Professional Documents
Culture Documents
Bài 1. Đai Cương Về Bênh Lao
Bài 1. Đai Cương Về Bênh Lao
Trong suốt lịch sử, bệnh lao đã được biết đến với nhiều tên gọi khác
nhau như "bệnh phthisis" và "bệnh dịch hạch trắng".
Năm 2014, kết quả của một nghiên cứu DNA mới về bộ gen bệnh lao
được tái tạo lại từ hài cốt ở miền nam Peru cho thấy rằng bệnh lao
xuất hiện ở người dưới 6.000 năm trước
Xương người từ thời đồ đá mới cho thấy sự hiện diện của vi khuẩn.
Cũng đã có tuyên bố về các bằng chứng cho thấy tổn thương đặc
trưng của bệnh lao trong hóa thạch của người Homo erectus cách đây
500.000 năm, mặc dù phát hiện này còn gây tranh cãi.
Dấu hiệu của căn bệnh này cũng đã được tìm thấy trong các xác ướp
Ai Cập có niên đại từ năm 3.000 đến 2.400 trước Công nguyên
Năm 1900 nó là nguyên nhân của 12% số người chết ở nước Pháp.
Vào thời điểm đó, bệnh lao được gọi là "kẻ cướp đi tuổi trẻ", vì căn bệnh này có
tỷ lệ tử vong ở những người trẻ tuổi cao hơn. Các tên khác bao gồm "Đại dịch
hạch trắng" và "Cái chết trắng", trong đó "màu trắng" là do tình trạng xanh xao
vì thiếu máu của những người bị nhiễm bệnh. Ngoài ra, TB còn được nhiều
người gọi là "Đội trưởng của Tất cả những kẻ chết chóc
Năm 1819, một người Pháp tên là René Laennec (1781-
1826) phát minh ra ống nghe. Ông áp dụng phương
pháp của mình cho căn bịnh đang gặm mòn ông để rồi
7 năm sau ông mất, lúc 45 tuổi do bệnh lao.
Ông đã mô tả chu kỳ của bệnh này như sau: bệnh
nhân ốm yếu dần, thỉnh thoảng ho khan, khạc đờm, đổ
mồ hôi rất nhiều về đêm, cảm thấy đau giữa vai và lồng
ngực, rối loạn tiêu hóa và thân nhiệt lên ban đêm. Khi
khám phổi, nghe thấy tiếng khô và ráp, tiếng ran nổ
nhẹ, tiếng rắc. Vài tháng sau, bắt đầu ho thường xuyên
và đau. Đờm màu xanh với những mảnh đặc trắng, nghe
bệnh bằng một dụng cụ quí báu mới phát minh của
Laennec thấy có tiếng òng ọc hay tiếng ồ ồ.
Năm 1865 Villemin làm thực nghiệm bằng
cách tiêm truyền bệnh phẩm lấy từ người
bệnh lao cho động vật đã kết luận bệnh lao
là bệnh lây truyền
Bệnh lao vẫn là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm với 10,4
triệu người mới mắc và hơn 1,7 triệu người chết do lao (năm
2016), 90% là người lớn, 65% là nam giới, 10% đồng nhiễm
Lao/HIV. 4,1% số bệnh nhân lao mới và 19% số bệnh nhân đã từng
điều trị lao mắc các thể lao kháng đa thuốc, tương đương 490
Bedaquline nămngười
ngàn 2012,mắc
delamanid nămHiện nay mới chỉ có khoảng 20% số
MDR-TB.
2014 và pretomanid
bệnh nhânnăm 2019 được
MDR-TB mới chính
tiếp cận điều trị, số còn lại hoặc tử vong
thức đượchoặc
cấp phép đưalàvào
tiếp tục các phác
nguồn lây lanđồra cộng đồng.
điều trị lao.
HIỆN TẠI
Bệnh lao hiện nay là vấn đề y tế- xã hội quan trọng
và là bệnh nhiễm gây chết nhiều người trên thế giới, trong
đó có Việt Nam.
Bệnh lao vẫn là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm với 10,4 triệu
người mới mắc và hơn 1,7 triệu người chết do lao (năm 2016), 90% là
người lớn, 65% là nam giới, 10% đồng nhiễm Lao/HIV. 4,1% số bệnh
nhân lao mới và 19% số bệnh nhân đã từng điều trị lao mắc các thể lao
kháng đa thuốc, tương đương 490 ngàn người mắc MDR-TB. Hiện nay
mới chỉ có khoảng 20% số bệnh nhân MDR-TB được tiếp cận điều trị,
số còn lại hoặc tử vong hoặc tiếp tục là nguồn lây lan ra cộng đồng.
DỊCH TỄ BỆNH LAO TOÀN CẦU
Đại dịch Covid-19 ảnh
hưởng nghiêm trọng tới
tình hình thu nhận/điều 7.5
T
ổ
n
Năm 2021, 1,6 g 1,6 triệu ca
2.0 trong năm
triệu tử vong Người không nhiễm HIV
2021,
Tăng lên từ
Lao/HIV- và 1.0
1,5 triệu ca
trong năm
187.000 tử vong Mốc của chiến lược chấm
dứt bệnh lao năm 2020
2020 và 1,4
năm 2019
do Lao/HIV. Giảm 35% so với năm 2015
Nguồn: Báo cáo bệnh Lao Toàn cầu năm 2022 (GLOBAL TB REPORT 2022)
TÌNH HÌNH BỆNH LAO Ở VIỆT NAM
Việt Nam xếp thứ 11 trong số 30 nước có gánh nặng bệnh lao cao
nhất trên thế giới với ước tính khoảng 130,000 ca mới và 14,000 người chết
mỗi năm vì bệnh lao. Việt Nam cũng đứng thứ 11 trong số 30 nước có gánh
nặng bệnh lao kháng đa thuốc cao nhất thế giới.
BỆNH LAO Ở VIỆT NAM VẪN CAO
- Lao kháng đơn thuốc: vi khuẩn lao chỉ kháng với duy nhất một thuốc
chống lao hàng một.
- Lao kháng nhiều thuốc: vi khuẩn lao kháng với từ hai thuốc chống lao
hàng một trở lên nhưng không kháng với đồng thời Rifampicin và Isoniazid.
- Lao kháng H, nhạy R (Hr-TB): vi khuẩn lao kháng với Isoniazid nhưng
nhạy với Rifampicin
- Lao đa kháng thuốc (MDR-TB): vi khuẩn lao kháng đồng thời với ít nhất
hai thuốc chống lao là Isoniazid và Rifampicin.
- Lao kháng Rifampicin (RR-TB): vi khuẩn lao kháng với Rifampicin, có
hoặc không kháng thêm với các thuốc lao khác kèm theo (có th ể là kháng đ ơn
thuốc, kháng nhiều thuốc, đa kháng thuốc hoặc siêu kháng thuốc). Tuy nhiên ở
Việt Nam hiện nay, các chủng đã kháng với Rifampicin thì có t ới trên 90% có
kèm theo kháng Isoniazid, vì vậy khi phát hiện kháng Rifampicin ng ười b ệnh
được coi như đa kháng thuốc và thu nhận điều trị phác đồ đa kháng.
Phân loại bệnh nhân kháng thuốc
- Tiền siêu kháng: Lao đa kháng có kháng thêm với hoặc bất cứ
thuốc nào thuộc nhóm Fluoroquinolone hoặc với ít nhất một
trong ba thuốc tiêm hàng hai (Capreomycin, Kanamycin,
Amikacin, chứ không đồng thời cả 2 loại thêm).
- Siêu kháng thuốc (XDR-TB): Lao đa kháng có kháng thêm với
bất cứ thuốc nào thuộc nhóm Fluoroquinolone và với ít nhất
một trong ba thuốc tiêm hàng hai (Capreomycin, Kanamycin,
Amikacin).
MD tế bào
Vai trò quyết định.
Landsteiner, Chase chứng minh vai trò đáp ứng MDTB
với VK lao.
Ngày nay đã được làm sáng tỏ hơn: Thực hiện bởi
quần thể tế bào T, ĐTB và SP hoà tan (cytokines: IL-1,
IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IFN.., TNF, TGF.v.v.).
Đáp ứng MD đặc hiệu của cơ thể đối với bệnh lao
Miễn dich trong bệnh lao là miễn dịch tế bào
Qua những thực nghiệm của mình Landsteiner – Chase và Lurie
(1942) đã chứng minh các quần thể lympho T và đại thực bào có vai
trò quan trọng trong đáp ứng miễn dịch của bệnh lao. Sau khi thôn
thực vi khuẩn, đại thực bào phân hủy vi khuẩn và trình di ện kháng
nguyên cho các tế bào lympho (chủ yếu là TCD4). Đây là các ph ản
ứng xảy ra ở mức độ phân tử rất phức tạp có sự tham gia c ủa phân
tử MHC (Major Histocompability Complex) lớp I và II n ằm trong
gen. Các tế bào TCD4 sau khi nhân được tín hiệu các kháng nguyên,
chúng trở thành các tế bào hoạt hóa và tiết ra Interleukin II kh ởi
động một loạt các phản ứng miễn dịch tiếp theo, giúp cơ thể tiêu
diệt vi khuẩn lao. Vì vai trò quan trọng c ủa t ế bào TCD4 trong đáp
ứng miễn dịch của bệnh lao, HIV cũng tấn công phá hủy t ế bào này,
mà bệnh lao và HIV/AIDS thường đồng hành.
Ứng dụng của miễn dịch trong lâm sàng bệnh lao
Huyết thanh chẩn đoán: Sự có mặt của vi khuẩn lao trong cơ thể, giống
như các bệnh nhiễm khuẩn khác, cơ thể sản xuất kháng thể chống lại các
kháng nguyên của vi khuẩn. Các kháng thể không có vai trò tiêu di ệt vi
khuẩn như các tế bào, nhưng lại được sử dụng để chẩn đoán bệnh lao, đặc
biệt đối với lao thể lao ít tìm thấy vi khuẩn trong bệnh phẩm như các thể
lao ngoài phổi, lao trẻ em… Những kỹ thuật miễn dịch như phản ứng gắn
bổ thể, ngưng kết hồng cầu của Middlebrook – Kubos, kỹ thuật khuếch tán
trên thạch đã sớm được áp dụng chẩn đoán bệnh lao. Kỹ thuật miễn d ịch
phóng xạ (Radio Immuno Assay – RIA), đặc biệt là miễn dịch gắn men
(Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay – ELISA), đ ược s ử d ụng r ộng rãi ở
nhiều nước để chẩn đoán bệnh lao. Ở nước ta cuối thế kỷ XX, phản ứng
ELISA đã được sử dụng chẩn đoán bệnh lao màng não trẻ em với độ nhạy
79 – 80%, độ đặc hiệu 95 – 97%. Gần đây, các kỹ thuật sinh h ọc phân t ử
(PCR – TB, Xpertgen…) được áp dụng chẩn đoán bệnh lao với hiệu qu ả cao
hơn đồng thời chẩn đoán được cả vi khuẩn kháng thuốc, các kỹ thuật
chẩn đoán huyết thanh ít được sử dụng
Ứng dụng của miễn dịch trong lâm sàng bệnh lao
Miễn dịch trị liệu (miễn dịch điều ứng): Việc điều trị bệnh lao đã tr ở
nên dễ dàng nhờ phát minh ra hàng loạt thuốc chữa lao và áp d ụng
vào điều trị từ những năm 50 – 70 của thế kỷ XX. Nhưng đến thập kỷ
80 của thế kỷ XX hóa trị liệu vẫn không điều trị khỏi tất c ả ng ười
bệnh bị lao, có nhiều bệnh nhân điều trị thất bại và tái phát, đ ặc
biệt là số bệnh nhân lao kháng thuốc ngày càng tăng, do đó miễn
dịch trị liệu được coi là biện pháp điều trị hỗ trợ quan trọng.
