Professional Documents
Culture Documents
Pháp và chống Mỹ. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng
văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Thơ của ông bình dị mà trữ tình, mộc mạc chân chất
nhưng nhẹ nhàng sâu lắng. Tháng 4 năm 1976, lăng Bác được khánh thành, Viễn
Phương được ra miền Bắc viếng thăm lăng Bác. Bao cảm xúc yêu thương dồn nén trào
dâng thành những vần thơ thành kính trang nghiêm. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời
ngay sau đó và nhanh chóng đi vào lòng người đọc bởi cảm xúc chân thành, tha thiết
của nhà thơ. Trong đó, khổ thơ thứ 3 thể hiện nỗi niềm xúc động thiêng liêng của nhà
Cảm hứng bao trùm trong đoạn thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính,
lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng thăm lăng
Bác. Nguồn cảm hứng ấy chi phối cả giọng điệu của bài thơ: thành kính, suy tư, trầm
lắng xen lẫn niềm đau xót, tự hào. Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự không
gian từ xa tới gần. Mở đầu bài thơ Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc của mình khi nhìn
Chỉ vỏn vẹn hai dòng thơ nhưng Viễn Phương đã mang đến cho người đọc những cảm
xúc vô cùng thiêng liêng và xúc động khi cuối cùng tác giả đã được tận mắt chứng
kiến gương mặt của Bác trong giấc ngủ vô cùng bình yên và nhẹ nhàng. Thực ra, vầng
trăng này là một liên tưởng sáng tạo của Viễn Phương, bởi lẽ trong lăng nhưng tâm
hồn Bác luôn có vầng trăng tri kỷ. Tâm hồn Bác là tâm hồn thi nhân, trăng từng làm
bạn với Người trong bao bài thơ khi bị giam cầm, lúc đi kháng chiến... nên giờ đây khi
Người vào "giấc ngủ bình yên" thì dường như trăng lại toả sáng cốt cách thi nhân của
Bác. Toát lên từ khuôn mặt Bác là vẻ đẹp mà tác giả cảm nhận như giấc ngủ bình yên,
giấc ngủ của con người thanh thản vì đã làm tròn sứ mệnh với dân tộc, hoàn thành sự
nghiệp cách mạng của mình. Nhà thơ sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh không chỉ
để giảm nhẹ nỗi đau trong lòng những người con Việt Nam, mà còn để ca ngợi sự ra đi
nhẹ nhàng mà thanh thản của Bác. Không gian trong lăng Bác vô cùng trang nghiêm,
ngời sáng một ánh sáng dịu hiền, như ánh sáng của vầng trăng. Vầng trăng đẹp đẽ ấy
đã từng là một người bạn thân thiết với Bác trong những ngày tháng kháng chiến vô
cùng vất vả và gian lao, vầng trăng ấy đã từng gắn bó với Bác của những ngày đất
nước chưa được hòa bình để rồi giờ đây vầng trăng ấy sẽ tỏa sáng cho giấc ngủ của
Bác được bình yên và nhẹ nhàng. Giờ đây, trăng sẽ là một người bạn, sẽ là một người
lính canh gác cho Bác được ngủ ngon giấc và Bác sẽ chẳng bao giờ cô đơn một mình
vì luôn có trăng và có tất cả những người con của đất nước Việt Nam luôn dõi theo và
Giữa những cảm xúc vô cùng trào dâng và mãnh liệt ấy, cuối cùng Viễn Phương cũng
đã chấp nhận một sự thật rằng, Bác đã đi xa mãi mãi nhưng hình ảnh đẹp đẽ của Người
vẫn luôn nằm một góc nhỏ trong tim không chỉ riêng tác giả mà còn có cả bao thế hệ
để muốn nói rằng giấc ngủ của Bác tựa như trời xanh vậy. “Trời xanh” cũng như “mặt
trời”, “vầng trăng” là những hình ảnh của vũ trụ kì vĩ, vĩnh hằng, là ẩn dụ sâu xa gợi
suy ngẫm về cái cao cả, vĩ đại, bất diệt, trường tồn ở Bác. Bác vẫn còn mãi với non
sông đất nước, như trời xanh còn mãi. Nghệ thuật tương phản giữa "vẫn biết" và "mà
sao" diễn tả sự mâu thuẫn, đối lập giữa lí trí và trái tim. Lí trí thì khẳng định chân lí
muôn thuở Bác vẫn sống mãi trong tâm trí của người dân Việt Nam, vĩnh hằng bất tử,
nhưng trái tim thì vẫn xót xa, nghẹn ngào chấp nhận hiện thực rằng Bác đã ra đi mãi
mãi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "nghe" thấy điều chỉ có thể cảm nhận -
"nhói ở trong tim" giúp khắc sâu, nhấn mạnh nỗi đau như đang quặn thắt, xót xa và
đau đớn vô cùng. Đó là nỗi đau vô hạn, là lòng thương xót rất thật, không lí do nào
khuây khỏa được. Nỗi đau là có thật, xuất phát từ sâu thẳm trái tim của đứa con miền
Nam ra thăm Bác ngày đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Đây là lần đầu tiên Viễn
Phương được gặp Bác. Trong suốt những năm đất nước bị chia cắt, nhân dân miền
Nhưng, niềm mong ước ấy không bao giờ thành hiện thực. Bác đã ra đi khi chưa thực
hiện được niềm mong ước cuối cùng là vào Nam gặp mặt đồng bào, những người con
Như vậy, bằng các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, giọng thơ khi thì tự hào, khi thì xót
xa, tiếc nuối, khổ thơ thứ 3 đã diễn tả một cách sâu sắc niềm xúc động nghẹ nagào của
nhà thơ khi vào trong lăng, đứng trước di hài Bác. Tình cảm ấy không chỉ là của riêng
nhà thơ mà còn là tình cảm chung của bao người dân dành Bác Hồ kính yêu
Viếng lăng Bác đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với
những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể
hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói
riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn
kính thiêng liêng. Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những
thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi
sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn