You are on page 1of 7

1.

VIẾNG LĂNG BÁC


“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”
Nỗi mong chờ, ao ước của đồng bào được Bác vào thăm đã không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao
niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương- nhà thơ trẻ miền Nam khi ra thăm lăng Bác đã
thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già của dân tộc. Với sự xúc
động ,bồi hồi, nghẹn ngào, nhà thơ đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác”.

Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, giản dị. Thơ ông lay
động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ mộc mạc mà sâu sắc. Bởi “Viễn
Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc
lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh” (Nhà văn, nhà báo Mai Văn Tạo). Bài thơ “Viếng lăng
Bác” được sáng tác năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào thăm
lăng Bác. Bằng tình cảm chân thành, bình dị của một người con miền Nam cùng cảm xúc nồng ấm, thiết tha,
nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ này như một sự tinh đọng của một quả chín tròn mọng, ngọt ngào, như
sự tươi tắn ngát hương của một đóa hoa đẹp hay như màu xanh thắm và độ rắn rỏi, thẳng thắn của loài tre quê
hương giàu phẩm chất trước nỗi niềm xúc động và thành kính vô hạn đối với Bác. Đó là tất cả tình cảm chân
thành, tha thiết của nhà thơ, mang ý nghĩa của lời tuyên thệ: sẽ làm người hữu ích cho đồng bào và thể hiện lòng
trung thành với Tổ quốc quê hương cho xứng đáng với lòng kỳ vọng của Bác - vị lãnh tụ vĩ đại muôn vàn kính
yêu của dân tộc.

Những vần thơ bình dị, thiết tha đều đặn, từ tốn vang lên như chất chứa cả một niềm mong mỏi, chân thành của
đứa con vòng tay thành kính trước những gì cao cả, thiêng liêng nhất:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Cách xưng hô của tác giả trong câu thơ đầu tiên này thật đặc biệt. Đó là cách xưng hô “Con” – “Bác” rất gần
gũi, thân thương của người dân Nam Bộ. Dường như nó đã xoá tan đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ
đại và một công dân. Bởi vì trong thâm tâm mọi người, Bác là người cha kính yêu:
“Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ”
(Tố Hữu)

Trong những dòng thơ đầu tiên cất lên của Viễn Phương, cụm từ “ở miền Nam” như thông báo cho Bác biết
rằng người con ấy đến từ một nơi rất xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời chiến đấu
gian khổ chỉ mong có ngày giành được độc lập, thống nhất, mảnh đất mà Bác vẫn luôn đau đáu một nỗi nhớ một
niềm mong. Động từ “thăm” cũng như một sự nói giảm nói tránh hay mặt khác còn là sự đấu tranh, đối lập giữa
lí trí và thể xác. Dù nhà thơ không muốn tin Bác đã mất rồi nhưng sự thật hiện tại vẫn là thế. Tiếp đến lăng Bác,
hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp thoáng bóng dáng quen
thuộc của làng quê:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Từ cảm thán “Ôi” biểu thị bao niềm xúc động tự hào về hàng tre trước lăng Bác. Với biện pháp ẩn dụ hàng tre
bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ của Bác. “Hàng tre xanh
xanh” mộc mạc nhưng “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” đã nhấn mạnh sức sống bền bỉ của tre xanh hay cũng
chính là của dân tộc Việt Nam. Hàng tre nơi lăng Bác, hàng tre trong thơ Viễn Phương thân thuộc mà thiêng
liêng đến thế!

Từ những hàng tre thẳng hàng canh giấc ngủ cho Bác, ngày ngày nơi lăng Bác, nhà thơ khắc họa những hình
ảnh thiên nhiên như ánh mặt trời vẫn sáng soi:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Theo vòng quay tuần hoàn của tạo hóa, ngày ngày có một mặt trời đi qua trên lăng, chợt ngỡ ngàng cúi mình
chiêm ngưỡng những ánh sáng chói lọi, rực rỡ, đỏ một màu chứa chan tình thương của một mặt trời bình yên,
thanh thản trong lăng kia tỏa ra. Với nghệ thuật liên tưởng, ẩn dụ đặc sắc, Viễn Phương đã khéo léo ví Bác như
một mặt trời rạng rỡ, đỏ rực. Một ngày qua, ông được chiêm ngưỡng hai ánh mặt trời tỏa sáng ngời ngời, rực rỡ
cả một không gian nhuộm thắm sắc đỏ, chứa chan dòng chảy thành kính vô tận của hàng vạn con người: Mặt
trời vũ trụ – Mặt trời chân lí. Mặt trời của vũ trụ ngày ngày chiếu sáng, sưởi ấm cho thế gian, để hoa nở rộ, để
trái chín cành, để người người hớn hở làm việc, để chim trỗi lên những khúc nhạc tươi vui. Thế nhưng luồng
ánh sáng rực rỡ vĩnh viễn của vũ trụ cũng im lặng thao thức trước một mặt trời của chân lý cao cả – Bác Hồ.
Trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Bác xuất hiện như vầng dương dần nhô lên giữa rặng núi xa xăm, xua
tan đi bóng đêm mù mịt tăm tối bao trùm, quét sạch hơi đông lạnh lẽo, đớn đau, bẻ gãy đi mọi cùm gông, xiềng
xích. Để rồi, dưới hơi ấm của chân lý bừng chói rực rỡ, những đời nô lệ câm lặng lại ngào ngạt nở hoa để mỗi
kiếp người lại hăm hở, sung sướng được trọn vẹn làm người. Trái tim Bác như vẫn luôn rất đỏ một tình yêu
mênh mông, vô tận. Và dòng sữa ngọt ngào, ấm áp một tình thương nồng nàn, cháy bỏng từ con tim vĩ đại ấy
chảy ra ôm ấp bao phủ cả núi đồi, rừng cây, lại ươm mầm, ấp ủ từng góc lúa, lại vun xới, hồi sinh từng kiếp
người. Theo ánh sáng giục giã, thôi thúc đuốc sống chân lí ở phía trước, cả dân tộc dưới sự dìu dắt của Bác đã
tiến lên, chống lại kẻ thù hùng mạnh, tàn bạo. Và trong đớn đau, một sức mạnh mãnh liệt, dữ dội đã được Bác
thắp lên trong mỗi trái tim quặn thắt của người dân lầm than, cơ cực. Bóng hình Bác lồng lộng được chắp cánh
bát ngát bay lên, vĩ đại đã che chở, dẫn dắt cho cả dân tộc vượt qua tăm tối đêm trường để đến với một nền tự do
huy hoàng, rạng rỡ:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non song, mọi kiếp người!”
(Tố Hữu)

Để rồi giờ đây, tại chốn Người yên nghỉ, ngày ngày là dòng người đi trong thương nhớ:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Đây là một hình ảnh tả thực diễn tả dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn.
Nhưng bên cạnh đó, đây cũng là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, một sự sáng tạo của nhà thơ. Cuộc đời của mỗi chúng
ta đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang dâng lên Người những gì đẹp nhất. Đó
cũng là sự tri ân của dân tộc đối với Bác. “Bảy mươi chín mùa xuân là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng
trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân, đã làm nên bao
mùa xuân đẹp cho đất nước, cho dân tộc.

Niềm biết ơn thành kính trong lòng tác giả và dòng người vào lăng viếng Bác đã chuyển sang niềm xúc động
nghẹn ngào khi đứng trước di hài Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh về sự ra đi của Người. Giấc ngủ mà tác giả
nhắc đến ấy cũng khiến ta bồi hồi suy ngẫm. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Bác chưa bao giờ có một
giấc ngủ trọn vẹn: “Đêm nay Bác ngồi đó / Đêm nay Bác không ngủ / Vì một lẽ thường tình / Bác là Hồ Chí
Minh.” (Minh Huệ) Liên tưởng đến câu thơ này càng khiến ta thêm nghẹn ngào, thành kính trước giấc ngủ ngàn
thu đã phần nào yên giấc của Bác. Và ánh sáng dịu nhẹ trong lăng Bác gợi một liên tưởng thú vị tới hình ảnh
vầng trăng. Trăng-một người bạn tri kỉ của Bác: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ / Việc quân đang bận xin chờ hôm
sau” (Báo Tiệp), trăng khi kháng chiến, trăng trong nhà lao, trăng ngoài chiến trận và giờ đây trăng đến bên
người đẻ vỗ về giấc ngủ ngàn thu. Cùng với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ Viễn Phương muốn tạo ra một hệ
thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Vầng trăng dịu hiền hay chính là tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Bác
rực rỡ như mặt trời, Bác dịu hiền như ánh trăng. Bác đã hóa thân vào thiên nhiên đất trời dân tộc, sống mãi trong
sự nghiệp và trong tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.”
(“Bác ơi!” - Tố Hữu)
Dù vẫn biết là như vậy nhưng người con Viễn Phương không thể không đau xót trước sự ra đi của Người. Nỗi
đau xót đã được biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau quặn thắt, tê tái như
hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ. Bởi về lí trí, Bác đã
ra đi thật sự nhưng về tình cảm, Người vẫn đang hiện hữu trong trái tim mỗi người con Việt Nam và trong lòng
dân tộc.

Nhưng rồi cuộc sum họp nào rồi cũng chia lìa, đứng trước lăng Bác trong niềm cảm xúc vô bờ, chạnh nghĩ đến
việc trở về miền Nam nhà thơ đã không kìm được nỗi niềm thương nhớ:“Mai về miền Nam thương trào nước
mắt”.Thương, thương đến trào nước mắt, đó chính là tình thương của nhân dân Việt Nam, của miền Nam ruột
thịt dành cho Bác trong giây phút này, giây phút lặng người trước sự hi sinh to lớn của Bác… tất cả như im
lặng… lặng im… Những cảm xúc bị dồn nén bỗng trào dâng “thương trào” thật tự nhiên, thật chân thành. Và
trong phút chốc ấy, nhà thơ như muốn hóa thân:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Âm hưởng bài thơ được nhấn mạnh lên qua điệp ngữ “muốn làm”. Hình như có một sức mạnh vô hình nhưng
mãnh liệt níu kéo lòng ta ở lại. Phải chi ta có thể biến thành những gì thân yêu quanh nơi Bác yên nghỉ, để có
thể hằng ngày nhìn thấy Bác, nhìn thấy cả tấm lòng của người lãnh tụ vĩ đại, bao dung. Ước gì ta có thể làm một
con chim nho nhỏ góp tiếng hát của mình vào những buổi bình minh nơi lăng Bác. Hay ước chi ta được làm một
bông hoa dân tộc nở quanh lăng của Người. Và phải chi một ngày nào đó ta sẽ trở thành một cây tre bên những
hàng tre xanh tỏa bóng mát dịu dàng nơi lăng Bác. “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta/Ta bỗng lớn ở bên
Người một chút”. Ước chi… ước chi… điều ước duy nhất là tiếp bước con đường, đi theo lý tưởng của Bác
trong công cuộc xây dựng đất nước. Câu thơ kết thúc trầm lắng nhưng sao tâm hồn nhà thơ lại vút lên cao. Nỗi
thương nhớ, sự tự nguyện giờ phải biến thành những gì có thật hơn, những gì mà có thể cống hiến cho quê
hương, Tổ quốc, để muôn đời xứng đáng với những gì Bác đã làm cho dân tộc.
Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị,
mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng. Đặc
biệt, tác giả sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ,. ‘Bốn khổ thơ, khổ
nào cũng đầy áp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm
hồn con người. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tang thi ca viết về chủ tịch
Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.”. Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc ấy, nhà
thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc
viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy
Bác kính yêu ra đi.
Đã có rất nhiều áng văn thơ bất hủ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng sáng ngời của Người, “Viếng lăng Bác”
của Viễn Phương xứng đáng góp mặt trong những tác phẩm thi ca xuất sắc nhất viết về Bác, bằng tình cảm trân
trọng, kính yêu của người con miền Nam, Viễn Phương đã nói lên tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam
dành cho vị cha già dân tộc. Bác sẽ luôn là mặt trời sáng nhất, ấm áp nhất trong trái tim mỗi con người Việt
Nam. Hình ảnh về Bác, về sự nghiệp và cuộc đời của Bác đâu chỉ gây xúc động cho Viễn Phương, cho con
người, dân tộc Việt Nam mà còn là người truyền cảm hứng cho rất nhiều con người, dân tộc trên thế giới, viết về
Người, đúng như nhà thơ người Cu Ba từng viết: Hồ Chí Minh - tên người là cả một miền thơ.

