Professional Documents
Culture Documents
TCS1
TCS1
Vũ Ân Thy
Giải mã ca từ Trịnh Công Sơn
A
Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu
1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi
một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu
bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ. Điều đặc biệt là
thông qua hàng trăm trang thư tình mà Dao Ánh đã cất giữ tận đáy
lòng gần nửa thế kỷ nay, người đọc không những được thưởng thức
những trang thư tài hoa lấp lánh mà còn được thâm nhập sâu vào thế
giới nội cảm phong phú của Trịnh Công Sơn, từ đó hiểu sâu hơn về ca
từ và con người Trịnh Công Sơn.
Hình ảnh “chim di” xuất hiện trong ca khúc lừng danh
“Diễm xưa”, ca khúc đánh dấu kỷ niệm mối tình của Trịnh Công
Sơn với Ngô Vũ Bích Diễm (chị ruột của Ngô Vũ Dao Ánh):
“Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, làm sao em nhớ những
vết chim di”. Sau khi chia tay Bích Diễm, Trịnh Công Sơn đã
nhận được tình cảm sẻ chia của Dao Ánh qua thư từ và từ đó,
thư đi, tin lại, mối tình với Dao Ánh nảy nở. Hình ảnh “chim di”
không xuất hiện trở lại với tên gọi nguyên nghĩa của nó trong
các tình khúc hậu “Diễm xưa” nữa nhưng còn để lại dư ảnh
buồn thương trong ca khúc “Còn tuổi nào cho em” viết cho Dao
Ánh: “Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời”. Đặc biệt, hình ảnh
“chim di” còn được Trịnh Công Sơn nhắc đi nhắc lại nhiều lần
trong các trang thư tình gửi Dao Ánh, cho thấy bao nỗi niềm,
bao dư chấn buồn đau của “Diễm xưa” còn trút gửi cả cho Dao
Ánh: “Ánh rồi cũng làm loài chim di xám bỏ miền - giá - buốt
này mà đi. Lúc đó anh chỉ còn ngồi nghe một lời bể động” (thư
Sài Gòn, 28.9.1964), “Tuy nhiên cũng không thể không buồn khi
nhớ đến những vết chân chim di một lần cất tiếng hót cho mình
và đã bay đi biền biệt. Dấu tích còn lại mơ hồ trong vùng sương
mù huy hoàng còn sót lại đó” (thư Blao, 27.10.1964), “Con gái
vẫn thường là một loài chim di dễ quên vùng ở cũ” (thư Đà
Nẵng, 10.11.1966).
Vậy chim di là loài chim gì, sống ở đâu? Nhà thơ Phạm
Tiến Duật kể: “Có một lần, khi nghe bài Diễm xưa, tôi bảo
Trịnh Công Sơn rằng có một câu phải sửa, là câu này: “… Làm
sao em nhớ những vết chim di”. Cả bài không nói tới một tên
hoa, tên lá, tên chim nào, hà cớ gì lại có chim di! Có lẽ nên đổi
là chim đi, chỉ nói đến vết chân chim, là đủ. Trịnh Công Sơn bảo
rằng không sửa được, vì đấy là kỷ niệm riêng. Sơn nói về Huế
nhưng viết ở Nha Trang. Ở Nha Trang mới có loài chim di giỡn
sóng. Lũ chúng ta cũng chỉ như loài chim di giỡn sóng ở giữa
đời này” (1). Như vậy, chim di dùng để chỉ những hình ảnh bay
biến bất thường, không nắm bắt được, không cầm giữ được,
giống như tình yêu mong manh vụt biến. Khái quát hơn nữa,
chim di còn chỉ sự vô tăm tích của kiếp người trong cõi phù thế.
Hình ảnh “dạ lan” được nhắc tới trong ca khúc “Dấu chân
địa đàng”: “Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng”. Ca khúc
này còn có tên là“Tiếng hát dạ lan”. Nhà Dao Anh (cách nhà
Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú Cam) trồng nhiều hoa
dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà Dao
Ánh mà còn lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức
thư tình tha thiết, da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Dạ
lan giờ này chắc đã ngạt ngào cả một vùng tối đó rồi, đã cài lên
từng sợi tóc của Ánh” (thư Blao, 31.12.1964),“Anh ao ước bây
giờ mở cửa ra bỗng dưng có chiếc cầu bắc qua dòng sông và
anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải đi đến căn nhà có mùi
thơm dạ lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ Ánh
nghe” (thư Blao, 26.9.1965).