Ứng dụng của miễn dịch trong lâm sàng bệnh lao
Miễn dich trị liệu được coi là biện pháp điều trị hỗ tr ợ quan tr ọng.
Những bệnh nhân lao điều trị thất bại, tái phát hay có vi khu ẩn
kháng thuốc, thường kèm theo các rối loạn miễn dịch. Điều chỉnh
lại những rối loạn miễn dịch này sẽ góp phần nâng cao hi ệu qu ả kh ỏi
bệnh. Trong các biện pháp điều trị miễn dịch, người ta dùng các v ật
phẩm khác nhau, thậm chỉ cả con vi khuẩn lao (không có khả năng
gây bệnh) như BCG, M.vaccae hoặc các thành phần kháng nguyên
của nó (Sáp D, Water Soluble Antigen – WSA…). Ngoài ra còn dùng
các chế phẩm khác như các lympho T đã được ho ạt hóa, Thymalin,
Levamisol, Interferon gamma…
Tại Bệnh viện Phổi Trung Ương, M.vaccae đã được nghiên c ứu trong
điều trị hỗ trợ bệnh lao, những kết quả bước đầu đáng chú ý, nhưng
cần phải nghiên cứu tiếp tục
Ứng dụng của miễn dịch trong lâm sàng bệnh lao
41
Bệnh lao là gì ?
Bệnh lao tàn phá cơ thể, làm giảm khả năng lao động
của người bệnh, làm suy kiệt sức khoẻ của người bệnh
dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.
5 đặc điểm chính của Bệnh Lao
Vi khuẩn vào cơ thể qua đường hô hấp là phổ biến nhất. Bệnh
nhân lao phổi khi ho (hoặc hắt hơi) bắn ra các hạt rất nhỏ lơ
lửng trong không khí, phân tán xung quanh người bệnh, người
lành hít các hạt này khi thở có thể bị bệnh
Ngoài ra vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể bằng đường tiêu
hóa (gây lao ruột), đường da, niêm mạc (gây lao mắt…), nhưng
các con đường này ít gặp.
Vi khuẩn cũng có thể lây nhiễm sang thai nhi bằng đường máu
qua tĩnh mạch rốn, nếu mẹ bị lao cấp tính (như lao kê), hoặc
qua nước ối (khi chuyển dạ), nếu mẹ bị lao niêm mạc tử cung,
âm đạo.
Trong thực tế con đường truyền bệnh này hiếm gặp. Như vậy con
đường truyền bệnh quan trọng nhất với bệnh lao là đường hô
hấp. 2
1. Bệnh lây: Thời gian nguy hiểm của nguồn lây
Trong nghiên cứu sinh bệnh học bệnh lao những năm gần đây người
ta đưa ra khái niệm về “thời gian nguy hiểm” của nguồn lây.
Đó là thời gian từ lúc ngời bệnh có triệu chứng lâm sàng (hay gặp
là ho khạc đờm) đến khi được phát hiện và điều trị. Thời gian này
càng dài có nghĩa là việc phát hiện bệnh lao càng muộn, bệnh nhân
càng được chung sống lâu với những người xung quanh và càng lây
nhiễm cho nhiều người.
Khi bệnh nhân được phát hiện và chữa thuốc lao thì các tri ệu
chứng lâm sàng hết rất nhanh (trung bình 1 – 2 tuần), trong đó có
triệu chứng ho khạc đờm, tức là người bệnh giảm nhiễm khuẩn ra
môi trường xung quanh. Trách nhiệm của người thầy thuốc, cũng
như người bệnh (qua giáo dục truyền thông) là cần phải rút ng ắn
“thời gian nguy hiểm” của nguồn lây, nghĩa là cần phát hiện sớm
bệnh lao.