Bài mẫu 2
Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà
văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong
thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm
xúc nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một
người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.

Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện khá nhiều trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày còn
trong thời gian chiến đấu. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về
Bác Hồ. Cả bài thơ chứa đựng trong đó là nỗi niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân
tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở lời chào giới thiệu với chúng
ta, với Bác Hồ kình yêu rằng:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác


Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Không như những nhà thơ khác dùng lời mời chào mỹ miều để miêu tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng
sự chân thành nhất của mình để giới thiệu. Tác giả ở tận miền Nam xa xôi, mãi tới hôm nay, sau ngày độc lập dân
tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong
khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc.

Và sự viếng thăm của nhà thơ như là một mong mỏi từ lâu để được ra viếng lăng Bác Hồ. Bác Hồ đã ra đi từ năm
1969 nhưng mãi đến tận năm 1976, Viễn Phương mới được trở ra Bắc để thăm Người. Nói là thăm, nhưng thực ra là
một cuộc viếng thăm lăng của Người bởi Người đã ra đi từ lâu.

Nhưng ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ “viếng” như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ
“thăm”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của
mình. Cũng bởi vì, miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần “nhà” mà Bác Hồ luôn đau
đáu vào thăm mà chưa có dịp:

“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà


Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu)

Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang
trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà
ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh
lăng Bác là hàng tre xanh.

Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta.
Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù. Cây tre cứ
thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”.

Không phải bất cứ từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng
lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán.

“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam


Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.

Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao
năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một
lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh”được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh”màu xanh bất diệt.

“Xanh xanh” tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn
mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta. Cả khổ thơ thứ nhất bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu
được tới thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác, nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự
hào dân tộc.

Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm
ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng
nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt
nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.

Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ - Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc
Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng
ấm áp, thì Bác Hồ - mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con
đường cho dân tộc. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố
Hữu cũng đã từng nói:

“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng


Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.(Sáng tháng năm)

Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời
ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên
từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu
tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.

Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã
khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của
thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày”
được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh
lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.

Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người
đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy
cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành
“tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ.

Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy
mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy
mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình.
Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân
tộc được sống trong hòa bình.

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm
biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình
vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên


Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một
niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã
được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.

Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm
trong giấc ngủ yên bình”. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình
một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ


Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương
đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ
ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.

Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang
muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất. Có thể thấy, thơ của Người luôn tràn
ngập hình ảnh của trăng. Ví dụ như:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa


Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Hay:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn giản là muốn nói tới ngọn đèn trong lăng Bác mà còn muốn nói tới vầng trăng
thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một
thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ,
đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã
phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi


Mà sao nghe nhói ở trong tim”

Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng
vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử
của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất
biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”.

Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc
cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm
xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.

Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi
phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã
bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt


Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được
thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo
dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác


Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao
khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm
“một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm
thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.

Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu
với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây
phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.

Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại
bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ
càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý
tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.

Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt
Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự
tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.

Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi,
nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với
Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện
kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả.

Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm
sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước
muốn mà tác giả muốn thể hiện.

“Hồ Chí Minh - Người ở khắp muôn nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự hiện diện của Bác. Bác tuy đã
đi xa nhưng sự hiện diện của Người thì còn mãi trong mỗi người con Việt Nam. Người là vị cha già đáng kính là
“hồn của muôn hồn”. Sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất
của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về. Đó cũng là
lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.

Cùng với bài Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, các em có thể tham khảo thêm một số bài học
khác như: Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác, Viếng lăng Bác là bài ca ân tình cảm động của Viễn Phương, Cảm
nhận của em trước lòng kính yêu tha thiết của nhân dân miền Nam qua bài Viếng lăng Bác, Suy nghĩ của em về bài
thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương.

You might also like