Cũng trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”, bên cạnh hình
ảnh “dạ lan” là hình ảnh“loài sâu” được nhắc đi nhắc lại với
nhiều trạng thái như ngủ: “Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong
tóc chiều”, ca hát: “Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối
cùng”, giải thoát ưu phiền: “Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi
ưu phiền”. Loài sâu này chính là một phiên bản khác của phận
người, ôm chứa những buồn vui của nhân sinh, điều này càng
được thấy rõ hơn trong những bức thư của Trịnh Công Sơn gửi
Dao Ánh: “Ngôn ngữ đã mất đi với những ngày nằm co như một
loài - sâu - chiếu ở Blao” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Ở đây cũng
có loài sâu đất reo đêm” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Đêm sáng
mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở bãi cỏ” (thư Blao,
23.10.1964), “Đêm đã lạnh và đã buồn. Cây cỏ lao xao. Anh chỉ
còn nghe rõ tiếng sâu đất và tiếng dế reo… ” (thư Blao,
29.12.1964), “Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đã
reo lên âm thanh rất nhọn” (thư Blao, 23.9.1965).
Hình ảnh “loài sâu” này không xuất hiện trở lại ở những
ca khúc khác của Trịnh Công Sơn nhưng trong ca khúc“Phúc âm
buồn”, một biến thể khác của “loài sâu” đã hiện ra qua hình ảnh
“loài thú nằm co”: “Người nằm co như loài thú khi mùa đông
về”,“Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù”. Như
thế, “loài sâu” chứ không phải là một hình ảnh nào khác mới thể
hiện trọn vẹn tính phức điệu của hồn người: vừa khát khao dâng
tặng đời những khúc nhạc lòng quý giá tinh luyện được như
nguồn nhạc của loài sâu đất, loài ve mùa hè được ấp ủ, dưỡng
nuôi từ trong bào thai của đất; vừa mang nỗi cô đơn nguyên ủy
của phận người, cô đơn như là một cách thế để giữ gìn bản ngã
của mình, không vong thân, không vọng ngoại. Vì lẽ đó, dễ hiểu
vì sao không ít lần, Trịnh Công Sơn đã nhắn nhủ Dao Ánh:
“Vọng ngoại quá nhiều chỉ làm hư hao, thiệt thòi mình thêm mà
thôi. Ở trên lý do đó anh đã luôn luôn cố gắng tách rời đám
đông, co mình về với mình, với Ánh. Ánh đã phải nhận ra điều
đó từ lâu rồi phải không” (thư 12.1.1967).
Cùng với lối sử dụng hình ảnh ví von hay nhân hóa về con
người như vậy, đặc biệt, trong nhạc Trịnh có nhiều hình ảnh đã
được nâng lên thành biểu tượng, chẳng hạn, biểu tượng“mặt
trời” trong ca khúc “Xin mặt trời ngủ yên”. Dao Ánh, nguồn
sáng huyền thoại tình yêu của Trịnh Công Sơn hiểu theo cả
nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, vì chính cái tên Dao Ánh mang hàm
nghĩa chỉ “mặt trời”. Mà “mặt trời” là nơi hoa hướng dương
luôn hướng về, nên Trịnh Công Sơn đã gắn hình ảnh Dao Ánh
với vẻ đẹp lộng lẫy của hoa hướng dương: “Và xin mặt trời ngủ
yên. Để Ánh là tournesol (hoa hướng dương - chú thích của
người hiệu đính sách) mãi mãi. Anh tưởng tượng một khuôn mặt
profil (nhìn nghiêng - chú thích của người hiệu đính sách) mà
một đường sáng hồng của mặt trời chạy dài từ chân tóc đến trán
- mũi - cằm. Thật huyền thoại như tượng” (thư Blao,
3.9.1964),“Suốt con đường đó hoa tournesol mọc vàng hai bên
bụi. Rừng núi mùa này hoa vàng đó sáng rực. Sao không là sinh
nhật Ánh. Anh có ý nghĩ muốn đổi ngày sinh của Ánh đó. Ánh có
bằng lòng không” (thư Đơn Dương, 11.11.1964). Trịnh Công
Sơn đã cắt nghĩa đầy sâu sắc, thú vị về tên người tình của mình,
đồng thời, giải mã những cảm xúc sâu xa, chất chứa trong ca
khúc “Xin mặt trời ngủ yên”:“Anh vừa học được cách viết bằng
chữ Nho tên của Ánh. Và cũng nhờ thế anh biết được vì sao Ánh
thích hoa mặt trời. Trong chữ Ánh có chữ Nhật là mặt trời. Và
bàiXin mặt trời ngủ yên lại tình cờ có câu: ôi nhân loại, mặt trời
trong tôi. Lúc viết bản này anh đã có câu đó vì anh nghĩ là Ánh
thích hoa mặt trời và mặt trời là nơi hoa hướng dương nhìn về
đó. Nên anh đã đem mặt trời nhốt vào trong anh” (thư Huế,
1.12.1966). Thật là chí lý, ý nhị và “đáo để” khúc nhôi.