BỆNH LAO DIỄN BIẾN QUA HAI GIAI ĐOẠN: Nhiễm lao và bệnh lao
Nhiễm lao
Vi khuẩn lao xâm nhập vào đến phế nang, các tế bào b ảo v ệ đ ược
huy động tới (chủ yếu là đại thực bào) để tiêu diệt chúng. Sự tương
tác giữa vi khuẩn và đại thực bào làm cho một s ố vi khu ẩn b ị ch ết.
Nhưng một số vi khuẩn không bị tiêu diệt, tiếp tục phát triển nhân
lên trong đại thực bào. Sự thay đổi về hình thể và chức năng c ủa
một số tế bào tại tổn thương dần dần hình thành nang lao. Trong đa
số trường hợp tổn thương có thể tự khỏi (có hiện tượng lắng đọng
calci, hình thành nốt vôi) và không có biểu hiện lâm sàng. Phản
ứng da với Tuberculin bắt đầu dương tính từ tuần thứ 3, sau khi vi
khuẩn xâm nhập vào cơ thể, nhưng miễn dịch đầy đủ của cơ thể
chống lại bệnh lao phải sau 2 – 3 tháng. Như vậy, nhiễm lao là giai
đoạn đầu tiên khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể gây tổn thương đ ặc
hiệu (thường ở phổi). Đa số trường hợp không có biểu hiện lâm
sàng; cơ thể hình thành dị ứng và miễn dịch chống lao.
BỆNH LAO DIỄN BIẾN QUA HAI GIAI ĐOẠN: Nhiễm lao và bệnh lao
Nhiễm lao
Khoảng 5 – 10% người bị nhiễm chuyển thành bệnh lao. 90% các cas
bệnh lao xảy ra trong 2 năm đầu tiên sau khi nhi ễm Nếu nhiễm lao
đồng thời với có HIV thì ít nhất 30% nhiễm lao chuyển thành bệnh
lao.
BỆNH LAO DIỄN BIẾN QUA HAI GIAI ĐOẠN: Nhiễm lao và bệnh lao
Bệnh lao .
Bệnh lao có thể xảy ra rất sớm: Ngay trong giai đo ạn nhi ễm lao, tr ẻ
càng nhỏ thì bệnh lao càng dễ xẩy ra.
Khi VK lao lan tràn bằng đường bạch huyết, VK có thể tới các
thanh mạc gây nên phế mạc viêm tràn d ịch do lao, tràn d ịch
màng phổi lao xuất hiện sớm trong vòng 6-12 tháng, nh ưng
ít gặp ở trẻ nhỏ, hay gặp ở thanh niên, do n ốt loét s ơ nhi ễm
ở gần màng phổi, hoại tử bã đậu vỡ vào màng ph ổi. VK lan
tàn tới các hạch bạch huyết ngoại vi gây nên lao h ạch ngo ại
vi như lao hạch cổ. BK có thể lan tới các đ ốt s ống l ưng b ằng
đường bạch huyết gây nên lao cột sống , theo đường máu gây
Lao kê và lao màng não (+ lao kê) th ường xu ất hi ện trong 6
tháng-12 tháng, sau khi b ị lao tiên phát, r ất hay g ặp ở tr ẻ
dưới 5 tuổi .
BỆNH LAO DIỄN BIẾN QUA HAI GIAI ĐOẠN: Nhiễm lao và bệnh lao
Bệnh lao .
Nguồn gốc vi khuẩn gây bệnh lao: Hiện nay vẫn tồn tại ba giả thuyết về ngu ồn
gốc vi khuẩn gây bệnh.
Thuyết ngoại sinh: Các tác giả theo trường phái này cho rằng bệnh lao là do
vi khuẩn xâm nhập từ bên ngoài vào (lây từ bệnh nhân). Để bảo vệ cho quan
điểm mình, người ta đã chứng minh là các n ốt vôi (di tích c ủa th ời kỳ nhi ễm
lao) không còn vi khuẩn lao. Thường sau 5 năm các t ổn th ương tiên phát
không còn khả năng tái triển nữa.
