và sẽ được đưa đến tất cả các cổng khác.
Thiết bị mạng Switch giúp thông tin được lưu trữ thông qua các gói tin (packet) mà
chúng nhận được từ các máy trong mạng và sử dụng các thông tin này để xây dựng
bảng Switch.
Trong các giao tiếp dữ liệu mạng thì Switch thường thực hiện 2 chức năng chính
là:
Thiet bi Internet
VigorAP 912C
N
guồn: https://www.totolink.vn/
2.6. Gateway
Gateway là thiết bị mạng cho phép nối ghép hai mạng sử dụng giao thức khác
nhau. Ví dụ: mạng sử dụng giao thức IPX với mạng sử dụng giao thức Novell,
DECnet, IP, SNA,…
Thông qua Gateway, các máy tính trong cùng một hệ thống mạng sử dụng các giao
thức khác nhau có thể dễ dàng kết nối được với nhau.
Gateway không chỉ giúp người dùng phân biệt được các giao thức mà chúng còn
còn có thể phân biệt ứng dụng như cách bạn chuyển đổi một phiên làm việc từ xa,
chuyển thư điện tử từ mạng này sang mạng khác, …
P2P – Peer-to-peer (mạng ngang hàng) là một mô hình mạng phi tập trung với
các bên có các cấu trúc phiên giao tiếp giống nhau. Trong đó, mỗi nút hoạt động
giống như một máy khách và máy chủ của hệ thống cho phép chia sẻ các phương tiện
truyền thông với nhau dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn.
P2P có nhiều tính năng như cung cấp môi trường tính toán song song, lưu trữ phân tán
và định tuyến ẩn danh lưu lượng mạng. Bởi vì có khả năng chia sẻ phương tiện truyền
thông nên P2P hay bị vi phạm bản quyền và vi phạm bản quyền phần mềm.
Hầu hết các ứng dụng P2P cho phép người dùng kiểm soát các thông số hoạt động
như cho phép kết nối nhiều thành viên một lúc. Hay có hệ thống kết nối, dịch vụ cung
cấp và các tài nguyên bảo vệ dành cho mạng.
Từ thời ARPANET các kiến trúc liên kết P2P đã được vận hành nhưng chưa được phổ
biến. Cho đến cuối những năm 1990 mô hình truyền thông P2P và những lợi ích của
nó mới thực sự được công nhận.