Chiến tranh đã mang đi bạn bè, không còn ai, ngựa hồng
đã mỏi vó chết trên đồi quê hương. Nhưng niềm tin ở con người,
ở tình người trong nhạc Trịnh không bao giờ mất: “Ôi nhân loại
mặt trời và em thôi”, “Ôi nhân loại mặt trời trong tôi”, “Ôi nhân
loại còn người trong tôi”. Trong tôi có nhân loại và em. Nhân
loại và em là mặt trời trong tôi. Như vậy, “nhân loại”,
“em”,“mặt trời”, “tôi” giao hòa trong nhau hay đó chính là một.
Tất cả ở trong một. Trong một có tất cả, như Phật nói, trong một
hạt cát có chứa ba nghìn đại thiên thế giới, trong hạt cải có chứa
núi Tu Di (tư duy “trong một có tất cả” này còn được thể hiện
trong nhiều ca khúc khác của Trịnh Công Sơn như “Xa dấu mặt
trời”:“Hôm nay thức dậy không còn thấy mặt trời, không còn
thấy một người, hơi thở ru đời như gió ru mây”, hay “Nhớ mùa
thu Hà Nội”: “Hà Nội mùa thu mùa thu Hà Nội, nhớ đến một
người để nhớ mọi người”). Từ biểu tượng “mặt trời” chỉ sự soi
chiếu, vỗ về ấm áp của tình người trong“Xin mặt trời ngủ yên”,
sang đến các ca khúc khác về sau của Trịnh Công Sơn, biểu
tượng này chứa đựng nhiều ý nghĩa mới: khát vọng hòa bình
mãnh liệt của dân tộc, chân lý hòa bình tự do bất diệt của người
Việt Nam: “Ta nung sôi ý chí mặt trời” (Cho quê hương mỉm
cười), “Ta phải thấy mặt trời, sáng trên quê hương này đầy loài
người”(Ta phải thấy mặt trời). Như vậy, biểu tượng “mặt trời”
trong nhạc Trịnh Công Sơn được “mách bảo” bởi một người
tình có tên là Dao-Ánh-Hướng-Dương nhưng đã mang được
những giá trị phổ quát toàn nhân loại: tình yêu, tình người, niềm
tin vào con người, lòng hướng thượng, sự thức ngộ chân lý, sự
đấu tranh vì hòa bình, tự do…
Có khá nhiều hình ảnh, nhiều câu từ trong nhạc Trịnh đã
được cảm và hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn như vậy nhờ được
giải mã qua “Thư tình gửi một người”. Vẻ đẹp của người tình
trong nhạc Trịnh thường là vẻ buồn đẹp, tuổi buồn, mắt buồn,
tóc buồn, tay buồn. Trong một lá thư gửi Trịnh Công Sơn, Dao
Ánh dù còn trẻ nhưng đã sớm nhận ra lẽ vô thường trong màu
mắt buồn của mình: “Ôi màu mắt rồi cũng có ngày đổi màu như
thế” (thư Blao, 27/10/1964). Và thư Trịnh Công Sơn khi cảm tác
về thành phố Đà Lạt đã thốt lên: “Đêm Đà Lạt cũng buồn như
mắt Ánh ngàn năm” (thư Đà Lạt, 21/3/1965).
Trong ca khúc “Còn tuổi nào cho em”, Trịnh Công Sơn đã
vận hết bao vẻ đẹp của trời, của mây để đặc tả vẻ đẹp mắt buồn
Dao Ánh: “Trời xanh trong mắt em sâu, mây xuống vây quanh
giọt sầu”, “Tuổi nào mơ kết mây trong sương mù”. Câu hát với
hình ảnh lãng đãng “tuổi nào mơ kết mây trong sương mù” đã
được Trịnh Công Sơn cắt nghĩa qua thư gửi Dao Ánh: “Ánh có
buồn lắm không. Hãy ngước mắt lên cho anh nhìn. Mây sẽ kết
trên vùng mắt đó. Anh đã nói như thế trong lời ca Còn tuổi nào
cho em cho Ánh, có bằng lòng thế không?” (thư Blao,
31.12.1964).
Người nhạc sĩ say sưa xưng tụng “quê hương thần thoại”
là người yêu quê hương tha thiết, luôn đau đáu với vận nước,
với phận người dân Việt: “Anh nói về đất đai trên quê hương
mình. Một ngày nào đó anh sẽ da du qua những miền chưa hề
ghé đến. Có những buổi sao mình thấy yêu thương quê hương
đến thế này. Da thịt mình như được dựng nên bằng đất đỏ và
tâm hồn như được xây bằng cỏ cây hoa lá, bằng tiếng đàn buồn
bã của dân mình. Bao giờ nhắc lại chuyện quê hương anh cũng
buồn” (thư Blao 23.10.1964).
Cho dẫu buồn đau vì quê hương đang bị chiến tranh tàn
phá khốc liệt, nhạc sĩ vẫn vững tin ở ngày mai tươi sáng của dân
tộc: “Qua lần chiến tranh này quê hương mình cũng sẽ trở lại
với thuở hồng hoang. Anh nhìn về anh và thấy mình cũng sắp
tàn rữa đi để chờ một ngày mới đến”(thư 28.1.1966).