Thuyết nội sinh: Bệnh lao ở người lớn là do vi khuẩn từ tổn thương thời kỳ
nhiễm lao tái phát.
Thuyết nguồn gốc vi khuẩn cả nội sinh và ngoại sinh: Vi khuẩn có thể tái
phát từ tổn thương cũ và cũng có thể xâm nhập từ bên ngoài vào gây b ệnh
lao. Ở các nước phát triển, bệnh lao ít (ít nguồn lây) thì vi khuẩn n ội sinh là
chính. Còn ở các nước đang phát triển (trong đó có nước ta) bệnh lao còn
nặng nề (nguồn lây nhiều), thì vi khuẩn xâm nhập từ bên ngoài vào gây b ệnh
là chủ yếu.
BỆNH LAO DIỄN BIẾN QUA HAI GIAI ĐOẠN: Nhiễm lao và bệnh lao
+ Nguồn lây: Những người tiếp xúc với nguồn lây nhất là ngu ồn lây
chính dễ có nguy cơ bị bệnh.
+ Tuổi Trẻ em càng nhỏ tiếp xúc với nguồn lây càng d ễ b ị b ệnh h ơn..
Trẻ em chưa tiêm phòng lao bằng vaccin BCG (tiêm vaccin BCG giúp
cho trẻ em tránh được các thể lao nặng như lao kê, lao màng não…)
BỆNH LAO DIỄN BIẾN QUA HAI GIAI ĐOẠN: Nhiễm lao và bệnh lao
+ Một số bệnh tạo điều kiện thuận lợi dễ mắc các bệnh lao:
Trẻ em: Suy dinh dưỡng, còi xương,..
Người lớn: Một số bệnh tạo điều kiện cho bệnh lao dễ phát
sinh và phát triển là bệnh đái tháo đường, bệnh bụi phổi, bệnh loét
dạ dày – tá tràng, bệnh mạn tính sử dụng Corticoid …Đại dịch
HIV/AIDS, phụ nữ ở thời kỳ thai nghén: Bệnh lao dễ phát sinh và phát
triển trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén và sau đẻ.
+ Các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới bệnh lao (xem mục 6 – Bệnh lao là
bệnh xã hội).
+ Yếu tố cơ địa: Sự khác nhau về khả năng mắc bệnh lao giữa các dân
tộc đã được y học nhận xét từ lâu. HLA (Human Leucocyte Antigen),
về di truyền haptoglubulin, về các gen cảm th ụ gi ữa ng ười b ệnh và
người không mắc bệnh đã được nêu lên.
Bệnh lao có thể phòng ngừa được
Điều trị bệnh Lao tiềm ẩn nhằm để diệt vi trùng Lao bất hoạt (đang
ngủ) trong cơ thể, với mục tiêu để giảm nguy cơ bị bệnh sau này.
Việc điều trị bệnh lao tiềm ẩn sẽ làm giảm 90% nguy cơ bệnh lao
tiềm ẩn tái phát thành lao hoạt động (có nghĩa là trong 100 người
bị lao tiềm ẩn, nếu không can thiệp có chừng 5-10 người sẽ bị lao
bộc phát trở lại; nếu 100 người đó uống thuốc, chỉ có không tới 1
người sẽ bị lao, hiệu quả của điều trị bệnh lao tiềm ẩn nếu uống đủ
liệu trình sẽ kéo dài trên 10 năm
Bệnh lao là bệnh xã hội
Trên thế giới, khô ng có Quốc gia nào, một dân tộc
nào không có bệnh lao và tử vong do lao
Bệnh lao bị ảnh hưởng nhiều yếu tố xã hội. Các nước nghèo, mức
sống thấp bệnh lao thường trầm trọng. Chỉ nhờ cuộc sống được
nâng cao mà ở các nước phát triển nguy cơ nhiễm lao giảm m ỗi
năm 4 – 5% vào nửa sau của thế kỷ XX, trong khi các n ước nghèo
sự giảm tự nhiên này không xảy ra. Bệnh lao cũng đã tăng lên rõ
rệt qua hai cuộc thế chiến ở thế kỷ XX, cả những nước thắng tr ận
và bại trận. Ngoài ra trình độ văn hóa thấp, các phong t ục t ập
quán lạc hậu, cũng ảnh hưởng đến việc khống chế, giải quyết
bệnh lao ở một quốc gia.