Thuở “hồng hoang” mà Trịnh Công Sơn nói đến trong thư
chính là thuở ban đầu nguyên vẹn, thuở nguyên đán tuyệt vời,
chính là cõi thần tiên, cõi thần thoại bất diệt của quê hương Việt
Nam được vẽ nên đầy ấn tượng trong ca khúc“Xin mặt trời ngủ
yên”:“Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại, thuở hồng
hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai”.
Xuất phát từ lòng yêu quê hương tha thiết, từ niềm tin ở“quê
hương thần thoại” bất diệt, Trịnh Công Sơn đã lựa chọn cho
mình thái độ sống, hành động sống xứng đáng là đứa con Da
Vàng của Mẹ Việt Nam. Đất nước sẽ không có tự do, sẽ không
thoát khỏi thảm cảnh “một ngục tù nuôi da vàng” (Ngày dài trên
quê hương), nếu mỗi người dân Da Vàng không nêu cao ý thức
tự do. Trịnh Công Sơn đã chọn tự do: “Anh còn mừng một điều,
trong những cơn buồn dai - dẳng - thường - trực, là còn có được
tự do, còn biết được chọn lựa với ý nghĩa tròn đầy của nó. Ôi
khi con người không còn sự chọn lựa thì tự do đã bị tước đoạt
hoàn toàn… Con người sẽ được một lần làm con - người - là -
người cho đỡ tủi hổ số phần mình đã bị vứt ra đó” (thư Đà Lạt
19.9.1964).
Lựa chọn tự do, con người được sống với bản ngã, với lập
trường của mình: “Nếu mình sống thực với bản chất mình thì đó
đã là một khí giới công hiệu nhất để đánh bẹp mọi lời gièm pha.
Mình phải dám mang cả sự sống của mình đánh cá với đám
đông không có lập trường đó. Mình dựa trên thực chất của bản
ngã mình để đánh đổ đám người không có một bản ngã duy nhất
để dựa vào. Thế nào rồi mình cũng thắng. Con người phải có
một cái gì rất thực để hãnh diện vì mình đã thực hiện đúng sứ
mệnh của đời sống, của condition humaine(thân phận làm người
- chú thích của người hiệu đính sách)” (thư Đà Lạt 20.9.1965).
Từ sự lựa chọn tự do đó, lô gích tất yếu dẫn Trịnh Công
Sơn đi đến quyết định phản chiến: “Bao giờ có tin chắc chắn về
chuyện đi lính của anh, anh sẽ cho Ánh hay. Sẽ có dịp để đặt
mình vào những giới hạn khác. Sẽ bắt đầu một cuộc đời học trò
gian nan hơn. Sẽ bỏ vào lòng súng từng viên đạn phi lý để nhắm
vào đầu vào mắt vào tim nhau. Anh đã hèn nhát hay vì chiến
tranh này quá thô bạo. Nhưng thôi anh sẽ câm bớt lại. Trong xã
hội này lý lẽ của kẻ yếu bao giờ cũng dễ biến thành những lời
ngụy biện” (thư Blao 26.2.1965),“Tên anh đã có trong khóa
20… Một cuộc chiến tranh khốc liệt, tàn nhẫn mang sẵn từ khởi
đầu những mầm mống vô lý cùng cực của nó, anh đang lao đao
trên một chọn - lựa - quyết - định cuối cùng” (thư Đà Lạt
21.3.1965).
“Thư tình gửi một người” như vậy đã vượt qua giới hạn
của những bức thư tình riêng tư, nói như nhà thơ Nguyễn Duy,
“mối tình cụ thể không còn nhưng một mối tình biểu tượng vẫn
còn mãi” (2), giúp giải mã ca từ, soi chiếu con người và thế giới
nghệ thuật Trịnh Công Sơn. Nó sống cùng những biểu tượng
trong nhạc Trịnh, những biểu tượng về Trịnh và nó giúp soi
chiếu những biểu tượng đó càng thêm lấp lánh, đúng như một
quy luật của cái đẹp, của mỹ học mà nhà thơ Thôi Hộ thời
Đường đã phát hiện: “Nhân diện đào hoa tương ánh hồng” (Hoa
đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng).
NGUYEN HOAN
Đã từ lâu tôi không dám viết về Trịnh Công Sơn (TCS), một - vì đã có quá nhiều
bài viết về ông, bài nào cũng có cái hay riêng, hai - vì ông quá lớn, viết về ông sao
không bị bạn đọc coi là “ăn theo” tên tuổi người nổi tiếng là điều nên tránh (mặc
dù, cách đây gần 30 năm, tôi đã viết và lần đầu ở phía Bắc, trên tờ Nhân dân Chủ
nhật, do ông Lê Thấu phụ trách, đã in bài viết ấy).
Nhưng tháng tư này, tôi bỗng muốn viết về ông đến mức quên cả nỗi ngại ngùng.
Bắt đầu, có lẽ vì tôi nghe các ca sĩ hát sai lời so với bài hát gốc, đến phát tức. Càng
yêu nhạc Trịnh và giọng hát của ca sĩ bao nhiêu thì nỗi tức càng lớn bấy nhiêu.
Nhạc Trịnh, chủ yếu là giọng la thứ, khúc thức tưởng như giản lược nhưng làm nên
sự ma mị, liêu trai, ám ảnh thì không phải dễ. Càng nghe càng say, càng mê. Chỉ
trên các note và giai điệu căn bản ấy của Trịnh mà các nhạc sĩ hòa âm phối khí có
thể khai thác vô biên để làm ra những nhạc phẩm khác nhau, song vẫn mang hồn
cốt Trịnh, vẫn là của Trịnh (trong đó có thể nhắc đến các bản phối theo phong cách
Jazz của nhạc sĩ saxophone Trần Mạnh Tuấn). Theo tôi, các bản phối có thể thay
đổi theo với ban đầu, thời ca sĩ hát nhạc Trịnh với chiếc ghi ta gỗ, nhưng ca từ thì
theo tôi tuyệt đối không. Không phải chỉ vì pháp luật về quyền tác giả không cho
phép mà vì ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là không thay đổi được, thay đổi sẽ
làm yếu đi, xấu đi, sai lệch tinh thần tác phẩm, làm mất đi sự tinh tế vốn là đặc
trưng, là thế mạnh, là điểm nhấn làm nên tên tuổi của ông.
Không ít người đã nói âm nhạc của TCS có sức “công phá” rất lớn, công phá mềm,
nó khiến cho tâm hồn rung động, vùng mờ của trí não được mở ra. Tôi cắt nghĩa về
điều đó rằng, sở dĩ: Vì âm nhạc của Trịnh nghe mãi cũng khó chán, càng nghe
càng có thể phát hiện thêm vẻ đẹp sâu sắc của ca từ, càng nghe càng nhận ra sự
tinh túy của xúc cảm trong từng lớp ngữ nghĩa.
Trong một ca khúc quen thuộc “Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em/ Lênh đênh ngàn
mây trôi êm đềm/ Chiều nay nếu em đừng hờn dỗi/ Trách nhau một lời thôi/ Tâm
hồn mình đâu lẻ đôi…”. Cũng là một câu chuyện tình được kể bằng hình ảnh và âm
nhạc, logic về ngữ nghĩa, giai điệu đẹp nhưng ngôn từ chỉ là một mặt phẳng.
Nhưng ca từ Trịnh Công Sơn thì khác, ngôn từ có nhiều chiều kích: “Dài tay em
mấy thuở mắt xanh xao”(Diễm xưa); Gọi nắng trên vai em gầy/Đường xa áo bay...
Áo xưa dù nhàu vẫn xin bạc đầu gọi mãi tên nhau (Hạ Trắng); “Chiều trên quê
hương tôi. Nắng khép cánh chia tay một ngày/Vết son vàng cuối mây/Tiếng chân
về đó đây/Chiều đi nhưng nắng vẫn cho đời/Lửa bếp hồng khơi”; hay: “trên hai vai
ta đôi vầng nhật nguyệt, gọi suốt trăm năm một cõi đi về”…là những từ được dùng
trong một cấu trúc câu mà không dùng lý để suy luận. Vẫn là những từ ngữ của đời
nhưng TCS đã dùng như người họa sĩ dùng chất liệu để đưa chúng đi xa hơn, làm
nên một bức tranh siêu thực, ẩn dụ, tượng trưng, lãng mạn, ấn tượng…khiến cho
người nghe có thể cảm thụ được nhiều hơn “ chiều kích” cụ thể của ngôn từ khi
cho chúng đứng chung thành một tổ hợp câu.
Khi tôi hát lên, chỉ một vài câu sau đây: “người ngồi xuống xin mưa đầy. Trên hai
tay cơn đau dài, người nằm xuống nghe tiếng ru. Cuộc đời đó có bao lâu mà hững
hờ”. Hay "Người chia tay nhau cuối đường/ Ngày đi đêm tới/ Nghe tiếng hư
không" (Nghe những tàn phai). Cho đến:"Nhìn những mùa thu đi/Em nghe sầu lên
trong nắng/ Và lá rụng ngoài song/Nghe tên mình vào quên lãng/Nghe tháng ngày
chết trong thu vàng", đã thấy cái khác, rất khác của ca từ TCS. Người ta thường
nghe tiếng động (âm thanh) nhưng ông thì nghe tàn phai (không phải là tiếng
động), mà người thưởng thức lại thấy, tàn phai có thể nghe được. Đó là khả năng
dùng chữ của bậc thày.