Bệnh lao và sự đói nghèo: Bệnh lao làm nhiều gia đình
kinh tế giảm sút lâm vào cảnh đói nghèo. Nghèo đói có
thể làm tăng khả năng mắc lao: suy dinh dưỡng, điều
kiện ở chật chội, thiếu không khí, mất vệ sinh - những
yếu tố đi cùng đói nghèo làm tăng khả năng nhiễm lao
và phát triển thành bệnh.
Bệnh lao tác động đến cuộc sống của những người đói
nghèo theo nhiều nghĩa, khi người nghèo bị lao, hậu quả
về tài chính rất to lớn. 3/4 số bệnh nhân mắc lao mới ở
độ tuổi 15-55 là độ tuổi lao dộng tạo ra nhiều của cải,
khi bị bệnh, người bệnh có thể mất 3-4 tháng không làm
việc, bị giảm 20-30% thu nhập hàng năm, nếu bị ốm kéo
dài chi phí sẽ còn cao hơn. Người mắc lao có thể mất đi
15 năm thu nhập do chết sớm, nợ nần cùng với giảm thu
nhập có thể càng đẩy gia đình lún sâu trong nghèo đói.
Bệnh lao và phụ nữ:
- Ho khạc kéo dài trên 2 tuần là triệu chứng hay gặp nhất của bệnh
lao phổi.
- Có thể kèm theo các triệu chứng khác:
Ho ra máu
Sốt nhẹ kéo dài, đổ mồi hôi ban đêm.
Đau tức ngực
Gầy sút cân.
Bệnh lao và HIV/AIDS
*Điều trị bệnh Lao tiềm ẩn nhằm để diệt vi trùng Lao bất hoạt (đang
ngủ) trong cơ thể, với mục tiêu để giảm nguy cơ bị bệnh sau này, việc
điều trị bệnh lao tiềm ẩn sẽ làm giảm 90% nguy cơ bệnh lao tiềm ẩn
tái phát thành lao hoạt động (có nghĩa là trong 100 người bị lao tiềm
ẩn, nếu không can thiệp có chừng 5-10 người sẽ bị lao bộc phát trở lại;
nếu 100 người đó uống thuốc, chỉ có không tới 1 người sẽ bị lao tái
phát, hoạt động), hiệu quả của điều trị bệnh lao tiềm ẩn nếu uống đủ
liệu trình sẽ kéo dài trên 10 năm.
* Những đối tượng cần điều trị lao tiềm ẩn
- Những người nhiễm HIV( người lớn và trẻ 0-14 tuổi có HIV) đã sàng lọc
hiện không mắc lao;
- Trẻ em dưới 5 tuổi sống cùng nhà với người bệnh lao phổi, những trẻ này
được xác định không mắc lao;
- Tất cả các đối tượng ( người lớn và trẻ em) có tiếp xúc nguồn lây sau khi
chẩn đoán loại trừ bệnh lao mà có kết quả TST( phản ứng Mantoux)
( hoặc IGRA; hoặc test chẩn đoán lao tiềm ẩn khác được CTCLQG
khuyến cáo sử dụng) dương tính đều đủ điều kiện tư vấn và thu dung điều
trị lao tiềm ẩn;
- Người tiếp xúc hộ gia đình, với bệnh nhân lao phổi, bệnh nhân mắc bệnh
bụi phổi, suy thận chạy thận nhân tạo, cấy ghép tạng, điều trị ức chế miễn
dịch kéo dài( bệnh hệ thống); cán bộ y tế khám chữa bệnh lao hoặc làm
việc trong môi trường có bệnh nhân lao.
*THANK
YOU!