Âm nhạc của TCS đã tác động, ngay cả khi trình tấu không lời, nhưng ca từ cũng
để lại ấn tượng sâu đậm không kém trong tâm khảm, sẻ chia và an ủi được nhiều
thế hệ, tầng lớp công chúng. Không tưng bừng, cũng không ảo não, nặng ưu tư mà
không riết róng. Tôi nghĩ, TCS đã làm tiếng Việt phong phú lên rất nhiều khi ông
kết hợp từ làm nên một từ mới đa nghĩa hơn, tinh túy hơn có trường liên tưởng
rộng hơn.
Rất nhiều tác phẩm của TCS đã được người đời bình luận, ở đây tôi xin nói tới một
số bài, ít được nói tới: Tình khúc Ơ- bai. Ngay lần đầu nghe bài hát này tôi đã thích
những từ ông dùng ở đây, và tôi cảm nhận rằng ông “bày tỏ” một cảm xúc của tác
giả (ngôi tôi) trước một mối quan hệ tương tác (tôi) với một ai đó, có kết cục là
chia tay (bye bye). Ông không viết bye bye (bai bai) mà viết Ơ - bai. Ông không
viết chúng ta khác nhau quá xa, mà viết “Tôi đi bằng nhịp điệu một hai ba bốn
năm/ Em đi bằng nhịp điệu sáu bảy tám chín mười…làm sao ta gặp được nhau”.
Một bài khác: “ Một người về đỉnh cao một người về vực sâu để cuộc tình chìm
mau như cánh chim cuối đèo”. Đó là những bài hát, tôi thường hát lên trong lòng
mỗi khi vấp phải một cuộc tranh luận không có hồi kết, hay khi chia tay một ai đó,
một người tình hoặc một đồng nghiệp. Nó giúp tôi lấy lại bình tĩnh, giúp tôi nhìn
thấy cuộc đời là vô thường để tiếp tục suy tư vào cõi đẹp và bình yên.
Còn bài nữa, khiến tôi thường hay nghĩ đến TCS với số phận và những riêng tư của
ông hơn cả, đó là: “Muốn một lần tạ ơn với đời. Chút mặn nồng cho tôi. Có những
lần nằm nghe tiếng cười, nhưng chỉ là mơ thôi”. Tôi đồ chừng đó là giấc mơ của
chính tác giả, nhưng những người khác, họ lại bảo rằng, đó là ông viết cho họ, ông
thay họ nói lên tiếng lòng của người mơ được làm cha, làm mẹ, mơ có cuộc tình
dài lâu, cuộc tình với một kết thúc có hậu, mặn nồng với tiếng trẻ thơ trong đêm…
Hay những câu: “Môi nào hãy còn thơm/cho ta phơi cuộc tình? Tóc nào hãy còn
xanh/cho ta chút hồn nhiên/Tim nào có bình yên ta rêu rao đời mình/Xin người hãy
gọi tên”. Cũng gợi cho không ít người những kỷ niệm đời người.
Mới đây, nhắc về TCS, nhạc sĩ Tình đất đỏ miền Đông, Trần Long Ẩn (hiện là Phó
Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Chủ tịch Hội Âm nhạc Tp. HCM); một người có
nhiều thời gian cùng làm việc ở khuôn viên 81 Trần Quốc Thảo (Hội Âm nhạc Tp.
HCM) với TCS, đã nói với tôi: Có lẽ người hiền nhất trong những người hiền, đó
là Trịnh Công Sơn, lừa TCS rất dễ. Trần Long Ẩn bắt chước giọng Huế của Trịnh
rất giống, ông kể khi ông bảo có người chê ca từ của Trịnh không cập nhật đời
sống, cần sửa hoặc biên tập lại thì TCS ngơ ngác hỏi: “Rứa ư? moa không biết làm
cách chi để sửa, sửa ra răng? Thôi, cứ để vậy đi, moa đã viết vậy cứ vậy. Còn toa
thì toa sửa sao? ”. Trần Long Ẩn nhìn thấy đôi mắt thơ ngây của Trịnh mà thêm
yêu bạn, rồi ông bảo rằng: Toa viết “ Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng/ ngày
sau sỏi đá cũng cần có nhau” phải không? Giờ người ta đổi là: “Xin hãy cho mưa
qua miền đất rộng/ngày sau sỏi đá nó dùng ném nhau”. “Ui cha, vậy hử”. Trịnh
cười ngạc nhiên. Trong túi của TCS lúc nào cũng có một chai rượu…
Có lẽ ông còn ngạc nhiên hơn nữa, khi nghe họ hát nhại bài Huyền thoại mẹ:
“Đêm chong đèn ngồi nhớ rượu/ Buộc hai cẳng phải đi/ Vợ dù nói năng chi/ ta
cũng đi cho bằng được/Vợ là vợ mà ta là ta...”. Âm nhạc Trịnh Công Sơn đi vào
đời sống, giống như bánh mỳ hè phố, cơm bình dân, gần gụi hết sức với mọi
người, ngoài việc thích nghe bản chuẩn, người ta còn nhớ giai điệu rồi chế lời để
hát. Việc chế lời, sẽ bàn ở dịp khác, nhưng việc hát sai từ thì…thật khó chịu. Với
tác giả, và nhất là với một người hiền tài như Trịnh Công Sơn, có lẽ ông chỉ “ui
cha? Vậy hử”, nhưng với những người đã mê nhạc của ông, coi đó một dòng nhạc
riêng biệt gọi là nhạc Trịnh thì không chấp nhận được. Ví dụ, “Áo xưa dù nhàu
vẫn xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”, mà hát “Áo xưa dù nhiều vẫn xin bạc đầu gọi
mãi tên nhau”, thì không tức mới là lạ. Hay câu: “Con tinh yêu thương vô tình
chợt gọi/ Lại thấy trong ta hiện bóng con người”, thì lại hát “Con tim yêu thương
vô tình chợt gọi/ lại thấy trong ta hiện bóng con người”. Chỉ đổi chữ tinh thành
chữ tim đã làm cả câu hát vừa rồi có vẻ khá vô nghĩa. Thứ nhất, ở Huế có con tinh
(giống như con ma tinh quái). Trịnh Công Sơn dùng chữ của Huế, nhưng cũng vẫn
chứa đựng chữ của mọi miền: tinh là tinh thần; rộng hơn chữ tim rất nhiều. Có rất
nhiều ví dụ về hát sai từ khác, chỉ xin nêu ở đây như vậy.
Trịnh Công Sơn cũng là người của hội họa. Tranh của ông cũng chứa đựng nhiều
tâm sự. Tôi thích 2 bức, bức cô gái người Nhật và bức Hoa thạch thảo…Ngày ấy
tôi làm báo ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nhận được Giấy mời tham dự triển lãm
tranh của ông cùng với Lý Quý Chung (tức nhà báo Chánh Trinh, tổng Thư ký báo
Lao động một thời và trước nữa là Bộ trưởng Bộ Thông tin của Sài Gòn), và
Nguyễn Quang Em. Mỗi người một bút pháp. Triển lãm của ba ông có nhiều người
đến chúc mừng, có lẽ không thiếu một tên tuổi nào của Tp. HCM, nhưng nhiều nữa
là người đẹp, nhìn họ đẹp mà choáng ngợp. Khi tôi còn đứng lớ rớ ở một nơi, chú
tâm vào xem tranh, không bén mảng đến chỗ ba ông đang rất nhiều người vây
quanh, thì bỗng nghe ông gọi: Trường có muốn chụp với tôi một tấm hình không?
Dạ có, có muốn lắm. Thế là ông gọi người chụp ảnh đang đứng gần đó, chụp đi
nào, anh bạn. Bức ảnh nay đã quá cũ và tưởng chừng đã thất lạc bởi thời gian cùng
những lần chuyển nhà của tôi…Ngày 1.4.2001, vào buổi trưa, lúc 11 giờ 45 phút,
tôi nghe tin TCS mất. và tôi nghĩ, có lẽ ông ra đi thanh thản: “ như đồng lúa gặt
xong”. Đến lúc ông về soi bóng mình ở nơi đâu đó với một tự nhủ rằng: “chén
rượu tôi uống hoài/trả lại từng tin vui cho nhân gian chờ đợi”. Vâng, ông là người
uống rượu. Nhưng ông đã để lại cho đời hơn 600 bài hát. Bức ảnh chụp với ông là
kỷ niệm duy nhất và vẫn có nguy cơ thất lạc, nhưng âm nhạc của ông thì mãi mãi
trong tôi và có thể mãi mãi với thời gian như bánh mỳ, như cơm, như không khí
của con người.
[1]Được Phong T. Nguyen trích dẫn trong phần “Giới thiệu” của cuố
New Perspectives on Vietnamese Music (1991, vi). Ngu
Trãi là một thi sĩ và là một nhà cố vấn quân sự cho Lê
người đã đánh bại quân Trung Quốc vào năm 1427 và
Lợi] xưng vương vào năm 1428.
[2]Những thuật ngữ có thể khó hiểu khi nói về những v
của Việt Nam. Sự phân chia tạm thời tại vĩ tuyến 17 từ
năm 1954 đến năm 1975 thành Việt Nam Dân chủ Cộn
hoà và Việt Nam Cộng hoà phân đôi miền trung. “Nam
Nam” hay Việt Nam Cộng hoà vì vậy bao gồm những n
Việt từ miền trung và miền Nam Việt Nam (và cả nhữn
người bắc di cư). Người Việt Nam thường nói đến khu v
nam của vĩ tuyến 17 là Miền Nam. Tôi sẽ gọi vùng đất
là Nam Việt Nam, hay là miền Nam, và với miền nam c
Nam Việt Nam (Nam Bộ) là nam Việt Nam. Tương tự,
“người miền Nam” là nói đến những người sống phía n
của vĩ tuyến 17, “người nam” là những người sống ở N
Bộ.
[3]Xem phần “Máy cassette” của tôi về phần thảo luận
cụm từ “ca sĩ nổi tiếng” (popular singer) của tiếng Anh
đúng với trường hợp của Trịnh Công Sơn ra sao.
[4]Đa số sách về Trịnh Công Sơn xuất bản sau khi ông
đời bao gồm những bài viết mới cũng như những tái bả
của những bài viết được xuất bản trước đó. Sau cùng,
trong những phần trích dẫn – ngày tháng trong bài viế
này, tôi trước tiên đưa ra ngày tháng của những tuyển
mà các bài viết được in lại, rồi mới đến ngày mà chúng
được xuất bản lần đầu tiên.
[5]Về những tài liệu về thời trẻ tuổi của Trịnh Công Sơ
dựa vào Đặng Tiến 2001a, Hoàng Phủ Ngọc Tường
2001/1995, Nguyễn Đắc Xuân 2001, Nguyễn Thanh Ty
2001 và 2004, Nhật Lệ 2001/1999, Trịnh Cung 2001,
Sâm Thương 2001.
[6]Tôi đôi khi sẽ nhắc đến Trịnh Công Sơn là Sơn, tên c
ông, để tránh việc lặp lại hoàn toàn tên đầy đủ của ôn
Đối với người Việt, việc sử dụng họ để gọi một người k
thường được dùng. (Trong bài dịch này, người dịch sử
tên đầy đủ của Trịnh Công Sơn, thay vì chỉ gọi Sơn nh
giả đã chú thích – ND)
[7]Đặng Tiến trích dẫn 2001a, 10. Nguyên gốc là Trịnh Công Sơn
Nhạc và đời (Hậu Giang: Tổng hợp).
[8]Xem phần Chú thích II, bài “Diễm Xưa”, “Đại bác ru
đêm” và “Một cõi đi về”. Các bản dịch [sang tiếng Anh
14 bài nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, xem Do V
Tai và Scigliano 1997.
[9]Trong phần Chú thích I, tôi đưa ra tất cả các tựa đề
tiếng Việt của tất cả những bài hát tôi nói đến [trong b
viết này].
[10]“Giọt mưa thu” là một bản nhạc tiền chiến. Xem gi
thích trong đoạn văn kế tiếp.
[11]Để tìm hiểu bài hát này và ảnh hưởng của người sá
tác ra nó, xem Phạm Duy 1994, 80-87; bản dịch sang
tiếng Anh, xem Gibbs 2003a.
[12]Sự khác biệt giữa “âm nhạc cải cách” và “nhạc tiền chiến” khôn
sự rõ ràng. Như Gibbs giải thích, “Trong những năm gần đây những
hát này [nhạc cải cách] được gọi là nhạc tiền chiến” (2001a).
nhiên, như tôi nói, đa số mọi người coi những bản nhạ
tiền chiến là phạm trù lãng mạn của nhạc cải cách.
[13]Ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn chứng tỏ rằng ông
không “chỉ là” nhạc sĩ sáng tác, nhưng theo truyền thố
Việt Nam, thi sĩ là những người được [xã hội] coi trọng
những người theo nghề xướng ca.
[14]Những nhạc sĩ Việt Nam thường khó cưỡng lại hình
lá rơi [trong những bài hát của mình]. Theo Nguyễn Tr
Tạo, 50 trong số 100 bài tân nhạc được yêu chuộng nh
(top 100) dựa trên một cụm từ được lặp đi lặp lại là ‘lá
(2002, 13).
[15]Trịnh Công Sơn đã nói với Tuấn Huy rằng “Những n
còn đi học, moa chỉ cầm tập thơ của Apollinaire lâm râ
đọc từng lời thơ trác tuyệt và nhìn mơ màng ra những
mây trắng bay ngoài cửa sổ” (trích dẫn trong Tuấn Hu
2001, 31).
[16]Để biết thêm thông tin về “triết lý nhẹ nhàng” của
Trịnh Công Sơn, và cả những ảnh hưởng của Phật giáo
chủ nghĩa hiện sinh, xem Schafer (2007). Xem bản dịc
tiếng Việt trên talawas (ND).
[17]Chính Phạm Duy tìm âm hưởng của thơ Đường tron
những sáng tác đầu tiên của Văn Cao và trong những
tác đầu tiên của chính ông (1993, 13).
[18]Ca trù, còn được gọi là hát ả đào, là thú tiêu khiển của
những người đàn ông có học; họ đến những nhà hát ả
để nghe hát những bài thơ cổ và những bài thơ do chín
sáng tác.
[19]Đây là những nhạc cụ truyền thống được sử dụng khi hát ca tr
Nguồn: The Journal of Asian Studies Vol. 66, No. 3 (August) 2007
597-643
bản để in Gửi bài này cho bạn bè